intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Kế thừa những tư tưởng giáo dục về giáo dục của Khổng Tử trong việc xây dựng nền giáo dục nước ta hiện nay

Chia sẻ: Ngà Mốc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

184
lượt xem
37
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Kế thừa những tư tưởng giáo dục về giáo dục của Khổng Tử trong việc xây dựng nền giáo dục nước ta hiện nay" có kết cấu nội dung gồm 2 phần: Phần 1 tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục, phần 2 kế thừa tư tưởng giáo dục của Khổng Tử trong việc xây dựng nền giáo dục hiện nay ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Kế thừa những tư tưởng giáo dục về giáo dục của Khổng Tử trong việc xây dựng nền giáo dục nước ta hiện nay

  1. PHẦN MỞ ĐẦU Lịch sử luôn luôn chứng tỏ rằng, con người là chủ thể của mọi quá trình  lịch sử xã hội, chủ  thể  của sự  phát triển chính mình. Đất nước muốn được  kiến tạo, xã hội muốn được phát triển không có con đường nào khác hơn là  coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài. Người có công đầu tiên nhận thấy vai trò quan trọng và cần thiết để thúc đẩy  sự  phát triển của xã hội, đưa xã hội thịnh trị  đó là Khổng Tử. Với hệ  thống tư  tưởng về giáo dục khá hoàn chỉnh của mình Khổng Tử xứng đáng được suy tôn là  "sư vạn biểu" Nền giáo dục nước ta đã kế thừa tư tưởng về giáo dục của Nho giáo nói  chung, của Khổng Tử  nói riêng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, sự  kế  thừa ấy đã có những sáng tạo, phát huy cho phù hợp với từng giai đoạn, hoàn  cảnh lịch sử nhất định. Đảng và Nhà nước ta đã xác  định "giáo dục là quốc sách hàng đầu"  chính vì thế  trong văn kiện Hội nghị  lần thứ  hai BCH Trung  ương khoá VIII   đã xác định nhiệm vụ  và mục đích cơ  bản của giáo dục Việt Nam là " nhằm   xây dựng những con người và thế hệ tha thiết gắn bó với lý tưởng độc lập và   Chủ  Nghĩa Xã Hội có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và   bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy   các giá trị  văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân   loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng   đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công   nghệ  hiện đại, có tư  duy sáng tạo, có kỹ  năng thực hành giỏi có tác phong   công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ là những người kế thừa   xây dựng Chủ  Nghĩa Xã Hội vừa hồng vừa chuyên như  lời căn dặn của Bác   Hồ". Đến đại Hội Đảng lần  IX, một lần nữa  Đảng ta khẳng  định  "Phát  triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy   1
  2. sự  nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là điều liện phát huy   nguồn lực con người ­ yếu tố c ơ b ản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh   tế nhanh và bền vững". Tuy nhiên hiện nay, nền giáo dục nước ta nhìn chung vẫn còn nhiều bất  cập từ mục đích dạy ­ học, phương pháp giảng dạy, nội dung dạy và yêu cầu   chất lượng dạy và học cũng như việc sử dụng nhân tài của nước ta đang còn  nhiều tranh cãi. Nhằm tổng kết đánh giá lại vai trò học thuyết giáo dục của Khổng Tử  cũng như nền giáo dục của Việt Nam ­ một trong những vấn đề bức xúc hiện   nay ­ từ đó thấy được những giá trị trong học thuyết giáo dục của Khổng Tử  đã và đang đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay nhiều vấn đề cần suy   nghĩ. Chính vì thế chúng tô đã chọn tài "Kế thừa những tư tưởng giáo dục về  giáo dục của Khổng Tử trong việc xây dựng nền giáo dục nước ta hiện nay"   để làm bài khoá hết môn học.  Kết cấu đề tài:(Gồm 2 phần) Phần 1 : TƯ TƯỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ GIÁO DỤC Phần   2:   KẾ   THỪA   TƯ   TƯỞNG   GIÁO   DỤC   CỦA   KHỔNG   TỬ  TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM PHẦN 1: TƯ TƯỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ GIÁO DỤC 1.1. Sự ra đời của học thuyết về giáo dục của Khổng Tử 1.1.1. Về kinh tế. Từ thế kỷ VIII tr.CN, xã hội Tây Chu bước vào thời kỳ Xuân Thu (770 ­  481 tr.CN) gây nhiều biến dộng t rong xã hội . Thời gian này đồ sắt xuất hiện   phổ biến đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất nông nghiệp và   thủ   công   nghiệp.   Đây   cũng   là   thời   kỳ   khởi   sắc   của   nền   kinh   tế   thương   nghiệp, những thành thị thương nghiệp được hình thành. Con đương buôn bán  xuất hiện xuất nhập nhộn nhịp  ở các nước Hàn ­ Tề ­ Tần ­ Sở. Thành thị  đ ã  2
  3. có một số  cơ  sở  kinh tế  tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế  độ  thành thị thị tộc của quý tộc thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp   địa chủ  mới lên (Hiển tộc) và trở  thành  "Hai đô thị  sánh nhau trong nước"  (Kinh Thi). Sự  phát triển của sức sản xuất, kinh tế  phát triển đã tác  động  mạnh mẽ  đến hình thức sở  hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội,  những người giàu có mua ruộng đất trở thành sở hữu riêng biệt của họ. Chính  vì thế  giai cấp quý tộc thị  tộc Chu bị  mất đất, mất dân, địa vị  kinh tế ngày  càng sa sút. Vai trò chính trị, ngôi Thiên tử  của nhà Chu chỉ còn là hình thức.  Sự phân biệt sang ­ hèn dựa trên tiêu chuẩn huyết thống của chế độ thị tộc tỏ  ra không còn phù hợp nữa mà đòi hỏi phải dựa trên cơ sở tài sản.  Như  vậy, những biến động kinh tế  đã dẫn đến sự  đa dạng trong kết  cấu giai tầng của xã hội. Giai tầng mới ­ cũ đan xen và mâu thuẫn ngày càng  gay gắt.  1.1.2 Về chính sự xã hội Tư  hữu hoá ruộng đất đã  ảnh hưởng đến tình hình chính trị  của nhà  Chu. Các chư hầu của nhà Chu không chịu phục tùng vương mệnh, không chịu   cống nạp và mang thôn tính lẫn nhau. Nhà Chu suy yếu. Xã hội mất  ổn định  do nền kinh tế phát triển, chứng tỏ chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc mà   quản lý bằng tổng pháp không còn phù hợp nữa. Những mâu thuẫn trong lòng  xã hội đòi giải thể chế độ nô lệ thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến, đòi  hỏi nhà nước của chế  độ  gia trưởng, xây dựng nhà nước của giai cấp quốc   dân giải phóng lực lượng sản xuất, mở  đường cho xã hội phát triển. Do nhà  Chu suy yếu lúc này xã hội "chú trọng dối trá và vũ lực mà coi thường nhân   nghĩa, coi trọng của cải mà đánh giá thấp sự khiêm tốn nhún nhường, cho nên   có những thương gia giàu có đến trăm triệu mà có người nghèo ăn cám m ãi   không biết chán, có những nước mạnh thôn tính các nước nhỏ, bắt chư  hầu   3
  4. phải thần phục lại những nước yếu, phải tuyệt tự  và tiêu diệt"  (Sử Ký Tư  Mã Thiên). 1.1.3. Về khoa học ­ văn hoá, tư tưởng Xã hội đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển, tầng lớp dân tự do   xuất hiện, các thành thị tự do phồn vinh và những thành quả đạt được trên lĩnh  vực khoa học tự nhiên là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển có tính  chất đột biến của tư tưởng thời kỳ. Thời kỳ này thiên văn phát triển, trong y học phát hiện nhiều cây thuốc,  biết cách chữa bệnh bằng bấm huyệt tìm ra mực và chữ  viết trên lụa. Ngoài  ra, thời kỳ  này cũng tìm ra được diện tích của tam giác, hình vuông, cách đo  lường và nghiên cứu những dạng chuyển động cơ  học. Thời gian này ngành  luyện kim, đúc đồng cũng phát triển cao. Về  văn hoá tư  tưởng, thời kỳ  này tình hình xã hội có nhiều chuyển  biến, phân hoá giai cấp, từ đó làm xuất hiện nhiều hệ thống học thuyết chính  trị, đạo đức bàn về  xã hội , các vương hầu đua nhau thực hiện chính sách   "chiêu hiền", "đãi sĩ" với mong muốn có những chính sách hữu hiệu. Nhiều tụ  điểm (như nhà Mạnh Thường Quân) mà  ở  đó "kẻ xử sĩ bàn ngang" hay "bàn  việc nước" xuất hiện. Họ  đều đứng trên lập trường của giai cấp mình, tầng  lớp mà phê phán trật tự xã hội cũ, xây dựng (trong tư tưởng) xã hội tương lai  và tranh luận, phê bình, đả kích lẫn nhau. Chính trong quá trình tranh minh đó  đã  đẻ  ra những nhà tư   ưởng vĩ đại (Khổng Tử, Lão Tử, Hàn Phi Tử...) với  những học thuyết khá hoàn chỉnh có ngôn ngữ và ý nghĩa khá chặt chẽ tồn tại  và  ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử  tư  tưởng Trung Quốc mãi cho tới thời  cận đại. Nhiều triết thuyết xuất hiện như  Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, Mặc  gia, Âm ­ dương gia... tất các triết thuyết đều chú trọng tới việc tìm kiếm  nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm ổn định trật tự xã hội. 4
  5. ­ Đạo gia cho rằng nguyên nhân xã hội mất  ổn định là do con người  tranh giành nhau, vì vậy học thuyết này khuyên con người đừng tranh giành  nhau và thực hiện "vô vi vô bất vi" (làm nhưng đừng để người biết mình làm). ­ Mặc gia cho rằng nguyên nhân sâu xa để xã hội suy là do con người  không yêu thương nhau. Vì vậy ông chủ  trương  "kiêm ái", có nghĩa là mọi  người cùng thương yêu nhau, cùng làm lợi cho nhau. ­ Pháp gia lại cho rằng nguyên nhân gây rối loạn xã hội là do luật pháp  không nghiêm, do đó phải dùng pháp trị để ổn định trật tự xã hội. Khổng Tử  lại cho rằng xã hội loạn lạc bởi con người vô đạo, vua  không giữ đúng đạo vua, tôi không làm giữ  đúng đạo tôi, cha không giữ  đúng  đạo cha, con không làm đúng đạo con cho nên thiên hạ "đại loạn". Do đó, cần  phải đưa con người về  "hữu đạo", sống theo "chính danh" của mình, lập lại  kỷ cương "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử" (Luận ngữ, Nhan Uyên ­ 11)  bằng con đường giáo hoá. Đạo và giáo là hai vấn đề lớn trong quan niệm của   Khổng Tử. Đạo nhờ có giáo mới vững, sâu sắc, rộng khắp; giáo mà không có   mục đích nào cao quý hơn là làm cho con người vững đạo.  Theo Khổng Tử, giáo dục sẽ  dẫn dắt con người ta biết và thực hiện  đạo làm người, đó là "gốc tựa như sao Bắc đẩu sáng ở một chỗ, mọi sao khác   đều quy về". Như vậy, ông lấy giáo dục làm tối trọng đại và nó có mục đích  lấp đầy các hố  phân chia giai cấp xã hội, là yếu tố  quyết định trong sự  thi  hành chủ  trương chính trị, đức hoá dân trị, lấy nhân cách gương mẫu để  trị  dân mong nâng ở mỗi người dân lên trình độ  "hữu sĩ thả cách" (biết liêm sĩ là  có nhân cách). Từ  những tư  tưởng  ấy mà Khổng Tử  đã dưa ra tư  tưởng về  giáo dục  con người. Với học thuyết  về  giáo dục được suy tôn là "nhà mô phạm đầu   tiên tiêu  biểu cho  nhà   giáo  muôn  đời".  Ông là  người  thầy hết  lòng vì   sự  5
  6. nghiệp "mặc nhi chí chi, học nhi bất yếm hối nhân bất huyện, hà hữu ư  ngã  tại" (im lặng mà nhớ, học mà chẳng chán, dạy người không mỏi, ba điều ấy   ta có được điều nào) (luận ngữ ­ thuật nhi 2). 1.2.Nhà giáo dục vĩ đại Khổng Tử. Con người sống  ở  trên đời giống như  bơi ngược dòng sông, lúc tiến, khi  lùi. Bản thân muốn vươn lên, phải không ngừng nỗ  lực phấn đấu, rèn luyện  tài năng, tu dưỡng đức hạnh, tu luyện ý trí để vượt qua mọi gian khó. Tuân Tử  ­ nhà tư tưởng thời Chiến Quốc từng nói: “Không ngừng truy cầu sau đó mới   có được; không ngừng làm việc sau đó mới có thành tựu; không ngừng tích   lũy, sau đó mới nâng cao; không ngừng hoàn thiện, sau đó mới trở thành thánh   nhân. Cho nên, thánh nhân cũng là người bình thường do không ngừng tích lũy   mĩ đức mà thành”.  Nền văn hóa cổ điển Trung Quốc có nguồn gốc sâu xa, uyên thâm, là kết tinh   giữa tư tưởng với trí tuệ của các bậc “thánh hiền” thời cổ đại. Kinh điển mà họ  để lại cho người đời không chỉ là một số văn tự cụ thể mà đằng sau những “tinh  luyện” này, gợi mở cho người đời sau đi  sâu vào lĩnh vực tâm trí chính xá của   con người. Nó trở thành “tấm biển dẫn đường” thức tỉnh những tiềm năng đang  còn ngủ say trong đại não. Khổng Tử (551­ 479 TCN) tên Khâu, tự  Trọng Ni, là ngườ i nướ c Lỗ. Ông không  những là mộ t nhà hiền triết của Trung Qu ốc, mà còn là  người thầy của mọi th ời đạ i “vạn thế s ư biểu” . Tư  tưở ng   giáo dục Khổng T ử tuy có mặt còn hạn chế bởi xã hộ i  đươ ng th ời, nh ưng Ng ườ i đã để lại cho đời sau nhiều câu   nói bất hủ với nh ững quan điểm mà đế n nay trong vấn đề  giáo dục con ng ườ i, đố i nhân xử thế ở gia đình, ngoài xã  hộ i cần phải noi theo. Khổng Tử sinh vào thời Xuân Thu. Tuy thuộc dòng  dõi quý tộc nhưng theo ông kể, lúc nhỏ  nghèo hèn.  Khổng Tử  chịu khó học và học bất cứ  ai, bất cứ  lúc  nào. 6
  7. Thời trẻ, ông  mở  trườ ng dạy h ọc, sau đó ra làm chức quan nhỏ  rồi đi  chu du thiên hạ  truyền bá đạo lý của mình. Cu ối đời, ông tr ở  về  n ước Lỗ  dạy học và chỉnh lý văn hoá điển tịch. Luận ngữ là bộ  sách do các học trò  c ủ a Kh ổ ng T ử  ghi l ạ i nh ữ ng l ời nói, vi ệ c làm c ủ a ông, là c ứ  li ệ u quan   tr ọ ng nghiên c ứ u t ư  t ưở ng c ủ a Ng ườ i th ầ y vĩ đ ạ i này. Suốt cuộc đời, nhà hiền triết đã dùng thực tiễn và sự tìm tòi khổ luyện để  cống hiến cho đời sau biết bao tư  tưởng giáo dục sáng ngời. Nhan Hồi­ học  trò xuất sắc của Khổng Tử  đánh giá:  “Đạo của thầy trông lên, càng trông   càng thấy cao, đục vào, càng đục càng thấy rắn”(Luận Ngữ). Người đời sau  còn nói:  “Đạo của thầy truyền đi khắp bốn phương, truyền đến muôn đời   không dứt”. Việ c giáo dục con ng ườ i c ủa Kh ổng T ử l ấy  đứ c dụ c  là gốc và lấy  trí   dụ c làm ngọn. Cái gốc có bề n chặt thì cái ng ọ n mới t ươi tốt. Có đứ c dục  thì nghĩa lý thấm vào lòng ng ườ i ta, làm cho t ự   mình b ỏ  được cái bụ ng  gian tà. D ẫu ng ườ i ta không hoàn toàn th ực hành cái đạ o củ a thánh hiề n  nhưng cũng gây đượ c nh ững n ền n ế p tốt trong xã hội đ ương thời. Khổng Tử dạy học trò chủ yếu không phải là truyền thụ tri thức mà là bồi  dưỡng đức hạnh. Tri thức cũng chỉ là cho biết thiện, ác, làm rõ đúng sai, hiểu  nghĩa lý là những cách để  tiến đức. Trong đức hạnh, cao nhất là đức “nhân”,  biểu hiện của nhân  là: “Khắc kỷ phục lễ” (tự khắc phục mình theo đúng lễ). 1.3. Nội dung tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử 1.3.1. Quan điểm về con người và đào tạo con người của Khổng Tử  Khổng Tử   ảnh hưởng của quan điểm triết học cổ  cho rằng "bẩm thụ  bởi khí" ­ con người chính là sự  điều hoá của khí. Con người ­ trời ­ đất là   nhất thể. Theo Khổng Tử con người là bẩm sinh là người ngay thẳng "nhân  chi sinh đã trực, vòng chi sinh dã hạnh nhị miễn" (người ta sinh ra có tính ngay  7
  8. thẳng, người nào không ngay thẳng sống được là may khỏi (hoạ) đó thôi)  (Luận ngữ ­ Ung dã ­ 17)  nhưng do thói quen con người xa nhau  "tính tương   cận dã,  tập tương viễn dã"  (Khi mới sinh ra tính của mọi người cũng gần   gống nhau, sau vì tập quán, mới cùng xa nhau) ­ (Luận ngữ ­ Dương hoá ­ 2).  Như vậy theo hổng Tử, con người ban đầu, nguyên sơ do cha mẹ sinh ra, trời  đất bẩm thụ căn bản là giống nhau, song con người hiện thực lại không như  vậy, mỗi người mỗi vẻ  "tập tương viễn". Đó là do con người có điều kiện  sống, hoàn cảnh sống khác nhau, có sự nỗ lực nhận thức và hành động mỗi cá   nhân khác nhau. Những nhân tố  đó tạo nên những sắc thái riêng của từng cá  nhân. Bởi vậy bên cạnh việc nhấn mạnh nhân tố giáo dục, giáo dưỡng Khổng   Tử còn đề cao tư tưởng "tu thân". Đây là quan điểm chứa nội dung nhân bản  và tiến bộ. Song đôi lúc ông còn lại bị chi phối bởi lập trường giai cấp, những   dấu ấn về tư tưởng, tôn giáo chính trị của thời đại làm cho tư tưởng của ông   dường như mâu thuẫn. Bên cạnh việc khẳng định con người chịu sự chi phối  của hoàn cảnh do đó con người phải được giáo dục để  hoàn thiện mình thì  theo Khổng Tử có thiên mệnh quy định số  phận của con người "Duy thượng   trí, dữ hạ ngu bất di" (Chỉ có bậc trí thức ở trên, kẻ ngu dốt ở dưới là không  thay đổi) . Do đó, tư tưởng về  con người của ông vừa duy tâm, vừa duy vật,   vừa tiến bộ, vừa bảo thủ. Tóm lại theo Khổng Tử con người cần được giáo dục, với tính thiện thì  phải "tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tính" (bảo tồn lương tâm, nuôi dưỡng tính thiện),  đối với tính ác cần phải chế  ngự  dục vọng hướng con người tới các phẩm  chất: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín để sống đúng "danh", "vị" của mình. 1.3.2 Đối tượng giáo dục Khổng Tử  chủ  trương  "hữu giáo vô loại"  (Luận ngữ  ­ Vệ  Linh công­ 28), ông dạy học cho tất cả mọi người, không phân biệt đẳng cấp, sang hèn  8
  9. "từ người đem gói nem đến ta chưa từng không dạy ai"  (Luận ngữ ­ thuật nhi  ­ 7). Đây là điểm tiến bộ  của ông, nếu trước đó nền giáo dục chỉ chú ý đến  tầng lớp con em quý tộc thì Khổng Tử có quan niệm bình đẳng trong giáo dục,  dạy không những cho con em quý tộc mà còn dạy cho cả  con em tầng lớp   nhân dân lao động. Theo Khổng Khâu  "sinh nhi tri chi giả  thượng dã.  Học nhi tri chi giả   thứ giả, khốn nhi học chi hựu kỳ thứ giả. Khốn nhi bất học dân tư  vi hạ hý"  (Luận ngữ ­  Quý Thị  ­ 9). Như  vậy, Khổng Tử  đã phân biệt thiên hạ  thành  bốn hạng người: có hạng sinh ra là biết, có hạng do học mà biết, có hạng do   khó khăn khốn khổ mà biết, và hạng không bao giờ xê dịch. Hạng thứ nhất là  hạng những người  "trí lên cao"  (thượng trí) có thể  coi như  là cực kỳ  hiếm  nếu không phải là không có trong thực tế. Hạng thứ tư là hạng những người   "hạ ngu" thì không thể tự mình xê dịch đi đâu cho đúng đạo, chỉ  cần nói theo  các hạng trên là được. Bởi vậy đối tượng cần nhằm vào để làm cho biết đạo,  hiểu đạo là hạng thứ hai và hạng thứ ba. Trong đó, hạng thứ hai là đối tượng  đáng chú ý nhất. Nhìn vào xã hội nhà Chu nói riêng và xã hội cũ nói chung,  hạng  ấy bao gồm những người thuộc các tầng lớp thường thường bậc trung,  các tầng lớp khá giả  và các tầng lớp bên trên, nghĩa là những người có điều  kiện để trở thành những nho và sĩ. Học được, những người ấy sẽ có tác dụng   tích cực quan trọng đốivới hạng người phải do khó khăn khốn khổ  mới biết   cũng như đối với hạng người chỉ có thể  "noi theo" chứ không thể "biết" thật  sự. Vậy ông chủ trương đối với dân việc gì cần thiết thì sai khiến chứ không  nên giảng giải vì dân hông có khả năng hiểu ý nghĩa công việc mình làm. Cho  nên giáo dục có thể  cải hoá tất cả, trừ  những người gọi là thượng trí và  những kẻ hạ ngu. Nhìn chung,  đối tượng giáo dục của Khổng Tử  là đào tạo những con   9
  10. người  thuộc giai  cấp thống trị,  đào tạo những người  thuộc  giai  cấp khác  nhưng có thê bổ  sung cho giai cấp thống trị và đào tạo những người dân biết   "đạo" để dễ bề sai khiến.  Ông có quan niệm như vậy bởi vì mục tiêu của ông là cần  đào tạo bổ  sung cho đội ngũ giai cấp thống trị, làm cho mọi người làm đúng "danh" xứng  với "phận" của mình, đồng thời tạo ra tầng lớp "sĩ" nhằm giúp giai cấp quý  tộc trị nước thay thế hạng quý tộc thiếu đức, thiếu tài. 1.3.3. ý nghĩa và mục đích giáo dục. 1.2.3.1. Ý nghĩa Đối với Khổng Tử  ý nghĩa tối đại của giáo dục là cải đạo nhân tính.  Ngài không hay nói nhân tính, thiện ác. Nhân tính đối với ngài trà trộn cả thiện  lẫn ác. Ông chỉ  coi trọng về  hiệu quả  giáo dục là phần hậu thiên. Thiện ác   của nhân loại đều do giáo dục hậu thiên quyết định. Muốn con người trở về  chỗ  thiện bản thiên thì phải giáo dục, nghĩa là giáo dục hoà được ác thành  thiện,  "tu  đạo chi  vị  giáo"  (giáo dục là tu sửa cái đạo làm người) (Trung   Dung), hay "đại học chi đạo tại minh minh đức" (cái học làm người lớn ở chỗ  làm rạng cái đức sáng) ­ (Đại học). Vậy "tư đạo" và "minh đức" là mục đích  tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính theo Khổng Nho. Khổng Tử  quan niệm cái giáo dục để  cải tạo nhân tính  ấy chỉ  có tính chất mở  mang tri  thức, giải thích vũ trụ mà thôi, Khổng Tử chú trọng đến nhân cách đầy đủ, lấy  giáo dục để  mở  mang cả  trí, tình lẫn ý, hay là trí, nhân, dũng, cốt sao dạy  người hoàn thành con người đạo lý. Cho nên sách Trung Dung viết "tự  minh   thành vị  chi giáo"  (tự  sáng tỏ  đến chỗ  thành thật gọi là giáo dục), đối với  người quân tử  "học dĩ chí kỳ  đạo" (học để  đến được đạo lý ­ Tử  Hạ). Như  vậy giáo dục có ý nghĩa trọng yếu phi thường. Nên bất cứ một thiên tài lỗi lạc   như thế nào nếu không để cho giáo dục uốn nắn thì cũng không thể thành một  10
  11. nhân cách hoàn toàn được. 1.2.3.2. Mục đích giáo dục: theo Khổng Tử  giáo dục có ba mục đích   chính. + Học dĩ chí dụng: Học để ứng dụng cho có ích với đời "tụng thi tam bách, thụ chi dĩ chính   bất đạt, sứ   ư  tứ phương, bất năng chuyên đối, tuy đa diệc hề  dĩ vi" (tử Lộ ­  13), dù đọc ba trăm bài Kinh Thi nhưng đi sứ không tròn thì học có ích chi. + Hoàn thành nhân cách: Ngày xưa học vì mình thì bây giờ học vì người khác "cổ chi học giả vị   kỷ,  kim chi h ọc gi ả  v ị  nhân"  (Hiến vấn ­ 25). Nh ư  v ậy theo Kh ổng T ử,   giáo dục học tập có mục đích hoàn thành nhân cách để   ứng dụng với đời.  Đây là kết quả  của quá tình giáo dục "tử  dĩ tứ  giáo: văn, hành, trung, tín"  là ba mục thuộc về  ph ươ ng di ện nhân sinh, hành vi, đại biểu cho nhân  cách của một cá nhân hành động ở đời vậy. + Tìm tòi chân lý: Khổng Tử hết sức phản đối cái học cầu lợi, tranh đấu về quyền lợi mà  chú trọng vào mục đích tìm chân lý trong việc giáo dục. Chân lý ở  đây tức là  đạo lý, cho nên ngoài định nghĩa cho giáo dục là: "tu đạo chi vị  giáo" (tu sửa  đạo lý gọi là giáo dục), do đó  "sớm nghe đạo lý tối chết có thể  được vậy"  (Luận ngữ ­ Lý nhân 4) Tóm lại, theo Khổng Tử, giáo dục nhằm ba mục đích lớn là học dĩ chí  dụng, hoàn thành nhân cách và tìm tòi chân lý. Suy đến cùng chính là nhằm tạo  ra lớp người mẫu mực trong xã hội để  họ  ra làm quan giúp đời "trong lúc xã  tắc rối ren không ra làm quan không phải là người trí, không ra giúp đời   không  phải là người nhân" (Dương hoá ­ 1).  11
  12. 1.3.4. Nội dung dạy học  Từ  cách nhìn Nho giáo về  các vấn đề  chính trị  xã hội, từ  cách quan  niệm của Khổng Tử  về  con người đã quy định nội dung đào tạo con người.  Đó là thông qua các sách Tứ Thư, Lục Kinh ( Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân   Thu) để  dạy con người biết đạo và hành đạo nhằm đưa x ã hội trở  về  "hữu  đạo".        Con người lý tưởng trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Mỗi thời đại đều có một mẫu người trung tâm. Họ đóng vai trò lớn cho sự  duy trì, và phát triển xã hội.  ở  phương Tây cổ  đại, mẫu người lý tưởng là  những nhà thần học, quý tộc.  ở phương Đông cổ  đại, họ  là bậc kẻ  sĩ, người  quân tử. Bậc kẻ  sĩ, người quân tử  là mẫu người lý tưởng có tính hiện thực,  trở thành lực lượng cốt cán duy trì, bảo vệ trật tự xã hội phong kiến.  Kẻ  sĩ là những người được giáo dục và trưởng thành lên từ  tầng lớp thứ  dân, nhờ  hết lòng  học đạo, học giỏi, thông qua thi cử hoặc tiến cử mà ra làm  quan. Tiêu chí đầu tiên phân biệt kẻ sĩ với thường dân chính ở sự chuyên tâm  học đạo. Nếu người dân thường chăm lo đến sản xuất vật chất, mưu cầu   miếng cơm manh áo thì kẻ  sĩ chỉ  chú trọng việc học đạo và tu dưỡng tinh   thần. “Kẻ  sĩ mà chỉ  mong được ăn mặc sung sướng thì chẳng đáng là kẻ  sĩ   vậy”(Luận ngữ).  Thực tế, không phải kẻ sĩ nào cũng làm tròn bổn phận. Không ít kẻ sĩ “giả  danh đạo lý” để mưu cầu bổng lộc, lợi ích cá nhân. Việc giáo dục kẻ  sĩ bộc  lộ tính hai mặt: vừa mang tính tiến bộ vừa mang tính hoà hoãn mâu thuẫn. Vì  thế, có lúc bị  biến chất cái hay, cái nhân bản trong ý đồ  giáo dục ban đầu  Khổng Tử đưa ra. Cùng với giáo dục kẻ  sĩ, giáo dục người “quân tử” là vấn đề  quan trọng  nhất Khổng Tử hướng tới. Quân tử là những người có tài, có đức mà do đó họ  12
  13. có địa vị  bề  trên dẫn dắt số  đông người kém, tài mọn bên dưới gọi là tiểu  nhân. Như vậy, quân tử có địa vị, có nhân cách và vai trò lớn trong xã hội.  Người quân tử hướng tới giá trị tinh thần còn tiểu nhân luôn bị các nhu cầu vật  dục chi phối, sai khiến. Cái nhìn thể hiện hạn chế của tư tưởng giáo dục Khổng  Tử khi chỉ trọng mặt tinh thần “nhân, lễ, nghĩa, trí”, mà chưa thấy vai trò của hoạt  động vật chất.  Nhân cách Khổng T ử  muốn hướ ng t ới là quân tử, nhưng ông vẫn nói  mình   chưa   thực   hiện   được   đạo   người   quân   tử.   Theo   Khổng   T ử,   ng ười  quân t ử  phải gi ữ  đượ c bốn điều:  “Đối với ngườ i là tự mình khiêm cung,   đối với bậc quân trưởng thì một lòng kính tr ọng, thường đem ân huệ  mà   thi thố cho dân, sai khi ến dân một cách phải nghĩa”.  Có thể nói, mô hình nhân cách người quân tử là niềm tự hào trong giáo dục   Khổng Tử   cũng  như    Nho  giáo  ở  xã hội  phong kiến.  Nhưng  chính  họ,  ở  phương diện nào đó, là người bảo thủ, cố hữu dẫn đến sự trì trệ kéo dài chế  độ phong kiến phương Đông. Nội dung đào tạo là truyền bá cho mọi người hiểu và thực hiện đạo làm  người. Đó là đạo vua ­ tôi, đạo cha ­ con, đạo chồng ­ vợ, đạo anh ­ em, đạo  bằng ­ hữu, đạo thầy ­ trò... làm cho con người hữu đạo, nhà nhà hữu đạo, cá  nước hữu đạo, thiên hạ hữư đạo. Khổng Tử thiên về giáo dục, chính trị, đạo  dức. Đào tạo con người được chú trọng trước hết đến khía cạnh nhận thức   theo phương châm  "tiên học lễ, hậu học văn". Đây là nội dung cơ  bản của  Nho giáo. "Lễ" là phạm trù có từ  rất lâu. Thời thượng cổ  "lễ" được hiểu sự  cúng tế thần linh, thời Tây Chu, Chu Công định lễ để duy trì trật tự xã hội  là  "tổng pháp", lễ  lúc đó  có nội dung chính trị, sang các đời sau lễ  đượ c mở  13
  14. rộng ra là phong tục tập quán. Đến đời Đông Chu, Khổng Tử sử dụng "lễ"  để chỉ nội dung mới là luân lý, là k ỷ luật tinh thần. Ông sửa đổi lễ nhà Chu   cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.   Về  hình thức, lễ  chỉ  là một trong năm điều Ngũ thường (nhân ­ lễ  ­  nghĩa ­ trí ­ tín) nhưng về thực chất nó vẫn giữ vai trò chi phối. Do đó bất kỳ  người nào cũng phải thực hiện "lễ", đó là cơ sở để phân biệt phải, trái, đúng,  sai. Theo Khổng Tử giáo dục đạo đức là hàng đầu, "bất chi lễ, vô dĩ lập dã",  nếu không học lễ thì chẳng biết cách đứng được với đời. Tuỳ việc phân chia  khả  năng nhận thức của con người, Khổng Tử chia nội dung giáo dục thành  hai loại tương ứng. ­ Bậc hạng trung trở lên thì giảng đạo lý cao sang, đạo đức, ngôn ngữ,  chính trị, văn học. ­ Bậc thấp đến bậc vừa thì chủ  yếu dạy Lục nghệ  :lễ, nhạc, xạ, ngư,   thư, số. Như  vậy, nội dung đào tạo không chỉ  là tri thức sách vở  mà còn là  những hoạt động trong cuộc sống. Nh ững n ội dung  ấy th ể hi ện qua T ứ th ư,   Ngũ Kinh cụ thể: ­ Sách "đại học": sách học để  làm quan, bàn đến những vấn đề  dạy và  học như thế nào.              ­ Sách "trung dung": đề cập đến cách cư xử, xử thế giữa người với   người.                ­ Sách "luận ngữ": chủ  yếu là học trò ghi chép và luận bàn những  điều Khổng Tử dạy.  ­ Mạnh Tử: đề  cập chủ  yếu đến mối quan hệ  vua ­ tôi, xây dựng một   nền chính trị hợp lòng dân. ­ Kinh Dịch: nói lên sự biến đổi theo đạo, đó là nhân ­ trung ­ chính, tức  14
  15. là theo lẽ phải, theo quy luật của tạo hoá để sửa mình. ­ Kinh Thư: sách chép những lời vua ­ tôi dạy bảo khuyên răn nhau từ  thời Nghiêu Thuấn đến Đông Chu. ­ Kinh Thi: là bộ sách tập hợp các bài thơ ca (305) từ thời Thượng cổ tới  thời vua Bình Vương nhà Chu, gồm ba bộ phận: phong, nhã, tùng. Sách nói về  mười năm quốc phong tình cảm của con người với thiên nhiên, xã hội, và với  con người. Người Trung Quốc quan niệm "thi" quan trọng bởi vì "thi dĩ ngôn  chí, văn dĩ tại đạo". ­ Kinh Lễ: là bộ  sách ghi chép những nghi lễ, tế tự của con người thời   ấy ­ Kinh Xuân Thu: do Khổng Tử  viết, ghi chép vài sự  kiện từ  thời Lỗ  Uẩn Công đến Lỗ Ai Công. Sách chứa nhiều tri thức về thiên văn học. ­ Nhạc: làm cho lòng người hưng khởi. Trong đó, Khổng Tử chú trọng đến Kinh Thi, Kinh Thư và Kinh Lễ bởi  vì: ­ Kinh Thi: giúp người ta mở rộng tri thức. ­ Kinh Thư: dạy việc trị nước. ­ Kinh Lễ: dạy người ở đời có qui lễ, phép tắc. Tóm lại nội dung giáo dục cơ  bản của Khổng Tử là thông qua sách vở  để giáo dục chính trị ­ đạo đức, giáo dục đạo làm người (chỉ đối với tầng lớp  trên, còn  đối với tầng lớp dưới biết "đạo" để  làm theo, phục tùng theo mà  thôi). Hạn chế ở chỗ ít đề cập đến giáo dục khoa học kỹ thuật. 1.3.5. Nhữ   ương pháp giáo dục.     ng nguyên lý và ph   ­ Dạy phù hợp với điều kiện tâm sinh lý, chứ không có tính cách võ đoán  trước tiên phải nuôi cho tình cảm nảy nở  rồi mới  ước thúc vào khuôn phép  "Ta 15 tuổi để  chí vào sự  học, đến 30 thì giữ  vững được trí không còn thay   15
  16. đổi, 40 hết nghi hoặc, 50 biết được thiên mệnh, 60 thì tai nghe đã thuận đạo   trời, 70 thì tuỳ theo lòng muốn mà không ra ngoài phép tắc tức là nhập diệu   vào hoà điệu đạo lý Thiên địa nhân vậy" (Luận ngữ ­ vi chính ­ 4). Sau đó phải  điều hoà các sự  mâu thuẫn xung đột  ở  thâm tâm  "Khởi hứng bằng Kinh Thi,   uốn nắn bằng kỷ luật phép tắc, hoàn thành ở nhạc" (Luận ngữ ­ thái bá ­ 8).  Vì thơ ca làm cho tính tình nảy nở phong phú nhất là thơ  ca có ý vị  song một  khi tính tình đã bồng bột thì phải đưa vào khuôn phép kỷ  luật để  khỏi vọng  động dâm đãng. "Tình" rồi đến "lý", cả  hai chuyển hoá đến nhau, thành một  tâm hồn quân bình đầy đủ. ­ Học phải đi đôi với hành Theo Khổng Tử  học phải đi đôi với thực hành  "học nhi thời tập chỉ"  (Luận ngữ  ­ học nhi ­ 1) ­ học lý thuyết mà luôn luôn thực nghiệm, tập lại  như chim non tập bay. Học tập phải có suy nghĩ tư lự chứ không phải chỉ đọc,   thuộc lòng nhớ  sách như  vẹt  "học nhi bất tư  tắc võng, thư  nhi bất học tắc   đãi'' tức là học mà chẳng suy nghĩ thì viển vông mờ  mịt khó hiểu. Suy nghĩ  không có mục đích nhất định không đi đôi với sự  học thì nguy khốn. (Luận  ngữ ­ Vi chánh ­ 15) có như thế thì mới biết được điều mới, trí sáng kiến mới   mở mang. Vậy học phải biết được điều mới, trí sáng kiến mới mở mang "ôn  cố  nhi tri tân, khả  dĩ vĩ sư  hỹ"  (Luận ngữ...). Ôn lại điều cũ mà biết được  điều mới, phải "nhật tri kỳ sở vở, nguyệt vở vong kỳ sở năng, khả vi hiếu học  dã di hỹ" ­ mỗi ngày biết được điều mình chưa biết, mỗi tháng không quen  điều mình đã biết, có thể là người ham học vậy (tử trương ­ 5). Khổng Tử chú trọng giáo dục con người toàn diện, một nhân cách đầy  đủ cho nên trong cái lục nghệ giáo dục  trừ lễ nhạc ra còn cả phần vận động  sinh hoạt nữa, như sạ (bắn), ngự (cưỡi ngựa), thư (học, viết, vẽ) và số  (học  tính toán). Thông Lục nghệ là một người có sự  giáo dục đầy dủ cả lý thuyết  16
  17. lẫn thực hành, sẵn sàng ra đời, đem cái kinh luận để  kinh doanh, tế thế  "Bác  học chi, thẩm vấn chi thận tư chi minh biện chi, đốc hành chi. Hữu phất học,   học chi phất năng, phất thố dã. Hữu phất vấn, vấn chi phất, tri phất thố dã  Hữu phất tư, tư chi phất đắc phất thố dã. Hữu phất biện biện chi phất minh   phất thố dã. Hữu phất hành, hành chi phất đốc phất thố dã. Nhân nhất năng   chi kỷ  bách chi. Nhân thập năng chi kỷ  thiên chi. Quả  năng thử  đạo hỹ, tuy   ngu tất minh, tuy nhu tất cương". (Trung Dung). Như  vậy, học cho rộng, tìm  tòi nhiều, suy nghĩ cẩn thận, biện bạch sáng suốt, hành động nỗ lực. Có điều  chưa học mà chưa có thể làm được, thì không bỏ dở. Có điều không hỏi, hỏi  mà chưa biết không bỏ  dở. Người ta có thể  được một điều mình có thể  lấy  trăm điều. Người ta có thể được mười điều, mình có thể lấy ngàn điều. Nếu  thực giữ được cái đạo ấy thì dù có là người ngu đần cùng trở nên minh triết.  Dù có là hạng nhu nhược ắt cũng trở nên cương quyết. Đấy là một quan niệm   tối cao về giáo dục lý tưởng của họ Khổng.  ­ Quá trình giáo dục là quá trình trao đổi giữa thầy và trò. Trò hỏi thầy  đáp hoặc thầy hỏi trò thưa, nhằm phát huy tính năng động chủ quan và sự độc  lập sáng tạo của người học. Khổng Tử nói "kẻ  nào không bực tức vì không  hiểu được, thì ta không chỉ bảo cho mà biết được. Kẻ nào chẳng hậm hực vì   không tỏ ý kiến của mình, thì ta chẳng khai phát cho mà nói ra được... kẻ nào   đã biết rõ một góc nhưng chẳng chịu căn cứ  vào đó để  biết luôn cả  ba góc   kia, thì ta chẳng dạy cho kẻ   ấy nữa" (Luận ngữ  ­ thuật nhi 8). Ông yêu cầu  người học phải biết quan sát tinh tường và biết suy luận từ một vật mà biết  những sự vật khác, từ cái này mà biết cái kia  "biết một mối mà thông suốt tất   cả" (Luận ngữ  ­ Vệ  Linh Công 2).  Do đó địa điểm giáo dục của Khổng Tử  không cố định lúc ở trong nhà, lúc dưới bóng cây, lúc chu du ngoại cảnh. ­ Phương pháp nêu gương: Khổng Tử thường lấy những tấm gương tốt   17
  18. để  dạy học trò. Vua đạm bạc đó là Vua Vũ "Vua Vũ ta không chê trách vào   đâu được. Ăn uống đạm bạc mà tế quỷ thần rất hậu. Y phục xấu mà sửa mũ   áo tế rất đẹp. Cung thất nhỏ  hẹp mà hết sức mở mang ngòi lạch. Vua Vũ ta   không chê trách vào đâu được" (Thái Bá 2). Vua khiêm nhường "cao cả thay!   Vua Thuấn, vua Vũ có được thiên hạ, mà chẳng lấy đó làm vui"  (Thái bá 18).  Theo Khổng Tử vua Thuấn ­ Nghiêu là bậc thánh. Người học trò chăm chỉ  là  "trò Hồi, trong ba tháng, lòng không lìa đạo nhân. Ngoài ra, các trò khác chỉ  đạt đến đạo nhân trong một ngày hay trong một tháng là cùng" (Ung dã ­ 5).  Do đó khi có người hỏi Khổng Tử về  các học trò, Khổng Tử  thưa "có Nhan   Hồi là người ham học, chẳng may mất sớm, nay không còn ai cả" (Tiên tiến ­  6). Còn Bá Di, Thúc Tề  theo Khổng Tử  "bất niệm cựu ác, oán ly dụng hy"  (không nhớ đến những điều xấu của người nên ít ai oán ghét). (công dã tràng ­  12). Người giữ gìn tốt đạo huynh đệ  đó là "Yến Bình Trọng khéo giao ­ kết   bạn lâu ngày mà vẫn giữ  cung kính" (công dã tràng ­ 16). Phê phán Vi ­ Sinh  Cao không phải là người ngay thẳng mà mua ân huệ cho mình, dành điều tốt  cho mình "ai bảo Vi Sinh Cao là người ngay thẳng ? Có người đến xin giấm.   Vi Sinh Cao xin giấm của nhà hàng xóm cho đó" (công dã tràng ­13). Tóm lại, theo Khổng Tử tuỳ  từng trường hợp, tuỳ từng người mà bảo   coi hướng đi, cách làm cái công phu thực hiện theo guơng mẫu thời xưa như  Văn Vương, Chu Công, Công Nhu, Nghiêu­Thuấn,Vũ Thang...trong hoàn cảnh  mới "Ôn có tri tân". Phương pháp giáo dục của Khổng Tử vẫn có giá trị  cho  dến ngày nay.       1.3.6. Yêu cầu đối với người dạy và người học Từ  việc phân chia đối tượng, mục đích giáo dục và phương pháp giáo  dục, như  vậy, Khổng Tử  đã đề  ra những đòi hỏi đối với người dạy và học  sau: Đối với người thầy phải luôn làm gương về  phẩm chất và phong cách  18
  19. học tập, người là người thực hành trước tiên những gì mình dạy cho học trò  để học trò thấy đó mà làm theo (Vi chánh 13). Thầy dạy phải tận tình cởi mở  không giấu diếm học trò "ta có biết rộng chăng! Ta không biết rộng. Nhưng   có người thô lỗ  hỏi đến ta, dù không biết gì, ta cũng phát động hai đầu mối   dẫn giải cho hết lẽ" (Tử hãn ­ 7). Học trò cho rằng đạo của đức Khổng cao  sâu không theo kịp, cho nên nghi ngờ  Ngài giấu diếm kiến thức, Khổng Tử  cho rằng "hai ba gã cho ta giấu điều gì chăng?. Ta không giấu diếm gì cả! Ta   không làm việc gì mà chẳng bảo cho hai ba gã biết,  ấy là Khưu này vậy".  (Thuật nhi ­ 23). Cả  đời Khổng Tử  sống với đạo lý  "Ta là người khi chưa   hiểu đạo lý thì phát phẫn quên ăn, khi hiểu được đạo lý thì vui vẻ quên lo, mà   chẳng biết tuổi già sắp đến với mình" (Thuật nhi ­ 18). Khổng Tử cho rằng thầy không được nghiêm khắc, thái quá bởi vì quá  trình giáo dục là quá trình trao  đổi giữa thầy và trò, nên thầy không được  nghiêm khắc, thái quá làm cho rụt rè e sợ  nhưng không phải thế mà trò quên  mình là trò bỏ qua lễ giáo. Đối với người học trò, phải biến cái mình học thành nhu cầu "biết đạo   không bằng  ưa  đạo,  ưa  đạo  không  bằng  vui  với  đạo"  (Luận  ngữ.....)   hay  "Buổi sáng được nghe đạo lý, buổi tối dù chết cũng được vậy" (Lý nhân ­ 8).  Trong quá trình học tập, phải kết hợp với suy nghĩ "học mà chẳng suy nghĩ thì   mờ mịt, suy nghĩ mà không học thì nguy hại" (Vi chánh ­ 15). Học phải kết hợp   với thực tiễn, phải thận trọng trong việc học hỏi  "nên nghe nhiều điều hay,   nhưng còn nghi ngờ điều gì, hãy để khuyết đừng nói vội, còn nghe được điều   gì chắc chắn, cũng nên thận trọng lời nói, thì ít người quở  trách. Nên thấy   nhiều điều hay, nhưng điều gì chưa chắc chắn hãy  để  khuyết đó đừng làm   vội, còn thấy được điều gì chắc chắn cũng nên cẩn thận trong việc làm, thì ít   sự ăn năn. Lời nói ít người quở trách, việc làm ít sự ăn năn bổng lộc tự nhiên   ở  trong đó" (Vi chánh ­ 18). Học phải ôn cũ biết mới và phải học  ở  mọi lúc  mọi nơi, phải đi từ thấp đến cao, cố gắng vươn lên  "học như chẳng theo kịp,  19
  20. còn sợ bỏ mất" (Thái bá ­ 17). Điều cốt lõi nhất phải xác định được mục đích  học "học để làm quan giúp đời. Người đời nay học vì người" (Hiến Vân ­ 25). Tóm lại, từ việc xác định phải giáo hoá con người trở thành "hữu đạo"   để ổn định trật tự xã hội, đưa xã hội "loạn" trở về "thịnh", Khổng Tử đã xây  dựng một học thuyết hoàn chỉnh về  giáo dục từ  quan niệm về  con người,  phân chia đối tượng giáo dục để xác định phương pháp giáo dục phù hợp đến  yêu cầu về  người thầy, người học. Khổng Tử  xứng đáng nhà giáo dục lớn   của xã hội đương thời, học thuyết giáo dục củ  Khổng Tử  đã  góp phần vào  kho tàng giáo dục của nhân loại. Những nguyên lý giáo dục của ông còn mang  những giá trị trong sự nghiệp giáo dục hiện nay. Nhìn   một   cách   tổng   thể,   mục   tiêu   giáo   dục   của   Khổng   Tử   là   bồi  dưỡng người “nhân”, “quân tử”, bồi dưỡng để  ra làm quan, điều hoà mâu   thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ” phục vụ  cho mục đích chính trị. Nhưng do   thực tiễn dạy học lâu dài nên về  mặt quan điểm giáo dục và ohương pháp  dạy học Khổng Tử có những tư  tưởng duy vật chất phác tiến bộ. Đó là  sự  phản ánh kinh nghiệm thực tiễn dạy h ọc và yêu cầu về  mặt nghề  nghiệp  giáo dục của Khổng Tử. Những tư tưởng đó có  ảnh hưởng tích cực với sự  phát triển của học thuyết giáo dục cũng như sự nghiệp giáo dục Trung Quốc   và các nước khác sau này. Những nhà Nho làm nghề  dạy học đ ã kế  thừa tư  tưởng hợp lý của Khổng Tử để phát triển nền giáo dục. Vì thế có thể khẳng  định rằng Khổng Tử thật sự là một nhà giáo dục kiệt xuất đương thời.  Nhìn   một   cách   tổng   thể,   mục   tiêu   giáo   dục   của   Khổng   Tử   là   bồi  dưỡng người “nhân”, “quân tử”, bồi dưỡng để  ra làm quan, điều hoà mâu   thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ” phục vụ  cho mục đích chính trị. Nhưng do   thực tiễn dạy học lâu dài nên về  mặt quan điểm giáo dục và ohương pháp  dạy học Khổng Tử có những tư  tưởng duy vật chất phác tiến bộ. Đó là  sự  phản ánh kinh nghiệm thực tiễn dạy h ọc và yêu cầu về  mặt nghề  nghiệp  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2