ĐỀ TÀI: Tính xã hội và tính cộng đồng của kiến trúc Hà Nội
lượt xem 19
download
cho mỗi kiến trúc sư Bắc Hà phải cùng suy nghĩ và đóng góp cho sự đột biến đó. Tính xã hội và tính cộng đồng của kiến trúc Hà Nội đang đặt ra những yêu cầu mới. Phấn đấu cho một nền kiến trúc bền vững, trật tự, thuần khiết, nhân đạo, giàu hiệu quả thị giác là trách nhiệm cao đẹp của mỗi người chúng ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: ĐỀ TÀI: Tính xã hội và tính cộng đồng của kiến trúc Hà Nội
- Tiểu luận triết học BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Tính xã hội và tính cộng đồng của ĐỀ TÀI: kiến trúc Hà Nội
- Tiểu luận triết học MỤC LỤC Lời nói đầu ....................................................................................................... 1 Nội dung ........................................................................................................... 2 I. Kiến trúc Hà Nội sau 12 năm nhìn lại ....................................................... 2 1. Kiến trúc Hà Nội hiện nay ............................................................................ 2 2. Những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến kiến trúc Hà Nội ............................................................................................................... 3 3. Những tồn tại lớn của thành phố ................................................................... 5 II. Để có một Thăng Long - Hà Nội 2000 năm lịch sử ................................. 6 1. Hà Nội - một di sản kiến trúc chứa đựng đầy đủ đặc điểm của một đô thị mang dấu ấn của nhiều giai đoạn xây dựng và phát triển ................................ 6 2. Vấn đề bảo tồn phố cổ với du lịch thủ đô ..................................................... 7 Kết luận .......................................................................................................... 10 Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 11
- Tiểu luận triết học LỜI NÓI ĐẦU Mười năm gần đây, thực tiễn kiến trúc Hà Nội đã đòi hỏi giới kiến trúc có chất lượng nghề nghiệp đổi mới, và muốn hay không, càng sớm càng tốt, phải tiếp xúc với kiến trúc các nước công nghiệp phát triển và các nước trong khu vực. Kiến trúc Hà Nội đang đứng trước những biến động lớn của một thời điểm then chốt, cần có một sự đột biến về chất cũng như về lượng, điều đó khiến cho mỗi kiến trúc sư Bắc Hà phải cùng suy nghĩ và đóng góp cho sự đột biến đó. Tính xã hội và tính cộng đồng của kiến trúc Hà Nội đang đặt ra những yêu cầu mới. Phấn đấu cho một nền kiến trúc bền vững, trật tự, thuần khiết, nhân đạo, giàu hiệu quả thị giác là trách nhiệm cao đẹp của mỗi người chúng ta.
- Tiểu luận triết học NỘI DUNG I. Kiến trúc Hà Nội sau 12 năm nhìn lại 1. Kiến trúc Hà Nội hiện nay Những ai đã từng xa Hà Nội nhiều năm bây giờ khi trở lại cái đập vào mắt trước tiên là tốc độ xây dung dồn dập và lượng người đông đảo. Nhà cửa mọc lên như nấm sau cơn mưa và nhìn đâu cũng thấy toàn người là người. Đi vào Hà Nội từ bất cứ ngả nào, đều nhìn thấy các tuyến đường mới mở, rộng rãi, khang trang, nhưng nhà cửa hai bên lại chen choc, lồi ra thụt vào, hỗn độn, kiểu thị trấn hơn là kiểu thành phố lớn, kéo dài hình như vô tận. Càng đi sâu vào thành phố cái sinh động mà rối loạn đó cứ như nhân lên dần. Từ đê Yên Phụ nhìn xuống, bờ Hồ Tây dày đặc nhà cửa, không còn đâu mảng cây xanh mơ tưởng. Hồ Gươm thì có nguy cơ biến thành cái ao con khi nhà cao tầng lan đến. Việc chúng phá vỡ cảnh quan Hà Nội là một hậu quả đương nhiên, còn việc một vài công trình có đóng góp được cho bộ mặt thành phố hình như chỉ là một sự tình cờ may mắn. Bằng chứng là chính những dự án gặp nhiều thuận lợi và suôn sẻ nhất trong việc xét duyệt và cấp giấy phép xây dựng đến khi được thực thi rồi lại làm xấu cảnh quan nhiều nhất, chẳng hạn như cao ốc văn phòng 46 Lý Thường Kiệt với hình khối cục mịch và chất liệu vô cảm, hay công trình Tung Shing Square dù nằm khá xa Hồ Gươm mà vẫn nhô lên thô thiển bên cạnh ủy ban nhân dân thành phố. Trong khi đó, một vài công trình khác đã từng là đề tài tranh cãi khá gay gắt thì nay lại tỏ ra đứng được trong lòng Hà Nội. Ví dụ điển hình là Cao ốc văn phòng 53 Quang Trung án ngữ tầm nhìn suốt dọc các trục đường Quang Trung và Khâm Thiên, hoặc là Hà Nội Tower từ xa đã hiện diện một cách chững chạc trên đường Điện Biên Phủ và Trần Bình Trọng. Cho dù còn đôi chỗ chưa thật thoả đáng về chi tiết, song những đóng góp của chúng cho cảnh quan Hà Nội là rất ấn tượng và tích cực. Có thể kể thêm khách sạn Sakura góc công viên Lênin hay Lake View Hotel đầu dốc đường Thanh Niên. Rõ ràng việc xây dựng nhà cao
- Tiểu luận triết học tầng ở Hà Nội đang diễn ra một cách tự do mà chưa hề được quy hoạch. Chúng ta có kinh nghiệm của khu vực Hồ Gươm nên đã tỏ ra thận trọng hơn đối với khu vực Nhà hát lớn khi khống chế chiều cao xây dựng dưới 30m và bắt buộc theo phong cách cổ điển. Song điều đó chỉ cần nhưng chưa đủ, vì hai công trình office bld 63 Lý Thái Tổ và Opera Hotel từ lúc còn đang thi công đã tỏ ra tranh chấp với Nhà hát lớn thành phố, tức là với chính công trình được coi là chủ đạo của khu vực – một di sản kiến trúc hết sức tinh tế và quý báu của Hà Nội. Thành phố là một cơ thể sống. Xây dựng nhà cao tầng là một phương thức phát triển đô thị vươn lên độ cao. Từ lâu chúng ta đều biết đến nhữn mô hình đô thị dạng lòng chảo và dạng bát úp mà đối với Hà Nội cả hai mô hình này đều tỏ ra chưa thật phù hợp. Về mặt lý thuyết, chúng ta mong muốn phát triển khu vực cao tầng ra ngoại vi, nơi còn nhiều đất trống và có điều kiện tổ chức mới các cấu trúc hạ tầng, nhằm bảo tồn trung tâm phố cổ như một di sản kiến trúc tổng thể. Song trên thực tế các nhà đầu tư đểu chỉ nhắm đến khu vực trung tâm này, và các đơn vị có quyền sử dụng đất tại đây vì mối lợi trước mắt trong cuộc đua tìm đối tác đã tạo cơ hội cho nhà cao tầng mọc lên trong vùng cấm địa đó một cách tràn lan và tự phát. Cho nên Hà Nội bây giờ, như một kiến trúc sư đã nói vui, là một cái chảo thủng lỗ chỗ và bị gặm nhấm từng mảng. 2. Những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến kiến trúc Hà Nội: Những tiếng kêu gào vang lên yếu ớt, lạc lõng và vô dụng trước thực tế xây dựng ồ ạt, không thể chờ đợi. Người có chút kiến thức về thẩm mỹ cảm thấy có một cái gì đó không ổn, nhưng chỉ bất lực, nhìn nhau lắc đầu ngao ngán vì tiếng nói của họ như rơi vào giữa sa mạc! Các nhà làm kinh tế thì chua chát: “Đẹp mà ăn được à! Thành phố phải có càng nhiều nhà cửa càng tốt”. Họ chủ trương làm giàu lên đã, rồi hãy nói đến thẩm mỹ đô thị. Mà cũng thật khó xử: Không để dân tự xây thì làm sao có thêm chỗ để ở các khu tập
- Tiểu luận triết học thể nay đã quá tải và xuống cấp nghiêm trọng, từng là nỗi kinh hoàng cho nhiều người. Chính nguồn đầu tư nước ngoài cho xây dựng đang tạo nên bộ mặt phồn vinh của Hà Nội. Không riêng gì Hà Nội mà nay thì cả nước đang đối đầu với những mâu thuẫn thời kinh tế thị trường, triển khai trong một nước nông nghiệp chưa có đầy đủ cơ sở, định chế, luật pháp làm nền tảng cho phát triển kinh tế theo lối mới. Hà Nội làm sao thoát nổi số phận chung của các thủ đô Đông – Nam Á khi buộc phải mở cửa ra làm ăn với thế giới, cái được cái mất và các căn bệnh cố hữu kèm theo nhịp độ đô thị hóa: mất dần di sản kiến trúc và cảnh quan, ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông, hố sâu ngăn cách giàu nghèo, nạn nhà ổ chuột, kinh tế vỉa hè của khu vực phi chính quy của người nông thôn nhập cư. Cái gì rồi cũng có cái giá phải trả. Kiến trúc Hà Nội thời đổi mới được nhiều thứ, nhưng cũng mất đi không ít. Trong thực tế, Hà Nội vẫn chưa chuyển hẳn sang cơ chế thị trường, cả trong vấn đề ở. Gánh nặng bao cấp vẫn còn duy trì cho khá nhiều giới, nhiều người. Thời mở cửa, người dân bung ra, có cái sai, cái đúng. Nhưng ít ra nhiều người đã có chỗ kha khá. Nhà cửa chưa đẹp, còn hỗn độn, nhưng đã tăng tiện nghi, khang trang hơn trước. Nhưng đó chỉ là thiểu số, đa số người có đồng lương cố định vẫn còn rất vất vả vì nạn nhà ở. Hà Nội đang là một công trường xây dựng lớn, với đủ dạng công trình hiện đại, sử dụng nhiều kỹ thuật, vật liệu mới nhất. Phải nhìn nhận rằng đầu tư nước ngoài cho xây dựng đang đem lại luồng sinh khí mới, làm sôi nổi hẳn hoạt động xây dựng ở Thủ đô. Tuy vậy, bên cạnh đó còn rất nhiều cái “chưa được”, thậm chí còn có thể gọi là mất mát, trầm trọng nhất là việc phá hủy môi trường và sự hỗn loạn trong nghành xây dựng. Hà Nội còn nổi tiếng với “nhà chóp”. Nó lan đến cả TP Hồ Chí Minh và các tỉnh. Tìm hiểu lý do mới vỡ lẽ ra rằng khởi đầu là người đi lao động ở Đông Âu về, có tiền mà không có chỗ ở bèn tậu một khoảnh đất còn rẻ ở ngoại thành hoặc quanh Hồ Tây để xây nhà. Trong đầu họ chỉ có hình ảnh sang trọng của các lâu đài thời Trung cổ Đông Âu, với mái nhọn, mái củ hành và cả lỗ châu mai. Cứ thế, họ ra kiểu
- Tiểu luận triết học cho nhà thầu xây dựng. Nay thì kiểu nhà này cũng ít dần, nhưng Hà Nội lại có một dạng chóp khác do nước ngoài thiết kế, dựng lên nào mái chùa, đầu đao, rồng phượng, úp lên nóc nhà cao tầng. Khách sạn Shareton còn làm cả khu tiếp tân, sảnh lớn kiểu đình chùa, rõ ràng là không ăn nhập nổi với khối cao tầng hiện đại đằng sau. Thẩm mỹ đô thị còn là một mảnh đất hoang vắng ở Hà Nội, nói như kiểu KTS Nguyễn Luận. Hà Nội đã từng đi đầu trong cơn biến động nhà đất vừa qua nên đã thấy xuất hiện những làng đô thị nửa quê nửa tỉnh, với ngõ xóm ngoằn ngoèo, chạy theo các trục lộ mới mở, hầu như chưa trang bị hạ tầng kỹ thuật đô thị. Các “xóm liều”, “chợ cóc”, “chợ người”, các hoạt động kinh tế vỉa hè có mặt khắp nơi. Tốc độ xây dựng lại quá dồn dập, luật lệ nhà đất chưa đầy đủ, quy hoạch chưa sẵn sàng. Đó mới chỉ là những cái rối rắm nhìn thấy từ bên ngoài. Nhìn lại thực lực nhân sự quy hoạch đô thị của ta, phải công nhận rằng các cán bộ quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng chưa qua thực hành bao nhiêu, chỉ được đào tạo theo bài bản cũ rất lạc hậu so với tình hình phát triển mới, lại chưa từng phụ trách công trình quy mô lớn – chiến tranh và cái nghèo trong một thời gian dài đã hạn chế sự phát triển của ngành kiến trúc, quy hoạch của chúng ta. Về mặt này ta còn tụt hậu so với các nước khu vực Đông – Nam Á. Chuyển đột ngột từ nền kinh tế xã hộ chủ nghĩa sang kinh tế thị trường càng làm ta lúng túng hơn. 3. Những tồn tại lớn của thành phố: Kiến trúc là biểu hiện của văn hóa, lối sống qua nhà cửa, phố thị. Kiến trúc Hà Nội nay thể hiện sự giằng co giữa cái cũ, truyền thống và cái mới, quốc tế hóa. Một thành phố cổ như Hà Nội có lịch sử dài cả nghìn năm dễ dơi vào sự phát triển hỗn loạn khi biến thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước. Hà Nội có những đặc trưng cơ bản của các thủ đô ở Đông – Nam Á: - Quá trình hình thành khá nhanh quần cư đô thị lớn
- Tiểu luận triết học - Xuất hiện một khu đô thị tập trung với thành phố hạt nhân quá tải, bao bọc bởi các thành phố vệ tinh còn mang nặng cơ cấu truyền thống văn hóa xóm làng, văn minh nông nghiệp lúa nước, với mặt bằng dân trí còn thấp: - Sự phồn vinh của đô thị thu hút dân nhập cư từ nông thôn tạo ra các khu định cư tự phát, nghèo nàn. Có sự đối lập rõ nét giữa nhà cao tầng, khu ở sang trọng và các xóm nhà lụp xụp nghèo nàn. Nhiều căn bệnh đô thị xuất hiện, nhất là về mặt nhân văn: - Hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng sâu - Môi trường xã hội dễ bị xấu đi, do người nhập cư thiếu việc làm, nghề nghiệp không rõ rệt. Tệ nạn xã hội tăng nhanh ở các khu tạm cư đó - Ô nhiễm, ách tắc giao thông sẽ ngày càng trầm trọng - Di sản kiến trúc, cảnh quan đô thị ngày càng mất dần. Từ lâu, đô thị hóa là hệ quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đô thị hóa cũng đem lại sức mạnh và giàu có, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra các căn bệnh đô thị. Hà Nội không nằm ngoài quy luật đó. Trước mắt, Hà Nội đang đối phó với nạn bùng nổ dân số, tăng trưởng kinh tế nhanh và hiện tượng xây dựng tự phát. Sự di chuyển lao động nông thôn lên thành phố là tất yếu, nhất là khi đồng bằng sông Hồng dân đông và thiếu đất canh tác. Hà Nội có thể rút kinh nghiệm phát triển của bạn và tìm cách biến sự phát triển chậm của mình thành thế mạnh và bảo vệ tương lai bằng cách phát huy – chứ không nên làm lu mờ – những đặc điểm lịch sử, cảnh quan và di sản kiến trúc của mình. II. Để có một Thăng Long – Hà Nội 2000 năm lịch sử: 1.Hà Nội – một di sản kiến trúc chứa đựng đầy đủ đặc điểm của một đô thị mang dấu ấn nhiều giai đoạn xây dựng và phát triển: Ngay từ những ngày đầu giải phóng miền Bắc đã dồn sức mình hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế để bước đầu xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Đến nay, trong một chuỗi dài lâu của những diễn
- Tiểu luận triết học biến đó, các thế hệ kiến trúc sư của chúng ta luôn mang nỗi niềm say mê day dứt, một khát vọng tột cùng, mong mỏi tìm ra một hướng đi, một phong cách – phong cách kiến trúc xã hội chủ nghĩa mang đậm đà bản sắc dân tộc. Những công trình mới mọc lên, đây đó có nhiều tranh cãi giữa cái “chưa được” và cái “được”. Thật khó xác định cái “chưa được” khi mà người ta nhìn nó bằng một cảm nhận, trên một nền quy hoạch của thành phố chưa hoàn chỉnh với đúng nghĩa của nó. Đó là một đòi hỏi khách quan cần phân tích, đánh giá cho công bằng, chính xác. Nhưng cái “được” thì thật có ý nghĩa, vì mỗi công trình được xây dựng lên, được đánh dấu và qua thời gian nó sẽ trở thành chứng tích, là hiện vật sống cho một thời kỳ “thịnh” “suy” của một dân tộc. Sở dĩ ngày nay chúng ta còn phố cổ, la vì ông cha ta, những thế hệ trước, biết gìn giữ nó, hoặc chưa để tâm đến nó thì sắp tới đây kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, chúng ta mới có cái mà nói, còn có cái mà tự hào. Công bằng mà nói, ở đây ngoài một số di tích đã được xếp hạng và số công trình có giá trị về kiến trúc thì đa phần còn lại chỉ có ý nghĩa về thời gian, mà ít mang một giá trị nào khác. Thế thì, ý kiến cho là cần phải phá đi hoặc cải tạo triệt để một số công trình nào đó đã xây dựng trong những năm gần đây bị coi là “chưa được” là một điều cần được cân nhắc trước khi đi đến một giải pháp tiết kiệm tiền của và công sức của Nhà nước và của nhân dân. Có lẽ hãy để thời gian minh chứng và mách bảo chúng ta cần phải làm gì đối với những công trình đó. Để tránh tình trạng các công trình vừa mới xây xong lại bị “đòi” đập bỏ đi, Hà Nội cần có một quy hoạch tổng thể của thành phố cho tương lai, đặc biệt là quy hoạch chi tiết, phù hợp với nền kinh tế, chính sách của từng giai đoạn và rất cần có một mô hình cụ thể cho từng khu vực để cho mỗi người dân đều hiểu được và mỗi kiến trúc sư, mỗi Hội đồng kiến trúc có cơ sở để thiết kế và phê duyệt phương án một cách khoa học, chính xác, tránh được nhữ tốn kém không cần thiết. 2. Vấn đề bảo tồn phố cổ với du lịch thủ đô
- Tiểu luận triết học Hà Nội của chúng ta vào năm 2010 sẽ kỷ niệm lịch sử 1000 năm. Thế nhưng phố cổ Hà Nội, một di sản cổ nhất của dân tộc đã bị biến dạng nhanh chóng. Hà Nội hình thành 36 phố cổ và mỗi phố đều có một nghề vừa sản xuất, vừa buôn bán, lại là nơi ăn ở của ông chủ. Điều đó chứng tỏ việc bảo tồn phố cổ là phải gắn lion với sự làm ăn sinh sống của người dân, chứ không đơn thuần là đầu tư xây dựng và di bớt dân đi để trở thành một bảo tàng khô cứng. Phố cổ phải là một bảo tàng sống động bằng không gian kiến trúc xưa cộng với cuộc sống đời thường và hơn thế nữa là kế sinh nhai, là cách làm giàu mang đến cho người dân từ chính việc bảo tồn khu phố cổ này. Đó mới là định hướng hợp lòng dân mà chúng ta nên thực hiện. Một trong những cách làm giàu của người dân và cũng nằm trong định hướng chung của Đảng và Nhà nước là phát triển du lịch – một ngành công nghiệp không khói. Hướng đi ấy hoàn toàn đúng, nhưng đáng tiếc là chúng ta vẫn chưa có những biện pháp để ngành du lịch góp sức vào việc bảo tồn phố cổ, bởi phố cổ là một tiềm năng hấp dẫn nhất đối với khách du lịch khi tới thăm Thủ đô. Nhiều du khách đều có chung một nhận định rằng: Hà Nội phải là một thành phố du lịch có bản sắc về văn hóa, về kiến trúc và đặc biệt là trong cuộc sống đời thường của con người. Một minh chứng thực tế tại bản Lác – Mai Châu là khách rất thích thoải mái thư giãn ở nhà sàn của người Thái, chứ không ở nhà mái bằng dù đầy đủ tiện nghi, mặc dù giá như nhau. Vậy Mai Châu hấp dẫn du khách bởi cái duyên của bản sắc từ những ngôi nhà truyền thống giữa một vùng rừng núi thơ mộng. Từ dẫn chứng trên, ta hãy vận dụng vào một ô phố cổ của Hà Nội, có sự kết hợp giữa du lịch với kiến trúc, và thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Chúng ta tin một điều rằng, sự hoạch định đúng đắn sẽ tạo cho người dân một niềm hưng phấn, họ sẽ yên tâm cùng Nhà nước đầu tư, cùng giữ gìn di sản văn hóa của thủ đô và khi nền kinh tế đã phát triển, theo quy luật tự nhiên người dân sẽ thấy hết được giá trị của di sản ấy, mỗi tấc
- Tiểu luận triết học đất là một tấc vàng chỉ dùng cho kinh doanh, còn muốn có điều kiện ở tốt hơn thì họ tự giảm mật độ cư trú, tách hộ đến ở nơi khác cho hợp lý hơn. Thời gian không chờ đợi, chúng ta cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể và chi tiết các khu phố Hà Nội để công cuộc xây dựng Thủ đô từng bước được cải thiện vững chắc, nhanh chóng để có thể hy vọng rằng những thế hệ mai sau khi kỷ niệm 2000 năm Thăng Long – Hà Nội sẽ còn có cái để mà nói, mà tự hào là Hà Nội của chúng ta còn có những khu phố như phố cổ hiện nay và cũng để những người viết lịch sử kiến trúc Hà Nội, của Việt Nam còn có cái để mà viết cho các đời sau, bởi lẽ mỗi công trình, mỗi ngôi nhà được xây dựng lên đều mang dấu ấn lịch sử một giai đoạn phát triển của mỗi điểm dân cư, của mỗi dân tộc.
- Tiểu luận triết học KẾT LUẬN Quá trình phát triển đô thị là một sự vận động tất yếu, quá trình này sẽ tác động đến cấu trúc đô thị làm nảy sinh những mâu thuẫn mới giữa vấn đề bảo tồn và phát triển. Quan niệm về các giá trị bảo tồn trong đó bao gồm cả phương pháp và kỹ thuật xây dựng truyền thống phụ thuộc vào sự nhận biết giá trị đó trong toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển đô thị. Sẽ còn nhiều vấn đề khác nảy sinh trên con đường phát triển của lịch sử, sẽ còn nhiều thách thức khác trong việc gìn giữ các giá trị di sản dân tộc – những cái đã mất mát đi nhiều trong chiến tranh, nhưng sẽ lại còn nguy hiểm hơn khi bị mất mát ngay trong quá trình tái thiết thành phố. Vì vậy, ngay từ bây giờ Nhà nước nên có những chính sách, những định hướng phát triển thích hợp để có một Thăng Long – Hà Nội mang đậm bản sắc dân tộc.
- Tiểu luận triết học TÀI LIỆU THAM KHẢO Tạp chí kiến trúc – Hội kiến trúc sư Việt Nam
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: Tình hình quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước của xã Hòa An, huyện Krông Păk, tỉnh Đăk Lăk năm 2009 – 2010”
46 p | 1611 | 598
-
Đề tài: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ta hiện nay?
28 p | 4380 | 568
-
Tên đề tài: Tình hình thất nghiệp của việt nam từ năm 2008 đến năm 2011
38 p | 662 | 162
-
Đề tài: Tình hình hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận kho vận tại Vietrans
41 p | 229 | 47
-
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu diễn biến khí hậu, thủy văn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 1993 - 2013 dưới tác động của biến đổi khí hậu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh
95 p | 217 | 35
-
Báo cáo kết quả đề tài thực tập tốt nghiệp: Tìm hiểu thực trạng các nguồn nước sinh hoạt của người dân xã Thương Điình, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
61 p | 156 | 27
-
Đề tài tốt nghiệp cử nhân Điều dưỡng hệ VHVL: Chăm sóc các biến chứng cấp tính do xạ trị trên bệnh nhân ung thư vòm mũi họng
34 p | 91 | 16
-
Đề tài " TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VIỆC LÀM TRONG THỜI KỲ 1996 - 2000 "
34 p | 117 | 15
-
Mối liên quan giữa vector sốt xuất huyết và biến đổi khí hậu tại 4 xã ven biển tỉnh Bến Tre - 2011
7 p | 102 | 14
-
Báo cáo tóm tắt Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ: Công tác xã hội trong hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái bị quấy rối tình dục nơi công cộng
35 p | 48 | 13
-
Đề tài: “Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam”
28 p | 158 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Vốn xã hội với khả năng tiếp cận tín dụng của phụ nữ nghèo. Trường hợp nghiên cứu tại tỉnh Tây Ninh
117 p | 18 | 9
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Phát huy vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ trong việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo trên địa bàn Thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
64 p | 36 | 9
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách an sinh xã hội tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định
69 p | 13 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về cứu trợ xã hội qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế
26 p | 65 | 6
-
Đề tài khoa học: Nghiên cứu chuẩn hóa hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế xã hội cấp tỉnh và huyện
35 p | 35 | 4
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu, định danh nguồn nước nóng tại thôn 2, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
35 p | 4 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn