intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài báo cáo môn Thị trường lao động: Thực trạng và giải pháp cho hoạt động Xuất khẩu Lao động ra nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008-2010

Chia sẻ: Nguyễn Ngoc Tuấn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:51

83
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng hoạt động Xuất khẩu lao động của các Doanh nghiệp trên địa bàn Tp HCM giai đoạn 2000 - 2008, bao gồm những kết quả thiết thực mà hoạt động này đạt được cũng như những điểm hạn chế, khó khăn cần giải quyết, khắc phục.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài báo cáo môn Thị trường lao động: Thực trạng và giải pháp cho hoạt động Xuất khẩu Lao động ra nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008-2010

  1. 1 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Trong giai đoạn hiện nay, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế ngày   càng được mở rộng, Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã   có thêm nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường Quốc tế, có điều kiện phá bỏ  những   rào cản hữu hình và vô hình đối với các thị  trường quốc tế, nâng cao khả  năng   cạnh tranh giữa các nước, do vậy các ngành Kinh tế  trong nước có nhiều điều   kiện tiếp cận với thị trường toàn cầu, hoạt động Xuất khẩu Lao động (XKLĐ)  ra  nước ngoài cũng không ngoại lệ. Đặc biệt là  ở thành phố  Hồ Chí Minh (HCM) ,  nơi được xem là có nền Kinh tế năng động nhất, là đầu tàu Kinh tế của cả quốc   gia, hoạt động XKLĐ  ở  tp HCM trong nhiều năm qua đã đạt được nhiều thành   quả đáng khích lệ, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người  dân lao động, tạo thêm nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách Nhà Nước.  Tuy nhiên trong thời gian gần đây, hoạt động XKLĐ ở thành phố đang gặp   phải một số khó khăn nhất định mà nguyên nhân chính là do chịu ảnh hưởng của   cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính diễn ra ở nhiều nước trên thế  giới.  Báo cáo  thực tập chuyên môn cuối khoá “Thực trạng và giải pháp cho hoạt động Xuất   khẩu Lao động ra nước ngoài  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh giai đoạn 2008 –   2010  ”  được   thực   hiện   nhằm  nghiên  cứu   tình   hình   thực   tiễn   của   hoạt   động  XKLĐ ra nước ngoài tại thành phố  Hồ  Chí Minh, tìm hiểu những kết quả  tích  cực mà chính quyền Thành phố đã đạt được trong thời gian qua cũng như  những   mặt hạn chế, những điểm khó khăn cần giải quyết trong lĩnh vực XKLĐ ra nước   ngoài và từ  đó đề  xuất một số kiến nghị  và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả  của hoạt động này. 2. Mục tiêu nghiên cứu
  2. 2 Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng hoạt   động Xuất khẩu lao động của các Doanh nghiệp trên địa bàn Tp HCM giai đoạn  2000 ­ 2008, bao gồm những kết quả thiết thực mà hoạt động này đạt được cũng   như những điểm hạn chế, khó khăn cần giải quyết, khắc phục. Từ đó có thể nêu  ra một vài đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động Xuất khẩu lao động,  cải thiện cuộc sống cho người dân lao động và góp phần vào mục tiêu phát triển   chung của Thành phố . 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu • Đối tượng nghiên cứu :  Đối tượng nghiên cứu của đề  tài là thực trạng   của hoạt động xuất khẩu lao động ra nước ngoài. • Phạm vi nghiên cứu : Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2000­2008. 4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu dựa trên phân tích số  liệu của các báo cáo thực tiễn từ  các  Doanh nghiệp Xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố  và báo cáo của Sở Lao  động thương binh – xã hội thành phố về hoạt động Xuất khẩu lao động ra nước  ngoài trong từng giai đoạn. 5. Nguồn số liệu  Số liệu được thu thập dựa trên các báo cáo thường niên của Sở  Lao động   Thương binh – Xã hội Thành phố  Hồ  Chí Minh về  vấn đề  Xuất khẩu lao động   diễn ra trên địa bàn Thành phố  ; trên các bài báo, tạp chí , website về  lĩnh vực  Xuất khẩu lao động ra nước ngoài, v.v.. 6. Kết cấu Chương 1 : Lý luận chung về  Lao động và Xuất khẩu lao động ra nước  ngoài. Chương 2 : Thực trạng hoạt động Xuất khẩu lao động ra nước ngoài ở địa   bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2000 – 2008. Chương 3 : Một số  giải pháp và kiến nghị  nhằm nâng cao hiệu quả  của  hoạt động Xuất khẩu lao động ra nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh.
  3. 3 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG RA  NƯỚC NGOÀI 1.1 Một số khái niệm 1.1.1 Lao động Lao động là hoạt động hữu ích của con người nhằm sáng tạo ra của cải   vật chất và tinh thần cần thiết để thoả mãn những nhu cầu của cá nhân, của một   nhóm người, của cả doanh nghiệp hoặc nói chung của toàn xã hội. Cùng với các  nguồn lực thiết yếu khác như  máy móc, nguyên liệu, đất đai,v.v ..lao động sống  là nguồn lực của sản xuất còn lao động là sức mạnh năng động của quá trình sản  xuất. Đại diện cho sức lao động là con người. Sức lao động chỉ  tồn tại thực sự  trong cá nhân người lao động và là nguồn lực lao động chủ yếu của xã hội.  Trong điều kiện lao động tự do, lao động không thể tuỳ tiện di chuyển từ  điểm dân cư này sang điểm dân cư khác. 1.1.2 Nguồn Lao động Đối với Xã hội ngày nay nguồn lao động hay còn gọi là nguồn nhân lực, là  một nguồn lực không thể  thiếu của bất cứ  quốc gia nào. Khái niệm nguồn lao  động trong Kinh tế học là dân số có khả năng lao động cả bằng thể lực và trí lực  của mình. Nói cách khác, đó là những dân cư  đang làm việc và không làm việc 
  4. 4 nhưng vẫn có khả năng lao động. Đặc điểm của nguồn lao động là không thể tích   luỹ, tiết kiệm, không thể  sử  dụng như  là những yếu tố  nguyên liệu sản xuất.   Nếu như  nguồn lao động được tiết kiệm ,không được sử  dụng thì đó sẽ  là một   sựtổn thất cho Xã hội. 1.1.3 Hoạt động xuất khẩu lao động Khái niệm Xuất khẩu lao động là một bộ  phận của khái niệm di chuyển  lao động, xuất phát từ khái niệm di chuyển lao động. Về khái niệm di chuyển lao động, đó là quá trình phân bổ sức lao động đến   những chỗ làm việc mới. Việc di chuyển đến những chỗ làm việc mới có thể  đi  cùng với sự thay đổi về dạng việc làm, vùng lãnh thổ và người sử dụng lao động. Các dạng di chuyển  có thể được thể hiện dưới hai nguồn gốc cơ bản, đó  là phân bổ theo vùng lãnh thổ và thay đổi loại hình công vệc. Như vậy Xuất khẩu lao động là một phân loại của di chuyển lao động, đó   là quá trình di chuyển lao động đến nơi làm việc mới ở ngoài quốc gia. Hoạt động Xuất khẩu lao động được thực hiện bởi các doanh nghiệp Xuất  khẩu lao  động  và  chịu sự  quản lý  của  Nhà  Nước  thông  qua  Bộ   Lao  động –   Thương Binh Xã hội và Sở Lao động – thương binh Xã hội ở các địa phương. 1.1.4 Người lao động đi làm việc ở nước ngoài Theo “Luật người lao động Việt Nam đi làm việc  ở  nước ngoài theo hợp   đồng” (Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ  nghĩa Việt Nam  khóa XI, kỳ họp thứ X thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006.): “ người lao động  đi làm việc  ở  nước ngoài theo hợp đồng (sau đây gọi là người lao động đi làm  việc  ở  nước ngoài) là công dân Việt Nam cư  trú tại Việt Nam, có đủ  các điều  kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận  người lao động, đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của Luật này”. 1.2 Các ngành nghề Xuất khẩu lao động Các ngành nghề  Xuất khẩu lao động  ở  Việt Nam nói chung và thành phố  HCM nói riêng chủ yếu vẫn là các nghành nghề  lao động trực tiếp, hay nói cách  khác là lao động chân tay (lao động giản đơn), các ngành nghề sử dụng nhiều lao  
  5. 5 động nhưng không yêu cầu trình độ  lao động cao, ví dụ  như  may mặc, nữ  giúp  việc nhà, khai thác khoáng sản, xây dựng, chăm sóc người cao tuổi, v.v Bên cạnh đó cũng có các ngành nghề  đòi hỏi trình độ  của người lao động  tham gia Xuất khẩu lao động, đó là các ngành nghề  như công nhân kỹ thuật, cán   bộ quản lý có trình độ Đại học hay trên Đại học, v..v. 1.3 Tác động của hoạt động Xuất khẩu lao động đến quốc gia Xuất khẩu   lao động và quốc gia tiếp nhận lao động 1.3.1 Đối với quốc gia Xuất khẩu lao động  Ở  các nước có Lao động tham gia Xuất khẩu lao động mà chủ  yếu là  ở  các nước kém phát triển, hoạt động này là một biện pháp tích cực nhằm giải  quyết công ăn việc làm, nâng cao tay nghề cho người lao động. Bên cạnh đó, đưa  Lao động đi Xuất khẩu lao động cũng là biện pháp tốt để mang nguồn thu ngoại  tệ về cho đất nước nhằm du nhập công nghệ, tư bản.Ngoài ra, mặc dù việc đưa  một phần lao động ra nước ngoài có thể kéo theo sự suy giảm  của nền sản xuất  trong nước (do giảm thị trường tiêu thụ và cũng là lực lượng sản xuất) nhưng đó  cũng là con đường nhằm nâng cao thu nhập cho những người lao động, không chỉ  những người đi Xuất khẩu lao động mà còn là những lao động trong nước, từ đó   nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, từ đó phát triển Kinh  tế đất nước đi lên. Bảng 1.1 Ảnh hưởng của XKLĐ đến thị trường lao động của quốc  gia XKLĐ W Sản xuất giảm         kijl
  6. 6 W1       i Wo   j             m  D O  k            l    L      Di chuyển lao động (Nguồn : Slide bài giảng Kinh tế Lao động – TSKH. Phạm Đức   Chính,tr.19) Biểu đồ  trên cho thấy trước khi di chuyển lao động ra nước ngoài, mức  lương của lao động nước này là Wo tương ứng với số lượng lao động trong nước   là Ol, khối lượng sản xuất của nền Kinh tế được tính bằng diện tích hình chư  nhật OWojl. Cung lao động lớn nên mức lương nhận được của lao động trong  nước khá thấp(Wo) Sau khi có hoạt động XKLĐ ra nước ngoài, số  lượng lao động còn lại là   Ok , với nguồn cung lao  động này , mức sản xuất của nền Kinh tế  giảm   xuống đúng bằng diện tích kijl, trong khi đó mức lương người lao động nhận   được lại tăng từ Wo lên W1. Như vậy ta có thể thấy khi có hoạt động Xuất khẩu   lao động ra nước ngoài , không những thu nhập của các hộ gia đình có lao động đi  xuất khẩu tăng lên , mà mức thu nhập của những ngừoi lao động trong nước cũng   được cải thiện đáng kể. Đối với Việt Nam, Xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ  trương lớn   của Đảng, Nhà nước, điều đó phù hợp với nguyện vọng của người lao động  nhằm góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và tay nghề cho người lao  động, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Từ  năm 2000 đến 2008 cả  nước đã đưa được trên 300.000 lao động và  chuyên   gia   đi   làm   việc   tại   nước   ngoài,   trong   đó   số   Lao   động   từ   tp   HCM   là  117.965 người. Chính nhờ  hoạt động Xuất khẩu lao động mà áp lực giải quyết 
  7. 7 việc làm trong nước đã vơi đi một phần gánh nặng. Không những thế  từ  hiệu   quả của hoạt động này, chất lượng và trình độ tay nghề của người lao động cũng  được nâng cao đáng kể, đóng góp vào sự phát triển về  chất trong đội ngũ người   lao động cả nước , từ đó góp phần vào quá trình tăng trưởng và phát triển của cả  quốc gia. Mặt khác, hoạt động Xuất khẩu lao động khi phát triển sẽ tạo ra hàng loạt   việc làm trong các hoạt động phục vụ cho lĩnh vực này, ví dụ như các hoạt độgn   giáo dục dạy nghề, dạy ngoại ngữ,v.v. Từ đó các Doanh nghiệp Xuất khẩu lao   động sẽ đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng chục tỷ đồng từ lợi nhuận và phí  quản lý từ những hoạt động này hàng năm. 1.3.2 Đối với quốc gia tiếp nhận Lao động Ta có thể  chia các nước nhập khẩu lao động thành hai loại : Thứ  nhất là   những nước dân số ít mà giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động   trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ  tại tư  gia;  Thứ hai là những   nước đã phát triển, kể cả những nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan,   Singapore, Malaysia. Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang   những ngành dùng nhiều tư  bản, công nghệ  và lao động trí thức,  và chuyển ra  nước ngoài ( dước các hình thức như đầu tư trực tiếp FDI ) những ngành có hàm  lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên, tại những nước công nghiệp mới, những  ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá lớn nên không thể  chuyển   hết ra nước ngoài được. Thêm vào đó, trong những ngành đang phát triển mạnh   tại những nước này có nhiều công đoạn còn dùng lao động giản đơn nên nhu cầu   nhập khẩu lao động gia tăng. Tại những nước phát triển (như  Tây Âu, Bắc Mỹ,   Nhật), nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, ngành dịch vụ ẩm thực, dịch  vụ săn sóc người cao  tuổi, một số nước cần lao động trong nông nghiệp..v.v.. Ở đây cần lưu ý một điểm là tại các nước đã phát triển không phải là  không còn  tồn tại lao động giản đơn. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ số người 
  8. 8 mới ở trình độ giáo dục cưỡng bách tại các quốc gia này. Tuy nhiên vì tiền lương  nói chung đã tăng cao theo mức sống của xã hội, các xí nghiệp có khuynh hướng  thuê mướn lao động nước ngoài để giảm chi phí. Mặt khác, lao động bản xứ có  khuynh hướng tránh những loại công việc mà môi trường lao động không tốt, dễ  gặp tai nạn. Ví dụ như tại Nhật có 3 loại công việc, mà tiếng Nhật gọi là 3K,  phải nhập khẩu lao động nước ngoài vì không thuê mướn được lao động bản xứ :  nguy hiểm (kiken), môi trường làm việc không sạch sẽ (kitanai) và điều kiện lao  động khắc nghiệt (kitsui) như nóng nảy, ngột ngạt. v..v Bảng 1.2 : Ảnh hưởng của XKLĐ đến các quốc gia tiếp nhận Lao  động Xuất khẩu W Tiền công dân bản địa giảm từ      OWobe xuống còn OW1be       Wo             b       W1         g     c
  9. 9      D               O         e               f L Di chuyển lao động (Nguồn : Slide bài giảng Kinh tế Lao động – TSKH. Phạm Đức   Chính,tr.19) Trước khi tiếp nhận thêm lao động ở nước ngoài, mức lương của người  dân bản địa các nước này là Wo tương ứng với số lượng lao động là Oe. Việc  tiếp nhận thêm Lao động từ Xuất khẩu lao động ở các nước (ef), có nghĩa là  nguồn cung lao động ở các nước này tăng lên đáng kể ( từ Oe lên Of ), điều này  làm cho tiền công của dân bản địa giảm xuống từ Wo xuống W1. Song bù lại, thị  trường tiêu thụ các nước này tăng lên, các ngành sản xuất trong nước cũng tăng,  do đó mang lại nguồn thu rất lớn cho các nước này.( Theo biểu đồ, sản xuất của  nền Kinh tế các nước tiếp nhận LĐXK tăng lên đúng bằng diện tích befc). 1.4 Những yêu cầu của XKLĐ ra nước ngoài Để  tham gia vào đội ngũ lao động Xuất khẩu ra nước ngoài, người lao  động bên cạnh những đòi hỏi về sức khoẻ, nguồn tài chính còn có những yêu cầu  khác như  lí lịch cá nhân, trình độ  học vấn, trình độ  chuyên môn, trình độ  ngoại   ngữ.. Tuỳ theo thị trường tiếp nhận và yêu cầu công việc mà mức độ của các yêu   cầu có khác nhau đối với người lao động. Ví dụ như đối với thị trường Đài Loan  hay Malaysia, yêu cầu đối với người lao động nhìn chung khá thấp với số lượng  nhiều, trong khi đó thị trường Nhật Bản chỉ tuyển thực tập sinh với số lượng hạn   chế nên yêu cầu của họ khá cao. 1.5 Bộ luật Nhà Nước về Xuấ t khẩu lao động ra nước ngoài Văn bản Pháp luật về  Lao động là người Việt Nam đi làm việc  ở  nước   ngoài được NN và Chính phủ  qui định tại Mục V – Chương XI ­ Bộ  Luật Lao   động nước Cộng hoà Xã hội Chủ  Nghĩa Việt Nam và văn bản về  quản lí Nhà  nước trong hoạt động XKLĐ ra nước ngoài cũng được NN và Chính Phủ qui định 
  10. 10 rõ tại Điều 184 – Chương XV về quản lí NN về Lao Động – Bộ Luật Lao động   nước Cộng Hoà Xã hội Chủ  nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, Luật người Việt Nam đi  làm việc  ở  nước ngoài theo hợp đồng cũng đã được Quốc Hội khoá XI, kỳ  họp   thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 cà có hiệu lực thi hành từ 1/7/2007. Luật người lao động Việt Nam đi làm việc  ở  nước ngoài theo hợp đồng :  (Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã   được sửa đổi, bổ  sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm   2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10) :Luật này quy định về người lao động  Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của người  lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền và nghĩa vụ  của doanh   nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp   đồng và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Ngoài ra, NN và Chính phủ cũng đã ban hành rất nhiều thông tư, nghị định  về  việc đưa người lao động ra nước ngòai làm việc và các văn bản, quyết định  hướng dẫn thi hành các thông tư, nghị định đó. 1.6 Hoạt động Xuất khẩu Lao động tại thành phố Hồ Chí Minh Tính đến 21/10/2008, ở Thành phố Hồ Chí Minh có 57 Doanh Nghiệp được  cấp phép theo Luật đưa người Lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó có 10  đơn vị  trực thuộc UBND thành phố  ; trong năm 2008 các Doanh nghiệp đã đưa  được 18.095 người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thủ  tục đưa người Lao động Việt Nam đi làm việc  ở  nước ngoài được   thực hiện theo “Luật người lao động Việt Nam đi làm việc  ở  nước ngoài theo  hợp đồng”, trong đó các Doanh nghiệp có quyền tuyển Lao động đi làm việc  ở  nước ngoài có thời hạn được quy định theo Pháp Luật. Việc tuyển dụng được  thực hiện theo các quy trình và chịu sự  quản lý của cơ  quan Nhà nước có thẩm  quyền về   đưa người lao  động ra nước ngoài làm việc, đó là Sở  Lao động –  Thương binh Xã hội thành phố  Hồ Chí Minh và Cục quản lý lao động với nước   ngoài.
  11. 11    Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG RA NƯỚC  NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2000 – 2008
  12. 12 2.1 Giới thiệu về Sở Lao Động – Thương Binh Xã Hội Tp Hồ Chí Minh Sở  Lao động ­ Thương binh và Xã hội   Tp HCM là cơ  quan Nhà Nước  thuộc UBND Thành phố  Hồ  Chí Minh, có trụ  sở  đặt tại 159 Paster, quận 3. Cơ  cấu tổ  chức của Sở  gồm 5 phòng, ban thực hiện chức năng tham mưu cho Ban  Giám đốc Sở về các lĩnh vực chính sách  lao động, việc làm, dạy nghề, chính sách  có công, chính sách xã hội, thanh tra chính sách, thanh tra an toàn lao động trên địa   bàn Thành phố và 5 phòng, ban thực hiện công tác bảo đảm hoạt động ngành. Bảng 2.1 :Sơ đồ tổ chức Sở Lao Động – Thương Binh Xã Hội thành  phố Hồ Chí Minh (Nguồn : www.hochiminhcity.gov.vn) • Phòng quản lý lao động ­ tiền lương ­ tiền công: Là một trong những phòng ban chuyên môn của sở, thực hiện công tác tham   mưu cho Ban Giám đốc Sở  về  các lĩnh vực chính sách lao động, việc làm, dạy   nghề, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội,v..v 2.2 Vài nét về tình hình thị trường lao động tại thành phố Hồ Chí Minh
  13. 13 2.1.1 Đặc điểm Kinh Tế ­ Xã hội của thành phố Hồ Chí Minh • Đặc điểm Kinh tế  Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 0,6% diện tích và 6,6 % dân số so với cả  nước, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là trung tâm kinh tế của cả  nước, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hoạt động kinh tế năng động nhất, đi đầu   trong cả  nước về  tốc độ  tăng trưởng kinh tế. Nếu như  năm 2001 tốc độ  tăng   GDP của thành phố là 7,4 % thì đến năm 2005 tăng lên 12,2% và năm 2008 vừa   qua là 11%. Phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao đã tạo ra mức đóng góp   GDP lớn cho cả nước. Có thể nói thành phố là hạt nhân trong vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam  (KTTĐPN) và là trung tâm đối với vùng Nam Bộ. Với mức đóng góp GDP là  66,1% trong vùng(KTTĐPN) và đạt mức 30% trong tổng GDP của cả  khu vực   Nam Bộ. Thành phố  là nơi thu hút vốn đầu tư  nước ngoài mạnh nhất cả  nước kể  từ  khi Luật  đầu tư  được ban hành. Số  dự   án đầu tư  vào thành phố  chiếm   khoảng 1/3 tổng số dự  án đầu tư  nước ngoài trên cả  nước. Năm 2005, đầu tư  trực tiếp của nước ngoài tăng khá so với năm 2004, 258 dự  án đầu tư  nước   ngoài được cấp phép với tổng vốn 577 triệu USD, tăng 4,5% về  số  dự  án và   43,7% về  vốn đầu tư. Có 145 dự  án tăng vốn với số  vốn điều chỉnh tăng 330  triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư  kể  cả  tăng vốn là 907 triệu USD, tăng  7,7%. Bên cạnh đó, có 5 dự  án đầu tư  ra nước ngoài có tổng vốn là 29,1 triệu   USD. Đến năm 2008, toàn thành phố có 1058 dự án hoàn thành đưa vào sử dụng   (trong đó trên 70% là các dự  án nhóm C phân cấp cho các quận ­ huyện) tăng  hơn so với cùng kỳ  2007 là 282 dự  án. Đa số các dự  án hoàn thành đưa vào sử 
  14. 14 dụng đều đáp  ứng được mục tiêu và hiệu quả  đầu tư, nhất là các công trình   giao thông, thoát nước đô thị, giáo dục, y tế… Thành phố luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu ngân sách của nhà   nước, mặc dù gặp nhiều khó khăn song thu ngân sách của thành phố vẫn không  ngừng tăng. Năm 2005, tổng thu ngân sách trên địa bàn là 58.850,32 tỷ  đồng,  tăng 22,21% so với năm 2004, đạt 108,27% dự  toán cả  năm. Trong năm 2008  tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thực hiện là 123.964 tỷ  đồng, đạt  122,9% dự toán và tăng 34,79% so với cùng kỳ. Về thương mại,  dịch vụ ,  thành phố là trung tâm xuất nhập khẩu lớn nhất   nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của thành phố ngày càng chiếm tỷ trọng lớn   trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả  nước. Khu vực d ịch v ụ  tăng   trưởng vượt kế  hoạch, đáp  ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất ­ kinh   doanh và phục vụ  đời sống dân cư. Giá trị  gia tăng các ngành dịch vụ  tăng   12,2% so với năm 2004 . Năng suất lao động của các ngành dịch vụ nói chung là   66,12 triệu đồng/người/năm (giá trị  gia tăng) trong đó năng suất lao động của  Thương mại là 51,6 triệu đồng/người/năm (bằng 78% năng suất lao động ngành  dịch vụ). Hoạt động du lịch của thành phố  phát triển mạnh, lượng khách du lịch  quốc tế đến thành phố ngày càng đông đảo. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch   đã phát huy các phương tiện thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng chuyên   mục du lịch trên các báo lớn, truyền hình,  tăng cường và nâng cao hiệu quả các  đợt tham dự  hội chợ  du lịch chuyên nghiệp khu vực và các thị  trường trọng   điểm.  Bên cạnh đó, thành phố Hồ Chí Minh còn là trung tâm tài chính ngân hàng  lớn nhất Việt Nam, là đơn vị dẫn đầu cả nước về số lượng ngân hàng và doanh  số  quan hệ  tài chính ­ tín dụng. Doanh thu của hệ  thống ngân hàng thành phố  chiếm khoảng 1/3 tổng doanh thu toàn quốc. 
  15. 15 Trong tương lai thành phố tiếp tục phát triển các ngành kinh tế chủ lực, là  địa phương đầu tiên tập trung phát triển các ngành cơ  khí gia dụng, sản xuất   phương tiện vận tải, chế tạo máy, các ngành công nghệ  cao … và vẫn là đầu   mối xuất nhập khẩu, du lịch của cả  nước với hệ thống cảng biển phát triển.  Việc hình thành các hệ thống giao thông như đường Xuyên Á, đường Đông Tây  … đã tạo điều kiện cho kinh tế thành phố tăng trưởng mạnh mẽ.  Trong   quá   trình   phát   triển   và   hội   nhập,   thành   phố   Hồ   Chí   Minh   luôn  khẳng định vai trò là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của   cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng  kinh tế trọng điểm lớn nhất nước và cũng là vùng động lực cho công cuộc phát   triển kinh tế  ­ xã hội  ở  địa bàn Nam Bộ  và cả  nước theo chiến lược công  nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo như chủ trương của Nhà nước ta. •  Đặc điểm Xã Hội Theo kêt qua ́ ̉  điêu tra dân sô trên đia ban TP HCM ngay 1/10/2004, dân sô ̀ ́ ̣ ̀ ̀ ́  thương tru trên đia ban thanh phô la 6.117.251 ng ̀ ́ ̣ ̀ ̀ ́ ̀ ươi chiêm 7% dân sô ca n ̀ ́ ́ ̉ ước.   ́ ́ ̉ ̣ ̀ Trong đo dân sô cua 19 quân la 5.140.412 ngươi chiêm 84,03% dân sô thanh phô va ̀ ́ ́ ̀ ́ ̀  dân   số  cuả   5   huyên ̣   ngoaị   thanh ̀   là  976.839   ngươi, ́   15,97%.   Tính   đến   ̀   chiêm 30/9/2008, dân số  của toàn thành phố  là 6.060.901 người và mục tiêu đến 2010,  dân số  thành phố  sẽ  tăng lên vào khoảng 7,2 triệu người với tỉ  lệ  tăng dân số  giảm xuống còn 1,14%. Thành phố  Hồ  Chí Minh là nơi tập trung động đảo các  thành phần dân cư với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo nên nền văn hoá nơi đây cũng  rất đa dạng và phong phú.  Sài Gòn ­ Gia Định là nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hóa, là "cơ cấu kiến  trúc" Việt ­ Hoa ­ Châu Âu. Vì trên 300 năm trước, Bến Nghé – Sài Gòn xưa là  nơi tiếp nhận các nguồn lưu dân từ  Trung, Bắc đến lập nghiệp, rồi các di dân  người Hoa vào định cư ở Biên Hòa, Mỹ Tho cùng hội tụ với dân cư bản địa. Sau  đó, Sài Gòn trở  thành một trong những trung tâm của cả nước đón nhận những  
  16. 16 ảnh hưởng của văn hóa Pháp, Mỹ. Tính giao thoa hội tụ  của những người cần   cù vượt khó, hội tụ tài năng và sức lực cả nước đã biến Sài Gòn thành một phức   thể  văn hóa thông qua phong tục tập quán, cách thức ăn uống, trang phục, sinh  hoạt ma chay, cưới hỏi, tôn giáo tín ngưỡng; tinh thần đoàn kết dân tộc,  năng  động sáng tạo, dễ  tiếp cận và hòa nhập…vốn là truyền thống, phẩm chất tốt   đẹp của dân tộc và con người Thành phố. Sài Gòn ­ Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là trung tâm văn hóa mà còn   là trung tâm báo chí ­ xuất bản  của đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước.   Thành phố  này là nơi phổ  biến chữ  quốc ngữ  đầu tiên, là nơi ra báo đầu tiên  bằng chữ  quốc ngữ  (Tờ  “Gia Định báo”) của cả  nước. Sự  ra đời và phát triển  phong phú của sách, báo, trường đào tạo chuyên ngành,  của đội ngũ văn nghệ  sĩ, của các hoạt động và giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật ... đã tạo cho Sài  Gòn từ lâu là một thành phố có ảnh hưởng lớn về văn hóa. Trải qua hơn 300 năm hình thành và phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh là   một thành phố trẻ nhưng cũng có không ít những tài nguyên du lịch nhân văn. Đó   là những công trình kiến trúc cổ   như  Nhà Rồng, đền Quốc Tổ, Dinh Xã Tây  (trụ sở UBNDTP), Nhà hát lớn, Bưu điện, hệ thống các ngôi chùa cổ (chùa Giác  Lâm, chùa Bà Thiên Hậu, Tổ Đình Giác Viên...), hệ thống các nhà thờ cổ  (Đức  Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Thủ Đức...). Với vai trò vị  trí là một Trung tâm Văn hoá của cả  nước, thành phố  hiện có 22  đơn vị  nghệ  thuật, 9 rạp hát, chiếm 15,5% và 18,6% số  lượng của cả  nước.   Ngành Văn hóa Thông tin đã xây dựng quy hoạch phát triển ngành văn hoá thông  tin đến năm 2010cũng như kế hoạch thực hiện đồng bộ  các nhiệm vụ  văn hoá –   xã hội theo hướng phát triển đô thị  hiện đại, giàu bản sắc dân tộc. Trong năm   2003, Thành phố phấn đấu đào tạo nghề cho 180.000 người, giải quyết việc làm  cho mới cho 210.000 người và cương quyết hoàn thành cơ  bản  chương trình  XĐGN vào cuối năm. Tiếp tục thực hiện chương trình nhà  ở cho công nhân lao 
  17. 17 động và người có thu nhập thấp. Để  trở  thành Thành phố  văn minh, các phong  trào chống các tệ nạn xã hội mà nổi bật là chương trình ba giảm đã được toàn dân  thành phố tham gia. Thành phố đã đề ra kế hoạch theo một lộ trình rõ rệt để giải  quyết đồng bộ  các tệ  nạn xã hội. Đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn  hoá cơ sở , đổi mới phương thức trong hoạt động tuyên truyền cổ động, triển lãm  quảng cáo,tiếp tục phát triển hệ thống Bảo tàng, Thư  viện, Trung tâm Văn hóa,  tăng cường quản lý Nhà nước, cương quyết lập lại trật tự  kỷ  cương   trong các  hoạt động văn hoá, tạo môi trường văn hoá xã hội lành mạnh.. 2.1.2 Tình hình thị trường lao động tại thành phố Hồ Chí Minh Có thể  nói, tp Hồ  Chí Minh là thị  trường lao động sôi nổi nhất cả  nước.   Nơi đây tập trung khoảng 2,7 triệu lao động (2007) đang làm việc với khoảng   90% trong số đó làm việc tại các cơ sở Kinh tế. Phần lớn lao động đang làm việc   tại thành phố Hồ  Chí Minh là lao động nhập cư  từ  các tỉnh, thành phố  khác đến   đây tìm kiếm cơ hội cho mình. Hàng năm, co số này không ngừng tăng lên . Thành   phố  Hồ  Chí Minh là nơi tập trung đầy đủ  các bộ  phận dân cư  và tầng lớp lao  động Xã hội. Do vậy sức ép đối với chính quyền thành phố  về  giải quyết việc   làm cho người dân lao động ở thành phố là rất lớn. Bảng 2.2: Dân số Lao động Xã hội Tp HCM từ 2001 ­ 2007
  18. 18 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1.Dân s ố trung bình 5.285 5.449 5.63 6.117 6.24 6.424 6.65 2.Nam 2.546 2.625 2.713 2.92 2.996 3.081 3.184 3.Nữ 2.739 2.824 2.917 3.142 3.243 3.343 3.466 4.Thành thị 4.41 4.542 4.661 5.17 5.315 5.463 5.64 5.Nông thôn 875 907 969 893 925 961 1.01 6.Tỉ lệ tăng dân s ố  tự nhiên (%) 1,30 1,27   1,15 1,20 1,15 1,07 1,05 7.Tỉ lệ tăng dân s ố  cơ học (%)  0,77  0,90  1,2 2,1 2,0 1,9 2,1 8. Lao động đang làm  việc 2.267 2.336 2.503 2.586 2.676 2.784 2.801 9. Giới thiệu việc làm  trong năm   198 208 211 222 234 240 259 10. Tỷ lệ thất nghiệp  khu vực thành thị  (%) 6,04  6,54  6,13 6,0  5,9 5,8 5,9 (Nguồn : www.hochiminhcity.gov.vn) Hàng năm tại thành phố nhu cầu cần bố trí việc làm có trên 250.000 người,  trong đó gần 100.000 người là sinh viên, học sinh tốt nghiệp các chương trình đào  tạo nghề, nhiều người lao động rất khó khăn trong việc tìm kiếm cho mình một  công việc thích hợp với thu nhập ổn định. Thêm vào đó, mỗi năm thành phố tiếp  nhận thêm khoảng 240.000 người lao động đổ  về  thành phố  , do vậy sức ép về  nhà  ở  và việc làm cho người dân lao động cũng tăng lên rất nhiều. Trung bình,  hằng năm thành phố chỉ giải quyết việc làm cho trên dưới 100.000 lao động. Giải  quyết việc làm cho người lao động là một vấn đề  cấp bách của chính quyền  Thành phố, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền Kinh tế đang gặp phải   nhiều biến động.  Theo Trung tâm Gới thiệu việc làm thành phố  Hồ  Chí Minh   (thuộc Sở  Lao động thương binh – Xã hội thành phố), trong giai đoạn các năm  2007 đến 2010, bình quân mỗi năm trên địa bàn Thành phố  Hồ  Chí Minh sẽ  thu   hút lao động cho 270.000 chỗ làm việc, trong đó 120.000 chỗ  làm việc mới. Tuy  nhiên với sự  gia tăng ngày càng lớn về  số  lượng người lao động trên địa bàn 
  19. 19 thành phố, con số 270.000 chỗ làm việc vẫn còn quá ít so với nhu cầu thực tế của  Xã hội. Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay nền Kinh tế của nước ta cũng đang   chịu nhiều  ảnh hưởng tiêu cực từ  sự khủng hoảng kinh tế  thế giới, dẫn đến số  lượng lao  động bị  thất nghiệp ngày càng gia tăng nhanh chóng.  Theo số  liệu  thống kê từ  năm 2008 đến ngày 11/03/2009, Tổng số  doanh nghiệp ngừng sản  xuất, giải thể hoặc có nguy cơ ngừng hoạt động là 195 doanh nghiệp (trong đó có  71 doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài ) với 26.401 người lao động bị  mất  việc và 15.528 người thiếu việc  .Nguyên nhân người lao động bị  thiếu việc và  mất việc là do các doanh nghiệp giải thể, phá sản, chủ  doanh nghiệp bỏ  trốn,   doanh nghiệp sắp xếp lại sản xuất, thu hẹp sản xuất, ngưng và tạm ngưng hoạt  động…Như vậy có thể thấy cầu việc làm tại thành phố Hồ Chí Minh ngày càng   gia tăng về số lượng, nhu cầu việc làm cho người dân lao động đang trở nên cấp  thiết. Đó đang trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với chính quyền thành   phố giai đoạn hiện nay. Do vậy, Xuất khẩu Lao động, hiện nay được coi là một  trong những giải pháp tốt nhất nhằm giải quyết việc làm nâng cao thu nhập cho   người dân, đó là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà Nước ta trong   những năm gần đây 2.2  Thực trạng hoạt động XKLĐ   tại thành phố  Hồ  Chí Minh   giai đoạn   2000 – 2008 2.2.1 Qui trình tuyển dụng LĐXK ở Thành phố Hồ Chí Minh Theo Nghị  định số  152/1999/CP­NĐ ngày 20/9/1999 quy định việc người  lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và Thông   tư  số  28/1999/TT­BLĐTBXH ngày 15/11/1999 hướng dẫn Nghị   định 152, quy  trình, thủ tục xuất khẩu lao động được quy định như sau:  •  Đơn vị đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài
  20. 20 Đơn vị  đưa người lao động Việt Nam đi làm việc  ở  nước ngoài phải là  doanh nghiệp được cấp phép hoạt động chuyên doanh xuất khẩu lao động. Đó là   doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ  phần   theo Nghị định số 44/1998/NĐ­CP ngày 29/6/1998 mà Nhà nước giữ cổ  phần chi   phối, cổ phần đặc biệt; doanh nghiệp thuộc các đoàn thể trung ương có các điều  kiện do pháp luật quy định. •  Đăng ký hợp đồng Doanh nghiệp được phép hoạt động chuyên doanh đưa lao động đi làm việc  ở nước ngoài có hợp đồng cung ứng lao động, hợp đồng nhận thầu, khoán xây  dựng công trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài tiến hành đăng  ký hợp đồng tại Cục Quản lý lao động với nước ngoài. Hồ sơ đăng ký hợp đồng gồm: ­ Một bản đăng ký hợp đồng. ­ Một bản sao hợp đồng và bản sao các văn bản liên quan tới việc tiếp nhận lao  động của nước nhận lao động (có xác nhận của thủ trưởng doanh nghiệp). ­ Báo cáo thực hiện hợp đồng lần trước (nếu có). ­ Doanh nghiệp không có giấy phép hoạt động chuyên doanh cần phải có văn bản  chứng minh khả năng tài chính tại thời điểm đăng ký hợp đồng. ­ Doanh nghiệp nhận thầu khoán công trình, hợp đồng liên doanh liên kết ở nước  ngoài phải nộp bản sao hợp đồng có ý kiến xác nhận của thứ trưởng bộ, ngành,  chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Sau 3 ngày đối với doanh nghiệp có giấy phép hoạt động chuyên doanh và 7 ngày  (trừ ngày lễ và ngày nghỉ hàng tuần) đối với doanh nghiệp không chuyên doanh  kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hợp đồng của doanh nghiệp, nếu không có  thông báo của Cục Quản lý lao động với nước ngoài thì doanh nghiệp được phép  tổ chức tuyển chọn và làm các thủ tục cho người lao động đi làm việc ở nước  ngoài. Riêng đối với các thị trường mới và các thị trường chưa có cơ quan đại diện của 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2