intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam"

Chia sẻ: Le Vu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:34

1.112
lượt xem
239
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các nước đang phát triển có đặc điểm chung về kinh tế, đó là mức sống thấp, tỷ lệ tích lũy thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp và năng suất lao động thấp. Những đặc điểm này tạo thành một vòng tròn luẩn quẩn, tưởng như khó thoát ra được. Trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, có những nước tiếp tục rơi vào trì trệ, phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi hay Nam Á. Có những nước đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đưa đất nước thoát khỏi vòng luẩn quẩn, rút ngắn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam"

  1. Đề tài “Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam"
  2. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Mở đầu ............................................................................................................................................. 2 Phần I. Tổng quan về Singapore ........................................................................................................ 4 1.1. Giới thiệu chung....................................................................................................................... 4 1.2. Tình hình phát triển kinh tế...................................................................................................... 4 1.3. Các ngành kinh tế trọng điểm .................................................................................................. 5 Phần II. Kinh nghiệm phát triển của Singapore.................................................................................. 9 2.1. Phát triển Ngoại thương........................................................................................................... 9 2.1.1. Kinh nghiệm của Chính phủ...................................................................................................................9 2.1.1.1. Bộ máy quản lý thương mại Singapore....................................................................... 9 2.1.1.2. Chính sách ngoại thương của Singapore ....................................................................10 2.1.2. Kinh nghiệm của doanh nhân...............................................................................................................14 2.1.2. 1. Kinh nghiệm “ra biển lớn” của doanh nhân Singapore ..............................................14 2.1.2.2. Xác định rõ những rào cản khi mở rộng thị trường ....................................................14 2.1.2.3. Thành công và tăng trưởng nhờ trung thành với những gì mình biết ..........................14 2.1.2.4. Kiểm soát sự lớn mạnh..............................................................................................15 2.2. Phát triển tài chính .................................................................................................................15 2.2.1. Xây dựng hệ thống ngân hàng, trở thành trung tâm tài chính của châu Á ............................................15 2.2.2. Hệ thống tiết kiệm bắt buộc ......................................................................................................................18 2.2.3. Bài học từ khủng hoảng tài chính châu Á................................................................................................18 2.2.4. Mô hình công ty tài chính của nhà nước..................................................................................................19 Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 1
  3. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Phần 3. Bài học cho Việt Nam...........................................................................................................21 3.1. Một số điểm tương đồng cơ bản giữa Việt Nam và Singapore ................................................21 3.2. Bài học cho Việt Nam ............................................................................................................23 3.2.1. Phát triển tài chính .....................................................................................................................................23 3.2.1.1. Hoạt động ngân hàng ................................................................................................23 3.2.1.2. Chính sách tài chính công .........................................................................................24 3.2.1.3. Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính khu vực ............................26 3.2.2. Chính sách phát triển ngoại thương..........................................................................................................26 3.2.2.1 Xây dựng chiến lược xuất khẩu hợp lý........................................................................26 3.2.2.2 Đầu tư cho xuất khẩu................................................................................................27 3.2.2.3 Chính sách về tỷ giá hối đoái .....................................................................................29 3.2.2.4.Vấn đề mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại .......................................................30 Kết luận............................................................................................................................................32 Mở đầu Các nước đang phát triển có đặc điểm chung về kinh tế, đó là mức sống thấp, tỷ lệ tích lũy thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp và năng suất lao động thấp. Những đặc điểm này tạo thành một vòng tròn luẩn quẩn, tưởng như khó thoát ra được. Trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, có những nước tiếp tục rơi vào trì trệ, phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi hay Nam Á. Có những nước đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đưa đất nước thoát khỏi vòng luẩn quẩn, rút ngắn khoảng cách, thậm chí đuổi kịp các nước phát triển. Trong đó có Singapore. Từ một nước thuộc địa, nghèo nàn, thuộc thế giới thứ ba, Singapore đã phát triển trở thành con rồng châu Á và vươn lên hàng các nước phát triển trên thế giới. Với nhiều điểm tương đồng về điều kiện, bối cảnh lịch sử, vị trí địa lý… Singapore đáng là bài học để Việt Nam nghiên cứu trong quá trình định hướng con đường phát triển quốc gia. Để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn đề này, bằng những kiến thức được học từ môn Kinh tế phát triển, nhóm chúng tôi xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam” Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 2
  4. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học, đưa ra những nhận định ban đầu về kinh nghiệm phát triển của Singapore và đề xuất một số bài học từ Singapore có thể vận dụng cho Việt Nam; đồng thời, góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho các thành viên trong nhóm, hoàn thành chương trình học tập môn Kinh tế vi mô tại trường Đại học Ngoại thương. Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, mô hình hóa, so sánh tĩnh… Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, bố cục của đề tài bao gồm những nội dung sau: Phần 1: Tổng quan về Singapore Phần 2: Kinh nghiệm phát triển của Singapore Phần 3: Bài học cho Việt Nam Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 3
  5. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Phần I. Tổng quan về Singapore 1.1. Giới thiệu chung Một mảnh đất vô danh tăm tối cuối bán đảo Mã lai buổi lập quốc, 45 năm trước, giờ đã vươn mình hoá thành Con Rồng kinh tế Singapore. Năm 1819, Singapore là vùng thuộc địa của Anh chuyên về mua bán, trao đổi hàng hóa. Năm 1963, Singapore gia nhập vào Liên bang Malaysia nhưng hai năm sau đã tách ra và trở thành một nước độc lập. Sau đó, Singapore đã phát triển thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất thế giới, trở thành đầu mối giao lưu thương mại quốc tế quan trọng (cảng biển Singapore là một trong những cảng biển có trọng tải lớn và tấp nập nhất thế giới). Thu nhập bình quân đầu người ở Singapore ngang tầm với các nước hàng đầu Châu Âu. Hình ảnh của Singapore khi vừa mới được tự trị, năm 1960, được một tờ tạp chí mô tả thật ảm đạm, như một vũng nước tù đọng, nghèo nàn và lạc hậu. Singapore gần như là một đảo quốc không có tài nguyên gi đáng giá, kể cả nước ngọt để uống và sinh hoạt cũng phải nhập khẩu, ngoài biển cả mênh mông nước mặn vây quanh. Giờ đây, ai cũng phải công nhận rằng Singapore là một đất nước rất thành công trong phát triển kinh tế. Ngày nay, thu nhập bình quân đầu người của Singapore vượt trên con số 52.000 đô la Mỹ, xếp thứ 4 thế giới, với mức tăng bình quân đầu người gần 600 USD mỗi năm. Tốc độ phát triển đó đã đưa một nước Singapore thuộc các quốc gia kém phát triển, chỉ sau ba thập niên, vươn lên đứng trong những nước phát triển nhất. Dù còn đó những lời bình khác nhau từ bên ngoài, thế giới phải công nhận họ là xứ sở trong lành. Theo nghĩa thực, đó là môi trường sạch sẽ và xanh tươi. Theo nghĩa rộng, đó là cuộc sống văn minh, kỹ cương và mức độ tham nhũng xếp loại thấp nhất thế giới. Ở đây, một nước Singapore nhiều dân tộc (Hoa, Ấn, Mã lai), nhiều tôn giáo (Khổng giáo, Thiên chúa giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo), nhưng xã hội ổn định, mọi người cùng tồn tại bên nhau và cùng đưa đất nước phát triển nhanh trở thành Con Rồng châu Á, đạt những tiêu chí sống - tuổi thọ và thu nhập - hàng đầu thế giới. 1.2. Tình hình phát triển kinh tế Kinh tế Singapore là nền kinh tế phát triển, theo đường lối kinh tế tư bản. Sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế được giảm thiểu tương đối nhiều. Singapore Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 4
  6. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính cao, giá cả ổn định. Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm gần 70% thu nhập quốc dân trong năm 2007). Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới. Tuy nhiên từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ xuất phát từ Thái Lan, đồng đô la Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Do ảnh hưởng của sự kiện 11/9 gây suy giảm kinh tế thế giới và sau đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001 tăng trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004, tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7% và năm 2007 đạt 7,5%. Singapore được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối trọng yếu của nền kinh tế toàn cầu, và một nền kinh tế đa dạng, nhạy cảm kinh doanh. 1.3. Các ngành kinh tế trọng điểm - Công nghiệp: Các ngành công nghiệp chính: điện tử, hoá chất, dịch vụ tài chính, thiết bị khoan dầu, lọc dầu, chế biến và sản xuất cao su, chế biến thực phẩm và đồ uống, sửa chữa tàu, xây dựng giàn khoan ngoài khơi... - Dịch vụ: Bên cạnh một nền công nghiệp dựa vào công nghệ tiên tiến của thế giới, Singapore không quên tận dụng một mặt mạnh khác, đó là lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực đóng góp chủ yếu cho GDP của Singapore. Năm 2007, mức đóng góp này là 68,8%. Các ngành dịch vụ thế mạnh của Singapore là vận tải (logistic) và thông tin liên lạc, tài chính, du lịch. Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 5
  7. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Năm 2008, ngành dịch vụ của Singapore cũng chịu nhiều tác động bởi khủng hoảng tài chính gây ảnh hưởng xấu lên các công ty tài chính, dịch vụ tài chính đi xuống. Không chỉ có vậy, doanh thu từ dịch vụ du lịch giảm khi người tiêu dùng trên thế giới cắt giảm chi tiêu. Lĩnh vực dịch vụ chỉ tăng trưởng 5,3% trong quý 3/2008 sau khi tăng trưởng 7,1% trong quý 2/2008. - Thương mại: Thương mại là nhân tố quyết định của nền kinh tế Singapore, vì thế chính sách thương mại của đảo quốc này có thể tóm lược trong hai yếu tố chính: Bảo toàn và mở rộng thị trường, giảm thiểu các rào cản thương mại. Đảm bảo hoạt động của các quốc gia trong khuôn khổ những qui định do Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đề ra. Ngoài ra, chính sách thương mại của Singapore cũng phù hợp với một số thoả hiệp song phương và đa phương đã được ký kết giữa Singapore với một hay nhiều nước khác như chương trình Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Thoả ước thương mại tự do (FTAs), Thoả ước công nhận hỗ tương (MRAs)... Trong những năm cuối thế kỷ 20, Singapore đã sử dụng hai phương tiện truyền thống trong thương mại là Hội chợ và các đoàn công tác để giúp các công ty ở địa phương tiếp cận được những cơ hội làm ăn thuận lợi. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Singapore là 302,7 tỷ USD (theo trị giá FOB), kim ngạch nhập khẩu là 252 tỷ USD (theo trị giá CIF). Các mặt hàng xuất khẩu chính là: máy móc thiết bị (bao gồm máy móc thiết bị điện tử), hàng tiêu dùng, hóa chất, nhiên liệu khoáng. Các mặt hàng nhập khẩu chính là: máy móc thiết bị, nhiên liệu khoáng, hóa chất, thực phẩm. Thị trường xuất khẩu chủ yếu: Malayxia 12,9%, Hồng Kông 10,5%, Inđônêxia 9,8%, Trung Quốc 9,7%, Mỹ 8,9%, Nhật Bản 4,8%, Thái Lan 4,1%. Thị trường nhập khẩu chủ yếu: Malayxia 13,1%, Mỹ 12,5%, Trung Quốc 12,1%, Nhật Bản 8,2%, Đài Loan 5,9%, Indonexia 5,6%, Hàn Quốc 4,9%. Mặc dù Singapore đã giảm được sự phụ thuộc vào kinh tế Mỹ thông qua xuất khẩu sang các thị trường trong khu vực, song sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này do cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn ở trong nước đã động tiêu cực đến ngành xuất khẩu của Singapore. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu của Singapore cho đến nay chịu nhiều tác động do lượng đơn đặt hàng từ những thị trường lớn giảm sút. Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 6
  8. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam - Đầu tư: Môi trường đầu tư: Singapore có một chính sách đầu tư rộng mở, qua đó, đất nước này đã chuyển thành công từ một hải cảng thương mại thành một nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính phủ theo đuổi một chiến lược nhằm nâng cao Singapore thành một nền kinh tế dựa vào công nghệ, sáng kiến và tri thức để có thể cạnh tranh với các nước xuất hàng giá rẻ và gia tăng tính toàn cầu hóa nền kinh tế. Nhà nước tạo nguồn động viên về tài chính, điều chỉnh luật lệ nhằm khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Để thực hiện chính sách rộng mở, Singapore khuyến khích các công ty đa quốc gia tiến hành các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ, tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài đến cư trú và làm việc. Tại Singapore, các nhà đầu tư nước ngoài không bị đòi hỏi phải tham gia vào các hoạt động liên doanh hay nhượng quyền kiểm soát quản trị cho quyền lợi địa phương. Chính quyền Singapore không hạn chế hay làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước hay vì bất cứ lý do nào khác. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ đáng chú ý còn tồn tại trong lãnh vực sản xuất vũ khí, công nghiệp truyền thanh và thông tin nội địa. Ngoài ra, các cơ hội đầu tư cũng còn bị hạn chế trong việc sở hữu các tài sản tư. Tháng 4/2000, lĩnh vực viễn thông được tự do hóa hoàn toàn nhằm đảm bảo cho Singapore vị thế của một trung tâm thông tin và truyền thông quan trọng của châu Á. Những hạn chế về quyền tư hữu của người nước ngoài cũng được gỡ bỏ đối với ngành ngân hàng địa phương, ngành bảo hiểm và các công ty điện lực. Từ năm 1978, Singapore đã gỡ bỏ mọi hạn chế về giao dịch chứng khoán nước ngoài và chuyển dịch vốn, không giới hạn việc tái đầu tư cũng như chuyển vốn và lãi về nước. Tình hình đầu tư nước ngoài vào Singapore: Theo Cục Thống kê Singapore, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Singapore đã tăng gấp hơn 3 lần trong giai đoạn 1995-2005. Năm 2007, tổng số vốn nước ngoài đầu tư vào Singapore là 14,279 tỷ USD với 239 dự án, tăng 23,1% so với năm 2006, tạo công ăn việc làm cho 35.441 lao động. Những nước và vùng lãnh thổ đầu tư chủ yếu vào Singapore là Mỹ, Canada, Anh, Thuỵ Sỹ, Hà Lan, Na Uy, Đức, Nhật Bản, Malayxia, Đài Loan, Hồng Kông... Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 7
  9. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Hầu hết vốn FDI vào Singapore tập trung trong các lĩnh vực dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, nhà hàng và khách sạn, sản xuất công nghiệp... Tổng số vốn nước ngoài hiện đang đầu tư tại Singapore (tính đến 12/2007): 214,5 tỷ USD. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Singapore Cùng với nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Singapore cũng đẩy mạnh đầu tư ra bên ngoài, nhằm tạo "cánh tay bên ngoài" (external wing) cho Singapore. Các thị trường đầu tư chủ yếu của Singapore là các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Những lĩnh vực đầu tư chủ yếu là khai thác dầu khí, sản xuất công nghiệp, dịch vụ tài chính, bất động sản. Tổng số vốn Singapore đầu tư ra nước ngoài (tính đến 12/2007) là 111,2 tỷ USD. Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 8
  10. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Phần II. Kinh nghiệm phát triển của Singapore 2.1. Phát triển Ngoại thương 2.1.1. Kinh nghiệm của Chính phủ 2.1.1.1. Bộ máy quản lý thương mại Singapore Bộ máy đầu não chịu trách nhiệm điều hành nền thương mại Singapore là Bộ Thương mại và Kỹ nghệ (Ministry of Trade and Industry – MTI). Hoạt động của cơ quan này nhằm tạo điều kiện mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia thông qua sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện tốt chức năng của mình, MTI tiến hành việc hoạch định và phân tích kinh tế, điều hợp các chính sách kinh tế của chính phủ. Về mặt tổ chức, ngoài bộ máy hành chánh trực thuộc, MTI còn có trách nhiệm giám sát và hỗ trợ hoạt động cho các đơn vị dưới đây: - Cục thống kê; Cục dịch vụ thông tin; Sở cân đo; Hội đồng phát triển kinh tế (EDB); Hội đồng cấp giấy phép hoạt động cho các khách sạn; Hội đồng thành phố Jurong; Hội đồng khoa học và công nghệ quốc gia; Hội đồng tiện ích công cộng; Tập đoàn phát triển Sentosa; Hội đồng hiệu suất và định chuẩn Singapore; Hội đồng du lịch Singapore; Hội đồng phát triển thương mại Singapore (TDB). Vai trò xúc tiến thương mại của MTI thuộc về TDB, một trong những tổ chức có thế lực nhất về mặt thương mại tại đảo quốc này. Được thành lập vào năm 1983, TDB chịu trách nhiệm chính trong việc thúc đẩy Singapore tiến nhanh trên đấu trường thương mại quốc tế, bảo vệ quyền lợi kinh tế của đảo quốc, đồng thời giới thiệu sản phẩm của Singapore trên khắp thế giới. Bước vào thế kỷ 21, hội đồng này hướng tới 5 lãnh vực hoạt động sau đây: - Cổ xuý cho một nền thương mại tự do và công bằng tại các diễn đàn quốc tế. - Khai phá các thị trường mới cho hoạt động xuất khẩu của Singapore và mở rộng các lĩnh vực cung ứng - Biến Singapore thành một địa điểm hấp dẫn hơn nữa đối với thương nhân quốc tế - Phát triển và tăng cường hạ tầng cơ sở thương mại và kinh doanh - Giúp các xí nghiệp Singapore đầu tư ở ngoài nước Những thay đổi mạnh mẽ trên đấu trường thương mại thế giới trong các năm qua đã buộc TDB, với tư cách một cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia, phải thay Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 9
  11. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam đổi chiến lược nhằm duy trì vị trí hàng đầu của Singapore trong nền kinh tế của khu vực. Như một thành phần của chiến lược cạnh tranh lâu dài, TDB đang nỗ lực biến Singapore thành một Trung tâm cung ứng dịch vụ hàng đầu tại châu Á. Trong những năm qua, TDB đã nói lên tiếng nói của mình tại các tổ chức thương mại quốc tế nhằm bảo vệ và nâng cao quyền lợi thương mại của Singapore, đồng thời tích cực tham gia vào hoạt động của các tổ chức thương mại đa phương hay khu vực như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á- Thái Bình dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) . Các nỗ lực song phương cũng được thực hiện với các tổ chức và chính phủ nước ngoài nhằm mục đích trao đổi thông tin, tự do hoá thương mại, tiến đến hợp tác đầu tư. Trong tương lai, TDB sẽ tiếp tục duy trì quan điểm tích cực trong việc cảnh báo cho các công ty của Singapore về những cơ hội làm ăn có thể tận dụng từ các thoả ước thương mại. Sự mở rộng hoạt động ngoài nước cũng được chú trọng triệt để. Các nỗ lực của tổ chức này nhằm tăng cường và đa dạng hoá hoạt động thương mại và đầu tư của Singapore tại hải ngoại nhắm chủ yếu vào các thị trường châu Á, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Hiện nay TDB có hơn 30 văn phòng thương mại trên khắp thế giới, với chức năng quảng bá cho nền thương mại Singapore và quan trọng hơn cả là hỗ trợ các công ty Singapore trong giao thương quốc tế. Sự hỗ trợ này được thể hiện một cách nhuần nhuyễn và đa dạng thông qua các đoàn công tác, các hội chợ thương mại để tìm cơ hội hợp tác và đầu tư. Tính đến nay, đã có hơn 140 công ty trên thế giới đặt cơ quan đầu não của họ tại Singapore. Nhiều công ty khác đang toan tính làm việc này. Chính quyết định đặt trụ sở của họ tại Singapore đã góp phần biến đảo quốc này thành một trung tâm thương mại quốc tế. Về mặt hàng hải, Singapore là hải cảng bận rộn nhất thế giới, đồng thời là một trung tâm dịch vụ hậu cần và vận chuyển quốc tế. 2.1.1.2. Chính sách ngoại thương của Singapore * Ngoại thương và kiểm soát lạm phát Thương mại là nhân tố quyết định của nền kinh tế Singapore, trong đó, quan trọng nhất là ngoại thương. Chính sách ngoại thương của đảo quốc này có thể tóm lược trong hai yếu tố chính: - Bảo toàn và mở rộng thị trường, giảm thiểu các rào cản về thương mại. Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 10
  12. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam - Đảm bảo hoạt động của các quốc gia trong khuôn khổ những qui định do Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đề ra. Ngoài ra, chính sách thương mại của Singapore cũng phù hợp với một số thoả hiệp song phương và đa phương đã được ký kết giữa Singapore với một hay nhiều nước khác như chương trình Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Thoả ước thương mại tự do (FTAs), Thoả ước công nhận hỗ tương (MRAs)… Đầu năm 1999, nền kinh tế châu Á có dấu hiệu hồi phục, các hoạt động xúc tiến thương mại của Singapore trong vùng được đẩy mạnh. Cuộc khủng hoảng kinh tế tại châu Á làm nảy sinh nhu cầu đa dạng hoá thị trường và các công ty của Singapore mở rộng tầm hoạt động sang những thị trường từ trước đến nay còn chưa được khai phá. Riêng với những thị trường cốt yếu trong nền thương mại Singapore như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản thì nước này nỗ lực củng cố vị trí của một trung tâm cung cấp và phân phối quốc tế. Trong những năm cuối thế kỷ 20, Singapore đã sử dụng hai phương tiện truyền thống trong thương mại là Hội chợ và các đoàn công tác để giúp các công ty ở địa phương tiếp cận được những cơ hội làm ăn thuận lợi. Theo Bộ trưởng Công Thương Singapore Lee Yi Shyan, Singapore là một thị trường nhỏ, với hơn 4,8 triệu dân, nền kinh tế dựa vào xuất khẩu, phụ thuộc rất nhiều vào các thị trường lớn như Nhật và Mỹ…, nên khi những nền kinh tế này phát triển chậm lại, nhu cầu ít đi, đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này. Trong quý I/2009, GDP của Singapore tăng trưởng âm (-9,6%), nhưng sang quý II theo chiều hướng tốt hơn (chỉ còn - 3,7%). Tăng trưởng kinh tế qua con đường xuất khẩu là sự chọn lựa chiến lược phát triển rất thành công của Singapore trong thập niên 1990 và được coi là một trong những nền kinh tế đã bước vào thế giới công nghiệp phát triển bằng con đường xuất khẩu. Họ đã có một chiến lược xuất khẩu rất thông minh với một lộ trình rõ ràng, đi từ xuất khẩu nguyên liệu, khoáng sản, sang xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng lao động lớn, và cuối cùng là xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Sự thành công của họ dựa trên một yếu tố rất then chốt là duy trì một hệ số ICOR thấp, có nghĩa là đồng vốn đầu tư khả dụng vào nền kinh tế mang lại một hiệu quả cao đối với sự tăng trưởng của GDP. Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 11
  13. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Nhưng tăng trưởng kinh tế bằng con đường xuất khẩu không phải là một sự chọn lựa dễ dàng. Bên cạnh nhiều thách thức khác, đẩy mạnh xuất khẩu đối với những nước đang phát triển, trong đó phần xuất khẩu nguyên liệu thô, khoáng sản, nông lâm hải sản chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu, cũng đặt ra một vấn đề kinh tế vĩ mô là nguy cơ lạm phát gia tăng, đặc biệt là sự gia tăng giá cả lương thực thực phẩm vốn luôn luôn tạo áp lực nặng nề trên đời sống của người dân nghèo và trở thành một vấn đề mang tính chất xã hội và chính trị. Khắc phục những hệ quả không mong muốn của một chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu đối với giá cả trong nước không phải là điều dễ dàng, nếu không có một chính sách tỷ giá và một sự sử dụng dự trữ ngoại tệ quốc gia đúng đắn, phù hợp, một chiến lược công nghiệp hóa hiệu quả, một môi trường đầu tư cởi mở và trên hết là một ý chí tiết kiệm mạnh mẽ của toàn thể cộng đồng. Kinh nghiệm thành công của Singapore chỉ ra rằng đồng ngoại tệ kiếm được từ xuất khẩu khoáng sản, nguyên liệu thô, nông hải sản phải được dùng để mua máy móc thiết bị cho các ngành công nghiệp thâm dụng lao động (labour intensive) để có thể xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng lao động lớn. Những đồng ngoại tệ kiếm được từ việc xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng lao động lớn lại phải được tiếp tục sử dụng cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị, quy trình công nghệ cao cho những ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ hay thâm dụng vốn (technology intensive hay capital intensive) để những ngành này, trong một tương lai không xa có thể xuất khẩu những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Khoảng cách thời gian của những nỗ lực đầu tư nói trên thông thường đều gây ra một chu kỳ lạm phát. Những chu kỳ này được khắc phục bằng nỗ lực tiết kiệm của toàn thể cộng đồng dân tộc (cả nhà nước lẫn nhân dân), cải cách thủ tục hành chính, quyết tâm xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất tốt (đường sá, điện nước, trường học, bệnh viện, hệ thống an sinh xã hội). Thời gian đầu tư sẽ được rút ngắn, hệ số ICOR sẽ giảm, hiệu quả của đầu tư sẽ tăng cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ tiến rất nhanh và lạm phát sẽ được kiểm soát. Bằng những nỗ lực vì lợi ích lâu dài của nền kinh tế đất nước, những biện pháp điều chỉnh ngắn hạn và chiến lược phát triển dài hạn mới có thể được kết hợp một cách đồng bộ và hài hòa để đạt được cả hai mục tiêu mà tất cả chúng ta đều mong muốn, đó là tăng trưởng và ổn định. Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 12
  14. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam * Hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Tại hội thảo “Chiến lược cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua khủng hoảng” tổ chức ngày 4/5/2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Reza Ali, Giám đốc phát triển kinh doanh ACCA khu vực Châu Á Thái Bình Dương, chia sẻ bài học kinh nghiệm vượt qua khủng hoảng kinh tế của Singapore. Theo ông, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) cần chủ động, sáng tạo trong việc tiếp thu khoa học, công nghệ. Quan trọng nhất, SMEs phải có “tầm nhìn quốc tế”, vượt qua giới hạn địa lý để mang sản phẩm và dịch vụ của mình ra trường quốc tế. Để làm được như vậy, các công ty phải linh hoạt chuyển đổi và liên tục đem lại giá trị mới cho khách hàng. Ông Reza Ali nhắc lại báo cáo “Loại bỏ rào cản để SMEs tiếp cận với sự quốc tế hóa” về ba khó khăn chính mà SMEs phải đối mặt ở thị trường nước ngoài. Một, khả năng xác định cơ hội kinh doanh. Hai, hạn chế tiếp cận thông tin thị trường. Ba, thiếu khả năng vươn đến khách hàng tiềm năng ở nước ngoài. Đương đầu với những khó khăn trên, chính phủ và doanh nghiệp Singapore đã có các động thái hỗ trợ SMEs về nhiều mặt. Tiêu biểu nhất là việc bảo đảm các SMEs tiếp cận vốn vay thông qua hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp địa phương, chế độ bảo hiểm tiền vay, và chương trình cho vay quy mô nhỏ. Với các SMEs gặp khó khăn trong việc vay vốn ở khu vực thị trường thương mại, chính phủ cũng làm việc với ngân hàng để cấp vốn và bảo toàn nguồn vốn thông qua chương trình cho vay vốn bắc cầu và hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp địa phương. Bên cạnh đó, chính phủ còn có chương trình cho vay quy mô nhỏ để cấp vốn hoạt động cho các doanh nghiệp vi mô. Hơn thế nữa, SPRING Singapore phối hợp với IE Singapore để xúc tiến phát triển các SMEs của Singapore đặt tại hải ngoại, từ tiếp cận nguồn vốn, phát triển nội lực đến mở rộng kinh doanh. Singapore có kế hoạch huy động 1,5 tỷ USD nguồn vốn phát triển bằng cách cho vay vốn trong 10 năm và chính phủ đóng góp ½ số lượng này. SPRING Singapore và IE Singapore giúp SMEs tăng cường năng lực thiết yếu cho phát triển dài hạn như phục vụ định hướng khách hàng, sáng kiến lãnh đạo kinh doanh, cải thiện công nghệ và hạ tầng… IE Singapore còn hỗ trợ từng doanh nghiệp với kế hoạch quốc tế hóa bằng mạng lưới văn phòng ở 37 thành phố trên 21 quốc gia. Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 13
  15. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam 2.1.2. Kinh nghiệm của doanh nhân 2.1.2. 1. Kinh nghiệm “ra biển lớn” của doanh nhân Singapore Thương mại luôn là ngành trụ cột thúc đẩy kinh tế phát triển của đảo quốc Sư tử. Tuy thị trường tiêu thụ nội địa nhỏ bé và hầu như không phong phú về tài nguyên thiên nhiên, nhưng Singapore đã thiết lập một nền kinh tế mở từ rất sớm và thịnh vượng từ ngành công nghiệp xuất khẩu của riêng mình. Khoảng 60% doanh nghiệp Sigapore lấy xuất khẩu làm hoạt động chủ yếu, trong khi tỷ lệ trung bình của thế giới là 30%. Chính vì vậy, các doanh nhân Singapore sớm tích lũy và sở hữu được nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển thị trường toàn cầu. 2.1.2.2. Xác định rõ những rào cản khi mở rộng thị trường Các thế hệ doanh nhân Singapore luôn truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm quý báu khi phát triển thị trường toàn cầu. Theo họ, các yếu tố như tệ quan liêu, những quy định và ràng buộc khắt khe của các khu vực hay quốc gia, sự thiếu kiến thức tổng thể về thị trường, sự bất ổn về chính trị và xã hội là những rào cản cần được khắc phục ngay từ đầu. Trong kinh doanh, người Singapore luôn để tâm đến yếu tố chính trị và môi trường xã hội ở nơi họ phát triển hoạt động kinh doanh. Do đó, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của doanh nhân Singapore là những thị trường truyền thống hay thị trường tìm được thông qua các đối tác tin cậy. Một khi các doanh nhân Singapore quyết định hoạt động kinh doanh tại một thị trường nào đó, họ luôn tuân thủ các luật lệ và tập quán thương mại tại thị trường đó. 2.1.2.3. Thành công và tăng trưởng nhờ trung thành với những gì mình biết Một trong những thành công mà các doanh nhân Singapore học được và vận dụng thành công từ những tập đoàn, công ty lớn trên thế giới là việc phát triển thị trường dựa trên những điều kiện và năng lưc thực tế của mình. Thông thường, các doanh nghiệp Singapore phát triển thị trường mới bằng cách đem những sản phẩm thành công và có lợi thế cạnh tranh nhất của mình đem bán ra nước ngoài. Cách thức này nhằm hạn chế rủi ro so với việc cho ra đời sản phẩm mới, tạo dựng thương hiệu, xây dựng các chính sách phát triển sản phẩm mới vốn rất tốn kém. Theo một cuộc điều tra về ý kiến các nhà lãnh đạo doanh nghiệp vừa và nhỏ Singapore trong việc phát triển kinh doanh ra toàn cầu, có khoảng 60% doanh nghiệp Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 14
  16. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam đã áp dụng chiêu thức này và họ cũng gặt hái được sự thành công trong việc hạn chế những mạo hiểm. Chỉ có 9% doanh nghiệp vừa và nhỏ chấp nhận thử sức với việc cho ra đời sản phẩm mới đem đi bán ở những thị trường mới, trong khi tỷ lệ trung bình của giới là 15%. Ngay cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ, Canada và Úc cũng thích ứng dụng các chiến lược truyền thống là sử dụng sản phẩm đã có thế mạnh khi phát triển ra thị trường tòan cầu và chỉ có khỏang 20% doanh nghiệp vừa và nhỏ các nước này dám thử sức với sản phẩm mới ở thị trường hòan tòan mới. 2.1.2.4. Kiểm soát sự lớn mạnh Song song với việc đẩy mạnh phát triển thị trường toàn cầu, các doanh nhân Singapore nổi tiếng là những người cẩn trọng trong việc kiểm soát chặt chẽ sự lớn mạnh của doanh nghiệp mình. Theo các chuyên gia phân tích thị trường, hai yếu tố thường được các doanh nhân Singapore kiểm soát chặt chẽ là: Kiểm soát rủi ro: Có ba rào cản lớn nhất trong việc bước ra thị trường toàn cầu, các doanh nhân Singapore phải luôn đối mặt và đúc kết thành kinh nghiệm là môi trường cạnh tranh, sự khác biệt về các luật lệ và khả năng làm việc của đội ngũ lao động tại địa phương. Yếu tố môi trường cạnh tranh luôn được nhấn mạnh hàng đầu. Kiểm soát chi phí: Hai yếu tố luôn được lưu tâm là chi phí đầu tư và phí ngoại giao với các quan chức địa phương. Trong đó các doanh nhân Singapore luôn tính toán kỹ các khoản chi phí liên quan đến việc quay vòng vốn lưu động và những khỏan đầu tư dài hạn. Theo họ, kiểm soát tài chính tồi đồng nghĩa với việc kinh doanh kém hiệu quả nên họ thường sử dụng các khoản vay ngắn hạn trong các hoạt động của mình để canh chừng mức độ chi tiêu. Hiện tại, Singapore có trên 130 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng hơn một nữa nguồn nhân lực quốc gia và đóng góp 43% vào tổng thu nhập quốc nội (GDP) hàng năm. Chính phủ Singapore luôn coi trọng việc thúc đẩy sự phát triển của khối các doanh nghiệp này vì đó là yếu tố cực kỳ quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Sắp tới, Singapore sẽ nỗ lực hỗ trợ để đưa ngày càng nhiều hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ “ra biển rộng”, hòa nhập vào sân chơi quốc tế. 2.2. Phát triển tài chính 2.2.1. Xây dựng hệ thống ngân hàng, trở thành trung tâm tài chính của châu Á Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 15
  17. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Singapore chọn con đường phát triển khác hẳn với nhiều nước Đông Nam Á láng giềng, bằng cách triển khai chiến lược phát triển tài chính hướng ngoại, với mục tiêu biến Singapore trở thành trung tâm tài chính khu vực. Trong hơn 30 năm sau, chính phủ Singapore đã triển khai các cải cách và mở cửa thị trường tài chính đồng thời thực thi nhiều biện pháp khuyến khích để thu hút các định chế tài chính nước ngoài vào Singapore. Chiến lược này đã thành công. Số định chế tài chính nước ngoài triển khai vào thị trường Singapore tăng mạnh trong giai đoạn này: từ dưới 100 tổ chức những năm 1970, con số này tăng lên gần 450 những năm 1990. Chính nhờ sức cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài này, các ngân hàng nội địa của Singapore phải nâng cấp, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và kỹ năng quản lý. Tính đến tháng 3/2001, Singapore đã có 133 ngân hàng thương mại (8 nội địa và 125 nước ngoài), 11 công ty tài chính, 58 ngân hàng đầu tư, 151 công ty bảo hiểm, 88 công ty môi giới bảo hiểm, 63 văn phòng đại diện, 81 công ty môi giới chứng khoán, 168 công ty tư vấn đầu tư và 8 công ty môi giới ngoại hối quốc tế. Các định chế tài chính của Singapore bao gồm Ủy ban tiền tệ Singapore, ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại dịch vụ, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, công ty tài chính…Trong đó Ủy ban tiền tệ Singapore do Bộ tài chính Singapore thành lập từ năm 1971 để giám sát các tổ chức tài chính và thực thi chính sách tiền tệ. Ủy ban tiền tệ Singapore chịu trách nhiệm đối với tất cả các chức năng ngân hàng trung ương. Hệ thống ngân hàng của Singapore có một điều rất đặc biệt là bao gồm 2 loại hình: ngân hàng thương mại, hay còn gọi là các ngân hàng quốc nội (DBUs_ standing for Domestic Banking Units), và ngân hàng tiền tệ châu Á(ACUs). Chỉ có các ngân hàng thương mại (DBUs) mới được thực hiện các giao dịch bằng đồng đô la Singapore, còn các ngân hàng ngoại lại thực hiện các giao dịch liên quan đến giao dịch tài chính quốc tế với bất cứ đồng tiền nào trừ đồng đô la Singapore. Hai mô hình ngân hàng này được xây dựng vào năm 1970 nhằm tách riêng 2 hoạt động tài chính trong nước và hoạt động tài chính quốc tế.Đây thật sự là một chiến lược rất tài tình của các nhà hoạch định Sing khi nhanh chóng thiết lập các quan hệ tài chính quốc tế, phát triển tài chính quốc tế đồng thời với việc phát triển ngân hàng trong nước, đồng thời bảo hộ nó bởi sự cạch tranh của các tổ chức tài chính nước ngoài vốn rất khôn ngoan. Không chỉ khác biết về chức năng, các chính sách mà chính phủ Sing áp dụng cho 2 loại hình này có sự khác biệt. DBUs giải quyết các công việc chính liên quan Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 16
  18. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam đến các khoản tiển gửi và các khoản cho vay bằng đồng nội tệ, chịu sự quản lí chặt chẽ, đồng thời chịu mức dự trữ bắt buốc và thuế cao hơn các ACU(3% of liability of cash balance with MAS , 18% of liability in liquid asset). Trong khi đó thì các ngân hàng ACUs được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Các ngân hàng ACUs được cho phép giao dịch với thị trường đô la châu Á, nơi mà bản chất là thị trường tiền tệ và vốn quốc tế với rất nhiều ngoại tệ khác nhau. Chính sách thuận lợi của Singapore cho các ACUs là động lực để ngành tài chính quốc tế tại nước này phát triển với tốc độ vượt bậc. Như vậy, Singapore là nền kinh tế đầu tiên trong khu vực cho phép các ngân hàng nước ngoài điều hành các đơn vị tại nước mình (ACUs), và sự thành công của thị trường tiền tệ châu Á đã đưa Sing trở thành một quốc gia giàu có và là trung tâm tài chính thế giới. So với các nước trong khối ASEAN thì Singapore có thị trường tài chính phát triển nhất, năm 1975 ở Singapore lãi suất tiền vay và tiền gửi trong nước đã được tự do hóa. Năm 1978, việc kiểm soát hối đoái cũng đã được nới lỏng, đem lại việc tự do hóa tài chính đầy đủ…. nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng Singapore huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ đã huy động được, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Ông Hoàng Đạo Hải, Giám đốc Indochina Infracstructure Management Vietnam, phát biểu trong hội thảo về chương trình phát triển thị trường tài chính trên địa bàn Tp.HCM, liệt kê những đột phá mà đảo quốc này đã làm được, như ưu đãi thuế cho trái phiếu; luật bảo mật thông tin ngân hàng; luật ủy thác cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn người thừa hưởng tài sản sau khi họ qua đời (nhằm thu hút khách hàng Trung Đông); người nước ngoài có thể định cư mãi mãi ở Singapore miễn là họ có tài sản 13 triệu Đô la Mỹ, với ít nhất 3,1 triệu Đô la nằm tại một định chế tài chính ở đây. Ở những lĩnh vực cụ thể là những quy định hết sức thông thoáng: nới lỏng quy định liên quan đến các quỹ mạo hiểm (hedge funds), cho phép họ có thể thành lập trong vòng một tuần; bỏ các chướng ngại vật đối với sự chuyển dịch vốn; chuyển từ bảo hộ ngành ngân hàng trong nước sang tập trung vào việc gia tăng mực độ minh bạch. Kiểm soát rủi ro toàn bộ hệ thống tài chính được xem trọng hơn bảo vệ từng tổ chức, doanh nghiệp riêng lẻ. Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 17
  19. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam Bên cạnh đó, Singapore khuyến khích sự hợp nhất các ngân hàng trong nước và chỉ có một cơ quan quản lý nhà nước duy nhất giám sát toàn bộ lĩnh vực tài chính (Monetary Authority). 2.2.2. Hệ thống tiết kiệm bắt buộc Cơ quan phát triển nhà ở của Singapore (HDB) đã thực hiện chương trình phát triển nhà ở mang tên "Nhà ở cho dân" (triển khai từ 1964) song song với 1 quá trình "Thắt lưng buộc bụng" mang tính toàn dân đó là chính sách gửi tiền tiết kiệm bắt buộc vào quỹ dự phòng trung ương (CPF). CPF được khởi đầu từ năm 1955 có mục đích tạo nguồn vốn cho người lao động khi nghỉ hưu và việc tiết kiệm là tự nguyện. Từ năm 1965 trở đi, Chính phủ thực hiện chính sách tiết kiệm bắt buộc, mọi người lao động có nhu cầu thu nhập bằng lương đều phải gửi tiết kiệm vào quỹ khoảng 20-25% thu nhập của mình. Trên thực tế, tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm đã tăng dần từ 10% năm 1955 lên tới 50% vào năm 1984, tiền gửi được Nhà nước bảo hiểm. Số tiền gửi được lĩnh khi rút ra 1 phần. Chính sách tiết kiệm bắt buộc đã góp phần làm giàu nền kinh tế Singapore. 2.2.3. Bài học từ khủng hoảng tài chính châu Á Đầu tiên, nền tảng vững chắc đã hỗ trợ cho Singapore vượt qua "cơn bão" đổ bộ lên khu vực châu Á. Với tỉ lệ tiết kiệm cao, nguồn vốn dự trữ lớn, lưu lượng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cao, tỉ lệ nợ gần như không tồn tại, Singapore đã có khả năng "chịu đòn" cũng như đề ra các biện pháp kịp thời và quyết đoán để chống lại những ảnh hưởng tiêu cực đến từ đợt khủng hoảng. Thứ hai, khả năng linh hoạt trong việc điều khiển tỉ lệ hối đoái và tiền lương đã giúp Singapore hồi phục tốt hơn phần lớn các nước trong khu vực. Nỗ lực sự dụng nhiều chiến lược cùng một lúc (kết hợp với chính sách tài chính và tiền tệ), Singapore không những tránh được tình huống xấu nhất của khủng hoảng, mà còn "rải" gánh nặng cải biến lên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Thứ ba, các nhà chức trách Singapore từ lâu đã được người ta biết tới về phẩm chất kiên định và có uy tín cao. Chính vì thế, những thay đổi trong kế hoạch ngắn hạn không làm thị trường nghi ngờ việc "chung thủy" của Singapore với những mục tiêu dài hạn. Cuối cùng, Singapore đã cho thấy thành công trong việc tự do hóa tài chính, và chính điều này đã giữ vững vị trí trung tâm của Singapore trong ngành tài chính, ngay Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 18
  20. Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam cả vào những giờ phút khó khăn. Đây cũng là thế mạnh của nền kinh tế Singapore, đưa đất nước này vượt qua mọi đợt tấn công tiền tệ. 2.2.4. Mô hình công ty tài chính của nhà nước Tập đoàn Temasek Holdings Limited được thành lập từ năm 1974 ở Singapore. Về hoàn cảnh ra đời và cách thức hoạt động của công ty nhà nước chuyên kinh doanh vốn nhà nước này, Simon Claude Israel - quốc tịch New Zealand, thường trú tại Singapore, giám đốc điều hành kiêm thành viên hội đồng quản trị tập đoàn này - trong chuyến sang Mỹ để lobby cho các dự án đầu tư của tập đoàn này đã giới thiệu trước Quốc hội Mỹ hôm 5/3 vừa qua như sau: “... Trong những năm ngay sau tuyên cáo độc lập vào năm 1965, Chính phủ Singapore đã liên doanh đầu tư vào một số xí nghiệp mới trong nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm. Là một nước nhỏ mới độc lập, lại sống trên một hòn đảo nhỏ không có tài nguyên thiên nhiên, Singapore không có chọn lựa nào khác ngoài việc đảm bảo rằng những vụ đầu tư đó, về mặt kinh doanh, sẽ tồn tại được và bền vững.” Yêu cầu này được giao cho tiến sĩ Goh Keng Swee - phó thủ tướng, “kiến trúc sư” của công cuộc phát triển kinh tế và kỹ nghệ của Singapore. Nỗ lực tập trung vào các vụ đầu tư “ăn chắc mặc bền” của ông còn được tăng cường vào năm 1974 khi Chính phủ Singapore thành lập Tập đoàn Temasek, giao tập đoàn này trách nhiệm làm chủ sở hữu và quản lý khoảng 30 vụ đầu tư khởi nghiệp. Việc thành lập Temasek nhằm phục vụ yêu cầu tách biệt vai trò điều hòa và đề ra chính sách của chính phủ khỏi vai trò kinh doanh...”. Để thuyết phục Quốc hội Mỹ, Simon Claude Israel nhấn mạnh: Temasek lúc đó và ngày nay, sau 36 năm thành lập, luôn được quản lý bởi “kỷ luật thương trường” với mục tiêu “ăn chắc mặc bền” (tạm dịch: commercially viable and sustainable). Và chìa khóa thành công của Temasek, hiện đang làm chủ một tích sản lên đến 110 tỉ USD, chính là do có sự lãnh đạo tốt với sự tiếp sức của một ban cố vấn quốc tế tên tuổi, trong đó có một phó chủ tịch của tập đoàn dịch vụ tài chính Merrill Lynch và một chủ tịch sáng lập của một tập đoàn tài chính Mỹ. Việc thành lập Temasek nhằm phục vụ yêu cầu tách biệt vai trò điều hòa và đề ra chính sách của chính phủ khỏi vai trò kinh doanh...”. Nguồn vốn của Temasek được hình thành chủ yếu từ khoản tiết kiệm bắt buộc của người dân cùng với nguồn ngân sách nhà nước thu được từ thuế. Với số vốn đó, cùng với sự giúp đỡ của các chuyên Nhóm 7 Lớp KTE406(1-1011).4_LT Page 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0