Đề bài: Đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca <br />
của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Hãy phân tích và chứng minh ý <br />
kiến trên<br />
Bài làm:<br />
Nguyễn Đình Chiểu được biết đến không chỉ là một nhà Nho tiết tháo mà còn là một nhà <br />
thơ với tinh thần yêu nước nồng nàn. Bởi vậy, đau đớn trước cảnh các nghĩa sĩ hi sinh <br />
thân mình vì đất nước, nhà thơ đã sáng tác "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" để bày tỏ nỗi xót <br />
thương với họ. Nhận xét về tác phẩm, đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng: Bài thơ là <br />
khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang.<br />
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác trong hoàn cảnh vô cùng đau thương. Cuộc <br />
kháng chiến chống Pháp bùng nổ, đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu, nhiều người nông dân <br />
đã tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc. Cuộc khởi nghĩa đã giết được một tên quan hai của <br />
Pháp và chi viện nhưng lại bị dập tắt đẫm máu khiến cho 20 nghĩa sĩ hi sinh. Bài văn tế <br />
được đọc trong buổi lễ truy điệu những người nghĩa sĩ, khiến ai ai cũng không khỏi cảm <br />
thấy xót xa.<br />
Trước tiên, ở những người nghĩa sĩ ấy người đọc thấy được tượng đài sừng sững hiên <br />
ngang của tinh thần quả cảm không ngờ. Họ vốn xuất thân là những người nông dân áo <br />
vải và hoàn toàn xa lạ với công việc của người lính:<br />
"Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó<br />
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu,ở trong làng bộ".<br />
Vậy mà, khi nghe tiếng "súng giặc đất rền", họ căm thù chúng sâu sắc "trông tin quan như <br />
trời hạn trông mưa", "ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ". Ẩn dưới cách nói khẩu ngữ <br />
của người nông dân ấy là nhận thức sâu sắc về chủ quyền dân tộc, để rồi họ lâm trận <br />
với manh áo vải làm đồng còn lấm lem bùn đất: "Ngoài cật có một manh áo vải", "trong <br />
tay cầm một ngọn tầm vông". Đối lập với những trang thiết bị hiện đại, quân lính chuyên <br />
nghiệp của kẻ thù là võ trang thô sơ, sơ sài của những người nghĩa sĩ. Họ ra trận chỉ có <br />
tấm lòng và tinh thần dũng cảm vô song, nhưng họ chiến đấu bằng tất cả những gì họ có <br />
với khí thế ngùn ngụt: "Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; <br />
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ", "Chi nhọc quan <br />
quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng <br />
Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có". Những động từ <br />
mạnh như "đạp rào lướt tới", "xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có", "kẻ đâm ngang, <br />
người chém ngược" đã miêu tả sự quyết liệt , dữ dội của trận đấu cùng với những hành <br />
động quyết đoán của nghĩa sĩ Cần Giuộc. Kết quả là, họ đã làm nên chiến thắng to lớn, <br />
uy hiếp khiến kẻ thù lo sợ: "mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt <br />
tàu đồng súng nổ".<br />
Qua ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, người nông dân được ca ngợi với những chiến <br />
công hiển hách, nhưng nhà thơ cũng không thể tránh được cảm xúc đau lòng: "Đoái sông <br />
Cần Giuộc: Cỏ cây mấy dặm sầu giăng; Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ". <br />
Nỗi xót xa ấy càng tăng thêm gấp bội với nỗi bất hạnh của những gia đình đang đánh mất <br />
trụ cột duy nhất: "Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; <br />
não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".<br />
Càng thấm thía nghịch cảnh éo le của những người nghĩa sĩ bao nhiêu, Nguyễn Đình <br />
Chiểu lại càng đề cao, ca ngợi công lao của họ, để rồi hình tượng người nghĩa sĩ hiện lên <br />
vĩnh viễn hóa, bất tử hóa. Họ hiên ngang không chỉ trong chiến đấu, mà ngay cả khi thất <br />
thế, ở họ ta vẫn thấy tầm vóc hùng hũng, lớn lao: "Thà thác mà đặng câu địch khái, về <br />
theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ", "Sống đánh <br />
giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ bình, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; <br />
sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó". <br />
Vẻ đẹp bi tráng với lí tưởng và lòng trung hiếu của những người nông dân áo vải ấy đã, <br />
đang và sẽ trường tồn mãi mãi với thời gian, như một chân lí không thể thay đổi. Bài thơ <br />
vì thế đau thương nhưng cũng trở nên hào hùng hơn bao giờ hết. <br />
Thật vậy, lời nhận xét của đồng chí Phạm văn Đồng về những người nghĩa sĩ quả thực <br />
rất chính xác. Tuy rằng cuộc chiến của họ bị dập tắt nhưng vượt lên tất cả, vẻ hiên <br />
ngang oai hùng của họ sẽ luôn sống mãi với thời gian. Tượng đài bi tráng ấy sẽ vĩnh viễn <br />
hóa, bất tử hóa cùng với nhân dân, dân tộc.<br />
<br />
<br />