intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Cơ hội và thách thức của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam trước ngưỡng cửa Việt Nam gia nhập WTO

Chia sẻ: Mưa Sao Băng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:40

151
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hội nhập kinh tế quốc tế mà đỉnh cao là gia nhập WTO, đang trở thành yêu cầu bức xúc, tất yếu đối với mỗi quốc gia và Việt Nam không nằm ngoài vòng hội nhập đó. Trước thực tế của xu thế toàn cầu hoá, mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung đề tài "Cơ hội và thách thức của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam trước ngưỡng cửa Việt Nam gia nhập WTO". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Cơ hội và thách thức của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam trước ngưỡng cửa Việt Nam gia nhập WTO

  1. PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU Hội nhập kinh tế  quốc tế  mà đỉnh cao là gia nhập WTO, đang trở  thành   yêu cầu bức xúc, tất yếu đối với mỗi quốc gia và VN không nằm ngoài “vòng  hội nhập” đó. Trước thực tế của xu thế toàn cầu hoá, mỗi quốc gia nói chung   và VN nói riêng, chỉ có cách lựa chọn duy nhất là “lối đi, bước đi” lộ trình sao   cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình. Có thể nói mọi lĩnh vực hội nhập đều rất phức tạp nhưng hội nhập trong   lĩnh vực tài chính nói chung, hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng có  những nét đặc thù, có độ  phức tạp, nhạy cảm cao nhất bởi vì ngân hàng là  “trung tâm của thị  trường tài chính”, “nơi điều tiết sự  chu chuyển của các   dòng vốn”, là “bà đỡ  của các doanh nghiệp, là “tấm gương phản chiếu sức   sống của nền kinh tế”. Như  vậy hội nhập kinh tế  quốc tế  không còn là vấn đề  mới đối với hệ  thống ngân hàng thương mại Việt Nam(NHTM).Quá trình hội nhập của VN  gia   nhập   WTO   đang   tạo   ra   những   cơ   hội   và   thách   thức   rất   lớn   đối   với  NHTMVN. Với mục đích làm rõ những cơ hội và thách thức của NHTM trong  quá trình hội nhập để  từ  đó có cơ  sở  xây dựng định hướng hoạt động em   nghiên cứu đề tài “Cơ hội và thách thức của các NHTMVN trước ngưỡng  cửa VN gia nhập WTO”. Kết cấu đê tài của em bao gồm: Phần I: Lời nói đầu Phần II: Nội dung I. Cơ sở lý luận II. Cơ sở thực tiễn III.Giải pháp Phần III: Kết luận Trong quá trình thực hiện đề tài em đã được sự chỉ  bảo tận tình của  giáo   viên hướng dẫn Th.s Nguyễn Thu Thuỷ.Tuy nhiên do thời gian hạn chế  nên  đề  tài của em mới chỉ  ra được một phần nào đó những cơ  hội và thách thức  trong hoạt động của hệ thống NHTM trước khi VN gia nhập WTO.  1
  2. 2
  3. PHẦN II: NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận 1. WTO và quá trình VN gia nhập WTO  Những   vấn   đề   cơ   bản   về   tổ   chức   thương   mại   thế   giới(WTO). WTO  là một   định chế  thương  mại toàn cầu, bao  gồm một hệ  thống các   nguyên tắc và quy định điều chỉnh các hoạt động của hơn 90% thương mại   thế giới và hiện nay WTO đã có 150 thành viên. WTO hoạt động dựa trên bốn  chức năng chính sau: Thúc đẩy tự do hoá thương mại Hỗ trợ và giám sát việc thực hiện các hiệp định WTO Giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên Có quyền can thiệp, rà soát chính sách thương mại của các nước thành  viên. Về  cơ bản để  gia nhập WTO các nước cần phải cam kết trong các lĩnh   vực chủ yếu sau:  Phải thoả  thuận với các thành viên về  mức thuế  quan tối đa áp dụng  với các hàng hoá nhập khẩu  Thoả thuận với các thành viên về điều kiện cho các nhà cung cấp dịch  vụ nước ngoài tham gia vào thị trường nội địa  Phải chấp nhận việc hạn chế trợ giá trong nông nghiệp do nó có ảnh  hưởng đến thương mại quốc tế Cơ hội và thách thức của VN khi gia nhập WTO Cơ hội Gia nhập WTO đem lại cả cơ  hội lẫn thách thức, đòi hỏi VN phải sớm   triển khai những bước chuẩn bị  cần thiết  để  đảm bảo tối  ưu hoá những  thuận lợi và giảm thiểu những nguy cơ của việc tham gia vào một nền kinh  tế thế giới ngày càng được tự do hoá nhiều hơn. Gia nhập WTO sẽ  mang đến cho VN những nguồn lực mới và cơ  hội   mới để mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế ­   thương mại, tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài…giúp VN tham gia vào   việc xây dựng một hệ thống thương mại đa biên bình dẳng, không phân biệt   đối xử và cùng có lợi. Tạo môi trường thông thoáng, minh bạch , tuân thủ các  nguyên tắc quốc tế. 3
  4. VN sẽ có cơ hội thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới, được hưởng   đối xử  bình đẳng và các  ưu đãi thương mại cho một nước đang phát triển ở  trình độ thấp. Đây là điều kiện hết sức cần thiết để VN mở rộng xuất khẩu  những mặt hàng có lợi thế nhờ những thành qủa của đàm phán giảm thuế và  mở  cửa thị  trường của GATT, tăng cường tiếp cận thị  trường của các thành  viên WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng nông sản và dệt may. Cơ hội xuất   khẩu bình đẳng sẽ kéo theo những ảnh hưởng tích cực tới các ngành kinh tế  trong nước, mở rộng sản xuất và tạo ra nhiều việc làm. Quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế  nói chung   và đàm phán gia nhập  WTO nói riêng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  một cách  tích cực theo hướng tăng dần tỷ  trọng giá trị  công nghiệp và dịch vụ, giảm  dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong cơ cấu tổng thu nhập quốc dân. Cơ cấu   kinh tế ngành và vùng đã có sự dịch chuyển theo định hướng về lợi thế năng   lực cạnh tranh khu vực và quốc tế, hình thành các vùng kinh tế  trọng điểm,  các khu công nghiệp và khu chế  xuất tập trung để  hạ  thấp giá thành và tạo  điều kiện áp dụng khoa học công nghệ  hiện đại hơn trong sản xuất và đầu  tư. VN đã từng bước hoàn thiện hệ  thống pháp luật và thể  chế  kinh tế  thị  trường, cải cách hành chính và cải cách doanh nghiệp nhà nước … Việc ký  kết một số  điều  ước quốc tế  quan trọng đã tạo ra một hành lang pháp lý cơ  bản cho việc thực hiện công cuộc đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi  trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy kinh tế  phát triển và thu hút đầu tư  trực tiếp nước ngoài, VN tiếp tục khẳng định là một quốc gia ổn định về mặt  chính trị và kinh tế cùng thực hiện các chuẩn mực điều tiết kinh tế chung với   cộng đồng quốc tế. Đây là yếu tố không thể thiếu để  tạo dựng niềm tin của  các nhà đầu tư, thương nhân nước ngoài tham gia các hoạt động hợp tác kinh  tế với VN. Thách thức Bên canh những cơ hội, việc gia nhập WTO cũng đặt ra hàng loạt những   thách thức cho nền kinh tế  xã hội trên các khía cạnh: thất nghiệp gia tăng,   phân hoá giàu nghèo trong xã hội …Đặc biệt, cạnh tranh trong nhiều ngành   dịch vụ quan trọng như: bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm …sẽ tăng   đáng kể  sau khi gia nhập WTO . Các cuộc cạnh tranh về  chất lượng, giá cả  hàng hoá ,dịch vụ sẽ  khốc liệt hơn trong khi năng lực cạnh tranh trong nước   4
  5. còn yếu. VN phải điều chỉnh hệ  thống pháp luật cho phù hợp với các quy  định của WTO  ở nhiều lĩnh vực khác nhau như thủ tục cấp phép nhập khẩu,  kiểm dịch động thực vật, các quy định liên quan đến đầu  tư  và sở  hữu  trí  tuệ… Chính sách thuế sẽ phải điều chỉnh theo quy định của WTO, trước hết là  thuế xuất nhập khẩu, tiếp đến là các sắc thuế  nội địa. Thuế  suất thuế  nhập   khẩu điều chỉnh theo hướng ngày càng giảm và đảm bảo nguyên tắc MFN  ( không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác nhau); bỏ  các biện pháp phi thuế, chỉ bảo hộ bằng công cụ thuế. Những điều đó không   những có nhiều tác động khác nhau  đến môi trường kinh doanh mà còn  ảnh  hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước. VN sẽ phải cam kết mở cửa thị trường  dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kế  toán, kiểm toán và tư  vấn thuế), phải có các cam kết đối xử  bình đẳng giữa  cácdoanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tài chính trong nước và doanh nghiệp có  vốn đàu tư nước ngoài. Việc thực hiện các cam kết này đòi hỏi sự nỗ lực của  ngành tài chính nói riêng cũng như  các cơ  quan quản lý nhà nước. Đặc biệt,   trong bối cảnh hệ thống luật pháp, chính sách chế độ  quản lý trong nước còn   thiếu đồng bộ  chưa phù hợp với thông lệ  quốc tế. Thậm chí còn nhiều lĩnh  vực chưa có văn bản quy định như tư vấn môi giới tài chính, tư vấn thuế… Về   phía doanh nghiệp, do còn yếu kém trên nhiều lĩnh vực(chất lượng,   thương hiệu sản phẩm, phát triển kênh tiêu thụ và khả năng giải quyết tranh   chấp) nên các doanh nghiệp sẽ  phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức   trong việc tìm chỗ  đứng trên thị  trường hoặc phát triển thị  phần của mình,  nhiều doanh nghiệp có nguy cơ  phá sản, trước sức ép nặng nề  của các dòng  hàng hoá, dịch vụ, công nghệ, nhân lực và các chấn động khủng hoảng trong   khu vực và toàn cầu, nhất là cuộc khủng hoảng về tài chính tiền tệ gây hiệu  ứng lan truyền. Một thách thức nữa là đội ngũ nguồn nhân lực hiện nay của chúng ta còn  quá yếu kém chưa thể đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Trình  độ nguồn nhân  lực thấp, cơ chế quản trị điều hành cứng nhắc,thiếu năng động… không thể  đáy ứng được yêu cầu cạnh tranh khi hội nhập. 2. Các cam kết của VN trong lĩnh vực ngân hàng khi VN gia nhập  WTO 5
  6. Tài chính ­  ngân  hàng là một trong những  lĩnh vực được mở  cửa mạnh  nhất ngay sau khi Việt Nam gia  nhập WTO. Theo cam kết giữa Việt Nam và  các nước thành viên, từ nay đến năm 2010, các ngân hàng nước ngoài sẽ được  phép thực hiện hầu hết các dịch vụ ngân hàng như một ngân hàng trong nước  (trừ  dịch vụ  tư  vấn và cung cấp thông tin   ngân  hàng). Cụ  thể, kể  từ  ngày  1/4/2007, các ngân hàng nước ngoài được phép thiết lập sự hiện diện thương   mại của mình tại Việt Nam dưới các hình thức như: văn phòng đại diện, chi   nhánh ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại liên doanh với nước  ngoài có vốn nước ngoài dưới 50% vốn điều lệ, các công ty cho thuê tài chính  liên doanh, các công ty tài chính cho thuê 100% vốn nước ngoài và ngân hàng  100% vốn nước ngoài... Cũng như  các pháp nhân Việt Nam, các chi nhánh,  văn phòng đại diện, và ngân hàng nước ngoài này sẽ được hưởng quy chế đối  xử không phân biệt ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO Các cam kết gia nhập WTO trong lĩnh vực ngân hàng sẽ cho phép các tổ  chức tín dụng nước ngoài được hiện diện  ở  Việt Nam dưới các hình thức  khác nhau, mở rộng phạm vi và loại hình cung cấp các dịch vụ  ngân hàng, tạo  ra một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng. Chúng ta đồng ý cho thành lập  ngân  hàng  con 100% vốn nước  ngoài  không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được  thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở  chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ  thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ  được hạn chế  về  mua cổ  phần trong ngân  hàng Việt Nam, không quá 30%.  Đây là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng  Đối với  ngân  hàng thương mại nước ngoài: văn phòng đại diện, chi  nhánh, ngân hàng thương mại liên doanh với số vốn đầu tư chiếm không quá   50%, công ty cho thuê tài chính, công ty liên doanh tài chính và công ty tài  chính 100% vốn nước ngoài.    Trong vòng 5 năm sau khi gia nhập, Việt Nam có thể giới hạn quyền  của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc nhận tiền gửi bằng tiền  đồng Việt Nam từ  người tiêu dùng Việt Nam.  Trong  đó, những chi nhánh  ngân hàng nước ngoài chưa có quan hệ tín dụng với khách hàng là người Việt  Nam thì mức độ  huy động vốn so với vốn pháp định được thực hiện theo lộ  trình sau: từ ngày 1.1.2007 được huy động gấp khoảng trên 6 lần so với vốn  6
  7. pháp định đã góp đủ, từ năm 2008 gấp 8 lần, từ năm 2009 gấp 9 lần, từ năm   2010 gấp 10 lần. Từ năm 2011 được hưởng chế độ đối xử quốc gia.   Theo Nghị định số 22/2006/NĐ­CP ban hành ngày 28/2/2006, thời hạn   hoạt động của chi nhánh ngân  hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, hoặc  ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam không được quá 99 năm; thời  hạn hoạt động của một chi nhánh  ngân  hàng  nước ngoài không được vượt  quá thời hạn hoạt động của ngân hàng mẹ ở nước ngoài; thời hạn hoạt động  của văn phòng đại diện của một tổ  chức tín dụng nước ngoài không được  vượt quá thời hạn hoạt động của tổ  chức tín dụng nước ngoài đó. Thời hạn   hoạt động của các tổ  chức nói trên sẽ  được quy định cụ  thể   trong giấy phép  được cấp và có thể được gia hạn theo yêu cầu.   Tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với ngân hàng cổ phần: 30%  Tổng tỷ  lệ  cổ  phần mà ngân hàng nước ngoài được mua sẽ  vẫn khống   chế   ở  mức 30% như  hiện nay; riêng tỷ  lệ  sở  hữu nhà đầu tư  chiến lược sẽ  được nâng từ 10% lên 20%.  Trường hợp ngân hàng cổ  phần niêm yết trên thị  trường chứng khoán, tỷ  lệ trên có thể vẫn khống chế ở mức 30%, thay vì mức 49% như quy định đối   với các doanh nghiệp niêm yết khác. Vì theo ông, “ngân hàng là doanh nghiệp   đặc biệt nên sự khống chế là cần thiết”.  Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng và lấy ý kiến để hoàn thiện  Nghị  định về  việc các tổ  chức tín dụng nước ngoài mua cổ  phần trong ngân  hàng Việt Nam, trong đó dự  kiến hạn chế  cổ  phần mà một ngân hàng nước   ngoài có thể  nắm giữ  trong các ngân hàng Việt Nam là 20% trong tổng số  30% cổ phần nước ngoài.  Ngân hàng 100% vốn nước ngoài  Để  được lập chi nhánh hoặc ngân hàng nước ngoài 100% vốn tại Việt  Nam, ngân hàng nước ngoài phải thực sự có năng lực tài chính mạnh, có uy tín  trong hoạt động và có quy mô lớn.  Đây   là   những   điều   kiện   cơ   bản   được   quy   định   tại   Nghị   định   số  22/2006/NĐ­CP, về  tổ  chức  và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước   ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại  7
  8. diện tổ  chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, do Thủ  tướng Phan Văn  Khải vừa ký ban hành.  Cụ  thể, để  được cấp giấy phép mở  chi nhánh ngân hàng nước ngoài,   thành lập ngân hàng liên doanh hoặc thành lập ngân hàng 100% vốn nước  ngoài, ngân hàng nước ngoài phải đáp  ứng những điều kiện như  không vi   phạm nghiêm trọng các quy định về  hoạt động ngân hàng và các quy định  pháp luật khác của nước nguyên xứ trong vòng 3 năm gần nhất liền kề trước   khi xin cấp giấy phép.  Ngoài ra, ngân hàng nước ngoài phải có kinh nghiệm hoạt động quốc tế,  được các tổ  chức xếp loại tín nhiệm quốc tế  xếp hạng  ở  mức có khả  năng   thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả  khi tình   hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi; ngân hàng  nước ngoài phải đạt được tỷ  lệ an toàn vốn tối thiểu, các tỷ  lệ  bảo đảm an   toàn theo thông lệ quốc tế…  Để  được cấp giấy phép mở  chi nhánh tại Việt Nam, ngân hàng nước   ngoài phải có tổng tài sản có ít nhất là tương đương 20 tỷ  USD vào năm  trước năm xin cấp giấy phép.  Trường hợp thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh, giấy phép thành  lập và hoạt động ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng  nước ngoài phải có tổng tài sản có ít nhất là tương đương 10 tỷ USD vào năm  trước năm xin cấp giấy phép.  Trong các ngân hàng liên doanh, mức góp vốn của bên nước ngoài được  quy định tối đa không quá 50% vốn điều lệ. Những trường hợp đặc biệt sẽ do   Thủ tướng Chính phủ quyết định.  Với ngân hàng 100% vốn nước ngoài, các thành viên góp vốn (bao gồm cả  ngân hàng mẹ) có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn góp  thuộc sở  hữu của mình cho các thành viên góp vốn hoặc các tổ  chức nước  ngoài khác nhưng phải đảm bảo luôn có một ngân hàng nước ngoài sở  hữu   trên 50% vốn điều lệ của ngân hàng 100% vốn nước ngoài.  Ngoài những điều kiện trên, các ngân hàng nước ngoài sẽ  phải tuân thủ  những quy định khác về cơ cấu tổ chức hội đồng quản trị, ban kiểm soát của  chính nhánh, ngân hàng đó tại Việt Nam cũng như  tuân thủ  phạm vi hoạt  động… II. Cơ sở thực tiễn 8
  9. 1. Hoạt dộng của hệ thống NHTM trước khi gia nhập WTO. ­ Hệ thống ngân hàng được phân thành 2 cấp: NHTW và NHTM Cuối những năm 80, cùng với công cuộc cải cách kinh tế, hệ thống NHVN   cũng được cải cách. Từ hệ thống ngân hàng duy nhất lẫn lộn giữa chức năng   của NHTW với NHTM đã tách ra thành hệ  thống ngân hàng 2 cấp riêng biệt   và đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của chúng đối với sự nghiệp phát  triển kinh tế ở nước ta thời gian qua. ­ Hệ thống NHTM VN: Hệ thống NHTMVN bao gồm các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần ,  các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính và  các quỹ tín dụng. Cho đến nay, có 5 NHTM nhà nước, đó là: Ngân hàng ngoại thương VN,   ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn   VN và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài 5 ngân hàng   trên còn có NH chính sách xã hội. Các NHTMNN có tổng tài sản chiếm 70%   toàn hệ thống và dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm 75% trong tổng dư nợ cho   vay của các NHTM. Hệ  thống các NHTM cổ phần gồm có 26 NHTMCP đô thị  và 7 NHTMCP  nông thôn, với tổng tài sản chiếm 15.6% toàn hệ thống và dư nợ cho vay nền  kinh tế chiếm trên 13% trong tổng dư nợ cho vay của các NHTM. Có 28 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với nước  ngoài, 5 công  ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài chính và khoảng 904 quỹ tín  dụng nhân dân cùng hàng loạt các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác. Số   lượng   và   mạng   lưới   hoạt   động   của   hệ   thống   NHTM   tính   đến  30/9/2005 ( không tính chi nhánh cấp IV và văn phòng giao dịch) Chi nhánh  NH liên  NHTMNN NHTMCP NHNN doanh Số lượng 6 33 37 4 Mạng lưới 568 370 37 13                                                                        Nguồn: Ngân hàng nhà nước 2.Cơ hội và thách thức của NHTM khi gia nhập WTO 2.1. Cơ hội 9
  10.    Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất  yếu của thời đại, là điều kiện   cần thiết để mỗi quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới, là cơ hội để các  nước tận dụng được dòng vốn khổng lồ  cùng với công nghệ  tiên tiến. Đẩy  mạnh hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng VN sẽ thu được rất nhiều cơ hội:  Gia tăng các luồng vốn đầu tư:  Quá trình hội nhập WTO sẽ làm gia tăng các luồng vốn đầu tư vào VN và  gia tăng lợi tức cho các nước đang thừa vốn. Quá trình này sẽ  giúp làm giảm   lợi tức bù đắp rủi ro(risk premium) mà các nhà đầu tư đòi hỏi trong bối cảnh   VN bắt đầu tham gia thị trường tài chính quốc tế. Ngoài ra, hội nhập kinh tế còn giúp khơi thông các kênh chuyển vốn giữa   thị  trường trong nước với thị  trường quốc tế, góp phần khai thác các nguồn   vốn tiềm năng trong nước. Trong hội nhập, việc áp dụng các loại hình dịch   vụ  tài chính – ngân hàng phong phú và hiện đại sẽ   tạo điều kiện cho việc  phát triển thị trường tài chính ­ ngân hàng VN. Giảm chi phí vốn nhờ phân tán rủi ro: Quá trình tự  do hoá sẽ  mang lại nhiều cơ  hội đầu tư, chia sẻ  rủi ro giữa  các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ khả năng phân   tán rủi ro tăng mà các nhà đầu tư, các doanh nghiệp mạnh dạn bỏ vốn  đầu tư  hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng. Nhờ  các luồng vốn gia tăng nên tính  thanh khoản trong thị trường tài chính ­ ngân hàng cũng gia tăng, nhờ đó giảm  lợi tức bù đắp rủi ro và giảm chi phí thu hút vốn cho đầu tư.  Chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý, đổi mới trang thiết bị: Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nền kinh tế hội nhập tài chính quốc tế  thường thu hút được các luồng vốn FDI khá lớn, đi kèm với các dòng vốn này   là công nghệ và trình độ quản lý theo thông lệ quốc tế. Ngoài ra chúng ta còn  có khả năng “đi tắt đón đầu” do kế  thừa được những thành tựu khoa học kỹ  thuật hiện đại của thế  giới. Các tác động lan truyền này giúp gia tăng năng  suất, chất lượng và hiệu quả đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng. Tạo ra động lực đổi mới và cải cách NHTM: Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài thúc đẩy quá trình tham gia vào  thị trường tài chính quốc tế của các NHTM.  Hơn nữa, ngân hàng nước ngoài đem vào các công cụ và kỹ thuật tài chính  mới thúc đẩy cải tiến công nghệ 10
  11. Hội nhập sẽ  tạo ra sự  cạnh tranh gay gắt và không kém phần khốc liệt   giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Được cạnh tranh   bình đẳng để phát triển cũng là một cơ hội. Do vậy, muốn cạnh tranh để tồn   tại và phát triển, các ngân hàng trong nước không thể nào khác là phải nỗ lực   kiện toàn công tác quản lý ngân hàng nhằm đạt hiệu quả cao, giảm bớt rủi ro   và tăng cường độ tin cậy đối với khách hàng. Đổi mới sẽ giúp nâng cao năng   lực cạnh tranh, giảm chi phí và hiện đại hoá trang thiết bị  để  các nhà cung  cấp dịch vụ ngân hàng trong nước có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng  nước ngoài. Tiếp cận thị trường toàn cầu: Hội nhập WTO không chỉ khơi thông các kênh chuyển vốn giữa thị trường   trong nước với thị  trường quốc tế, góp phần khai thác các nguồn vốn tiềm   năng trong nước mà còn có điều kiện thuận lợi hơn khi mở rộng kinh doanh ở  thị trường tiền tệ nước ngoài, thu hút khách nước ngoài sử dụng dịch vụ của   ngân hàng VN và mở rộng đầu tư tín dụng với tất cả các thành phần kinh tế.  Thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá: Theo các nhà kinh tế cũng như kinh nghiệm quốc tế của một số nước cho   thấy quá trình hội nhập sẽ thúc đẩy chuyên môn hoá các nghiệp vụ tài chính,  ngân hàng. Chuyên môn hoá có thể  làm gia tăng năng suất, hiệu quả  và thúc  đẩy tăng truởng. Tuy nhiên, một cơ  cấu kinh tế  chuyên m ôn hoá sâu mà  không có sự hỗ trợ của cơ ch ế quản ký, phân tán rủi ro sẽ làm tăng sự  biến  động. Nhờ hội nhập, việc chia sẻ cảc rủi ro trên các thị trường quốc tế khác   nhau sẽ khuyến khích qúa trình chuyên môn hoá trong lĩnh vực ngân hàng.  Minh bạch về thông tin: Mở cửa thị trường tài chính đòi hỏi các ngân hàng phải công khai các thông   tin về hoạt động của mình, các yêu cầu về kế toán, kiểm toán cũng như công   bố  thông tin phải được thực hiện theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó tạo điều   kiện cho các NHTMVN bắt kịp thực hiện các tiêu chuẩn và kỹ năng quản trị  ngân hàng hiện đại. 2.2. Thách thức    Bên cạnh những cơ hội, quá trình hội nhập cũng đi kèm với những yếu   tố  bất lợi không thể  tránh khỏi, vấn đề  là nhận ra và có những biện pháp,  bước đi phù hợp để  giảm thiểu các yếu tố  đó là một bài toán mà các ngân  hàng đặc biệt là hệ thống NHTM cần phải giải quyết. 11
  12. Thách thức ngay trước mắt đặt ra đối với hệ  thống   NHTM là xuất   phát điểm thấp:  Hiện tại, tổng vốn điều lệ  của các NHTMNN   mới đạt trên 21.000 tỷ  đồng. Dư nợ tín dụng mới đạt xấp xỉ  55% GDP, thấp hơn nhiều so với mức   trên 80% của các nước trong khu vực. Bình quân, mức vốn tự  có của các   NHTMNN khoảng từ  200 đến 250 triệu USD, chỉ  bằng một ngân hàng cỡ  trung bình trong khu vực. Còn các NHTMCP có mức vốn điều lệ bình quân chỉ  khoảng từ 200 đến 300 tỷ đồng. Quy mô này nhỏ  bé hơn rất nhiều so với quy mô của các NHTM trong khu   vực ASEAN và càng nhỏ bé hơn nếu so sánh với các ngân hàng lớn ở khu vực   châu Á. Quy mô vốn chủ sở hữu như là tấm đệm để đảm bảo cho mỗi ngân hàng  có khả năng chống đỡ trước những rủi ro của môi trường kinh doanh . Điều  này ngày càng trở  lên quan trọng trong điều kiện môi trường kinh doanh có  nhiều biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền  kinh tế  ngày càng gia tăng trong điều kiện hội nhập như  hiện nay những rủi ro bất  ngờ luôn tiềm ẩn. Vốn tự có còn ảnh hưởng đến mức đầu tư vào công nghệ  ngân hàng vì ngân hàng chỉ  có thể  sử  dụng vốn tự  có để  đầu tư  vào công  nghệ. Ngoài quy mô vốn nhỏ  thì thách thức đặt ra dối với các NHTM là sản   phẩm, dịch vụ  nghèo nàn. Các ngân hàng vẫn chủ  yếu cung cấp các sản   phẩm, dịch vụ  truyền thống và đơn giản như  nhận tiền gửi và cho vay với   kênh phân phối truyền thống qua các chi nhánh.Các sản phẩm có tính chất  phức tạp như  quản lý tài sản, quản lý danh mục đầu tư, các sản phẩm bán  chéo hay các sản phẩm phái sinh, kênh phân phối điện tử như: ATM, Internet   Banking, Phone Banking chưa phát triển. Với xuất phát điểm thấp như hiện nay, các NHTM sẽ  gặp rất nhiều khó   khăn trong việc đầu tư  mở  rộng chi nhánh, nâng cao trình độ  công nghệ, đa  dạng hoá sản phẩm để nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại   và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn trong tương lai ngay  tại thị trường trong nước chứ chưa nói đến vươn ra thị trường quốc tế. Thách thức thứ  hai đối với hệ  thống NHTM là cơ  chế  quản trị, điều  hành và nguồn nhân lực: 12
  13. Hội nhập kinh tế  quốc tế  đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia.  Trong đó việc xây dựng một đội ngũ các nhà quản trị  hiện đại có tầm vóc  quốc tế  là một yêu cầu cực kỳ quan trọng. Một vấn nạn hiện nay về nguồn   nhân lực nói chung là: nhiều người giỏi, nhưng làm việc không có tâm, chỉ  quan tâm đến lương cao, nhiều người dở  nhưng lại không chịu làm và học  hỏi. Hiện nay tồn tại không ít những giám đốc độc quyền, nghi ngờ cấp dưới,  không  phân   quyền   nên  suốt   ngày   nhận   “trình,   bẩm”,  từ   đó  ra  quyết   định   chậm, bỏ  lỡ  cơ  hội kinh doanh. Không ít ngân hàng vẫn còn tình trạng chưa   phân định trách nhiệm và quyền hạn giữa NHTM, ban kiểm soát và ban điều  hành, công tác quản trị, kiểm soát điều hành của NHTM không theo kịp với  đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và việc thực hiện các nghiệp vụ của chính  bản thân ngân hàng. Các thành viên trong hội đồng quản trị  mà trực tiếp là   giám đốc chưa thực sự  quan tâm đến ngân hàng mình  và gần như  giao phó   hết cho chủ tịch HĐQT, ban điều hành giải quyết công việc. Kiểm soát viên  tại nhiều ngân hàng chưa thực hiện đầy đủ  vai trò giám sát và cảnh báo các  nguy cơ mất khả năng an toàn của ngân hàng. Bản thân một số  lãnh đạo do trình độ, năng lực còn hạn chế  nên không   biết cách quản lý, điều hành doanh nghiệp mình ,giao việc cho cấp dưới   thường giao một chiều, không hướng dẫn, động viên nhân viên…Ngoài ra,   nhiều nhà lãnh đạo không dự  kiến được các khó khăn, trở  ngại, những biến   động của môi trường kinh doanh và không có những kế  hoạch dự  phòng,  không đánh giá được chính   xác con số  nợ  xấu của ngân hàng mình là bao  nhiêu, có tâm lý sợ  thay đổi, do vậy dẫn đến trường hợp các ngân hàng hoạt  động theo lối mòn, không phát triển được sản phẩm , dịch vụ và quy mô của  ngân hàng.      Về  nguồn nhân lực, một mặt hiểu biết và kỹ  năng thực hiện chuyêm   môn của nhiều cán bộ  còn chưa theo kịp và chưa đáp  ứng đòi hỏi của hoạt  động ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Mặt khác, có một số  cán bộ tuy được đào tạo cơ bản nhưng lại chưa được bố  trí, sử  dụng hợp lý  gây lãng phí và hiệu quả sử dụng cán bộ không cao. Như  vậy, khi các ngân hàng 100% vốn nước ngoài xuất hiện sẽ  làm thay  đổi mạnh cơ  cấu thị  phần tiền tệ  thì những ngân hàng yếu kém không thể  đứng vững được sẽ  buộc phải sáp nhập đồng thời nguy cơ  chảy máu chất   xám mất đi những người cán bộ giỏi là điều không thể tránh khỏi. 13
  14. Thứ ba, đó là thách thức về công nghệ: Sự  phát triển của công nghệ  thông tin(CNTT) trong những năm gần đây  tạo điều kiện cho ngành ngân hàng đưa các dịch vụ ngân hàng mới như  ngân   hàng điện tử  (e­banking), ngân hàng tại nhà (home banking), ngân hàng qua  điện thoại (telephone banking). Đến nay, các NHVN đã sử dụng trên 80% các  giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng bằng máy tính và các thiết bị CNTT   hiện   đại . Mặc dù, hệ  thống NHVN đã đạt được một bước đáng kể  trong  việc  ứng dụng CNTT. Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu quản lý và hoạt động  kinh doanh của ngân hàng hiện đại, nhất là kinh doanh theo nguyên tắc của   GATS, nơi có hệ thống thông tin vào loại số 1 trên thế giới thì trình độ CNTT   của NHVN chỉ là bước đầu, sơ khai. Đối chiếu với các dịch vụ ngân hàng Mỹ được cung cấp tại VN cũng như  các  dịch vụ   theo  quy  định  của  GATS  khi  VN  là thành  viên của  WTO thì   NHVN còn quá non nớt. Các ngân hàng  nước ngoài có trình độ  CNTT ngân   hàng phát triển rất cao trong mọi lĩnh vực như nối mạng quản lý rủi ro, quản  lý vốn khả dụng, quản lý khe hở  nhạy cảm tài sản nợ và tài sản có, quản lý  khách hàng không chỉ trong nước mà trên cả toàn cầu.  Còn các ngân hàng của   chúng ta thì hệ thống cơ sở, hạ tầng, truyền thông còn rất thấp, mức độ  đáp  ứng của công nghệ ngân hàng với nhu cầu thị trường còn hạn chế. Hiện nay,   các ngân hàng chưa có sự  liên kết với nhau mà hoạt động của các ngân hàng  mang tính độc lập, hệ thống thẻ rút tiền tự động ATM hiện nay của các ngân  hàng vẫn chưa kết nối được với nhau. Hiện nay, chúng ta thấy, có một chỗ  đặt mấy máy ATM của các ngân hàng khác nhau nhưng thẻ ngân hàng nào chỉ  dùng cho ngân hàng  ấy, tại sao lại không liên kết, thay vì một chỗ đặt nhiều  máy thì chỉ cần một máy nhưng chấp nhận nhiều thẻ của các ngân hàng khác  nhau thì sẽ rất tiện lợi và tiết kiệm. Các ngân hàng ra sức mở rộng mạng lưới   của mình mà không liên kết là một sự lãng phí và nảy sinh nhiều vấn đề như  đẩy giá thuê mặt bằng lên cao đồng thời công nghệ  không đồng bộ, không  hiện đại nên dần bị  mất khách hàng, thị  trường thanh toán thẻ  chuyển dần  sang các ngân hàng nước ngoài, có công nghệ cao hơn nhâ Bank, AZN… Thực   tiễn cho thấy, công nghệ  lạc hậu không những làm hạn chế  khả  năng cung  ứng các dịch vụ mới của các NHTM mà còn làm giảm đi hiệu quả trong công   tác quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng  là một trở  ngại rất lớn khi hệ  14
  15. thống ngân hàng phải đối mặt với các ngân hàng nước ngoài theo như  cam  kết của WTO lĩnh vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ trình 7 năm. Thách thức thứ  tư  mà các NHTM phải đối mặt đó là năng lực cạnh  tranh thấp: Hiện nay, các NHTM nhìn chung là năng lực tài chính rất yếu. Tỷ  lệ  an   toàn vốn bình quân khoảng 3.72% trong khi theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ an  toàn vốn bình quân tối thiểu 8%. Vốn tự có của NHTMVN nhỏ hơn rất nhiều   so với các ngân hàng trong khu vực. Ngân hàng có vốn tự có lớn nhất cũng chỉ  khoảng 200 triệu USD, bằng 1/5 vốn tự có của ngân hàng các nước trong khu  vực. Tốc độ tăng vốn tự có của các NHTM còn thấp trong khi tốc độ tăng tài   sản hiện nay tăng bình quân từ  20­25% nếu như  không có những biện pháp  thiết thực tăng vốn tự  có với lộ  trình cụ  thể  thì e rằng NHTMVN khó đạt   được tỷ  lệ  an toàn vốn. Năng lực tài chính yếu là trở  ngại lớn đối với việc  mở  rộng kinh doanh và tăng trưởng cũng như  tạo ra những bất lợi trong quá  trình cạnh tranh với những ngân hàng nước ngoài. Chất lượng tài sản thấp:  Chất lượng tài sản có cũng là một điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của  các NHTM Chất lượng tài sản có thể  hiện trước hết  ở  chỉ  tiêu nợ  quá hạn trên tổng  dư  nợ. Đến thời điểm cuối năm 2000, tổng số  nợ  khó đòi tồn đọng của các  NHTMNN là 22.299 tỷ  VND, chiếm tỷ  lệ  10.78% trên tổng dư  nợ  tại thời   điểm đó. Sự yếu kém về chất lượng tài sản có của các NHTMNN còn thể hiện ở sự  tập trung quá lớn của danh mục tín dụng cho các DNNN.Hiện nay, vốn đầu  tư  cua các dự  án trọng điểm phần lớn đang tiếp tục phải trông chờ  vào vay  các NHTM, các tổng công ty đều đang dư nợ rất lớn. Hiệu quả của các dự  án đầu tư  trong thực tế so với lúc thẩm định và phê  duyệt ban đầu có khoảng cách nhất định. Bởi vậy, các NHTM không thu hồi  được   nợ   vay   đúng  hạn,   ảnh   hưởng   đến  thanh   khoản,  chưa   kể   có  những   khoản vay có  thể rơi vào nợ khê đọng nếu như dự án đó không hiệu quả, bị  đổ  vỡ. Đồng thời các NHTM cũng không thu được lãi,  ảnh hưởng ngay đến  tình hình tài chính.  Nguyên nhân chính của tình trạng nợ tồn đọng trong những năm qua là do   các nguyên nhân chủ  quan từ  phía các ngân hàng như  sự  yếu kém trong tổ  15
  16. chức, quản lý, trình độ  chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề  nghiệp…, sự  bất cập trong chính sách ,cơ chế cũ không phù hợp với thực tế hoạt động của   các ngân hàng. Trong đó một nguyên nhân quan trọng gây ra sự yếu kém đó là  quyền tự chủ trong kinh doanh của các ngân hàng chưa được tôn trọng. Việc   cho vay của các ngân hàng này chịu ảnh hưởng của những yếu tố phi kinh tế,   đặc biệt các khoản cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước. Chính những  điều này làm cho tiềm lực tài chính của các NHTM tăng chậm, nguồn tài  chính để tái cơ cấu bị suy kiệt theo chu kỳ xử lý nợ. Sự không tách bạch giữa   cho vay chính sách với cho vay thương mại cũng là nguyên nhân chính khiến  cho tình trạng nợ quá hạn, đặc biệt nợ quá hạn đối với DNNN lại ở mức cao   như hiện nay. Chất lượng tài sản có cả khối NHTMCP có những cải thiện đáng kể trong  những năm gần đây nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ nợ quá hạn của các  NHTMCP trong những năm gần đây giảm đáng kể, làm cho tình hình hoạt  động của các ngân hàng này lành mạnh hơn nhiều. Nhiều ngân hàng có tỷ lệ  nợ  quá hạn dưới 2%. Tỷ  lệ  nợ  quá hạn của các NHTMCP năm 2003 chỉ  chiếm 6.35% tổng số nợ quá hạn của toàn hệ thống, giảm 7.25% so với năm   2002 và 10.45% so với năm 2001. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn là một con số đáng  lo ngại.Thêm vào đó, tỷ lệ  này mới chỉ tính toán trên cơ  sở  VAS, chưa được   xác định theo tiêu chuẩn quốc tế (IAS) nê n chưa phản ánh chính xác mức độ  rủi ro thực tế mà các ngân hàng này phải đối mặt. Danh mục tài sản có thiếu tính đa dạng, chưa có sự  phân tán rủi ro hợp lý  cũng như  sự  mất cân đối trong cơ  cấu tín dụng trung, dài hạn so với nguồn   vốn huy động cũng phản ánh chất lượng tài sản có của các NHTMNN còn  thấp. Bên cạnh đó, hệ  thống báo cáo, kế  toán thiếu minh bạch. Sự  khác biệt   giữa hệ  thống kế toán ngân hàng VN (VAS) và hệ  thống  kế  toán ngân hàng  quốc tế (IAS) đã dẫn đến việc sai lệch đáng kể trong đánh giá hiệu quả hoạt  dộng của hệ  thống NHTMVN, từ  đó tạo nên việc quản trị  ngân hàng kém  hiệu quả và thiếu minh bạch. Năng lực cạnh tranh của các NHTM thấp còn do mạng lưới hoạt dộng  ở  nước ngoài của các ngân hàng rất nhỏ bé. Các NHTMVN chưa có chi nhánh ở  nước ngoài( trừ một số ngân hàng có văn phòng đại diện). Điều này hạn chế  việc mở  rộng các hoạt dộng ngân hàng quốc tế  như  thanh toán xuất nhập  16
  17. khẩu, tài trợ  dự  án, chuyển tiền, cũng như  hạn chế  khả  năng mở  rộng   thị  trường   kinh   doanh,   cạnh   tranh   trực   tiếp   với   các   ngân   hàng   nước   ngoài.  Nguyên nhân chính là do hệ  thống NHTMVN hội nhập quốc tế  trong  điều  kiện điểm xuất phát thấp về trình độ phát triển, nguồn nhân lực phục vụ cho   các chi nhánh  ở  ngân hàng nước ngoài là một cản trở rất lớn, phong tục tập  quán tại mỗi quốc gia chúng ta còn am hiểu rất hạn chế, chi phí thuê mặt  bằng cao… Ngoài ra, năng lực quản trị  rủi ro của các NHTM còn rất yếu kém. Hiện  nay, các NHTM còn chưa đánh giá và xác định được đầy đủ rủi ro trên cơ sở  khoa học chặt chẽ. Các mô hình và công cụ hiện đại để đo lường và quản lý  rủi ro cũng chưa được ứng dụng rộng rãi(quản lý tài sản nợ ­ tài sản có, quản   trị ngân hàng theo nguyên tắc CAMEL…). Một số ngân hàng mới chỉ bắt đầu  áp dụng các chuẩm mực quốc tế   ở  mức độ  thấp. Chất lượng và năng lực  quản trị rủi ro vì thế còn rất yếu. Thứ năm, là chất lượng dịch vụ ngân hàng chậm đổi mới: Một điểm yếu khác của hệ  thống ngân hàng VN là chấtlượng hoạt động.  Trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngoài là dịch vụ thì ngân hàng   trong nước vẫn chủ  yếu là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động   tín   dụng vẫn còn thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản trị  rủi ro, nhóm  khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ. sự đơn điệu trong hoạt động dịch vụ khiến hệ thống ngân hàng không tận   dụng được lợi thế về mạng lưới, về khách hàng, về  kênh phân phối và công   nghệ. Cũng chính vì thế nên giá thành dịch vụ của các ngân hàng VN khá cao  so   với   các   nước   trong   khu   vực.   Nếu   như   ở   các   nước   phát   triển,   NHTM   thường là những tổ  hợp ngân hàng – tài chính kinh doanh đa ngành nghề( tín  dụng, thanh toán, bảo hiểm, chứng khoán…) thì các NHTM VN vẫn xoay  quanh các sản phẩm truyền thống: tín dụng, bảo lãnh thanh toán. Một số dịch  vụ  mới ra đời nhưng vẫn  ở  mức nhỏ  bé, chiếm tỷ  trọng thấp trong tổng   doanh thu. Một chuyên gia của WB cảnh báo: Nếu dịch vụ ngân hàng không được cải  tiến mạnh mẽ, hệ  thống phân phối của ngân hàng trong nước sẽ  mất dần,  nhất là khi sự phân biệt giữa tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài căn  bản được xoá bỏ  vào năm 2010. Mặt khác, với điều kiện hạ  tầng như  hiện  nay, sẽ rất khó có các ngân hàng nội địa cạnh tranh được với ngân hàng nước   17
  18. ngoài về  mặt công nghệ. Một cuộc thăm dò ý kiến khách hàng gần đây cho   biết:45% số khách hàng được hỏi, kể  cả cá nhân và doanh nghiệp trả  lời sẽ  chuyển sang vay vốn ngân hàng nước ngoài chứ không vay vốn của ngân hàng  VN. Nguyên nhân ngoài lý do chênh lệch lãi suất thì cơ bản là do chất lượng   dịch vụ và thủ tục hành chính quá rườm rà và phức tạp. Thứ sáu, đó là sự tham gia của các NHTM nước ngoài:   Khi VN tham gia vào tổ  chức WTO thì việc phải mở  cửa cho các NH   nước ngoài vào và áp dụng quy chế  đối xử  quốc gia đối với các NH nước   ngoài là không thể  tránh khỏi. Trong điều kiện hiện nay đây sẽ  là một thách  thức lớn cho các NHTMVN khi phải cạnh tranh với các NH nước ngoài. Trước hết, năng lực quản lý kinh doanh của các NH nước ngoài là rất cao,  họ  có một bề  dày kinh nghiệm trong kinh doanh ngân hàng. Hơn nữa, họ  lại   được đào tạo bài bản về nghiệp vụ kinh doanh, quản trị điều hành trong nền  kinh tế thị trường. Các chi nhánh NH nước ngoài được trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại,  qua đó giúp họ  tạo được những kênh phân phối hiện đại như  sử  dụng E­  banking… và các công nghệ khác.  Ngoài ra, các chi nhánh NH nước ngoài có nhiều lợi thế  hơn các NHTM  trong nước trong việc sử dụng, mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Họ  hiểu biết đầy đủ  hơn các sản phẩm phái sinh như: hợp đồng kỳ  hạn, quyền   lựa chon, hợp đồng tương lai… Do vậy, việc đưa các sản phẩm này vào hoạt  động sẽ thuận lợi hơn các NHTM trong nước.  Năng lực tài chính của các chi nhánh NH nước ngoài là mạnh hơn các   NHTM trong nước:Tỷ  lệ  vốn điều lệ/tổng tài sản có của các chi nhánh NH  nước ngoài là 14.6% trong khi đó NHTM trong nước chỉ là 4.6%. Mức độ  rủi ro trong hoạt động của các NHTM trong nước lớn hơn rất   nhiều so với các chi nhánh NH nước ngoài. Trước hết, là khả năng sinh lời rất  thấp và có xu hướng giảm, sự mất cân đối về các loại tiền tệ do tình trạng đô  la hoá nền kinh tế. Do các ngân hàng nước ngoài thường tập trung vào những phân khúc thị  trường nhất định nên một số  lĩnh vực trong nền kinh tế  sẽ  có thể  khó tiếp  cận nguồn vốn tín dụng hơn. 18
  19. Sự ổn định của thị trường trong nước cũng bị ảnh hưởng do các NH nước   ngoài đột ngột rút ra khỏi thị trường trong nước một khi xảy ra khủng hoảng   hoặc bị ảnh hưởng bởi những vấn đề của ngân hàng mẹ. III:GIẢI PHÁP Đứng trước bước ngoặt lịch sử vĩ đại­ bước vào giai đoạn sống còn, giai  đoạn cạnh tranh khốc liệt, do những đòi hỏi của hội nhập  WTO thì chỉ  có   một con đường duy nhất là cạnh tranh, phát triển và hội nhập. Ngoài những  công cụ, chính sách  điều tiết vĩ mô từ phía các cơ quan  nhà nước và NHTW   thì bản thân mỗi NHTM cần phải chủ   động xây dựng cho mình một môi  trường kinh doanh thuận lợi để có tồn tại và đứng vững trong điều kiện hiện  nay. 1. Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn Để  có một chiến lược kinh doanh hiệu quả  thì điều kiện cần đâù tiên là  các nhà  hoạch định phải có được trong tay những thông tin đầy đủ, chính xác  về  thị  trường bao gồm nhưng không giới hạn những thông tin như: các phân  đoạn khách hàng cơ  bản và hành vi của từng nhóm khách hàng trên các phân  đoạn đó;  quy mô, tính chất, tốc độ phát triển của cầu, tốc độ bão hoà; các đối  thủ  cạnh tranh chủ  yếu và tiềm năng trên từng phân đoạn… Hiện nay, việc   nghiên cứu thị trường của các NHVN vẫn chưa được tiến hành một cách bài  bản. Và hầu như  các ngân hàng đều xây dựng chiến lược kinh doanh mà  không tiến hành nghiên cứu thị trường toàn diện. Điều đó đã dẫn đến tính mơ  hồ, chung chung của các chíến lược kinh doanh của phần đông các NHTM  VN hiện nay. Chủ động tìm hiểu nhu cầu khách hàng còn là cơ sở quan trọng   để mỗi ngân hàng tiến  hành đa dạng hoá sản phẩm, đầu tư  vào những phân  đoạn thị trường mới để tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, việc tiến hành nghiên cứu thị  trường như  thế  thường rất tốn   kém và đòi hỏi những kĩ thuật điều tra, chọn mẫu phân tích rất phức tạp mà  với trình độ  của đội ngũ nhân lực làm công tác phân tích thị  trường hiện nay   của các ngân hàng VN thì việc độc lập tiến hành nghiên cứu sẽ rất khó khăn. Vì thế, các ngân hàng có thể phối hợp với nhau tiến hành việc nghiên cứu   thị trường chung trên những vấn đề cơ bản về cầu trong nước cũng như một  số thị trường tiềm nămg ở nước ngoài và khả năng thâm nhập của các đối thủ  mới, đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài. Việc tiến hành nghiên  cứu thị trường chung có thể được tiến hành thông qua một ban độc lập thuộc   19
  20. hiệp hội ngân hàng với sự tư vấn của các chuyên gia phân tích thị  trường có   uy tín trên thế  giới. Các ngân hàng có thể  cử  các chuyên viên nghiên cứu thị  trường của mình tham gia vào ban này để  một mặt giám sát hoạt động của  ban soang mặt khác quan trọng hơn là học hỏi kinh nghiệm của các chuyên  gia tư vấn nước ngoài. Việc tiến hành nghiên cứu thị  trường chung có rất nhiều  ưu điểm. Thứ  nhất, việc phối hợp nghiên cứu sẽ giúp các ngân hàng VN tránh được sự lãng  phí các nguồn lực . Thứ hai, việc cùng nhau phối hợp nghiên cứu thị  trường   cho phép tập trung một nguồn lực đủ  lớn để  tiến hành những nghiên cứu thị  trường đủ rộng và đủ sâu, đảm bảo tính toàn diện và chính xác của thông tin   trên cơ sở đảm bảo mẫu điều tra về số lượng và mức độ đa dạng.  Trên cơ sở kết qủa của cuộc điều tra thị trường đó, các ngân hàng căn cứ  vào các nguồn lực hiện có của mình, xây dựng một tầm nhìn mới, một chiến   lược kinh doanh dài hạn nhằm khai thác tối ưu và không ngừng nâng cao các   nguồn lực của mình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề  ra. Điểm cốt yếu  trong mỗi chiến lược kinh doanh chính là việc phải xác định được các thị  trường mục tiêu và định vị  các sản phẩm, dịch vụ  của mỗi ngân hàng trên   từng phân đoạn thị trường đó. Đây là một việc làm không hề dễ dàng song lại   không thể không làm. Việc xác định thị  trường mục tiêu quá chung chung sẽ  dẫn đến hậu quả  là làm phân tán các nguồn lực đầu tư  thể  hiện đầu tư  dàn  trải, manh mún và tự phát, không có hệ thống và định hướng gây lãng phí các  nguồn lực. Xét trên giác độ  hệ  thống, các ngân hàng của một nước cần có sự  phân   chia tương đối vầ  thị  phần và thị  trường. Sự  phân chia tương đối các phân   đoạn thị trường giữa các ngân hàng trong nước thể hiện ở chiến lược đầu tư  của mỗi ngân hàng tập trung và các mảng thị  trường khác nhau. Nó không  phải là một  sự  thoả  thuận ngầm  định hay công khai về  sự  phân chia thị  trường giữa các tập đoàn để tạo ra ưu thế độc quyền. Sự phân chia tương đối  này vẫn đảm bảo tính lành mạng của môi trường cạnh tranh.  Trong tình trạng hiện nay sự  quá giống nhau trong chiến lược kinh doanh   của các NHTMNN đã dẫn đến sự  cạnh tranh gay gắt và có dấu hiệu không   lành mạnh làm suy yếu đi sức mạnh của toàn hệ  thống trong khi vẫn còn  nhiều mảng thị  trường đang bị  bỏ  ngỏ  và rất dễ  bị  khai thác bởi các ngân  hàng nước ngoài. Rõ ràng, dù phát triển thành các ngân hàng đa năng khổng lồ,   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2