intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Lạm phát ảnh hưởng như thế nào đến tỷ giá hối đoái tại Việt Nam giai đoạn 2008 - 2013

Chia sẻ: Nguyễn Thị Anh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:34

246
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giữa hai biến số kinh tế lạm phát và tỷ giá hối đoái có mối liên hệ, tác động, ảnh hưởng qua lại chặt chẽ với nhau. Đề tài: Lạm phát ảnh hưởng như thế nào đến tỷ giá hối đoái tại Việt Nam giai đoạn 2008 - 2013 sau đây sẽ tập trung làm rõ vấn đề này. Mời các bạn tham khảo tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Lạm phát ảnh hưởng như thế nào đến tỷ giá hối đoái tại Việt Nam giai đoạn 2008 - 2013

  1. MỞ ĐẦU     Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007,  kinh tế Việt Nam đã bước sang  một trang sử mới với sự phát triển vượt bậc về mọi mặt. Việt Nam đã được đánh   giá là một “con hổ” của nền kinh tế Châu Á. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải đối   mặt với rất nhiều vấn đề  nan giải như: lạm phát, mất giá đồng nội tệ, nhập siêu  cao Đặc biệt trong thời gian gần đây, việc tỷ giá hối đoái giữa VND và USD tăng   cao đã có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam theo cả hai mặt tốt   vàxấu.  Tỷ  giá hối đoái xuất hiện và phát triển cùng với sự  ra đời, phát triển của  thương  mại quốc tế, nó có vai trò rất quan trọng là mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi   quốc gia đều hướng tới. Đồng tiền  ổn định và tỷ  giá hối đoái hợp lý sẽ  tạo điều  kiện cho việc duy trì, mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế trong nước và   quốc tê, giúp cho nền kinh tế  trong nước có điều kiện hội nhập khu vực và thế  giới ngày càng mạnh mẽ hơn. Trong đó giữa hai biến số  kinh tế  lạm phát và tỷ  giá hối đoái có mối liên hệ, tác  động, ảnh hưởng qua lại chặt chẽ với nhau. Tất cả những vấn đề  đó đã thôi thúc  chúng em đi vào và tìm hiểu đề  tài  “Lạm phát ảnh hưởng như thế nào đến tỷ   giá hối đoái tại Việt Nam giai đoạn 2008­2013” 
  2. PHẦN I:CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Tính cấp thiết của đề tài.   Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai biến số kinh tế quan trọng của không chỉ  của một quốc gia nào. Lịch sử đã chứng minh sự ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng   đến sự phát triển kinh tế thế giới. Không những lạm phát và tỷ giá hối đoái có thể  tác động đến mọi hoạt động kinh tế  mà chúng còn chịu sự  tác động qua lại lẫn  nhau. Sự  tác  động này làm cho diễn biến của chúng ngày càng biểu hiện khó  lường, gây khó khăn cho công tác kiểm soát vĩ mô nền kinh tế của Chính Phủ.   Trước tình hình thế  giới có nhiều thay đổi như hiện nay thì vấn đề ổn định  nền kinh tế  luôn là mục tiêu cấp thiết hàng đầu của các quốc gia. Bởi vậy, nắm   bắt được quy luật về  mối quan hệ  giữa lạm phát và tỷ  giá hối đoái sẽ  giúp cho  chính phủ các nước có những chính sách kinh tế phù hợp, tạo nên một sự phát triển   kinh tế ổn định và tích cực hơn. II.Các khái niệm.    2.1. Tỷ giá hối đoái 2.1.1.         Định nghĩa tỷ giá hối đoái: Tỉ  giá hối đoái là giá chuyển đổi từ  một đơn vị  tiền tệ  nước này sang thành   những đơn vị tiền tệ nước khác. 2.1.2.         Các hình thức biểu hiện:  * Biểu hiện trực tiếp: Là phương pháp biểu thị  một đơn vị  ngoại tệ  bằng bao   nhiêu đơn vị tiền tệ của nước mình.      + Đặc điểm: Ngoại tệ là đồng yết giá, còn tiền trong nước là đồng định giá.
  3.         → Đây là phương pháp phổ biến trên thế giới hiện nay.  *Biểu hiện gián tiếp: Là phương pháp biểu thị  một đơn vị  tiền tệ  trong nước   bằng bao nhiêu đơn vị ngoại tệ. + Đặc điểm: Tiền trong nước là đồng tiền yết giá, ngoại tệ là đồng định giá.         → Hình thức này phổ biến ở nước Anh và một số nước thuộc liên hiệp Anh. 2.1.3.         Vai trò của tỷ giá hối đoái:      Tỉ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó tác động đến giá cả  tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài. Qua đó tác động đến   tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá và sự  cạnh tranh hàng hoá giữa các nướcvới   nhau trên thị trường quốc tế.       + Khi đồng tiền của một nước tăng giá, hàng hoá của nước đó tại nước  ngoài đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó rẻ  hơn. Điều này dẫn đến  những nhà sản xuất trong nước đó gặp khó khăn hơn trong việc bán hàng của họ ở  nước ngoài.      + Khi đồng tiền rẻ của mỗi nước sụt giá thì hàng hoá của nước đó tại  nước  ngoài rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó đắt hơn. → Những nhà sản xuất trong nước có ưu thế  cạnh tranh trong việc bán hàng ở  thị  trường nước ngoài, đồng thời hạn chế nhập khẩu. 2.1.4.           Cơ sở xác định tỉ giá hối đoái:     * Trong lưu thông tiền đúc bằng kim loại: tỷ giá được hình thành dựa trên trọng   lượng kim loại của các đồng tiền được so sánh với nhau.     * Trong chế độ tiền giấy được tự do chuyển đổi ra vàng: Tỉ giá được hình thành   dựa trên trọng lượng vàng theo luật định của các đồng tiền được so sánh với nhau.
  4.          Ví dụ: Trước năm 1970, nội dung vàng của một đồng bảng Anh (GBP) là   2.4888281 gram vàng nguyên chất, 1USD là 0.888671 gram vàng nguyên chất. Như   vậy 1GBP = 2.8 USD (2.488281: 0.888671).     * Ngày nay, khi giấy bạc ngân hàng của các nước không được tự do chuyển đổi  ra vàng: tỉ giá được hình thành dựa trên sức mua của các đồng tiền, hay còn gọi là  ngang giá sức mua.      2.1.5 Phân loại tỷ giá.      Tùy vào mục đích sử dụng, tỉ giá được phân chia theo các tiêu thức khác nhau.       2.1.5.1 Căn cứ vào phương tiện chuyển hối  * Tỉ  giá điện hối: Là tỉ  giá mua bán ngoại tệ, cũng như  các giấy tờ  có giá bằng  ngoại tệ được chuyển bằng điện.  * Tỉ  giá thư  hối: Là tỉ  giá mua bán ngoại tệ, cũng như  các giấy tờ  có giá bằng  ngoại tệ được chuyển bằng thư. 2.1.5.2    Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại tệ  * Tỉ giá mở cửa: Là tỉ giá áp dụng cho việc mua bán món ngoại tệ  đầu tiên trong   ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái.  * Tỉ  giá đóng cửa: Là tỉ  giá áp dụng cho mua bán món ngoại tệ  cuối cùng trong  ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái. 2.1.5.3.    Căn cứ vào phương thức mua bán, giao nhận ngoại tệ  * Tỉ  giá giao nhận ngay: Là tỉ  giá mua bán ngoại tệ  mà việc giao nhận chúng sẽ  thực hiện chậm nhất sau 2 ngày làm việc.  * Tỉ giá giao nhận có kì hạn: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng  được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định. 2.1.5.4.  Căn cứ vào chế độ quản lí ngoại hối
  5.  * Tỉ giá hối đoái chính thức: Là tỉ  giá do Nhà nước công bố  thường là Ngân hàng  Trung ương.  * Tỉ  giá tự  do: Là tỉ  giá được hình thành tự  phát và diễn biến theo quan hệ  cung   cầu về  ngoại tệ trên thị  trường. Tỷ giá tự do hay còn gọi là tỷ  giá trên thị  trường   chợ đen.      2.1.6 Chính sách tỉ giá hối đoái        2.1.6.1. Định nghĩa:    Là chính sách mà Ngân hàng Trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng   cách thay đổi lãi suất.       + Khi tỉ  giá lên cao, Ngân hàng Trung  ương tăng cường bán ngoại hối ra thị  trường để kéo tỉ giá ngoại hối tụt xuống.    → Ngân hàng Trung ương cần phải có dự trữ ngoại hối lớn.     + Khi tỉ giá xuống, Ngân hàng Trung ương tiến hành thu mua ngoại hối trên thị  trường để đẩy tỉ giá ngoại hối tăng lên.       2.1.6.2. Phân loại chính sách tỷ giá.    * Chế  độ  tỉ  giá cố  định: Là chế  độ  tỉ  giá mà Ngân hàng Trung  ương buộc phải   can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỉ giá biến động xung quanh một mức   tỉ giá cố định (gọi là tỉ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước.      →  Chế  độ  tỷ  giá này giảm bớt rủi ro trong việc chuyển đổi từ  đồng tiền này   sang đồng tiền khác.    * Chế  độ tỷ giá thả nổi an toàn: Là chế  độ  tỉ  giá được xác định hoàn toàn tự  do   theo quy luật cung cầu trên thị  trường ngoại hối mà không có sự  can thiệp của  Ngân hàng Trung ương.     → Chế độ tỷ giá này giúp cho chính sách tiền tệ quốc gia được độc lập.
  6. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Là chế độ tỉ giá mà Ngân hàng Trung ương tiến   hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm  ảnh hưởng đến tỉ giá nhưng không   cam kết duy trì một tỉ giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung   tâm. 2.2. Lạm phát. Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho  chúng bị  mất giá, giá cả  của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. Lạm   phát có những đặc trưng là: ­       Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến đồng  tiền bị mất giá; ­       Mức giá cả chung tăng lên. 2.2.1. Phân loại lạm phát Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự  tăng lên của giá cả  hàng hóa, nên các   nhà kinh tế  thường dựa vào tỷ  lệ  tăng giá để  làm căn cứ  phân loại lạm phát ra   thành 3 mức độ khác nhau: ­       Lạm phát vừa phải: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả  hàng hóa tăng chậm ở mức độ  1 con số hàng   năm ( dưới 10% một năm ). Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát nước kiệu hay  lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như  một  chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. ­       Lạm phát cao: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả  hàng hóa tăng ở  mức độ  hai con số  hàng năm  ( từ 10%­100% một năm). Lạm phát cao còn đươc gọi là lạm phát phi mã. Thật ra,   cũng có một số  nhà kinh tế  quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã bao  
  7. gồm cả lạm phát ở mức độ ba con số ( như 100%, 200%...). Lạm phát phi mã gây   ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế­xã hội. ­       Siêu lạm phát: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả  hàng hóa tăng ở  mức độ  ba con số  hàng năm  trở lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là tốt khi  nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát.  2.2.2.   Các   nguyên   nhân   gây   ra   lạm   phát.            Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát   do   cầu   kéo"   và   "lạm   phát   do   chi   phí   đẩy"   được   coi   là   hai   thủ   phạm   chính. Cân   đối   thu   chi   là   điều   không   thể   tránh   khỏi   khi   xảy   ra   lạm   phát. ­   Lạm   phát   do   cầu   kéo: Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ  kéo theo sự  tăng   lên về  giá cả  của mặt hàng đó. Giá cả  của các mặt hàng khác cũng theo đó leo  thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm phát  do sự  tăng lên về  cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị  trường tăng) được gọi là “lạm  phát   do   cầu   kéo”. ­   Lạm   phát   do   chi   phí   đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào,  máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu  tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên,   vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là  mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi   phí   đẩy”. ­   Lạm   phát   do   cơ   cấu: Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công “danh nghĩa” 
  8. cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh không hiệu  quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế  đó buộc phải tăng tiền công cho người lao  động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải  tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành  sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát. ­   Lạm   phát   do   cầu   thay   đổi: Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu   về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền  và giá cả  có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ  có thể  tăng mà không thể  giảm,   như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá.   Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung   tăng   lên,   dẫn   đến   l ạm   phát. ­   Lạm   phát   do   xuất   khẩu: Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ  lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu  khiến lượng hàng cung cho thị  trường trong nước giảm (hút hàng trong nước)   khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân  bằng   sẽ   nảy   sinh   lạm   phát. ­   Lạm   phát   do   nhập   khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế  giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung   bị   giá   nhập   khẩu   đội   lên   sẽ   hình   thành   lạm   phát. ­   Lạm   phát   tiền   tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương   mua ngoại tệ  vào để  giữ  cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ;  
  9. hay do ngân hàng trung  ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho  lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. 2.3.Mối quan hệ giữa tỷ giá với lạm phát Lạm phát ảnh hưỏng như thế nào đến tỷ giá hối đoái? Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ  giảm, với tỷ  giá hối đoái   không đổi, hàng hoá dịch vụ  trong nước đắt hơn trên thị  trường nứơc ngoài trong  khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật   cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ  hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá,  cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút,  cung ngoại tệ  trên thị  trường giảm, tỷ  giá hối đoái tăng. Như  vậy  lạm phát  ảnh  hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ  theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng  gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị  trưòng tiền tệ, lạm phát làm  đồng tiền mất giá, người dân sẽ  chuyển sang nắm giữ  các tài sản nước ngoài  nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng.  Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ  phụ  thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia.  Quốc gia nào có tỷ lệ  lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá   hối đoái tăng.   Khi mức độ phá giá của tiền tệ lớn hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát   sẽ  gia tăng. Khi mức độ  mất giá của tiền tệ  thấp hơn sự  mất giá của hàng hóa,  lạm phát sẽ  được hạn chế. Bởi vậy khi lạm phát trầm trọng, tăng tỷ  giá có thể  hạn chế  được lạm phát.” Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là 
  10. quan hệ  một chiều mà là quan hệ  vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể  coi  cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả”.  Ví dụ mức tỷ giá hối đoái năm 2010 1USD=19800VND Đến năm 2013 là 1USD=21000VND,thì tất cả các sản phẩm nhập khẩu tính   thành tiền Việt Nam đều tăng giá, trong đó có nguyên vật liệu, máy móc cho sản   xuất. Nếu các yếu tố khác trong nền kinh tế không thay đổi , thì điều này tất yếu   sẽ làm mặt bằng giá cả trong nước tăng lên.   Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo (thậm chí cả  so với USD), lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng luẩn quẩn   theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này.  Việc nới lỏng biên độ  tỷ  giá chỉ  có tác động nhất thời. Theo các chuyên gia  của Dragon Capital Ngân hàng Nhà nước đã dùng các công cụ chính sách thắt chặt  tiền tệ (thắt chặt cung tiền, thắt chặt tín dụng), áp đặt trần lãi suất vừa qua mang   tính hành chính và đã không có hiệu quả  và không thể  trì hoãn việc cải tổ  chính   sách tỷ giá. Do thắt chặt tiền tệ đã xảy ra vấn đề thiếu thanh khoản, do bị áp trần   lãi suất nên ngân hàng khó thu hút được tiền trong dân cư, kích thích người dân đầu  tư  và giữ  vàng và/hay ngoại tệ. Các sàn giao dịch vàng đang đua nhau mở  cửa là   một dấu hiệu không mấy lành mạnh. Hơn nữa nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu   ngoại tệ càng cao.Nền kinh tế bị càng bị đô la hóa (và vàng hóa) hơn. Và USD khan   hiếm là không khó hiểu. Các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi USD, khiến   chênh lệch lãi suất USD ở trong nước và ngoài nước ngày càng doãng ra, điều này  
  11. lại khuyến khích các dòng vốn ngắn hạn (đầu cơ  hay cho ngân hàng trong nước  vay ngắn hạn) chảy vào gây áp lực hơn nữa lên lạm phát.   Không thể dùng các biện pháp hành chính, không thể  áp trần lãi suất vì làm  như vậy chỉ khiến cho tình hình khó khăn thêm và là lợi bất cập hại. Nên để cho lãi   suất phát huy tác dụng sàng lọc, lựa chọn của nó. Và cũng rất nên xem xét lại chế  độ tỷ giá hối đoái các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội  tệ   quốc   gia   đó   sẽ   mất   giá   một   cách   tương   đối   và   tỷ   giá   hối   đoái   tăng. PHẦN II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ  HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2008­2013
  12. 1. Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay.           Tình hình lạm phát ở Việt Nam đang dần đi vào ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng   CPI trong tháng 9 đã giảm xuống chỉ  còn 0,18% ­ mức thấp nhất kể  tử đầu năm.   Tuy nhiên, nước ta vẫn đang ở trong tình trạng lạm phát phi mã. Vì vậy,kiểm soát   lạm phát hiện nay vẫn là một trong những mục tiêu được  ưu tiên hàng đầu của  Chính phủ. Trong thời gian qua, Chính phủ  cũng đã sử  dụng chính sách tỷ  giá hối   đoái như 1 công cụ đề kiềm chế lạm phát. Mặc dù vậy, cũng phải nhận thấy rằng  việc điều chỉnh tỷ giá trong còn có lúc chậm, bị động và chưa đủ mức. Trong điều  kiện nền kinh tế  mới mở cửa từng phần, những hạn chế này phần nào đã không   được bộc lộ và chưa gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nếu tiếp tục để  xảy ra như vậy trong tương lai, khi Việt Nam đã mở cửa và hội nhập mạnh hơn thì  hậu quả  của một chính sách tỷ  giá kém linh hoạt sẽ  có nguy cơ  lấn át những tác  động tích cực mà một chính sách tỷ  giá cố  định tương đối tạo ra. Dưới góc nhìn  của các chuyên gia kinh tế, Việt Nam cần kiềm chế  lạm phát bằng cách tăng  cường hơn nữa các biện pháp trong chính sách tỷ giá hối đoái.              Tăng cường linh họat tỷ giá hối đoái. Hiện tại, biên độ dao động tỷ giá mới   ở Việt Nam chỉ là ±2% . Theo ý kiến của các chuyên gia, mức biên độ này vẫn còn   tương đối hẹp và chưa thật sự hiệu quả. Với tình hình ở  lạm phát cao Việt Nam  hiện nay, NHTW nên nới rộng biên độ  dao động của VNĐ, chiều rộng khung này  có thể   ở  mức 10%. Tuy nhiên, do tình hình lạm phát tăng cao nên biện pháp này  chủ yếu nhằm mục đích nâng giá VNĐ trong ngắn hạn. Giảm việc phát hành VNĐ  làm cho cơ chế thị trường tác động nhiều hơn nữa vào tỷ giá. Giảm sức ép lên lạm  phát bằng việc nâng giá VNĐ tương đối so với USD sẽ  làm giảm giá nguyên vật  liệu nhập khẩu . Một điều băn khoăn lớn nhất hiện nay là tại sao chúng ta làm ra 
  13. lương thực, thực phẩm mà giá lại tăng cao như  vậy. Nguyên nhân chính là do giá  đầu vào như: xăng dầu, giống, phân bón, thuốc trừ  sâu... tăng và phần lớn những   nguyên liệu đầu vào này đều nhập khẩu. Vậy làm thế  nào để  chúng ta giảm giá   lương thực, thực phẩm? Có 2 cách để  giải quyết vấn đề  này : Một là, tiến hành  điều chỉnh tỷ giá tức là nâng giá VNĐ trên thị trường ngoại hối. Hai là, phải tự sản   xuất trong nước. Tuy nhiên, nền kinh tế  của nước ta hiện nay còn phụ  thuộc vào  nước ngoài quá nhiều. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể chọn giải pháp nâng giá VNĐ so   với USD để  giảm giá nguyên vật liệu nhập khẩu, từ  đó giảm được chi phí sản   xuất, 1 trong 2 nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát trong thời gian vừa qua. VND   tăng giá sẽ tăng cung hàng nội địa, góp phần giảm khan hiếm hàng hóa trong nước  hiện nay .Khi lượng cung hàng tăng, lạm phát cũng sẽ giảm dẫn đến việc thay đổi  tỷ giá có khả năng hạn chế xuất khẩu nhằm bảo vệ sản xuất trong n ước tr ước s ự  cạnh tranh của nước ngoài. Đồng thời việc thay đổi tỷ  giá theo hướng ngăn chặn  việc nhập khẩu tràn lan những hàng hoá, dịch vụ  mà trong nước có khả  năng sản  xuất được, góp phần giảm bớt căng thẳng về  cầu ngoại tệ  phục vụ  cho nhập   khẩu trên thị trường ngoại hối. Việc linh hoạt chính sách tỉ giá sẽ giúp NHNN hạn  chế được lượng cung tiền vào thị trường . Tỷ giá tăng tạo điều kiện thuận lợi cho   để  thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm bớt nhu cầu VND, điều này sẽ  làm  giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế. Mặt khác, lượng USD mà   các ngân hàng mua vào cũng sẽ  có được đầu ra do nhu cầu USD của các doanh   nghiệp để  nhập khẩu hàng hóa, nguyên, vật liệu. Lượng USD trong lưu thông sẽ  giảm, Ngân Hàng Trung  Ương sẽ  không lo lắng vì phải bỏ  VND ra để  mua USD   nữa. Giúp chọn lọc vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có  một số  triệu chứng tiền khủng hoảng như: yếu kém về  hệ  thống tài chính, bong   bóng bất động sản, tỷ giá neo... Ở Việt Nam nay, VND bị neo cứng nhắc với đồng 
  14. USD đang mất giá toàn diện trên thế  giới là một trong những nguyên nhân chính  gây ra nhập khẩu chi phí đầu vào cao. Dẫn đến lạm phát cũng tăng theo mà NHNN   sẽ không kiểm soát được. Chính vì vậy NHNN cần phải nâng tỷ giá ngoại hối lên  để  kịp thời kiểm soát lạm phát.Những nhà đầu tư  nước ngoài đang giữ  vốn bằng  VND lên giá sẽ không có ý định rút vốn ra khỏi VN. Bên cạnh đó, trong điều kiện  nền kinh tế VN chưa hấp thu hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài, nếu VND lên  giá sẽ  có thể giảm lượng ngoại tệ chảy vào VN. Nó có tác dụng chọn lọc những  nguồn đầu tư  lâu dài thực sự  có hiệu quả  cao, hạn chế  được những nguồn ngắn   hạn mang tính đầu cơ  rủi ro lớn. Tất nhiên về  dài hạn, VN sẽ  có chính sách phù  hợp để có thể thu hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần   là lạm phát trong tầm kiểm soát. Linh hoạt tỷ giá để VNĐ tăng giúp giải quyết cả  2 nguyên nhân gây lạm phát là chi phí sản xuất tăng và lượng cung tiền lớn. Nó  vừa có tác dụng ngắn hạn vừa có tác động dài hạn do vậy chính là sự  lựa chọn   đúng đắn và cần thiết cho Việt Nam trong việc chống lạm phát hiện nay. 2. Thực trạng lạm phát ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong các   giai đoạn. 2.1. Giai đoạn 2008­2010. Năm  2008  được giới  phân tích tài chính coi là "năm bất  ổn của tỷ  giá" với  những biến động tỷ  giá rất phức tạp với những  ảnh hưởng từ  các yếu tố  vĩ mô,  cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn.
  15.  Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa   từng có trong lịch sử. Tỷ giá liên tục tăng giảm,cụ thể ở từng giai đoạn sau:  Giai đoạn từ  tháng 01/01­25/03/2008 :   Trong khoảng thời gian này, Chính phủ  và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt  chặt, tăng lãi  suất  cơ  bản từ  8,25%/năm (tháng 12/2007)  lên 8,75%/năm (tháng  2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền   ra lưu thông, tăng biên độ  tỷ  giá USD/VND từ  0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày  10/03/2008.Tỷ giá liên tục giảm,dưới mức sàn. Tỷ  giá USD/VND trên thị  trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ  mức  16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị  trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD
  16. Giai đoạn 2 (từ 26/03 – 16/07/2008): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt  USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.Trong giai đoạn này, tỷ  giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400  đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần, còn trên  TTTD   cao hơn khoảng 100­150 đồng, sau đó dịu lại khi NHNN nới biên độ  từ 1% lên +/­ 2%(27/6) và kiểm soát chặt các bàn thu đổi. Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ  yếu do tâm lý bất ổn   của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm  ngoại tệ của giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất  và nhập khẩu đến hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng  trong nước và quốc tế.  Giai đoạn 3 (từ 17/07 – 15/10/2008 ):     Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn. Tỷ  giá giảm mạnh từ  19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao  dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11 Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng.  Nhận thấy tình trạng sốt USD đã  ở  mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử,  NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông   tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.  Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn  thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ  (cấm mua bán  ngoại tệ  trên thị  trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD 
  17. thông qua ngoại tệ  khác để  lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất   khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn. Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến hết năm 2008): tỷ giá USD tăng trở lại. Tỷ  giá USDVND tăng đột ngột trở  lại từ  mức 16.600 lên mức cao nhất là  16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ  tỷ  giá. Tuy nhiên cung hạn   chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ  tỷ giá từ  2% lên 3% trong   ngày 7/11/2008, tăng tới mức 1 7.440 đồng/USD. Sang năm 2009 tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu  năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ  tỷ  giá lên +/­5% khiến   cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát   mức 18000đồng/USD. Trong bối cảnh nguồn ngoại tệ  ròng vào VN là + trong 4   tháng đầu năm thì dường như yếu tố chính khiến cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh   lại là do sự găm giữ ngoại tệ. Một mặt lạm phát ảnh hưởng đến cuộc sống của bộ phận dân cư nói chung   và nền kinh tế nói riêng khiến các doanh nghiệp phải ngừng sản xuất – thậm chí bị  phá sản ra khỏi thị  trường, lao động thì sa thải hàng loạt, các công ty – doanh  nghiệp đành phải rút bớt khoản chi phí đó là chi phí nhân công và các khoản chi phí   khác để làm sao cho doanh nghiệp không bị nợ nần năm 2009. Đặc biệt, mối quan   hệ kinh tế quốc tế ­ trao đổi hàng hóa với nhau cũng ảnh hưởng không kém, trong   đó lạm phát tác động mạnh đến các đồng tiền mạnh trên thế giới, đây chính là mối   lo ngại nhất trên nền kinh tế, một đồng tiền được coi nhẹ  so với các đồng tiền   khác thì chứng tỏ giao thương kinh tế với nhau rất khó khăn và sản xuất cũng trở  nên   kém   hiệu   quả   hơn.   Vì   vậy   làm   phát   đã   làm   cho   đồng   tiền   của   chúng   ta  (VND/USD) thấp cho với đồng USD chúng ta đành phải phá giá đồng tiền của 
  18. mình để  tăng sản xuất trong năm 2009, chúng ta hai lần bị  phá giá đồng tiền của   chính mình, ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh tỷ  giá bình quân trên thị  trường   ngoại tệ  liên ngân hàng áp dụng cho ngày 25/12/2008 lên mức 16.989đ/USD và   hiện nay 17/04/2009 là 18.544đ/USD nhằm tạo mặt bằng tỷ giá mới sẽ  góp phần  hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu và đảm bảo sự bền vững của cán cân thanh  toán quốc tế, đồng thờ  hạn chế  tâm lý kỳ  vọng tỷ  giá sẽ  tăng cao, tạo điều kiện  cho doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh  ổn định. NHNN sẽ áp   dụng các biện pháp cần thiết để giữ ổn định mức tỷ giá này. Từ ngày 07/11/2008,  biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND được mở rộng từ mức 2% lên 3% so với tỷ giá  bình   quân   liên   ngân   hàng   do   NHNN   Việt   Nam   công   bố   (quyết   định   2635/QĐ­ NHNN ngày 06/11/2008). Trong năm 2009: Trong bối cảnh kinh tế  hội nhập ngày càng sâu rộng vào  kinh tế thế giới, mức độ tự do hóa các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của   các luồng vốn đầu tư, đặc biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung  cầu ngoại tệ  và tỷ  giá. Luồng vốn đầu tư  gián tiếp đã liên tục biến động, khiến   cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn này gia tăng đáng kể  trong 3 thàng  đầu năm, gây áp lực tăng giá VND, sau đó có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu  ngoại tệ  khi tình hình kinh tế  thế  giới tiếp tục khó khăn, kinh tế  trong nước đối   mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao. Sau khi có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại do kinh   tế vĩ mô Việt Nam diễn biến khả quan, trong các tháng cuối năm tình trạng khủng   hoảng thị  trường tài chính quốc tế  lại khiến cho các nhà đầu tư  có xu hướng rút  vốn về nước để bảo đảm thanh toán của các tổ chức ở chính quốc. Lạm phát là sự  giảm sức mua của đồng tiền so với hàng hóa và dịch vụ  trong nước, và là sự  giảm giá đồng nội tệ  so với ngoại tệ chuẩn (là phương tiện  thanh toán, tích trữ quốc tế). Lạm phát ở Việt Nam chịu tác động từ 5 nguyên nhân 
  19. chính sau: Kỳ vọng lạm phát (ví dụ do tỷ giá tăng, vàng lên giá, lãi suất trái phiếu  chính phủ   ở  mức cao…); Tiền tệ  (do tăng cung tiền trong lưu thông…); Cầu kéo  (do tổng cầu cao hơn tổng cung…); Chi phí đẩy (do tăng giá nhập khẩu nguyên vật  liệu …); Đình đốn sản xuất (do chi phí vốn cao trong một thời gian dài…) Việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không công bố một cách rõ ràng về định  hướng chính sách tiền tệ (nới lỏng hay thắt chặt) và tỷ giá đã tạo cơ hội cho việc  dự đoán chính sách một cách chủ  quan, thiếu cơ sở, tạo tâm lý không ổn định cho  cộng đồng doanh nghiệp và dân cư. Điều này thường bị lợi dụng để đẩy giá hàng  hóa (bao gồm cả USD và vàng) lên cao hơn và kỳ  vọng lạm phát theo đó cũng gia  tăng. Một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng ở Việt Nam là  đầu tư. Do hiệu quả đầu tư còn thấp nên việc gia tăng đầu tư  được gắn với tăng   cung tiền. Năm 2009, mức cung tiền M2 tăng 28,7%; tín dụng tăng 37,7%, trong khi  
  20. GDP chỉ  tăng 5,32%. Cung tiền năm 2010 đã bị  hạn chế  hơn, chỉ  còn tăng 21,7%,   nhưng vẫn cao hơn kế hoạch (20%), và dẫn đến đồng tiền bị mất giá mạnh trong   năm. Năm 2010, tổng cầu tăng đột biến đối với một số mặt hàng do Việt Nam có  sự  kiện đại lễ  1000 năm Thăng Long, lại phải chịu nhiều đợt thiên tai bão lũ lịch   sử. Trong khi sản xuất hàng hóa trong nước khó được đẩy mạnh do chi phí vốn   cao, việc nhập khẩu hàng hóa cũng bị  tác động tiêu cực bởi tỷ  giá, tổng cầu cao  hơn tổng cung khiến lạm phát tiếp tục gia tăng. Sau thời kỳ suy thoái, kinh tế thế giới đang dần ổn định trở lại. Hầu hết các   quốc gia đều có tăng trưởng GDP dương trong năm nay. Cùng với kỳ  vọng hồi  phục của nền kinh tế thế  giới, giá hàng hóa tiếp tục gia tăng. Do Việt Nam phải  nhập khẩu nhiều loại nguyên vật liệu, phụ liệu cho sản xuất nên việc giá cả hàng   hóa thế giới
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2