intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài triết học " TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN VÀ SỰ THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NÓ "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

92
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết so sánh diện mạo của “Luận ngữ” trong ba giai đoạn: giai đoạn đầu tiên với chủ thể so sánh là Khổng Tử trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc ở nước Lỗ cũng như những nước chư hầu khác, tức là thế kỷ IV – V trước CN., tiếp theo là Chu Hy trong giai đoạn Nam Tống sơ kỳ, tức là giữa thế kỷ XII – XIII của đế quốc Trung Hoa; cuối cùng là Phạm Lập Trai trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII ở Việt Nam....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài triết học " TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN VÀ SỰ THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NÓ "

  1. Đề tài triết học TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN VÀ SỰ THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NÓ
  2. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO TRIẾT HỌC, SỐ 11 (222), THÁNG 11-2009 HỌC NAM TRUYỀN... TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN VÀ SỰ THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NÓ CHU HỒNG NGUYÊN (*) Bài viết so sánh diện mạo của “Luận ngữ” trong ba giai đoạn: giai đoạn đầu tiên với chủ thể so sánh là Khổng Tử trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc ở nước Lỗ cũng như những nước chư hầu khác, tức là thế kỷ IV – V trước CN., tiếp theo là Chu Hy trong giai đo ạn Nam Tống sơ k ỳ, tức là giữa thế kỷ XII – XIII của đế quốc Trung Hoa; cuối cùng là Phạm Lập Trai trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII ở Việt Nam. Bài viết cho rằng, tuy sự sắp xếp, biên soạn “Luận ngữ” của Phạm Lập Trai có nhiều điểm chưa rõ, nhưng phong cách của ông thực sự là một bước đột phá rất đáng bàn trong việc chú giải “Luận ngữ”. Mở đầu đổi. Không chỉ vậy, Luận ngữ đ ã từng bị soạn lại nhiều lần, hoặc bị sáp nhập với việc Tư tưởng của Khổng Tử được học trò của b iên so ạn các tác phẩm khác. Đến thời ông chỉnh lý thành sách Lu ận ngữ. Trải qua Tống, đặc biệt là thời kỳ giữa Bắc Tống và 2500 năm, đến nay, cùng với sự phát triển Nam T ống, ở Trung Quốc lúc này, một mặt, của khoa học kỹ thuật và sự tiến bộ của nền k ỹ thuật văn minh thịnh vượng, thậm chí văn minh nhân lo ại, về cơ b ản, cuốn sách đ ến mức nổi bật trên toàn cầu, mặt khác, có này vẫn giữ đ ược nguyên dạng. Tuy nhiên, d ân tộc khác ở bên ngoài xâm nhập vào và trong quá trình lâu dài này, cùng với sự Phật giáo ngày càng trở nên phổ biến. biến đổi của thời đại, của môi trường khách Trong khi đó, nội bộ của triều đ ình đi vào quan và quan niệm chủ quan, sự chú thích giai đo ạn quyền lực của hoàng tộc tăng và giải thích đối với Luận ngữ cũng thay 40
  3. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... nhanh, các môn phái kiềm chế lẫn nhau, thư đ ến thời Đường, Tống, khiến cho thông tin sinh có thể thảo luận chính trị không cần thư tịch của thời Tống vượt lên thời Khổng kiêng dè. Trong môi trường này, phong khí Mạnh. Điều đó đ ã ảnh hưởng tới Chu Hy, dạy học tự do đ ược cổ vũ và phổ biến. giúp cho ông có điều kiện thuận lợi thông Phiên bản của Luận ngữ cũng bắt đầu đa hiểu Nho, Đạo, Pháp, âm d ương… đồng dạng hơn.(*) thời, có năng lực vượt lên thời cổ, xây dựng đ ược một hệ thống trừu tượng các vấn đề, Sống trong môi trường thuận lợi đó, lấy đế như bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức vương chuyên chế làm chỗ đứng tư tưởng lu ận… Về vấn đề này, thời kỳ Khổng Tử cơ bản, Chu Hy đã chỉnh lý một cách khá của thời đại Xuân Thu, với bề d ày tri thức đầy đủ Luận ngữ. Cô ng việc này của Chu vẫn còn tương đối thấp và sự truyền bá tri Hy có rất nhiều ý nghĩa. Trước hết, trên thức còn tương đ ối chậm, không thể so sánh phương diện học thuật, một mặt, giúp cho đ ược. Nho học lập lại địa vị chủ yếu, mặt khác, xây d ựng nội hàm của Nho học ngày càng Bởi những nguyên nhân trên, Luận ngữ do phong phú hơn. Tiếp đó, trên phương diện Chu Hy chú thích, dựa vào điều kiện xã hội tư tưởng chính trị, do thế giới Trung Hoa và phương thức tư duy, đã rời khỏi Khổng đang ở giai đoạn đế quốc với sự vận hành Tử. Thứ năm, cái mà Chu Hy đ ã xây d ựng chính phủ chuyên chế đế vương rất hiệu thích hợp với Đế vương học của đế quốc ích, nên khả năng quay về lối cũ là không Tống, về cơ bản, là một chỉnh thể lớn và thể, nhưng ông lại so sánh với tư tưởng hơn thế, không còn dùng cách luận chứng hoàn toàn tự do của thời đại Xuân Thu - thế tục, mà đã chuyển sang lấy triết học và Chiến Quốc trước một nghìn mấy trăm năm luân lý học hỗn hợp làm chủ chốt; đồng với trăm nhà đua tiếng. Thứ ba, trên thời, trên một trình độ tương đương giảm phương diện giáo dục và truyền bá tri thức, bớt học vấn thống trị. Thứ sáu, vì Chu Hy sự phát minh kỹ thuật in ấn đã giúp cho tri chỉ chấp nhận trung ương tập quyền nên thức khoa học - kỹ thuật và các tác phẩm cũng khác với cục diện thời đại của Khổng nghiên cứu học thuật của mấy nghìn năm Tử là thời mà tuy trên có Chu Thiên tử, trước đ ược tích luỹ và truyền bá từ bao đời nhưng thực tế là do chư hầu phong kiến tự lập và tự thống trị. Và thứ bảy, trên cơ sở (*) Giáo sư, Viện Nghiên cứu Lịch sử hiện đại, Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan. 41
  4. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... văn minh Trung Hoa đã đạt đến đỉnh cao cử văn tuyển còn lại rất nhiều(2) để nghiên trong triều Tống, Đế vương học của Chu cứu. Năm thứ nhất, đầu tiên là sự phát hiện Hy, đương nhiên được nhiều quốc gia trong những bài văn và vấn đề dự thi thời kỳ đầu thế giới Trung Hoa hoan nghênh. Thêm của các nhà Nho, như Ngô Thời Sĩ, Lê Quý nữa, trong ba thời đại Nguyên, Minh, Đôn,… ở một trong những bộ Tập văn thi Thanh sau đó, bộ học vấn này của Chu Hy hội Triều Lê, nên mặc định trước, lấy vấn tiếp tục đ ược những người đứng đầu thiên đ ề dự thi làm vấn đề tiêu biểu để đi sâu vào hạ khẳng định và do vậy, việc sử dụng nó theo dõi thành phần Đế vương học của Chu không chỉ phổ biến trong nội bộ đế quốc Hy. Đầu năm 2006, tác giả đ ã từng có bài Trung Hoa, mà còn truyền bá sang nước viết riêng nhằm tìm kiếm nội dung vấn đề ngoài, phía Đông Bắc đến Hàn Quốc, Nhật và đáp án của bài thi khoa cử trong 5 lần tại Bản, phía Đông Nam tới những nhà nước Việt Nam ở thế kỷ XVIII, từ năm thứ 13 như Việt Nam, Thái Lan, v.v.. (1752) đ ến năm thứ 36 (1775) thời Lê Hiển Tông Cảnh Dữ, tương ứng với thời kỳ Càn Tiêu điểm của bài viết này là Việt Nam. Long Trung Quốc. Tác giả chọn ra bộ phận Bởi vì d ữ liệu lấy đ ược từ Hà Nội hiện nay có tính đại diện(3) để giới thiệu cụ thể, đều tập trung vào nửa cuối thế kỷ XVIII, nhằm hiểu rõ nội hàm chủ yếu của Đế nên giai đoạn nghiên cứu thảo luận trong vương học thông qua quan điểm của tầng bốn năm nay đ ược đặt ở thời hậu kỳ triều lớp thống trị, của giới giáo dục và của các Lê(1). b ậc trí giả Việt Nam thời đó. Tác giả đã căn cứ trên cơ sở nội du ng đ ồ sộ Năm 2006, trong lần thứ hai sang Việt của Nho học Việt Nam và d ữ liệu loại khoa Nam, qua thảo luận với nghiên cứu viên Đinh Khắc Thuận(4) và nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm Phan (1) Từ đầu năm 2005, tôi quyết định mở mang lĩnh vực Văn Các của Viện Khoa học xã hội Việt nghiên cứu mới ở bên ngoài Trung, Nhật, H àn. Sau đó, tôi Nam(5), một lần nữa, tôi quyết định lấy lấy Đế vương học của C hu Hy tại Việt Nam làm tiêu đề viết bài, được nhiều sự giúp đỡ từ Chủ nhiệm Lưu của Lu ận ngữ ngu án(6) để tìm hiểu một Viện Văn Triết và cô Nguyễn Tô Lan của Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Đầu tiên là tháng 9 năm 2005, sau đó là (2) Lúc đó tuy thời gian rất ngắn, nhưng đã nhìn thấy, ít tháng 9 năm 2006, hai lần đi sang Hà N ội thu thập dữ liệu, nhất có 20 đến 30 loại văn tập của thi địa phương cũng nói chuyện với nhiều học giả của Phòng nghiên cứu Hán như thi trung ương. Nôm và có nhiều thể nghiệm lĩnh hội. 42
  5. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... phương hướng khác của Đế vương học của Lu ận ngữ ngu án của Phạm Lập Trai là một Chu Hy tại Việt Nam. Qua suy nghĩ suốt 3 quyển sách như vậy. Cuốn sách này khiêm năm, tôi có bài viết này. Đối với một khối xưng là chú thích (ngu án), mà lại thành ra lượng lớn sách cổ khác của Việt Nam, bao Lu ận ngữ tập chú, một trong những nền gồm Hiểu biết nông cạn Xuân Thu của Ngô tảng của Đế vương học Chu Hy, tổ chức lại Thời Sĩ, Chu lễ trích yếu(7), Tứ thư trích ngôn luận của Khổng Thánh trên kết cấu yếu(8) và Diễn nghĩa ngũ kinh trích yếu(9) b ài văn. Vì sao họ Phạm làm thế? Ông của Phan Huy Bích và Tứ thư ước giải của muốn thoát khỏi lưới vây bắt, đột phá Đế Lê Quý Đôn, tôi sẽ nghiên cứu thảo luận vương học của Chu Hy thật không? Ông vào năm tới. muốn làm cái gì? Trở về nguyên dạng Khổng Thánh hồi xưa? Hay là bước vào I. Giới thiệu tóm tắt về Phạm Lập Trai thời đại mới? Dưới đây, tôi sẽ tiến hành sự giới thiệu vấn đề này theo cách của học giả Trung Quốc đ ã từng có rất nhiều người làm hồi đó và b ản thân họ Phạm. chú thích khác nhau cho Lu ận ngữ của Khổng Tử. Ngoài Trung Qu ốc cũng thế. 1. Quan điểm của Hoài Đức Phủ Tuy chú thích khác nhau, nhưng trước năm 1782, vẫn chưa có người nghĩ đến việc có Hội thảo nghiên cứu thảo luận học thuật quốc tế: Khoa cử thể tách riêng các chương của Luận ngữ, chế và khoa cử học), 2005. (5) Phan Văn Các. Luận ngữ ngu án - tác phẩm kinh học sau biên tập lại thành mới. Cu ối cùng, điều đáng chú ý. Tạp chí Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Hán này đ ã xuất hiện, mà lại xuất hiện ở Việt Nôm, s ố 1, 2005, tr.44-51. (6) Trong Luận ngữ ngu án có kiến giải của bản thân Nam, phía nam của Trung Quốc. Lúc đó, Phạm Lập Trai, rất khó đọc. Quyển sách này được Giáo sư Việt Nam đang trong tình trạng phân chia, Phan Văn Các coi trọng nhất, cho nên đặc biệt với tiếng Việt đi sâu vào giới thiệu trong Tạp chí Hán Nôm vào năm nhưng thuộc về thời kỳ vua Lê Hiển 2005. Bài văn này được cô Nguyễn Tô Lan giúp dịch ra Tông.(3) tiếng Hán, cống hiến thực lớn, cũng cảm ơn tại đây. (7) Tên nguyên Trích yếu san dị Chu Lễ chú sớ, đã xin quyển copy từ Phòng Hán Nôm, cất giữ trong Phòng Văn Triết của viện này. (8) Ví dụ, Tứ thư trích yếu của Phan Huy Bích, hiện giờ Phòng Hán Nôm cất giữ có năm Thành Thái thứ 7 (1895), (3) Những bài thi Hội và thi Đình của năm 1752 đến 1775 phiên bản Liễu Văn Đường. hiện nay còn lại, do nội dung của bài thi và đáp án rất (9) Diễn nghĩa ngũ kinh trích yếu của Phan Huy Bích, phong phú nên chỉ có thể lựa chọn một bộ phận nhỏ. Phòng Hán Nôm cất giữ có năm Minh Mệnh 18 (1837), (4) Đinh Khắc Thuận. Lịch sử và tình trạng nghiên cứu của phiên bản Đa Văn Đ ường. khoa cử Việt Nam. Trường Đại học Hạ Môn, (Tập luận văn 43
  6. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... Tân Sửu năm 42 đời Cảnh Dữ Lê Hiển Hoài Đức Phủ cho rằng, ưu điểm của bộ Tông (1782 ), Lu ận ngữ ngu án do một sách này là: “Cương lĩnh nề nếp, rực rỡ có người Việt là Đông Xuyên Cư s ỹ Hoài Đức chương. Thoát ra khỏi b ình dân thế tục, nêu Phủ làm lời tựa xuất bản(10). Tác giả là cao đạo của thánh nhân. Dụng ý của nó là Phạm Lập Trai có hiệu Thạch Giản tiên khuyến thiện”. Vì thế, Hoài Đức Phủ đã dụng “khởi thiên tương dữ tư văn, mặc hữu sinh(11). d ĩ khải chi dư” đ ể đưa ra quan điểm của Hoài Đức Phủ đánh giá rất cao quyển sách mình.(13) này, viết rằng: “Học giả chi học Khổng Tử, xá là thư hề cầu tai. Liêu liêu ngàn tải, vi Tuy nhiên, Hoài Đức Phủ cũng điểm ra một ngôn phất chương. Hạnh được hối am chu số câu, viết: “Trình Tử có nói, nay mọi tử, vi chi tập chú, phát huy tôn chỉ. Hậu học người đọc Luận ngữ, khi chưa đ ọc là người ư thị hồ chiết trung, khởi phi đại hạnh dư! ở trình đ ộ này, đọc xong rồi thì chỉ là người Mà hôm nay học giả chi đọc Luận ngữ, chỉ ở trình độ này, thì như vậy chính là không chư gia tiểu chí, vụ vi thiếp quát, thủ tiện b iết đọc”. Nhưng mà, nay xem Thạch Giản ứng cử, kinh văn tập chú, vắn tắt nhi phất (Phạm Lập Trai), Hoài Đức Phủ nói ông: giảng, thị vi tri học d ã da”(12)? “Lấy tài năng hơn người, vì “vi kỉ” chi học”. Cái đó do ở sách, đ ã biết “mặc nhi Hoài Đức Phủ tiếp tục dùng lời của Chu Hy thức chi” (Tạm dịch: cái biết do mặc nhiên, nói(13): Chu Hy từng xưng: “Tử Du viết: tự tại ngộ ra). Vì thế, nếu có thể dốc sức “Nam phương chi học, đắc kì tinh hoa””. (10) H iện giờ có thể đọc đến là sách bản lại, trong năm Tiếp theo, Hoài Đức Phủ viết: Thạch Giản Minh Mệnh 13 triều Nguyễn, do con rể của Phạm Lập Trai hảo đức thị, tự thiếu dĩ cử nghiệp danh là Họ Tuân Sĩ của xã Quỳnh Lưu Lương Phú hầu, kiến xin Nghi xuân lương đơn phủ xã bảo triện chính tiến sĩ Trần trường ốc. Kí sĩ, do cần vu thư. Nhất nhật Viết Anh, làm thành sách bản lại của Tiểu Dĩnh mới khắc. đọc Luận ngữ, phiên nhiên đại ngộ, đốc C ụ thể tham khảo bên trước của sách này, chính tiến sĩ Đinh Mùi khoa của xã Gia bình lương hương triện phủ hiếu, trầm tiềm kì ý. Tam duyện hàn thử, Thuận An tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Đăng Sở Tư nghiệp vựng vi tứ thiên 23 loại. Mà còn: chương dĩ Quốc tử giám làm: Thư án Luận ngữ ngu án mới khắc. (11) Người xuất bản là Ba Hy Đường. loại phụ, các hữu luận thuyết, viết rằng: (12) Tham khảo: Lời tựa Luận ngữ ngu án của Hoài Đức Luận ngữ ngu án. Cả bộ sách có mười chín Phủ, văn xuất từ Luận ngữ ngu án của Phạm Lập Trai, năm Minh Mệnh thứ 13, bản lại. Viện Nghiên cứu Hán cuốn. Nôm, Viện Khoa học xã hội Việt Nam cất giữ. (13) H oài Đức Phủ. Sđd.,. 44
  7. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... thực hành thực tiễn, lấy giáo huấn mà đ ạt nghiên cứu. Ông cho rằng, có tất cả bốn được thành công, thì “ích lợi không thể đo thiên, 23 loại, dưới mỗi thiên văn chính, đếm được”. kèm với “ngu án”, cho nên lấy tên là Lu ận ngữ ngu án. 2. Quan điểm của bản thân Phạm Lập Trai Ông quyết định từ đó về sau, từ mùa hè, bắt Bản thân Phạm Lập Trai chỉ ra rằng, ông đ ầu công việc. Miệt mài làm việc, tất cả vào Viện Hàn lâm triều Lê vào năm Mậu d ành ra 3 năm, mới xem như thành công Tuất thứ 39 Cảnh Dữ (1779). Có một buổi b ước đầu. Sau đó, nhân những lúc nhàn rỗi, tối, tự nhiên suy nghĩ về Luận ngữ, bèn lấy ô ng tiếp tục “có chỗ chưa tốt, lại thay đổi ra đ ể đọc “đ ến bốn mươi, năm mươi câu. sửa chữa”, hy vọng đến già, mới dám cho ra Bỗng bừng tỉnh ngộ, thảng thốt như đã mất mắt. gì đấy”. Nhiều ngày sau, ông phấn khởi viết: “Tích Lỗ Hứa Tề năm bốn mươi, thỉ Có người phê bình Phạm Lập Trai rằng, ngộ b ình sinh trao và nhận mạnh lãng, nhất Lu ận ngữ là do thánh nhân viết, một bộ hai diệp kì cựu, từ tiểu học vào, su ất vi minh mươi thiên. Phạm thay đổi, sắp xếp phân đạo quân tử”; “Mình so sánh với lúc Lỗ Tề lo ại lại, không sợ bị người đời thảo luận cầu đạo, vẫn trẻ hơn một ít. Từ giờ đến già, đ ịnh tội sao? Phạm Lập Trai lấy giải thích còn nhiều năm. Không thể không nỗ lực của Chu Hy trả lời. Chu Hy cho rằng, hồi tiến bộ, để tự mình cho vào khó khăn”. Sau đó, khi soạn viết Luận ngữ, đ ã qua rất nhiều đó, Phạm Lập Trai quyết tâm phát cử tử năm, vì thế phân chia ho àn toàn không có học, suốt ngày đ ể sách Luận ngữ ở bên hệ thống. Nguyên văn viết: Chu Hối Ông cạnh. Ông quyết định học thuộc chính văn khẳng định rằng, Luận ngữ là do đ ệ tử của trước, sau đó đọc Tập chú của Chu Hy, tiếp Khổng Tử ghi chép lại những lời dạy của đến đọc thuyết của các nhà Nho. Với tinh Khổng Tử mà thành sách. Sau đó, sách thần tìm tòi nghiên cứu, không bỏ qua một đ ược Tăng Tử sửa chữa, hiệu đính. Mỗi ngày, sau 7, 8 tháng, kiến thức của ông dần thiên lấy hai chữ đầu của thiên đ ể phân biệt, dần nâng cao. Cuối cùng, “Trục thường nhi b an đầu các chữ đó không có ý nghĩa. Nhan lực cầu yên, triếp bất tự quỹ”, đến điểm đột Uyên đại hiền, sau đó là Tử Lộ, Tử Trương, phá: Phạm Lập Trai đã có thể phân loại, chỉ Dã Trường, lấy tên mình làm thiên, cũng ra các thiên để tiện cho việc xem xét, giống như Vệ Linh, Dương Hoà, Lý Thị. 45
  8. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... Ngoài không có kết cấu, thực sự có bao những lời giáo huấn. Chẳng phải sao?”. nhiêu chương, cũng không ai rõ. Chu Hy Hơn nữa, trong 482 chương của Luận ngữ, còn nói: cách biên soạn của mỗi thời đại, có 6 chương trùng nhau. Vì thế, bộ sách mỗi địa phương có sự khác nhau. Nguyên “ngu án” đ ã lược đi những cái trùng lặp, văn viết: “Huống Luận ngữ thời cổ mười nhưng lại tăng thêm 15 tiết trong thiên một thiên, ở nước Tề hai mươi hai thiên, “Hương giác” và từ hai chương “Tập chú”, còn nước Lỗ có hai mươi thiên, vì thế đã chia thành bốn chương, tổng cộng 493 bao giờ lấy số lượng thiên mà đánh giá?”. chương. Tiếp theo, Phạm Lập Trai lại nói: “Người Các chương lấy loại mà phân ra, nhưng đọc Luận ngữ hôm nay là vì mong mu ốn chương tất phải có chú thích tên thiên, thể tìm hiểu lời dạy thánh hiền, dần dần tự ngộ hiện không làm mất gốc cũ. Cũng vì thế, ra, hiểu đến tận cùng sự vật, cũng cần phải Phạm thị nói, một mặt, “Tập chú” để phát liên hệ với sự vật, hiện tượng, đó chẳng huy chính văn, nhưng mặt khác, cũng phải phải là mong trở thành người biết đó sao?”. “cẩn trọng”. Thông qua sự suy xét trên Dựa theo thứ tự của chương, “thì trong vô ý nhiều phương diện, Luận ngữ không phân nghĩa, mong muốn tìm ra cái ý nghĩa?”. Nói thành 20 thiên, mà sửa thành bốn thiên: thứ rất là có đ ạo lý. nhất là “Thánh”, thứ hai là “Học”, thứ ba là “Sĩ”, thứ tư là “Chính”. Gọi là: “Lấy thánh Bởi nguyên nhân trên, Phạm Lập Trai cho nhân thịnh đức cách ngôn đưa lên đầu, lấy rằng, nguyên tắc quan trọng nhất là ở chỗ, những lời nói, ghi chép của người đời đ ưa nên làm thế nào đ ể bắt được cái thực dụng, vào sau. Có phép tắc, có p háp độ. Học giả mà mục đích là cho mình ngày càng tốt lấy thiên cầu loại, lấy loại cầu chương, lấy hơn. Nguyên văn viết: “là vì mong mu ốn chương cầu ý, một khi xem liền hiểu rõ”. Vì tìm hiểu lời dạy thánh hiền, dần dần tự ngộ thế, “b ất vị chi hữu, nhi vị tri hữu tội, khả ra, hiểu đến tận cùng sự vật, cũng cần phải hồ”? liên hệ với sự vật, hiện tượng, đó chẳng phải là mong trở thành người biết đó sao?”. II. Lu ận ngữ ngu án đ ã sắp xếp toàn bộ Sách viết: “Thạch Giản thị tự học sách này: Lu ận ngữ phân chương loại, bổ sung thêm những quan sát cảm nhận, mà không phải là dịch 46
  9. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... Như đã nói ở trên, kinh điển để thảo luận và “Sĩ” có 45 chương; thiên “Chính” có 141 phân tích của b ài này là nhờ vào phiên b ản chương. mới của năm 1830 đ ược lưu giữ trong Viện Trong thiên thứ nhất - “Thánh” có 105 Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Khoa học xã chương. Theo tính chất của các chương, lại hội Việt Nam(14). Vào tháng 9 năm 2005, tiến một b ước nữa, quy “loại” thành cấp thứ lần đầu tiên phỏng vấn Viện Nghiên cứu b a. Cũng cho “chương” của 105 đơn vị, đầu Hán Nôm của Viện Khoa học xã hội Việt tiên chia thành 8 loại: “Học vấn”, “Uy Nam, lúc đó, trên Tạp chí Hán Nôm, Giáo nghi”, “Ăn ở phục thực”, “Ứng sự phạm sư Phan Văn Các đ ã có bài chuyên luận giới vật”, “Xử biến”, “Thủ nhân”, “Thuyết thiệu Luận ngữ ngu án do Phạm Lập Trai thánh” và “Nghi thánh”. Trong các lo ại, lại biên soạn.(14) theo thứ tự phân biệt có 7, 7, 9, 30, 7, 26, 8, Sau khi đọc, tôi phát hiện ra rằng, Phạm 11 chương. Nhưng, đ ể thuận lợi cho việc Lập Trai hơi “mạnh dạn” trong sự phân đóng thành quyển trên phương diện d ày tách tất cả các thiên trong Luận ngữ của mỏng, loại số chương ít, gộp soạn lẫn nhau Khổng Tử, lấy “chương” làm đơn vị, sửa lại mà thành “quyển” (cấp thứ hai). Vì thế, theo ba cấp độ mới là: “thiên”, “quyển” và thiên thứ nhất có 8 loại, nhưng cục bộ gộp “loại” trong các chương, cho sắp xếp lại thành 4 quyển, mỗi quyển có khoảng hai, toàn bộ. b a mươi chương. Cấp thứ nhất là “thiên”, chia thành Thiên thứ hai là thiên “Học”, số chương “Thánh”, “Học”, “Sĩ” và “Chính”. Sau đó, nhiều nhất, cơ b ản phân làm bốn loại lớn, với bốn “thiên” làm hạng mục chủ yếu, nội dung có 7 loại nhỏ. Theo tính chất của biên soạn lại tất cả các chương (cấp thứ các chương, chia thành “Chí tri (thượng)”, bốn). Số lượng chương của các thiên như “Chí tri (hạ), “Lực hành (thượng)”, “Lực sau: thiên “Thánh” có 105 chương; thiên hành (trung)”, “Lực hành (hạ), “Hiếu đễ” “Học” nhiều nhất với 202 chương; thiên và “Giao tiếp”. Trong các loại nhỏ, lại theo thứ tự phân biệt có 28, 30, 39, 39, 39, 15, 12 chương. Nhưng, đ ể tiện lợi cho sự đóng (14) Phòng này đích xác là phòng cất giữ hàng đầu các văn bản cổ của Việt Nam. Sách cổ văn chữ Hán của phòng thành quyển theo phương diện d ày mỏng, đã cất giữ rất là phong phú, thường được ngành Hán học quốc tế coi trọng. lo ại số chương ít, cần gộp soạn thành 47
  10. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... quyển, cu ối cùng chỉ có hai loại “Hiếu đễ” Phạm Lập Trai lấy bốn hàng mục “Thánh”, và “Giao tiếp ”. Vì thế, thiên thứ hai có 7 “Học”, “Sĩ”, “Chính” cho sự phân loại lại loại, nhưng lại có 6 quyển, mỗi quyển cũng Lu ận ngữ. Cách này, nếu Khổng Tử sống có kho ảng hai, ba mươi chương. lại, có đồng ý hay không? Đây đúng là một vấn đề. Bởi vì, trong thời đại và tình cảnh Trong thiên thứ ba - “Sĩ” có 45 chương, số của sự đối thoại giữa Khổng Tử và học trò chương ít nhất, hơn nữa lại chỉ có một loại cũng như người đương thời, không có lớn là “Sĩ”. Trong đó lại chia thành cao “Thánh” tồn tại. Quan niệm “Thánh” xuất thấp, là “Thượng sĩ”, “Trung sĩ” và “Hạ sĩ”. hiện nhiều năm sau khi Khổng Tử mất. Trong các lo ại nhỏ, lại theo thứ tự phân biệt Trong khi đó, từ 10 (hoặc 8) loại mục của có 11, 24, 10 chương. Số chương các lo ại thiên “Thánh”, ngoài loại học vấn thứ nhất, nhỏ tuy ít, lại không biên so ạn gộp lẫn nhau các cái khác đều là trình bày nguyên lý, mà thành quyển. Vì thế, thiên thứ ba có 3 nguyên tắc của sự xử lý quan hệ giữa người loại nhỏ, như ng cũng có 3 quyển, mỗi với người. quyển chỉ một, hai mươi chương. Đến thiên “Học”, trong thiên này có bốn Trong thiên thứ tư – “Chính” có 141 lo ại, tuyệt đại bộ phận liên quan đến nội chương, số chương nhiều thứ hai. Các dung hạt nhân của “Học”, như chí tri, sự chương theo tính chất được phân vào 5 lo ại. vận dụng “Học” là lực hành. Còn lại, hai Trong các loại, lại theo thứ tự phân biệt có lo ại “Hiếu đễ” và “Giao tiếp” cho vào thiên 25, 28, 28, 30, 30 chương. Nhưng, do số thứ nhất. chương của mỗi loại không ít, không cần gộp soạn lẫn nhau và vì thế, đều độc lập mà “Sĩ” chính là vấn đề “học để làm quan” thành quyển riêng, khiến cho thiên thứ tư trong truyền thống Trung Quốc, trong đó có 5 loại, cũng có 5 quyển, mỗi quyển đều chỉ phân thành 3 loại. có từ 25 chương trở lên. Đối với bốn loại của thiên “Chính”, cũng là III. Dạng mới của Nho giáo Nam truyền: sự cái cơ bản nhất để thành Thánh, cho vào sắp xếp của các thiên Luận ngữ ngu án thiên “Thánh” cũng rất phù hợp. Song, tác giả lại cho nó vào thiên “Chính” (chính tr ị). Điều đó nói lên việc tác giả cho rằng, 48
  11. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... “Chính” (chính trị) cũng là “Chính” (trung Sĩ (làm quan) và Chính (hành chính)) là sự chính, ở giữa, chủ yếu), tức là “chính văn”. tổng hợp 3 học môn: môn lý luận, môn giáo Chính và chính văn đ ều cần lập nền tảng từ dục và môn hành chính công cộng. “chính kỉ”, cho nên nó được sắp xếp vào 1. Thánh (tu dưỡng) thiên thứ tư. Trong sự trình bày và phân tích thiên thứ Tổng hợp sự phân loại và xếp đặt tất cả 19 nhất - Thánh (luân lý), trọng tâm vấn đề loại, mục của Phạm Lập Trai, có thể thấy, trước hết là xác nhận giai đoạn, phương đối với người Việt Nam trong thế kỷ XVIII, p háp học tập “có 7 chương (điều)”. Tiếp Luận ngữ ngu án là một bộ sách quý báu đề theo, phương diện cuộc sống xã giao chia cập đến các vấn đề ăn ở, ứng xử, quy phạm thành 4 lo ại: xác định quy tắc cư xử với sự vật cũng như chịu trách nhiệm công việc mọi người (có 7 điều), thảo luận cách ăn hành chính, chứ không phải d ành cho đế mặc hàng ngày (có 9 điều), quy định lời nói vương - người thống trị cao nhất xã hội. Nó và việc làm trong đối nhân xử thế (nhiều thuộc về tầng lớp trí thức học làm quan, đ ến 30 điều). Những loại đặc biệt như “xử chứ không phải là chuyên môn thuộc về đế b iến” có 7 điều, nhưng nội dung phân tán. vương. Cách này của họ Phạm khác nhiều Tiếp theo, loại “Thủ nhân” có đến 26 điều, với cách Chu Hy cho nó trở thành Đế tập hợp cách ứng đối trong học trò, như vương học, đặc biệt là các quy tắc, nguyên Nhan Hồi, Trọng Cung, Mẫn Tử Khiên, tắc của cuộc sống vua. Hiểu biết của họ Nam Dung, Công Dã Tràng, Tử Cống,… Phạm gần với tâm trạng của Khổng Tử Cuối cùng, “Thuyết Thánh” có 8 chương, trong thời đại Xuân Thu. Tuy nhiên, vì việc xây dựng các điều kiện của Khổng Khâu đã có và không có quan niệm Thánh, mà giữa đ ược thành Thánh. hai bên có sự khác nhau. 2. Học (tìm tòi học hỏi) Luận ngữ trình bày và phân tích mối quan hệ giữa bản thân với người khác, có thể đi Thiên “Học” có ý nghĩa gần giống với vào từ nhiều góc độ hoặc loại mục. Theo sự “Giáo dục” của ngày nay, nhưng không phân loại môn học ngày nay, về cơ bản, hoàn toàn giống nhau. Khổng Tử không cách sắp xếp thiên, mục của Phạm Lập Trai đ ứng ở góc độ giáo viên, mà đứng ở góc độ (Thánh (tu dưỡng), Học (tìm tòi, học hỏi), 49
  12. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... học trò để thảo luận sự học tập phải như thế đ ảm nhiệm quan văn của chính phủ: một là, nào. Ngôn lu ận của phương diện này nhiều làm thế nào để trở thành một người quan đến 58 chương. Phạm Lập Trai gọi nó là văn; hai là, trên cương vị quan văn, thực loại “chí tri”. Song, do Khổng Tử rất coi hiện việc quản lý nhân dân như thế nào. trọng thực hành, nên thiên “Học” có hơn Trên phương diện liên quan đ ến việc trị 117 chương, tức là gần một phần bốn bộ d ân, quan điểm của Khổng Tử có thể xem Luận ngữ, thảo luận về vấn đề này. là có tính khách quan. Đặc biệt, nó không Tiêu điểm của đề mục thảo luận này không có hình thái ý thức, cũng không có lập quan hệ với vấn đề “tìm tòi học hỏi” trong trường chủ quan chính trị, chỉ có sự nghiên ngành học thuật. Nó xoay quanh sự thảo cứu đáp án khoa học khách quan của hành luận làm thế nào để làm một người “quân chính. tử”, chứ không thảo luận loại liên quan đến Để đưa ra tiêu chuẩn trở thành quan văn và tri thức luận hoặc cách nghiên cứu. Vì thế, làm quan văn như thế nào, trong phần thứ vấn đề cơ bản là cách học giỏi để làm quân b a của thiên thứ hai – “Học”, Phạm Lập tử thực hành nhân đ ức. Luận ngữ chỉ đề cập Trai chỉnh lí ra hai loại “Hiếu đễ” và “Giao cái “Học” từ góc độ học trò, chứ không tiếp”. Trong chương 15 của “Hiếu đễ”, ông phải là từ góc độ giáo viên. Nhìn từ góc độ lấy thảo luận “Hiếu” làm trọng tâm. Lý do đó, Luận ngữ trên cơ sở lấy khẩu khí của “Hiếu” được xếp ở chương đầu là, “Khổng giáo viên, tưởng tượng rằng, bất cứ đối Tử viết: “Phu tại quan kì chí; phu một quan tượng nào cũng đều là đối tượng của mình kì hành. Tam niên vô cải ư phu chi đ ạo, khả giáo dục mà viết thành. vị hiếu hĩ”” (tạm dịch: xem ý chí, nguyện Vì thế, các tài liệu giảng dạy và giáo dục vọng của cha mà không xem ở việc làm của hiện nay đều không thuộc phạm vi Luận cha, ba năm không b ỏ đạo của cha, xem ngữ đã quan tâm. Từ góc độ luân lý, việc như là có hiếu). Trong thiên “Học nhi đệ thảo luận làm như thế nào thành Thánh, nhất” của Luận ngữ, tiêu điểm của vấn đề cũng như từ góc độ giáo dục các học trò không chỉ là quan sát một người như thế làm thế nào đ ể có thể trở thành quân tử, nào, mà còn là phải quan sát trong một thời Luận ngữ, theo phân loại của Phạm Lập gian lâu dài. Phương pháp là xem ngôn và Trai, đã suy nghĩ đến hai vấn đề của việc hành của người này trong lúc phụ thân còn 50
  13. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... sống và ít nhất ba năm sau khi phụ thân qua Sau khi tu dưỡng đầy đủ, tìm tòi học hỏi đời, sau mới làm so sánh. Nói ngắn gọn, cũng như chu ẩn bị cho mối quan hệ tốt đẹp quan trọng là phải quan sát người này trong giữa bản thân và mọi người, Phạm Lập Trai thời gian ít nhất bốn năm trở lên. Mục đích cho rằng, vấn đề Khổng Tử quan tâm tiếp là gì? Mục đích chỉ là muốn chứng minh theo là làm thế nào để trở thành một quan người con có theo đạo của người cha (phụ văn, vì thế có tiêu đ ề của thiên thứ ba là chi đạo) không, tức là làm việc có theo “Sĩ”. nguyên tắc hành sự của phụ thân, làm người Thiên thứ ba thảo luận “Sĩ” là như thế nào, có theo nguyên tắc làm người không. Trong hay làm quan là như thế nào, khuôn khổ rất “Học nhi đệ nhất” viết: “Đệ tử nhập tắc nhỏ, chỉ có 3 loại, to àn b ộ chỉ có 45 hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ai chương. Thiên này có b a cuốn: cuốn thứ chúng, nhi thân nhân. Hành hữu dư lực, tắc nhất - “Thượng sĩ” chỉ có 11 chương; cuốn dĩ học văn” (tạm dịch: học trò họ c nguyên thứ hai - “Trung sĩ” có 24 chương; cu ốn thứ tắc của hiếu, hành xử nguyên tắc của đễ, b a - “Hạ sĩ” chỉ có 10 chương. cẩn trọng mà tin, yêu mọi người, cũng có lòng nhân. Hành xử phải dốc hết sức, thì Chương thứ nhất của loại “Thượng sĩ”, cũng lấy đó để học văn). Chương này đã miêu tả Khổng Tử tại nước Tề đ ược vua rất được sắp xếp trong phần “Thượng” của ngưỡng mộ, tiếp đ ãi long trọng, xem Khổng mục “Lực hành”. Vì vậy, có thể nói, loại Tử như quý tộc cấp cao, như thượng khanh. này có tính chất bổ sung. Ngo ài “Hiếu”, Tuy nhiên, sau khi Khổng Tử nghe được được thảo luận nhiều không phải là “Đễ”, đ iều đó, lại có phản ứng “tiêu cực”, thậm mà là “Hữu” (bằng hữu). Phạm Lập Trai chí lấy việc mình đã già làm lý do, lập tức sắp xếp phần “Giao tiếp” có 12 chương, thu dọn hành lý, rời khỏi nước Tề. Trong trong đó bao gồm “ích giả ba hữu”, “Ngô “Tề Cảnh Công đ ãi Khổng Tử” của văn nhật tam tỉnh ngô thân” và “Tăng Tử viết: xuất “Vi tử thập bát” có viết: “Nhược Quý “Quân tử dĩ văn hội hữu , dĩ hữu phụ nhân” Thị tắc ngộ bất năng, dĩ Quý, Mạnh chi (tạm dịch: Người quân tử lấy văn để kết gian đ ãi chi” và “Ngô lão hĩ, bất năng dụng bạn, lấy bạn để trợ lòng nhân). d ã” (tạm dịch: Tôi đã già rồi, không thể dùng được nữa), rồi Khổng Tử rời đi. 3. Sĩ (làm quan) 51
  14. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... Ở đ ây, Phạm Lập Trai đã xếp câu truyện Đối với người khác, đặc b iệt là nhân dân, Khổng Tử nghe đến Tề Cảnh Công xem Khổng Tử yêu cầu người làm “Chính” phải mình là người cấp khanh hầu, phân định với lấy “Phú dân” làm mục tiêu; tức là, người Quý thị và Mạnh thị, đồng thời muốn trọng làm quan phải “lợi dân”, chứ không phải dụng, lấy “lão” làm lí do từ chối khéo sự ủy “lợi mình”. Lấy “Phú dân” làm lo ại cuối nhiệm,… đặt ở vị trí thứ nhất trong phần cùng của thiên không phải là nguyên nghĩa “Thượng sĩ”. Dụng ý ấy của Phạm Lập Trai của Khổng Tử, mà là quan điểm của Phạm đáng suy nghĩ. Lập Trai. Chúng ta có thể thấy rõ giá tr ị p hán đoán, suy xét của Phạm Lập Trai vẫn 4. Chính (hành chính) là quan niệm sĩ đại phu truyền thống, chứ không phải cách nghĩ nhân dân làm người Thiên thứ tư của Luận ngữ ngu án là thiên chủ của xã hội dân chủ như hôm nay. Tuy “Chính”. Trong thiên “Chính” chia thành vậy, qua sự biên so ạn, sắp xếp của Phạm mấy loại, có “Chính dĩ”, “Quan nhân” Lập Trai, cảm giác vời vợi trên cao vốn có (thượng, hạ), “Lễ nhạc” và “Phú dân”. của người sĩ đại phu trong Luận ngữ ngu án Người chính, chính d ã. Lo ại thứ nhất của đ ã không còn. Cái còn lại là “dân bản” của thiên này yêu cầu mục đích của chính (hành truyền thống Trung Quốc do người sĩ đại chính) là một chữ “chính” (ở giữa, ngay p hu tìm hiểu cội nguồn nỗi khổ của dân, thẳng, chính trực). Chính có thể chia thành chứ không phải do nhân dân tự mình làm hai phương diện là “Chính d ĩ” và “Chính chủ. nhân”. Nhưng, Khổng Tử không thảo luận “Chính nhân”, chỉ tập trung vào thảo luận Lo ại thứ hai là “Quan nhân”, được chia lại “Chính dĩ”. Do đó, có thể nói, “Chính” thành thượng, hạ hai phần. Cách sắp xếp trong tư tưởng của Khổng Tử là “Chính d ĩ”, này lấy quan làm ý chí, cần hiểu rõ b ản thân chứ không phải là “Chính nhân”. Đối với người, mục đích là điều chỉnh quan hệ với người làm “Chính”, Khổng Tử yêu cầu họ mình. Song, nếu xem xét kỹ nội dung của trong suy nghĩ của mình phải biết “tự xét nó, thì có thể thấy, lời nói của Khổng Tử trong lòng”, biết được “nghĩa vụ” của mình không trực tiếp quan hệ với “Quan nhân” ở đâu. Phạm Lập Trai cũng đã nhìn thấy trong thiên này. Trong sự sắp xếp, biên dụng ý này. soạn của tác giả Phạm Lập Trai vẫn còn có 52
  15. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... điểm chưa rõ. Trong loại “Lễ nhạc”, những tưởng Chu Hy, khiến cho “Vi học” không thảo luận phân tích liên quan đến “Lễ” siêu thoát ở lý luận, mà b ị hạn chế trong lý nhiều hơn nhiều so với “Nhạc”. lu ận, bị hạn chế trong “kính” - một khái niệm có tính xã hội. Tiếp đó, Chu Hy lại Tóm lại, từ sự sắp xếp của thiên “Chính”, hướng tới “Tồn dưỡng” là cái vốn có tính có thể thấy, Phạm Lập Trai không chỉ coi sĩ chất luân lý, thậm chí còn yêu cầu bản thân cao hơn nông, công, thương, mà còn ưu tiên luân lý hóa(16). học sĩ trong toàn bộ công việc biên soạn. Cách làm này không có gì khác với Chu Và, một khi “Vi học” bị luân lý hóa, đóng vai trò là nhánh phụ trong phương hướng Hy. “Chí tri”, thì nó tất chệch khỏi việc thuận 5. So sánh Luận ngữ ngu án với Cận tư lục, theo khách quan, thu ận theo khoa học. Vì Luận ngữ tập chú của Chu Hy vậy, cuốn thứ ba của Cận tư lục (Chí tri) vừa nhấn mạnh tri thức của “nghe thấy”, Đối với các bậc sĩ đại phu có cơ hội làm vừa nhấn mạnh tri thức “đức tính”, đồng thầy của vua trong thời Tống, Chu Hy, thời hướng về cái sau(17). Chu Hy từ “Tồn thông qua Cận tư lục, đ ã sớm xây dựng d ưỡng” hướng về nguyên tắc đối mình được hệ thống tư tưởng của học phái Trình “kiềm chế”, đối gia “gia đạo” và đối ngoại Chu. Nhờ sự phối hợp, giúp đỡ của Lã Tổ “xu ất xử”. Tiếp đó, Chu Hy đi vào khoa Khiêm, Chu Hy đem toàn b ộ hệ thống đó, học xã hội, đầu tiên nắm bắt “Trị thể”, sau lấy các quái càn khôn củ a Dịch kinh làm lu ận “Trị pháp”, “Chính sự”, cũng như nền tảng, qua đạo thể luận đi vào “Vi học”, “Giáo học” mà hoàn thành chủ chốt của hệ tiếp đến “Chí tri”. Song, chỗ quan trọng thống. Sau đó, Chu Hy lại bổ sung ba nhất, đồng thời cũng là nhược điểm lớn p hương diện là “Quan Thánh hiền”, “Biện nhất của tư tưởng Chu Hy(15) là lấy “Chí d ị đoan” và “Cảnh giới” để nội dung của tri” làm nhánh phụ, lấy “Vi học” làm chủ “Tồn dưỡng” ngày càng phong phú, cụ thể, chốt. Thêm nữa, Chu Hy đ ã không co i trọng làm cho cả hệ thống tư tưởng của Chu Hy phân tích và nghiên cứu khách quan, mà đ ược xây dựng và kết hợp một cách “cao nhấn mạnh “Chủ kính” với tư cách chủ d iệu”. quan, đi vào “Tồn dưỡng” trong “Vi học”. Đây là sự thay đổi quan trọng nhất của tư 53
  16. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... Tuy nhiên, kết cấu này, lại không thể dùng cho người bình thường, hay giới trí thức bình thường, bởi vì người b ình thường không có cơ hội làm ba điều “Quan Thánh hiền”, “Biện dị đoan” và “Cảnh giới”. Hơn nữa, người bình thường không có được trình độ cao này: vừa nhấn mạnh tri thức của “nghe thấy”, vừa nhấn mạnh tri thức “đ ức tính”, đồng thời hướng về cái sau! Những điều này đ ều là việc chỉ có người làm đ ế vương cần chú ý đến. Vì thế, Chu Hy và những người khác, thông qua Cận tư lục, đ ã xây d ựng cả một hệ thống tư tưởng của học phái Trình Chu, về cơ b ản là cái học của Đế vương. Xin tham khảo biểu đồ dưới đây (Lược đồ hệ thống tư tưởng Cận tư lục):(16) (15) Một nhược điểm là pháp của chí tri không phù hợp nguyên lý khoa học, mà dẫn đến luận bản thể và luận vũ trụ của nó là do “vô cực” và “thái cực” kết hợp làm cơ sở, sau lại kết hợp với “Dịch Kinh” và âm dương ngũ hành mà thành. (16) C hu Hy, Lã Tổ Khiêm. Giản tư lục, quyển hai. (17) Trần Uất Phu dẫn đọc, Chu Hy, Lã Tổ Khiêm. Cần tư lục, Đài Bắc, Kim Phong, Dân 76, trang 6-8. 54
  17. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... Đạo thể Vi học Chí tri Quan Thánh hiền Cảnh giới Tồn d ưỡng Biện dị doan Xuất xử Khắc trị Gia đ ạo Dạy học Trị thể Trị pháp Chính sự (Ngu ồn gốc dữ liệu: Cận tư lục, Chu Hy, Lã Tổ Khiêm hợp soạn. Chế tác: Chu Hùng Nguyên, Chu Lệ Dung) Do xu ất phát từ mối quan hệ luân lý giữa Hoa đại lục, căn cứ vào sự đòi hỏi xã hội gia đ ình và cá nhân, nên tư tưởng khoa học của một đ ế quốc nông nghiệp điển hình, nó xã hội của Chu Hy là xây dựng trên nền đ ược ứng dụng trong sự khẳng định tập tảng luân lý gia đình. Loại luân lý gia đình quyền của ho àng đế. Về phương diện tri này căn cứ vào hình dạng địa lý của Trung thức khoa học, đ ương nhiên người ta chỉ có 55
  18. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... thể xây dựng nó theo trình độ khoa học kỹ là: “Nhân chủ tất tu tuần thiên lí, chính đại thuật của thời Tống lúc đó. Và, việc không thể”.(18) giảng hòa với người Kim, chủ trương trả Đến 58 tuổi, Chu Hy ho àn thành “Tiểu thù, là sự loại trừ văn hóa du mục(18). Điều học”, dạy trẻ con về đạo thương yêu người đó khiến cho cả hệ thống Chu Hy xây dựng thân, kính trọng người lớn tuổi, tôn trọng coi nhẹ sự thật lịch sử của sự liên kết sâu thầy. Đến 60 tuổi, ông viết bài tựa cho Đại sắc và lâu dài với văn hóa du mục từ thời học chương cú và Trung dung chương cú . Hán, Tống cho đến nay, mang tính hạn hẹp Đó là lần đ ầu tiên ông sử dụng từ “đ ạo và có sự tự mãn rõ nét. thống” và dùng 16 từ của Kinh thư: “Nhân Ở tuổi 48, do đ ã xây d ựng đ ược lập trường tâm duy nguy, đ ạo tâm duy vi. Duy tinh chủ thể của sự ứng dụng môn luân lý học duy nhất, doãn chấp quyết trung” đ ể “cụ thể của bản thân mình và cũng là ở đ ỉnh cao hoá” nội hàm của nó. nhất của sự sáng tạo, Chu Hy đ ã có nhiều Cách Chu Hy “cụ thể hoá” Đế vương học sự chú thích, như Lu ận ngữ tập chú, Hoặc của mình là xây d ựng cả hệ thống lý luận về vấn, Đại học chương cú, Trung dung thánh nhân, hay còn gọi là “Luân lý chính chương cú, biên soạn Thi tập truyện, viết trị học”. Việc xây dựng hình mẫu của một Chu dịch bản nghĩa. thánh nhân như thế đ ược xem như đã hoàn Trong kho ảng thời gian từ 49 tuổi đến 56 thành. Nhưng, khi Chu Hy muốn tiến thêm tuổi, Chu Hy đảm nhiệm chức vị triều đình, một b ước nữa trong việc áp dụng vào thực ông đã đem những cái đ ược học thực tế ứng tế lịch sử thì lại không dễ; vì trong cu ộc dụng trên chính trị và tiến một b ước nữa, sống chính trị thực tế, thực sự không có một thực hiện đầy đủ chính sách cụ thể. Do người như thế. khẳng định trung ương tập quyền của ho àng Trong lịch sử thành văn sau thời Tần, thậm đế, Chu Hy cho rằng, nguyên nhân chủ yếu chí trong lịch sử sau thời Xuân Thu, rõ ràng của việc sao nhãng việc nước chủ yếu là do là, Chu Hy không tìm thấy một lý tưởng ở ho àng đ ế (quân tử chưa được sử dụng, tiểu nhân chưa b ị đuổi đi). Vì thế, mấu chốt (18) Tôn Quảng Đức, Chu Hồng Nguyên. Lịch sử tư của việc cải thiện tình hình chỉ có một, đó tưởng chính trị Trung Quốc, Đài Bắc, Trường Đại học Không Trung, Dân 86. 56
  19. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... như thế và vì vậy, Chu Hy quay trở lại nhiên, từ khi xây dựng đế quốc Trung Hoa truyền thuyết, dựa vào kí ứ c lịch sử của cho đến nay, từ Tần Hán, Tuỳ Đường cho nhân dân đ ể kết thành Thánh nhân(19). Ông đ ến hai đời Tống, đều chưa từng có người chọn Hạ, Thương, Chu ba thời đại, lấy vị p hân Lu ận ngữ cả bộ thành các phần riêng vua khai quốc của ba thời này làm hình lẻ để biên so ạn lại. Trong thời ba đế quốc là mẫu, thêm vào Nghiêu và Thuấn, Chu Công Nguyên, Minh, Thanh, với sự phát triển cực với việc làm ra lễ nhạc sau này, cũng như thịnh của việc thi khoa cử của Nho giáo, Khổng Tử với chủ trương “học nhi ưu tắc cũng không có người từng làm như vậy.(19) sĩ”, để hoàn thành xây d ựng một kết cấu lờ Kết luận mờ, nhưng có phương hướng, có nguyên tắc của Thánh vương trong Đế vương học Trọng tâm của Chu Hy là thảo luận và phân của mình và thứ tự sự truyền thụ của nó. tích một cách cụ thể, chi tiết nội hàm và các Cho nên, Nghiêu , Thuấn, Vũ , Thang, Văn, giai tầng cụ thể của tính luân lý trên phương Chu Công, Khổng Tử trở thành thánh d iện khoa học xã hội, từ đó ho àn thành nền vương ho ặc thánh nhân truyền từ đời này tảng cho cả hệ thống. Vì vậy, Chu Hy chú sang đời khác, đây là một loạt mô thức trọng cả luân lý lẫn khoa học: về phương thánh quân Trung Quốc có tính chất cả nội d iện luân lý tính, ho àn thành “cổ kim gia tế thánh lẫn ngoại vương. Bộ mô hình này lễ”; về phương diện tính khoa học, ho àn cũng là mẫu mực ( ideal type) của ho àng đ ế thành Cận tư lục, cùng với Lã Tổ Khiêm Trung Quốc trong các thời đại sau thời viết thành Cận tư lục, đồng thời tổng hợp Tống là Nguyên, Minh và Thanh. tác phẩm nghiên cứu của bốn nhà Bắc Tống là Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy chính là người sáng tác bộ sách Trương Tải và nhờ đó, hoàn thành xây mang tính “điển phạm” về hoàng đế Trung d ựng “đạo thể”, đi vào học thuật, quan Quốc này. Sự chú thích cách nghĩ của Khổng Tử lúc dạy học trong Tập chú Luận ngữ đ ã đ ược Chu Hy viết khi ông 48 tuổi. (19) Chu Hy nối gót hai Trình. Trình Minh Đạo - vị “Thánh nhân tạo pháp, giai bản chu nhân t ình, cực hồ vật Đương nhiên, trong đó có nhiều điểm khác lý, tuy hai đế ba vương bất vô tuy thời nhân cách, chủng với cách nghĩ của bản thân Khổng Tử khi sự tăng tổn chi chế”. Lại vị: “Ba đại chi trị, thuận lý giả dã, hai hán dĩ hạ, giai nắm giữ thiên hạ giả dã”. Chuyển viết Luận ngữ trong thời Xuân Thu. Tuy dẫn từ: Dư Anh Thời. “Thế giới lịch sử của Chu Hy”, Đài B ắc, Doãn Thần, Dân 92, tr. 267, 47. 57
  20. TỪ "LUẬN NGỮ NGU ÁN", XEM XÉT NHO HỌC NAM TRUYỀN... thông rất nhiều môn học trong khoa học xã Tình trạng chính trị - xã hội của 3 giai đoạn hội. này khác nhau rất nhiều. Ở thời đại Khổng Tử, Chu Thiên tử vẫn còn, nhưng uy thế đã Trong lĩnh vực khoa học xã hội, tư tưởng nhỏ bé, các nước chư hầu, ngo ài nước Sở của Chu Hy, từ gần đến xa: bắt đầu từ nhận xưng vương, còn lại đều là nước chư hầu, biết của cá nhân, xác định quan hệ giữa như công quốc, hầu quốc… Trong nội bộ “tôi” và “người” với tầng cấp và lo ại khác các nước chư hầu xuất hiện một giai cấp nhau trong xã hội, xây dựng thành một hệ thống trị mới: “khanh”. Thời đại Chu Hy thì thống nguyên tắc tu dưỡng của sự kết hợp ngược lại hoàn toàn, đ ã không có thiên tử lẫn nhau của nhiều loại “người” và một theo mô hình “liên minh chủ”, cũng không mình “tôi”. Sau đó, ông đi vào chính trị có vương quốc, công quốc và hầu quốc… học, phương pháp học, giáo dục học, luân độc lập tự chủ, chỉ có đế quốc do hoàng đế lý học, đồng thời kết hợp với hệ thống luân thống lĩnh. Địa vị của giới trí thức ở thời lý, làm tiêu chuẩn cho đánh giá cuối cùng Tống cao hơn ở thời đại Xuân Thu. Chu của thánh hiền(20). Hy, Phạm Trọng Yêm, thậm chí Vương An Thạch, Tư Mã Quang, v.v., đều đã từng là Bài viết này xem xét diện mạo của Luận “đế sư”, dạy hoàng đế đương đại thi hành ngữ trong 3 thời kỳ: thời kỳ đầu tiên, lấy sự thống trị. Còn Việt Nam của thời đại nước Lỗ cũng như những nước chư hầu Phạm Lập Trai, bởi vì vừa có Hoàng đế Lê khác của thời đại Xuân Thu là thời Khổng Hiển Tông ở trên, vừa có Chúa Trịnh ở Tử sống (thế kỷ V – IV trước CN.) làm chủ miền Bắc và Chúa Nguyễn ở phía Nam(21), thể so sánh; tiếp đó là thời kỳ đầu Nam nên cục diện cũng như đ ịa vị của nó hơi Tống của Chu Hy, giữa thế kỷ XII - XIII (20) Đ ồng nghiệp Viện Văn Triết, với triết học sâu sắc của đ ế quốc Trung Hoa; thời kỳ thứ ba là luận chính, dẫn dụng tác phẩm nổi tiếng của cổ kim trung Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, khi đó tây, đánh giá sâu sắc tác phẩm của bản thân Chu Hy cũng như Dư Anh Thời. Cụ thể, tham khảo luận biện của Lưu Phạm Lập Trai đang làm quan ở Việt Nam. Thuận Tiên và Dư Anh Thời tại “Cửu châu học lâm” từ Dân 92 mùa đông đến nay. Luận biện kiến vu “Đăng Đại” Bài viết chủ yếu thảo luận về xã hội và của Dương Nho Thật và Dư Anh Thời. Lý Minh Huy chỉnh lý lại, hoàn thành bài “Nghiên cứu lại vấn đề “N ội chính trị hồi đó, ít nhắc đến văn hoá và kinh thánh ngoại vương”” ( Viện Văn Triết, Viện Trung nghiên, Tập luận văn hội nghiên thảo quốc tế (hiểu biết, chú thích tế. và truyền thống Nho gia), Dân 95, 1, 12-14). (21) “Triều Lê hầu kì chu chính quyền phân lập năm đại biểu”. N ham Thôn Thành Doãn, (An Nam thông sử), Đông Kinh, Phú Sơn Phòng, tr. 247-248. 58
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1