intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:60

118
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

 Đề tài: Bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay nhằm mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi dưỡng KNTGD, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay

  1. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài          Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức  đang đặt ra những yêu cầu mới không chỉ  cho sự  nghiệp giáo dục, đào tạo  mà còn đòi hỏi mỗi cá nhân phải có khả năng thích ứng cao, linh hoạt trong   tiếp nhận, xử lý thông tin và không ngừng tự bồi dưỡng tri thức để đáp ứng   được các nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội. Chính vì vậy, việc phát  huy vai trò năng động chủ quan, chú trọng bồi dưỡng năng lực tự giáo dục,  tự  đào tạo  của người học đang là một nội dung quan trọng của đổi mới   giáo dục đào tạo trong nhà trường hiện nay,  đây được xem như một hướng   đột phá, một sự quan tâm lớn của xã hội và các trường đại học, cao đẳng  trong cả  nước. Nhận thức được vấn đề  trên, trong các Văn kiện, Nghị  quyết gần đây, Đảng ta luôn khẳng định: “đổi mới phương pháp dạy và  học, phát huy tư  duy sáng tạo và năng lực tự  đào tạo của người học, coi  trọng thực hành, thực nghiệm, làm chủ kiến thức tránh học vẹt, học chay”  [5, 203]. Đây là vấn đề  có ý nghĩa bức thiết của giáo dục, nhằm biến quá  trình đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi cá nhân.  Nằm trong hệ  thống các học viện, nhà trường quân đội, HVHC có  nhiệm vụ  đào tạo cán bộ  hậu cần cho toàn quân và đội ngũ cán bộ  làm  công tác nghiên cứu giảng dạy khoa học hậu cần quân sự. Từ  những năm  học đầu, học viên đã phải tiếp thu một lượng kiến thức rất lớn về  khoa   học cơ bản, khoa học quân sự, khoa học xã hội và nhăn văn làm cơ sở theo  học các chuyên ngành. Để  có thể  lĩnh hội tri thức  ở  bậc đào tạo đại học,   hình thành được các phẩm chất nhân cách cần thiết của người cán bộ hậu   cần trong tương lai đòi hỏi học viên phải có các KNTGD tương ứng để có  thể  tự  học tập, tự  rèn luyện thường xuyên. Khi được bồi dưỡng và rèn  luyện KNTGD, học viên sẽ  có một hệ  thống công cụ  hữu ích cho hoạt  động nhận thức, làm cho quá trình tiếp thu kiến thức, rèn luyện KN sẽ tốn   ít sức lực và có hiệu quả  hơn. Từ  đó, học viên càng có điều kiện để  hợp   tác, đào sâu tìm hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Nhờ  có   KNTGD mà học viên từ chỗ là đối tượng của giáo dục sẽ trở thành chủ thể  4
  2. của giáo dục, tiếp nhận những tác động của giáo dục một cách chủ  động  tích cực, sáng tạo và tự làm chủ quá trình hoàn thiện nhân cách của mình.   Quán triệt Nghị quyết 86 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về công  tác giáo dục đào tạo trong tình hình mới. Trong những năm qua, HVHC đã  tiến hành đổi mới đồng bộ  nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục ­   đào tạo theo hướng dân chủ hoá, tích cực hoá nhằm hướng tới mục tiêu đào   tạo các học viên sỹ quan trở thành những con người hoạt động thực tiễn tự  chủ, năng động và sáng tạo. Vai trò tích cực, chủ  động trong học tập rèn  luyện của học viên đã được đề  cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ  của Học viện và yêu cầu xây dựng ngành hậu cần quân đội trong thời kỳ  mới thì chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện còn những vấn đề bất  cập,  qua khảo sát chất lượng cán bộ  hậu cần cấp phân đội bậc đại học   mới ra trường cho thấy: “đa phần cán bộ được đào tạo đều có phẩm chất,  năng lực và tiềm năng phát triển. Song vẫn có không ít số  cán bộ phân đội  còn lúng túng trong thực hiện chức trách thực tế, đặc biệt những vấn đề  liên quan đến kinh tế  thị  trường, làm luận chứng kinh tế, kỹ  thuật, giải   quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra đối với cán bộ hậu cần…[17] . Bên  cạnh đó, sự trưởng thành về nhân cách và các phẩm chất nghề nghiệp của  học viên còn chậm, khả năng định hướng giá trị còn yếu, kết quả học tập,   rèn luyện của học viên còn chưa cao…Những hạn chế đó do nhiều nguyên  nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân cơ bản, học viên chưa có KNTGD  hoặc KNTGD, KN thực hành tuy được hình thành nhưng chưa vững chắc  và mang tính hệ thống.  Do vậy, để  thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Học  viện, xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần vừa hồng vừa chuyên, yêu cầu đặt  ra là phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình giáo  dục đào tạo, đặc biệt cần chú trọng vào bồi dưỡng các kỹ năng tự học tập,   tự rèn luyện và năng lực thực hành nhằm hình thành KNTGD cần thiết cho  học viên.  Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn: “ Bồi dưỡng KNTGD cho học   viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện   nay” là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn làm đề tài nghiên cứu   của mình.  2. Tình hình nghiên cứu có liên quan 5
  3. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề TGD, KNTGD nói   riêng hay KN tổ chức các hoạt động nói chung, cả trong và ngoài quân đội. Trong  đó có một số công trình tiêu biểu như: Lê  Đức  Phúc (2004), “Nâng cao khả năng  tự  giáo dục của học sinh” NXB Chính trị  Quốc gia; Thái Duy Tuyên (2000),  “Tăng cường hoạt động tự giáo dục của học sinh”, tạp chí Giáo dục và thời đại,  32( 294); Nguyễn Học Từ (1998): “Cơ sở sư phạm và giải pháp bồi dưỡng kỹ  năng tự giáo dục cho học viên các trường Đại học quân sự” Luận án phó tiến sỹ  khoa học quân sự, Hà nội; Nguyễn Thành Vân (2004), “Những biện pháp bồi  dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt động nhận thức cho giáo viên khoa học xã hội và   nhân văn ở các trường Đại học quân sự  hiện nay”, Luận án tiến sỹ Giáo dục  học, Hà  Nội...Các công trình đề tài nói trên là những định hướng, gợi ý quan  trọng giúp tác giả trong quá trình nghiên cứu. Nhìn chung, các công trình khoa học đã đề  cập và luận giải nhiều  khía cạnh của vấn đề  TGD, KNTGD, KN tổ  chức các hoạt động cho học  sinh, sinh viên trong đó có các học viên  ở  nhà trường quân sự. Các công  trình đã khẳng định vai trò của TGD, KNTGD đối với việc hình thành, phát  triển, hoàn thiện nhân cách nói chung, nhân cách của người quân nhân cách  mạng nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề  cập đến vấn đề  bồi  dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học  ở HVHC. Đề tài không trùng lặp với các đề tài, công trình đã công bố.  3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Làm rõ một số  vấn đề  lý luận và thực tiễn về  bồi dưỡng KNTGD,  trên cơ  sở  đó đề  xuất một số  biện pháp bồi dưỡng KNTGD cho học viên  đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay * Nhiệm vụ ­ Luận giải một số  vấn đề  lý luận về  bồi dưỡng KNTGD cho học   viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ­ Đánh giá thực trạng bồi dưỡng KNTGD của học viên đào tạo sỹ  quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay ­ Đề xuất một số giải pháp cơ bản bồi dưỡng KNTGD cho học viên   đào tạo sỹ  quan cấp phân đội trình độ  đại học  ở  HVHC trong giai đoạn   hiện nay 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối  tượng nghiên cứu 6
  4. KNTGD cho học viên đào tạo sỹ  quan cấp phân đội, trình độ  đại  học ở HV HC * Phạm vi nghiên cứu   Bồi dưỡng KNTGD của học viên Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2  ở  HVHC từ năm 2004 đến 2009 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu ­ Cơ  sở  lý luận: Lý luận Chủ  nghĩa Mác­Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí  Minh; đường lối, quan điểm của Đảng về  giáo dục; lý luận của khoa học  chuyên ngành giáo dục học ­ Cơ  sở  thực tiễn: Kế  thừa kết quả các công trình nghiên cứu khoa   học có liên quan; Kết quả thực tế bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo  sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC trong những năm gần đây;  báo cáo tổng kết các mặt hoạt động chủ  yếu của tiểu đoàn quản lý học  viên và số liệu khảo sát của tác giả về bồi dưỡng KNTGD ở các tiểu đoàn  quản lý học viên đào tạo sỹ  quan hậu cấp phân đội, trình độ  đại học của   HVHC ­   Phương   pháp   nghiên   cứu:   Dựa   trên   phương   pháp   luận   của   chủ  nghĩa Mác­ Lênin, đề  tài sử  dụng các phương pháp phân tích ­ tổng hợp,   điều tra xã hội học và phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp trao  đổi, xin ý kiến chuyên gia... 6. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài Kết quả nghiên cứu đề tài phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ  chức nâng cao hiệu quả bồi dưỡng KNTGD của học viên, đồng thời đề tài   có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy.  7. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm mở đầu, 2 chương, 5 tiết, kết luận, tài liệu tham khảo và  phụ lục  7
  5. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BỒI DƯỠNG  KỸ NĂNG TỰ GIÁO DỤC CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SỸ QUAN  CẤP PHÂN ĐỘI TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN 1.1. Một số vấn đề  lý luận về bồi dưỡng kỹ  năng tự  giáo dục  cho học viên đào tạo sỹ  quan cấp phân đội, trình độ  đại học  ở  Học  viện Hậu cần       1.1.1. Kỹ  năng tự  giáo dục  của học viên đào tạo sỹ  quan hậu   cần cấp phân đội Trong lịch sử, vấn đề giáo dục và TGD đã được quan tâm từ rất sớm.   Các nhà giáo dục đánh giá rất cao vai trò của TGD, tự tu dưỡng rèn luyện  và coi trọng  phát huy TTC, chủ  động của người học. Tuy nhiên do nhiều   nguyên nhân mà vấn đề  này còn được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,  thậm chí còn mang nặng tính tự  phát, chủ  quan, đơn giản và phiến diện.  Chỉ khi học thuyết Mác­ Lênin ra đời với cách xem xét biện chứng, vấn đề  TGD được nhìn nhận một cách khoa học, TGD không còn hoàn toàn là hiện  tượng thuần tuý chỉ có ở mỗi người mà còn là một hiện tượng xã hội. Theo đại từ điển tiếng Việt “tự” là từ “biểu thị hoạt động do chủ thể   tiến hành hoặc biểu thị ý nghĩa phản thân” [30,236]. Theo đó, TGD của HV   đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ  đại học được hiểu là quá   trình nỗ  lực tự  giác cao của học viên nhằm tự  tổ  chức, tự  điều khiển, tự   điều chỉnh sự hình thành phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình theo   mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện.  TGD là nhân tố  quyết định đến sự  phát triển hoàn thiện nhân cách  của mỗi người nói chung, của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân  đội, trình độ đại học nói riêng. Đây là quá trình chuyển hoá những nhu cầu  của xã hội, quân đội vốn tồn tại khách quan thành trạng thái chủ  quan,   thành nhu cầu động cơ, nội dung, khả  năng tự  học tập, tự  rèn luyện của  8
  6. mỗi học viên thông qua vai trò của nhà giáo dục và hoạt động thực tiễn tích   cực của học viên.  Học viên đào tạo sỹ  quan hậu cần cấp phân đội trình độ  đại học là  những thanh niên trẻ, khoẻ, tuổi đời từ  18­22, phần lớn là học sinh phổ  thông được tuyển chọn qua con đường tuyển sinh đại học. Đó là những   học viên ham hiểu biết, nhạy cảm trước tác động của môi trường, tư  duy   mau lẹ, linh hoạt, trí nhớ  tốt. Đây là những điều kiện thuận lợi để  họ  có   khả  năng tiếp thu nhanh tri thức khoa học, nhất là tri thức khoa học hậu  cần quân sự, tạo tiền đề cho sự phát triển hoàn thiện phẩm chất nhân cách   người cán bộ hậu cần trong điều kiện mới. Tuy nhiên, học viên đào tạo sỹ  quan hậu cần cấp phân đội là những người trẻ tuổi, vốn sống kinh nghiệm   chưa nhiều, nhất là kinh nghiệm về  chính trị  xã hội, hậu cần quân sự  và  KNTGD và rèn luyện bản thân. Cho nên họ thường bộc lộ những hạn chế  như nhận thức nhanh nhưng dễ phiến diện, đánh giá thường cảm tính thiếu  sâu sắc, phân biệt đúng sai về  một số  vấn đề  trong cuộc sống, rèn luyện,  học tập còn hạn chế. Đặc biệt là trong những năm đầu, mục tiêu phân đấu   chưa rõ ràng cụ  thể, còn lý trí chưa biết bắt đầu từ  đâu…Do vậy cán bộ  lãnh đạo, quản lý và các lực lượng giáo dục cần quan tâm, hướng dẫn, tổ  chức hoạt động học tập, rèn luyện một cách cụ thể, nhất là bồi dưỡng KN,  kinh nghiệm TGD cho họ hướng vào thực hiện thắng lợi mục tiêu yêu cầu  đào tạo của Học viện. Hiện nay, khi bàn về KN có nhiều quan điểm. Tuỳ theo từng góc độ,  các nhà khoa học đưa ra khái niệm KN với nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Hà   Thế Ngữ đưa ra khái niệm KN với nghĩa coi KN là mặt kỹ  thuật của thao   tác hành động: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động ­ những cái  mà con người đã lĩnh hội từ  trước” [18,17].  Ở góc nhìn khác, Hà Thị  Đức   lại nhấn mạnh việc coi KN không đơn thuần là mặt kỹ  thuật của hành   động mà còn là biểu hiện năng lực của con người: “Kỹ năng là năng lực sử  dụng các tri thức và các kỹ  xảo của mình một cách sáng tạo trong hoạt   động thực tiễn” [27,13]...Nhìn chung, các khái niệm cơ  bản đã chỉ  ra đặc  trưng cốt lõi của KN, đó là khả năng thực hiện có kết quả một hành động  hay một loạt hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng đúng đắn,  sáng tạo kiến thức đã có để giải quyết một nhiệm vụ, thực hiện một công  việc tương  ứng theo những chuẩn mực xác định.Việc xem xét KN với tư  cách là năng lực hành động của cá nhân đặt ra yêu cầu là không chỉ  phân  9
  7. tích mặt kỹ thuật của hành động mà còn phải nghiên cứu các nhân tố khác  có liên quan đến việc triển khai hành động. Cho nên xem xét KN phải gắn  với một hoạt động cụ  thể, xem nó như  một đặc điểm của hành động. KN  trước hết biểu hiện mặt kỹ  thuật, mức độ  đúng đắn và thành thục của  hành động. KN không có mục đích riêng, mục đích của KN cũng là mục   đích của hành động. Trong KN, không chỉ là tri thức về  phương thức hành  động mà còn là tri thức về giá trị  của hành động, định hướng cho chủ  thể  luyện tập để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. Sự hình thành KN phụ  thuộc vào cơ  chế  hình thành hành động. Do vậy cần luyện tập thường  xuyên trong thực tiễn để chủ thể có thể nắm được quy luật của hành động   và có thể  triển khai nó  ở  các tình huống khác nhau. Xét về  mặt kết quả  hoàn thành, người được gọi là có KN vừa phải hoạt động có hiệu quả  trong các điều kiện quen thuộc vừa phải đạt kết quả  tương tự  trong các  điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Dấu hiệu đặc trưng của KN là khả  năng   thay đổi thao tác hành động trong các điều kiện thay đổi. Có thể  nói, tính  đúng đắn, sự  thành thạo, linh hoạt và mềm dẻo là một tiêu chuẩn quan  trọng để xác định sự hình thành và phát triển của KN. Từ những khái quát trên, dưới góc độ  tâm lý ­ giáo dục học tác giả  quan niệm: Kỹ năng tự giáo dục là khả năng vận dụng có kết quả những   tri thức về giá trị  và phươ ng thức hành động tự  giáo dục, đượ c chủ  thể   lĩnh hội để thực hiện những nhi ệm v ụ t ương  ứng đặt ra trong cuộc sống   và hoạt động của chủ thể. Trong quá trình đào tạo, học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân   đội, trình độ  đại học vừa phải tiếp thu những kiến thức khoa học cơ bản,   cơ  sở  và kiến thức chuyên ngành hậu cần quân sự  vừa phải hoạt động   phấn đấu rèn luyện để  trở thành người sỹ quan hậu cần, người đảng viên  Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiệm vụ  học tập, rèn luyện đặt ra yêu cầu  cao   không   chỉ   về   sự   kiên   trì,   bền   bỉ   mà   còn   đòi   hỏi   học   viên   phải   có  KNTGD, tự  rèn luyện để  có đủ  phẩm chất, năng lực đáp  ứng yêu cầu  nhiệm vụ. Để  có được những KNTGD, người học viên đào tạo sỹ  quan   hậu cần cấp phân đội một mặt phải tiếp thu sự định hướng, điều khiển, tổ  chức thực hiện nhiệm vụ của các lực lượng giáo dục, mặt khác có ý nghĩa  quyết định là phải tự xác định kế  hoạch, tự tổ chức thực hiện và kiểm tra  hoạt động TGD của mình nhằm đạt mục đích đặt ra. Do đó, ở cấp độ khái   quát, Kỹ năng tự giáo dục của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân   10
  8. đội là khả năng vận dụng những kiến thức và kinh nghiệm tự giáo dục để   triển khai thực hiện những nhiệm vụ TGD và rèn luyện của bản thân học   viên một cách chủ động sáng tạo và có hiệu quả.  KNTGD được hình thành trên nền tảng kiến thức và kinh nghiệm  TGD. Giáo dục là điều kiện của TGD. KNTGD đồng nghĩa với năng lực tự  nhận thức, tự  định hướng tổ  chức, tự  điểu khiển quá trình TGD và rèn  luyện của học viên. Muốn TGD có hiệu quả và chất lượng điều quan trọng  là học viên phải có khả  năng biến những kiến thức và kinh nghiệm đó  thành hoạt động TGD và rèn luyện phù hợp, sáng tạo. Vì vậy, ở cấp độ cụ  thể KNTGD được hiểu là một hệ thống những thao tác hành vi định hướng   tự  tổ chức và tự điều khiển các hoạt động TGD và rèn luyện của cá nhân   học viên.  Nói cách khác, KNTGD là hệ  thống các thao tác tự  tổ  chức, tự  điều khiển các hoạt động học tập và rèn luyện cụ thể của học viên.  Như  vậy, KNTGD của học viên bao gồm hai thành tố  là tri thức và  các thao tác cấu thành. Tri th ức v ề  ph ươ ng th ức th ực hi ện các thao tác,  hoạt  độ ng cấu thành KNTGD.Ví  như  việ c n ắm m ục  đích, bả n chất,  vai   trò   cách   th ức,   ph ươ ng   pháp   th ực   hi ện…Các   thao   tác   tươ ng   ứng  cùng v ới nh ững ph ươ ng th ức th ực hi ện thao tác. Đây là khả  năng triển   khai   ho ạt   độ ng   trong   th ực   ti ễn   trên   cơ   sở   vậ n   dụng   tri   th ức   kinh   nghiệ m đã thu đượ c. Gi ữa hai thành t ố  trên có mối quan hệ  ch ặt ch ẽ  với nhau, trong đó tri th ức v ề ph ươ ng th ức th ực hi ện các thao tác, hoạ t  độ ng là cơ  sở  ti ề n  đề   để  hình thành nên mộ t thao tác, phươ ng  thức  thực   hi ện.   Vốn   tri   th ức   càng   sâu   sắ c,   kinh   nghiệm   th ực   ti ễn   càng  phong  phú   thì   việ c  hình  thành  KNTGD  càng  diễ n  ra  nhanh  chóng  và   vững ch ắc. Ng ượ c l ại các thao tác hoạ t độ ng đượ c hình thành làm cho  trình độ  am hi ểu tri th ức, s ự  v ận d ụng các tri th ức kinh nghi ệm đã có   trong ho ạt độ ng càng thêm sâu sắc đầ y đủ . Sự  quan h ệ  ch ặt ch ẽ  này   tạo nên kế t qu ả c ủa hành độ ng. Xuất   phát   từ   logic   c ủa   quá   trình   giáo   dụ c,   từ   đặ c   điể m   đố i  tượ ng và môi tr ườ ng ho ạt độ ng đặ c thù. Trong quá trình đào tạ o tạ i   Họ c việ n, KNTGD c ủa h ọc viên đào tạ o sỹ  quan h ậu c ần c ấp phân độ i  đượ c xác đị nh bao gồm các nhóm KN cơ b ản sau: *  Nhóm   KN   đị nh   h ướ ng   m ục   đích   TGD.   KN   đị nh   h ướ ng   mục  đích TGD của học viên đào tạ o sỹ  quan h ậu c ần c ấp phân độ i bao gồ m   các thao tác:  T ự  nghiên cứu, quán tri ệt m ục tiêu yêu cầ u đào tạ o của   11
  9. Họ c việ n,  tự lựa chọn các chuẩn mực giá trị  phù hợp và tự  xác định mục  đích TGD, rèn luyện và phấn đấu của cá nhân… * Nhóm KN tự tổ chức hoạt động TGD  Trước hết, KN tự  tổ  chức hoạt động TGD của học viên đào tạo sỹ  quan hậu cần cấp phân đội bắt đầu từ  việc tự  thiết kế  và kế  hoạch hoá   hoạt động, trong đó chú trọng các thao tác: Tự  tìm hiểu nắm nội dung  chương trình hoạt động của đại đội, tiểu đoàn, tự  đề  ra những chỉ  tiêu cá  nhân phù hợp, tự xác định tiến độ thực hiện theo quỹ thời gian cho phép và  tự lập kế hoạch TGD và rèn luyện cá nhân. Thứ  hai, để  thực hiện KN tự  thi công thực hiện kế  hoạch đòi hỏi   học viên đào tạo sỹ  quan hậu cần cấp phân đội phải tự  thi công từng nội   dung hoạt động theo kế  hoạch  đã đề  ra; tự  lựa chọn và vận dụng các   phương pháp, hình thức TGD, rèn luyện một cách phù hợp và tự điều chỉnh  bổ sung nội dung kế hoạch theo những yêu cầu mới. Thứ ba, để rút kinh nghiệm trong hoạt động TGD đòi hỏi người học   viên phải có các KN kết thúc kế  hoạch,  ở  nhóm KN này người học viên  phải biết tự  đánh giá và rút kinh nghiệm thực hiện kế  hoạch và dự  kiến   nội dung chỉ tiêu cho kế hoạch TGD tiếp theo. * Nhóm KN chuyên biệt, tiến hành các hoạt động TGD rèn luyện, để  thực hiện nhóm KN này đòi hỏi học viên phải thực hiện các thao tác : Tự  quan sát thái độ hành vi của bản thân; Tự thuyết phục; Tự phê bình; Tự ám  thị…một cách thường xuyên trong suốt quá trình TGD. Trong quá trình đào tạo, các lực lượng giáo dục trong nhà trường cần   giúp học viên nhận thức rõ vai trò của các KNTGD kể trên, đồng thời có kế  hoạch tổ chức, rèn luyện để  hình thành các KN đó, vận dụng có hiệu quả  vào trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường. 1.1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành kỹ năng tự giáo   dục của học viên  Để  làm cơ  sở  cho công tác bồi dưỡng, cần chỉ  ra các yếu tố  đã và   đang tác động đến việc hình thành KNTGD của học viên. Sự hình thành và  phát triển KNTGD của học viên chịu tác động bởi các nhân tố sau: * Nhưng biên đôi trong đ ̃ ́ ̉ ơi sông kinh tê, chinh tri xa hôi c ̀ ́ ́ ́ ̣ ̃ ̣ ủa đât n ́ ước   và nhiệm vụ  của cách mạng, quân đội, ngành hầu cần tac đông đên công ́ ̣ ́   ́ ̀ ưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên  tac bôi d 12
  10. Đường lôi đôi m ́ ̉ ơi, phát tri ́ ển kinh tê thi tr ́ ̣ ương đinh h ̀ ̣ ướng XHCN ở  nước ta trong nhưng năm qua đa thu đ ̃ ̃ ược nhưng kêt qua đáng khich lê: ̃ ́ ̉ ́ ̣  ́ ́ ển, chinh tri ôn đinh, quôc phong an ninh đ Kinh tê phat tri ́ ̣ ̉ ̣ ́ ̀ ược giữ vững, đời   sông nhân dân  không ng ́ ừng được nâng lên, nhất là đời sống của cán bộ  chiến sỹ trong quân đội được quan tâm và có nhiều cải thiện. Nhưng thuân ̃ ̣   lợi đo đã tac đông đên nhân th ́ ́ ̣ ́ ̣ ức, tư tưởng va tinh cam cua can bô, giao viên, ̀ ̀ ̉ ̉ ́ ̣ ́   ̣ hoc viên HVHC. Tuy nhiên, tình hinh đo cung đoi hoi môi ng ̀ ̀ ́ ̃ ̀ ̉ ̃ ười học viên,  ̣ ̉ cán bô, giáo viên phai không ng ưng phân đâu v ̀ ́ ́ ươn lên đê t ̉ ự  khăng đinh ̉ ̣   minh, phai co kh ̀ ̉ ́ ả  năng tự  học, tự  tu dương ren luyên phân đâu v ̃ ̀ ̣ ́ ́ ươn lên   ́ ưng t đap  ́ ốt yêu câu đoi hoi cua th ̀ ̀ ̉ ̉ ực tiên giáo d ̃ ục đào tạo đăt ra; đ ̣ ồng thời  ̉ ́ ̣ ̉ ̣ không đê các tac đông cua măt trai kinh tê thi tŕ ́ ̣ ương, cac tê nan xã hôi, s ̀ ́ ̣ ̣ ̣ ự   ̃ ̉ cam dô cua ma l ́ ực đồng tiền và lôi sông h ́ ́ ưởng thu, d ̣ ẫn đên suy thoai vê ́ ́ ̀  ̉ phâm chât đao đ ́ ̣ ức lôi sông. Đây la yêu tô tr ́ ́ ̀ ́ ́ ực tiêp tác đông lam han chê ́ ̣ ̀ ̣ ́  ́ ̀ ưỡng KNTGD cho học viên trong điêu kiên hiên nay  công tac bôi d ̀ ̣ ̣ Yêu cầu, nhiệm vụ  bảo vệ  Tổ  quốc và xây dựng quân đội, ngành  hậu cần, mô hình nhân cách cán bộ hậu cần trong giai đoạn hiện nay đặt ra  ngày càng cao, bên cạnh đó “nhiệm vụ giáo dục đào tạo của Học viện Hậu   cần tiếp tục phát triển cả  về quy mô, hình thức, đối tượng. Tổ chức, biên  chế  của Học viện có sự  phát triển”[12,1]. Tình hình đó đòi hỏi việc bồi  dưỡng KNTGD cho học viên cần phải được quan tâm hơn nữa, tích cực  góp phần vào xây dựng đơn vị  vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi  nhiệm vụ được giao, nhất là đào tạo đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội vừa   hồng, vừa chuyên. * Trình độ tự ý thức và hoạt động thực tiễn tích cực của học viên  Đây là yếu tố  có vai trò quyết định hàng đầu vì xét đến cùng chất  lượng TGD của học viên phụ  thuộc vào trực tiếp vào những nỗ  lực cố  gắng của chính họ. Tự ý thức chính là cái cốt lõi của TGD, nó vừa là công  cụ  vừa là điều kiện để  học viên đánh giá đúng chỗ  mạnh, chỗ  yếu của   mình so với yêu cầu nhiệm vụ, từ đó biết phát huy nội lực, tự tổ chức, tự  quản lý làm chủ  được bản thân mình trong mọi hoạt  động. Hình thành  KNTGD cho học viên đòi hỏi người học trước hết phải có động cơ  TGD  đúng đắn, trên cơ sở tự ý thức nhu cầu khách quan của xã hội, quân đội với   mô hình người sỹ quan, người cán bộ  Hậu cần, sự cần thiết phải trau dồi   các phẩm chất, năng lực, sự  thành thạo nghiệp vụ hậu cần quân sự  để  từ  đó đề ra những yêu cầu vươn lên cho bản thân mình 13
  11. TGD cũng đòi hỏi học viên phải thể hiện sự  nỗ lực, ý chí cao trong  quá trình học tập, rèn luyện. Đó là sự nỗ lực bên trong của học viên nhằm  khắc phục mọi khó khăn thử  thách để  thực hiện bằng được những mục  tiêu học tập rèn luyện đã xác định. TGD là cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt   để giải quyết những mâu thuẫn nội tại của bản thân người học. Đó là cuộc  đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa những thói quen và hành vi lạc hậu   với những thói quen hành vi tiến bộ, phù hợp với những giá trị chuẩn mực  mới.  Hình thành KNTGD cho học viên còn phụ thuộc trực tiếp vào sự  tích  cực tham gia vào hoạt động thực tiễn của học viên. Tâm lý học chỉ rõ nhân   cách chỉ được hình thành và phát triển thông qua hoạt động. Luận điểm này  xuất phát từ  chỗ, coi bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ  xã  hội. Các mối quan hệ đó lại được thực hiện và duy trì bởi hàng loạt các hoạt  động đa dạng, phong phú của con người. Theo A.N.Leonchiev “Nền tảng   của nhân cách là những quan hệ  phối thuộc giữa các hoạt động của con  người  mà vốn do tiến trình phát triển của những hoạt  động  ấy tạo ra”   [9,89]. Hoạt động làm cho con người nhận thức được hiện thực khách quan,  kích thích hứng thú, niềm say mê, sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu  mới, thuộc tính tâm lý mới, nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển   thông qua sự điều chỉnh các quan hệ xã hội, học viên tự giác điều chỉnh thói   quan và hành vi của mình theo các chuẩn mực đó. Đồng thời hoạt động là   nguồn cung cấp cho học viên hệ  thống những kinh nghiệm và  ứng xử  xã  hội. Hoạt động TGD rất đa dạng và phong phú đó không chỉ  là những bài  giảng ở trên lớp, những hoạt động chính khoá trong giờ hành chính mà phải  được mở rộng hơn trong các hình thức hoạt động ngoại khoá ngoài giờ hành  chính, trong giao lưu và giao tiếp. Kinh nghiệm cho thấy chỉ khi nào TTC tự  giác tham gia vào các hoạt động của học viên được phát huy thì hoạt động  TGD của học viên mới đạt hiệu quả. * Hoạt động sư phạm của giáo viên và cán bộ quản lý Trong nhà trường quân sự giáo viên và cán bộ quản lý vừa là cán bộ  chỉ huy vừa là chủ thể của các hoạt động sư phạm, chịu trách nhiệm chính  trong việc tổ chức thực hiện quá trình đào tạo học viên trở thành những sỹ  quan, những người cán bộ  hậu cần trong tương lai. Hoạt động TGD của   học viên gắn liền với các hoạt động sư phạm của giáo viên và cán bộ quản   lý. Họ  là những người chịu trách nhiệm chính trong việc định hướng quá  14
  12. trình TGD của học viên. Với tư  cách là cấp trên thường xuyên nắm bắt  những yêu cầu giáo dục, thường xuyên tiếp xúc với học viên, giáo viên và  cán bộ  quản lý là những người trực tiếp tham gia vào xây dựng động cơ,  mục đích TGD và rèn luyện trau dồi lý tưởng phấn đấu cho học viên. Giáo viên và cán bộ quản lý là những người trực tiếp tổ chức và điều  khiển hoạt động TGD của học viên. Thông qua các chức năng như thiết kế  và kế hoạch hoá các hoạt động sư phạm, tổ chức và thi công thực hiện kế  hoạch, đánh giá và rút kinh nghiệm thực hiện kế  hoạch, thông qua thực  hiện chức năng này họ chủ động tạo ra những điều kiện thuận lợi cho học  viên thực hiện các chức năng tự thiết kế và kế hoạch hoá, tự tổ chức và thi  công, tự đánh giá rút kinh nghiệm thực hiện kế hoạch của cá nhân. Giáo viên và cán bộ quản lý còn là tấm gương sáng cho học viên về  nhân cách TGD nghiêm túc và khoa học. Là những người trực tiếp quản lý  học viên cả trước và sau khi lên lớp, nhân cách của giáo viên và đội ngũ cán   bộ  có  ảnh hưởng mạnh mẽ  đến nhân cách người học. Trong công tác họ  phải là những người có trách nhiệm cao, nhiệt tình với công việc, phương   pháp làm việc phải khoa học, thường xuyên tự  học tập, tự  rèn luyện để  đáp ứng tốt hơn yêu cầu của chức trách nhiệm vụ. Trong sinh hoạt họ phải  là những người thực sự gương mẫu về đạo đức lối sống với học viên.  * Vai trò của tập thể lớp học đối với sự  hình thành kỹ  năng tự  giáo   dục của học viên   Trong nhà trường quân sự mọi hoạt động của học viên đều được tổ  chức, quản lý duy trì chặt chẽ  theo điều lệnh, điều lệ. Các tập thể  quân  nhân dựa trên sự  đồng điệu về  lứa tuổi, mục đích hoạt động học tập, rèn  luyện. Tập thể học viên không chỉ mang lại sức mạnh đoàn kết thống nhất  mà còn tạo ra những ảnh hưởng giáo dục to lớn. Học viên đào tạo sỹ quan  hậu cần cấp phân đội  ở  các tiểu đoàn được biên chế  thành các đại đội,  trong từng đại đội lại được biên chế thành các lớp theo từng chuyên ngành  đào tạo. Mục đích chung của tập thể học viên ở  các tiểu đoàn là học tập,  rèn luyện để  trở  thành những người sỹ  quan, cán bộ  hậu cần trong quân   đội, người đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là mục tiêu về  chức  danh chỉ huy, lãnh đạo và về học vấn. Mục tiêu này chi phối mạnh mẽ đến  cách thức tổ chức và quản lý của tập thể học viên .  Sự  hình thành KNTGD của học viên còn chịu tác động không nhỏ  của dư luận tập thể, nó thể  hiện ở  sự khen chê của tập thể đối với mỗi  15
  13. thành viên. Dư  luận có thể  là đúng hay sai, tích cực hoặc tiêu cực. Dư  luận đúng và tích cực góp phần củng cố  khích lệ  sự  vươn lên của từng  thành viên. Ngược lại, dư  luận sai ho ặc tiêu cực thường làm cho thành  viên của tập thể bị  cô lập, tìm cách thu mình trong vỏ  bọc nào đó, từ  đó   làm thủ  tiêu TTC TGD của học viên. Vì vây, trong quá trình giáo dục,   chủ  thể  giáo dục cần khuyến khích, tạo điều kiện cho những dư  luận   tập thể  tích cực, khắc phục những d ư  lu ận tiêu cực, tạo điều kiện cho  học viên vươn lên. Đây cũng chính là sự  phản ánh của nguyên tắc giáo  dục “Kết hợp giữa yêu cầu cao với tôn trọng nhân cách người học”. Vai trò của tập thể  còn được thể  hiện  ở  mối quan hệ  qua lại trong   tập thể. Trong một tập thể nếu mối quan hệ qua lại (cán bộ­học viên; học   viên ­ học viên) trở nên lành mạnh mọi người thương yêu nhau, đòi hỏi cao  ở  nhau, tình đồng chí đồng độ  gắn bó, đặc biệt là sự  thừa nhận lẫn nhau  giữa các học viên thì từng thành viên sẽ cảm thấy mình có chỗ dựa về tinh  thần đáng tin cậy, tạo cơ  sở  cho học viên yên tâm học tập, rèn luyện tại   trường. * Môi trường Văn hoá sư  phạm với sự  hình thành kỹ  năng tự  giáo   dục của học viên  Con người sống và hoạt động luôn gắn với một môi trường nhất   định. Trong mối quan hệ  với môi trường sống, con người vừa là chủ  thể,   đồng thời là sản phẩm của môi trường sống, Mác khẳng định: “hoàn cảnh  tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”[1,35].  Có thể  hiểu MTVHSP là toàn bộ  những điều kiện tự  nhiên, xã hội được   các lực lượng giáo dục xây dựng một cách khoa học và sử  dụng nó như  một nhân tố  quan trọng góp phần tích cực vào phát triển nhân cách người  cán bộ hậu cần, có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành KNTGD của học   viên.  MTVHSP  ở  các tiểu đoàn quản lý học viên gắn bó mật thiết với  MTVHSP của HVHC và chịu sự  tác động trực tiếp của môi trường chính  trị, xã hội rộng lớn của đất nước. Những tác động tích cực từ  môi trường   đến học viên là những thành tựu cả  về  kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội   của hơn 20 năm đổi mới, vị  thế  vai trò của quân đội và nghề  nghiệp hậu   cần ngày càng tăng lên, truyền thống TGD, rèn luyện và NCKH ở  các tiểu  đoàn; điều kiện ăn ở, sinh hoạt học tập của học viên ngày càng được nâng  lên. Tuy nhiên học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội cũng chịu tác  16
  14. không nhỏ  của môi trường sư  phạm xung quanh. Đó là mặt trái của nền   kinh tế thị trường đang từng ngày, từng giờ xâm nhập vào mọi mặt của đời  sống, hoạt động của người học viên như  lối sống thực dụng, ích kỷ, chủ  nghĩa cá nhân….Điều đó cũng ảnh hưởng lớn đến niềm tin, nhu cầu, động  cơ TGD của học viên. Tóm lại, việc hình thành KNTGD của học viên đào tạo sỹ  quan hậu  cần cấp phân đội chịu sự   ảnh hưởng và chi phối của nhiều nhân tố  khác   nhau. Các nhân tố  này giữ  vị  trí, vai trò không ngang bằng nhau, song có   quan hệ chặt chẽ tác động qua lại và phụ thuộc vào nhau. 1.1.3. Bồi dưỡng kỹ  năng tự  giáo dục cho học viên đào tạo   sỹ   quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần   * Quan niệm về  bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ  quan   hậu cần cấp phân đội trình độ đại học Theo từ điển tiếng việt, bồi dưỡng được hiểu là quá trình “làm cho  tăng thêm năng lực và phẩm chất” [30,79]. Nh ư  v ậy, hi ểu b ồi d ưỡng   chính là quá trình hoạt động của chủ  thể  tác động vào đối tượng nhằm   làm cho phẩm chất, năng lực, thái độ  trách nhiệm của đối tượng đượ c  tăng lên và đạt trình độ cao hơn. Từ cách hiểu trên tác giả quan niệm: Bồi dưỡng KNTGD cho học viên  đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trình độ đại học là quá trình có mục   đích, có hệ thống, có kế hoạch của các lực lượng nhằm bổ sung, cập nhật   kiến thức và rèn luyện kỹ  năng còn thiếu và mới để  tăng cường năng lực,   phẩm chất nghề  nghiệp hậu cần quân sự, góp phần nâng cao chất lượng   hiệu quả  tự  giáo dục, rèn luyện thực hiện thắng lợi mục tiêu yêu cầu đào   tạo của Học viện. Quan niệm trên chỉ rõ thực chất của công tác bồi dưỡng KNTGD cho học  viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội là tìm ra các giải pháp tối ưu để biến   quá trình giáo dục thành quá trình TGD.  Mục đích bồi dưỡng KNTGD  là nhằm làm cho học viên ngày càng  hoàn thiện hơn về  tri thức và KN của mình trong học tập, rèn luyện, khắc  phục những hạn chế  thiếu sót của bản thân về  kiến thức, KN và thái độ  trong quá trình giáo dục đào tạo tại Học viện. Việc bồi dưỡng KNTGD cho   học viên không chỉ dừng lại ở các thói quen, hành vi cụ thể mà còn tạo cho   học viên có KN tự  nhận thức đúng đắn về  bản thân mình, có những hiểu  biết cần thiết để tự mình xác định giá trị, biến những điều kiện chủ quan và  17
  15. khách quan của quá trình giáo dục thành phương tiện để  TGD và rèn luyện   đạt kết quả cao. Chủ thể tiến hành công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ  quan hậu cần cấp phân đội là các tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, các cơ quan,   khoa giáo viên và các tổ chức quần chúng. Trong đó đội ngũ giáo viên và cán bộ  quản lý, chỉ huy là chủ thể của các hoạt động sư phạm, đóng vai trò quyết định  đến chất lượng bồi dưỡng KNTGD. Các tập thể quân sự như tiểu đoàn, đại đội,  lớp học... có vai trò quan trọng, tạo ra những  ảnh hưởng giáo dục to lớn, trực   tiếp giáo dục, rèn luyện và tổ chức các hoạt động cho học viên ... Đối tượng bồi dưỡng KNTGD là học viên và tập thể học viên trong suốt   quá trình đào tạo, tập trung đối với học viên những năm đầu, những học viên có  kết quả học tập, rèn luyện còn hạn chế. Chú trọng bồi dưỡng cả đầu yếu và  đầu khá. Việc phân định đối tượng bồi dưỡng được xem xét cụ thể trong mối   quan hệ tác động giữa chủ thể bồi dưỡng và đối tượng bồi dưỡng. Bởi vì, học  viên vừa là đối tượng bồi dưỡng, đồng thời là chủ  thể  của quá trình tự  bồi  dưỡng. Trong quá trình bồi dưỡng KNTGD cho học viên, đòi hỏi các chủ  thể  tiến hành công tác bồi dưỡng không chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực và  trách nhiệm cao, mà còn phải có nhiều biện pháp, hình thức phát huy được TTC,  tự tu dưỡng của học viên trong quá trình bồi dưỡng.  Nội dung bồi dưỡng KNTGD. KNTGD là một trong những KN cơ bản và  cần thiết của người học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trong quá  trình học tập và rèn luyện tại trường. Đây vừa là mục tiêu, vừa là sản phẩm của   quá trình đào tạo, kết quả sự nỗ lực, phấn đấu tự tu dưỡng, rèn luyện của bản  thân mỗi học viên. Vì vậy nội dung bồi dưỡng KNTGD cho học viên phải toàn  diện, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đào tạo,  phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của học viên, thực sự là công cụ  giúp học viên nâng cao chất lượng học, rèn ở tại trường cũng như  công tác sau   này. Bồi dưỡng KNTGD cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:  Một là, bồi dưỡng nâng cao trình độ tự ý thức và ý chí cho học viên, xây  dựng động cơ TGD và rèn luyện đúng đắn cho học viên. Đây là yếu tố trước tiên   tạo nhu cầu TGD cho học viên. Trên cơ sở học viên tự nhận thức được điểm   mạnh và hạn chế của bản thân so với mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường   mà phát huy nội lực của bản thân, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực  rèn luyện và có ý thức lập kế hoạch tự tu dưỡng, tự rèn luyện cho bản thân  hoàn thành nhiệm vụ được giao 18
  16. Hai là, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của TGD, làm cho  mỗi  học viên nhận thấy sự cần thiết phải tiến hành TGD Ba là, bồi dưỡng KN lập và thực hiện kế hoạch TGD, rèn luyện. Thông  qua lịch huấn luyện, công tác và yêu cầu tiến độ cần đạt được và về phẩm chất,  kiến thức và năng lực tổ chức thực hiện Bốn là, bồi dưỡng các nhóm KNTGD cơ bản: KN nhận thức, KN tự xác   định giá trị, KN sống, KN học tập, KN giao tiếp, thực hành chức trách.... Trong  mỗi nhóm KN lại có các KN cụ thể Năm là, bồi dưỡng kinh nghiệm TGD, tự  bồi dưỡng; KN tự kiểm tra,   đánh giá và bổ sung nội dung TGD Hình thức, phương pháp bồi dưỡng KNTGD cho học viên  Với đặc điểm học viên đào tạo sỹ  quan hậu cần cấp phân đội trình  độ đại học ở HVHC hầu hết còn trẻ, trình độ  nhận thức, tự nhận thức, tự  ý chí của học viên ở mỗi đại đội, lớp, mỗi khoá học có sự chênh lệch nhất   định, đòi hỏi hình thức, phương pháp bồi dưỡng phải phong phú, đa dạng,   linh hoạt, sát đối tượng, sát với đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh  đó, cần phải có sự phối hợp thống nhất chặt chẽ giữa các tổ chức, các lực   lượng tham gia bồi dưỡng.   * Tiêu chí đánh giá hoạt động bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục  Chất lượng, hiệu quả  bồi dưỡng KNTGD cho học viên là tổng hoà   các yếu tố, các hoạt động cấu thành toàn bộ  quá trình bồi dưỡng KNTGD   cho học viên. Nó được biểu hiện tập trung ở chất lượng sản phẩm của quá  trình đào tạo, đó là sự  trưởng thành về nhân cách của học viên cả  về kiến   thức, KN, thái độ sau quá trình bồi dưỡng, đáp ứng được mục tiêu yêu cầu  đào tạo đặt ra Để  đánh giá hoạt động bồi dưỡng KNTGD cho học viên phải dựa   trên những tiêu chí nhất đinh. Đề tài xác định 2 nhóm tiêu chí cơ bản sau: Thứ   nhất,  nhóm  tiêu   chí   đối   với   chủ   thể   tiến   hành   bồi   dưỡng  KNTGD  ­ Có trình độ, phẩm chất, năng lực: Nắm chắc mục tiêu yêu cầu đào   tạo, các chỉ  thị  Nghị  quyết của cấp trên, biết kết hợp nhuần nhuyễn, vận   dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức bồi dưỡng cụ  thể  để  đem lại   kết quả như mong muốn 19
  17. ­ Xác định mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng phải: Cụ  thể, rõ ràng, phù  hợp với từng đối tượng, hình thành được các KNTGD cho học viên  ­ Xác định nội dung bồi dưỡng phải toàn diện, có trọng tâm, trọng  điểm; Phương thức, hình thức bồi dưỡng khoa học, hợp lý, bám sát vào đặc  điểm của đối tượng ­ Có ý thức trách nhiệm cao trong quán triệt thực hiện mục tiêu, yêu  cầu, nhiệm vụ bồi dưỡng KNTGD Thứ  hai, nhóm tiêu chí đối với đối tượng của hoạt động bồi dưỡng  KNTGD ­ Chuyển biến về nhận thức và tư tưởng của học viên khi được bồi   dưỡng: Có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về hoạt động TGD và KNTGD; có  nhu cầu và niềm tin vào khả năng TGD.  ­ Chuyển biến trên hành vi, thói quen: Tích cực, chủ  động, sáng tạo  trong TGD và rèn luyện; thực hiện tốt các yêu cầu về TGD;  vận dụng thành  thục các KN thực hiện các nhiệm vụ TGD và rèn luyện cụ thể ­ KNTGD đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện, được   biểu hiện bằng các kết quả thực tế đạt được 1.2. Thực trạng bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào   tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học  ở Học viện Hậu cần hiện  nay  1.2.1 Thực trạng * Những ưu điểm ­ Đối với chủ thể bồi dưỡng KNTGD cho học viên  Thứ nhất, công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên đã được cấp uỷ,  chỉ huy các đơn vị và đội ngũ giáo viên thường xuyên quan tâm lãnh đạo,  chỉ đạo thống nhất cả về nhận thức và tổ chức thực hiện.   Qua học tập nghiên cứu quán triệt các chỉ  thị, nghị  quyết của trên về  công tác giáo dục đào tạo, nhất là Nghị  quyết 86 của Đảng uỷ  Quân sự  Trung  ương về   giáo dục đào tạo trong tình hình mới; phương châm giáo  dục đào tạo của Học viện; các công cuộc vận động: “nói không với tiêu   cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “học tập và làm theo   tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh” …Về  cơ  bản đội ngũ cán bộ  quản lý,  các cơ  quan, khoa giáo viên đều có nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan  trọng của công tác giáo dục, rèn luyện về mọi mặt đối với học viên, trong   đó có quan tâm đến việc bồi dưỡng KNTGD cho học viên, nhằm biến quá  20
  18. trình giáo dục của nhà trường thành quá trình TGD của học viên, trong   những năm qua cấp uỷ và chỉ huy các đơn vị quản lý học viên luôn đề  cao  vai trò trách nhiệm trong lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện, luôn coi đó  là một trong những nội dung quan trong trong công tác quản lý rèn luyện   toàn diện học viên, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị  trung tâm của đơn vị. Trong tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ  quản lý và  giáo viên các khoa cũng đã có nhiều biện pháp cụ  thể  như: Xác định mục   tiêu;   xây   dựng   nội   dung   chương   trình   kế   hoạch   giáo   dục,   bồi   dưỡng   KNTGD. Nội dung, hình thức phương pháp bồi dưỡng cũng từng bước  được đổi mới. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý đã tập trung làm tốt công tác  giáo dục chính trị tư tưởng xây dựng động cơ  học tập rèn luyện đúng đắn  cho học viên ngay từ đầu khoá, đầu năm học và trong từng học kỳ, đã kết   hợp chặt chẽ  giữa học và rèn, chú ý rèn luyện về  bản lĩnh phương pháp,  tác phong cho học viên thông qua các hoạt động khác nhau. Đối với đội ngũ  giáo viên các khoa cũng đã tăng cường  ứng dụng công nghệ  thông tin, đổi  mới mạnh mẽ  phương pháp dạy học, kết hợp dạy chữ, dạy nghề  và dạy   người, khơi dậy ở học viên niềm đam mê, tìm tòi, sáng tạo trong học tập.      Thứ hai, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đã thường xuyên có sự  đổi mới về  nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng KNTGD, chính vì   vậy chất lượng giáo dục, rèn luyện toàn diện cho học viên ngày càng được   nâng lên    Đội ngũ giáo viên và cán bộ  quản lý đã có những biện pháp phù hợp  để  bồi dưỡng KNTGD cho học viên như: thông qua mở  các lớp tập huấn  bồi   dưỡng   các  KN do  cơ  quan  chính  trị, phòng  đào  tạo  quy  định  trong   chương trình học tập ngoại khoá, bồi dưỡng thông qua sinh hoạt các tổ  chức trong đơn vị  (sinh hoạt Đảng, lớp, đại đội, chi đoàn..); bồi dưỡng  thông qua hoạt động rèn luyện ngoại khoá  ở  đơn vị; tổ  chức các lớp bồi   dưỡng nâng cao kiến thức và KN hoạt động cho học viên, tổ chức các buổi   văn hoá, văn nghệ, toạ  đàm, tổ  chức các buổi thi tìm hiểu kiến thức, đẩy  mạnh hoạt động của tổ phương pháp...Các KN mà đội ngũ cán bộ chú ý rèn  luyện cho học viên như: KN tự  nhận thức, KN xác định giá trị, KN giao   tiếp, KN lập và thực hiện kế hoạch, KN sống… Đối với khoa giáo viên đã  tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đề  cao TTC của học  viên, dạy cho học viên là dạy cách tự học và dạy cách sáng tạo vì vậy trong  mỗi bài giảng đã tăng tính hướng dẫn, định hướng cho học viên, kết hợp  21
  19. giữa trang bị  kiến thức với việc bồi dưỡng KN phương pháp học tập cho  học viên, các KN mà đội ngũ giáo viên thường xuyên quan tâm rèn luyện   cho học viên là KN làm việc với tài liệu học tập, KN nhận thức, KN định   hướng, KN xác định giá trị; KN kiểm tra đánh giá KN làm bài thi, kiểm  tra…Chính vì vậy KNTGD của học viên trong những năm qua ngày một  nâng lên. Kết quả  khảo sát đánh giá công tác bồi dưỡng KNTGD cho học  viên cho thấy 76% số  người được hỏi trả  lời đội ngũ cán bộ  quản lý và  giáo viên đã quan tâm và tổ  chức công tác bồi dưỡng KNTGD một cách  thường xuyên và đem lại những kết quả  tích cực; 73 % học viên được  hỏi  đánh giá về mức độ, tính hiệu quả, nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng   KNTGD là phù hợp ở tất cả các khoá học (Bảng 5­ phụ lục 3). Qua khảo sát  những phương thức rèn luyện KNTGD cho học viên mà giáo viên thường   sử dụng  ở trên lớp, học viên đánh giá ở thường xuyên các phương thức đó  là: chú ý xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học viên (76%); cho câu  hỏi ôn tập, nhấn mạnh lý thuyết và bài tập cơ bản (70 %); hướng dẫn học   viên cách đọc tài liệu (56%) (bảng 4a­ phụ lục 3) Đối với đội ngũ cán bộ  quản lý, qua khảo sát về các phương thức rèn luyện KNTGD cho học viên  tại đơn vị, những phương thức mà đội ngũ cán bộ quản lý sử dụng tại đơn  vị được học viên đánh giá ở mức độ và thường xuyên đó là: chú ý tới công  tác giáo dục chính trị tư tưởng (98,5 %); giáo dục và rèn luyện KN sống cho   học viên thông qua các hoạt động (86 %); tổ  chức các hoạt động giao lưu  văn hoá văn nghệ cho học viên (96 %).. số người được hỏi (Bảng 4b­ phụ  lục 3).Trong công tác tổ  chức, quản lý chỉ  huy điều hành đơn vị, qua trao  đổi, các cán bộ  quản lý đều cho rằng, một số  biện pháp sau đây đã được   thực hiện ở mức độ thường xuyên: quán triệt mục tiêu yêu cầu đào tạo, tổ  chức cho học viên học tập các chỉ thị nghị quyết của cấp trên; xây dựng và  phổ  biến kế  hoạch cho học viên; duy trì nghiêm túc các chế  độ  nền nếp  theo quy định; kiểm tra đôn đốc học viên trong TGD và rèn luyện. Ngoài ra,  họ  cũng thừa nhận các biện pháp khác ít được quan tâm thường xuyên đó   là: bồi dưỡng cho học viên các KNTGD cụ thể, tổ chức hoạt động tự quản  của tập thể học viên; định hướng giá trị xã hội cho học viên…   Thứ  ba, đã phát huy được vai trò của các cơ  quan, khoa giáo viên, đội   ngũ cán bộ  quản lý các cấp trong giáo dục, bồi dưỡng KNTGD cho học  viên.  22
  20. Kết quả  bồi dưỡng KNTGD cho học viên là tổng hợp kết quả  các  hoạt động thiết thực, cụ thể của các lực lượng có liên quan trong toàn Học   viện. Nhận thức được vai trò quan trọng đó, trong những năm qua cấp uỷ  chỉ huy các đơn vị quản lý học viên và đội ngũ giáo viên các khoa luôn phát   huy vai trò là chủ thể bồi dưỡng các KNTGD cho học viên; các lực lượng   khác có liên quan như  phòng, ban, các tổ  chức đoàn thanh niên, hội đồng   quân nhân cũng đã tích cực tham gia công tác bồi dưỡng theo vị  trí, chức   năng của mình. Các cơ quan, trước hết là cơ quan chính trị với chức năng là cơ quan  tham mưu cho Đảng uỷ, chỉ huy Học viện về công tác bồi dưỡng, quản lý,  rèn luyện toàn diện đối với học viên đã thực sự  quan chỉ  đạo sâu sát công  tác giáo dục rèn luyện học viên  ở  các đơn vị  quản lý học viên, được thể  hiện thông qua các hướng dẫn, quy định, và trực tiếp chỉ đạo công tác giáo   dục chính trị  tư  tưởng, giáo dục đạo đức, giáo dục kỷ  luật…về  nội dung  cũng như  phương pháp tiến hành, nhờ  đó mà đội ngũ cán bộ  quản lý học   viên có nhiều thuận lợi để  tiến hành công tác bồi dưỡng KNTGD cho học   viên.  Đội ngũ cán bộ  quản lý học viên nhất là cán bộ  đại đội, tiểu đoàn  vừa là người chỉ huy vừa là người thầy thứ hai giữ vai trò quan trọng trong  bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Họ  đã phát huy vai trò trách nhiệm của  mình trong tổ chức, định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn cho học   viên. Đồng thời duy trì chặt chặt chẽ  các chế  độ  theo quy định, quản lý  giáo dục toàn diện học viên. Người chỉ  huy trưởng, chính trị  viên các cấp   đã thực sự  tiêu biểu về  phẩm chất, năng lực và tấm gương sáng về  mọi   mặt cho học viên noi theo, góp phần quan trọng vào việc định hướng nhận   thức, thái độ, động cơ  TGD và rèn luyện; kết hợp chặt chẽ giữa việc xây   dựng bản lĩnh phương pháp, tác phong công tác với phẩm chất đạo đức lối   sống cho học viên. Các khoa giáo viên có vai trò rất quan trọng trong truyền thụ  kiến  thức khoa học, định hướng chính trị, xây dựng động cơ thái độ, trách nhiệm  trong TGD và rèn luyện, trong quá trình dạy học đã chú ý kết hợp giữa   truyền thụ  kiến thức với xây dựng phương pháp và rèn luyện KN tự  học  cho học viên. Thông qua đó học viên có nhiều thuận lợi trong nắm vững  nội dung, chiếm lĩnh được phương pháp và KN học tập, kết quả  và chất   lượng học tập ngày càng được nâng lên. Đội ngũ giáo viên giảng dạy các   23
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1