intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ_2

Chia sẻ: Trần Lê Kim Yến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

65
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Một là, cũng như Nguyễn Quân, chúng tôi căn cứ vào bản Phả ký trên của Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân cẩn thuật vào mùa đông năm Quý Hợi (1743) có chép trong sách Đại Việt sử loại tiệp lục

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ_2

  1. Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ - Phùng Khắc Khoan Vấn đề này, thiển ý của chúng tôi như sau: Một là, cũng như Nguyễn Quân, chúng tôi căn cứ vào bản Phả ký trên của Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân cẩn thuật vào mùa đông năm Quý Hợi (1743) có chép trong sách Đại Việt sử loại tiệp lục, mà sau đó quan Thự Tham chính xứ Sơn Nam là Tiến sĩ Vũ Phương Đề đã sao chép lại nguyên văn bài ký trên vào sách Công dư tiệp ký (Ghi nhanh lúc rỗi việc quan) của ông, để khẳng định rằng, bà Nhữ Thị Thục thân mẫu cụ Trạng Trình sau khi giận chồng không biết dạy con, bà bỏ về nhà cha mẹ đẻ, ít lâu sau thì mất. Trong khi đó, để phản bác lại ý của Nguyễn Quân và của Bùi Duy Tân, ông Trần Lê Sáng có lập luận rằng: “Còn danh hiệu Từ Thục phu nhân của mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm thì chúng ta cũng đừng vội tin của bà nào, bởi lẽ thân phụ của Nguyễn không chỉ có một bà vợ” (11). Nếu lập luận như thế thì thử hỏi ông Trần Lê Sáng nghĩ gì khi chính cụ Vũ Khâm Lân đã khẳng định trong Phả ký là “Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân”? Cũng nên lưu ý, đây chỉ là hàm vinh phong
  2. của vua nhà Mạc khi cụ Trạng Trình ra làm quan cho triều đại này, chứ không có thực quyền, hơn nữa lúc ấy, các cụ đã quy Tiên rồi. Trong bài ký, Vũ Khâm Lân còn cho biết: Ông nội được tập phong là Thiếu bảo Tư Quận công; bà nội là Chinh phu nhân Phạm thị Trinh Huệ; thân sinh được tặng phong Thái bảo Nghiêm Quận công; thân mẫu họ Nhữ được phong là Từ Thục phu nhân (12). Hai là, cũng trong bài ký trên, cụ Ôn Đình hầu còn cho biết vì bà “vốn người thông minh, học rộng văn hay, lại tinh giỏi cả môn tướng số”; “có chí hướng phò vua giúp nước của bậc trượng phu, muốn chọn một người vừa ý mới chịu kết duyên, nên đã chờ ngót 20 năm trời, khi gặp ông Văn Định có tướng sinh quý tử, bà mới chịu lấy” (trong bản Phả ký này, Vũ Khâm Lân còn ghi lại chi tiết bà gặp Mạc Đăng Dung ở bến đò Hàn thuộc dòng Tuyết Giang, mà bà đã than tiếc “Lúc trẻ chẳng gặp, ngày nay tới đây làm gì?” (13), cũng đủ rõ thêm cái chí muốn lớn lao của bà). GS. Bùi Văn Nguyên trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2 (thế kỷ X - giữa thế kỷ XVIII), xuất bản 1962 và Văn học Việt Nam thế kỷ X - giữa thế kỷ XVIII, xuất bản 1989 đã căn cứ vào lời trên mà cho rằng “cuối cùng bà lấy ông Văn Định, khi bà đã quá lứa, xấp xỉ tuổi 30. Mãi cho đến khi sinh ra Văn Đạt, bà vẫn ôm ấp hoài bão không tưởng của
  3. mình, cuối cùng bỏ chồng, bỏ con, đi lang thang, rồi trở về quê hương cha mẹ đẻ ở An Tử thượng”. Nhiều tài liệu cũ, trong đó có nhiều bộ văn học sử đều ghi rằng “cụ Nguyễn Văn Định nhờ nổi tiếng hay chữ, giỏi thơ văn nên quan Thương thư Nhữ Văn Lan gọi đến gã con gái luống tuổi cho” (14). Chúng tôi cũng đồng ý với suy luận của GS. Bùi Văn Nguyên về tuổi tác của bà Thục lúc lấy chồng. Đồng thời xin bổ sung thêm, người xưa đã có tục tảo hôn và quan niệm rằng con gái 13, con trai 16 tuổi là có thể dựng vợ gã chồng, vì đủ trưởng thành về sinh lý (nữ thập tam, nam thập lục). Con gái bấy giờ mà luống tuổi có thể là ngoài 20 hay hơn nữa. Thân mẫu cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm “đã chờ ngót 20 năm trời”, như vậy, nếu làm phép tính giản đơn là: 13,14, hay 15 cộng với ngót 20 sẽ là 30 hoặc trên 30 tuổi. Bà ở với ông Văn Định, đến khi Nguyễn Văn Đạt (Bỉnh Khiêm) 4 tuổi thì bỏ chồng con ra đi. Vậy khi ấy ít ra lúc này bà cũng đã khoảng 35. Hãy chưa nói chuyện bà bỏ về nhà cha mẹ đẻ, mà nói việc có thể bà đi lang thang lên mạn Từ Sơn rồi gặp nho sinh họ Phùng, thấy người này phúc hậu, có tướng sinh quý tử, bà thổ lộ nỗi niềm rồi hai người gá nghĩa vợ chồng, đưa về Sơn Tây như truyện về Mai Lĩnh hầu (tước của Phùng Khắc Khoan lúc đi sứ lần thứ nhất trở về được vua Lê chúa Trịnh ban cho) đã chép mà ở trên có lược dịch, thì lúc này bà đã 35 hay ngoài 35 tuổi rồi. Giả dụ như khi bà lấy ông Định và lúc sinh
  4. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì bà đã 30, và khi bà lấy ông nho sinh họ Phùng để hơn ba chục năm sau sinh ra Phùng Khắc Khoan thì lúc lấy ông nho sinh họ Phùng, ít ra bà cũng đã 35 hay ngoài 35. Mà theo sử sách chính thống ghi Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528, có nghĩa là cụ Trạng Trình lớn hơn cụ Trạng Bùng 37 tuổi. Chẳng lẽ khi sinh ra Phùng Khắc Khoan, bà Nhữ Thị Thục đã ngoài 70 tuổi? Còn nếu cho luống tuổi, qua lứa là ngoài 20 đến 25 chẳng hạn, rồi bà mới lấy chồng và sinh con, thì khi bà sinh ra Phùng Khắc Khoan cũng đã 60 hay ngoài 60 tuổi. Mấy năm nay, chúng tôi hay vẩn vơ tính toán lẩm cẩm như thế. Với cái tuổi này, thể trạng người phụ nữ Việt của chúng ta còn có khả năng sinh đẻ được không? Cho dù có thuốc tiên đi nữa! Vì thế, căn cứ vào bản Phả ký của Vũ Khâm Lân, cùng với suy tính trên, chúng tôi hoàn toàn không đồng ý, không đồng tình với giai thoại, truyền thuyết dân gian đã lưu truyền và người xưa đã viết lại, khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan là anh em cùng mẹ khác cha mà những tài liệu xưa nhất hiện được biết là phả ký họ Phùng ở Phùng Xá và truyện Mai Lĩnh hầu thành mẫu chí truyện chép trong sách Danh gia thi truyện tập. Thiết nghĩ, cụ Vũ Khâm Lân thật có lý khi trong bài Phả ký về Nguyễn Văn Đạt (Bỉnh Khiêm), đã viết rằng bà Thục giận chồng, bỏ về nhà cha mẹ đẻ, cách ít lâu sau thì mất, mà không đá động gì đến chuyện bà
  5. Thục “bước đi bước nữa” với ông nho sinh họ Phùng ở Thạch Thất để sinh ra cụ Phùng Khắc Khoan, một nhân vật lỗi lạc đầu thời Lê trung hưng. Và có thể là hồi ấy cụ cũng đã có nghe lời truyền về mối quan hệ đó trong dân gian, chứ không phải là cụ né tránh việc này. Bởi bài Phả ký được cụ Vũ Khâm Lân hoàn thành vào cuối năm Quý Hợi 1743, tức sau khi cụ Trạng Trình đã quy Tiên đúng 158 năm; và cụ Trạng Bùng đã tạ thế đúng 130 năm. Trong bài Phả ký, tác giả có nói đến tận nhà, hỏi người cháu 7 đời của cụ Trạng Trình là Nguyễn Thì Đương để xem tộc phả, nhưng ông này lại đưa ra những trang giấy rách nát, chỉ biên danh tính tiền nhân, ngoài ra chẳng có gì khác. Cho nên họ Vũ đành phải “thâu thái ý kiến mọi người rồi hợp với những điều mắt thấy tai nghe trong lúc ngày thường để viết nên bài ký” (15). Như vậy, tuy không viết ra cụ thể nhưng cụ Ôn Đình hầu ngày ấy cũng không tin là giữa cụ Trạng Trình và cụ Trạng Bùng có mối quan hệ anh em cùng mẹ khác cha ! Kết luận vấn đề này của chúng tôi là quan hệ giữa cụ Trạng Trình với cụ Trạng Bùng chỉ là quan hệ Sư - Đệ, chứ không phải là anh em cùng mẹ khác cha. Vấn đề thứ hai: CÓ PHẢI NGUYỄN DỮ LÀ HỌC TRÒ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM ? 1. Từ thế kỷ XIX về trước đã có nhiều sách xưa khẳng định vấn đề này
  6. như Đại Việt sử loại tiệp lục (có bài Phả ký đã dẫn) của Vũ Khâm Lân; Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề; Công dư tiệp ký tục biên mà có nhà nghiên cứu nghi vấn tác phẩm này chính là Cát Xuyên tiệp bút của Trần Tiến?; Tục Công dư tiệp ký của Trần Trợ (Trần Quý Nha) là con trai của Trần Tiến; Toàn Việt thi lục và Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn; Tang thương ngẫu lục của Nguyễn Án và Phạm Đình Hổ; Hoàng Việt thi tuyển và Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích; rồi Lịch triều hiến chương loại chí - Mục Nhân vật chí và Văn tịch chí của Phan Huy Chú (16) v.v.. Tất cả đều ghi “Nguyễn Dữ cùng với Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thì Cử, Đinh Thì Trung, Nguyễn Quyện … là những học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Sang thế kỷ XX đến nay, Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu; Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, (thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII); Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2 (thế kỷ X - thế kỷ XVII); Bùi Văn Nguyên với Lịch sử văn học Việt Nam tập 2 và Văn học Việt Nam thế kỷ X - giữa thế kỷ XVIII; Đinh Gia Khánh với Văn học cổ Việt Nam và Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII; Thúc Ngọc Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập 1 và Lược truyện các tác gia Việt Nam; Lê Trí Viễn (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam; Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam
  7. thời trung đại, tập 1, Truyện ngắn; Nguyễn Nam, Phiên dịch học lịch sử - văn hoá Trường hợp Truyền kỳ mạn lục (công trình này có dịch và đăng lại bài viết của M. Tkachov “Bậc thầy của những chuyện kỳ diệu sáng tạo từ đất Hải Dương”); Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học, Bộ mới, các mục từ viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm, về Nguyễn Dữ, về Phùng Khắc Khoan; Trần Lê Sáng, Phùng Khắc Khoan cuộc đời – thơ văn; Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1; Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X - cuối thế kỷ XIX) (17). Đó là chưa kể những bài viết trên các báo, tạp chí, các chuyên khảo v.v.. khi đề cập đến Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Dữ cũng đều cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thầy học của Nguyễn Dữ; và Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ và Truyền kỳ mạn lục của các học giả ở nước ngoài như ở Nhật bản có Xuyên Bản Bang Vệ “Truyền kỳ mạn lục tiểu khảo”, Nghệ văn nghiên cứu, số 27 (18), tr. 379; ở Trung quốc có La Hoài “Nho học tại Việt Nam”; Trịnh Vĩnh Thường “Hán văn văn học tại An Nam đích hưng thệ”, Đài Loan Thương vụ ấn thư quán, thiên 4, chương 3 (19); Trần Ích Nguyên “Tiễn đăng tân thoại dữ Truyền kỳ mạn lục tỷ giảo so sánh”, chương 2, tiết 2, Đài Loan học sinh thư cục xuất bản, Đài Bắc, 1990 (20); ở Nga có M. Tkachov, Bậc
  8. thầy của những chuyện kỳ diệu sáng tạo từ đất Hải Dương (21) v.v.. Tất cả đều dựa vào tư liệu cổ ở ta mà tin theo và viết rằng: Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ nửa đầu thế kỷ XVIII đến nay, những người đời sau đều căn cứ vào bản “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký” của Vũ Khâm Lân và Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề là những tài liệu xưa nhất nói về mối quan hệ này mà cho rằng Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm và là bạn học của Phùng Khắc Khoan. Trong bài Phả ký, Vũ Khâm Lân đã viết: “Nói về môn sinh của ông sự thực không biết bao nhiêu mà kể, nhưng nói riêng những người đã có tiếng tăm lừng lẫy thì có những ông như Phùng Khắc Khoan, như Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ và Trường Thì Cử…, đều đã nhờ ơn truyền thụ, số học từng đi đến chỗ uyên thâm, và sau đều là những bậc danh thần thời trung hưng” (22). Thực tế có phải như vậy không? Đứng trước một khối tư liệu có thể nói là lớn và nhiều như trên (mà chúng tôi liệt kê chưa đủ hết) để giải đáp một vấn đề rất nhỏ như tiêu đề đã nêu, thì có nên không? Việc chẻ sợi tóc ra làm tư có đáng hay không? Chúng tôi băn khoăn mãi, nhưng cuối cùng đành phải làm cái
  9. việc thật dại dột là đặt lại nghi vấn về vấn đề này. Mặc dù chúng tôi biết rằng mình là hậu sinh lại học thuật, kiến văn nông cạn, mà những tư liệu trên đều là của những danh sĩ lỗi lạc thời phong kiến, hay của những nhà nghiên cứu bậc thầy, của những vị giáo sư lỗi lạc thời hiện đại đã viết ra, thì làm sao mà phản biện cho được! Đức Khổng Tử từng căn dặn đồ đệ: “Tận tín thư bất như vô thư” (Hoàn toàn tin ở sách, thà không có sách còn hơn). Có nghi vấn này là nhờ bắt nguồn từ lời dạy trên của bậc Vạn thế sư biểu. Chúng tôi thiển nghĩ, muốn đặt lại vấn đề đã được khẳng định và sàng lọc qua mấy trăm năm như trên, có lẽ cần trở lại tiểu sử lai lịch của hai cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ. Về cuộc đời và tiểu sử cụ Trạng Trình thì đã rõ. Còn cuộc đời và tiểu sử Nguyễn Dữ hiện vẫn còn là khoảng trống, chưa được lấp đầy vì tư liệu xưa quá ít ỏi, chỉ có dăm ba dòng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2