intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nghiên cứu ứng dụng một số chủng VSV hữu ích để xử lý chất lót chuồng nuôi gia cầm làm giảm ô nhiễm môi trường từ các trại chăn nuôi

Chia sẻ: Bùi Văn Công | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

193
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và sinh enzym của các chủng vi sinh vật tuyển chọn, nghiên cứu hoạt tính đối kháng của chủng vi khuẩn Lactobacillus, nghiên cứu sản xuất chế phẩm vi sinh vật xử lý chất thải trong chăn nuôi gia cầm,... là những nội dung chính trong đề tài "Nghiên cứu ứng dụng một số chủng VSV hữu ích để xử lý chất lót chuồng nuôi gia cầm làm giảm ô nhiễm môi trường từ các trại chăn nuôi". Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu ứng dụng một số chủng VSV hữu ích để xử lý chất lót chuồng nuôi gia cầm làm giảm ô nhiễm môi trường từ các trại chăn nuôi

  1. VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT ĐỀ CƯƠNG   Tên đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng một số chủng VSV hữu ích để xử lý chất   lót chuồng nuôi gia cầm làm giảm ô nhiễm môi trường từ  các trại chăn   nuôi”             Học viên: Hoàng Thị Dung Lớp: Sinh học K15 Luận văn cao học ngành: Vi sinh vật Mã số: 60 42 40       Người hướng dẫn: PGS.TS. Tăng Thị Chính
  2. Hà Nội, 2013 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế  ở nước ta, vấn đề  ô  nhiễm môi trường trở thành vấn đề  cấp thiết hiện nay. Một trong những nguồn  chất thải gây ô nhiễm môi trường là từ  chăn nuôi. Ngành chăn nuôi  ở  nước ta   những năm gần đây đã và đang phát triển nhanh chóng về cả chất lượng và quy  mô. Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng các nguồn chất thải trong chăn nuôi còn  nhiều bất cập. Do chỉ  tập trung đầu tư  nâng cao năng suất và chất lượng vật  nuôi, phần lớn các trang trại chưa chú trọng đến công tác kiểm soát, quản lý   chất thải nên làm phát sinh dịch bệnh, tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng và  ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển bền vững của ngành chăn nuôi. Một số  trang trại lớn đã có những biện pháp xử lý nguồn chất thải chăn nuôi, bên cạnh   đó một số  trang trại chưa quan tâm đến việc xử  lý nguồn chât thải và đặc biệt  trong chăn nuôi nhỏ lẻ hộ gia đình việc xử lý chất thải hầu như còn bị  thả nổi.   Một trong những nguyên nhân là do người chăn nuôi chưa hiểu rõ tầm quan  trọng của việc xử lý nguồn chất thải; kinh phí phục vụ cho việc xử lý chất thải   còn thấp; luật xử lý chất thải còn chưa đồng bộ  và khó áp dụng; chăn nuôi nhỏ  lẻ cũng là một trong những nguyên nhân làm việc quản lý và xử lý chất thải còn  gặp nhiều khó khăn;…  Đây là một trong các  nguyên nhân gây  ô nhiễm môi  trường và lây truyền các dịch bệnh cho người, vật nuôi và cây trồng. Hiện nay, ngành chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang có chiều  hướng phát triển cả về số lượng và chất lượng đàn gia súc, gia cầm. Qua khảo   sát thực tế  tại các trang trại chăn nuôi gia cầm  ở  huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh  Phúc cho thấy, mùi hôi thối trong chuồng trại chăn nuôi và khu vực xung quanh   gây khó chịu cho sinh hoạt của người dân thường ngày, nguyên nhân chủ yếu là  do các khí NH3, H2S phát sinh trong quá trình chăn nuôi, kéo theo đó là lượng ruồi   nhặng cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Một thực tế nữa là chất thải chăn nuôi là   3
  4. nguồn   vi   sinh   vật   gây   bệnh   cho   người   và   vật   nuôi   như:  E.coli,   Coliform,  Salmonella, Nấm mốc … nhưng chưa được quan tâm xử lý. Đây là nguyên nhân  gây ra các bệnh dịch cho người và vật nuôi khi đổ thải vào môi trường [8]. Vấn   đề  đặt ra  ở  đây là chúng ta phải tìm ra giải pháp làm giảm thiểu ô nhiễm môi  trường do chăn nuôi gia cầm gây ra mà không  ảnh hưởng đến vật nuôi, không  làm xáo trộn gà đang đẻ. Phương pháp phải đơn giản, dễ  áp dụng cho bà con  nông dân và chi phí rẻ hơn so với các phương pháp mà các hộ chăn nuôi đang áp   dụng. Đứng trước những yêu cầu   trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề  tài:  “Nghiên cứu ứng dụng một số chủng VSV hữu ích để xử lý chất lót chuồng nuôi   gia cầm làm giảm ô nhiễm môi trường từ các trại chăn nuôi”   2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ­ Tuyển chọn được bộ chủng vi sinh vật thuộc nhóm an toàn, sinh trưởng  mạnh,  cạnh tranh  được  với  VSV  trong  chất  thải,  chuyển  hóa  nhanh  các  hợp  chất hữu  cơ  và  ức chế hiệu quả các vi khuẩn  gây bệnh,  gây thối, làm  giảm ô  nhiễm môi trường từ chất thải chăn nuôi gia cầm. ­ Tạo  được  chế  phẩm  VSV  để  xử  lý chất  thải  chăn  nuôi gia cầm  thành  phân hữu cơ góp  phần phát  triển  nông nghiệp an toàn và bền vững. 3. Nội dung nghiên cứu của đề tài ­ Tuyển chọn một số  chủng vi sinh vật có khả  năng phân giải các hợp  chất hữu cơ và sinh chất ức chế một số vi sinh vật gây bệnh từ bộ chủng vi sinh   vật của phòng Vi sinh vật môi trường – Viện Công nghệ môi trường. ­ Nghiên cứu một số yếu tố  ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và sinh   enzym của các chủng vi sinh vật tuyển chọn. ­ Nghiên cứu hoạt tính đối kháng của chủng vi khuẩn Lactobacillus. ­ Nghiên cứu sản xuất chế  phẩm vi sinh vật xử  lý chất thải trong chăn   nuôi gia cầm. ­  Đánh giá tác dụng chế phẩm vi sinh vật trong xử lý chất thải chăn nuôi  gia cầm tại huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc. 4
  5. Chương I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Hiện trạng chăn nuôi gà ở Thế giới và Việt Nam 1.1.1. Hiện trạng chăn nuôi gà trên thế giới [16] Lương thực, thực phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề sống còn   của nhân loại. Ngày nay nông nghiệp có vai trò quan trọng cung cấp lương thực   và các loại thực phẩm nuôi sống cả  nhân loại trên trái đất. Ngành chăn nuôi  không chỉ có vai trò cung cấp thịt, trứng, sữa là các thực phẩm cơ bản cho dân số  của cả hành tinh mà còn góp phần đa dạng nguồn gen và đa dạng sinh học trên   trái đất.  Theo số liệu thống kê của Tổ chức Nông lương thế giới ­ FAO năm 2009   số lượng đầu gia súc và gia cầm chính của thế giới như sau: Tổng đàn trâu 182,2   triệu con và trâu phân bố chủ yếu ở các nước Châu Á, tổng đàn bò 1.164,8 triệu   con, dê 591,7 triệu con, cừu 847,7 triệu con, lợn 887,5 triệu con, gà 14.191,1   triệu con và tổng đàn vịt là 1.008,3 triệu con...  Tốc độ  tăng về  số  lượng vật nuôi của thế  giới trong thời gian vừa qua   thường chỉ  đạt trên dưới 1% năm. Về  chăn nuôi gà số  một là Trung Quốc với   4702,2 triệu con, thứ  hai là Indonesia với 1341,7 triệu con, thứ ba là Brazin với   1205,0 triệu con, thứ tư là Ấn Độ với 613 triệu con và thứ năm Iran với 513 triệu   con.  Về số lượng vật nuôi của thế giới, các nước Trung quốc, Hoa kỳ, Ấn Độ,   Brazin, Indonesia, Đức là những cường quốc, trong khi đó Việt Nam cũng là  5
  6. nước có tên tuổi về chăn nuôi: đứng thứ  2 về  số  lượng vịt, thứ 4 về heo, thứ 6   về số lượng trâu và thứ 13 về số lượng gà. Phương thức chăn nuôi hiện nay của các nước trên thế  giới có ba hình  thức cơ bản đó là: i) Chăn nuôi quy mô công nghiệp thâm canh công nghệ cao ii)   Chăn nuôi trang trại bán thâm canh và iii) Chăn nuôi nông hộ  quy mô nhỏ  và  quảng canh.  Chăn nuôi thế giới đang từng bước chuyển dịch từ các nước đã phát triển   sang các nước đang phát triển. Các nước đã phát triển xây dựng kế hoạch chiến   lược phát triển ngành chăn nuôi duy trì  ở  mức  ổn định, nâng cao quá trình thâm  canh, các biện pháp an toàn sinh học, chất lượng và vệ  sinh an toàn thực phẩm.   Các nước đang phát triển  ở  châu Á và châu Nam Mỹ  được nhận định sẽ  trở  thành khu vực chăn nuôi chính và cũng đồng thời là khu vực tiêu thụ  nhiều các   sản phẩm chăn nuôi. Các nước đã phát triển chỉ duy trì ổn định sản lượng chăn  nuôi của họ để đảm bảo an toàn thực phẩm, phần thiếu hụt sẽ được nhập khẩu   từ các nước xuất khẩu vượt qua được hàng rào kỹ thuật về chất lượng vệ sinh  an toàn thực phẩm của họ. Đây là cách tiếp cận để  giảm thiểu rủi ro về  dịch  bệnh  ở  động vật, đặc biệt là các bệnh dịch có khả  năng lây nhiễm sang người   (như dịch cúm gia cầm).  Bảng 1.1. Phân bố số lượng gia súc, gia cầm trên thế giới năm 2009 Gà Vịt Trâu (Con) Bò (Con) Dê (Con) Cừu (Con) Lợn (Con) (1000 con) (1000con) Thế  giới 182.275.837 1.164.893.633 591.750.636 816.967.639 877.569.546 14.191.101 1.008.332 Châu Á 176.797.915 407.423.038 415.238.186 345.158.332 534.329.449 9.101.291 953.859 Châu Âu 317.922 114.204.134 15.911.331 100.146.054 183.050.883 1.895.583 49.478 Châu Phi 4.000.000 175.046.563 137.580.921 199.832.226 5.858.898 708.019 10 Châu  Mỹ 1.160.000 430.340.339 22.925.369 66.707.744 151.705.814 2.374.152 3.512 Châu Úc ­ 37.879.559 94.829 105.123.283 2.624.502 112.056 1.473 6
  7. Nguồn: FAO, 2010 1.1.2. Hiện trạng chăn nuôi ở Việt Nam [10, 18] Chăn nuôi gia cầm là nghề chăn nuôi truyền thống ở Việt Nam, sản phẩm  gia cầm, đặc biệt là thịt gà không chỉ là nguồn cung cấp thực phẩm có giá trị mà  còn in đậm trong đời sống xã hội bởi một nền văn hóa  ẩm thực với cả  yếu tố  tâm linh, nó được sử dụng nhiều trong những ngày giỗ, ngày tết và lễ  hội. Với   những lý do đó sản phẩm gia cầm luôn có vị  trí trên thị  trường tiêu thụ, đã góp   phần thúc đẩy chăn nuôi phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người   chăn nuôi. Trong 20 năm qua, chăn nuôi gia cầm có sự  phát triển khá nhanh, tốc độ  tăng trưởng bình quân hàng năm qua các giai đoạn có xu hướng tăng lên rõ rệt.   Trong các loại gia cầm, gà là loại chính chiếm trên 75% tổng gia cầm. Bên cạnh  đó, trong những năm qua một số loại gia cầm khác cũng khá phát triển như ngan,   vịt. Nhu cầu tiêu thụ  các sản phẩm này khá lớn và là yếu tố  thúc đẩy sản xuất  phát triển. Trong thời gian gần đây, việc đưa các giống gà mới như  tam hoàng,  rốt ri về hộ nông dân phát triển gà thả vườn đem lại hiệu quả tốt, góp phàn tăng  thu nhập cho người chăn nuôi. Sản xuất chăn nuôi ở Việt Nam có 3 cách thức chăn nuôi chính: Chăn nuôi  nông hộ nhỏ lẻ, chăn nuôi bán công nghiệp và chăn nuôi công nghiệp. Việt Nam với khoảng 73% dân số  sống ở vùng nông thôn, phát triển kinh  tế  nông nghiệp và nông thôn là một trong những mục tiêu được Đảng và Nhà   nước hết sức chú trọng, trong đó có phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua các  hoạt động phát triển chăn nuôi. Theo báo cáo của 60/64 tỉnh, thành tính đến  01/10/2006 có tổng số  16.012 trang trại, trong đó miền Bắc có 6.101 trang trại,  miền Nam có 9.911 trang trại. Chăn nuôi gia cầm chiếm 15,4% trang trại chăn  nuôi [12]. Chăn nuôi gà trong giai đoạn 2001 – 2005 đạt 2,74% về số lượng con,  7
  8. trong đó giai đoạn trước dịch cúm tăng 9,02% và giảm trong dịch cúm gia cầm  6,67%. Sản lượng đầu con tăng từ  158,03 triệu con năm 2001 và đạt cao nhất   vào năm 2003: 185,22 triệu con. Do dịch cúm gia cầm, năm 2004, đàn gà giảm   còn 159,23 triệu con bằng 86,2% năm 2003; năm 2005, đàn gà đạt 159,89 triệu   con, tăng 0,9% so với năm 2004 [34]. Theo thống kê năm 2010 của Cục Chăn  nuôi, cả nước có khoảng 8,5 triệu hộ chăn nuôi quy mô gia đình và 18.000 trang  trại chăn nuôi tập trung. Với tổng đàn 300 triệu con gia cầm và hơn 37 triệu con   gia súc [35]. 1.2. Chất thải trong chăn nuôi 1.2.1. Thành phần chất thải chăn nuôi [9] Phân Phân  là  sản  phẩm  loại thải của  quá trình tiêu  hoá  của  gia  súc,  gia  cầm  bị  bài tiết  ra ngoài qua đường tiêu  hóa. Chính  vì  vậy phân  gia  súc, gia cầm  là  sản  phẩm  dinh  dưỡng  tốt  cho  cây  trồng  hay  các  loại  sinh  vật  khác  như  cá,  giun…. Thành phần hoá học của phân bao gồm: ­  Các  chất  hữu  cơ  gồm  các  chất  protein,  carbonhydrate,  chất  béo  và  các  sản phẩm trao đổi của chúng. ­ Các chất vô cơ bao gồm các hợp chất khoáng (đa lượng, vi lượng). ­ Nước:  là  thành  phần  chiếm  tỷ  trọng  lớn  nhất,  chiếm  65  –  80%  khối  lượng của  phân. Do  hàm  lượng  nước  cao,  giàu  chất  hữu  cơ  cho  nên  phân  là  môi trường tốt cho các vi sinh vật phát triển và phân hủy các chât́ hữu  cơ  tạo  nên các sản phẩm có thể gây độc cho môi trường. ­  Dư  lượng  của  thức  ăn  bổ  sung cho  gia  súc,  gồm các  thuốc  kích  thích  tăng trưởng, các hormone hay dư lượng kháng sinh… ­ Các men tiêu hóa của bản thân gia súc, chủ yếu là các men tiêu hóa sau  khi sử dụng bị mất hoạt tính và được thải ra ngoài… 8
  9. ­ Các mô và chất nhờn tróc ra từ niêm mạc đường tiêu hoá. ­  Các  thành  phần  tạp  từ  môi  trường  thâm  nhập  vào  thức  ăn  trong  quá  trình chế biến thức ăn hay quá trình nuôi dưỡng gia súc. ­ Các yếu tố gây bệnh như các vi khuẩn hay ký sinh trùng bị nhiễm trong  đường tiêu hoá gia súc hay trong thức ăn. Bảng 1.2. Thành phần hóa học của phân gia súc, gia cầm Thành phần hóa học Loại vật nuôi (% trọng lượng vật nuôi) Nitơ tổng số Phospho tổng số Bò sữa 0,38 0,10 Bò thịt 0,70 0,20 Cừu 1,00 0,30 Gia cầm (gà) 1,20 1,20 Ngựa 0,86 0,13 Nguồn: Ngô Kế Sương và Nguyễn Lân Dũng, 1997 ­ Trong phân còn chứa nhiều loại vi sinh vật và ký sinh trùng kể cả có lợi  và có  hại.  Trong đó,  các  vi  khuẩn  thuộc  loại  Enterobacteriacea  chiếm  đa  số  với các loài điển hình như E.coli, Samonella, Shigella, Proteus,…  Nước tiểu Nước  tiểu  gia  súc, gia cầm  là  sản  phẩm  bài  tiết  của  con  vật,  chứa  đựng  nhiều  độc  tố,  là  sản  phẩm  cặn  bã  từ  quá  trình  sống  của  gia  súc,  khi  phát tán vào môi trường có thể chuyển hoá thành các chất ô nhiễm gây tác hại  cho con người và môi trường. Thành phần chính của nước tiểu là nước, chiếm 99% khối lượng. Ngoài  ra  một  lượng  lớn  nitơ  (chủ  yếu  dưới  dạng  urê)  và  một  số  chất  khoáng,  các  hormone,  creatin,  sắc  tố,  axít  mật  và  nhiều  sản  phẩm  phụ  của  quá  trình  trao  đổi chất của con vật... Trong tất cả các chất có trong nước tiểu, urê là chất chiếm tỷ lệ cao và  9
  10. dễ  dàng  bị  vi  sinh  vật   phân   hủy  trong  điều    kiện  có    oxy  tạo    thành    khí  amoniac  gây  mùi  khó  chịu. Amoniac  là một  khí  rất  độc và thường  được  tạo  ra  rất  nhiều  từ  ngay trong  các  hệ  thống chuồng trại, nơi lưu trữ, chế biến và  trong giai đọan sử  dụng  chất thải.  Tuy nhiên  nếu  nước tiểu  gia  súc, gia cầm  được sử dụng hợp  lý hay bón cho cây trồng thì chúng là nguồn cung cấp dinh  dưỡng giàu nitơ, photpho và các yếu tố khác ở dạng dễ hấp thu cho cây trồng. Thành  phần  nước  tiểu  thay  đổi  tùy  thuộc  loại  gia  súc,  gia  cầm,  tuổi,  chế độ  dinh dưỡng và điều kiện khí hậu. Nước thải Nước  thải  chăn  nuôi là  hỗn  hợp  bao  gồm  cả  nước  tiểu,  nước  tắm  gia  súc, rửa chuồng. Nước  thải chăn  nuôi còn có  thể  chứa một  phần  hay toàn bộ  lượng phân được  gia súc,  gia cầm thải ra. Nước thải là dạng chất thải chiếm  khối lượng lớn nhất trong chăn nuôi.  Thành phần của nước thải rất phong phú, chúng bao gồm các chất rắn  ở dạng lơ lửng, các  chất  hòa  tan  hữu  cơ  hay  vô  cơ,  trong  đó  nhiều  nhất  là  các  hợp  chất  chứa  nitơ  và photpho. Nước thải chăn nuôi còn chứa rất nhiều  vi  sinh  vật,  ký  sinh  trùng,  nấm,  nấm  men  và  các  yếu  tố  gây  bệnh  sinh  học  khác. Do  ở dạng lỏng và  giàu  chất hữu cơ  nên khả năng bị phân  hủy vi  sinh  vật rất cao.  Chúng có  thể tạo ra các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm cho  cả môi trường đất, nước và không khí. Xác gia súc, gia cầm chết Xác  gia  súc,  gia  cầm  chết  là  một  loại  chất  thải  đặc  biệt  của  chăn  nuôi.  Thường  các gia súc, gia cầm chết do các nguyên nhân bệnh lý, cho nên  chúng  là  một  nguồn phát  sinh ô nhiễm  nguy hiểm,  dễ  lây lan các  dịch bệnh.  Xác  gia  súc  chết  có  thể  bị  phân  hủy  tạo  nên  các  sản  phẩm  độc.  Các  mầm  bệnh  và  độc  tố  có  thể  được  lưu  giữ  trong  đất  trong  thời  gian  dài  hay  lan  10
  11. truyền  trong  môi  trường  nước  và  không  khí,  gây  nguy  hiểm  cho  người,  vật  nuôi  và khu  hệ  sinh  vật  trên  cạn  hay  dưới  nước.  Gia  súc,  gia  cầm  chết  có  thể do  nhiều nguyên nhân khác nhau. Việc xử lý phải được tiến hành nghiêm  túc.  Gia  súc,  gia  cầm  bị  bệnh  hay  chết  do  bị  bệnh phải  được  thiêu  hủy  hay  chôn lấp theo các quy định về thú y.  Chuồng nuôi gia  súc  bị  bệnh,  chết  phải  được  khử  trùng  bằng  vôi  hay  hóa  chất chuyên  dùng  trước  khi dùng  để  nuôi  tiếp  gia  súc.  Trong  điều  kiện  chăn  nuôi  phân  tán,  nhiều  hộ  gia  đình  vứt  xác  chết  vật  nuôi  bị  chết  do  bị  dịch  ra  hồ  ao,  cống  rãnh,  kênh  mương…  đây  là  nguồn phát tán dịch bệnh rất nguy hiểm. Thức ăn thừa, đệm lót chuồng và các chất thải khác Trong các  chuồng trại chăn nuôi,  người  chăn  nuôi thường dùng  rơm, rạ  hay  các  chất  độn  khác,…  để  lót  chuồng.  Sau  một  thời  gian  sử  dụng,  những  vật  liệu  này  sẽ  được  thải  bỏ  đi.  Loại  chất  thải  này  tuy  chiếm  khối  lượng  không  lớn,  nhưng  chúng cũng  là  một  nguồn gây ô nhiễm quan trọng, do phân,  nước  tiểu  các  mầm  bệnh  có  thể  bám  theo  chúng.  Vì  vậy,  chúng  cũng  phải  được thu gom và xử lý hợp vệ sinh, không được vứt bỏ ngoài môi trường tạo  điều kiện cho chất thải và mầm bệnh phát tán vào môi trường. Ngoài ra, thức ăn thừa, thức ăn bị  rơi vãi cũng là nguồn gây ô nhiễm, vì  thức ăn chứa nhiều chất dinh dưỡng dễ bị phân hủy trong môi trường tự nhiên.  Khi chúng bị  phân hủy sẽ tạo ra các chất kể cả chất gây mùi hôi, gây ô nhiễm  môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến sự  sinh trưởng, phát triển của gia súc  và sức khỏe con người. Vật dụng chăn nuôi, bệnh phẩm thú y Các  vật  dụng chăn nuôi hay thú  y bị  loại bỏ  như  bao  bì,  kim  tiêm,  chai  lọ đựng thức ăn, thuốc thú y,… cũng là một nguồn quan trọng dễ gây ô nhiễm  môi  trường.  Đặc  biệt  các  bệnh  phẩm  thú  y,  thuốc  khử  trùng,  bao  bì  đựng  11
  12. thuốc có thể xếp vào các chất thải nguy hại cần phải có biện pháp xử lý như  chất thải nguy hại. Khí thải Chăn nuôi là  một  ngành  sản  xuất  tạo  ra  nhiều  loại  khí  thải  nhất.  Theo  Hobbs và cộng sự (1995),  có tới trên 170  chất  khí  có thể sinh ra từ chăn nuôi,  điển  hình  là  các  khí  CO2,  CH4,  NH3,    NO2,  N2O,  NO,  H2S,  indol,  schatol  mecaptan…và  hàng  loạt  các  khí  gây  mùi  khác.  Hầu  hết  các  khí  thải  chăn  nuôi có  thể  gây độc cho  gia súc, cho con người và  môi trường. Ở  những  khu  vực  chăn  nuôi  có  chuồng  trại  thông  thoáng  kém  thường  dễ  tạo  ra  các  khí  độc  ảnh  hưởng  trực  tiếp,  gây  các  bệnh  nghề  nghiệp  cho  công  nhân  chăn  nuôi  và  ảnh hưởng  tới  sức  khỏe  của  người  dân  xung  quanh  khu  vực chăn nuôi. Trừ khi chất thải chăn nuôi được thu gom sớm, lữu trữ và  xử lý hợp quy cách,  ở điều kiện bình thường, các chất bài tiết  từ  gia  súc,  gia  cầm  như  phân  và  nước  tiểu  nhanh  chóng  bị  phân  giải  tạo  ra  hàng lọat chất  khí có khả năng gây độc cho người và vật nuôi nhất là các bệnh về đường hô  hấp,  bệnh  về  mắt,  tổn  thương  các  niêm  mạc,  gây  ngạt  thở,  xẩy  thai  và  ở  trường hợp nặng có thể gây tử vong. Tiếng ồn Tiếng  ồn  trong  chăn  nuôi  thường  gây  nên  bởi  hoạt  động  của  gia  súc,  gia  cầm  hay  tiếng  ồn  sinh  ra  từ  hoạt   động  của  các  máy  công  cụ  sử  dụng  trong chăn  nuôi. Trong chăn nuôi, tiếng ồn chỉ xảy ra ở một số thời điểm nhất  định  (thường  là  ở  thời  gian  cho  gia  súc,  gia  cầm  ăn).  Tuy  nhiên  tiếng  ồn  từ  gia  súc  gia  cầm  là  những  âm  thanh  chói  tai,  rất  khó  chịu,  đặc  biệt  là  trong  những  khu  chuồng  kín.  Người  tiếp  xúc  với  dạng  tiếng  ồn  này  kết hợp  với  bụi  và  các  khí  độc  ở  nồng độ  cao trong chuồng  nuôi hay khu  vực  xung quanh  rất dễ  rơi  vào  tình trạng căng  thẳng  dẫn  tới  ảnh hưởng  tới  trạng  thái  tâm  lý,  12
  13. sức khỏe và sức đề kháng với bệnh tật.  Tất  cả  các  chất  thải  nói  trên  của  chăn  nuôi  cần  được  nghiên  cứu  cẩn  thận và xử lý triệt để nhằm bảo vệ môi trường. 1.2.2. Các vấn đề môi trường từ việc chăn nuôi gà [4] Chăn nuôi gà ở  Việt Nam chủ yếu sản xuất tập trung tại các hộ  quy mô   nhỏ lẻ trong nông hộ, thiếu quy hoạch nhất là các vùng dân cư đông đúc đã gây  ra ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng.  Vì  vậy,  việc hiểu  rõ thành phần  và  các  tính chất  của  chất  thải chăn  nuôi nhằm  có biện pháp quản lý và xử lý  thích  hợp,  khống  chế  ô  nhiễm,  tận  dụng  nguồn  chất  thải  giàu  hữu  cơ  vào  mục đích kinh tế là một việc làm cần thiết. Trên thực tế, thực trạng chăn nuôi theo phương pháp truyền thống đã bộc  lộ  nhiều hạn chế. Do thiết kế  chuồng hở và việc vệ  sinh không đảm bảo, nên  mùi hôi của thức ăn và phân gà toả  ra môi trường bên ngoài gây tình trạng hôi  thối, mất vệ  sinh. Nghiêm trọng nhất là nạn ruồi, nhặng phát sinh từ  trang trại   gà ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người. Việc thải phân và nước rửa chuồng  trực tiếp ra môi trường gây ra mùi hôi thối cũng gây  ảnh hưởng đến sức khoẻ  con người. Người dân  ở  tổ  7, khu 14, xã Long Đức (huyện Long Thành) đang  khổ vì nạn ruồi, nhặng phát sinh từ các trại chăn nuôi gà trong khu vực [4]. 1.3. Vai trò của vi sinh vật trong khắc phục ô nhiễm môi trường chăn nuôi  gia cầm Hệ vi  sinh  vật trong chất  thải chăn nuôi  gồm  nhiều nhóm  VSV có hoạt  tính  sinh  học  khác nhau  giữ  vai  trò  hết  sức  quan  trọng trong  chu  trình  chuyển  hóa  các  hợp  chất  hữu  cơ  thành  các  chất  mùn  mà  cây  trồng  có  thể  sử  dụng  được.  Ở  đây  chúng  tôi  chỉ  đề  cập  các  nhóm  VSV  có khả  năng  phân  huỷ các  hợp  chất  phổ  biến,  là  thành  phần  chính  trong  chất  thải  chăn  nuôi  gồm  xenluloza, tinh bột, protein và VSV có khả năng ức chế các vi khuẩn gây bệnh  13
  14. đường ruột, vi khuẩn gây thối. 1.3.1. Vi sinh vật phân giải xenluloza [6; 12; 14; 17; 20; 21; 27]. Xenluloza  là  thành  phần  chủ  yếu  của  thành  tế  bào  thực  vật. Về  cấu trúc  hoá học, xenluloza là một polime mạch thẳng do các   ­ D ­ gluco ­ pyranora liên  kết với nhau bằng liên kết 1 ­ 4 ­ glucozit. Xenluloza có cấu tạo sợi, các sợi  xenluloza thiên nhiên thường chứa khoảng 10 ­ 12 nghìn gốc gluco pyranoza. Các  sợi này liên kết lại thành từng bó nhỏ  gọi là các microfibrin. Microfibrin có cấu   trúc không đồng đều, những phần đặc (phần kết tinh) và những phần xốp (phần  vô định hình). Vùng vô định hình của xenluloza có thể  hấp thu nước và trương  lên. Trong khi đó các mạng lưới liên kết hydrogen  ở vùng kết tinh lại ngăn cản   sự trương này, nên enzym chỉ tác động lên bề mặt các sợi. Xenluloza có cấu trúc  đặc, bền chắc cùng với sự có mặt của lớp vỏ hemixenluloza­lignin khiến cho sự  xâm nhập của enzym vào cấu trúc hết sức khó khăn. Do vậy, trong tự  nhiên  xenluloza được phân giải kém, cần có sự  tác động và vi sinh vật đóng vai trò  quan trọng trong việc phân giải xenluloza. Xenlulaza  là  một  phức  hệ  3  enzym  (Endo­1,4­glucanaza,  Exo­1,4­ gluconaza,  β­1,4­glucozidaza)  hoạt  động  cùng  nhau  để  thuỷ  phân  xenluloza  tạo ra các loại đường có thể đi qua thành tế bào VSV. Trong  tự  nhiên  khu  hệ  VSV có khả năng sinh tổng hợp enzym xenlulaza  phân giải xenluloza vô cùng phong phú, bao gồm vi khuẩn,  xạ khuẩn và vi nấm.  ­   VK   hiếu   khí:  Azotobacter,  Flavobacterium,   Archromobacter,   Pseudomonas,   Bacillus,   Cellulomonas,   Vibrio,   Cellvibrio,   Cytophaga,   Angioccocus,   Polyangium,   Sporocytophaga,   Sorangium,   Archangium,   Promyxo­ bacterium, ... ­ VK kị  khí:   Người ta thường gọi quá trình phân giải xenluloza kị  khí là  quá trình lên men xenluloza. Điển hình là VK trong khu hệ VSV trong dạ cỏ của   14
  15. động vật nhai lại:  Ruminococcus flavofeciens, R. albus, R. parvum, Bacteroides   succinpgenes,   Butyrivibrio   fibriosolvens,   Clostridium   cellobioparum,   Cillobacterium cellosolvens... ­ XK: Là một nhóm VK đặc biệt, Gram dương, hiếu khí, tế bào đặc trưng  bởi sự phân nhánh, thường có mặt quanh năm trong tất cả các loại đất. XK phân  giải xenluloza được phân lập từ các mẫu đất, mùn rác, mẫu mùn:  ở  những nơi   có   chứa   xenluloza.   Các   nhóm   XK   phân   giải   xenluloza:  Micromonospora,   Proactinomyces,   Nocardia,   Actinomyces,   Streptomyces,   Streptosporangium,   Thermomonospora, Thermoactinomyces.... ­ Nấm: Có rất nhiều loài nấm phân giải xenluloza mạnh, nhưng phần lớn  chúng thường phân huỷ xenluloza khi độ  ẩm cao và ở nhiệt 20 ­ 300C, pH trong  khoảng từ  3,5­6,6. Các chủng nấm có khả  năng sinh tổng hợp xenlulaza cao:   Trichoderma,   Fusarium,  Chaetomium,   Aspergillus,,  Phanerochaete,   Penicilium,  Verticilium, ....   Nhiều loại nấm, vi khuẩn và xạ  khuẩn có khả  năng phân giải xenluloza.  Các nghiên cứu cho thấy trong điều kiện hiếu khí, nấm thường chiếm ưu thế và  ngược lại trong điều kiện yếm khí vi khuẩn và xạ  khuẩn chiếm  ưu thế. Các  loại vi sinh vật có khả năng phân giải xenluloza mạnh mẽ thường thuộc về các   chi sau:  Achromobacter, P.Seudomonas, Vibrio, Cellvibrio, Bacillus, Cytophaga,   Anginococcus, Micromonospora, Actinomyces, Streptomyces, Streptospotangium,   Fusarium, Aspergillus.  1.3.2. Vi sinh vật phân giải tinh bột Đại phân tử tinh bột bao gồm hai cấu tử là amiloza và amilopectin, thường   tỷ  lệ  amiloza/amilopectin ~ 1/4. Trong phân tử  amiloza các gốc D­glucoza được   gắn với nhau bằng liên kết α­1,4 glucozit tạo nên chuỗi dài khoảng 200­1000 gốc  glucoza và phân tử amyloza có một đầu khử. Trong phân tử amilopectin các gốc  15
  16. glucoza được gắn với nhau không chỉ  bằng liên kết α­1,4 glucozit mà còn bằng  liên kết α­1,6 glucozit. Vì vậy phân tử amilopectin có cấu trúc nhánh, có một đầu  khử. Tinh bột không tan trong nước lạnh nhưng bị hồ hóa ở nhiệt độ 60 – 80oC.  Tinh bột bị  thủy phân duới tác dụng của enzym amilaza hoặc acid tạo  thành phân tử  có trọng lượng thấp hơn gọi là dextrin. Quá trình thủy phân tinh  bột này có sự  tham gia của nhiều loại enzym khác nhau và mỗi enzym có một   phương thức tác dụng đặc hiệu riêng. Amylaza  là  hệ  enzym  rất  phổ  biến  đối  với VSV. Theo tính chất và cách tác dụng lên tinh bột, phân biệt amylaza thành  các loại: α­amylaza,  ­amylaza, glucoamylaza và oligo 1­6 glucozidaza [1; 25]. Nhiều nhóm vi sinh vật có khả năng sinh amilaza như vi khuẩn, nấm mốc,  xạ khuẩn và nấm men. Các vi khuẩn gram dương đặc biệt là  Bacillus  thường tạo ra nhiều   ­ amilaza hơn các vi khuẩn gram âm (Forgarty & Kelly, 1990). Ngoài  ­amilaza ra  vi khuẩn còn tạo ra  ­ amilaza ( ­ amilaza trước đây chỉ thấy ở thực vật). Ví dụ   ­amilaza từ B. polymyxa, khi thủy phân tinh bột có thể tạo ra 92 ­ 94% maltoza.   Đây là   ­ amilaza đầu tiên được phát hiện  ở  vi khuẩn. Hoạt tính của nó gần  giống như   ­ amilaza của thực vật. Sau này, người ta tìm thấy  ­ amilaza ở một  số vi khuẩn khác như Acetobacter, B. megaterium, B. cereus.  Khả năng sinh amilaza của nấm mốc là mạnh nhất trong các nhóm vi sinh  vật. Các giống nấm mốc điển hình có khả  năng phân giải tinh bột mạnh đó là:  Aspergillus (A. niger, A. awamori, A. oryzae). Rhizopus (R. delemar, R. niveus..).  Xạ khuẩn cũng là một nhóm vi sinh vật có khả năng sinh amilaza mạnh, trong đó   Streptomyces  là   nhóm   giữ   vị   trí   tiên   phong   sinh   amilaza   (S.   limosus,   S.  aurefaciens, S. praecox ....). Nấm men là vi sinh vật ít thấy có khả năng tổng hợp   16
  17. amilaza. Tuy nhiên, gần đây cũng đã có nhiều công bố về nấm men có khả năng  thuỷ phân tinh bột ( Candida antaritica, lipomyces, ..) [5; 19]. 1.3.3. Vi sinh vật phân giải protein Proteaza được sinh tổng hợp từ nhiều loại vi sinh vật như: vi khu ẩn, n ấm   sợi... Hầu hết proteaza thương mại hiện nay đều được sản xuất từ  vi khuẩn  thuộc chi Bacillus. Những proteaza chịu kiềm, chịu mặn thường được phân lập  từ các chủng vi khuẩn ưa kiềm, ưa mặn. Nấm mốc cũng là một nguồn cung cấp   proteaza đa dạng, một chủng nấm có thể  tổng hợp được nhiều loại proteaza   khác nhau. Ví dụ chủng Aspergillus ozyzae sản sinh proteaza kiềm, axit và trung  tính. Tuy nhiên, proteaza có nguồn gốc từ nấm mốc lại kém bền so với vi khuẩn   [23; 26].   VK  có  khả  năng  sinh  ra  cả  hai  loại  proteaza  (endopeptidaza  và  exopeptidaza),  do  đó proteaza của VK có tính đặc hiệu cơ chất cao. Các VK có  khả năng tổng hợp proteaza mạnh nhất. Nhiều loại nấm mốc cũng có khả năng  tổng hợp một lượng lớn proteaza còn xạ khuẩn ít được nghiên cứu hơn. 1.2.4. Vi khuẩn lactic sinh tổng hợp axit lactic và bacterioxin [12] Đặc tính của vi khuẩn lactic là Gram dương, oxydase và catalase âm tính,  hình que hay hình cầu, không tạo bào tử (Abee et al., 1999). Vi khuẩn lactic có  khả  năng  sinh  axit  lactic  làm  tăng  sự  phân  hủy  các  hợp  chất  hữu cơ, là chất  tiệt trùng được ứng dụng nhiều trong bảo quản, chế biến thực phẩm, trong y,  dược và  xử  lý  môi  trường.  Gần  đây  vi  khuẩn  lactic  còn  được  đặc  biệt  quan  tâm nghiên cứu về khả năng sinh bacterioxin là các chất diệt khuẩn thế hệ mới  có phổ kháng khuẩn đa dạng, tính đặc hiệu tế bào đích cao, an toàn với người,  vật  nuôi,  cây  trồng  và  môi  trường  là  giải  pháp  cho vấn  đề  kiểm soát  các  nguồn bệnh. Hầu  hết  vi  khuẩn  lactic  đều  tổng  hợp  được bacteriocin  nên  thành  phần  kháng  khuẩn  này  rất  đa  dạng  như  Lactacin,  Nisin, Acidolin,...  17
  18. 1.4. Một số phương pháp xử lý ô nhiễm môi trường do chăn nuôi gà 1.4.1. Công nghệ EM [13; 16; 33] Vai trò của từng nhóm vi sinh vật trong EM. GS. Teruo Higa cho biết chế  phẩm   EM   giúp   cho   quá   trình   sinh   ra   các   chất   chống   oxy   hoá   như   inositol,   ubiquinone,   saponine,   polysaccharide   phân   tử   thấp,   polyphenol   và   các   muối  chelate. Các chất này có khả năng hạn chế bệnh, kìm hãm các vi sinh vật có hại   và kích thích các vi sinh vật có lợi. Đồng thời các chất này cũng giải độc các  chất có hại do có sự hình thành các Enzyme phân huỷ. Chế phẩm EM là một hỗn hợp chứa các vi sinh vật có ích tồn tại trong tự  nhiên được phân lập ra, có tác dụng tiêu diệt các vi sinh vật có hại và hướng quá  trình phân huỷ hữu cơ theo hướng có lợi cho môi trường. Sử dụng chế phẩm EM  an toàn, không độc hại và cân bằng sinh học, làm cho môi trường không khí, đất  và nước trong lành, không bị ô nhiễm, xúc tiến tăng trưởng và tăng sức đề kháng   cho gia cầm. EM là chế  phẩm được nuôi cấy hỗn hợp gồm 5 nhóm vi sinh vật có ích:  Vi khuẩn quang hợp, vi khuẩn lactic, nấm men, xạ khuẩn và nấm sợi. EM được thử nghiệm ở nhều quốc gia: Mỹ, Nam Phi, Thái Lan, Philippin,  Trung  Quốc,  Braxin,  Nhật   Bản,  Singapore,   Srilanca,  Nepal,   Việt  Nam,  Triều   Tiên, Belarus,… và cho thấy những kết quả  khả quan. Trong chăn nuôi, EM có  tác dụng: ­ Làm tăng sức khoẻ  vật nuôi, tăng sức đề  kháng và khả  năng chống   chịu đối với các điều kiện ngoại cảnh. ­ Tăng cường khả năng tiêu hoá và hấp thụ các loại thức ăn. ­ Kích thích khả năng sinh sản. ­ Tăng sản lượng và chất lượng trong chăn nuôi. 18
  19. ­ Tiêu diệt các vi sinh vật có hại, hạn chế sự ô nhiễm trong chuồng trại   chăn nuôi. Trong bảo vệ môi trường: Do có tác dụng tiêu diệt các vi sinh vật gây thối  (sinh ra các loại khí H2S, SO2, NH3,…) nên khi phun EM vào rác thải, cống rãnh,  tolet, chuồng trại chăn nuôi,… sẽ khử mùi một cách nhanh chóng. Đồng thời số  lượng ruồi, muỗi, ve, các loại côn trùng bay khác giảm hẳn số  lượng. Xử  lý  phân gà bằng EM Bokashi C để khử mùi hôi, ngăn chặn sự phát triển của các vi  khuẩn gây bệnh, làm phân chóng hoai và trở  thành phân bón hữu cơ  có chất   lượng. 1.4.2. Công nghệ ozon [7] Công nghệ  ozon được xem là công nghệ  mới trong lĩnh vực chăn nuôi.  Công nghệ  này mới chỉ  được áp dụng  ở  các nước tiên tiến trên thế  giới. Hiện   nay ở Việt Nam ozon đã được ứng dụng trong chăn nuôi để xử lý: nguồn nước,   thức ăn, chuồng trại và môi trường xung quanh. Trong chăn nuôi gà, thổi khí ozone trực tiếp vào chăn nuôi đồng thời kết   hợp với hệ thống phun suơng trực tiếp (nếu có) sẽ có tác dụng: ­ Làm mát môi trường, giảm nhiệt độ trong chuồng trại từ 20 – 30 oC, ngăn  ngừa tình trạng nóng lạnh thất thường dễ phát sinh mầm bệnh. ­ Khử mùi chuồng trại. ­ Diệt khuẩn nhằm ngăn ngừa dịch bệnh lây lan trong không khí. Đặc biệt   ruồi, muỗi hầu như bị tiêu diệt. ­ Phòng chống lây lan dịch bệnh trên diện rộng. ­ Đồng thời khử  mùi các loại khí như  NH3, H2S,… phát sinh từ  phân của  vật nuôi. Gây nên cay mắt và nghẹt thở cho người,  ảnh hưởng đến môi trường  xung quanh. Ozone khử một số chất khí thành khí O2, CO2 và hơi nước. Những ưu điểm khi sử dụng ozone trong chăn nuôi là: ­ Hiệu quả xử lý nhanh. 19
  20. ­ Dễ dàng kết hợp với các phương pháp xử lý khác. ­ Thao tác xử lý đơn giản, chi phí vận hành thấp. ­ Giá cả phù hợp với thu nhập người chăn nuôi. ­ Sau xử lý chuyển hoá thành oxy không để lại dư lượng độc hại. Bảng 1.3. Khả năng khử một số hợp chất mang mùi của ozone Nồng   độ   mùi  Hiệu  suất   xử   lý  Hợp chất mang mùi (ppm) của ozone (%) 0.03 54 Hydrogen sulfide (mùi trứng thối) 0.27 97 Methyl   mercaptan   (mùi   bắp   cải  0.01 72 hôi) 0.03 92 Methyl sulfide (mùi cống rãnh) 0.01 88 Methyl disulfide (mùi cống rãnh) 0.02 65 0.04 98 Ammonia (mùi khai) 0.33 91 Trimethilamine (mùi tanh cá) 0.02 80  Nguồn: Công ty TNHH Môi trường Phương Nam, 2010 1.3.3. Sử dụng chế phẩm Balasa – N01 làm đệm lót chuồng trong chăn nuôi  gà [31] Thành phần của chế phẩm Balasa – N01 là các tế bào sống của các chủng   vi khuẩn, nấm men, nấm sợi và các enzym thuỷ phân các chất hữu cơ. Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm để xử lý đệm lót: ­ Làm tiêu hết phân do đó mùi hôi thối, khí độc trong chuồng nuôi hầu như  không còn, tạo môi trường sống tốt không ô nhiễm. ­ Sẽ không phải thay chất độn trong suốt quá trình nuôi do đó giảm tối đa   nhân công dọn chuồng và nguyên liệu làm chất độn. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2