intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nghiên cứu về Chiến tranh tiền tệ

Chia sẻ: Ly Tam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

146
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với kết cấu nội dung gồm 2 chương, đề tài "Nghiên cứu về Chiến tranh tiền tệ" giới thiệu đến các bạn những nội dung về chiến tranh tiền tệ, chiến tranh tiền tệ và tác động của các định chế tài chính. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn đang học chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu về Chiến tranh tiền tệ

  1. LỜI NÓI ĐẦU Ngắm nhìn lại tổng quan bối cảnh quốc tế trong những ngày gần đây đó là thế  giới đang phải quay cuồng với các vấn đề nợ công Châu Âu, bất ổn tại Hàn Quốc, đe  dọa thắt chặt tiền tệ của Trung Quốc, hàng loạt thị trường hàng hóa thế giới dao động  mạnh, những tin xấu liên tục dồn dập như vậy đã làm kinh tế thế giới rung lắc dữ dội   trong suốt những ngày vừa qua. Những mối quan tâm nổi cộm đó dường như đã làm thị  trường tạm quên đi một vấn đề đã từng rất nóng bỏng, chưa hề được giải quyết, hiện   nay vẫn còn âm ỉ và có thể sẽ kéo dài dai dẳng liên quan đến sự mất cân bằng thương   mại toàn cầu: đó chính là một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba mang tên “Chiến tranh  tiền tệ” – một cuộc chiến nơi đồng tiền là súng đạn và mức sát thương của nó không   hề nhỏ. Vậy cuộc chiến ấy là gì và độ khốc liệt của nó đến mức nào và thực sự nó đã   xảy ra chưa mà đã làm cho nền kinh tế  toàn cầu phải chao đảo. Và vấn đề  thực sự  nằm ở đâu, ngay sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu. Chương 1: CHIẾN TRANH TIỀN TỆ 1
  2. 1.1. Khái niệm chiến tranh tiền tệ Chiến tranh tiền tệ là việc các nước dùng chính sách tiền tệ của mình nhằm làm   cho đồng tiền của nước mình được định giá thấp hơn so với đồng tiền của các nước  khác. Theo báo Le Monde của Pháp ra ngày 23/10, một cuộc chiến tiền tệ dễ dẫn đến  chiến tranh thương mại. Để bảo vệ sản phẩm của mình và công ăn việc làm của dân   chúng, các nước sẽ  sử  dụng các vũ khí như  hỗ  trợ  xuất khẩu, đồng thời áp đặt thuế  hải quan và quota để giới hạn nhập khẩu. Các bên sẽ trả đũa nhau. 1.2. Lịch sử về chiến tranh tiền tệ Quay trở  lại với quá khứ, trong lịch sử  kinh tế  thế  giới, đã nhiều lần diễn ra   cuộc chiến tranh tiền tệ, chúng ta có thể kể đến như  đầu những năm 1930, sau khủng  hoảng kinh tế thế giới 1929­1933, khi các nước phải áp mức thuế cao và qui định hạn  ngạch đối với hàng nhập khẩu, hậu quả là hàng hóa tồn đọng, nhưng không nước nào  được lợi và kinh tế  toàn cầu đã sụp đổ. “Luật Hawley – Smooth của Mỹ  thông qua   ngày 17/6/1930 đã tăng thuế  trên 20.000 mặt hàng nhập khẩu, làm lượng hàng nhập   khẩu từ  châu Âu giảm 70%, nhưng xuất khẩu của Mỹ cũng giảm tương tự  vì bị  châu   Âu trả đũa”. Khi khủng hoảng kinh tế và tiền tệ khiến các nền kinh tế lớn phá bỏ chế  độ “bản vị  vàng”, thực hiện chính sách hạ  tỉ  giá đẩy mạnh xuất khẩu, tranh cướp thị  trường, làm đại suy thoái trở  nên tồi tệ  hơn nữa. Các quốc gia lúc bấy giờ  đua nhau  dựng lên những rào cản thương mại, khiến lượng hàng hóa lưu thông trên toàn cầu   giảm sút nghiêm trọng. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới Chiến tranh  thế giới thứ hai, và hậu quả cũng như  mức độ sát thương mà nó gây ra và để  lại như  thế nào thì không ai trong chúng ta là không biết đến và cảm thấy kinh hoàng. Hay như  câu chuyện đồng Yên vào thập niên 1980. Năm 1979 trường Đại học   Harvard Mỹ xuất bản cuốn “Nhật Bản đứng đầu thế giới”, cuốn sách đã thu hút đông  đảo độc giả  và giới kinh tế Mỹ. Nhưng ngay sau đó thì Nhật Bản trở  thành mục tiêu   số  1 để  Mỹ  kiềm chế, trừng phạt, thể  hiện rõ nhất là “Hiệp định Plaza” năm 1985:  năm nước Pháp, Đức, Nhật, Anh, Mỹ đồng ý định giá lại đồng Đô la Mỹ  trong tương   quan với đồng Yên Nhật và đồng Mark Đức vì lúc đó hàng hóa của Nhật đang tràn   ngập thị trường nhờ giá rẻ và Mỹ đang chịu cảnh thâm hụt mậu dịch lớn với nước này.  Ngay lập tức đồng Yên lên giá mạnh, từ 239 Yên/1 Đô la vào năm 1985 lên 128 Yên/1  Đô la vào năm 1988, một mức tăng gần gấp đôi và điều này làm cho kinh tế Nhật điêu   đứng từ đó tới hiện nay. 1.3. Nguyên nhân và đặc điểm của cuộc chiến tranh tiền tệ lần này Cuộc chiến tranh tiền tệ lần này âm ỉ từ  cuối thế kỷ 20 đến đầu thế  kỷ  21 khi   hai thực thể kinh tế lớn là Trung Quốc và Mỹ tiến hành các biện pháp trừng phạt kinh  tế  lẫn nhau mà phía Mỹ  cho rằng Trung Quốc thực hiện chính sách “thao túng tỉ  giá”  2
  3. để  xuất siêu sang Mỹ, làm cán cân thương mại hai nước không cân bằng. Theo Bộ  thương mại Mỹ, tới cuối năm 2006 tổng ngạch xuất siêu của Trung Quốc sang Mỹ tới   235,5 tỉ USD, riêng năm 2006 nhập siêu của Mỹ với Trung Quốc tới 177,4 tỉ USD. Vì   vậy, Mỹ ra sức đấu tranh đòi Trung Quốc tăng tỉ giá đồng Nhân dân tệ (NDT) từ 25%­ 30% so với đồng USD để  giảm nhập siêu cho Mỹ. Yêu cầu này đã được EU và các   nước khác đồng tình  ủng hộ, bởi EU cũng cùng chung cảnh ngộ  với Mỹ.   Năm 2006,  EU nhập siêu của Trung Quốc là 128 tỉ  EUR, năm 2007 tới 170 tỉ  EUR, năm 2008 tuy   có giảm nhưng vẫn lên tới 160 tỉ EUR. Trước yêu cầu của Mỹ  và EU, phía Trung Quốc kiên quyết phản đối và lập  trường này dường như không thể lay chuyển. Bởi vậy, cuộc chiến về tỉ giá giữa Mỹ ­   Trung Quốc và EU ­ Trung Quốc luôn căng thẳng và gay gắt kể từ năm 2003 tới nay. Nhìn chung, tình hình kinh tế  hiện nay không mấy khả  quan khi các quốc gia   đang thi nhau tìm cách ghìm giá đồng tiền của mình: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản  và Trung Quốc tung tiền ra mua ngoại tệ, trong khi đó Mỹ  thì có thể  in thêm tiền.  Những nước đang vươn lên như  Brazil, Thái Lan… cũng có biện pháp nhằm giảm  luồng vốn đầu cơ  bằng cách đánh thuế  trên cổ  phiếu mà các nhà đầu tư  ngoại quốc   mua vào. Những lời chỉ  trích tố  cáo nhau ngày càng nhiều: ngoài Trung Quốc luôn bị  từ  Mỹ đến châu Âu, Nhật Bản chỉ trích là thao túng đồng tiền của mình, thì vừa qua Hàn  Quốc bị  Nhật tố  cáo ghìm giá đồng won. Châu Âu chỉ  trích Trung Quốc nhưng cũng  khá bất an khi nhìn tỉ giá đồng euro quá cao so với đồng USD trong thời gian qua. Ta có thể tóm gọn lại dấu hiệu hay đặc điểm nổi bật của Chiến tranh tiền tệ  lần này là các nước đua nhau hạ thấp tỉ giá đồng tiền của mình so với ngoại tệ mạnh   để  tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu, từ  đó góp phần phục hồi kinh tế  đất nước sau   khủng hoảng.  1.4. Hậu quả Hậu quả nhãn tiền của Chiến tranh tiền tệ là gây nguy hại tới buôn bán quốc tế  và cản trở  phục hồi kinh tế  thế giới. Việc tăng nhanh chóng giá trị  tiền tệ làm giảm  trầm trọng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu, tạo ra mối đe dọa nghiêm  trọng   đối   với   các   nền   kinh   tế   “dựa   dẫm”   xuất   khẩu   như   Hàn   Quốc,   Nhật   Bản,  Brazil.v.v. Ngoài ảnh hưởng đối với xuất khẩu do tỷ giá liên tục tăng cao, các nền kinh tế  mới nổi còn lo ngại tỷ giá tăng mạnh sẽ đẩy nhanh các khoản tiền nóng chảy vào thị  trường mới nổi, từng bước thổi cao giá tiền tệ và tài sản, càng làm tăng nguy cơ bùng  nổ khủng hoảng tài chính lần hai. Báo cáo của Standard Chartered cho biết, châu Á và   châu Âu sẽ vấp phải nguy cơ giá tài sản tăng, dòng chảy của vốn tăng. 3
  4. Như đã nói, đây là một cuộc chiến mà đồng tiền là súng đạn và mức sát thương   là không thể lường trước được. Chương 2: CHIẾN TRANH TIỀN TỆ VÀ TÁC  ĐỘNG CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH 2.1. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF 2.1.1. Một vài đặc điểm và mục đích của IMF 2.1.1.1. Đặc điểm IMF được thai nghén từ  phiên họp của Liên Hợp Quốc tháng 7 năm 1944 tại  Bretton Woods, New Hampshire, Hoa Kỳ. 45quốc gia thành viên có mặt trong phiên họp  đã tìm kiếm một cơ  cấu hợp tác kinh tế  có thể  tránh được sự  lặp lại các chính sách   kinh tế sai lầm từng dẫn tới cuộc đại khủng hoảng thập kỷ 30. Và sau đó, IMF chính  thức ra đời vào tháng 12 năm 1945 và đi vào hoạt động ngày 1/3/1947. Hiện nay IMF có   187 quốc gia thành viên. Số  lượng nhân viên khoảng 2400 người, hoạt động trên 141   nước. Nguồn vốn của IMF: chủ  yếu là vốn cổ  phần của các nước thành viên và tích  lũy của IMF. Ban đầu, mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất  nhập khẩu của nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới. Ngoài ra, trong   trường hợp cần thiết, IMF cũng có thể  vay vốn trên thị  trường tài chính quốc tế  để  phục vụ cho các hoạt động của mình. Đến tháng 8/2009, tổng vốn cổ phần của IMF là   325 tỉ USD.           Cơ cấu tổ chức : Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban   Giám đốc Điều hành, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ. 2.1.1.2. Mục tiêu hoạt động ­ Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm  cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.  ­ Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và   nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế  và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan  trọng nhất của chính sách kinh tế. ­ Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao   dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh. 4
  5. ­ Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành   viên và xóa bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của mậu  dịch quốc tế. ­ Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ  nguồn lực  dự  trữ  của quỹ  được đảm bảo an toàn và tạo cơ  hội cho họ  sửa chữa mất cân đối  trong cán cân thanh toán quốc tế. ­ Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của  các nước thành viên. ­ Thúc đẩy sự  hợp tác tiền tệ  quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở  rộng và tăng trưởng thương mại quốc tế một cách cân đối; tăng cường ổn định tỷ giá;   hỗ trợ  cho việc thành lập hệ thống thanh toán đa phương; cho các nước hội viên tạm   thời sử dụng các nguồn vốn chung của Quỹ với những đảm bảo thích hợp; và rút ngắn   thời gian và giảm bớt mức độ  mất cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế  của các   nước hội viên. 2.1.2. Các biện pháp ngăn ngừa chiến tranh tiền tệ của IMF Tổng giám đốc IMF Dominique Strauss­Kahn cho rằng, các chính phủ  đang tạo  ra nguy cơ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh tiền tệ khi cố gắng dùng công cụ tỷ giá  để giải quyết những khó khăn của nền kinh tế trong nước. Trong thông cáo chung phát  đi sau cuộc họp của IMF diễn ra tại Washington, định chế này chỉ gián tiếp đề cập tới  những căng thẳng đang gia tăng xung quanh vấn đề  tỷ  giá. Thậm chí, trong thông cáo   này, IMF tuyên bố sẽ tăng cường giám sát các nền kinh tế phát triển. “Sự giám sát chặt  chẽ hơn để phát hiện bất ổn ở những nền kinh tế phát triển lớn là một ưu tiên”, thông  cáo của IMF có đoạn viết. Dù các biện pháp giám sát vẫn chưa được vạch ra cụ thể nhưng Giám đốc điều   hành IMF Dominique Strauss­Kahn có ý tưởng là IMF sẽ rà soát 5 khu vực kinh tế lớn   nhất gồm Mỹ,  Nhật Bản,  Trung Quốc,  Eurozone  và  Anh,  đồng thời đánh giá   ảnh   hưởng từ chính sách của các khu vực này đối với nền kinh tế toàn cầu. IMF cũng đã nhiều lần lên tiếng khẳng định đồng NDT đang bị  định giá thấp,  động thái này khiến cho áp lực đối với nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới xung quanh vấn   đề  tỉ  giá đồng nhân dân tệ  ngày càng gia tăng, thế  nhưng điều này cũng chẳng khiến  phía Trung Quốc quan tâm. Giới lãnh đạo IMF cho rằng tổ chức này cần hoạt động tích cực hơn để  kiểm  soát dòng chảy tư bản và biến động tỉ giá hối đoái. Cũng theo tuyên bố chính thức của  hội nghị, trước tình hình bất ổn của kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa bảo hộ cần được loại   bỏ bằng mọi giá. 5
  6. 2.1.3. Đánh giá vai trò của IMF trong cuộc chiến tiền tệ Vai trò của IMF chỉ  dừng lại  ở  chỗ  cảnh báo, kêu gọi chứ  chưa có một biện  pháp cứng rắn tích cực nào hay nói cách khác, IMF đã không hoàn thành trách nhiệm  của mình. Điều 4 quy định về  hoạt động của IMF đã chỉ  rõ, tổ  chức này phải thực   hiện nhiệm vụ  giám sát nghiêm ngặt và chấp nhận các nguyên tắc cụ  thể để  quản lý  giao dịch ngoại hối. Tuy vậy những điều này đã không được thực thi. Sự thiếu hụt một  cơ chế rõ ràng để can thiệp và áp dụng luật đã buộc G­20 phải hành động. Thay vì để  G­20 là nơi thí nghiệm chính sách, IMF cần thực hiện những nguyên tắc căn bản trong   điều 4 của mình. Như một phần của trách nhiệm giám sát,  IMF cần tính toán giới hạn  của cân bằng trung gian trong giao dịch trên thị  trường tiền tệ. Cùng với World Bank,  IMF nên hỗ trợ các nước thành viên định ra các mức dự trữ ngoại hối tối  ưu cho mục   tiêu tăng trưởng bền vững. Những hành động tích trữ  ngoại hối vượt quá mức  cần  được tổ chức giám sát cảnh cáo. Làm sao để những nguyên tắc cơ bản này được thực hiện? Rõ ràng Trung Quốc  cần góp sức để giúp IMF hoạt động ổn định hơn. Trong khi đó,  nước này lại tiếp tục  can thiệp sai hướng, chống lại xu thế cân bằng. Tỷ  giá đồng NDT cần cao hơn mức  hiện nay thì mới có thể  duy trì mức phát triển bền vững và tăng trưởng kinh tế  toàn   cầu. Ngân hàng Trung  ương Trung Quốc đang nắm giữ mức dự  trữ  cao hơn nhiều so  với ngưỡng cần thiết, đồng thời Trung Quốc cũng coi thường các lời kêu gọi của IMF   về vấn đề đồng NDT. 2.2. Ngân hàng thế giới WB 2.2.1. Khái quát WB là một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy  phát  triển kinh tế và xã hội  ở  các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao  động ở các nước này. WB là tổ chức liên kết chặt chẽ với 5 thành viên thuộc hệ thống LHQ gồm: ­ Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD): được thành lập năm 1945.  Hiện nay có 187 thành viên. ­ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA): được t hành lập năm 1960. Hiện nay có 170  thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD. ­ Công ty Tài chính Quốc tế  (IFC): được thành lập năm 1956. Hiện nay có 182  thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD. ­ Cơ  quan Bão Lãnh Đầu Tư  Đa Phương (MIGA): được thành lập năm 1988.   Hiện nay có 175 thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD. 6
  7. ­ Trung tâm Quốc tế  Giải quyết Tranh chấp Đầu tư  (ICSID):   thành lập năm  1966. Hiện nay có 144 thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD. Các nước tham gia WB phải có điều kiện tiên quyết là thành viên của IMF. Mỗi  thành viên làm một vai trò riêng biệt trong nhiệm vụ chống lại đói nghèo và cải thiện  mức sống của người dân các nước đang phát triển. Thuật ngữ “World Bank” (WB) chỉ  bao gồm 2 tổ chức là IBRD và IDA, 3 tổ chức còn lại có cơ cấu tổ chức tương đối độc   lập với WB. 2.2.2. Cơ cấu tổ chức Hội đồng Thống Đốc (hay Hội đồng quản trị): là cơ quan lãnh đạo cao nhất của  WB.  Mỗi nước thành viên cử  một đại diện của nước mình làm thành viên của Hội   đồng Thống đốc, thường  là Bộ  trưởng tài chính hoặc Thống đốc Ngân hàng trung  ương của các nước thành viên.  Ban Giám đốc Điều hành: các thống đốc chia nhiệm vụ cụ thể cho 24 Giám đốc  điều hành, những người có mặt thường xuyên tại Ngân hàng. Năm cổ đông lớn nhất là  Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh Quốc và Hoa Kỳ  bổ  nhiệm mỗi nước một giám đốc điều  hành, trong khi các nước thành viên khác được đại diện bởi 19 giám đốc điều hành. Họ  thường họp ít nhất hai lần một tuần để  giám sát kinh doanh của Ngân hàng, bao gồm  cả  phê duyệt các khoản vay và bảo lãnh, các chính sách mới, ngân sách hành chính,  chiến lược hỗ trợ quốc gia, cho vay và các quyết định tài chính. Chủ tịch Ngân hàng Thế giới: là người đứng đầu của Ban Giám đốc Điều hành  và chịu trách nhiệm quản lý tổng thể của Ngân hàng.  2.2.3. WB và chiến tranh tiền tệ Trước tình hình ngày càng căng thẳng của chiến tranh tiền tệ, gây ra tình trạng   mất cân đối thương mại và bất ổn trên thị trường vốn, Chủ tịch WB rất lo ngại với hệ  thống tiền tệ quốc tế khi Mỹ và các nước khác đổ lỗi cho Trung Quốc giữ NDT không   đúng giá trị thực. Tại hội nghị thượng đỉnh G20 diễn ra tại Seoul (Hàn Quốc),  Chủ tịch  Ngân hàng Thế giới (WB) Robert Zoellick kêu gọi G20 khôi phục chế độ bản vị vàng,   xem vàng như chiếc mỏ neo định hướng các hoạt động tiền tệ toàn cầu, để tránh xuất   hiện tình trạng tương tự như tranh chấp tỷ giá giữa Trung Quốc và Mỹ. Bản vị vàng là  chế  độ  tiền tệ  mà phương tiện tính toán kinh tế  tiêu chuẩn được  ấn định bằng hàm   lượng vàng. Theo ông Zoellick, thế  giới cần cách thức quản lý mới nhằm đạt được   thành công của cái mà ông gọi là hệ thống “Bretton Woods II”. Hệ thống này sẽ dùng  vàng làm yếu tố tham chiếu kỳ vọng của thị trường đối với lạm phát, giảm phát, giá trị  tiền tệ tương lai. Theo ông Zoellick, hệ thống này có thể sẽ liên quan chủ yếu đến đô  la Mỹ, euro, yên Nhật, bảng Anh và nhân dân tệ để tiến đến quốc tế hóa. Ông Zoellick còn cho biết trên tờ  Financial Times (Anh) ngày 8­11 nên kết thúc   việc lấy đô la Mỹ làm mỏ neo cho tiền tệ của các nước. Việc áp dụng chế độ  bản vị  7
  8. vàng sẽ góp phần trang bị lại nền kinh tế thế giới trong thời điểm căng thẳng tỷ giá và  chính sách tiền tệ của Mỹ. 2.3. Cục dự trữ liên bang Mỹ FED  2.3.1. Khái quát: Cục dự  trữ  liên bang (tiếng Anh: Federal Reserve System – FED) là ngân hàng  trung ương của Hoa Kỳ. FED bắt đầu hoạt động năm 1915 theo "Đạo luật Dự trữ Liên  bang" của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1913. FED bề  ngoài là ngân hàng của chính phủ, bao gồm Hội đồng thống đốc đóng  tại thủ  đô Washington được chỉ  định bởi  Tổng thống Hoa Kỳ, Ủy ban thị  trường, 12  Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có sở hữu một phần ở  các ngân hàng dự  trữ  liên bang khu vực. Chủ tịch Hội đồng thống đốc của FED hiện   nay là Ben Bernanke. 2.3.2. Cơ cấu tổ chức: ­ Hội đồng thống đốc (the Board of Governors of the Federal Reserve System). ­ Ủy ban thị trường ((Federal Open Market Committee ­ FOMC). ­ Các Ngân hàng của FED. ­ Các ngân hàng thành viên (có cổ phần tại các chi nhánh). Mỗi ngân hàng khu vực và ngân hàng thành viên của Cục dự  trữ  liên bang FED   tuân thủ sự giám sát của Hội đồng thống đốc. Bảy thành viên của Hội đồng thống đốc   được chỉ  định bởi Tổng thống Hoa Kỳ  và phê chuẩn bởi Quốc hội. Các thành viên   được lựa chọn cho nhiệm kỳ 14 năm (trừ  khi bị  phế  truất bởi Tổng thống) và không   phục vụ quá một nhiệm kỳ. Tuy nhiên, một thành viên nếu được chỉ định để phục vụ  nốt phần chưa hoàn tất của thành viên khác có thể phục vụ tiếp một nhiệm kỳ 14 năm  nữa, ví dụ  cựu chủ  tịch Hội đồng là Alan Greenspan đã phục vụ  19 năm từ  1987 đến  2006. Ủy ban thị  trường gồm 7 thành viên của Hội đồng thống đốc và 5 đại diện từ  các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Luôn có một đại diện của ngân hàng FED tại   Quận 2, thành phố  New York là thành viên trong  Ủy ban này (hiện tại là Timonthy  Geithner). Thành viên từ  các ngân hàng khác được luân phiên theo thời gian 2 hoặc 3  năm.  2.3.3. FED và chiến tranh tiền tệ Ngay khi cuộc khủng hoảng nợ công  ở  châu Âu lắng xuống vào cuối nửa đầu  2010, đồng USD bắt đầu yếu đi nhanh chóng khi cục Dự trữ liên bang Mỹ kiên quyết   8
  9. lập trường nới lỏng tiền tệ, thậm chí áp dụng chính sách nới lỏng số  lượng (QE) để  kích thích kinh tế. Lúc này các nước trên thế  giới thi nhau giảm giá đồng tiền nội tệ  của mình bằng cách đẩy đồng USD ra khỏi hệ  thống tài chính nhằm tăng xuất khẩu,   cải thiện cán cân thương mại của mình. Đối với các nước thuộc khối PIIGS( Hy Lạp,   Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland) thì việc đồng USD giảm giá càng làm cho khả  năng vỡ  nợ  của các nước này giảm đi. Các nước trong khu vực mới nổi như  Brazil,   Hàn Quốc, Thái Lan và Philipine đều có những biện pháp ngăn chặn dòng tiền nóng  này. Cùng với việc neo giá đồng CNY vào đồng USD đã được Trung Quốc sử dụng   từ  cuối năm 2008 nhằm giữ  giá đồng CNY  ở  mức thấp, thuận lợi cho việc tạo ra   thặng dư  cán cân thương mại. Điều này tác động làm tăng thâm hụt cán cân thương   mại của Mỹ và làm cho căng thẳng đồng tiền giữa hai nước này tăng lên. Cùng lúc này, tình trạng thất nghiệp  ở  Mỹ  cũng tăng cao cùng tình trạng lạm  phát đã khiến FED đi đến quyết định tung ra gói định lượng 600 tỷ bằng USD để  mua  trái phiếu của bộ tài chính trong khoảng thời gian từ nay đến hết tháng 6/2011. Chủ tịch FED đang cố gắng vực dậy tăng trưởng kinh tế Mỹ khi lãi suất cơ bản  gần 0% và 1,7 nghìn tỷ USD mua trái phiếu nhưng vẫn không thể giải quyết được vấn   đề thất nghiệp và khiến các quan chức kinh tế vẫn “điên đầu” với khả năng giảm phát. Nếu tính cả  trái phiếu được mua bằng tiền từ  thế  chấp, FED sẽ  mua tổng số  khoảng 850 đến 900 tỷ  USD trái phiếu trong khoảng thời gian từ  nay đến hết tháng   6/2011, như vậy tương đương khoảng 110 tỷ USD/tháng. 86% trái phiếu được mua sẽ  tập trung chủ yếu vào thời hạn 2,5 đến 10 năm.  Tuy nhiên, Chủ  tịch FED đã đưa ra quyết định về  gói kích thích mới bất chấp  5/18 nhà hoạch định chính sách cao cấp nhất tại FED phản đối hay thể  hiện sự  nghi  ngờ về hiệu quả của chính sách này.  Trong tình hình nợ  công và khiếm hụt ngân sách của Mỹ  và các nước châu Âu  đang  ở  mức không thể  chấp nhận được thì một quyết định bơm  ồ   ạt tiền này trước   mắt sẽ gia tăng món nợ công khổng lồ hiện có (gần 100% GDP). Việc bơm 600 tỷ USD tất nhiên làm giảm giá đồng USD và khuyến khích xuất  khẩu của Mỹ nhưng đồng thời lại gây ảnh hưởng đến đến các nước khác. Thực vậy,   việc đồng USD mất giá sẽ   ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị  các công khố  phiếu được   một số nước mua với khối lượng lớn như: Trung Quốc (868 tỷ USD), Nhật B ản (836   tỷ), Anh (448 tỷ), các quốc gia xuất khẩu dầu (226 tỷ). Nó cũng ảnh hưởng trực tiếp  đến giá trị khối dự trữ ngoại tệ 2600 tỷ USD của Trung Quốc. Sau khi FED công bố  quyết định bơm tiền, đồng Euro đã tăng giá liên tục  ảnh   hưởng đến xuất khẩu của Âu châu sang Mỹ, nhất là đối với một số nước yếu về kinh  tế như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, Ý. 9
  10. Theo ông Liu Shijin, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thuộc Hội đồng Nhà   nước Trung Quốc cho rằng quyết định làm suy yếu đồng USD của Mỹ sẽ dẫn đến rối   loạn lớn trong hệ thống tiền tệ toàn cầu và cuộc chiến tiền tệ là khó tránh. Hậu quả  đối với Trung Quốc là tăng trưởng kinh tế  nước này trong từ  3 đến 5 năm tới sẽ  chỉ  còn khoảng 7% so với mức 10% hiện nay. Mức tăng trưởng dưới 8% của kinh tế  Trung Quốc được đánh giá là không đủ để bảo đảm ổn định xã hội và tạo việc làm. 2.4. Ngân hàng trung ương Trung Quốc PBOC 2.4.1. Khái quát Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) là Ngân hàng Trung  ương của Cộng  hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền kiểm soát chính sách tiền tệ và quản lý các định chế  tài chính của nước này. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc có lượng tài sản tài chính  nhiều hơn bất cứ định chế tài chính công cộng nào trong lịch sử thế giới. 2.4.2. Cơ cấu tổ chức Bộ máy điều hành tối cao của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc gồm Thống đốc  và một số Phó thống đốc. Vị trí Thống đốc được bổ nhiệm hay bãi nhiệm bởi Chủ tịch  nước.  Ứng viên vào vị  trí Thống đốc được đề  xuất bởi Thủ  tướng và phê chuẩn bởi  Quốc hội. Khi Quốc hội không tổ  chức kỳ  họp,  Ủy ban thường vụ  Quốc hội sẽ phê  chuẩn   việc   bổ   nhiệm   này.   Các   Phó   thống   đốc   do   Thủ   tướng   bổ   nhiệm  hoặc   bãi   nhiệm. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc áp dụng hệ thống trách nhiệm tập trung của  Thống đốc, theo đó Thống đốc quản lý công việc chung của toàn ngân hàng, các Phó  thống đốc trợ giúp Thống đốc hoàn thành trách nhiệm. Thống đốc đương nhiệm là ông Chu Tiểu Xuyên.  2.4.3. PBOC và chiến tranh tiền tệ  2.4.3.1. Nguyên nhân PBOC định giá thấp đồng NDT Từ  trước đến nay Trung Quốc (TQ) luôn duy trì “cơ  chế  tỷ  giá ngoại hối có  kiểm soát” thực chất là kiềm chế tỷ giá đồng NDT dưới mức giá trị  thực để  thúc đẩy   xuất khẩu. Tỷ  giá thấp là một ‘vũ khí’ lợi hại bên cạnh những thuận lợi trong nước   như là giá nhân công rẻ và sự hỗ trợ của nhà nước. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho   rằng cơ  chế  đó đem lại sự  tăng trưởng thần kỳ  cho kinh tế  Trung Quốc trong mấy   thập niên qua. Việc nâng giá NDT cũng có những mặt tích cực, trước hết là giảm căng thẳng  xung quanh câu chuyện tỷ giá trong thời gian gần đây và nguy cơ  chiến tranh thương   mại và điều này gây bất lợi cho các bên. Hơn hết Chính phủ hiểu rõ tăng giá NDT làm  10
  11. giảm bớt sự  phụ  thuộc của nước này vào xuất khẩu dựa trên nhu cầu của thế  giới,   nền kinh tế  sẽ   ổn định hơn khi chuyển từ  xuất khẩu sang thị trường nội địa, thu hút  đầu tư  tiêu dùng nâng cao cuộc sống nhân dân. Nhưng điều này là rất khó thực hiện   không phải một sớm một chiều và có thể trả một cái giá nào đó mà ví dụ cụ thể là vấn   đề việc làm. Ngoài việc ổn định kinh tế vĩ mô thì việc duy trì và tạo công ăn việc làm luôn là   mối quan tâm hàng đầu của chính phủ  các nước. TQ lo ngại rằng việc đồng nội tệ  tăng giá sẽ  dẫn đến hàng triệu công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp xuất khẩu bị  mất việc và nguy cơ tăng trưởng thấp, bất ổn xã hội. Việc nâng giá đồng NDT so với USD có thể  đi theo vết xe đổ  của Nhật Bản.   Trong quá khứ Nhật Bản đã từng có thời kỳ phát triển thần kỳ, kinh tế phát triển siêu   tốc và không có gì khó hiểu khi mà Nhật Bản nhanh chóng vươn lên đứng thứ  hai thế  giới sau Mỹ. Nhưng từ cuối thập niên 1980, kinh tế trở nên bị đình trệ, phát triển ì ạch  và kéo dài đến ngày hôm nay. Có nhiều nguyên nhân mà các nhà kinh tế, các nhà họach   định chính sách đã đưa ra. Nhưng có một sự trùng hợp chắc chắn rằng có sự  tác động   của chính sách tỷ giá. Tỷ giá cuối thập niên 1980, dưới áp lực của Quốc hội Mỹ, Nhật   đã nâng giá đồng JPY từ 240 JPY lên 160 JPY ăn 1 USD trong vòng hai năm. Và Trung   Quốc rút ra được kinh nghiệm rất lớn từ vấn đề này. Chính vì thế, tạp chí Foreign Policy của Mỹ hôm 24­9 nhận định, Washington sẽ  rất “ngây thơ” nếu kỳ  vọng đồng NDT sẽ  tăng giá nhanh và Trung Quốc sẽ  rất “dối  trá” nếu cam kết sẽ tăng giá đồng NDT. 2.4.3.2. Những động thái của PBOC trên thị trường tiền tệ trong thời gian vừa qua Trước sức ép từ Washington và các nước khác thì ngày 22­6, Trung Quốc thông  qua PBOC đã thực hiện bước đi đầu tiên trong cam kết linh hoạt giá đồng NDT cụ thể  cho tỷ  giá đồng CNY­USD được tăng giảm trong biên độ  +/­ 0,5% so với giá tham  chiếu mà ngân hàng trung ương nước này ấn định mỗi ngày. Theo đó, Ngân hàng Trung  ương Trung Quốc đã xác lập tỷ  giá hối đoái mới  ở  mức 1USD = 6,7980 NDT, tăng  0,43% so với mức 6,8275 NDT của ngày 21­6. Đây là mức cao nhất kể từ khi Bắc Kinh   định giá lại đồng NDT vào tháng 7­2005. Theo giới quan sát, động thái trên của Trung  Quốc là nhằm giảm bớt bầu không khí căng thẳng tại Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các   nền kinh tế phát triển và đang phát triển (G­20) tại Canada vào ngày 25­6 tức vài ngày  sau đó, nơi sẽ có nhiều cáo buộc Trung Quốc cố tình định giá thấp đồng NDT để có lợi   cho nền kinh tế Trung Quốc. Khi đồng NDT mạnh lên sẽ  có những tác động nhất định đối với các nền kinh   tế khác. Nhập khẩu hàng hóa vào Trung Quốc sẽ rẻ đi; các doanh nghiệp và chính phủ  Trung Quốc sẽ  có khả  năng mua được nhiều hàng hóa nước ngoài hơn, làm tăng nhu  cầu đối với hàng nhập khẩu. Đây sẽ  là lợi thế  cho các Hãng hàng không Trung Quốc   như Air China, China Eastern Airlines… vốn mượn ngoại tệ để mua máy bay hay nhập   11
  12. khẩu xăng dầu. Theo ước tính của Deutsche Bank, nếu đồng NDT tăng 1% so với đồng   USD, lợi nhuận ròng của Air China sẽ tăng khoảng 10% trong năm 2010, trong khi con   số  này của China Eastern Airlines là 15%. Những người có chung niềm vui với các  Hãng hàng không Trung Quốc là các hãng xe hơi nước ngoài như BMW, Volkswagen…  nhất là BMW bởi khi liên doanh BMW với Brillance của Trung Quốc nhập khẩu đến  50% phụ tùng, linh kiện từ Đức. Ngoài ra, các tập đoàn kinh doanh các mặt hàng xa xỉ,  công nghệ, tiêu dùng…cũng được lợi rất nhiều bởi đồng NDT tăng giá. Đối với bản thân Trung Quốc, đồng nội tệ  lên giá sẽ  là một công cụ  hiệu quả  giúp kiềm chế lạm phát trong nước, thay vì phải áp dụng các quy định ngặt nghèo đối  với hệ thống ngân hàng như nước này phải làm trong thời gian qua. Cũng theo phân tích của một số chuyên gia kinh tế, việc Ngân hàng Trung ương  Trung Quốc tuyên bố  nới lỏng tỷ  giá NDT về  lâu dài sẽ  làm tăng nhu cầu mua vàng  của các nhà đầu tư. Cũng trong lần điều chỉnh tỷ  giá lần này, Ngân hàng Trung ương   Trung Quốc tuyên bố  sẽ  thúc đẩy hơn nữa cải cách cơ  chế  tỷ  giá hối đoái của đồng  Nhân dân tệ, nhằm tăng tính linh hoạt về tỷ giá đồng tiền này. Tuyên bố này đã được   cụ thể hóa trong những đợt tăng giá tiếp theo vào ngày 19­7 và gần đây đây nhất là đợt  tăng giá vào ngày 29­9, tỉ  giá hối đoái của đồng nhân dân tệ  so với đồng đô­la Mỹ  đã  tăng 0,17%, đạt mức kỉ lục mới với 6,6936 Nhân dân tệ đổi 1 đô­la Mỹ.  Tiếp theo ngày 19­10, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc nâng lãi suất cơ bản   và lãi suất tiền gửi lần đầu tiên từ  năm 2007 sau khi lạm phát lên mức cao nhất trong   22 tháng. Lãi suất tiền gửi thời hạn 1 năm được điều chỉnh lên mức 2,5% từ  mức   2,25%. Lãi suất cơ bản được điều chỉnh từ  mức 5,31%  lên mức 5,56%. Nguyên nhân  đầu tiên đó là việc trước tình hình tỷ  lệ  lạm phát tháng 8/2010 của Trung Quốc lên  mức 3,5%, sự  gia tăng gần đây của lạm phát đã khiến lãi suất của Trung Quốc thực  âm. “Về  cơ  bản, lãi suất của Trung Quốc là quá thấp đối với một nền kinh tế  tăng  trưởng 10% mỗi năm. Để tránh sự bóp méo lớn hơn, Trung Quốc cần bắt đầu đưa lãi   suất lên những mức hợp lý hơn” ­   nhà kinh tế  Rob Subbaraman thuộc ngân hàng  Nomura  ở  Hồng Kông nhận xét. Hơn nữa rủi ro kinh tế  tăng trưởng quá nóng khiến   chính phủ  Trung Quốc buộc phải tính đến biện pháp hạn chế tín dụng và đầu cơ  bất   động sản.  Việc bất ngờ  tăng lãi suất cơ bản là phù hợp với tình hình kinh tế  trong nước.   Tuy nhiên, lãi suất NDT tăng có thể  khiến dòng vốn vào Trung Quốc mạnh mẽ  hơn   gây áp lực tăng giá NDT và điều này là không có lợi cho xuất khẩu. Theo ông Zhang   Yuheng ­ nhà phân tích thuộc công ty chứng khoán Capital Securites tại Thượng Hải  cho rằng: “Lần tăng lãi suất này của PBOC giống như một gáo nước lạnh dội vào thị  trường. Mức tăng lãi suất không phải là lớn, nhưng  ảnh hưởng tâm lý đối với thị  trường là rất lớn, vì thị  trường sẽ  kỳ  vọng những đợt tăng lãi suất mới”. Điều này   khiến cho việc kiểm soát dòng vốn trở nên khó khăn.   12
  13. “Việc Trung Quốc tăng lãi suất chắc chắn dẫn tới những đồn đoán cho rằng,  giữa Trung Quốc và Mỹ  đang tồn tại một ‘thỏa thuận ngầm’, trong đó Mỹ  sẽ  có tiếp  cận từ  tốn hơn với chính sách nới lỏng định lượng” ­ ông Simon Derrick, người đứng  đầu bộ  phận nghiên cứu ngoại hối thuộc ngân hàng Bank of New York Mellon, nhận   xét. Nghĩa là chính sách lần này sẽ  có lợi cho đôi bên cả  Trung Quốc lẫn Mỹ  vì nếu  chính sách nới lỏng định lượng được Mỹ  thực hiện một cách cứng nhắc thì nguy cơ  lạm phát vẫn là một điều mà các nhà chức trách nước này lo ngại. Ngày 19/11, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc bất ngờ công bố sẽ yêu cầu các   ngân hàng thương mại nâng tỷ lệ  dự trữ bắt buộc, cụ thể mức dự trữ này tăng lên 50  điểm (0.5%) và có hiệu lực vào ngày 29­10­2010 có nghĩa là các ngân hàng thương mại  phải chuyển thêm 0,5% vốn huy động vào tài khoản lợi suất thấp tại NHTW. Mục tiêu  của đợt điều chỉnh này một mặt nhằm hạn chế lạm phát trong lúc chỉ số giá tiêu dùng  tăng 4,4% trong 12 tháng tính đến tháng 10/2010, tăng trưởng nguồn cung tiền trong 2   năm gần nhất đạt 54%. Dự kiến, với việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc này, thanh khoản   sẽ giảm khoảng 300 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 44,8 tỷ USD). Mặt khác, động thái  này là để  hạ  giá đồng nhân dân tệ  nhằm hạn chế  ảnh hưởng từ  chương trình 600 tỷ  USD của FED công bố vào ngày 5­11 . Phần dự trữ này sẽ là khoản tiền để NHTW TQ   mua thêm USD, Euro và một số loại tiền tệ khác và giảm đáng kể áp lực từ chính sách  mua trái phiếu Bộ tài chính của FED. Chính phủ Bắc Kinh, cho đến nay vốn luôn phản   đối áp lực từ  phía Mỹ về việc nâng giá đồng nhân dân tệ, phản pháo rằng chính sách   tiền tệ  dễ  dãi của FED khiến đồng USD hạ  giá mạnh. Tuy nhiên khi công bố  chính   sách này Trung Quốc không hề  đề  cập tới FED, đây là một nước cờ  rất khôn ngoan  giảm bớt căng thăng khi hai bên liên tục chỉ trích nhau trong thời gian vừa qua. Lượng   đô la Mỹ dự định mua vào không quá lớn và mục tiêu đưa ra là hợp lý để ổn định kinh   tế vĩ mô trong nước. Tuy nhiên, thời gian từ nay cho đến 6­2011 ( 600 tỷ đôla bơm vào  thị  trường ), chúng ta sẽ  trông chờ  vào những động thái tiếp theo của Trung Quốc.   Thực chất Trung Quốc sẽ  không chịu nhượng phần bánh ngon trong cán cân vãng lai   của mình bởi vì nền kinh tến Trung Quốc đang tăng trưởng và phát triển trên đà rất tốt.  Khi xuất khẩu giảm sút thì hoàn cảnh sẽ rất tồi tệ khi mà hàng triệu người dân trong   các nhà máy xí nghiệp mất việc. 2.4.3.3. Nhận xét Sự ổn định của đồng Nhân dân tệ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu   tác động của khủng hoảng tài chính, góp phần đáng kể vào sự hồi phục kinh tế châu Á   và thế  giới, cũng như  thể  hiện nỗ  lực của Trung Quốc trong việc tái cân bằng toàn  cầu. Reuters bình luận, nếu ai đó còn nghi ngờ  về  vai trò đầu tàu phục hồi kinh tế  thế giới của Trung Quốc, thì mối nghi ngờ này đã bị phá tan khi chứng kiến ảnh hưởng   đối với thị trường toàn cầu từ việc nước này tăng lãi suất ngày 19/10. Giá vàng và dầu   13
  14. thô đồng loạt sụt giảm mạnh trong phiên sau đó, các thị  trường chứng khoán cũng lao   dốc, trong khi tỷ giá USD tăng vọt. 2.5. BOJ: 2.5.1. Khái quát Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) được thành lập theo Đạo luật Ngân hàng Nhật Bản   (ban hành trong  6/1882) và bắt đầu hoạt động vào ngày 10­10­1882 như  ngân hàng  Trung  ương của quốc gia. Ngân hàng được tổ  chức lại vào ngày 01 Tháng Năm 1942   để phù hợp với Luật Ngân hàng Nhật Bản, ban hành vào tháng Hai năm 1942. Đạo luật  năm 1942 đã được sửa đổi hoàn toàn vào tháng Sáu năm 1997 theo hai nguyên tắc "độc  lập"   và   "minh   bạch".   Các   hành   động   chỉnh   sửa   (Đạo   luật)   có   hiệu   lực   vào   ngày   1/4/1998.  2.5.2. Tác động Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Sadakazu Tanigaki đã tuyên bố rằng ông sẽ thực  hiện các biện pháp kiên quyết để tránh những tác động xấu của việc đồng yên tăng giá   lên nền kinh tế. Đồng yên hiện nay vẫn đang tiếp tục tăng giá cho dù BOJ đã nỗ lực để  giảm giá đồng nội tệ. Trong tháng 9, BOJ đã phải bán ra một số lượng đồng yên tương   đương với 40 tỷ USD nhằm giảm giá đồng nội tệ. Nền kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế định hướng xuất khẩu nên bị  ảnh hưởng   nặng nề bởi sự tăng giá của đồng yên. Các nhà kinh tế cho rằng giảm giá đồng yên là   cách tốt nhất kéo nền kinh tế khỏi cuộc suy thoái. Chính phủ Nhật Bản đã hy vọng có   thể  giữ  được đồng yên  ở  mức 130 yên ăn 1 USD nhưng thực tế việc các công ty bắt   đầu phục hồi lại làm cho thị  trường chứng khoán sôi động trở  lại và các nhà đầu tư  quay trở lại Nhật. Những yếu tố này lại làm cho đồng yên tăng giá. Ông Tanigaki, Bộ  trưởng Tài chính vừa được Thủ  tướng Koizumi bổ  nhiệm vào tháng trước vẫn chưa   tiết lộ  quan điểm của mình về  hiện tượng đồng yên lên giá nhưng ông cũng đã nói  rằng ông sẽ  tiếp tục theo đuổi chính sách can thiệp của nhà nước giống như  người   tiền nhiệm của ông từng làm. Tuy nhiên quyết định này đi ngược lại với tuyên bố  tháng trước của nhóm G7 là để thị trường tự do điều chỉnh. Các động thái can thiệp thị  trường của Nhật trong thời gian qua: Giới   chuyên   gia   lo   ngại   hành   động   can   thiệp   này   có   thể   gây   ra   “hiệu   ứng   domino” về  tỷ  giá hối đoái trên toàn thế  giới. Trong ngày 15/9, sau khi Bộ  Tài chính  Nhật Bản công bố  chính sách can thiệp thị  trường ngoại hối, Ngân hàng Trung ương  Colombia đã tung tiền ra mua 20 triệu USD nhằm giảm bớt đà tăng giá của đồng peso,  còn Bộ  trưởng Tài chính Brazil Guido Mantega “đang theo dõi các diễn biến” và sẽ  không khoanh tay đứng nhìn nếu các nước khác cũng can thiệp nhằm giảm giá đồng   nội tệ. Tại Thái Lan, giới chủ  doanh nghiệp đang kêu gọi các nhà hoạch định chính  14
  15. sách tìm cách kiềm giá đồng baht để  tránh tác động tới lĩnh vực công nghiệp. Giới   chuyên gia lo ngại có thể xảy ra “hiệu  ứng domino” khi Thái Lan và các nước châu Á   khác “noi gương” Nhật Bản. Sự can thiệp của Tokyo vào thị trường ngoại hối không có gì là bất ngờ. Đồng   yên đã lên giá cao kỷ lục trong vòng 15 năm qua, đe dọa sự phục hồi của đất nước Mặt   trời mọc. Hơn nữa, giới chức Nhật Bản cũng đã nói tới khả năng can thiệp này từ  vài   tuần trước. Thời điểm Tokyo tiến hành can thiệp tiền tệ – ngay trước thềm cuộc họp   giữa Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Washington vào đầu   tháng 10 và Hội nghị  thượng đỉnh G­20 tại Hàn Quốc đầu tháng 11 – càng khiến cho   làn sóng phẫn nộ  gia tăng. Trước đây, khi thỏa thuận can thiệp tỷ  giá, nhóm G7 đã   quyết định  trên cơ  sở đồng thuận và phản đối các hành động đơn phương (như  hành   động vừa qua của Nhật Bản) vì lo ngại việc này có thể dẫn tới một cuộc chạy đua phá  giá các đồng nội tệ. Tuy nhiên, theo ông Desmond Lachman ­ thành viên Viện Doanh   nghiệp Mỹ tại Washington, giới chức Nhật Bản có lý khi lo ngại về mức giá quá cao   của đồng yên vốn nổi tiếng là “thiên đường an toàn”. Theo ông, đồng yên tăng giá một   phần do các nhà đầu tư toàn cầu hùn vốn vào ngoại tệ này khi lãi suất ở Mỹ quá thấp  và trước nguy cơ Mỹ và châu Âu có thể  nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ, một khi   đà phục hồi kinh tế bị chững lại Mới đây, Thượng viện Nhật Bản đã thông qua một gói kích thích kinh tế trị giá   62 tỷ USD với nỗ lực đẩy nhanh tốc độ  tăng trưởng kinh tế chậm chạp của quốc gia   này và cải thiện tình trạng xuất khẩu yếu kém. Khoảng 3100 tỷ yên sẽ được cấp cho  các nền KT khu vực và doanh nghiệp nhỏ. Gói cứu trợ  cũng dành 1 phần tiền để  chi   cho việc tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên liệu kim loại hiếm sử dụng trong sản xuất   ôtô và máy tính sau khi Nhật tuyên bố  Trung Quốc đã ngừng chuyển hàng vì tranh cãi  lãnh thổ. Gói kích cầu này  ước tính sẽ  giúp nền tổng sản lượng KT Nhật tăng thêm   0,6% và tạo thêm 450.000­500.000 việc làm theo tuyên bố của Bộ tài chính. Bộ trưởng tài chính Mỹ Timothy F.Geithner cũng nhận định rằng Nhật không hề  gây căng thẳng tiền tệ thế giới khi tiến hành can thiệp nhằm ghìm giá đồng yên. Nhật hiện đang vật lộn với tình trạng đồng Yên giá trị  cao, nguyên nhân khiến  xuất khẩu đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài. Những số liệu đưa ra gần   đây cho thấy tăng trưởng xuất khẩu sụt giảm trong 8 tháng liên tiếp. Theo các nhà phân   tích, xuất khẩu yếu kém hơn có thể  khiến nhu cầu tiêu dùng tiếp tục giảm. “Tăng  trưởng xuất khẩu yếu kém có thể   ảnh hưởng xấu tới lợi nhuận doanh nghiệp, kéo  theo giảm bớt thu nhập hộ gia đình và giảm nhu cầu tiêu dùng” ­ ông Matsumoto cho  biết. Do đó, BOJ sẽ  tiếp tục can thiệp để  làm yếu đồng yên. Cụ  thể: BOJ không rút   tiền ra khỏi hệ  thống ngân hàng trong nước. Theo đó, lượng tiền gửi của các ngân  hàng thương mại tại ngân hàng này lên mức cao nhất trong tháng 9/2010 sau lần đầu   can thiệp vào thị trường ngoại hối của BOJ từ năm 2004. Ngân hàng Trung ương Nhật  15
  16. công bố  lượng tiền gửi tăng thêm 2 nghìn tỷ  yên tương đương 23,4 tỷ  USD lên mức   17,1 nghìn tỷ  yên. Ông Junko Nishioka, chuyên gia kinh tế  trưởng tại công ty chứng  khoán thuộc Ngân hàng Hoàng gia Scotland (RBS), tính toán rằng chính phủ  Nhật vào   ngày 15/09/2010 nhiều khả  năng đã bán ra tới 1,8 nghìn tỷ  yên để  làm yếu đồng yên  sau khi đồng tiền này lên mức cao nhất trong 15 năm so với đồng USD. Ông cũng dự  báo khả năng BOJ tiếp tục can thiệp để làm yếu đồng yên rất lớn. BOJ đã bán ra đồng   yên sau khi đồng tiền này lên mức 82,88 yên/USD, mức cao nhất từ  tháng 5/1995. Lo  lắng về  khả  năng tăng giá, BOJ tiếp tục can thiệp đã giúp đồng yên rơi xuống mức  85,93 yên/USD. Thành viên thuộc ban đứng đầu BOJ cho biết ngân hàng này có thể sẽ  sử dụng biện tháp can thiệp để cung cấp thêm thanh khoản. Bên cạnh đó, đứng trước mối lo lắng về  những tác động của một đồng Yên  mạnh tới nền kinh tế, BOJ đã quyết định cắt giảm lãi suất xuống gần 0% so với mức   0,1% trước đó và cam kết duy trì chính sách “nới lỏng tiền tệ toàn diện” cho tới khi giá   cả  bình ổn. Đây là lần đầu tiên BOJ hạ  lãi suất cơ  bản đồng Yên về  0% kể  từ  tháng   7/2006. Ngoài việc cắt giảm lãi suất , BOJ cho biết sẽ thành lập một quỹ trị giá 35.000   tỷ  Yên (419 tỷ  USD) để  mua lại các tài sản khác nhau, bao gồm trái phiếu chính phủ  Nhật Bản, nợ của các công ty, các quỹ giao dịch ngoại h ối và bất động sản đầu tư ủy  thác của Nhật Bản. Khoản tiền này cũng sẽ  được sử  dụng để  thực hiện hoạt động  cung cấp vốn với lãi suất cố  định. Tuy nhiên, thời hạn và chi tiết của quỹ  này vẫn  chưa  được  xác  định.  Chương trình  này  tương  đồng với  chính  sách “nới  lỏng  định   lượng” được áp dụng tại Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu.  Có ít cơ  hội cho một sự  giảm lãi suất hơn nữa trong ngắn hạn, vì vậy BOJ   thông báo “sẽ khuyến khích hạ  lãi suất trong dài hạn cũng như  các loại phí bảo hiểm  rủi ro nhằm củng cố chính sách tiền tệ”. Đây là một “nỗ lực phi thường” của BOJ để  thúc đẩy hạ thấp các phí bảo hiểm rủi ro.  BOJ cũng cho rằng trong khi nền kinh tế Nhật Bản đang cho thấy những dấu  hiệu của một sự hồi phục, tốc độ phục hồi đang yếu dần, “một phần do sự chậm lại  của các nền kinh tế nước ngoài và tác động của đồng Yên tới tâm lý kinh doanh”.  Tỷ lệ tăng trưởng chắc chắn sẽ chậm hơn dự báo triển vọng vào tháng 7. Động   thái của BOJ được coi là “quyết liệt hơn kỳ vọng, nhưng không có sức tác động lớn tới  thị trường”, các nhà phân tích của Action Economics cho biết.  Sau thông báo, đồng USD tăng lên mức 83,9 Yên/USD trong khi trái phiếu 10   năm của chính phủ Nhật Bản tăng nhẹ. Dự báo đồng Yên sẽ hạ nhiệt, nhưng chỉ trong   ngắn hạn do có những thông tin về việc FED sẽ thực hiện nới lỏng chính sách trong   thời gian tới đây.  16
  17. 2.6. Liên minh Châu Âu EU 2.6.1. Khái quát Liên minh châu Âu (EU) là một liên minh kinh tế chính trị  bao gồm 27 quốc gia  thành viên chủ  yếu thuộc châu Âu. EU được thành lập bởi Hiệp  ước Maastricht vào  ngày   1   tháng   11   năm   1993   dựa   trên   Cộng   đồng   châu   Âu   (EC). Với   hơn   500   triệu  dân, EU chiếm 30% (18,4 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP danh nghĩa và khoảng 22% (15,2  tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP sức mua tương đương của thế giới.  EU đã phát triển một thị  trường chung bằng một hệ  thống luật tiêu chuẩn áp  dụng cho tất cả các nước thành viên nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của người dân,  hàng   hóa,   dịch   vụ   và   vốn. EU   duy   trì   các   chính   sách   chung   về thương   mại,  nông  nghiệp, ngư  nghiệp và phát triển địa phương. 16 nước thành viên đã chấp nhận đồng  tiền chung, đồng Euro, tạo nên khu vực đồng Euro. EU đã phát triển một vai trò nhất  định   trong   chính   sách   đối   ngoại,   có   đại   diện   trong Tổ   chức   Thương   mại   Thế  giới, G8, G­20 và Liên hiệp quốc. 2.6.2. Cơ chế hoạt động Là một tổ chức quốc tế, EU hoạt động thông qua một hệ thống  siêu quốc gia và  liên chính phủ hỗn hợp. Trong những lĩnh vực nào đó, quyết định được đưa ra thông  qua thỏa thuận giữa các nước thành viên; trong khi  ở  những lĩnh vực khác, những cơ  quan siêu quốc gia độc lập chịu trách nhiệm thực hiện mà không cần có một sự nhất trí   giữa các nước thành viên. Những cơ quan quan trọng của EU bao gồm  Ủy ban châu Âu,  Hội đồng Liên minh châu  Âu,  Tòa án Tư  pháp châu Âu,  Nghị  viện châu Âu  và  Ngân  hàng Trung ương châu Âu.  Ngân hàng Trung  ương Châu Âu (ECB): là một trong những ngân hàng quan  trọng nhất trên thế giới, chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của các quốc gia trong   khu vực đồng Euro. Tổ  chức của ngân hàng Trung  ương châu Âu ECB theo mô hình  của Ngân hàng Trung ương Đức. 2.6.3. EU và chiến tranh tiền tệ 2.6.3.1. Khủng hoảng nợ ở Châu Âu Nợ  công là sự  mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia: nguồn thu ngân  sách không đáp  ứng được nhu cầu chi phát sinh quá nhiều; do đó chính phủ  thông qua   nhiều hình thức như  phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… nhằm huy   động tiền vay để  trang trải cho các khoản chi khổng lồ, từ đó dẫn đến tình trạng nợ.  Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm thì "lãi mẹ đẻ  lãi con" và ngày càng chồng chất thêm. 17
  18. Mặc dù cả thế giới đang đối mặt với nợ nần nhưng có lẽ không nơi nào rơi vào   khủng hoảng nợ nghiêm trọng như ở Châu Âu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ. Ở  mỗi nước và tùy từng thời kỳ lại có những nguyên nhân khác nhau, song tình trạng nợ  công hiện nay ở nhiều nước đều có chung một số nguyên nhân cơ bản. a. Nguyên nhân: Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ  ngân sách nhà nước như  lương và chi phí hoạt   động của bộ  máy nhà nước  ở  các cấp có xu hướng ngày càng phình to, các chương  trình kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển cơ  sở hạ  tầng không ngừng tăng …, đặc biệt, hậu quả  to lớn của cuộc khủng hoảng tài   chính­kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục. Sự  kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ  của Nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm   chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu,   cùng với tệ  tham nhũng phát triển  ở  nhiều nước, cũng trở  thành nguyên nhân không  kém phần quan trọng. b. Diễn biến: Thế giới bắt đầu chấn động với khủng hoảng nợ ở Châu Âu khi chính phủ của   Hy Lạp công bố mức thâm hụt ngân sách 12,7% GDP, gấp đôi so với ước tính thâm hụt  ngân sách 2009 và gấp 4 lần mức cho phép của khối Eurozone vào ngày 5/11/2009.   Tổng số nợ công của Hy Lạp lên đến 300 tỷ  Euro chiếm 124% GDP năm 2009. Mức  độ tín nhiệm tài chính của nước này đã bị  tụt xuống hạng BBB­, điều này đồng nghĩa  với khả  năng đi vay tiền từ  bên ngoài trở  nên khó khăn. Trong khi đó, đến cuối năm  2010, Hy Lạp cần có tiền để trả nợ và nếu không trả được, Hy Lạp sẽ trở thành quốc   gia đầu tiên trên thế giới bị vỡ nợ. Theo quy định, tỷ lệ nợ công tối đa đối với một quốc gia thành viên của khối sử  dụng đồng euro là 60% GDP trong khi thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt  quá 3%. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ có 2 trong số 16 quốc gia thuộc khu vực đồng tiền  chung đáp ứng đầy đủ những tiêu chí này là Phần Lan và Luxembourg.  Một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Iceland, Ireland cũng đang lâm tình   cảnh nợ  lần bi đát. Các nước này đều có tỷ  lệ  nợ  gần ngang, thậm chí còn lớn hơn  GDP và thâm hụt ngân sách vượt xa mức quy định ­3% của EU, trong khi triển vọng   tăng trưởng kinh tế  là rất  ảm đạm. Trường hợp Tây Ban Nha rất đáng lo ngại và đã   được nhiều chuyên gia cảnh báo là "con bài domino” lớn kế tiếp Hy Lạp bởi ngân sách  bị  thâm hụt ngang mức 11,4% GDP, tổng nợ  công và tư  tương đương 300% GDP ­   những con số này trầm trọng hơn của Hy Lạp rất nhiều. Trong khi đó, thất nghiệp của   Tây Ban Nha cũng rất cao, tới 20% (4,5 triệu người) và nhất là hệ thống ngân hàng thì  quá mong manh… 18
  19. Italy bị  xem là một “chúa chổm” nữa  ở  châu Âu, với khoản nợ  trên 2.000 tỷ  USD. Tuy nhiên, nước này được đánh giá cao hơn Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vì nền  kinh tế  được dự  báo tăng trưởng 0,9% trong năm nay và 1% trong năm tới. Ngoài ra,   thâm hụt ngân sách của Italy cũng không quá cao, và được dự  báo vào khoảng 5,4%  trong năm nay.  Chính sự vượt rào “tập thể” này là một nguyên nhân quan trọng khiến châu Âu  rơi vào cuộc khủng hoảng nợ hiện nay. 2.6.3.2. Nợ công châu Âu và vấn đề tỷ giá Khi khu vực đồng euro lâm vào khó khăn do sự lây lan của “virus” nợ Hy Lạp,  euro ngày càng mất giá và ghi vào lịch sử  mức giảm tệ  hại nhất trong bốn năm vào  ngày 17/5 vừa qua (1euro quy đổi 1,2144 USD). Lý giải cho sự trượt dốc không phanh   này, một số  nhà phân tích tài chính cho rằng, nhà đầu tư  vẫn hoài nghi về  mức độ  thành công của giải pháp ngăn ngừa cuộc khủng hoảng nợ  lan rộng ra khu vực đồng  tiền chung này. Tuy nhiên nhiều chuyên gia cho rằng nguyên nhân sâu xa chính là sự  chênh lệch trình độ phát triển của các nước trong khối EU. Hiện Hy Lạp, Bồ Đào Nha,   Tây Ban Nha, Ireland, Italy bắt đầu rớt lại phía sau. Tuy nhiên, nếu Đức và Pháp không  dừng lại cõng những "chúa chổm" bị  rớt lại này thì đồng euro sẽ  sụp đổ. Còn nếu   dừng lại thì khu vực các nước sử  dụng đồng euro sẽ  bị  trì trệ  bởi chính những quốc  gia này. Tuy nhiên đồng Euro giảm giá dường như là ánh sáng hy vọng cho liên minh EU.   Khi bong bóng nợ  của nền kinh tế  ngày càng căng phồng thì một dấu hiệu gần đây   nhất cho thấy Mỹ đang bắt tay với châu Âu, dùng chính sách phi lãi suất để ngăn chặn   lạm phát. Tại châu Âu, vấn đề  nợ  của Hy Lạp cũng như  của Bồ  Đào Nha, Tây Ban  Nha đang trở thành một vấn đề nóng bỏng không phải vì cuộc khủng hoảng nợ nghiêm  trọng, mà còn là do Mỹ, Âu muốn nhân việc này để đạt được mục đích “áp chế đồng  EUR, lôi kéo đồng USD” một cách “có kiểm soát” bởi giá hàng hóa quốc tế  thường   dùng đồng USD để trao đổi thanh toán, đồng USD tăng giá có thể khống chế giá hàng   hóa tăng một cách hiệu quả, còn đồng EUR mất giá lại có thể nâng cao sức cạnh tranh   hàng hóa xuất khẩu của các quốc gia khu vực đồng tiền chung châu Âu Eurozone. Hay   nói cách khác, Đức, Pháp, ECB và Quỹ  tiền tệ  quốc tế  IMF có những hành động hy   vọng đồng EUR mất giá, đồng USD tăng giá, nhưng lại không mong muốn thị  trường  biểu hiện thái quá bởi không muốn các nhà đầu tư  mất đi lòng tin vào Châu Âu cũng   như đồng tiền chung Euro.  Trong khi đó, Công ty Chứng khoán Evolution Securities tại London vừa qua đã  lên tiếng cảnh báo, hệ thống ngân hàng châu Âu có thể rơi vào tình trạng phá sản nếu   đồng EUR bị  phá giá so với 16 đồng tiền khác. Ông Arturo de Frías, người đứng đầu  bộ phận nghiên cứu ngân hàng tại Evolution cho rằng: “Nếu đồng EUR suy yếu mạnh,  chúng ta sẽ thấy các đồng tiền như lira, peseta, escudo, drachma… quay trở lại”. Theo   19
  20. ông, đồng EUR bị phá giá đồng nghĩa với việc toàn bộ hệ thống ngân hàng châu Âu sẽ  bị phá sản. Trong bối cảnh u ám về tương lai đồng Euro dù EU liên tiếp có những động thái  nhằm thúc đẩy đồng tiền này thì đầu tháng 12/2010, đồng euro có dấu hiệu hồi phục  sau những chuỗi ngày giảm giá trầm trọng. Cụ  thể: đồng euro tăng lên mức 1.3116   USD ngày 2/12/2010 mang theo hy vọng khủng hoảng nợ tại Châu Âu sẽ tìm thấy lối   thoát. Trước tín hiệu khả  quan này, một quan chức kinh tế  Mỹ phát biểu với Reuters  cho biết chính phủ  Mỹ  đã sẵn sàng hỗ  trợ  châu Âu mở  rộng Kênh bình  ổn tài chính  châu Âu (EFSF) thông qua cam kết yêu cầu IMF bơm thêm tiền. Thị  trường kỳ  vọng  các nhà hoạch định chính sách Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ có những bước tiến   mới trong nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của cuộc khủng hoảng nợ trong khu vực. 2.6.3.3. Động thái của ECB và liên minh Châu Âu ­ ECB duy trì lãi suất 1%/ tháng thứ 20 liên tiếp. Mới đây, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) quyết định duy trì lãi suất thấp   kỷ lục 1%. Lãi suất này có thể sẽ duy trì đến hết quý 4/2010. ­ ECB không giới hạn thanh khoản, mua thêm trái phiếu           Ngày 2­12, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB)  tiếp tục cung cấp các nguồn   thanh khoản không giới hạn dưới hình thức các khoản vay. ­  Kết thúc cuộc họp ngày 16/11, tại Brussels, Bỉ, các bộ  trưởng tài chính của  Liên minh châu Âu (EU) đã nhất trí kế  hoạch thành lập ba cơ  quan mới vào tháng  1/2011 để  giám sát các ngân hàng, các hãng bảo hiểm và các thị  trường nhằm điều  chỉnh những sai lầm gây ra cuộc khủng hoảng tài chính. ­  EU sẽ thành lập một cơ quan mới trực thuộc ECB để  đánh giá những rủi ro  mang tính hệ thống đối với châu Âu nhằm phát hiện những nguy cơ nghiêm trọng hơn   từ việc chuyển sang giai đoạn bất ổn tiếp theo với tình trạng bong bóng trên thị trường  bất động sản. ­ Châu Âu cuối cùng cũng đã chính thức thống nhất về cơ chế mới ngăn khủng   hoảng. Cơ chế mới sẽ chính thức được áp dụng từ năm 2013. Chính phủ Đức và Pháp   đã đạt thỏa thuận về  cơ  chế  ngăn khủng hoảng tương lai trong khu vực đồng tiền   chung châu Âu. Chương trình này sẽ  chính thức được áp dụng vào năm 2013. Chi tiết   chính của thỏa thuận mới sẽ sớm được công bố sau khi EU và IMF thông qua gói giải   cứu tài chính dành cho Ireland và gia hạn thời gian trả nợ cho Hy Lạp. Các Bộ trưởng Tài chính châu Âu phát đi tín hiệu cho thấy họ sẽ bàn đến nhiều   biện pháp quy mô lớn hơn để  bình ổn khu vực đồng tiền chung châu Âu, thay cho cơ  chế tạm thời được đưa ra vào tháng 5/2010. Kênh bình ổn tài chính châu Âu, được đưa   ra vào tháng 5/2010 để hỗ trợ cho các nước khu vực đồng tiền chung châu Âu để  giải  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0