intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Ảnh hưởng văn hóa của Nhật bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua

Chia sẻ: Trang Ngô | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:52

84
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Ảnh hưởng văn hóa của Nhật bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua nêu lên khái quát về văn hóa và ảnh hưởng của văn hóa đến hoạt động ngoại thương; ảnh hưởng của văn hóa trong hoạt động ngoại thương Việt Nam – Nhật Bản; giải pháp về văn hóa thúc đẩy hoạt động ngoại thương Việt Nam – Nhật Bản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Ảnh hưởng văn hóa của Nhật bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua

  1. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua CHƯƠNG I: KHAI QUAT VÊ VĂN HOA VA ANH H ́ ́ ̀ ́ ̀ ̉ ƯỞNG CUA VĂN ̉   HOA ĐÊN HOAT ĐÔNG NGOAI TH ́ ́ ̣ ̣ ̣ ƯƠNG 1.1. Khái niệm văn hóa 1.1.1. Đinh nghia văn hoa ̣ ̃ ́ Theo các nghiên cứu của các nhà nhân loại học Mỹ  là Alfred Kroeber và Clyde   Kluckhohn thống kê vào năm 1952, trên thế giới có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn  hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới.  Theo nghĩa ban sơ  từ  tiếng Hán, Văn hóa là những nét xăm mình qua đó người   khác nhìn vào để nhận biết và phân biệt mình với người khác, biểu thị sự quy nhập vào   thần linh và các lực lượng bí ấn của thiên nhiên, chiếm lĩnh quyền lực siêu nhiên. Theo  ngôn ngữ của phương Tây, từ “Culture” – Văn hóa có nguồn gốc từ các dạng của động   từ  Latin colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa: (1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong  trồng trọt; (2) cầu cúng. Vào năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như  sau:  Văn hóa nên  được đề  cập đến như  là một tập hợp của những đặc trưng về  tâm hồn, vật chất, tri   thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng,   ngoài văn học và nghệ  thuật, cả  cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,  truyền thống và đức tin. Vậy tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát   triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này  sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá  trình hành động và tương tác xã hội của con người.  1.1.2. Đăc tr ̣ ưng cua văn hoa ̉ ́ Văn hóa có bốn đặc trưng cơ bản sau:  Tính hệ  thống:  Mọi hiện tượng, sự  kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên   quan mật thiết với nhau, chứ  không thể  coi văn hóa như  một phép cộng đơn  thuần của những tri thức bộ phận.  Tính giá trị:  Văn hóa chứa cái đẹp, chứa các giá trị, là thước đo mức độ  nhân  bản của xã hội và con người. Dựa vào văn hóa, người ta có thể đánh giá trình độ  văn minh của một cộng đồng người, một đất nước và một thời đại. Trang 1 
  2. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua  Tính nhân sinh: Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực  tiễn của con người. Theo đó, văn hóa đối lập với tự  nhiên ­ văn hóa là cái nhân   tạo, tuy vậy, nó là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người.  Tính lịch sử: Văn hóa bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích   lũy qua nhiều thế  hệ. Tính lịch sử  tạo cho văn hóa một bề  dày, một chiều sâu,   buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, phân loại và phân bố lại các giá trị. 1.2. Các thành tố chính của văn hóa 1.2.1. Ngôn ngữ Theo giáo trình ngôn ngữ đại cương của Trần Xuân Hạo, NXB Giáo dục 2005 thì  “Ngôn ngữ  là một hệ  thống dấu hiệu nhiều tầng được người bản ngữ  chấp nhận, ghi  nhớ, hiểu và sử dụng trong khi giao tiếp với cộng đồng”. Sự xuất hiện của ngôn ngữ đã biến nhân loại mông muội trở thành những xã hội  văn minh với sự  phát triển toàn diện cả  về  tinh thần và vật chất. Ngày nay, trong quá  trình hội nhập quốc tế, sự ảnh hưởng và thâm nhập lẫn nhau trong các phạm vi kinh tế,  chuyển giao công nghệ  và kĩ thuật, văn hóa và ngôn ngữ  đã tạo ra bức tranh hết sức   phong phú và phức tạp. Ngôn ngữ trên mọi phương diện có vai trò rất quan trọng trong   quá trình phát triển của một quốc gia. Thậm chí đôi khi ngôn ngữ là nhân tố quyết định   đảm bảo sự   ổn định và tiến bộ  của một quốc gia bằng cách giữ  vai trò tác nhân giao  tiếp, thống nhất dân tộc, pháp luật, quản lí Nhà nước, chính trị và v.v.  Cùng với quá trình phát triển và giao thương giữa các nền kinh tế  trên thế  giới,  ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng giao tiếp giữa các quốc gia   và là chất xúc tác quan trọng cho việc phát triển các quan hệ ngoại giao và kinh tế. 1.2.2. Đời sống tinh thần a) Giá trị và quan điểm  Các giá trị và quan điểm đều là những yếu tố cần được nhắc đến khi nói tới văn   hóa, bởi chúng có mối liên hệ rất lớn đến con người. Những ý tưởng, niềm tin và nghi   thức mà con người gắn bó về mặt tình cảm là những giá trị. Giá trị  bao gồm những thứ  như sự trung thực, sự chân thành, tự do và tính trách nhiệm. Giá trị cũng là điều quy định  cái gì là đúng, cái gì là sai. Hệ thống giá trị được hình thành qua quá trình giao tiếp, được   duy trì và ủng hộ bởi một nhóm người nhất định. Những giá trị ấy ảnh hưởng đến cách  Trang 2 
  3. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua tư duy của con người trong một nền văn hóa, và từ đó nó có tác động đến giao tiếp, đến   cách thức làm việc của con người. Quan điểm là sự  thể  hiện giá trị  tích cực hoặc tiêu cực, là những cảm xúc và  khuynh hướng của các cá nhân đối với những sự vật hay khái niệm. Quan điểm có ảnh  hưởng đến giá trị. Có thể  nói, quan điểm định hướng cho sự  hình thành giá trị. Ví dụ,   người Mỹ quan niệm trong cuộc sống cần có hưởng thụ, do đó họ  coi trọng các giá trị  vật chất cũng như đề cao sự sở hữu vật chất. b) Văn học và nghệ thuật Văn hóa ­ văn học, nghệ thuật luôn là nền tảng tinh thần đảm bảo sự  phát triển   bền vững của xã hội. Tư duy văn học, nghệ thuật là tư duy được thể hiện và thực hiện   trong quá trình sáng tạo và thụ cảm nghệ thuật. Sáng tạo và thụ cảm nghệ thuật là hình  thái đặc trưng và là hình thái cao nhất của hoạt động thẩm mỹ; trong sáng tạo và thụ  cảm bao hàm cả đánh giá giá trị. Do đó, nói đến vai trò của tư duy nghệ thuật đối với lối  sống là nói đến vai trò của nó đối với lối sống cả   ở  người nghệ sĩ, lẫn ở  công chúng,  tức lối sống của con người nói chung trong những điều kiện xã hội, lịch sử nhất định.  Là hình thái kết tinh và là hình thái cao nhất của tư  duy thẩm mỹ, tư  duy nghệ  thuật có một vai trò độc đáo không thể  thay thế  đối với lối sống con người. Bên cạnh   ngôn ngữ, thì văn học và nghệ thuật chính là sự phản ánh mức độ phát triển văn hóa của  một quốc gia. Văn học nghệ thuật giúp hình thành, phản ánh và miêu tả chi tiết đời sống   tinh thần của người dân một nước. c) Phong tục tập quán và thói quen Phong tục tập quán và thói quen được hình thành qua một quá trình lâu dài của đời   sống xã hội, quy định cách thức con người  ứng xử phù hợp với  một nền văn hóa nhất  định.  Trước hết chúng ta xét đến nghi thức. Nghi thức là những cách thức đúng đắn   trong cư xử, nói năng và ăn mặc trong một nền văn hóa. Chẳng hạn như, trong nền văn   hóa A­rập từ  vùng Trung Đông cho đến miền Tây Bắc nước Mỹ, một người sẽ không  chìa tay ra chào người lớn tuổi hơn nếu như  người lớn hơn đó không giơ  tay ra chào   trước. Khi những thói quen và cách ứng xử trong những hoàn cảnh cụ thể được truyền   từ thế hệ này sang thế hệ khác thì chúng trở thành phong tục tập quán. Chúng khác nghi   thức ở chỗ chúng xác định những thói quen hoặc cách ứng xử phù hợp trong những tình   Trang 3 
  4. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua huống cụ thể. Ví dụ như người Nhật có truyền thống mở  những bữa tiệc đặc biệt cho  những cô gái và chàng trai bước sang tuổi 20. d) Tôn giáo Tôn giáo là bất cứ  hệ  thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề  cập   đến những câu hỏi căn bản về đặc tính loài người, đạo đức, sự  chết và sự  tồn tại của   thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ  thống tín ngưỡng, kể  cả  những hệ  thống không tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ  thống đơn thần, những   hệ thống đa thần và những hệ thống không đề  cập đến vấn đề  này vì không có chứng   cớ. Tôn giáo là một phổ quát văn hóa nên nó đóng vai trò quan trọng trong xã hội loài  người. tôn giáo có các giá trị, tiêu chuẩn của nó, vì thế  những người có cùng một tôn  giáo gắn bó với nhau hơn nhờ những giá trị và tiêu chuẩn chung ấy. Và tôn giáo có chức   năng tích hợp xã hội và đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội   loài người 1.2.3. Đời sống vật chất Đời sống vật chất của con người là một phần của nền văn hóa, cụ thể hơn, đó là   một phần trong văn hóa  ứng xử  với môi trường tự  nhiên. Đời sống vật chất bao gồm  những gì đáp  ứng nhu cầu thể chất và sinh lý của con người, từ  ăn uống, mặc, ở, sinh   hoạt, đi lại cho đến tiêu dùng.  Đời sống vật chất của con người còn bao hàm ý nghĩa thích nghi với môi trường  tự nhiên. Việc ăn uống, mặc, ở, đi lại của con người chịu ảnh hưởng từ địa lý, khí hậu,   môi trường, v.v. Những yếu tố này cũng có ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng của con   người trong mỗi nền văn hóa.  Tất cả  những công nghệ  được sử  dụng trong một nền văn hóa để  sản xuất ra  hàng hóa và cung cấp dịch vụ được gọi là văn hóa vật chất. Sự  thay đổi trong văn hóa   vật chất dẫn tới nhiều thay đổi trong những khía cạnh khác của văn hóa con người.   Chẳng hạn, việc ra đời các phương tiện liên lạc hiện đại phục vụ  cuộc sống và công  việc như  máy điện thoại, máy fax, thư  điện tử  đã tạo nên những thay đổi trong cách   thức tiếp xúc, trò chuyện, trao đổi công việc của con người. 1.3. Vai trò của văn hóa trong hoạt động kinh doanh và ngoại thương 1.3.1. Ảnh hưởng tới tư duy và phong cách làm việc Trang 4 
  5. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua ­ Ảnh hưởng tới hoạt động của não bộ: Theo những nghiên cứu mới nhất về não  bộ  dựa trên công nghệ  cao do giáo sư  John Gabrieli và Trey Hedden thuộc Viện   nghiên cứu não bộ McGovern ­ Học viện công nghệ Massachussets (MIT); Sarah   Ketay và Arthur Aron ­ Đại học Stony Brook, New York; Hazel Rose Markus ­   Đại học Stanford khẳng định rằng: “văn hóa không chỉ  tác động tới ngôn ngữ,   phong tục mà còn ảnh hưởng tới cách mà con người cảm nhận về thế giới xung  quanh ở mức độ cơ bản nhất ­ thí dụ như những điều con người quan sát và tìm   kiếm trên đường phố, hoặc thậm chí đơn giản chỉ  là cách nhận biết một đoạn   thẳng nằm trong hình vuông. ­ Văn hóa  ảnh hưởng tới cách bạn tư  duy và giải thích hiện tượng xung quanh:   "Văn hóa không thay đổi cách bạn quan niệm, đúng hơn văn hóa điều khiển cách   bạn tư duy và giải thích thế giới xung quanh".  Các nhà nghiên cứu cũng cho biết, ở những cá nhân gần gũi về văn hóa xuất hiện   những hiệu  ứng lớn hơn, họ   ưa thích những câu hỏi và giá trị  trong những quan hệ  xã   hội. Thí dụ như một cá nhân có chịu trách nhiệm hay không về những thất bại của một   thành viên trong gia đình, phản ánh sự  can dự  của yếu tố  văn hóa. Trong cả  hai nhóm,   não bộ hoạt động mạnh mẽ hơn khi ghi nhận những kích thích phù hợp với văn hóa. "Mọi người sử dụng cùng một cơ chế chú ý cho nhiều hoạt động nhận thức phức   tạp nhưng họ  được dạy bảo để  sử  dụng nó trong những cách khác nhau, đó chính là   nhiệm vụ  của văn hóa". Gabrieli nói: "Thật hấp dẫn khi xem xét cách mà não bộ  phản   hồi những hình vẽ đơn giản, một trong những hướng có thể  tiên đoán, đó là cách mà cá  nhân suy nghĩ về những mối quan hệ tự chủ hay phụ thuộc trong xã hội". Nhóm các nhà   nghiên cứu được dẫn dắt bởi Trey Hedden và John Gabrieli tại Học viện công nghệ  Massachusetts, đã chỉ ra rằng hoạt động não bộ của con người bị ảnh hưởng sâu sắc bởi   tập quán vốn ăn sâu trong ý thức.  Vì thế, những suy nghĩ và hành động của con người phụ thuộc phần lớn vào nền   văn hóa giáo dục và đào tạo nên họ. Nền văn hóa  ảnh hưởng đó có thể  là văn hóa gia  đình, xã hội, nền giáo dục quốc gia và cả  nền văn hóa vật chất sẵn có… của mỗi quốc   gia. 1.3.2. Ảnh hưởng tới kinh doanh và tiêu dùng Trang 5 
  6. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua Như  đã phân tích ở trên, văn hóa ảnh hưởng sâu sắc tới cách tư duy và làm việc  của con người, vì thế nó ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động kinh doanh và tiêu dùng   của xã hội. 1.3.2.1. Ảnh hưởng của văn hóa tới kinh doanh Quá trình kinh doanh, mua sắm của một doanh nghiệp được miêu tả như sau: Hình 1.3.2.1.1: quy trình mua sắm của tổ chức Nguồn: Internet Văn hóa  ảnh hưởng sâu sắc tới mọi thành tố  của quy trình này từ  việc xác định  nhu cầu, tìm kiếm bạn hàng cho tới quyết định của doanh nghiệp từ  cả hai phía người   mua và người bán. ­ Ảnh hưởng của văn hóa tới tìm kiếm đối tác kinh doanh. Ví dụ như khi tìm kiếm  đối tác kinh doanh tại Mỹ, chúng ta cần quan tâm tới suy nghĩ độc lập của họ,   luôn quan tâm tới chi tiết hơn là quan sát tổng thể. Từ  đó có thể  phán đoán các  phương pháp tiếp cận thông tin của người Mỹ  là sử  dụng các phương tiện kỹ  thuật số: máy tính, điện thoại thông minh. Các thông tin của họ  phần lớn được  tiếp nhận từ mạng Internet. Do vậy, nếu muốn xuất khẩu đồ  gỗ sang thị trường   này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phát triển thương mại điện tử, đăng ký truy  cập tại các trang web B2B, các cổng thông tin thương mại toàn cầu ­ Văn hóa ảnh hưởng tới cách người ta xử lý thông tin, đặc biệt trong kinh doanh,   nó  ảnh hưởng tới cách đối tác của bạn đánh giá khả  năng cạnh tranh, uy tín,  thương hiệu cũng như nhận xét về những giá trị đạo đức kinh doanh của công ty   bạn. Lấy ví dụ tại Nhật Bản, do tiến hành công nghiệp sớm và nhanh chóng nên  đã để lại nhiều hậu quả về môi trường tại nước này. Cùng với sự phát triển của  nền kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện, vì thế mà người dân Nhật và các   đối tác Nhật Bản quan tâm nhiều tới khía cạnh môi trường của sản phẩm. Hầu   Trang 6 
  7. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua hết các công ty sản xuất công nghiệp (ví dụ như linh kiện điện tử) của Nhật đều  được yêu cầu đạt tiêu chuẩn ISO 14001 ­ là tiêu chuẩn quốc tế  về  hệ  thống   quản lý môi trường. Mặt khác, các sản phẩm được nhập khẩu vào thị  trường  Nhật Bản phải trải qua các kiểm định ngặt nghèo về các tiêu chuẩn này. Văn hóa  ảnh hưởng tới hệ  thống phân phối hàng hóa trên thị  trường nói riêng và hoạt  động marketing quốc tế  nói chung. Tại Việt Nam khi mà nền kinh tế  nhỏ  lẻ,  manh mún, quan hệ làng xã vẫn được duy trì thì hệ thống phân phối chủ yếu tới   tay người tiêu dùng là hệ thống bán lẻ. Vì thế nếu các doanh nghiệp muốn tiếp   cận thị  trường bán lẻ  này họ  phải đẩy mạnh hoạt động quảng bá và thay đổi   chính sách lợi nhuận, hoa hồng cho các đại lý bán lẻ này. Ngoài việc tác động tới   hình thức của hệ  thống phân phối, văn hóa còn  ảnh hưởng nhiều tới thời gian,   lợi  nhuận phân  phối và  vị  thế  của  người sản xuất – nhà  phân phối  trên thị  trường. Ví dụ  như  để  thâm nhập thị  trường sản xuất đồ  gỗ  châu Âu, chiến lược phân   phối mà các doanh  nghiệp Việt Nam cần phân phối theo một trong các hướng chính sau:  Phân phối qua đại lý  Phân phối qua các công ty thiết kế, chuyên ngành  Phân phối qua các hệ thống bán lẻ (là tổ chức hoặc các tổ chức phân phối không  chuyên như siêu thị, bách hóa… Hình 1.3.2.1.2: Kênh phân phối gỗ tại thị trường Châu Âu NHÀ SẢN XUẤT Đại lý mua hàng Nhà sản xuất nội địa Đại lý bán hàng Nhà nhập khẩu/Bán buôn Hệ thống của nhà máy Phân phối không Phân phối chuyên ngành Flagship stores Bán qua mạng chuyên Phòng Trong Bếp ngủ nước Tổ chức Cá nhân Bán lẻ lớn Tập đoàn mua Người ký Mua Hệ hợp Siêu thị / Bách Đại lý Cửa hàng hàng thống đồng DY hóa Franc bán lẻ bằng cửa hise hàng NGƯỜI MUA HÀNG Dòng phân phối chính Dòng phân phối phụ Nguồn: www.cbi.nl 1.3.2.2. Ảnh hưởng của văn hóa tới tiêu dùng Trang 7 
  8. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua Văn hóa rất có  ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng, đến quyết định mua hàng của  mỗi người. Do vậy, hành vi tiêu dùng đã được xem là một nghiên cứu về  đặc điểm của   người tiêu dùng, về  nhân khẩu học, tâm thần học và những biến chuyển của nhu cầu   con người. Ngoài ra, đây còn được dùng để đánh giá mức độ ảnh hưởng của một nhóm   người như gia đình, bạn bè và xã hội lên một cá thể. Do tất cả các khía cạnh của hành vi   tiêu dùng đều được yếu tố văn hóa bao trùm, nên những người làm marketing cần phải   xác định và thấu hiểu nhân tố  này và tầm ảnh hưởng của nó lên marketing toàn cầu để  đạt được thành công trong kinh doanh. Tháp nhu cầu của Maslow  Khi nhắc đến hành vi tiêu người tiêu dùng, không thể không nhắc đến Tháp nhu   cầu của Maslow (Maslow’s hierachy of needs). Maslow đã phân chia nhu cầu của con   người theo 5 giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên là các nhu cầu cơ  bản con người như  văn,   uống, duy trì nòi giống…. để  đảm bảo sự tồn tại của con người. Khi đã thỏa mãn nhu   cầu cơ bản này, vấn đề con người quan tâm lúc này là sự an toàn, an ninh của chính bản   thân. Kế đến là nhu cầu giao tiếp, những mối quan hệ và gắn bó trong xã hội. Nhu cầu  tiếp tục tiến lên đến giai đaọn được nhận biết và tôn trọng, để  cuối cùng nhu cầu cao   nhất là nhu cầu được thể hiện chính mình. Hành vi người tiêu dùng sẽ thể hiện rất khác  nhau qua các giai đoạn của tháp Maslow và văn hóa có tầm  ảnh hưởng mạnh mẽ   ở  2   điểm sau:      - Thứ nhất: Một điều cơ bản trong thuyết Maslow nhưng không hoàn toàn đúng ở  tất cả  các nền văn hóa là nhu cầu không nối tiếp nhu cầu theo một trật tự nhất   định.  - Thứ hai: Các nhu cầu có tính chất tương đồng sẽ được thỏa mãn bởi nhiều sản   phẩm khác nhau hay loại hình tiêu thụ khác nhau. Trong một phạm vi xã hội, hành vi tiêu dùng của cá nhân sẽ thể hiện cá tính riêng   và sẽ xây dựng mối quan hệ xã hội dưới sự dẫn dắt của yếu tố văn hóa. Tôi chỉ  lấy ví  dụ thông qua chỉ số  đo lường Hofsted  ở các quốc gia đa văn hóa. Tại Indonesia, dân số  thừa hưởng một di sản Malay quan trọng nhưng đã bị  thay đổi thành hơn 300 nền văn   hóa khác nhau trên lãnh thổ. Văn hóa khác biệt này bắt nguồn từ  sự  xung đột giữa các   quốc gia, văn hóa, tín ngưỡng mà sản sinh ra các hành vi tiêu dùng khác nhau.  Trang 8 
  9. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua Sự  tồn tại của văn hóa  ảnh hưởng đến sở  thích của từng cá nhân và đồng thời  ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng. Văn hóa là một kinh nghiệm được chia sẽ  bao gồm   những hành vi đã được trải nghiệm và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của từng cá   nhân trong xã hội. Việc tiêu dùng trở thành một tiến trình xã hội tích cực bắt nguồn từ  các yếu tố văn hóa. Văn hóa ảnh hưởng đến sự lựa chọn sản phẩm của người tiêu dùng   và đồng thời ảnh hưởng đến đức tin và thái độ của cá nhân. 1.3.3. Ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh quốc gia Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa văn hóa và lợi thế cạnh tranh quốc gia, chúng ta   cần loại bỏ yếu tố điều kiện tự nhiên bởi những ngành sản xuất vật chất dựa nhiều vào  tài nguyên thiên nhiên (trừ  ngành hóa chất và sản xuất giấy) không thể  tạo ra những  ngành kinh tế  xương sống của quốc gia. Những yếu tố  văn hóa được đề  cập chính  ở  đây là con người và tư duy, trí tuệ của họ. Trước tiên cần hiểu rõ, lợi thế cạnh tranh quốc gia là gì? Một cách tổng quát, lợi thế  cạnh tranh quốc gia được thể  hiện  ở  năng suất lao  động quốc gia đó trong một thời điểm nhất định. Mục tiêu chính yếu của một quốc gia   là tạo ra mức sống ngày càng cao cho công dân mình. Tuy nhiên năng suất lao động lại bị  ảnh hưởng bởi những yếu tố sau: ­ Giới hạn tâm sinh lý của người lao động ­ Giới hạn phục vụ của công nghệ, máy móc và các yếu tố khoa học kỹ thuật ­ Giới hạn trình độ quản lý, kinh nghiệm quản lý Nói tóm lại, năng suất bị giới hạn bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất   – vốn được xây dựng và phát triển theo tiến trình phát triển của nền văn hóa và lịch sử  đất nước cũng như hình thái xã hội hiện tại. Lợi thế  cạnh tranh của một quốc gia, của một ngành phụ  thuộc vào rất nhiều   yếu tố: ­ Đổi mới lợi thế cạnh tranh khi nhận thức được một cơ hội thị trường hoàn toàn   mới. Đó là những phát minh, những phát hiện về lỗ hổng thị trường và tạo ra lợi   thế dẫn đầu thị trường. ­ Lợi thế cạnh tranh quốc gia không chỉ phụ thuộc vào thương mại quốc tế mà còn  phụ  thuộc vào đầu tư  quốc tế. Thương mại và đầu tư  quốc tế  tạo điều kiện   chuyển giao công nghệ mới, hiện đại hoặc tạo điều kiện khai thác các nguồn lực  sản xuất rẻ hơn, tạo ra lợi nhuận và năng suất vượt trội. Trang 9 
  10. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua ­ Để  có thể  duy trì mức độ  cạnh tranh, các quốc gia, các hãng phải không ngừng   nâng cấp lợi thế đó, chuyển sang loại hình tinh tế hơn, phức tạp hơn. Đây cũng  là một loại hình đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm trên cơ sở sản phẩm có sẵn. Tốc độ và mức độ tăng năng lực cạnh tranh lại phụ thuộc khá nhiều vào nền văn  hóa hiện tại của quốc gia đó: ­ Nguồn nhân lực chính là yếu tố  quan trọng bậc nhất, quyết định tới tốc độ  và  nhịp độ  tăng trưởng của năng lực sản xuất. Đây là yếu tố  quyết định tới khả  năng tiếp thu KH – KT mới cũng như tạo ra các phát minh, sáng kiến sản xuất… ­ Thể  chế  chính trị  và xã hội. Ngoài nguồn lực con người thì thể  chế  chính trị  và   xã hội  ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường thuận lợi cho ngành sản xuất phát   triển hay kìm hãm chúng. ­ Các trở lực khác như tôn giáo có thể ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị, ổn định  kinh tế và sản xuất.  1.3.4. Ảnh hưởng tới hoạt động ngoại thương Theo lý thuyết quản trị  kinh tế  quốc tế, cơ  sở  để  xuất hiện hoạt động ngoại  thương giữa các quốc gia bao gồm: - Phản ứng chủ động do các nhân tố  bên trong (vấn đề quản trị, hiệu quả kinh tế  theo quy mô, hiệu quả kinh tế theo phạm vi, hiệu ứng kinh nghiệm) và bên ngoài   (cơ hội sinh lợi, cơ hội gia tăng sản lượng, lợi thế của phân bố  địa lý, kiểm soát   đối thủ cạnh tranh). - Phản ứng thụ động do các nhân tố bên trong (tác động kéo, tồn kho quá mức, dưa   thừa công suất và yêu cầu phân tán rủi ro), và bên ngoài (cấu trúc thị trường, sự  kém hấp dẫn của môi trường nội địa, áp lực chính trị…) Trong hoạt động ngoại thương, các doanh nhân và các công ty luôn vươn tới   những thị trường mới, mong muốn đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng thuộc   những nền văn hóa mới. Việc quan trọng đầu tiên mà họ  phải làm là tìm hiểu nền văn   hóa của địa phương nơi họ  định thâm nhập hoặc định tiến hành kinh doanh. Việc tìm   hiểu này không chỉ bao gồm những vấn đề  liên quan đến giao tiếp, cách thức tư duy và   phong cách làm việc, mà thương nhân hay doanh nghiệp còn phải có hiểu biết đầy đủ  về  những gì được coi là tốt, là đẹp trong nền văn hóa mà họ  đang dần dần tiếp cận.   Chính vì thế, còn có thể kể đến vai trò của hiểu biết về mỹ học trong hoạt động ngoại   thương. Mỹ học là những gì mà văn hóa coi là “hợp thị hiếu” trong nghệ thuật (bao gồm   Trang 10 
  11. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua cả âm nhạc, hội họa, khiêu vũ và kiến trúc), là hình ảnh gợi nên bởi những sự biểu đạt   cụ thể, và thậm chí cả tính hình tượng của một số màu sắc nhất định cũng được gọi là  mỹ  học. Mỹ  học có vai trò quan trọng khi một công ty tính đến chuyện kinh doanh  ở  một nền văn hóa khác. Rất nhiều sai phạm có thể  xảy ra từ  việc chọn màu sắc không   phù hợp trong quảng cáo, đóng gói hàng hóa và ngay cả  màu sắc của đồng phục làm   việc. Ví dụ, màu xanh lá cây là màu yêu thích đối với cư dân đạo Hồi và là màu sắc trên   hầu hết quốc kỳ  các nước theo đạo Hồi, kể  cả  Jordani, Pakistan và Cộng hòa A­rập.  Điều đó dẫn tới việc hàng hóa thường được đóng gói màu xanh lá cây để lợi dụng thông   điệp về màu sắc này. Ngược lại, một loạt các nước châu á, màu xanh lá cây thường gây   liên tưởng tới sự ốm yếu. Như  vậy, chúng ta thấy rằng văn hóa có vai trò không nhỏ  trong kinh doanh nói   chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Chúng ta sẽ xem xét ảnh hưởng cụ thể của   văn hóa trong hoạt động ngoại thương giữa Việt Nam và Nhật Bản trong chương tiếp  theo. TÓM TẮT CHƯƠNG I Trong chương I, sau khi phân tích khái niệm văn hóa, các thành tố  chính của văn   hóa, tác giả  đi sâu vào phân tích mối liên hệ  của văn hóa tới tư  duy và ý thức của con  người nói chung. Từ  đây, theo logic, mở  rộng dần ra phân tích ảnh hưởng của văn hóa   tới tiêu dùng, kinh doanh, tới lợi thế  cạnh tranh quốc gia cũng như  hoạt động ngoại   thương hay thương mại quốc tế theo tính chất bắc cầu. Nhờ đó, có thể đưa ra các luận   điểm, luận cứ dùng để  phân tích  ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam – Nhật Bản (trong   đó chủ  yếu là văn hóa Nhật Bản) tới  hoạt  động ngoại thương của hai  nước trong  chương II. Trang 11 
  12. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG  NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – NHẬT BẢN 2.1. Giới thiệu chung về Việt Nam và Nhật Bản 2.2.1. Việt Nam a) Đất nước Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một dải đất hình chữ S, nằm ở  trung tâm khu vực Đông Nam Á,  ở  phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp  Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái   Bình Dương. Bờ  biển Việt Nam dài 3 260 km, biên giới đất liền dài 4.510 km. Trên  đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1.650km. Về khí hậu, Việt Nam nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc,   thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo cho Việt Nam có một nền nhiệt  độ cao. Về địa hình, lãnh thổ Việt Nam bao gồm ba phần tư là đồi núi nhưng chủ yếu là  đồi núi thấp, hai đồng bằng lớn, nhiều sông, ngòi và có bờ biển dài. Về tài nguyên, Việt   Nam có nguồn tài nguyên phong phú như: tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài   nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên du lịch. Dân số: Theo số liệu tổng điều tra dân số, tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân số  của Việt Nam là 85.789.573 người, tăng 9.47 triệu người so với năm 1999. b) Văn hóa Ngôn ngữ:  Tiếng Việt thuộc về  ngôn ngữ  Việt­Mường, hiện nay là ngôn ngữ  chính thức của nước Việt Nam, là tiếng mẹ  đẻ  của người Việt và đồng thời là ngôn   ngữ  hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, tiếng Việt được   86% người dân sử dụng. Về nguồn gốc, tiếng Việt được xem là có nguồn gốc với ngôn  ngữ Nam Á về mặt từ vựng kết hợp với ngôn ngữ Tày­Thái về mặt thanh điệu.  Trong buổi đầu dựng nước, người Việt đã vay mượn chữ Hán làm chữ viết của   mình, phải tới khoảng thế kỷ thứ 15 thì chữ Nôm mới ra đời, tuy nhiên trong xã hội vẫn   song song sử  dụng 2 loại chữ  viết này. Từ  thế  kỷ  17, khi các nhà truyền giáo phương  Tây vào Việt Nam truyền đạo Công giáo đã dựa trên ký tự  Latinh để  chuyển âm tiếng   Việt sang chữ Lalinh và đây là cơ sở cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ hiện nay của Việt   Nam. Trang 12 
  13. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua Giá trị  và quan điểm: Cộng đồng người Việt được tổ  chức theo các đơn vị  cơ  bản là làng. Làng là một tổ chức khá khép kín. Làng thường có đình làng là nơi thờ cúng  các vị thành hoàng và hội họp dân làng, nơi tổ chức các lễ hội quan trọng. Đơn vị xã hội   nhỏ  hơn làng là các gia đình. Khác với người phương Tây, gia đình  ở  Việt Nam được  hiểu là một gia đình lớn, gồm có nhiều thế hệ có quan hệ máu mủ  ruột thịt cùng chung  sống. Gia đình được tổ  chức theo thứ  bậc chặt chẽ, người dưới phải có hiếu và kính  trọng người trên, người trên có nghĩa vụ phải chăm lo dạy dỗ con cháu nên người. Vì nền tảng văn hóa là nông nghiệp nên người Việt có quan niệm ứng xử hài hòa   với thiên nhiên. Kinh thành Huế được xây dựng theo quan niệm hòa hợp với cảnh quan  xung quanh. Người Việt có hiểu biết lớn về  thiên nhiên, đặc biệt là về  điều kiện tự  nhiên thích hợp cho nông nghiệp. Người Việt có nhiều kinh nghiệm trong việc chống   chọi với thiên nhiên để phát triển nông nghiệp, như việc đắp đê phòng chống lũ lụt. Tôn giáo và tín ngưỡng: Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm:  tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự  nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người.  Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để  duy trì và phát triển sự sống, nên đã   nảy sinh tín ngưỡng phồn thực.  Phong tục tập quán và thói quen: Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn  phải thực hiện các cuộc chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hóa nổi   bật: tư  tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố  cộng đồng có   nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu   nước và ý thức dân tộc. Sinh hoạt lễ  hội là loại hình văn hóa dân gian đặc trưng tại mọi miền trên đất  nước Việt Nam. Trong tâm lý và tình cảm, lễ hội mang lại sự thanh thản cho con người   Việt Nam, gạt đi những lo toan thường nhật, tăng thêm sự  gắn bó và tình yêu đối với  thiên nhiên, đất nước. Là một nước nông nghiệp, nên hầu hết các lễ hội diễn ra vào lúc  “nông nhàn” ­ mùa xuân và mùa thu, trong đó có một số lễ hội chung cho mọi người trên   khắp đất nước như  Tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Bẩy, Rằm Tháng Tám, Giỗ  tổ  Hùng  Vương... Về  văn học,  Việt Nam có một nền văn học phát triển khá sớm mang bản sắc   riêng. Là một quốc gia có nhiều dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc đều có nền văn học riêng   của mình, tất cả tạo nên một nền văn học Việt Nam đa bản sắc. Văn học cổ, gồm dòng   văn học dân gian, văn học chữ. Dòng văn học dân gian xuất hiện trong quá trình lao động  Trang 13 
  14. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua sản xuất, xây dựng và đấu tranh ngay từ thuở sơ khai, còn dòng văn học chữ  được bắt  đầu du nhập vào Việt Nam từ đầu thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Văn học hiện đại chỉ  thực sự xuất hiện chi chữ Quốc ngữ được sử dụng và phát triển mạnh mẽ. Nghệ thuật biểu diễn: Trong nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam, có nhiều thể  loại như  chèo, tuồng, cải lương, rối nước, ca múa nhạc cung đình, hát quan họ, chầu   văn, ca trù, hát then, lý Nam Bộ… nhưng phổ biến nhất và thường được biểu diễn nhiều   nhất là chèo, tuồng, cải lương, hát quan họ, rối nước, lý Nam Bộ và nhã nhạc (một hình  thức của ca múa nhạc cung đình).  Kiến trúc: Gồm kiến trúc dân gian và kiến trúc ngoại du. Về kiến trúc dân gian  như  kiến trúc gỗ, kiến trúc gạch đá, kiến trúc tre nứa lá khá phổ  biến  ở  khắp mọi nơi   trên đất nước Việt Nam. Kiến trúc ngoại du được chuyển hóa và hòa trộn giữa hai   trường phái kiến trúc của Châu Âu, Bắc Mỹ và kiến trúc truyền thống Á Đông từ thế kỷ  19. Hội họa và điêu khắc:  Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết và tranh Thờ.  Tranh dân gian gắn liền với tín ngưỡng thờ  cúng tổ  tiên và các vị  thần linh. Tranh dân   gian thường được in với kỹ thuật khắc ván để in với số lượng lớn. Trong khi đó hội họa   đương đại chỉ mới được phát triển từ khoảng những năm 20 của thế kỷ 20.  Đời sống vật chất Hiện nay, Việt Nam là nền kinh tế  lớn thứ  60 trong các nền kinh tế  thành viên   của Quỹ Tiền tệ Quốc tế xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2009   và đứng thứ 133 xét theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người. Đây là  nền kinh tế hỗn hợp, phụ thuộc cao vào xuất khẩu và đầu tư  trực tiếp nước ngoài, đặc  biệt nền kinh tế  vẫn chủ  yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, sản xuất công thương   nghiệp và dịch vụ  có phát triển tuy nhiên chưa thực sự  nắm vai trò chủ  đạo trong nền   kinh tế.  Theo số  liệu sơ  bộ    của Tổng cục Thống kê, năm 2007, khu vực kinh tế  nhà  nước là khu vực lớn nhất, chiếm 36,43 % GDP thực tế của Việt Nam, tiếp theo lần lượt   là kinh tế cá thể (29,61 %), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (17,66 %), kinh tế tư nhân  (10,11 %).1 1 Tổng cục Thống kê (Việt Nam): “Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành  phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế”. Truy cập ngày 11/1/2009. Trang 14 
  15. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua Kinh tế Việt Nam được chia thành 3 khu vực kinh tế, đó là: 1) nông nghiệp, lâm   nghiệp, thủy sản; 2) công nghiệp (bao gồm công nghiệp khai thác mỏ  và khoáng sản,   công nghiệp chế biến, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất và phân phối   khí, điện, nước); 3) thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế.2 Hội nhập kinh tế  của Việt Nam diễn ra càng ngày càng nhanh và càng sâu sắc.  Cho đến giữa năm 2007, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ  trên thế  giới, đã ký hơn 350 hiệp định hợp tác phát triển song phương, 87 hiệp định   thương mại, 51 hiệp định thúc đẩy và bảo hộ  đầu tư, 40 hiệp định tránh đánh thuế  hai   lần, 81 thoả thuận về đối xử tối huệ quốc.3 2.2.2. Nhật Bản a) Đất nước Là tên của một quốc gia hải  đảo hình vòng cung, có diện tích  tổng cộng là  379.954 km² nằm xoải theo bên sườn phía đông lục địa châu Á. Đất nước này nằm  ở  phía đông của Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc và trải từ  biển Okhotsk  ở  phía bắc đến   biển đông Trung Quốc  ở phía nam. Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt. Nhật  Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ. Nhật Bản cũng là nền kinh  tế lớn thứ ba toàn cầu tính theo tổng sản phẩm nội địa chỉ sau Hoa Kỳ. Dân số: dân số Nhật Bản ước tính vào năm 2010 lên 129,5 triệu người, và là một   trong mười nước đông dân nhất thế giới, với mật độ dân cư rất cao, đặc biệt tại các khu  vực thành thị như Tokyo, Osaka… b) Văn hóa Ngôn ngữ: Tiếng Nhật Bản, hay tiếng Nhật, là một ngôn ngữ được hơn 130 triệu  người sử dụng ở Nhật Bản và những cộng đồng dân di cư Nhật Bản khắp thế giới. Nó   là một ngôn ngữ  chắp dính và nổi bật với một hệ thống các nghi thức nghiêm ngặt và   rành mạch, đặc biệt là hệ  thống kính ngữ  phức tạp thể  hiện bản chất thứ bậc của xã  hội Nhật Bản, với những dạng biến đổi động từ  và sự  kết hợp một số từ  vựng để  chỉ  mối quan hệ  giữa người nói, người nghe và người được nói đến trong cuộc hội thoại.  Kho ngữ  âm của tiếng Nhật khá nhỏ, với một hệ thống ngữ điệu rõ rệt theo từ. Tiếng  2 Tổng cục Thống kê (Việt Nam): “Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành  phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế”. Truy cập ngày 11/1/2009. 3 Bui Quang Tuan (2007), “Economic Integration of Vietnam,” paper presented at the 32nd FAEA Annual  Conference "Politics and Economic Development of ASEAN", Bangkok, December 7­8; Lưu Ngọc Trịnh và  Trần Thị Lan Hương (2007), “Hội nhập đa tuyến: Kinh nghiệm của Việt Nam”, Những vấn đề Kinh tế và  Chính trị Thế giới, số 11(139), trang 45­51, tháng 11. Trang 15 
  16. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua Nhật được viết trong sự phối hợp ba kiểu chữ: Hán tự hay Kanji và hai kiểu chữ đơn âm  mềm Hiragana và đơn âm cứng Katakana. Giá trị, quan điểm và tính cách con người:  Do sống biệt lập với các quốc gia  khác tại châu Á trong nhiều thế kỷ cho tới thời kỳ mở cửa vào năm 1868, Nhật Bản đã   có các nét riêng về phong tục, tập quán, chính trị, kinh tế và văn hóa... trong đó gia đình  đã giữ  một vai trò trọng yếu. Trước Thế  Chiến thứ  Hai, phần lớn người Nhật sống   trong loại gia đình gồm ba thế hệ, sau đó, do sự  phát triển nhanh chóng về  kinh tế, kỹ  thuật và đô thị  cũng làm gia tăng loại gia đình hạt nhân chỉ  gồm cha mẹ  và các con,  khiến cho loại đại gia đình giảm từ 44% vào năm 1955 xuống còn 13,7% vào năm 1991. Người ta cho rằng khó có thể  dò xét được tình cảm và suy nghĩ của người Nhật  bởi cách cư xử kín đáo, ít bộc lộ cảm xúc ra bên ngoài của họ. Nhưng khi đã quen, bạn   sẽ thấu hiểu được những tình cảm của họ thông qua sự khác nhau rất tinh tế chứa đựng  trong từng cử chỉ giao thiệp.  Người Nhật thường kiềm chế bản thân, họ  không dễ  dàng sung sướng khi nhận  được những lời khen ngợi. Về tính khiêm nhường, có thể ví dụ như khi tặng quà, người  Nhật thường nói “chỉ  là chút quà mọn của tôi”. Người nước ngoài nghe được câu này  thường rất ngạc nhiên. Thực ra, đó là cách diễn đạt tế nhị  dù quà tặng luôn được chọn   hết sức cẩn thận. Đó là sự nhã nhặn, khiêm tốn thật sự đúng cách của người Nhật. Tuy  nhiên, có sự khác biệt trong suy nghĩ giữa các thế hệ, ngày càng có nhiều quan điểm cho   rằng nên bộc lộ tình cảm của mình.  Văn   hóa  nghệ   thuật:  Nói   đến  nghệ   thuật   truyền   thống  Nhật   Bản,  người   ta   thường liên tưởng đến nghệ thuật cắm hoa Ikebana, trà đạo, thư đạo... Hầu hết các loại   hình nghệ  thuật này đều có nguồn gốc từ  nước ngoài và khi du nhập vào Nhật Bản,  được người dân nước này tiếp thu một cách khéo léo để trở thành nghệ thuật Nhật Bản   nổi tiếng trên khắp thế giới.  Một đặc điểm nổi bật của nghệ thuật truyền thống Nhật Bản là chất trầm lắng   nhưng rất dễ  lan tỏa, lay động lòng người một cách tinh tế. Đó là thứ  nghệ  thuật  ẩn   chứa cái đẹp cần được khám phá. Một cái quạt trong tay diễn viên sân khấu kịch có thể  gợi lên hình ảnh của cây kiếm (khi xếp quạt lại) hoặc trở thành trang giấy viết thư tình,   thành cây dù xòe che trên đầu. Sự tích hợp này bao gồm trong một cử chỉ đẹp nhẹ nhàng,  trong một cái nhìn kín đáo vào phần sâu thẳm nơi mỗi con người. Cái phong thái tĩnh   Trang 16 
  17. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua lặng, tâm tư  chứa chan cháy bỏng mà trầm mặc đã được người Nhật thể  hiện thành   công qua nhiều hình thức nghệ thuật như trà đạo, cung đạo, kiếm đạo... Nghi thức trà đạo bao hàm cả  sự  thưởng thức cả  căn phòng nơi nghi lễ  được tổ  chức, cả  mảnh vườn sát phòng, cả  bộ  đồ  trà, cả  cách trang hoàng sắp đặt như  những  bức tranh dài treo tường hay cách cắm hoa. Đó cũng là tính thẩm mỹ  – chuẩn mực của   tất cả những hình thái nghệ thuật truyền thống Nhật Bản. Hơn thế, các kiểu cách được   tuân thủ trong nghi thức dùng trà và các loại hình nghệ thuật truyền thống khác đều ảnh  hưởng đến sự  phát triển các thói quen của người Nhật: coi trọng hình thức, cư  xử  kín  đáo, ít bộc lộ cảm xúc ra bên ngoài... Cũng theo truyền thống Shinto (thần đạo), bản chất con người và toàn bộ thế giới  vạn vật vốn là sự thanh khiết và lành mạnh. Không có một sự đối nghịch hay phân ranh  nào giữa con người với thế giới tự nhiên. Mặt khác, tư tưởng Thiền tông đã đem lại cho người Nhật một quan điểm hợp lý   hơn về cái đẹp, bởi vì mục đích của những người theo Thiền tông là loại bỏ sự chi phối   của lý trí để hòa nhập thiên nhiên. Họ quan tâm đến sự vĩnh hằng đằng sau các đổi thay   chứ không phải sự vận động ồn ào, náo nhiệt diễn ra trên bề mặt cuộc sống. Do đó, các  nghệ thuật truyền thống của Nhật Bản như trà đạo, cắm hoa và các thể  loại sân khấu   của Nhật Bản thường toát lên một ý niệm về tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên. Đời sống vật chất Kinh tế  Nhật Bản là một nền kinh tế thị  trường phát triển, quy mô nền kinh tế  này theo thước đo GDP với tỷ giá thị  trường lớn thứ hai trên thế  giới sau Mỹ, còn theo   thước đo GDP ngang giá sức mua lớn thứ ba sau Mỹ và Trung Quốc. Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi   dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu. GDP trên đầu người là  36.218 USD (1989). Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế  giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ  tái thiết   và phát triển lớn nhất thế giới. Giao thông ở  Nhật Bản rất phát triển, vào năm 2004  ở  Nhật Bản có khoảng 1.177.278 km (731.683 miles) đường bộ, 173 sân bay, 23.577 km   (14.653 miles) đường sắt.  Những đối tác xuất khẩu chính của Nhật là Hoa Kỳ  22.9%, Trung Quốc 13.4%,   Hàn Quốc 7.8%, Đài Loan 7.3% và Hồng Kông 6.1% (2005). Những mặt hàng xuất khẩu   Trang 17 
  18. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua chính của Nhật là thiết bị giao thông vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc điện tử  và hóa chất.  Đối tác nhập khẩu chính của Nhật là Trung Quốc 21% 4, Hoa Kỳ 12.7%, A Rập   Xê Út 5.5%, UAE 4.9%, Australia 4.7%, Hàn Quốc 4.7% và Indonesia 4% (số liệu 2005).   Những mặt hàng nhập khẩu chính của Nhật Bản là máy móc, thiết bị, chất đốt, thực  phẩm (đặc biệt là thịt bò), hóa chất, nguyên liệu dệt may và những nguyên liệu cho các  ngành công nghiệp của đất nước. đang tăng trưởng, nhưng cũng nảy sinh không ít vấn   đề.  2.2. Quan hệ ngoại thương Việt Nam – Nhật Bản Năm 2010, tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam­Nhật Bản đạt kim  ngạch hơn 16 tỷ USD, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm 2009; trong đó, kim ngạch xuất  khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 4,8 tỷ  USD, tăng hơn 24% so với cùng kỳ  năm  ngoái. Cán cân thương mại giữa hai nước tương đối cân bằng. Từ năm 2000­2004, Việt   Nam nhập siêu khoảng trên 50 triệu USD/năm; Năm 2005­2006 Việt Nam xuất siêu trên   300 triệu USD/năm và đến năm 2007, nhập siêu khoảng 108 triệu USD (chủ  yếu là do   nhập khẩu máy móc thiết bị gia tăng do có sự  gia tăng trong đầu tư  trực tiếp của Nhật   Bản vào Việt Nam).  Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong năm 2010   chủ yếu là nông sản thực phẩm, hải sản, may mặc, gỗ và sản phẩm từ gỗ...(Tham khảo   phụ  lục số  1). Bên cạnh đó, Nhật Bản còn là thị  trường quan trọng đối với ngành dệt   may và da giày của Việt Nam (đứng thứ ba sau Hoa Kỳ và EU). Việt Nam và Nhật Bản đã thiết lập quan hệ thương mại từ rất lâu, nhưng kể từ,   khi mà hiệp định đối tác kinh tế  toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) và hiệp định  đối tác toàn diện Việt Nam Nhật Bản VJEPA vào ngày 1/4/2008 Bản có hiệu lực, mối   quan hệ của hai nước được nâng lên tầm cao mới.  Biểu 2.2.1: Cán cân xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản (2001 – 2010) 10,000 8,000 6,000 4,000 2,000 4  Blustein, Paul. "China Passes U.S. In Trade With Japan: 2004 Figures Show Asian Giant's Muscle". The  0 Washingtn Post (2005­01­27). Retrieved on 2006­12­28 -2,000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 (E) Xu ất kh ẩu 2,509 2,438 2,909 3,502 4,411 5,232 6,069 8,538 6,292 7,778 Trang 18  Nh ập kh ẩu 2,215 2,509 2,993 3,552 4,092 4,700 6,177 8,241 7,468 9,141 Cán cân 294 ­71 ­84 ­50 319 532 ­108 297 ­1,176 ­1,363
  19. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua Nguồn: phòng Đông Bắc Á­ Vụ Thị Trường Châu Á TBD, Bộ Công Thương Hiệp định được xây dựng phù hợp với các chuẩn mực và nguyên tắc của Tổ  chức thương mại thế  giới (WTO). Đối với thương mại hàng hóa, Việt Nam đồng ý tự  do hóa đối với 87,66% kim ngạch thương mại trong vòng 10 năm. Nhật Bản cam kết tự  do hóa 94,53% kim ngạch thương mại trong vòng 10 năm. Đây là cơ  hội để  các doanh   nghiệp có thể tận dụng những ưu đãi này để nhập khẩu nguồn nguyên vật liệu và công  nghệ  của Nhật Bản để  sản xuất các sản phẩm có giá trị  gia tăng cao, hàm lượng công  nghệ cao phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.5 Những ngành hàng của Việt Nam được hưởng lợi nhiều từ VJEPA là Thủy sản   (thuế suất giảm từ 5.4% xuống còn 1.31%), dệt may (từ thuế suất 7% xuống còn 0%).   Tuy nhiên trong 2 năm 2009 và 2010 vừa qua, cán cân thương mại Việt Nam – Nhật Bản   ngày càng bị thâm hụt trầm trọng, một mặt là do sự tăng lên của tỷ giá Yên, nhưng phần  lớn cho chúng ta thấy được rằng giá trị nhập khẩu vượt quá xa so với giá trị  xuất khẩu  sang thị trường này. Quan hệ thương mại giữa hai nước còn rất nhiều tiềm năng phát triển, bên cạnh   độ lớn về dung lượng thị trường, có thể thấy, do ở trình độ phát triển khác nhau nên hai   nền kinh tế  có tính chất bổ  sung, hỗ  trợ  cho nhau nhiều hơn là cạnh tranh với nhau.   Nhật Bản dành  ưu đãi GSP cho một số mặt hàng của các nước đang phát triển và kém   phát triển, trong đó có Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang nước này.  Tuy nhiên, trong quan hệ  ngoại thương với Nhật Bản, các DN Việt Nam chưa   tận dụng hết được những lợi thế và ưu đãi mà các hiệp định thương mại, đầu tư  song   phương, đa phương giữa hai nước. Nguyên nhân chủ  yếu là trình độ  thấp kém của các   DN hầu như chưa đáp  ứng được các yêu cầu nhập khẩu khắt khe (thông qua các hàng   5  http://www.tinthuongmai.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/142/ContentID/69332/Default.aspx Trang 19 
  20. Ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua rào kỹ  thuật như  quy định về  vệ  sinh an toàn thực phẩm, dư  lượng kháng sinh trong   thủy sản xuất khẩu, nhãn môi trường ecomark…) Biểu 2.2.2: Phân tích SWOT (chủ yếu về mặt văn hóa) đối với các DN Việt  Nam Điểm mạnh  Điểm yếu  - Nhân công rẻ, giá đầu vào nguyên  - Khả   năng,   trình   độ   quản   lý   yếu  liệu chế biến giá thấp, dồi dào  kém.  - Có những ngành nghề truyền thống,  - Năng   suất   lao   động   thấp,   chi   phí  mặt hàng xuất khẩu đặc trưng trên thị  sản xuất và giá thành sản phẩm  cao. trường thế giới  - Năng  lực   cạnh   tranh   tài   chính   còn  - Ưu đãi của nhà nước đối với xuất  yếu  khẩu (thuế  suất xuất khẩu 0%,  ưu đãi  - Yếu kém về thương hiệu (chưa XD   vay   vốn   sản   xuất   phục   vụ   xuất  thương hiệu) khẩu…)  - Chưa   đáp   ứng   và   vượt   qua   được  hàng rào phi thuế  quan: chống bán phá  giá, rào cản kỹ thuật (TBT)  Cơ hội  Thách thức  - Hội   nhập   mở   ra   cơ   hội   tham   gia  - Các nguồn lực thiên nhiên đang dần  phân   công   lao   động   quốc   tế,   học   hỏi   cạn  kiệt   vì   thế   các   ngành   xuất   khẩu   công nghệ và kinh nghiệm quản lý  sản phẩm thô sẽ  gặp khó  khăn trong  - Có cơ  hội đổi mới máy móc, trang  thời gian tới  thiết  bị   và  nhận  vốn  đầu  tư   từ  nước  - Không   đáp   ứng   yêu   cầu   về   tiêu  ngoài,   mở   rộng   ngành   nghề   lĩnh   vực  chuẩn chất lượng, môi trường, do vậy  xuất khẩu  bị  mất dần thị  trường (ví dụ  như  thủy  - Sự  phát triển của công nghệ  thông  sản) à Phá sản  tin cho phép tìm kiếm cơ hội kinh doanh  - Khủng   hoảng   trong   chuyển   đổi  nhiều hơn  nguồn   lực   hoặc   tìm   phải   tìm   hướng  kinh doanh mới, lạc hâu nhanh về công  nghệ sản xuất  Nguồn: Tự tổng kết Khó khăn lớn nhất mà các DN xuất khẩu Việt Nam gặp phải khi kinh doanh tại   thị trường này chính là việc vấp phải quá nhiều hàng rào phi thuế quan (đặc biệt là hàng  rào kỹ thuật ­ TBT đối với các sản phẩm tiêu dùng, thực phẩm…). Theo thống kê của tổ  chức Copenhagen Economics hiện tại  ở  Nhật Bản có khoảng  104 biện pháp được áp  dụng cho lĩnh vực sản xuất, số lượng TBT chiếm đa số (65/104) biện pháp.  Hình 2.2.1: Thống kê các rào cản phi thuế quan áp dụng cho lĩnh vực sản  xuất tại Nhật Bản trong thời gian qua Trang 20 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2