intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ bán lẻ và đánh giá tác động của những cam kết này với dịch vụ bán lẻ ở Việt Nam như thế nào

Chia sẻ: Dang Thi Nhung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

159
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa tất cả các phân ngành dịch vụ phân phối theo phân loại của WTO trong đó có dịch vụ bán lẻ vì vậy ngành phân phối bán lẻ của Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa thị trường trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung đề tài: "Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ bán lẻ và đánh giá tác động của những cam kết này với dịch vụ bán lẻ ở Việt Nam như thế nào". Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ bán lẻ và đánh giá tác động của những cam kết này với dịch vụ bán lẻ ở Việt Nam như thế nào

  1. Đề tài: Phân tích cam kết của VN với WTO về dịch vụ bán lẻ và đánh giá tác động  của những cam kết này với dịch vụ bán lẻ ở VN như thế nào. Chương 1: Phân tích cam kết của VN với WTO về dịch vụ bán lẻ. 1.1. Nội dung cam kết của Việt Nam đối với ngành dịch vụ bán lẻ khi gia  nhập WTO: Theo phân ngành dịch vụ của WTO, dịch vụ bán lẻ là một trong 5 tiểu ngành của dịch vụ phân phối bao gồm: 1) Dịch vụ đại lý hoa hồng; 2) Dịch vụ bán buôn; 3) Dịch vụ bán lẻ; 4) Cấp phép; 5) Các dịch vụ khác Bán lẻ là hoạt động có nghiệp vụ chủ yếu là bán hàng hóa cùng các dịch vụ kèm  theo cho người tiêu dùng cuối cùng, đó là tiêu dùng cá nhân và gia đình, tiêu dùng  không mang tính kinh doanh. Cơ  sở bán lẻ  là các hình thức tổ  chức kinh doanh dịch vụ bán lẻ  cố  định, với các  loại hình doanh nghiệp thương mại bán lẻ hoặc điểm bán lẻ. Các loại hình cơ sở  bán lẻ chủ yếu gồm: Trung tâm mua sắm, đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng bách hóa,   cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng đồ  hiệu, cửa hàng giá rẻ,   cửa hàng tạp hóa, chợ, trung tâm phân phối, trung tâm tiêu thụ của nhà sản xuất… Có hai loại nhà bán lẻ chính là các nhà bán lẻ qua chợ, cửa hàng và các nhà bán lẻ  không qua cửa hàng.  Gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa tất cả các pân ngành dịch vụ phân phối  theo phân loại của WTO, trong đó có dịch vụ  bán lẻ  (bao gồm cả  hoạt động bán  hàng đa cấp) vì vậy ngành phân phối bán lẻ của Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động   từ quá trình mở cửa thị trường trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO. Nội dung cam kết của Việt Nam đối với ngành dịch vụ bán lẻ khi gia nhập WTO:        1.1.1.  Các mặt hàng nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam:     Theo nội dung cam kết, nhà phân phối nước ngoài chịu hạn chế về diện mặt hàng  được phép phân phối tại Việt Nam. Hạn chế này có thể được chia thành 2 danh mục:  danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài và danh mục các mặt hàng hạn chế có lộ trình. Danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài Là danh mục được quy định tại mục “các biện pháp áp dụng cho toàn bộ phân  ngành trong dịch vụ phân phối”, bao gồm thuốc lá và xì gà, báo và tạp chí, vật phẩm đã  ghi hình, kim loại quý và đá quý, dược phẩm, thuốc nổ và dầu đã qua chế biến, gạo,  1
  2. đường mía và đường củ cải. Đây là các mặt hàng nhạy cảm mà Chính phủ Việt Nam  chưa có ý định cho nước ngoài tham gia phân phối tại Việt Nam. Việt Nam mở cửa các  dịch vụ phân phối cho tất cả các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các  mặt hàng sau đây:  ­ Thuốc lá và xì gà;  ­ Sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình;  ­ Kim loại quý và đá quý;  ­ Dược phẩm;  ­ Thuốc nổ;  ­ Dầu thô và dầu đã qua chế biến;  ­ Gạo, đường mía và đường củ cải.  Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho các  doanh nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài  (được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ không được quyền phân  phối các sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã phân loại HS của biểu thuế quan)  của các mặt hàng này được quy định tại Quyết định 10/2007/QĐ­BTM của Bộ  Thương mại. Các nhà phân phối nước ngoài không được phép làm đại lý hoa hồng,  bán buôn, bán lẻ và nhượng quyền đối với tất cả các mặt hàng thuộc danh mục này.  Ngoài ra, họ không được bán các mặt hàng này thông qua các cơ sở đã thiết lập tại  Việt Nam như liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và không được  phép bán các mặt hàng này qua mạng. Danh mục các mặt hàng hạn chế có lộ trình  Gồm các mặt hàng được quy định tại cột hạn chế về tiếp cận thị trường mà nhà  phân phối nước ngoài, cụ thể là doanh nghiệp có  vốn đầu tư nước ngoài, không được  phép phân phối tại Việt Nam trong một khoảng thời gian nhất định kể từ khi Việt  Nam gia nhập WTO. Danh mục này bao gồm xi măng và clinke, lốp (trừ lốp máy bay),  giấy, máy kéo, phương tiện cơ giới, ôtô con và xe máy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn,  rượu và phân bón. Theo như cam kết trong dịch vụ phân phối, đến năm 2010, danh  mục này sẽ được bãi bỏ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phép  phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu vào Việt Nam  (ngoại trừ các mặt hàng thuộc danh mục hạn chế lâu dài). Một điểm cần lưu ý là danh  mục này không ápdụng đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại. Điều này có nghĩa  là nhà phân phối nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ nhượng quyền cho tất cả  các mặt hàng thuộc danh mục hạn chế có lộ trình. 2
  3. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ  được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo,  phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy.  Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân  phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào  Việt Nam.  1.1.2. Phân phối qua mạng hoặc dưới các hình thức thương mại điện tử  khác:  Khi gia nhập vào WTO, ta cũng cam kết cho phép bán hàng qua mạng từ nước  ngoài vào Việt Nam – 1 hình thức cung cấp hàng qua biên giới. Phương thức này có  thể thực hiện dưới dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy  nhiên, với phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài  được bán các loại hàng hóa sau: ­ Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân. ­ Các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc   vì mục đích thương mại. ­ Đối với các sản phẩm khác, việc bán hàng qua mạng phải tuân thủ các quy định   hiện hành của pháp luật Việt Nam. Phân phối qua mạng hoặc các hình thức thương mại điện tử  khác được coi là  cung cấp dịch vụ qua biên giới nếu bên cung cấp dịch vụ và bên nhận dịch vụ không ở  cùng một quốc gia. Cam kết chỉ áp dụng đối với việc nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bán hàng từ  nước ngoài vào Việt Nam thông qua mạng Internet hoặc các hình thức thương mại   điện tử  khác. Trong trường hợp này, nhà cung cấp dịch vụ  nước ngoài vẫn  ở  nước   ngoài, không di chuyển vào Việt Nam để  thành lập hiện diện thương mại như  chi   nhánh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.1.3. Góp vốn trong liên doanh và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước  ngoài Việt Nam cam kết cho phép các nhà đầu tư  nước ngoài được thực hiện hoạt   động phân phối tại Việt Nam dưới các hình thức sau: 3
  4. ­ Lập liên doanh với đối tác Việt Nam với điều kiện phần vốn nước ngoài trong  liên doanh không vượt quá 49% (từ  ngày 1/1/2008 sẽ  không hạn chế vốn nước  ngoài trong liên doanh). ­ Lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (với điều kiện là phải lập sau ngày  1/1/2009). Một hạn chế chung trong hoạt động của các hình thức hiện diện thương mại này  là họ  chỉ  được phép cung cấp dịch vụ  bán lẻ  thông qua việc lập cơ  sở  bán lẻ  (cửa   hàng, siêu thị ..). Tuy nhiên các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài chỉ  được tự  động mở một địa điểm bán lẻ, việc thành lập các cơ  sở  bán lẻ  (ngoài cơ  sở  thứ nhất) phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Việc lập cơ sở bán buôn không  phải chịu hạn chế này. Trong một số cam kết dịch vụ, Việt Nam cho phép “ thành lập liên doanh không  hạn chế tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài” theo lộ trình (kết thúc lộ trình vẫn chỉ cho  phép thành lập liên doanh với một tỉ lệ vốn tối đa của nhà đầu tư  nước ngoài). Cam  kết này được hiểu là Việt Nam cho phép thành lập liên doanh với tỉ  lệ  vốn đầu tư  nước ngoài trong liên doanh có thể lên đến 99,99%. Tuy nhiên cho phép thành lập liên  doanh không hạn chế vốn không đồng nghĩa với việc cho phép thành lập doanh nghiệp  100% vốn nước ngoài. 1.1.4. Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT):  Theo cam kết, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ được thành lập một cơ sở bán  lẻ tại Việt Nam. Để thành lập cơ sở bán lẻ từ thứ hai trở đi (ngoài cơ sở thứ nhất), họ  phải xin phép cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền  sẽ căn cứ vào một số tiêu chí như số lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện  tại một khu vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý để quyết định có  cho phép mở thêm điểm bán lẻ hay không. Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,  công ty liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài và công ty có vốn góp của nước  ngoài dưới hình thức mua cổ phần. Do vậy, nếu doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam  hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, họ có thể  bị coi là nhà cung cấp dịch vụ có yếu tố nước ngoài và phải chịu hạn chế về kiểm tra  nhu cầu kinh tế (ENT) dù trước khi bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, doanh  nghiệp không bị ràng buộc bởi hạn chế này. 1.1.5. Dịch vụ nhượng quyền thương mại: 4
  5. Theo nội dung cam kết, ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhà cung cấp dịch  vụ nước ngoài sẽ được phép thành lập liên doanh với tỷ lệ góp vốn của nước ngoài  không vượt quá 49%. Đến 01/01/2008, họ được phép góp vốn vào công ty liên doanh  với tỷ lệ bất kỳ và tới 01/01/2009 sẽ được quyền thành lập doanh nghiệp 100% vốn  nước ngoài để hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Điểm đáng lưu ý  là các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài còn được phép thành lập chi nhánh để cung  cấp dịch vụ nhượng quyền thương mại từ ngày 1/1/2010 với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. Danh mục  các mặt hàng hạn chế tạm thời không áp dụng đối với lĩnh vực nhượng quyền thương  mại. Danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài vẫn được áp dụng 1.2. Đánh giá nội dung cam kết:  Tiến sĩ Đinh Thị Mỹ Loan, Phó Chủ tịch Thường trực, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà   bán lẻ Việt Nam khẳng định bán lẻ  là kênh tiêu dùng ngày càng quan trọng, tuy nhiên  hiện mới chỉ chiếm 22% trên cả nước, so với các quốc gia khác Việt Nam vẫn ở mức   độ  thấp, (Thái Lan 34%, Trung Quốc 51%...). Tiến sĩ Loan đánh giá việc mở  cửa thị  trường đòi hỏi sự cạnh tranh bình đẳng và phát triển bền vững, cần có chiến lược dài   hạn cho ngành phân phối ­ bán lẻ  từ  phía Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp; tạo   điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển hệ thống phân phối ­ bán   lẻ, v.v ... Theo đánh giá chung của ngành chức năng, sau hơn ba năm gia nhập WTO và  hơn một năm mở  cửa cho các doanh nghiệp bán lẻ  100% vốn nước ngoài được phép   đầu tư  vào Việt Nam, vẫn chưa xuất hiện làn sóng đầu tư  mạnh từ  phía nhà đầu tư  nước ngoài như dự đoán trước đó. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một thị  trường bán lẻ  hấp dẫn với dân số 84 triệu người, cơ cấu dân số  trẻ  và có sức mua ngày càng tăng.  Tổng mức bán lẻ  hàng hóa và doanh thu dịch vụ  năm 2009 theo giá thực tế  đạt gần  1.200 nghìn tỷ  đồng; đã thu hút nhiều tập đoàn phân phối, bán lẻ  lớn như  Big C,   Metro, Parkson, Lotte, v.v.. Cam kết của Việt Nam với WTO về dich vụ phân phối là phù hợp với sự  phát   triển của ngành phân phối nói riêng và cả nền kinh tế nói chung thậm chí còn chặt chẽ  hơn thực tiễn mở cửa ngành dịch vụ này trong nước Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh  vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ  nói riêng. Tuy là một thị  trường quy mô  nhỏ nhưng lại có tốc độ phát triển nhanh, tiềm năng lớn, chính trị ổn định, cơ cấu dân  số  trẻ, Việt Nam có sức hấp dẫn mạnh mẽ  đối với các nhà đầu tư  trong nước và  5
  6. nước ngoài. Đến hết năm 2009, Việt Nam có 446 siêu thị (tăng 62 siêu thị  so với năm   2008) trong đó doanh nghiệp FDI có 21 siêu thị, doanh nghiệp trong nước có 425 siêu  thị  (Doanh thu FDI bán lẻ  chỉ  chiếm 4­5% doanh thu bản lẻ  toàn quốc). Nhiều tập   đoàn bán lẻ  hàng đầu của nước ngoài như  Metro Cash & Carry (Đức), Big C của   Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc),  Lotte (Hàn Quốc)... đã có mặt ở nước ta. Mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ  của Việt Nam liên tục tăng cao qua các thời kỳ: 1996­2000: 10,75%/năm, 2001­2005:  18,3%, 2006­2008: 25%. Tổng mức bán lẻ  hàng hóa và doanh thu dịch vụ  xã hội 6   tháng đầu năm 2010 đạt 747,4 nghìn tỷ  đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ  năm 2009.   Đồng thời, Việt Nam liên tục được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh  bán lẻ (GRDI). Theo A.T. Kearney (hãng tư vấn Mỹ), năm 2007 Việt Nam xếp thứ 4/7   nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, năm 2008 vượt lên đứng đầu. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường phân phối, chính phủ Việt Nam  đã sửa đổi và ban hành mới nhiều chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật  để điều chỉnh ngành dịch vụ phân phối, góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp   và cơ quan quản lý nhà nước thực hiện theo đúng cam kết gia nhập WTO. Việc rà soát   lại hệ  thống pháp luật về  dịch vụ  phân phối, đánh giá tác động của việc mở  cửa thị  trường dịch vụ phân phối của Việt Nam, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế  để đề ra những giải pháp cho quản lý nhà nước trong lĩnh vực phân phối của nước ta  đang trở thành một yêu cầu cấp thiết. Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư  nước ngoài đã  được cấp phép trước đó sẽ  tiếp tục được hoạt động với các điều kiện như  đã quy   định trong giấp phép. Tuy nhiên các doanh nghiệp thành lập sau khi Việt Nam gia nhập  WTO sẽ  phải tuân thủ  các cam kết trong WTO đối với dịch vụ  phân phối. Điều đó  cũng là 1 bước đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước trong quá trình hội nhập Cam kết mang tính bảo hộ thị trường phân phối trong nước: Việc han chế  các mặt hàng được phân phối nhằm bảo đảm an ninh quốc gia   cũng như an toàn trong nước. Nhưng việc hạn chế các mặt hàng như dược phẩm, dầu  thô, gạo cho thấy một phần bảo hộ  của nhà nước. Đấy là những nhóm ngành thiết  yếu của nền kinh tế, việc hạn chế phân phối như  trong cam kết bảo đảm việc nhà  nước quản lý và điều tiết được các mặt hàng này trên thị trường Xét trong ngắn hạn, việc hạn chế 1 số mặt hàng bao gồm các sản phẩm công  nghiệp, một phần nhằm tạo thời gian cho các doanh nghiệp trong nước có bước phát  triển, chuẩn bị đương đầu với các thách thức khi mở cửa toàn bộ thị trường. 6
  7. Việc thực hiện các quy định của ENT thực chất đã hạn chế một phần lớn việc   xâm nhập thị  trường của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài, Bở  việc thực hiện   đầy đủ các quy định của nhà nước để mở đại lý tiếp theo rất phức tạp, hơn nữa việc   có mở  hay không không phụ  thuộc vào cơ  chế  thị  trường, mà phụ  thuộc vào quyết   định của cơ quan chủ quản Hội nhập và phát triển thị trường bán lẻ hiện đại tuy được coi là xu thế tất yếu  trong nền kinh tế thị trường, nhưng  ở một góc nhìn khác, việc mở cửa thị trường bán  lẻ  cũng sẽ  tạo áp lực lớn đến các nhà sản xuất, đặc biệt là các nhà phân phối trong  nước. 7
  8. Chương 2: Đánh giá tác động của việc thực hiện cam kết với ngành dịch  vụ bán lẻ của nước ta. 2.1. Ngành dịch vụ bán lẻ của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO: 2.1.1 Thời kì trước khi gia nhập WTO:  Theo số  liệu của Bộ  Thương mại (nay là Bộ  Công Thương), trong giai đoạn  2001­2005 doanh thu bán lẻ  thị  trường Việt Nam tăng bình quân 18%/năm, cao gấp  khoảng 2 lần so với mức tăng trưởng bình quân GDP cùng kỳ. Tuy nhiên, hệ  thống  phân phối của ta vẫn chưa phất triển và còn thô sơ. Theo số  liệu thống kê tại thời   điểm cuối năm 2006 thì hàng hóa đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ  (khoảng 40%) và qua hệ  thống các cửa hàng bán lẻ  độc lập, cửa hàng truyền thống   (khoảng 44%), qua hệ  thống phân phối hiện đại(trung tâm thương mại, siêu thị, cửa  hàng tự  chọn..) mới chỉ  chiếm khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán  thẳng. Chúng ta có thể thấy sự yếu kém trong dịch vụ phân phối­ bán lẻ của Việt Nam   như sau: Chất lượng dịch vụ thấp hạn chế sức cạnh tranh Một số nghiên cứu đã chỉ  ra rằng chất lượng dịch vụ của Việt Nam còn thấp.   ́ ược canh tranh c Chiên l ̣ ủa các nhà cung cấp dịch vụ trong hầu hết các lĩnh vực dịch vụ  ̉ ́ ựa vao gia thay vi chât l chu yêu d ̀ ́ ̀ ́ ượng dich vu. Rào c ̣ ̣ ản chủ  yếu của việc cung cấp   dịch vụ chất lượng ở Việt Nam là sự hiểu biết hạn chế của khách hàng về các yếu tố  tạo thành chất lượng dịch vụ và lợi thế  cạnh tranh có được từ  việc mua các dịch vụ  chất lượng. Sự  hạn chế về tiêu thụ  hàng Việt Nam cũng do chất lượng dịch vụ  của   doanh nghiệp Việt Nam còn khá lạc hậu, thô sơ và yếu kém. Cũng tương tự  như  việc hình thành tác phong công nghiệp, trong lĩnh vực dịch  vụ  phân phối, Việt Nam còn điểm yếu  ở  thái độ  phục vụ, văn minh thương nghiệp.  Việc chuyển biến dần từ  hình thức phân phối truyền thống sang hiện đại không chỉ  gói gọn ở việc hình thành các cơ sở hạ tầng thương mại mà còn ở thái độ, tư duy của   người bán, người phục vụ, chính sách bán hàng, sự trung thực, uy tín trong mua bán… Chưa tạo đà cho khu vực sản xuất. ̣ Măc du khu v ̀ ực dich vu cua Viêt Nam đang tr ̣ ̣ ̉ ̣ ở  thanh môt đông l ̀ ̣ ̣ ực quan trong ̣   ̉ cua tăng tr ưởng kinh tê, ty trong cua khu v ́ ̉ ̣ ̉ ực dịch vụ  trong GDP vân khiêm tôn va ít ̃ ́ ̀   ̉ ̣ ̣ ̉ ̣ ̃ ực dich vu chiêm 38­39% GDP, thâp thay đôi trong gân môt thâp ky qua. Hiên nay, linh v ̀ ̣ ̣ ́ ́  8
  9. hơn ty trong khu v ̉ ̣ ực dich vu trong GDP cua nhiêu nên kinh tê đang chuyên đôi va cac ̣ ̣ ̉ ̀ ̀ ́ ̉ ̉ ̀ ́  nền kinh tê ́ ở  Đông Nam A (cu thê la Singapore, Phi­lip­pin, Thai Lan, Cam­pu­chia, ́ ̣ ̉ ̀ ́   Malaysia va In­đô­nê­xia). ̀ Trong khu vực dich vu, cac dich vu phuc vu nhu câu cuôi cung nh ̣ ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ̣ ̀ ́ ̀ ư dich vu phân ̣ ̣   ̣ ̣ ̉ ̣ phôi, khach san va nha hang, du lich chiêm ty trong l ́ ́ ̀ ̀ ̀ ́ ơn trong GDP va t ́ ̀ ổng lực lượng   ̣ lao đông. Ng ược lai, cac dich vu trung gian co gia tri gia tăng cao va đong vai tro quan ̣ ́ ̣ ̣ ́ ́ ̣ ̀ ́ ̀   ̣ ̣ ̉ ̣ ̉ ̀ ̣ ̀ trong trong viêc nâng cao kha năng canh tranh cua toan bô nên kinh tê ch ́ ưa được phat́  ̉ triên đung m ́ ưc va ch ́ ̀ ưa đap  ́ ứng được nhu câu cua nên kinh tê. H ̀ ̉ ̀ ́ ơn nữa, dịch vụ phân  phối mới tiếp cận theo hướng đáp  ứng nhu cầu thị  trường, chưa tạo đươc việc gợi  mở tiêu dùng cho khách hàng, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm thúc đẩy sản xuất. Tình hình trên đây cho thấy những yếu kém xét cả từ phía doanh nghiệp và Nhà  nước, từ  góc độ  chiến lược kinh doanh và môi trường kinh doanh. Đây là một trong   những dấu hiệu “cảnh báo”, nếu không có những giải pháp tăng cường hiệu quả hơn,   nền kinh tế  Việt Nam vẫn có nguy cơ  tiếp tục bị  tụt hậu xa hơn và  ảnh hưởng đến   phát triển bền vững trong dài hạn. 2.1.2 Thời kì sau khi gia nhập WTO:  Sau 6 năm Việt Nam chính thức gia nhập WTO đã đánh dấu một bước ngoặt   lớn trong nền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt trong ngành dịch vụ  bán lẻ. Kể  từ  khi   gia nhập WTO, ngành dịch vụ bán lẻ của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng đáng kể.  Phân phối­ bán lẻ đóng góp khoảng 14% GDP, sử dụng hơn 5 triệu lao động, cao nhất   trong các ngành dịch vụ. mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam từ  năm 2006­ 2008 đã tăng 25%/ năm, cao hơn mức 18,3%/ năm trong giai đoạn 2001­ 2005. Năm 2009 và 2010 là 2 năm khó khăn do các tác động của cuộc khủng khoảng tài  chính toàn cầu, suy thoái kinh tế thế giới, nhưng theo số liệu thống kê của Tổng cục  thống kê thì doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của Việt Nam tăng lần lượt   là 18,6% và 24,5%  (nếu loại trừ  yếu tố giá thì tăng 12% vào năm 2009 và 14% vào  năm 2010).  Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn trên Thế  giới, do Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh trong vòng nhiều năm qua,   dân số đông, trong đó một nửa dân số dưới 30 tuổi, chi tiêu của người tiêu dùng tăng   16% và doanh số  bán lẻ  tăng 20% trong giai đoạn 2004­ 2005. Doanh số  bán lẻ  thị  trường Việt Nam được các chuyên gia dự  đoán khoảng 20 tỷ  USD mỗi năm. Vì thế,   sau khi gia nhập WTO, nhiều tập đoàn bán lẻ  với quy mô hàng đầu Thế  giới đã đặt   9
  10. chân đến Việt Nam mang theo những thương hiệu nổi tiếng Thế  giới, tạo ra một   nguồn cung hàng hóa phong phú, đáp ứng tối đa nhu cầu mua sắm của người dân.  Tới cuối năm 2006, trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện nhiều tập đoàn phân   phối lớn của thế  giới như  Metro Cash and Carry (Đức) với 6 siêu thị  hoạt động tại   TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ; Big C có các siêu thị  đang hoạt   động   tại  TP.HCM,   Hà   Nội   và   Hải   Phòng.   Tập   đoàn  bán  lẻ   Parkson  (Malaysia)  ở  TP.HCM. Bên cạnh đó, tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập  doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Lotte (Hàn Quốc) cũng vào Việt Nam thông qua   hình thức liên doanh. Đặc biệt, theo như cam kết, năm 2009 Việt Nam bắt đầu mở cửa cho các doanh  nghiệp kinh doanh phân phối và bán lẻ  nước ngoài tự  do gia nhập thị  trưởng Việt   Nam. Đến thời điểm này, mặc dù đã có một số doanh nghiệp trong nước như Sài Gòn  Co­op mart, Metro, Phú Thái… đã có động thái tích cực phát triển kênh phân phối  nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, giành chỗ đứng trên thị trường. Thế nhưng khả  năng liên kết thấp, chưa mang tính chuyên nghiệp giữa các kênh phân phối trong nước  đang là một trở  ngại khiến doanh nghiệp khó có khả  năng cạnh tranh với hệ  thống   phân phối nước ngoài trong thời gian tới. 2.2 Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết khi gia nhập:      Hội nhập và mở cửa thị trường là một xu hướng tất yếu trong điều kiện hiện nay.   Mở cửa thị trường sẽ có những tác động tích cực và tác động tiêu cực đến hoạt động   thương mại. Mức độ tác động phụ thuộc vào mức độ mở cửa thị trường. Theo nguyên  tắc hoạt động của  WTO thì các nước  phát triển có mức độ  mở  cửa thị  trường cao   hơn và tốc độ  nhanh hơn, còn các nước đang và chậm  phát triển có mức độ mở  cửa  thị trường thấp hơn và tốc độ chậm hơn.    Về mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ ở Việt nam được đánh giá là phù hợp. Mở cửa   thị trường có các tác động tích cực và tiêu cực đến hệ thống bán lẻ của Việt nam. Các tác động tích cực. ­          Tạo ra một phong cách phục vụ văn minh hiện đại trong hệ  thống bán lẻ   Việt nam.     Khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hệ thống bán lẻ Việt nam, các doanh   nghiệp chỉ được phép mở một điển bán lẻ, còn từ điểm thứ 2 sẽ được xem xét trên cơ  sở kiểm tra nhu cầu kinh tế. Vì thế hầu hết các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư các   10
  11. siêu thị  lớn, đáp  ứng cho nhu cầu mua sắm có chất lượng cao của người tiêu dùng.   Đây là các siêu có quy mô lớn, mặt hàng đa dạng phong phú, áp dụng các phương tiện  và kỹ  thuật hiện đại trong cung cấp dịch vụ  bán lẻ, phong cách phục vụ  mới lạ, tạo   nên sự văn minh hiện đại trong phục vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú và ngày   càng nâng cao của người tiêu dùng. Qua khảo sát  siêu thị Big C  ở Hải phòng, Hà nội,  thành phố  Hồ  Chí Minh, Đồng nai, trong các ngày nghỉ, ngày tết, ngày lễ  đã thu hút  một lượng khách hàng lớn đến tham quan và mua sắm.  ­          Học tập được kinh nghiệm quản lý trong hệ thống bán lẻ hiện đại.    Các siêu thị  bán buôn, bán lẻ  của các doanh nghiệp nước ngoài  ở  Việt nam như  Metro, Big C, Parkson, Lotte là những siêu thị áp dụng các công nghệ quản lý và   kinh  doanh hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác và cung cấp nguồn hàng,    chương  trình   quảng   cáo   khuyến   mại,   hệ   thống   logicstics,   quản   trị   nhân   sự,   kỹ   thuật   bán   hàng…đây là các vấn đề  có tính then chốt trong hoạt động của siêu thị  mà các doanh   nghiệp Việt nam còn nhiều hạn chế. Giám đốc Big C Hải phòng cho rằng hệ  thống   Big C có phương pháp khai thác nguồn hàng và cung cấp hàng hóa    cũng như  các  chương trình khuyến mại, bán hàng rất linh hoạt, hiệu quả,  tạo ra các mặt hàng, các  dịch vụ  khách hàng rất độc đáo với chi phí thấp và cạnh tranh có tác dụng thu hút  khách hàng, tăng doanh số bán hàng và rất đáng để các siêu thị khác học tập ­          Tạo động lực nâng cao khả năng cạnh tranh cho các nhà bán lẻ Việt nam     Trong hoạt động   kinh doanh nói chung và trong dịch vụ  bán lẻ  nói riêng để   phát  triển phải tạo động lực cạnh tranh và cạnh tranh công bằng. Các siêu thị  nước ngoài  với các  ưu điểm có tính nổi trội là đối thủ  cạnh tranh trực tiếp của các siêu thị, các   chuỗi cửa hàng tiện ích của các doanh nghiệp Việt nam. Để tồn tại, các doanh nghiệp  buộc phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh , đây là động lực để  các   doanh nghiệp  phát triển  ­          Làm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ trên thị trường  Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đáp   ứng nhu cầu bậc cao của thị  trường. Các doanh nghiệp Việt nam chủ  yếu cung cấp  các hình thức bán lẻ  truyền thống, các chuỗi cửa hàng tiện ích, các siêu thị  có chất   lượng dịch vụ bậc trung. Sự có mặt của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đã làm đa  dạng hoá, tạo nên một chuỗi các sản phẩm dịch vụ phủ đầy các phân khúc thị  trường   bán lẻ của Việt nam. ­          Tăng cơ hội hợp tác  kinh doanh   Chỉ  tính riêng phương thức 3, để  tiếp cận thị  trường bán lẻ  Việt nam doanh nghiệp  nước ngoài có thể thành lập chi nhánh, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, có thể  11
  12. góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp Việt nam, có thể mua cổ phần của các doanh   nghiệp bán lẻ Việt nam, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài còn có nhu cầu thuê  mặt bằng, nhu cầu về dịch vụ nghiên cứu thị  trường, cung cấp hàng hóa, dịch vụ  hỗ  trợ….đây là cơ  hội để  các doanh nghiệp Việt nam hợp tác   kinh doanh với các doanh  nghiệp nước ngoài. ­          Nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ  Mở  cửa thị  trường phân phối sẽ  tạo nên một sự  cạnh tranh rất gay gắt, các doanh   nghiệp trong nước và nước ngoài đều phải thường xuyên nâng cao khả  năng cạnh   tranh của mình. Một trong các giải pháp tạo nên khả năng cạnh tranh vượt trội là nâng  cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ, làm chất lượng dịch vụ  khách hàng thường   xuyên được cải thiện, giá hàng hóa có tính cạnh tranh. Khảo sát thực tế  tại siêu thị  Intimex Hải phòng, Coop Mart Thành phố  Hồ  Chí Minh đều cho rằng để  cạnh tranh   với các siêu thị nước ngoài như Big C, các siêu thị này đều phải áp dụng các biện pháp   nhằm nâng chất lượng dịch vụ tạo nên sự văn minh, sang trọng trong phong cách phục  vụ, giảm các chi phí nhằm giảm giá hàng hóa nhằm thu hút khách hàng, điều này kích  thích tiêu dùng và tác động tích cực đển dòng vận động của hàng hóa để  phát triển  sản xuất. ­          Góp phần xuất khẩu hàng hóa cho Việt nam. Các doanh nghiệp nước ngoài thường có hệ thống, bán buôn, bán lẻ toàn cầu, một số  hàng hóa Việt nam được xuất khẩu để cung cấp cho hệ thống ở nước ngoài. Ở Việt  nam, Metro đã tham gia xuất khẩu các sản phẩm của Việt nam cho hệ thống Metro   toàn cầu, các doanh nghiệp khác hoạt động xuất khẩu cũng còn hạn chế. Các tác động tiêu cực ­   Tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp bản lẻ trong nước    Tạo nên sự cạnh tranh vừa tác động tích cực, nhưng vừa là tác động tiêu cực đến các   doanh nghiệp bán lẻ  trong nước. Mở cửa thị  trường áp lực cạnh tranh nên các doanh   nghiệp trong nước ngày càng tăng cao, yêu cầu các doanh nghiệp trong nước phải   thường xuyên đổi mới, tự  hoàn thiện để   phát triển trong môi trường có tính cạnh  tranh  quốc tế, những doanh nghiệp không đủ  khả  năng cạnh tranh sẽ  bị  loại ra khỏi   hệ thống hoặc chuyển sang các lĩnh vực  kinh doanh khác phù hợp hơn. ­          Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước bị mất dần thị phần   Khi mở  cửa thị  trường, các doanh nghiệp bán lẻ  nước ngoài thường chọn các phân   khúc thị  trường hấp dẫn để  chiếm lĩnh, thường là các phân khúc thị  trường    mà các  doanh nghiệp Việt nam chưa có lợi thế. Sự  xuất hiện của các doanh nghiệp nước   12
  13. ngoài làm cho thị trường của các doanh nghiệp Việt nam bị thu hẹp, gây khó khăn cho  sự  phát triển của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước   ­ Có một sự  chuyển dịch   nguồn nhân lực chất lượng cao từ các doanh nghiệp   bán lẻ trong nước sang các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài    Các doanh nghiệp nước ngoài thường có các điều kiện làm việc tốt và trả  mức  lương hấp dẫn hơn. Khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào hệ  thống bán lẻ  trong nước sẽ cần nguồn nhân lực trong nước, theo kinh nghiệm của Trung quốc sẽ  có một số  cán bộ quản lý, bán hàng, phục vụ có chất lượng cao được chuyển dịch từ  các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước sang các doanh  nghiệp nước ngoài. Qua khảo sát tại Coop. Mart, Maximark nhiều cán bộ  quản lý và  nhân viên bán hàng đã sang làm việc tại các siêu thị  nước ngoài. Sự  chuyển dich   nguồn nhân lực, nhất là các nhà quản lý cấp cao có chất lượng sẽ  gây khó khăn cho   các doanh nghiệp trong nước. Cuối cùng, một vấn đề  lớn mà Việt Nam phải đối mặt là làm thế  nào để  cân   bằng các chính sách kinh tế xã hội với việc thực thi các hạn chế  trong Biểu cam kết   của Việt Nam. Nhiều cán bộ  Chính phủ  và chuyên gia cho rằng các cam kết WTO   khiến các cơ quan quản lý địa phương khó có thể chỉ theo đuổi các mục tiêu kinh tế xã   hội riêng của địa phương. Các chuyên gia Việt Nam nêu ví dụ  như  sau: “Nếu  địa  phương muốn thu hút các dự  án đầu tư  lớn vào lĩnh vực phân phối, họ  sẽ  phải vi   phạm các cam kết. Nếu không, họ  phải từ  chối hồ sơ đề  nghị  cấp phép của các nhà  phân phối nước ngoài. Việt Nam đã gặp tình huống này nhiều lần. Gần đây METRO  đã yêu cầu Chính phủ  Việt Nam cấp giấy phép lập cơ sở bán lẻ  thứ  9 và trao quyền  bán gạo tại chi nhánh này. Hồ sơ của Metro được Ủy ban nhân dân tỉnhAn Giang ủng   hộ hoàn toàn vì dự  án của Metro dự kiến sẽ hỗ trợ lớn cho các nông dân canh tác lúa   gạo ở An Giang. Tuy nhiên, gạo là mặt hàng loại trừ trong các cam kết WTO về dịch   vụ phân phối. Nếu Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đồng ý cấp phép cho METRO, họ  sẽ vi phạm các cam kết WTO”. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa cam kết WTO của Việt Nam với sự tự do trong việc   theo đuổi các chính sách kinh tế chính đáng thật ra không có thực mà chẳng qua là sự  suy diễn sai bản chất cam kết WTO. Các cam kết về mở cửa thị trường của các thành  viên WTO thể hiện mức ‘sàn’ chứ không phải mức ‘trần’. Nói cách khác, các cam kết   GATS của Việt Nam về lĩnh vực phân phối ràng buộc Chính phủ  Việt Nam phải cho  phép METRO được phân phối hàng hóa trong lãnh thổ  Việt Nam nhưng không ràng  13
  14. buộc phải cho phép phân phối gạo. Việc trao cho nhà phân phối nước ngoài quyền  phân phối gạo hay lập cơ sở  bán lẻ  thứ  hai không hạn chế  là tùy   ở  Việt Nam chứ  không phụ thuộc vào WTO hay cam kết GATS. Việt Nam được phép áp dụng các hạn  chế  theo Biểu cam kết nhưng không bắt buộc phải áp dụng các hạn chế  này. WTO   không ngăn cản Việt Nam mở  cửa thị trường  ở mức độ  cao hơn mức quy định trong  Biểu cam kết. Cách diễn giải khác đi là trái ngược với bản chất của các Hiệp định   WTO vốn khuyến khích tự do hóa thương mại. 14
  15. Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ bán  lẻ  trong điều kiện hội nhập. 3.1. Về việc xây dựng nền tảng tài chính và cơ sở vất chất: 3.1.1. Liên kết các doanh nghiệp bán lẻ nội địa:     Trong tình hình của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, cụ thể là đa số các doanh  nghiệp thuộc loại nhỏ, kinh doanh lẻ  tẻ, rời rác, chỉ  1 số  ít được coi là “ông lớn”   nhưng cũng chỉ  có mức tài chính thấp so với các tập đoàn bán lẻ  nước ngoài  ở  Việt   Nam. Việc lien kết là một xu thế tất yếu nếu dịch vụ bán lẻ nội địa muốn phát triển   ngay trên sân nhà. Có nhiều hình thức và mức độ  lien kết khác nhau, từ  lien kết một   phần tới lien kết toàn phần. Các doanh nghiệp cần ít nhất là liên kết trong khâu mua  hàng, nhằm tăng số lượng đơn vị hàng hóa trong từng lần đặt hàng. Các nhà bán lẻ còn   có thể lên kết trong vận chuyển, dự trữ và phân phối hàng hóa từ  kho cơ  sở tới kinh   doanh.  Điểm mạnh của giải pháp là đây là một hình thức tương đối dễ dàng, ít thủ tục, dựa   trên cam kết hai bên cùng có lợi. Việc liên kết đem lại hiệu quả  khá lớn, nhằm tiết   kệm chi phí cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế, sự rang buộc   giữa các thành viên còn lỏng lẻo, các thành viên còn tồn tại lợi ích riêng lẻ, dẫn tới  mâu thuẫn việc phân chia kho vận và thị trường. 3.1.2. Hợp nhất và sát nhập:    đây là một phương án khác mà các doanh nghiệp bán lẻ nội địa nhằm làm tăng tiềm   lực tài chính của doanh nghiệp. Hợp nhất doanh nghiệp được định nghĩa là hai hay  một số  công ty cùng loại có thể  hợp nhất thành một công ty mới bằng cách chuyển   toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty sáp nhập, đồng thời  chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.   Điểm mạnh của giải pháp nhằm thống nhất chiến lược, chính sách kinh doanh, chính   cách bán hàng. Việc hợp nhất hay sáp nhập nhằm làm tăng tiềm lực tài chính cỏa   doanh nghiệp. Việc hợp nhất tạo ra một công ty mới có nguồn vốn lớn hơn nhiều so  với các bên trước hợp nhất. Tuy nhiên, việc hợp nhất và sáp nhập cũng gặp phải nhiêu   rủi ro của việc lựa chọn đối tác không chính xác. Nếu không có những lựa chonjk kĩ  càng sẽ có thể dẫn tới những hậu quả đáng nghiêm trọng. Khi tiến hành sáp nhập, các   doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc thống nhất đường lối, chính sách   15
  16. hoat động. Ngoài ra, với đặc điểm thị  trường bán lẻ  của việt nam, sẽ phát sinh thêm  nhiều khó khăn cho các thương vụ hợp nhất và sát nhâp, đó là đa số các doanh nghiệp  bán lẻ ở Việt Nam có quy mô quá nhỏ, muốn hợp nhất thành doanh nghiệp lớn là điều  rất khó. Còn đối với các doanh nghiệp lớn, do tâm lý muốn sỡ  hữu, độc chiếm thị  trường nên họ không muốn sáp nhập. 3.1.3.Tận dụng các nguồn vay tài chính ưu đãi:   Hiện nay có rất nhiều các nguồn vốn cho vay ưu đãi phát triển với các doanh nghiệp   nội địa vừa và nhỏ, đáp ứng nhu cầu cho vay. Đó là các nguồn vốn cho vay  ưu đãi từ  các chính sách hỗ trợ của nhà nước, nguồn vốn tài trợ quốc tế cũng dành nhiều ưu đãi   cho doanh nghiệp Việt Nam.   Điểm mạnh của giải pháp này là các nghuồn vốn ưu đãi thường có thời gian tương  đối dài với lãi suất thấp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ  thời gian và khả  năng phát triển, nâng cao sức cạnh tranh. Mặt khác, các quy định đề  hướng vốn vay   cũng càng ngày được thông thoánh hơn, các nguồn vốn vay trở thành chỗ dựa cho các  doanh nghiệp Việt nam. Tuy nhiên, đây là giải pháp được áp dụng từ  rất lâu, vì thế  nếu không có sự thay đổi trong việc sử dụng vốn vay thì khó có thể tạo ra sự đột biến   trong cạnh tranh với doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài. 3.2.Về Việc xây dựng mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng: 3.2.1. Các biện pháp thu hút khách hàng, gia tăng thị phần:   ­ Quang cáo, quảng bá thương hiệu doanh nghiệp    Quảng cáo vẫn là một trong những cách hiệu quả để ngườ tiêu dung biết đếnthương  hiệu của một doanh nghiệp. Hiện nay, có rất nhiều loại hình tiếp thị, được phgaan  theo nhiều hình thức khác nhau.Quảng cáo trực tuyến là hình thức quảng cáo có thông  qua mạng internet nhờ các công cụ như công cụ tìm kiếm.   Ưu điểm của phương pháp này là chi phí thấp, quảng cáo có sự  tương quan giữa   người xem và doing nghiệp, số người tiếp cận là khá lớn. Quảng cáo qua các tờ rơi là  hình thức thường được các doanh nghiệp bán lẻ sử dụng nhiều nhất để quảng cáo cho  các hoạt động của mình Quảng các hay tiếp thị truyền miệng là một hình thức vô cùng  độc đáo vì nó gần như là hình thức quảng cáo miễn phí ­ Các chương trình khuyến mại 16
  17.     Việc tiến hành các chương trình khuyến mại được rất nhiều doanh nghiệp bán lẻ  thực hiện thường xuyên và nó cũng được rất nhiều người tiểu dung ủng hộ. ­ Mở rộng thị trường về khu vực nông thôn   Hiện nay đời sống tại các vùng nông thôn đã được nâng lên đáng kể, nhất là ở những   khu vực có tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa. Mặt khác ở thị trường nông thôn, khi  cơ  sở hạ  tầng chưa phát triển đầy đủ, hầu như  đây sẽ  không phải mục đích của các   nhà bán lẻ nước ngoài trong nhiều năm nữa, nên có thể nói đây là thị trường đầy tiềm   năng mà lại ít lo sợ bị cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam 3.2.2. Các biện pháp giữ chân khách hàng: ­  Làm hài lòng khách hàng bằng các dịch vụ thực sự tốt     Nghệ  thuật giữ  chân khách hàng là nằm  ở  chỗ  tạo sự  thoải mái khi họ  đang mua  sắm ở các cơ sở phân phối của doanh nghiệp. Muốn nâng cao chất lượng dịch vụ cảu   siêu thị, điều đầu tiên mà các nhà bán lẻ  cần làm là nâng cao năng lực phục vụ  của  nhân viên.Thái độ  phục vụ  đối với khách hàng còn được biểu hiện  ở  việc các nhà  quản lý của doanh nghiệp đối xử với các khách hàng ra sao. Ngoài ra chất lượng dịch   vụ bán lẻ còn được xây dựng nhờ việc phát triển hệ thống thanh toán hiện đại, nhanh  chóng ­ Thiết lập các hình thức ưu đãi cho khách hàng quen thuộc    Ở hình thức này  các doanh nghiệp bán lẻ xây dựng các hệ thống bán hàng nhờ vào  các thẻ hội viên hoặc các thẻ khách hàng thấn  thiết. Khi các khách hàng mua sắm đến   một số lượng nhất định sẽ được hưởng các ưu đãi tương ứng. Như vậy chỉ bằng hình  thức ưu đãi đơn giản, doanh nghiệp bán lẻ đã đem lại cho mình nhiều khách hàng quen   thuộc hơn và nhiều doanh thu cho mỗi lần mua sắm của khách hàng. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2