intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài "Kinh tế tri thức gắn với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam"

Chia sẻ: Sâu Hư | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

2.118
lượt xem
407
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'đề tài "kinh tế tri thức gắn với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam"', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài "Kinh tế tri thức gắn với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam"

  1. Đề tài "Kinh tế tri thức gắn với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam"
  2. MỤC L ỤC I. ĐẶTVẤNĐỀ .............................................................................................................................3 II. GIẢIQUYẾTVẤNĐỀ ................................................................................................................4 1. Cơ sở lý luận..........................................................................................................................4 - Khái niệm về tri thức: .............................................................................................................4 - Khái niệm về tri thức khoa học: ............................................................................................8 - Tri thức và tri th ức khoa học đối với sự phát triển của xã hội. ...........................................9 2. Vai trò của tri thức và tri thức khoa học đối với quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Việt Nam ........................................................................................................ 12 - Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ............................................... 12 - Tri thức, tri thức khoa học là tiền đề vàđộng lực cho quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. .................................................................................................................. 13 - Thực tiễn vận dụng tri thức và tri thức khoa học vào công cu ộc công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Việt Nam................................................................................................................. 15 - Đư ờng lối và chính sách của Đảng, Nhà nước về sự vận dụng tri thức trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng và công cuộc xây dựng, phát triển đất nư ớc. ...................................................................................................................................... 17 III. KẾTLUẬN ........................................................................................................................... 19
  3. I. ĐẶTVẤNĐỀ Việt Nam đang ở vào một thời kỳ phát triển mới - thời kỳđẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đại hội Đảng lần thứ 9 của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Đường lối kinh tế của Đảng ta là "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xâ y dựng nền kinh tếđộc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp" và chỉ rõ "phát triển kinh tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm". bởi vì chỉ có bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệ m vụ trung tâm". Bởi vì chỉ có bằng con đường công nghiệp hoá , hiện đại hoá nước ta mới có thể thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, mới có thể hoà vào dòng thác chung của toàn nhân loại. Vậy phả i thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng cách nào? Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành trung ương khoá VIII đã xác định rõ "Công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ", "khoa học công nghệ phải trở thà nh nền tảng vàđộ ng lực cho CNH, HĐH". Đến đại hội IX của Đảng điều này lại được khẳng định lại một lần nữa, "phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần c ủa người Việt Nam, coi sự phát triển giáo dục vàđào tạo, khoa học và công ghệ là nền tảng vàđộ ng lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Chúng ta hãy tìm hiểu đề tài "Kinh tếtri thức gắn với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam".
  4. II. GIẢIQUYẾTVẤNĐỀ 1. Cơ sở lý luận - Khái niệm về tri thức: Tri thức là một yếu tốđặc trưng quan trọng của ý thức con người. Cùng với xúc cảm, tri thức c ủa con người về tự nhiên, về xã hội đã tạo nên ý thức, ý t hức theo nhận xét của Các Mác và Ph.Ăngghen trong "hệ tư tưởng Đức" ngay từđầu là sản phẩm của xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại. Xét về nguồn gốc, tri thức bắt nguồn từ trong quá trình lao động và giao tiếp giữa con người với con người. Phương tiện giao tiếp đầu tiên chính là tiếng nói, ngôn ngữ; Nhờ có tiếng nói lầ n đầu tiên con người có thể biểu đạt được những suy nghĩ, những tình cảm và sự nhậ n thức của mình ra thế giới bên ngoài. Từđó có thểđưa ra những hoạch định, những quy định có tính mục đích xác định đó là những tri thức đầu tiên của con người. Như vậy tri thức nói riêng, ý thức nói chung là sự kết hợp giữa đối tượng nhận thức thế giới hiện thực với bộ não có cấu tạo đặc biệt với tư cách là tổ chức vật chất cao nhất của con người . Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức về thế giới hiệ n thực c ủa con người. Trong quá trình đó các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực đã tác động lên bộ não con người thông qua các giác quan và nhờđó có bộ não tiến hóa nhất, tư duy con người đã tái hiện lạ i những mối quan hệ bản chất, những thuộc tính… từđó chúng được khái quát hóa, trừu tượng hóa thà nh những khái niệm, phạ m trù, phán đoán, quy luật… vàđược biểu đạt dưới hình thức ngôn ngữ
  5. hoặc các hệ thống ký hiệu khác nhau. Do đó sự tác động của thế giới hiện thực lên bộ não con người chính là nguồn gốc của tri thức. Tri thức có nguồn gốc từ thế giới hiện thực, là sự phản ánh thế giới đó trong đầu óc con người thô ng qua quá trình nhận thức. Cho nên bản chất của tri thức là hình ảnh của thế giới hiện thực trong đầu óc con người. Hình ảnh đó càng ngày càng được nhận thức của con ngư ời bổ sung cho chi tiết, chính xác hơn trên con đư ờng nhận thức và cải biên tự nhiên. Việc bổ sung, hoà n thiện dần bức tranh về thế giới hiệ n thực là quá trình vận động của nhận thức đi từ thực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lí tính, từ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lí luận. Quá trình này diễ n ra liên tục, từ thế hệ này sang thế hệ khác, là sự phả n á nh lịch sử phát triển của tư duy con người. Quá trình từ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lí luận hay từ tri thức rời rạc đến hệ thống tri thức khoa học diễn ra trong sự nhận thức của từng con người, cũng như trong suốt tiến trình phát triển của duy nhân loại. Tri thức kinh nghiệm và tri thức lí luận đều là tri thức chân thực, nhưng chúng ở những trình độ nhận thức khác nhau, biểu hiện những cấp độ khác nhau là sự phản ánh hiệ n thực khách quan. Tri thức kinh nghiệm là tri thức được hình thành nhờ vào quá trình nhậ n thức cảm tính. Bả n thân thức kinh nghiệ m cũng có 2 loại: "Tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệ m khoa học, tri thức khoa học thông thư ờng bao gồm nhữ ng hiểu biết, những quan niệm của con người được hình thành một cách trực tiếp trong quá trình hoạt động sống
  6. hàng ngày, được tích lũy lại và truyền từđời này sang đời khác thành thói quen, tập quán… đáp ứng được những yêu cầu của đời sống xã hội, cộng đồng và còn ở trình độ nhận thức giả n đơn. Tri thức kinh nghiệm khoa họcđược hình thà nh trên cơ sở quan sát, mô tả phân tích so sánh các thực nghiệ m, thí nghiệm khoa học, sống vẫn chưa vượt khỏi trình độ nhận thức kinh nghiệm bởi vì nó còn phải tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nghiên cứu. Nhìn chung tri thức kinh nghiệm mới chỉ dừng lại ở sự nhậ n thức cá biệt, đơn lẻ, rời rạc, những mối quan hệ và liên hệ bên ngoài của các sự vật, hiện tượng, quátrình, nghĩa là mới chỉ nắm bắt được các thuộc tính bên ngoài của đối tượng nghiên cứu. Song, tri thức kinh nghiệm là một giai đoạn nhận thức không thể thiếu được, nó là nền tảng là một nấc thang cần thiết để sự nhậ n thức của con người bước lên một trình độ cao hơn, trình độ lý luận. Đúng như Ph.Ănghen đã nhận xét: "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự do không bao giờ có thể c hứng minh được đầy đủ tất yếu… Nhưng bằng chứng của tính tất yếu là ở trong hoạt động của con người trong kinh nghiệ m, trong lao động…. Tri thức lí luận là trình độ cao của nhậ n thức, trình độ lý tính hay "tư duy trừu tượng", nó bao gồm những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa vàđã hoàn thà nh nên các học thuyết khoa học, được trình bày dưới dạng hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật……với tư cách là kết quả của quá trình nhận thức lý tính, tri thức lý luận tuy đã tách khỏi đối tượng nghiên cứu, nhưng lại có khả năng phản á nh hiện thực khách quan một cách toàn diện, sâu sắc đầy đủ, chính xác, vạch ra mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình từđó chỉ ra các quy luật vận động, biến đổi và phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy. Một
  7. trong những hình thức cao nhất va chung nhất của tri thức lí luận là phép biện chứ ng duy vật. Tri thức kinh nghiệm, đặc biệt là tri thức kinh nghiệm khoa học và tri thức lí luậ n tuy là hai hình trình độ phản ánh hiện thực khác nhau, nhưng chúng có quan hệ khăng khít, bền chặt với nhau. Tri thức kinh nghiệm và tri thức lí luận đều có chung nguồn gốc, đều xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, từ nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới của con người. Ngay cả toán học - môn khoa học có tính trừu tượng cao, cũng sinh ra từ nhu cầu thực tiễn c ủa con người từ việc do diện tích các khoảnh đất và việc đo dung tích nhưng bình chứa, tính thời gian… vàđối tượng của toán học thuần tuý là những hình không gian và những quan hệ số lượng của thế giới hiện thực. Tri thức kinh nghiệm là nền tảng là cơ s ở c ủa tri thức lí luậ n. Tri thức lí luận của khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội đề u phải xuất phát từ các sự kiện hiệ n thực. Những tri thức kinh nghiệm nhận được từ sự nghiê n cứu các sự kiện hiện thực là cơ sở tất yếu của tri thức lí luận khoa học là nguồn gốc làđộng lực phát triển của nó. Bằng thực tiễn thông qua tri thức con người kiể m tra được tính chân thực của tri thức. Rõ ràng trong một giai đoạn nhất định nào đó quá trình nhậ n thức, những quy luật được rút ra từ thế giới hiện thực được hệ thố ng hoá và khái quát hoá, sau đó con người lại đem ứng dụng những quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của mình. Thực tiễn là nơi kiểm nghiệm sự thống nhất của tính châ n thực của tri thức. Và thực tiễn xã hội là một quá trình không ngừng vận độ ng, biến đổi và phát triển, do vậy tri thức của con người cũng phải luôn đổi mới.
  8. - Khái niệm về tri thức khoa học: Trong lịch sử phát triển tư duy của nhân loại có rất nhiều quan niệm khác nhau về khoa học, một mặt nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, mặt khác phụ thuộc vào trình độ của nhận thức. Xét về phương diện xã hội khoa học là một hiện tượng xã hội có nhiề u mặt, trong đó biểu hiện sự thống nhất giữa những yếu tố vật chất và những yếu tố tinh thần. Về phương diện nhận thức, khoa học là giai đoạn cao nhất của nhận thức, nhậ n thức lí luận về phương diện triết học, khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Khoa học không chỉ phả n ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào xã hội, những chân lý của nóđược thực tiễn xã hội kiê m nghiệm mà khoa học còn là kết quả của quá trình sáng tạo logic, của trực giác thiên tài: Khoa học là yếu tố ngày càng có vai tròđặc biệt quan trọng của lực lượng sản xuất, quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riê ng, của phương thức sản xuất và của xã hội nói chung. Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người và về tư duy của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội tại, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, từđó chỉ ra những quy luật khách quan của sự vận độngvà phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức khoa học đ ược hình thành trong quá trình nhận hức của con người từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, tư duy trừu tượng đến thực tiễn dưới dạ ng khái niệm phạ m trù, quy luật, lý thuyết… Như vậy, tri thức kha học là sự phả n á nh thế giới mà còn được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
  9. Tri thức khoa học còn có thểđược hình thành nhỏ trực giác hoặc tuân theo những quy luật của logic học. Loại tri thức khoa học này, xét cho đến cùng cũng là sự phản á nh thế giới hiện thực vàđược thực tiễn kiêm nghiệm. do đó, một hệ thống tri thức được coi là tri thức khoa học phải đảm bảo tính đúng đắn, tính chân thực. Nhờ giáo dục đào tạo, tri thức khoa học có sức sống mãnh liệt, được phổ biến rộng rĩa và lan truyền rất nhan chóng. Tốc độ lan truyền đóđã tăng lên rất nhiều lầ n nhờ vào quá trình toàn cầu hoá và công nghệ thông tin. Nó không chỉ là sức mạnh là sự biến đổi mau lẹ mà còn là biểu hiện sự giàu có, thịnh vượng của mọi quốc gia, dân tộc và cá nhân. Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài, liên tục của tư duy nhân loại từ t hế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay nóđang trở thà nh tài sản chung của xã hội loài người. - Tri thức và tri thức khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Tri thức rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Bởi vì mọi việc mà chúng ta làm đều phụ thuộc vào tri thức một cách đơn giản làđể sống, chúng ta phải biến đổi những nguồn lực mà chúng ta có thành những đồ vật mà chúng ta cần vàđiều đó cần phải có tri thức. Trong lao động sản xuất ra của cải phát triển, con người phải nắm bắt, nhận thức được đối tượng lao động và công cụ lao động để dùng những tri thức đó tạo ra vật chất, những tri thức về xã hội sẽ giúp con người phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất từđó tạo ra sự phát triển về phương thức sản xuất. Trong chính trị - xã hội, con người sử dụng những tri thức của mình để tạo ra một xã hội ổn định hoà bình, văn minh, đời sống
  10. văn hoá tinh thần, không ngừng được nâng cao. Nói tóm lại, xã hộ i muốn phát triển được thì cần phải có tri thức, tri thức là chìa khoáđể phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Đặc biệt, là tri thức khoa học, tri thức khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và hoạt động thực tiễn. Vai trò của tri thức khoa học ngày càng tăng lên đối với sự phát triển của xã hội. Ngày nay, tri thức khoa học đã thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vai trò của nó thể hiệ n ở chỗ khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời, những ngành sản xuất mới, công nghệ mới, nguyên liệu mới. Khoa học trở thành yếu tố tri thức không thể thiếu được của người lao động biế n người lao động thành người điều khiển kiểm tra quá trình sản xuất. Đội ngũ các nhà khoa học, kỹ thuật viên trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất với quy mô ngày càng lớn. Cùng với khoa học tự nhiê n và khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội như kinh tế học, luật học, xã hội học… cũng không ngừng phát triển vàđóng vai trò quan trọng trong đ ời sống xã hội. Khoa học không chỉ góp phần nâ ng cao chất lượng cuộc sống mà còn giúp con người cóđầu óc tư duy sáng tạo, tầm nhìn suy rộng. Điều này đặc biệt cóý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo vì phả i nắm bắt được cơ sở khoa học thực tế thì mới hoạch định được chính sách, đường lối phát triển của một tổ chức hay một quốc gia. Ngày nay việc quả n lý xã hội, trong đó quan trọng là quản lý kinh tế, quả n lý Nhà nước, thành công đến mức nào là tuỳ thuộc vào khả năng xử lý thông tin. Khô ng theo kịp những biến đổi hết sức mới trong lĩnh vực này mà khư khư giữ lấy cách quản lý cũ, lạc hậ u thì không tránh khỏi bỏ lỡ thời cơ có thể vươn lên để tiến kịp cùng thời đạ i và thoát ra sự trì trệ. Cùng với những biến đổi về chất lượng trong lực lượng sản xuất, trong kinh tế và trong quản lý xã hội,
  11. tiến bộ khoa học, kỹ thuật còn tạo nên những biến đổi ghê gớm trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự, trong việc tạo ra những phương tiện phá hoại và huỷ diệt sự sống, làm gay gắt những vấ n đề toàn cầu c ủa thời đại. Nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà càng ngày người ta càng tạo ra được nhiều loại nguyên liệu và vật liệu có thể thay thế những thứ từ trước đến nay chỉ có thể dựa vào sự cung cấp của thiê n nhiê n. Vì vậy tiến bộ khoa học kỹ thuật đang làm ư u thế dưới dạng tiề m năng về tài nguyên thiên nhiên trở nên tương đối. Tiến bộ khoa học kỹ thuật một mặt tạo thời cơ thuận lợi cho các nước thoát ra khỏi sự lạc hậu và trì trệ nếu như biết định hướng đúng, nếu có một tiềm năng nhất định nào đó về nguồn vốn và nguồn nhân lực có trình độ cần thiết để tiếp thu các công nghệ tương đối hiện đại khi đã có những kỹ thuật và công nghệ mới, tiến bộ thì vấn đềđặt ra tiếp theo là giải quyết việc làm cho số lao động dôi ra tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm…. Nếu giải quyết tốt thì chúng khả năng hội nhập của các nước này với trào lưu chung của thế giới là hiện thực. Song tiến bộ khoa học - kỹ thuật thời đại chúng ta còn có một mặt khắc nghiệt ngã là hoàn toàn có khả nă ng nhấ n các nước kém phát triển chìm sâu hơn trong cảnh lạc hậu và phụ thuộc, đồng thời còn tạo nên một khoảng cách còn lớn gấp bội so với khoảng cách đã từng tồn tại trước đây giữa họ và các nước phát triển nếu như họ khô ng tìm ra con đường thích hợp hoặc cố tình duy trì cách làm ăn cũ, thói quen cũ, không thích nghi với những biế n đội của thời đại. Như vậy, tri thức khoa học ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hộ i và thế giới ngày nay, nó là người bạn đồng hành của xã hội văn minh tiến bộ .
  12. 2. Vai trò của tri thức và tri thức khoa học đối v ới quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Việt Nam - Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diệ n các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ cong là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với côngnghệ, phương tiện và phương pháp tiê n tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Công nghiệp hoá phải gắn liề n với hiện đại hoá. Hiện đại hoá trong sản xuất trước hết là hiệ n đại hoá trong lực lượng sản xuất. Xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là không ngừng thay thế dần các thiết bị, các quy trình công nghệ chưa hoàn thiện bằng các trang thiết bị, quy trình công nghệ cao, công nghệ sạch. Nước ta đang ở vào một thời kỳ phát triển mới - t hời kỳđẩy mạ nh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đường lói và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đại hội Đảng lần thứ 9 của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Đường lối kinh tế của Đảng ta là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tếđộc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp" và chỉ rõ "phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệ m vụ trung tâm". Bởi vì, chỉ có bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta mới có thể thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, mới có thể hoà vào dòng thác phát triển chung của toàn nhân loại. Vậy phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng cách nào?
  13. - Tri thức, tri thức khoa học là tiền đề vàđộng lực cho quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã xác định rõ "Công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ"; "khoa học công nghệ phải trở thành nền tảng vàđộng lực cho công nghiệp hoá , hiện đại hoá". Đến đại hội IX của Đảng điều nà y lại được khẳng định lại một lần nữa lạ i được khẳ ng định: "Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thầ n của người Việt Nam, coi sự phát triển giáo dục vàđào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng vàđộng lực của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá". Mục đích quan trọng nhất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển sản xuất xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất nhằm thoả mãn các nhu cầu ngày càng tăng của con người và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Lực lư ợng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ bả n: tư liệu sản xuất (đối tượng lao động, công cụ lao động, khoa học công nghệ, hạ tầng cơ sở…) và con người. Ngày nay tri thức đã thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong nền kinh tế tri thức mà một số nước công nghiệp phát triển đang thực hiệ n, tri thức khoa học đặc biệt là tri thức của một số lĩnh vực như tin học, điều khiển học, sinh học… đã trực tiếp gia nhập vào quá trình sản xuất và dịch vụ của xã hội. Bằng cách này lực lượng sản xuất sẽ không ngừng được bổ sung vàđổi mới theo hướng gia tăng tính hiện đại, tiên tiến. Xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là không ngừng thay thế dần các trang thiết bị, các qui trình công nghệ chưa hoàn thiện (cho năng suất thấp, tiêu hao nhiên liệu, gây ô nhiễm….) bằng các trang thiết bị, quy trình công nghệ cao, công nghệ sạch. Điều đó là dựa
  14. vào tri thức khoa học. Như vậy tri thức khoa học đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đaịi vàđó là nền tảng cho công nghiệ p hoá, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội. Tri thức khoa học có vai trò to lớn quyết định trong việc biến đổi yếu tố con người trong lực lượng sản xuất theo chiều hướng hiện đại. Bằng tri thức con người có thể nhanh chóng vận hành tốt và thích nghi với những trang thiết bị hiện đại, tiên tiến trong sản xuất, cũng nhưđủ sức giải quyết những tình huống phức tạp, có vấ n đề trong sản xuất vàđời sống. Mặt khác, do sự t hường xuyên đổi mới của trang thiết bị sản xuất vàđời sống nó buộc con người thường xuyên học tập, trau dồi kiế n thức để khỏi bịđào thảo ra khỏi quá trình sản xuất xã hội vàđể thích ứng với cuộc sống hiện tại. Trình độ chất lượng của đội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất không ngừng được nâng cao và hoàn thiện. Do đó với tư cách là yếu tố thuộc lực lượng sản xuất, tri thức khoa học có vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của sả n xuất. Ngoài ra nhờ có tri thức khoa học mà quan hệ sản xuất phát triển con người nắm bắt, truyền đạt thông tin nhanh hơn nhờđó thúc đẩy sản xuất. Ngày nay tri thức khoa học liên quan chặt chẽ và tác động trực tiếp, mạnh mẽ lên cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Bên cạnh đó tri thức khoa học còn có vai trò trong hoàn thiện cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, nhằm mục tiêu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tri thức khoa học đóng góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của xã hội.
  15. - Thực tiễn vận dụng tri thức và tri thức khoa học vào công cuộ c công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Việt Nam. Thực tiễ n trong những năm qua ở Việt Nam cho thấy ởđâu có sự sáng tạo trong công cuộc đổi mới các giải pháp khoa học công nghệ thìởđó có sự tiến bộ vượt bậc. Về nô ng nghiệp sự sáng tạo của Đảng trong chính sách khoán áp dụng trong nông nghiệp những năm 80 là một ví dụđiển hình cho thấy vai trò của chính sách trong việc tạo ra mức tăng trưởng sản lượng kỷ lục về lương thực mà không có một yếu tố sản xuất thông thường nào như: vốn, lao độ ng vật tư có thể mang lại. Chính sách mớilàm cho người lao động làm việc có trách nhiệm và năng nổ sáng tạo hơn. Đảng đẩy mạ nh và khuyến khích nông dân khoa học - công nghệ vào sản xuất như: sử dụng các loại giống mới, phân bón máy móc sản xuất theo công nghệ cao của thế giới, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi bằng cách đầu tư, cải tạo nâng cấp hệ thống sông, đê ngăng chặn nước mặn lên biển, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và vật liệu mới trong thiết kế và thi công công trình là cho việc thực hiện công trình xảy ra nhanh chóng đá p ứng kịp thời nhu cầu, lợi ích của bà con nô ng dân . Về công nghiệ p qua quá trình sá ng tạo và triển khai chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các công ty nhờđi thẳng vào công nghệ hiện đại màđãđạt được những thắng lợi ngoài mong đợi. Trong các ngành, bưu chính viễn thông, khai thác dầu khí và các ngành khác nhờ những quyết định táo bạo trong đầu tư vào kỹ thuật công nghệ hiện đại màđạt được mức tăng trưởng cao trong thời gian dài, ổn định văn hoá - giáo dục được nâng cấp, đầu tư một cách thoảđáng. Về kinh tế tổng sản lượng trong năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nên kinh tế từ tìn trạng hà ng hoá khan hiếm nay đã sản xuất đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân
  16. dân. Nề kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ c hế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế tăng trưởng tương đối cao: Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quâ n 7% trong một năm; giá trị nông - lâm- ngư nghiệp tăng bình quân 5,7% trong một năm. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất hàng hoá năm 13,5%. Đầu tư sản xuất ra sản phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Về c hính trị xã hội nghiên cứu, khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn 1996 - 2000 đã cóđóng góp tích cực trong phát triển lí luận và tổng kết thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thế kỷ 20. Khoa học xã hội và nhân văn còn đóng góp quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiệ n hệ thống pháp luật, ban hành các băn bản dư ới luật các chính sách và hiệp định quốc tế. Giáo dục ngày cà ng được chú trọng. Ở Việt Nam từ 1997 đến nay nhân lực khoa học công nghệ cả nước tăng 1,5 lần cán bộ khoa học công nghệ có trình độđại học xấp xỉ 1,3 triệu và hàng năm bổ sung thê m khoảng 180 nghìn người. Trình độ năng lực cá n bộ trong một số lĩnh vực như: nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, công trình điện, bưu chính viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khíđạt mức trung bình tiên tiến trong khu vực.. khoa hoạc công nghệđã có khả năng là m chủ và thích nghi nhiều công nghệ tiên tiến của nước ngoài trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, năng lượng…. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì vấn đề khoa học công nghệ trong công cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiệ n đại hoá ở nư ớc ta còn tồn tại những mâ u thuẫ n sau:
  17. + Mâu thuẫ n giữa nhu cầu rất cấp bách, rất lớn về các trang thiết bị kỹ thuật hiện đạ i đểđẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đạ i hoá với thực trạng công nghệ còn quá lạc hậu của đất nước ta hiệ n nay. + Mâu thuẫn giữa sựđòi hỏi phải có c ơ s ở hạ tầng vật chất kỹ thuật đủ mạnh và phù hợp đểđưa công nghệ hiện đạ i vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước với thực trạng cuộc sống vật chất - kỹ thuật còn quá nghèo nàn, lạc hậu, không đồng bộ hiện nay. + Mâu thuẫ n giữa sựđòi hỏi cao về xã hộ i hoá tri thức để cóđủ trình độ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mặt bằng dân trí còn nhiều hạn chế, đặc biệt làở vùng nông thôn rộng lớn chiếm 3/4 tổng dân số. + Mâ u thuẫn giữa sựđòi hỏi rất cao về công tác tổ chức, quản lý và thông tin cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá thị trường với trình độ năng lực và kinh nghiệm còn yếu kém và với trình độ và cơ sở vật chất kỹ thuật, thông tin còn nhiều hạ n chế của giai đoạn phát triển ban đầu. + Mâ u thuẫn giữa nhu cầu rất lớn về các nguồn tài nguyên cho quá trình công nghiệ p hoá, hiện đại hoá với hiện trạng suy thoái và cạn kiệt của các nguồn tài nguyên hiện nay. - Đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước về sự vận dụng tri thức trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng và công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Việt Nam là nước đi sau có nhiều khả năng tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ thế giới. Do đó có thể rút ngắn được quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước ở các nước, công nghiệp phát triển.
  18. Việt Nam không chỉ tích cực chuẩn bị cho bước phát triển này, mà cần phải tiếp nhận tri thức ở những ngành lĩnh vực có khả năng vàưu thế . Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vừa đặt ra những thách thức song cũng cho ta nhiều cơ hội để nâng cao trình độ khoa học công nghệ và xây dựng tiềm lực khoa học. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã vạch ra chiến lược: + Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyê n truyền, phổ biế n nghị quyết đại hội IX của Đả ng, nâ ng cao nhận thức toàn dân và các cấp, các ngành về vai trò nền tảng vàđộng lực của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo lập môi trường kinh tế xã hội theo hướng tạo điều kiện, vừa khuyến khích vừa ràng buộc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tếđầu tư vào nghiên cứu đổi mới công nghệ; đổi mới và nâng cao tính cạnh tranh thị trường trong nước và nước ngoài. + Đưa luật khoa học - công nghệ vào cuộc sống rộng rãi hơn, tiến hành tổng kết thực tiễ n hoạt động khoa học công nghệ nhữ ng năm qua và kịp thời thể chế hoá những mô hình tốt, cách làm hay đãđ ợc thực tiễn thử thách vàchứng minh. Đồng thời tích cực đổi mới vè cơ bản cơ ché quản lý khoa học - công nghệ theo tinh thầ n luật khoa học - công nghệđể nhanh chóng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực khoa học - công nghệ. + Tháo gỡ những khó khăn để mở rộng và phát triển khai thông thị trường khoa học - công nghệđây là nhiệm vụ hết sức cấp bách cơ bản và lâu
  19. dài, để phát huy hết vai tròđộng lực của khoa học công nghệ trong sự nghiệ p công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Tăng cường xây dựng c ơ sở hạ tầng để nhanh chóng hội nhập với thế giới và khu vực, đặc biệt là cơ sở hạ tầng về thông tin khoa học, trang thiết bị cho các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. + Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằ m khuyến khích sá ng tạo và gắn ứng dụng khoa học công nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý dịch vụ coi trọng việc nghiên cứu c ơ bản trong các ngành khoa học. Tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ. + Đầu tưđể phát triển giáo dục, khoa học ít ra với tỷ lệ không thấp hơn tỷ lệ trung bình của thế giới. Bằng mọi cách đẩy nhanh việc xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục từng bước từ thấp đến cao. Gắn khoa học với sản xuất vàđời sống, có chính sách chiêu hiền đãi sĩ, trọng dụng nhân tài. Thực hiệ n tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộđặc biệt đối với nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc. III. KẾTLUẬN Tri thức khoa học là một trong những vấn đềđược nhân loại quan tâm nhất trong thời gian đại ngày nay. Bởi lẽ, nếu không có khoa học công nghệthìđã không thể có và sẽ khô ng thể c ó phát triển của xã hội loài người, lịch sử xã hội là quá trình con người không ngừng nhận thức và cải tạo thế giới bằng khoa học công nghệ: khoa học công nghệ gắn bó chặt chẽ với sản xuất, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đối với
  20. Việt Nam, tri thức khoa học công nghệđang giữ một vai trò cực kỳ quan trọng và quyết định đối với sự nghiệ p công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước, vừa là nền tảng vừa làđộng lực. Vì vậy chúng ta cần nhận thức được tầm quant rọng của tri thức và tri thức khoa học để có t hểđịnh hướng được hướng phát triển của đất nước. Là một sinh viên vừa bước vào ngưỡng cửa đại học, là nhà kinh tế tương lai của đất nước, ngay từ bây giờ, chúng ta cần phải nhận thức rõđược vị trí của bản thâ n, xác định đúng vị trí vai trò to lớn của tri thức khoa học trong sự nghiệp kiến thiết đất nước. Để sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Việt Nam thành công, để khoa học công nghệ trở thành nền tảng đòi hỏi sự nỗ lực mọi mặt trong việc tiếp thu và phát triển công nghệ cao của tất cả chúng ta một cách hiệ u qủa.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2