Đề tài: Đánh giá hiệu quả kinh tế các trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh
Chia sẻ: Loilamthuocveem Loilamthuocveem | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:130
lượt xem 53
download
Nhằm giúp các bạn đánh giá hiệu quả kinh tế của các trang trại cũng như việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi và phương án đầu tư như thế nào để có hiệu quả và giảm bớt rủi ro là việc làm cần thiết, mời các bạn cùng tham khảo nội dung đề tài "Đánh giá hiệu quả kinh tế các trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Đánh giá hiệu quả kinh tế các trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông, lâm, ngư nghiệp với quy mô, mức độ tập trung các yếu tố sản xuất tương đối lớn so với các hình thức sản xuất thông thường của các hộ gia đình ở nông thôn. Đây là một mô hình kinh tế quan trọng giúp nông dân phát triển sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, nhân lực, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo; phân bổ lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới. Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại gắn liền với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các nghành phi nông nghiệp, góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Loại hình sản xuất này vừa nâng cao năng suất lao động, tỷ suất hàng hóa: vừa tạo sản phẩm đồng nhất về chất lượng, tạo được thương hiệu, cạnh tranh với hàng hóa nông sản thế giới. Kinh tế trang trại đóng góp quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Thực tế cho thấy tác dụng nhiều mặt của kinh tế trang trại trong việc góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực, tạo ra khối lượng nông sản hàng hóa ngày càng nhiều, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội, môi sinh môi trường của các địa phương và cả nước. Nhận thức được xu thế có tính quy luật đó, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, khuyến khích kinh tế trang trại phát triển. Với hàng loạt các văn bản pháp luật, các chính sách được ban hành nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý, tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở nước ta. Thực tế cho thấy kinh tế trang tr ại Việt 1
- Nam phát triển mạnh từ sau nghị quyết 10 – NQ/TW của Bộ Chính trị tháng 4 năm 1988. Trong nghị quyết 4 BCHTW Đảng (khóa 8) và nghị quyết số 06 (ngày 10/11/1998) của Bộ Chính trị khẳng định và khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Ngày 2/2/2000 Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết 03/2000/NQCP về kinh tế trang trại nhằm nêu bật vai trò và đề ra các chính sách thúc đẩy loại hình kinh tế này. Tuy vậy, phát triển kinh tế trang trại hiện còn không ít khó khăn, vướng mắc. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại trong thời gian qua mang tính tự phát, thiếu sự quy hoạch tổng thể làm cho trang trại mạnh mún, không bền vững. Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm sản xuất cũng như quản lý của chủ trang trại còn yếu và thiếu. Sản phẩm của trang trại chủ yếu tiêu thụ qua thương lái nên thường bị ép cấp, ép giá làm thiệt hại cho sản xuất. Với tốc độ phát triển kinh tế mang nhiều màu sắc mới, đa dạng hơn như hiện nay. Để kinh tế trang trại thực sự trở thành loại hình kinh tế năng động đáp ứng nhu cầu hội nhập thì Nhà nước, nông dân cần phải có những lời giải, phương pháp nhằm giải đáp, tháo gỡ nhiều bài toán khó khăn vướng mắc ở tầm vĩ mô và vi mô liên quan đến nhận thức, cơ chế chính sách và các giải pháp cụ thể như đất đai, vốn lao động, khoa học công nghệ, tổ chức quản lý, thị trường …và trong tương lai có những loại hình trang trại nào? Nó sẽ hoạt động ra sao trong cơ chế thị trường? Làm thế nào để trang trại phát huy được tính ưu việt của từng địa phương và hoạt động có hiệu quả kinh tế cao hơn? Đó là vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có điều tra nghiên cứu rõ ràng mới có căn cứ cho các cơ quan quản lý Nhà nước có được chính sách phù hợp cho loại hình kinh tế này. Hương Khê là một huyện miền núi của tỉnh Hà Tĩnh, ở đây loại hình kinh tế trang trại phát triển khá phổ biến. Tuy nhiên trong quá trình phát triển còn nhiều tồn tại, trong đó hiệu quả kinh tế thấp chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Vì vậy, đánh giá hiệu quả kinh tế của các trang trại 2
- cũng như việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi và phương án đầu tư như thế nào để có hiệu quả và giảm bớt rủi ro là việc làm cần thiết. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế các trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh”. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Tiến hành nghiên cứu thực trạng hiệu quả kinh tế các trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê, tìm ra những khó khắn vướng mắc và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu kinh tế trong thời gian tới. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể * Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn cơ bản về kinh tế trang trại, hiệu quả kinh tế trang trại. * Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả kinh tế của các trang trại, hiệu quả kinh tế của một số cây trồng, vật nuôi chủ yếu trong các trang trại. * Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê. * Định hướng và đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các trang trại ở huyện Hương Khê trong thời gian tới. 1.3 Câu hỏi nghiên cứu 1. Hiệu quả kinh tế của các trang trại tại huyện Hương Khê như thế nào? 2. Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trang trại và mức ảnh hưởng của chúng ra sao? 3. Những khó khăn cơ bản trong việc phát triển trang trại và nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại? 3
- 4. Những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại và nâng cao thu nhập cho các chủ trang trại? 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.4.1 Đối tượng nghiên cứu Là những vấn đề có liên quan đến trang trại, hiệu quả và nâng cao hiệu quả kinh tế trong các trang trại ở trên địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh 1.4.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian Nghiên cứu các trang trại ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh Phạm vi thời gian Số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài từ năm: 2008 2010 Thời gian nghiên cứu: tháng 1 năm 2010 đến tháng 5 năm 2010 Phạm vi nội dung nghiên cứu Nghiên cứu các khía cạnh kinh tế xã hội bao gồm các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, vốn, chi phí, kết quả và hiệu quả kinh tế các trang trại. Qua đó tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế các trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê. 4
- 5
- PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1 Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại là những khái niệm khá rộng và đã được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhưng còn nhiều mặt chưa thống nhất. Tuy nhiên, các học giả đều thống nhất quan điểm cho rằng, trang trại là loại hình sản xuất cơ sở trong nông, lâm, thuỷ sản có mục đích chính là sản xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường. Hiện nay, ở Việt Nam hai khái niệm trang trại và kinh tế trang trại nhiều khi được sử dụng như là hai thuật ngữ đồng nhất. Tuy nhiên, đây là hai khái niệm không đồng nhất. Trang trại là đơn vị kinh tế sản xuất nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, thuỷ sản) gồm một người chủ trang trại họ vừa là người làm chủ về ruộng đất, làm chủ về tư liệu sản xuất vừa là người tổ chức sản xuất kinh doanh, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình với mục đích chính là sản xuất hàng hoá và một phần sản phẩm được sử dụng cho tiêu dùng của gia đình. Trang trại là đơn vị sản xuất cơ sở trong nông nghiệp được phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia đình nông dân với mục đích chính là sản xuất hàng hoá. Với mức độ phát triển cao, trang trại là một doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất hàng hoá dựa trên cơ sở hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến, có khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, vừa sử 6
- dụng lao động gia đình, vừa sử dụng lao động làm thuê, tự chủ về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thực hiện hạch toán kinh doanh. Kinh tế trang trại (KTTT) là một hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp với mục đích là sản xuất hàng hoá trên cơ sở tự chủ về ruộng đất, tư liệu sản xuất của hộ gia đình, tự hạch toán và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, trang trại là khái niệm rộng hơn, là tổng thể các yếu tổ bao gồm cả kinh tế, xã hội và môi trường. Còn nói đến KTTT là chủ yếu đề cập đến yếu tố kinh tế của trang trại và cũng là vấn đề mẫu chốt của các đơn vị kinh tế. Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Sau đây chúng tôi xin đề cập đến một số quan điểm: Phạm Minh Đức và cộng sự (1997), Báo cáo khoa học về nghiên cứu xu thế phát triển kinh tế hộ nông dân và mô hình kinh tế trang trại ở miền Bắc, Viện kinh tế nông nghiệp, Hà Nội: “Trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp hàng hoá của hộ, do một người chủ hộ có khả năng đón nhận những cơ hội thuận lợi, từ đó huy động thêm vốn và lao động, trang bị tư liệu sản xuất, lựa chọn công nghệ sản xuất thích hợp, tiến hành tổ chức sản xuất và dịch vụ những sản phẩm theo yêu cầu thị trường nhằm thu lợi nhuận cao”. PGS Trần Đức cho rằng (1998), kinh tế trang trại vùng đồi núi, NXB Thống kê, Hà Nội: “Trang trại là chủ lực của tổ chức làm nông nghiệp ở các nước bản cũng như các nước phát triển và theo các nhà khoa học khẳng định là tổ chức sản xuất kinh doanh của nhiều nước trên thế giới trong thể kỷ XXI”. Nguyễn Thế Nhã (1999), “Phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam thực trạng và những giải pháp”, Hội thảo ĐHNN I, Hà Nội cho rằng: 7
- “Trang trại là một loại tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, thuỷ sản có mục đích chính là sản xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tổ sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường”. PGS.TS Lê Trọng (2000), phát triển và quản lý trang trại trong nền kinh tế thị trường, NXB Nông nghiệp, Hà Nội cho rằng: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở, là doanh nghiệp trực tiếp tổ chức sản xuất ra nông sản hàng hoá dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội, được chủ trang trại đầu tư vốn, thuê mướn phần lớn hoặc hầu hết sức lao động và trang bị tư liệu sản xuất để hoạt động kinh doanh theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường, được Nhà nước bảo hộ theo luật định”. Ks. Trần Hữu Quang cho rằng: “Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sơ lao động và đất đai của hộ gia đình là chủ yếu, có tư cách pháp nhân, tự chủ sản xuất kinh doanh và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, có chức năng chủ yếu là sản xuất nông sản hàng hoá, tạo ra thu nhập chính cho gia đình đáp ứng nhu cấu xã hội”. Theo nghị định 03/2000/NĐ CP ngày 02/02/2000 của Chính Phủ về kinh tế trang trại: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng gắn bó với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản”. 2.1.2 Đặc trưng của kinh tế trang trại Theo các khái niệm trên thì kinh tế trang trại có những đặc trưng sau: 8
- Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá với quy mô lớn. Mức độ tập trung và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất nông hộ, thể hiện ở quy mô sản xuất như đất đai, số đầu gia súc, lao động, giá trị nông thuỷ sản hàng hoá. Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao động gia đình và lao động làm thuê bên ngoài sản xuất có hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ. Những đặc trưng của kinh tế trang trại xuất phát từ những điểm khác biệt mang tính bản chất của kinh tế trang trại so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung khác và so với kinh tế hộ. Quy mô sản xuất hàng hoá được thể hiện qua tỷ suất hàng hoá là đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế trang trại. Đây là chuẩn mực hàng đầu và quan trọng nhất để phân biệt một hộ nông dân sản xuất theo hình thức tiểu nông với hộ sản xuất theo hình thức trang trại. Kinh tế trang trại thực hiện sản xuất với quy mô lớn nhờ sự tập trung cao hơn với mức bình quân chung của kinh tế hộ ở từng vùng về các nguồn lực và điều kiện sản xuất nên quy mô của kinh tế trang trại lớn hơn nhiều so với mức bình quân chung của kinh tế hộ không chỉ thể hiện bằng quy mô của các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn…) mà cả về quy mô thu nhập. Vì mục đích của trang trại là sản xuất hàng hoá với quy mô lớn nên thường phát triển theo hướng chuyên môn hoá hoặc chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp nhằm tận dụng tối đa ưu thế của vùng và tránh rủi ro. Nhu cầu và khả năng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của trang trại lớn 9
- hơn nông hộ tiểu nông nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường và hiệu quả thu được ngày càng cao. 2.1.3 Tiêu chí nhận dạng và phân loại trang trại 2.1.3.1 Tiêu chí nhận dạng trang trại Chúng ta dựa vào khái niệm và đặc trưng của trang trại để đưa ra những tiêu chí nhận dạng trang trại gồm có tiêu chí về mặt định tính và tiêu chí về mặt định lượng. Về mặt định tính: Đặc trưng cơ bản của trang trại là sản xuất ra sản phẩm hàng hoá. Tiêu chí này được thống nhất đối với tất cả các nước trên thế giới. Về mặt định lượng: Thông qua các chỉ số cụ thể nhằm phân biệt đâu là trang trại và đâu không phải là trang trại qua đó phân loại ra quy mô giữa các trang trại. Trên thế giới: Để nhận dạng đâu là trang trại và đâu chưa phải là trang trại hầu hết sử dụng chỉ tiêu định tính chung có đặc trưng là sản xuất hàng hoá chứ không phải là sản xuất tự cấp tự túc. Chỉ một số nước sử dụng chỉ tiêu định lượng để nhận dạng trang trại như: Mỹ, Trung Quốc… Chủ yếu là các chỉ tiêu về diện tích, giá trị sản lượng hàng hoá, trong đó chỉ tiêu về diện tích trang trại ở mỗi nước khác nhau tùy thuộc vào quỹ đất. Ở Nhật Bản, Đài Loan phân loại trang trại có diện tích từ 0,3ha đến 10ha trở lên. Ở Việt Nam: Kinh tế trang trại được phát triển ở hầu hết các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Quy mô và phương thức sản xuất rất đa dạng. Theo nghi quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại, ngày 26/06/2000. Liên bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và tổng cục thống 10
- kê đã ban hành thông tư liên tịch 69/2000TTLT/BNNTCTK về hướng dẫn về tiêu chí để xác định trang trại. Tiêu chỉ nêu rõ: Mỗi hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại phải đạt cả hai tiêu chí định lượng dưới đây: Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân mỗi năm: + Đối với các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên. + Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế: a. Đối với trang trại trồng trọt: (1) Trang trại trồng cây hàng năm: Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. (2) Trang trại trồng cây lâu năm: Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên Trang trại trồng hồ tiêu 0,5 ha trở lên (3) Trang trại lâm nghiệp từ 10 ha trở lên. b. Đối với trang trại chăn nuôi: (1) Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò. Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên. Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên. (2) Chăn nuôi gia súc: lợn, dê. Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên từ 20 con trở lên, đối với dê cừu 100 con trở lên. Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa), dê thịt từ 200 con trở lên. 11
- (3) Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng… có thường xuyên từ 2000 con trở lên. c. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên. d. Đối với các loại sản phẩm lâm nghiệp nuôi trồng thuỷ sản có tính chất đặc thù như: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thuỷ sản và thuỷ đặc sản thì tiêu chí xác định là giá trị hàng hoá. 2.1.3.2 Phân loại trang trại Hiện nay, có nhiều cách phân loại khác nhau đối với trang trại, tùy vào đặc điểm, điều kiện cụ thể ở từng nước, từng vùng. Việc phân loại có ý nghĩa quan trọg trong việc nghiên cứu, phân tích và đưa ra các giải pháp phù hợp với từng loại hình. Sau đây là một số cách phân loại chính: a. Phân loại theo hình thức tổ chức quản lý Trang trại gia đình: Là loại hình trang trại độc lập sản xuất kinh doanh, mỗi gia đình có tư cách pháp nhân riêng do người chủ hộ hay người có năng lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý. Trang trại liên doanh: Là kiểu trang trại do hai hay nhiều trang trại hợp thành một trang trại lớn hơn để tăng them khả năng về vốn và tư liệu sản xuất nhằm tạo ra sức cạnh với các trang trại khác có quy mô lớn và tận dụng định hướng ưu đãi của nhà nước dành cho các trang trại lớn. Trang trại hợp doanh: Là trang trại được tổ chức theo nguyên tắc một công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Loại trang trại này thường có quy mô lớn và được chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao động làm thuê là chủ yếu. b. Phân loại theo hướng quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh Chủ trang trại hầu hết là người nông dân sống ở nông thôn. Họ là người trực tiếp quản lý sản xuất. 12
- Chủ trang trại sống ở nơi khác nhưng vẫn điều hành trang trại. Chủ trang trại là người sống ở thành phố, có trang trại ở nông thôn và thuê người quản lý điều hành mọi hoạt động sản xuất của trang trại. Trang trại uỷ thác cho người nhà, bạn bè quản lý sản xuất từng việc theo thời vụ hay liên tục nhiều việc. c. Phân loại theo cơ cấu thu nhập Trang trại thuần nông: Là trang trại chủ yếu chăn nuôi, trồng trọt không có chế biến, sản phẩm sản xuất ra bán luôn. Khi công nghiệp ngày càng phát triển thì loại hình này ngày càng giảm. Trang trại có thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp. d. Phân loại theo cơ cấu sản xuất Trang trại kinh doanh tổng hợp: Kết hợp công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp Trang trại chuyên môn hoá: Chuyên nuôi gà, vỗ béo lợn, nuôi bò thịt hoặc bò sữa, trồng cây ăn quả…hoặc chuyên sản xuất nông, lâm, thuỷ sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. e. Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất Chủ trang trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất từ đất đai, công cụ, máy móc, chuồng trại, kho bãi… Chủ trang trại sở hữu một phần tư liệu sản xuất, một phần ph ải đi thuê ngoài (có đất đai nhưng phải đi thuê máy móc công cụ). Chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, phải đi thuê toàn bộ đất đai, máy móc, thiết bị, kho tàng, mặt nước, chuồng trại. 2.1.4 Vai trò và xu hướng phát triển của kinh tế trang trại * Vai trò Trong nền nông nghiệp thế giới, trang trại là hình thức tổ chức cơ sở chủ yếu. Ở nước ta, mặc dù mới được phát triển nhưng kinh tế trang trại 13
- đã thể hiện vai trò quan trọng và tích cực không những về kinh tế mà còn cả về xã hội và môi trường. Về mặt kinh tế, các trang trại đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khắc phục tình trạng sản xuất phân tán, manh mún tạo nên những vùng chuyên môn hoá, tập trung hàng hoá và thâm canh cao. Mặt khác, qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến và dịch vụ cho sản xuất ở nông thôn. Thực tế cho thấy, việc phát triển kinh tế trang trại ở những nơi có điều kiện bao giờ cũng đi liền với việc khai thác và sử dụng một cách đầy đủ và hiệu quả hơn các nguồn lực trong nông nghiệp nông thôn so với kinh tế hộ. Do vậy, phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nông nghiệp, nông thôn và kinh tế hộ. Về mặt xã hội, phát triển kinh tế trang trại có vai trò quan trọng trong việc làm tăng số hộ giàu trong nông thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho lao động. Điều này có ỹ nghĩa rất quan trọng trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm, một trong những vấn đề bức xúc trong nông nghiệp và nông thôn ở nước ta hiện nay. Mặt khác, do trang trại được phát triển chủ yếu ở những vùng khó khăn về cơ sở hạ tầng nên phát triển kinh tế trang trại còn góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn. Các hộ trang trại là tấm gương cho các hộ nông dân về cách thức tổ chức quản lý kinh doanh, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Vì vậy, phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội và đổi mới bộ mặt nông thôn ở nước ta. Về môi trường, do sản xuất kinh doanh tự chủ và lợi ích thiết thực, lâu dài của mình mà các chủ trang trại đã luôn có ý thức khai thác hợp lý và 14
- quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong phạm vi không gian sinh thái trang trại và sau nữa là trong phạm vi từng vùng. Đặc biệt, các trang trại trung du miền núi đã góp phần tích cực vào việc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc bảo vệ môi trường sinh thái. * Xu hướng phát triển của kinh tế trang trại Các trang trại hình thành và phát triển theo những xu hướng chủ yếu sau: Tích tụ và tập trung sản xuất: Sau khi hình thành các trang trại vẫn tiếp tục diễn ra quá trình tập trung và tích tụ sản xuất. Tuy nhiên, tính chất và mức độ tích tụ và tập trung lúc này không hoàn toàn giống như tích tụ và tập trung các yếu tổ sản xuất của nông hộ để hình thành trang trại. Tích tụ và tập trung trong phát triển trang trại lúc này là mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường. Chuyên môn hoá sản xuất: Sản xuất ngày càng đi vào chuyên môn hoá là xu hướng tất yếu trong sản xuất kinh doanh của trang trại vì muốn sản xuất hàng hoá phải đi vào chuyên môn hoá sản xuất. Nhưng do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên chuyên môn hoá phải kết hợp với sản xuất đa dạng một cách hợp lý để khai thác có hiệu quả các nguồn lực đất đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động, đồng thời hạn chế rủi ro về thiên tai và biến động của thị trường. Nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh hóa sản xuất: Xu hướng nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất trong các trang trại là xu hướng tất yếu gắn liền với nâng năng suất lao động, năng suất cây trồng vật nuôi. Để làm được điều đó, các trang trại phải đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất, tăng cường áp tiến bộ kỹ thuật đặc biệt là công nghệ sinh học. Mặc khác, phải xây dựng 15
- cơ sở vật chất kỹ thuật cho từng trang trại phù hợp với sự phát triển khoa học của vùng có sự hỗ trợ nhất định của Nhà nước trong vấn đề xây dựng công trình nông thôn, nghiên cứu và phổ biến kỹ thuật thâm canh. Hợp tác và cạnh tranh: Các trang trại muốn sản xuất hàng hóa phải hợp tác và liên kết với nhau và với những đơn vị, tổ chức khác. Hợp tác để giúp nhau giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh như thủy nông, bảo vệ thực vật, các vật tư đầu vào cho sản xuất và đặc biệt là đầu ra cho sản phẩm. Đi đôi với việc hợp tác các trang trại phải cạnh tranh với các tổ chức và đơn vị kinh tế khác để tiêu thụ sản phẩm, tái sản xuất mở rộng. 2.1.5 Khái niệm về hiệu quả kinh tế 2.1.5.1 Các quan điểm về hiệu quả kinh tế Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã hội là thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, trong khi nguồn lực sản xuất có hạn và ngày càng khan hiếm. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả xã hội là một đòi hỏi khách quan với mọi nền sản xuất xã hội. Từ những giác độ nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế. * Quan điểm 1: Hiệu quả kinh tế được xác định bởi kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Công thức: H= Q/C Trong đó: H: Hiệu quả kinh tế C: Chi phí sản xuất Q: Kết quả 16
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể chúng ta sẽ có các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế. Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn sản xuất ta được hiệu suất vốn. Khi lấy giá trị sản lượng trên một đồng chi phí ta được hiệu suất chi phí. Hệ số H ( số tương đối) phản ánh trình độ sử dụng đầu vào nhưng không phản ảnh được quy mô sử dụng đầu vào. * Quan điểm 2: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Công thức tính: H= Q – C Xét trên phương diện kinh doanh, kết quả phép trừ trên là kết quả lợi nhuận trong sản xuất. Thực tế trong nhiều trường hợp không thực hiện được phép trừ hay phép trừ không có nghĩa. Tuy nhiên nếu ta thực hiện được phép so sánh kết quả của hai phép trừ với đại lượng chi phí bỏ ra như nhau, ta có được phần chênh lệch thì đây là hiệu quả kinh tế. Hiện nay quan điểm này chỉ sử dụng trong vài trường hợp nhất định. Hệ số H (đại lượng tuyệt đối hay số chênh lệch) chỉ phản ảnh được quy mô của hiệu quả nhưng không phản ảnh được trình độ sử dụng nguồn lực (đầu vào). * Quan điểm 3: Hiệu quả kinh tế được xem xét trong phần biến động giữa chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh. Nó biểu hiện ở quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Công thức: H= ∆Q/∆C H: Tỷ suất kết quả bổ sung ∆Q: Kết quả bổ sung ∆C: Chi phí bổ sung 17
- Quan điểm này thể hiện tỷ lệ mức độ tăng trưởng của kết quả sản xuất với mức độ tăng trưởng chi phí của nền sản xuất xã hội. Quan điểm này phức tạp một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh và chưa thật sự đầy đủ bởi trong thực tế, kết quả sản xuất luôn là hệ quả của chi phí sẵn có và chi phí bổ sung. 2.1.5.2 Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bố và hiệu quả kinh tế a. Hiệu quả kỹ thuật Hiệu quả kỹ thuật rất quan trọng trong sản xuất, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển và các quốc gia có nguồn lực khan hiếm ít có cơ hội phát triển hay việc phát triển công nghệ mới là rất khó khăn. Ở những nước này việc nâng cao lợi ích kinh tế được thể hiện bằng việc nâng cao hiệu quả kỹ thuật hơn là phát triển công nghệ mới. Hơn nữa, tất cả các hãng, các trang trại, các nông hộ đều muốn sản xuất ở mức độ tốt nhất để đạt lượng tối đa hơn là chỉ sản xuất ở mức sản lượng trung bình. Hiệu quả kỹ thuật là số sản phẩm thu thêm trên một đơn vị đầu vào đầu tư thêm. Nó được đo bằng tỷ số giữa số lượng sản phẩm tăng thêm trên chi phí tăng thêm số này gọi là sản phẩm biên. Nó chỉ ra rằng một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất đem lại bao nhiêu đơn vị sản phẩm. Hiệu quả kỹ thuật của việc sử dụng các nguồn lực được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, giữa các đầu vào với nhau và các sản phẩm khi nông dân quyết định sản xuất b. Hiệu quả phân bổ Hiệu quả phân bổ là giá trị sản phẩm thu thêm trên một đơn vị chi phí đầu tư thêm. Nó là hiệu quả kỹ thuật nhân với giá trị sản phẩm và giá đầu vào. Nó đạt tối đa khi doanh thu biên bằng chi phí biên. Thực chất hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các giá đầu vào và giá đầu ra, vì thế nó còn được gọi là hiệu quả giá. Việc xác định hiệu quả phân bổ 18
- giống như việc xác định các điều kiện lý thuyết biên để tối đa hóa lợi nhuận. c. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều này có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt một trong hai yếu tố hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả phân bổ thì chỉ mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để đạt hiệu quả kinh tế. Chỉ khi nào việc sử dụng nguồn lực đạt cả hai chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì khi đó sản xuất mới đạt hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế = Hiệu quả kỹ thuật x Hiệu quả phân bổ 2.1.5.3 Hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường Hiệu quả xã hội là sự phản ánh mối tương quan giữa các kết quả các lợi ích về mặt xã hội và sản xuất mang lại với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó như về việc giải quyết công ăn việc làm… Hiệu quả môi trường: Hiệu quả đạt được làm tăng độ phì của đất, giải quyết ô nhiễm môi trường. 2.1.5.4 Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế Từ những quan điểm về hiệu quả kinh tế nêu trên cho chúng ta thấy hiệu quả là một phạm trù trọng tâm rất cơ bản của khoa học kinh tế và quản lý. * Hiệu quả kinh tế (HQKT) là một phạm trù kinh tế khách quan, nhưng nó không phải là mục đích cuối cùng mà là mục tiêu của sản xuất. Mục đích của sản xuất là thỏa mãn tốt nhất nhu cầu về vật chất, tinh thần sáng tạo ra những kết quả hữu ích ngày càng cao của xã hội. Nhưng đạt 19
- được mục tiêu về hiệu quả kinh tế là với khối lượng nguồn lực nhất định tạo ra khối lượng sản phẩm có ích lớn nhất. * Kết quả và HQKT có quan hệ khăng khít với nhau. Kết quả là một đại lượng vật chất được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu, nội dung và tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể để xác định. Trong nền sản xuất hàng hóa kết quả hữu ích đạt được chịu tác động của các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa, nền kinh tế thị trường quy luật hiệu xuất giảm dần và các quy luật kinh tế khác trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Trong nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa ngoài sự ảnh hưởng của các quy luật trên kết quả còn chịu ảnh hưởng của các quy luật tự nhiên, đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và đặc trưng của thị trường. Điều trên cũng cho thấy hiệu HQKT không chỉ là một phạm trù kinh tế mà còn mang tính chất của phạm trù xã hội. Mặt khác, trong nông nghiệp do tính đặc tù của nó nên việc xác định, so sánh hiệu quả kinh tế là khó khăn và mang tính chất tương đối. * Hiệu quả là một đại lượng để đánh giá xem xét kết quả hữu ích được tạo ra như thế nào từ nguồn chi phí bao nhiêu, trong điều kiện cụ thể nào và có thể nhận được hay không. Như vậy, HQKT liên quan trực tiếp đến các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. * Đánh giá hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường, việc xác định các yếu tố đầu vào, đầu ra có nhiều khó khăn: * Những khó khăn trong xác định yếu tố đầu vào: Trong sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng tư liệu sản xuất vào nhiều quá trình sản xuất không đồng đều. Hơn nữa có loại rất khó để xác 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài "Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam và giải pháp"
20 p | 649 | 291
-
Chuyên đề tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả các chương trình PR tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Du lịch Mekong
121 p | 365 | 78
-
Đề tài: Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của nông hộ tại xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
71 p | 380 | 72
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng hệ thống đánh giá hiệu quả công việc theo chỉ số hiệu quả (KPI) tại Công ty cổ phần Suất ăn Hàng không Nội Bài (NCS)
119 p | 129 | 35
-
Tiểu luận: Công tác đánh giá hiệu quả làm việc cuối năm tại bệnh viện Hùng Vương
30 p | 169 | 25
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp tư nhân Hòa Nga
78 p | 114 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Xây dựng Giao thông Thừa Thiên Huế
78 p | 116 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả kinh tế cây chè xanh trên địa bàn xã Thanh Thủy - huyện Thanh Chương - tỉnh Nghệ An
82 p | 100 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả kinh tế nuôi tôm của các nông hộ trên địa bàn xã Trung Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
92 p | 102 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng TMCP Đông Á - CN Huế
81 p | 97 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả sản xuất hương trầm của các hộ gia đình ở phường Thủy Xuân, thành phố Huế
59 p | 107 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc chuyển đổi đất trồng cây hàng năm sang trồng hoa đào tại địa bàn phường Cam Giá thành phố Thái Nguyên
63 p | 34 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả sử dụng đất trồng ớt tại trang trại 14 Paran - israren
65 p | 33 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện hệ thống đánh giá hiệu quả công việc tại Điện lực Cẩm Khê
85 p | 11 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Đánh giá hiệu quả của hoạt động tự đánh giá ở các trường trung học phổ thông huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương
130 p | 38 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Đánh giá hiệu quả của một số mô hình rừng trồng kinh tế tại lâm trường Phúc Tân tỉnh Thái Nguyên
135 p | 22 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Đánh giá hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp ở Việt Nam
27 p | 23 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn