Hiện tượng đô la hóa
lượt xem 257
download
Đô la hóa (dollarization) là việc sử dụng một ngoại tệ để thực hiện một số hay tất cả các chức năng của tiền tệ, quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và thay vào đó sử dụng đồng tiền của nước khác ổn định hơn làm phương tiện thanh toán. Nói cách khác, đô la hóa xảy ra khi dân chúng trong một nước sử dụng rộng rãi ngoại tệ, song song hoặc thay thế cho đồng tiền nội tệ của mình. Tuy khái niệm này được gắn liền với đồng đô la Mỹ, việc chuyển đổi ra bất kỳ ngoại...
Bình luận(1) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hiện tượng đô la hóa
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Phần I : TỔNG QUAN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA I. KHÁI NIỆM Đô la hóa (dollarization) là việc sử dụng một ngoại tệ để thực hiện một số hay tất cả các chức năng của tiền tệ, quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và thay vào đó sử dụng đồng tiền của nước khác ổn định hơn làm phương tiện thanh toán. Nói cách khác, đô la hóa xảy ra khi dân chúng trong một nước sử dụng rộng rãi ngoại tệ, song song hoặc thay thế cho đồng tiền nội tệ của mình. Tuy khái niệm này được gắn liền với đồng đô la Mỹ, việc chuyển đổi ra bất kỳ ngoại tệ có tính ổn định nào khác, ví dụ như đồng Euro Châu Âu, đồng Yên Nhật, đồng Mác Đức - đều thường được gọi là đô la hóa II. CÁC HÌNH THỨC ĐÔ LA HÓA: Ngày nay, đô la hóa là hiện tượng khá phổ biến, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hóa cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp đô la hóa cao có 19 nước, trường hợp đô la hóa cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/ M2 khoảng 16,4% có 35 nước; trong số đó có Việt Nam. Tính đến đầu năm 2000 đã có trên 60 nước thực hiện đô la hóa (chính thức hoặc không chính thức) dù mức độ của mỗi nước là có khác nhau. Căn cứ vào hình thức và mức độ đô la hóa, người ta chia ra làm ba loại : không chính thức, bán chính thức và chính thức. 1. Đô la hóa không chính thức (đồng tiền thay thế) : Đô la hóa không chính thức xảy ra khi giá trị của đồng nội tệ dao động quá nhiều vì vậy đồng đô la được sử dụng để giao dịch mua bán, tiết kiệm cá nhân và khi vay tiền vì nó đáng tin hơn. Do đó người dân cất trữ phần lớn tài sản của mình bằng ngoại tệ ngay cả khi ngoại tệ đó không phải là đồng tiền pháp định của nước mình. Trên thực tế, ở rất nhiều nước, đô la hóa không chính thức mặc nhiên tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau bất chấp các quy định của luật pháp. Ở một số nước thì việc cất trữ tài sản nước ngoài là hợp pháp nhưng một số nước khác thì không cho phép dân chúng nắm giữ các tài sản nước ngoài, chẳng hạn cấm mở tài khoản bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Thuật ngữ đô la hóa không chính thức được dùng bao gồm cho cả hai trường hợp, hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Hình thức đơn giản nhất của đô la hóa không chính thức là việc dân chúng có thể gửi tiền ở ngân hàng bằng ngoại tệ hoặc cất trữ đô la tiền mặt nhưng vẫn tiếp tục dùng đồng tiền nội tệ trong hoạt động mua bán hàng ngày. Giai đoạn này thường được gọi là “thay thế tài sản” bởi vì hành động này của dân chúng là nhắm đến việc bảo đảm an toàn tài sản của mình khi có lạm phát xảy ra với đồng tiền trong nước. Ở giai đoạn cao hơn, thường được gọi là “thay thế tiền tệ” đó là lúc người ta dùng đô la trong các giao dịch có giá trị lớn như mua xe, mua nhà và sử dụng đô la mặt như một phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Chỉ những giao dịch thông dụng, có giá trị nhỏ như tiền điện, nước, mua sắm các vật dụng hàng ngày hoặc những giao dịch mà chính phủ bắt buộc như nộp thuế, chi trả tiền lương mới sử dụng bằng nội tệ. Giai đoạn cuối của tiến trình đô la hóa không chính thức là lúc dân chúng thường suy nghĩ và tính toán theo đô la, giá của đồng tiền trong nước luôn được quy ra theo đô la. -1-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Như vậy, nhìn chung đô la hóa không chính thức là việc dân chúng cất giữ các tài sản dưới những hình thức sau : Chứng khóan nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào khác (không phải là tiền tệ) của nước ngoài. Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Tiền gửi bằng ngoại tệ ở ngân hàng trong nước. Ngoại tệ mặt. Việc đo lường mức độ đô la hóa không chính thức rất khó khăn vì người ta không thể thống kê chính xác được lượng đô la mặt mà dân chúng nắm giữ, số dư tiền gửi bằng ngoại tệ ở trong nước và nước ngoài, giá trị của các tài sản nước ngoài do dân chúng nắm giữ do đó người ta chỉ có thể ước đoán mức độ lưu hành của đồng đô la Mỹ và một số tiền tệ khác để đưa ra hình ảnh sơ bộ về sự phổ biến của việc đô la hóa không chính thức. Theo tính toán của Cục dự trữ liên bang Mỹ thì người nước ngoài hiện đang nắm giữ khoảng 300 tỉ đô la mặt tức là chiếm khoảng 55%-70% trong tổng số hơn 480 tỉ đô la giấy đang được lưu hành. Hầu hết các nghiên cứu về đô la hóa được tập trung vào đô la hóa không chính thức bởi vì lợi ích và thiệt hại từ việc đô la hóa không chính thức là không rõ ràng, rất khó tính toán và rất khác nhau tùy thuộc vào đặc thù của từng nước. Về ưu điểm, đô la hóa không chính thức sẽ giúp chống được hiện tượng lạm phát đối với đồng nội tệ đồng thời góp phần làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động bền vững hơn. Khi chính phủ cho phép ngân hàng trong nước nhận tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ góp phần hạn chế được hiện tượng dân chúng đem tiền gửi ở nước ngoài và do vậy sẽ ít có nguy cơ dân chúng đổ xô đến ngân hàng rút tiền khi đồng nội tệ mất giá. Tuy nhiên, điều này sẽ dẫn đến bất lợi là rất dễ tạo nên tình trạng đồng nội tệ mất giá đột ngột khi dân chúng đồng loạt quay sang dùng ngoại tệ và điều này cũng sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ của mình. 2. Đô la hóa bán chính thức Đô la hóa bán chính thức xảy ra khi một nước sử dụng đồng ngoại tệ như là đồng tiền pháp định nhưng đóng vai trò thứ hai sau đồng nội tệ trong việc chi trả tiền lương, thuế và các chi tiêu hàng ngày như tiền đi chợ, tiền điện, nước .v.v.v. Không giống như các nước thực hiện đô la hóa chính thức, những nước có đô la hóa bán chính thức vẫn giữ một ngân hàng trung ương trong nước hoặc một hệ thống tiền tệ khác và có một khu vực riêng để thực hiện chính sách tiền tệ của mình. Có hơn 12 quốc gia có hiện tượng này, tiêu biểu như: Brunei, Tajikistan, Liberia, Lào, Campuchia... 3. Đô la hóa chính thức: Đô la hóa chính thức (hay còn gọi là đô la hóa hoàn toàn) xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành Quá trình này diễn ra khi chính phủ của một nước không phát hành nội tệ mà thay vào đó sử dụng đô la Mỹ hoặc một ngoại tệ khác như một tiền tệ chính thức (một số ít các nước đô la hóa chính thức có phát hành tiền xu nhưng vì tiền xu có mệnh giá thấp và thường là một phần phụ trong cung tiền tệ nên có không ảnh hưởng đến đô la hóa). Như vậy, ở những nước này, ngoại tệ không chỉ sử dụng trong trao đổi mua bán giữa các cá nhân mà còn là phương -2-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 tiện thanh toán của chính phủ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hóa chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Khi một nước thực hiện đô la hóa chính thức thì mặc nhiên nó sẽ trở thành một bộ phận trong khu vực tiền tệ thống nhất cùng với nước có đồng tiền mà nó đang sử dụng. Và như vậy, nước đô la hóa chính thức sẽ từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập của mình và áp dụng những chính sách tiền tệ của nước mà nó đang sử dụng đồng tiền. Vì vậy, nước thực hiện đô la hóa chính thức sẽ không thể phản ứng lại những cú sốc kinh tế bằng cách thay đổi chính sách tỉ giá hối đoái của nước mình. Tuy nhiên, nước này vẫn có thể sử dụng những phương cách khác như điều chỉnh dòng vốn vào/ra, thay đổi chính sách giá, chính sách kinh tế... Các quốc gia bị đô la hóa đồng tiền đều không phát hành đồng nội tệ, trong khi đó cũng có một số nước, chẳng hạn như Panama, phát hành đồng nội tệ như là sự lựa chọn thứ 2 của mình. Các nước bị đô la hóa không hoàn toàn và bán đô la hóa, năm 2002 Đô la hóa không chính thức (đồng đô la Mỹ): hầu hết các nước Mỹ Latin và Caribe, trong đó có : Argentina, Bolivia, Mexico, Peru, and Trung Mỹ; các nước thuộc Liên Xô cũ, như : Armenia, Azerbaijan, Georgia, Russia, and Ukraine; 1 vài nước khác, bao gồm : Mongolia, Mozambique, Romania, Turkey, and Vietnam. Bán đô la hóa (đồng đô la Mỹ): Bahamas, Cambodia, Haiti, Laos (cũng có đồng Thai baht), Liberia. Đô la hóa không chính thức (các đồng tiền khác) : franc Pháp – vài thuộc địa cũ của Pháp ở châu Phi; mark Đức – các nước vùng Balkan; đô la Hong Kong - Macau và miền Nam Trung Quốc; rúp Nga - Belarus. Bán đô la hóa (các đồng tiền khác) : Bhutan (rupee Ấn Độ); Bosnia (German mark, Croatian kuna, Yugoslav dinar); Brunei (dollar Singapore); Channel Islands, Isle of Man (bảng Anh); Lesotho (đồng rand Nam Phi); Luxembourg (franc Bỉ); Montenegro (German mark, Yugoslav dinar); Namibia (rand Nam Phi); Tajikistan (ruble Nga). NỀN KINH TẾ DÂN SỐ GDP (tỉ $) THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ Từ Thuộc Mỹ American Samoa 67,000 0.5 1899 British Virgin Thuộc Anh 21,000 0.3 1973 Islands Độc lập East Timor 800,000 0.4 2000 Độc lập Ecuador 13,200,000 37.2 2000 Độc lập El Salvador 6,200,000 24.0 2001 Thuộc Mỹ Guam 160,000 3.2 1898 Độc lập Marshall Islands 71,000 0.1 1944 Độc lập Micronesia 135,000 0.3 1944 Northern U.S. cộng đồng chung 75,000 0.9 1944 Mariana Islands Độc lập Palau 19,000 0.1 1944 Độc lập, phát hành tiền đồng riêng Panama 2,800,000 16.6 1904 -3-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Thuộc Anh; cũng sử dụng New Zealand Pitcairn Islands 47 0.0 1800s dollars U.S. cộng đồng chung Puerto Rico 3,900,000 39.0 1899 Turks and Caicos Thuộc địa Anh 18,000 0.1 1973 Islands U.S. Virgin Thuộc Mỹ 120,000 1.8 1934 Islands Nguồn: Kurt Schuler, "Encouraging Official Dollarization in Emerging Markets," Ghi chú: một vài quốc gia (Bahamas, Guatemala, ...) phát hành nội tệ và tiền xu nhưng chủ yếu trong thanh toán vẫn là đồng đô la Mỹ. Bảng 1. Các nước bị đô la hóa không hoàn toàn và bán đô la hóa, năm 2002 III. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA Thứ nhất, một số quốc gia quyết định đô la hóa một phần là do đất nước đang phải đối đầu với tỉ lệ lạm phát không thể kiểm soát nổi và phá giá đồng nội tệ sẽ đe doạ toàn bộ nền kinh tế. Những người đang có trong tay đồng nội tệ sẽ đòi một lãi suất rất cao để bù vào khoản trượt giá. Ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để bảo vệ đồng nội tệ khỏi bị trượt giá quá nhanh. Trong hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy, rất nhiều nhà kinh doanh sẽ vay bằng ngoại tệ để được lãi suất thấp. Việc người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ và đổ xô mua đô la sẽ làm cho đồng nội tệ càng mất giá hơn. Bất chấp lãi suất cao, người dân vẫn giảm gửi tiền tiết kiệm bằng nội tệ và nhiều nhà kinh doanh sẽ chuyển vốn của họ ra nước ngoài. Thứ hai, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hóa ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước. Thứ ba, mức độ đô la hóa ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hóa càng cao. Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng đô la hóa là do ngân hàng trung ương đã không hoạt động có hiệu quả, do đó đô la hóa dường như là phương cách hiệu quả để giữ cho tiền tệ ổn định. Thực tế cho thấy, ở những nước có đô la hóa hay đô la hóa ở mức độ cao thì nhìn chung là ngân hàng trung ương hoạt động kém hiệu quả hơn so với ngân hàng trung ương ở những nước không có đô la hóa hoặc đô la hóa mức thấp: lạm phát cao hơn, quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn, phá giá đồng tiền hơn và quốc hữu hóa tài sản của dân chúng nhiều hơn. Có thể nói rằng, bất kỳ một nước nào có đồng tiền ít nhất là không hoạt động mạnh bằng đô la Mỹ thì có khả năng xảy ra đô la hóa và đô la hóa càng dễ dàng xuất hiện ở một nước khi lạm phát ở nước đó cao liên tục trong nhiều năm hoặc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối quá chặt chẽ. -4-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 IV. TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA 1. Tác động tích cực - Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hóa ở thị trường phi chính thức. Ở các nước đô la hóa chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, sẽ giúp duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp, làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. Lợi ích thứ hai đến từ việc hạ thấp lạm phát hiện hành và hạ thấp rủi ro của lạm phát trong tương lai. Bằng việc sử dụng ngoại tệ, một nước đô la hóa chính thức bảo đảm tỷ lệ lạm phát của nó gần hơn tỷ lệ lạm phát của nước phát hành. Sử dụng đô la, euro, yên sẽ giảm lạm phát xuống một con số từ hai con số, mức mà những nước đang phát triển hiện đang gặp phải. Lạm phát ở mức thấp gia tăng sự an toàn của sở hữu tư nhân. Tiền là loại sở hữu phổ biến nhất. Lạm phát là một loại thuế đánh vào tiền, lạm phát càng thấp và càng ít thay đổi, quyền sở hữu tiền càng bảo đảm hơn. Bởi vì những tài sản thuộc về tài chính khác được gọi bằng tiền (đơn vị tiền tệ), lạm phát ở mức thấp cũng gia tăng sự an toàn của chúng,khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Panama là quốc gia Mỹ Latin độc lập duy nhất hiện có tỷ lệ thế chấp cho vay cố định trong 30 năm mà không có trợ cấp chính phủ bởi vì đó là quốc gia duy nhất không chịu lạm phát cao và sự mất giá tiền tệ trong 15 năm cuối. Lạm phát ở mức thấp cũng giúp những người nghỉ hưu, người có thu nhập cố định,và những người quá nghèo có tài khoản ngân hàng bằng việc bảo đảm rằng tiền tiết kiệm của họ giữ được giá trị. - Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Đô la hóa sẽ giúp cho một nước có lạm phát thấp và ít biến động và từ đó sẽ giúp giảm được lãi suất thực do vậy sẽ góp phần thúc đẩy phát triển tín dụng trung và dài hạn. - Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hóa chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Một nghiên cứu chỉ ra rằng ở Panama, đô la hóa chính thức cho phép dự trữ ngân hàng là 5% GDP,thấp hơn lượng dự trữ nếu Panama có nội tệ riêng. Đô la hóa sẽ có thể giúp tạo ra đồng tiền có thể chuyển đổi hoàn toàn ở những nước mà tiền tệ chưa có khả năng chuyển đổi. Khi đô la hóa kết hợp với một hệ thống ngân hàng quốc tế hóa tức là hoà nhập vào thị trường tài chính thế giới thì đô la hóa sẽ giúp các nước chỉ cần dự trữ ngoại tệ thấp hơn các hệ thống tiền tệ khác. -5-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Không có rủi ro ngoại hối cũng sẽ giúp cho các ngân hàng hiện đang thiếu dự trữ có thể vay quỹ của thế giới với cùng một mức phí hoặc thấp hơn. - Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hóa chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hóa có thể được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. Đô la hóa sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài, một khi họ biết là giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ không thay đổi, những điều này sẽ đưa đến tốc độ phát triển nhanh và đầu tư tăng. Về mặt tâm lý, đô la hóa sẽ làm giảm các nỗi lo về nền kinh tế - Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). 2. Tác động tiêu cực Đô la hóa có thể gây ra hàng loạt các bất lợi và những hệ lụy phức tạp mà các nước có đô la hóa sẽ phải đối mặt. Đô la hóa dù là không chính thức sẽ làm suy giảm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về tiền tệ, gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ của mình thông qua việc hạn chế và có thể “vô hiệu hóa” vai trò của lãi suất đồng nội tệ, tỉ giá hối đoái, đặc quyền phát hành tiền của ngân hàng trung ương đồng thời cũng sẽ khiến cho ngân hàng trung ương “đánh mất” vai trò là người cho vay sau cùng. Ở phương diện này có thể coi đô la hóa là một cuộc tấn công tiền tệ - Đô la hóa ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế. - Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ : • Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời. • Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. • Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hóa có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hóa có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hóa sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. • Ở trong các nước đô la hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác -6-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. • Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hóa cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ. - Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hóa chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Khi và nếu đồng đô la dao động so với các đồng tiền khác trên thế giới đôi lúc khá mạnh, thì sẽ không có cách nào để đối phó với những cuộc khủng hoảng. Vì nước thực hiện đô la hóa hoàn toàn trao quyền kiểm soát và quyền đưa ra một chính sách tiền tệ tập trung và độc lập cho ngân hàng trung ương của nước phát hành tiền. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ chỉ đưa ra những quyết định có lợi cho Mỹ và không quan tâm mấy đến tình hình ở các nước thực hiện đô la hóa. Cũng từ nguyên nhân trên, nước thực hiện đô la hóa sẽ không thể đối phó với các cú sốc kinh tế; ví dụ như dao động của giá dầu trên thị trường thế giới, bằng cách thay đổi tỉ giá hối đoái. Đô la hóa sẽ vô hiệu hóa phương thức sử dụng chính sách tỉ giá hối đoái. Các cú sốc ngoại biên, dao động của đồng đô la chỉ là một trong số đó, sẽ không thể được đồng nội tệ hấp thụ bớt mà sẽ được truyền thẳng vào các hoạt động kinh tế. - Đô la hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hóa hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song người dân vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hóa hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất. Bên cạnh đó, xét về khía cạnh chi phí thì khi xảy ra đô la hóa, chính phủ sẽ mất đi chênh lệch giá phí tức là khoản chênh lệch giữa chi phí khi đưa đồng tiền vào lưu thông và giá trị hàng hóa mà đồng tiền đó mua được (ở đây, khái niệm chênh lệch giá phí áp dụng cho toàn bộ cơ số tiền đang lưu hành cộng với dự trữ ngân hàng). Nghiên cứu của Stanley Fischer, Phó giám đốc điều hành của IMF vào năm 1982 đã chia chênh lệch giá phí từ đô la hóa ra làm hai phần là “stock cost” và “flow cost”. Theo Fischer, “stock cost” là chi phí một lần ban đầu khi đưa một lượng tiền giấy, tiền xu đô la cần thiết để thay cho đồng nội tệ đang lưu hành và Fischer ước tính chi phí này chiếm khoảng 8% GNP với nhận định rằng càng nhiều người thích sử dụng tiền giấy và tiền xu nhiều hơn séc và thẻ tín dụng thì “stock cost” càng cao. Còn “flow cost” là chi phí liên tục mất đi do tiền giấy và tiền xu không sinh lãi và tỉ lệ lạm phát càng cao thì “flow cost” càng cao với ước tính khoảng 0,75% đến 1% GNP mỗi năm. Ngoài ra, nước thực hiện đô la hóa còn phải chịu các chi phí khác như chi phí cho một lần chuyển đổi giá cả, thay đổi chương trình máy tính, thay thế hệ thống máy bán hàng tự động, máy rút tiền và cả những chi phí do đánh mất sự độc lập và linh động trong -7-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 chính sách tiền tệ khi phải bó buộc với chính sách tiền tệ của nước có đồng tiền sử dụng trong thời kỳ giá cả tăng vọt. Ngoài việc đánh mất khả năng in tiền, là một trong những biện pháp tài chính cực kỳ quan trọng, nước thực hiện đô la hóa sẽ mất ưu quyền tiền tệ. Về cơ bản ưu quyền tiền tệ là lợi nhuận thu được từ việc phát hành tiền. Đây là một hình thức kinh doanh rất có lãi, vì giá in tiền và phát hành tiền (thật ra chỉ là một mảnh giấy không có giá trị) thấp hơn rất nhiều so với giá trị những mặt hàng mà mảnh giấy này sẽ mua được. Chính phủ Mỹ thu được khoảng 25 tỉ USD/năm từ ưu quyền tiền tệ, và khi người dân các nước khác giữ tờ đô la Mỹ trong tay- họ đã góp phần làm giàu cho Bộ Tài chính Mỹ. Một nhược điểm nữa của đô la hóa là lo sợ tiền giả. Rủi ro về chính trị cũng có thể xảy ra. Khi El Salvador tiến hành đô la hóa, đảng đối lập gọi đó là hành động bán mình cho đế quốc. Thuyết phục người dân bản xứ sử dụng một loại tiền không quen thuộc cũng không phải dễ. Một trong những khó khăn Argentina gặp phải khi quyết định đô la hóa sẽ là văn hóa: đô la hóa có thể được coi là thua chủ nghĩa thực dân, là dâng nộp biểu tượng niềm tự hào của đất nước. -8-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Phần II THỰC TRẠNG VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM Do đặc thù của cơ chế quản lý và biến động của kinh tế thế giới có ảnh hưởng đến Việt Nam, việc đánh giá tính chuyển đổi của VND và mức độ Đô la hóa sẽ chia thành ba giai đoạn. I. GIAI ĐOẠN TRƯỚC KHI MỞ CỬA (1988) Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Việc chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỷ giá (tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp định song biên - đa biên, đồng tiền sử dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng Rúp chuyển nhượng và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả năng chuyển đổi của VND rất hạn chế. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất bại của chính sách giá - lương - tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt tăng giá vàng. Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ ĐLH là không đáng kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ. II. GIAI ĐOẠN BẮT ĐẦU MỞ CỬA ĐẾN TRƯỚC KHỦNG HOÀNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC (1988 - 1997) 1. Tính chuyển đổi của VND Tính chuyển đổi của VND đã được nâng cao đáng kể so với giai đoạn trước do vị thế của VND được phục hồi, chính sách quản lý ngoại hối có sự nới lỏng hơn và khả năng đáp ứng ngoại tệ được cải thiện một bước. Việt Nam chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước dần xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế tăng trưởng cao và khá ổn định, trung bình gần 8%/năm, lạm phát được kiểm soát ở mức trên dưới 10%, kinh tế đối ngoại phát triển mạnh ở cả xuất nhập khẩu, đầu tư và vay nợ nước ngoài. Cùng với thắng lợi trong việc kiềm chế lạm phát, sự phát triển của hệ thống ngân hàng hai cấp đã khôi phục dần vị thế của VND. Hình thành Trung tâm giao dịch ngoại tệ và sau đó là Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán bắt đầu phát triển, VND được hỗ trợ bởi các ngân phiếu thanh toán có mệnh giá lớn làm cho việc sử dụng thuận tiện hơn. Trong điều kiện tỷ giá tương đối ổn định, lạm phát đã được kiềm chế nên mức lãi suất cao làm cho VND trở nên khá hấp dẫn. Trong giai đoạn này, Nghị định số 161-HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ quản lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành thay thế Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm -9-
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 1963 của Chính phủ về Điều lệ quản lý ngoại hối, tiếp sau đó là một loạt các văn bản như Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ để sửa đổi, bổ sung Nghị định 161/ HĐBT theo hướng nới lỏng hơn. - Giao dịch vãng lai: tổ chức được mua ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu, trả lãi khoản vay nước ngoài hoặc chuyển lợi nhuận về nước của Nhà đầu tư nước ngoài theo tỷ giá giao dịch của Ngân hàng. Kiều hối được khuyến khích chuyển ngoại tệ về, được gửi vào ngân hàng và được rút ra bằng ngoại tệ. Công dân Việt Nam khi có nhu cầu về ngoại tệ để đi công tác, học tập, lao động, du lịch chữa bệnh ở nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xem xét cấp phép cho mua số ngoại tệ cần thiết. - Giao dịch vốn: tổ chức kinh tế được vay nước ngoài và mua ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài được phép mua ngoại tệ trong một số trường hợp đặc biệt (xây dựng hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu). Tuy nhiên, còn nhiều hạn chế như: nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện chế độ tự cân đối ngoại tệ, việc tiếp cận ngoại tệ phải có giấy phép của NHNN, vay nợ nước ngoài phải được sự chấp thuận của NHNN, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không được vay ngoại tệ của ngân hàng. - Khả năng đáp ứng ngoại tệ: khả năng đáp ứng ngoại tệ của Hệ thống Ngân hàng được cải thiện hơn do xuất khẩu tăng và nguồn vốn dài hạn nước ngoài vào nhiều qua vay nợ và đầu tư trực tiếp. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu phát huy tác dụng. Tỷ giá chính thức vẫn do NHNN công bố nhưng linh hoạt hơn do đã áp dụng biên độ tỷ giá. Về cuối giai đoạn, khi khu vực bị khủng hoảng, vay nợ và đầu tư nước ngoài giảm mạnh thì cung - cầu ngoại tệ mất cân đối nghiêm trọng. Mặt khác, do cơ chế tỷ giá còn thiếu linh hoạt, thị trường ngoại tệ kém phát triển, công cụ thị trường còn hạn chế làm chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế bị ách tắc, khó mua được ngoại tệ nên các tổ chức kinh tế và ngân hàng cũng có xu hướng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ. 2. Mức độ đô la hóa Nhìn chung mức độ ĐLH có xu hướng giảm mạnh. Năm 1991, tỷ lệ FCD/M2 lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ hợp pháp và bất hợp pháp tương đối nhiều, việc định giá bằng ngoại tệ và vàng (kể cả đối với các giao dịch nhỏ) trong dân cư khá phổ biến. Nguyên nhân do ảnh hưởng của lạm phát phi mã giai đoạn trước (đến năm 1991 lạm phát vẫn còn tới 67,5 %). Người dân ưa thích sử dụng ngoại tệ còn do lợi ích thực tế của việc sử dụng trong cất trữ, vận chuyển, thanh toán vì mệnh giá VND quá nhỏ, hệ thống thanh toán lại kém phát triển. Đến giai đoạn 1993 -1996, khi lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá biến động ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ ĐLH giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm 1997 còn 22,9%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và các hoạt động kinh tế ngầm, do sự bất tiện khi sử dụng VND vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Các hoạt động ngoại hối trái phép tồn tại chủ yếu bởi chưa được xử lý một cách kiên quyết do thiếu chế tài, thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lý. III. GIAI ĐOẠN TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC ĐẾN NAY Việc đánh giá khả năng chuyển đổi của VND và mức độ ĐLH trong giai đoạn này được chia thành 2 giai đoạn nhỏ hơn, đó là thời gian nền kinh tế chịu ảnh hưởng của khủng hoảng và thời gian phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng. 1. Từ 1998 đến 2001 - 10 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 a) Tính chuyển đổi của VND Vị thế của VND tiếp tục được cải thiện tuy có bị ảnh hưởng của khủng hoảng khu vực. Xét theo quy định về quản lý ngoại hối và cơ chế tỷ giá thì khả năng chuyển đổi của VND có bước nâng cao so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng ngoại tệ trên thực tế có những hạn chế nhất định do cơ chế tỷ giá vẫn còn thiếu linh hoạt, khó dự đoán, do chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bị ách tắc. Do khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, mức tăng GDP của Việt Nam giảm mạnh, trung bình chỉ còn 6%/năm. Năm 1998, lạm phát lên đến 9,2% (so với mức 3,6% năm 1997), sau đó rơi vào giảm phát mà thấp nhất vào năm 2000 (-0,6%). Trong giai đoạn này, tăng trưởng xuất nhập khẩu cũng biến động với mức độ lớn, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) suy giảm mạnh và vay nợ nước ngoài gặp khó khăn. Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp tích cực như đẩy mạnh tự do hóa thương mại, cải tổ chính sách thuế, ban hành các Luật quan trọng như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại. Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, đồng thời thực hiện việc đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh sau khi ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Hệ thống ngân hàng tiếp tục được củng cố sau khi ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các Tổ chức tín dụng. Tiến hành việc sắp xếp, cơ cấu lại các NHTM cổ phần và chuẩn bị các phương án củng cố NHTM Nhà nước. Hình thành thị trường chứng khóan với quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường. Để hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng và tiếp tục mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 17 tháng 8 năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối cùng với một loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quản lý ngoại hối. Các chính sách mới được ban hành là một tiến bộ về cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng chuyên nghiệp và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. - Giao dịch vãng lai: hình thành cơ bản xu hướng tự do hóa các giao dịch vãng lai so với quy định của IMF. Chỉ còn một số hạn chế liên quan đến thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của doanh nghiệp FDI, hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của các cá nhân. - Giao dịch vốn: có một số nới lỏng hơn về kiểm soát vay ngắn hạn nước ngoài và điều kiện vay nợ nước ngoài, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong việc thoả thuận, ký kết hợp đồng vay vốn nước ngoài, sau đó phải thực hiện đăng ký khoản vay với NHNN (trừ trường hợp là doanh nghiệp nhà nước). Xoá bỏ chế độ tự cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI. - Khả năng đáp ứng ngoại tệ: do ảnh hưởng của khủng hoảng và tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ nên khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Để điều hoà cung - cầu, Chính phủ đã phải áp dụng chế độ kết hối ngoại tệ với tỷ lệ rất cao, đồng thời phải áp dụng một số hình thức ưu tiên bán ngoại tệ, giấy phép mua ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI. Trong thời gian này, tỷ giá hối đoái của VND có biến động do ảnh hưởng của khủng hoảng. b) Mức độ Đô la hóa Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ FCD/ M2 lại có dấu hiệu tăng lên trong giai đoạn này và đến năm 2000 - 2001 đã tăng cao trở lại đến gần 30%. Nguyên nhân là trong suốt một thời gian dài, kinh tế Mỹ tăng - 11 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 trưởng cao và ổn định làm cho đồng USD hấp dẫn hơn các ngoại tệ khác. Mặt khác, các chính sách mới ban hành đã tạo sự tin tưởng của người dân, thu hút được một lượng lớn ngoại tệ từ thị trường tự do vào hệ thống ngân hàng. Tâm lý ĐLH trong giai đoạn này cũng một phần do tác động của khủng hoảng và kỳ vọng của thị trường vào sự phá giá của VND. 2. Từ 2002 đến nay a) Tính chuyển đổi của VND Vị thế của VND được cải thiện mạnh mẽ qua sự đổi mới về mệnh giá, hình thức của đồng tiền, sự phát triển của hệ thống Tổ chức tín dụng (TCTD) với nhiều tiện ích và hệ thống thanh toán hiện đại. Điều hành Chính sách tiền tệ đã có sự thay đổi về chất và quy định quản lý ngoại hối tiếp tục được nới lỏng. Về cơ bản, các giao dịch vãng lai và một phần giao dịch vốn đã tự do hóa. Khả năng đáp ứng ngoại tệ tiếp tục được cải thiện, nhìn chung đã đáp ứng tương đối đầy đủ các giao dịch được phép. Kinh tế phục hồi và bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng với tốc độ trên 7%/năm, kim ngạch xuất nhập khẩu lần đầu tiên đạt gần 60 tỷ USD vào năm 2004. Đầu tư và vay nợ nước ngoài cũng tăng mạnh do sự nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên, lạm phát đột ngột tăng cao trở lại với mức 9,5% năm 2004 do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là thiên tai, dịch cúm gia cầm và giá nguyên, nhiên liệu trên thế giới tăng. Đây là thời kỳ Nhà nước đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và thực hiện lộ trình hội nhập quốc tế, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, Luật Cạnh tranh, xây dựng Luật Đầu tư chung để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO. Với sự biến đổi nhanh của nền kinh tế, Nghị định số 63/1998/NĐ-CP cũng như các văn bản khác liên quan đến quản lý ngoại hối đã tỏ ra bất cập cần phải bổ sung, sửa đổi. Đồng thời, để tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối theo một định hướng dài hạn hơn, Quốc hội đã chỉ đạo xây dựng và ban hành Pháp lệnh ngoại hối. Bên cạnh đó một số văn bản điều chỉnh chính sách quản lý ngoại hối đã được bổ sung nhằm phát triển thị trường ngoại hối qua việc hoàn thiện các công cụ phái sinh để tạo điều kiện tiến đến một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. - Giao dịch vãng lai: để thực hiện kế hoạch gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện tự do hóa giao dịch vãng lai và điều này đã được IMF công nhận. - Giao dịch vốn: đã bỏ quy định về thời hạn chuyển ngoại tệ sau 01 năm đối với đầu tư chứng khóan. Giao dịch vốn còn những hạn chế sau: + Doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài phải có ý kiến của NHNN trước khi ký Hợp đồng vay. + Doanh nghiệp FDI vẫn còn danh mục ưu tiên cân đối ngoại tệ. + Còn hạn chế tỷ lệ góp vốn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Chưa có quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. + Đầu tư của nước ngoài vào thị trường chứng khóan còn bị hạn chế về tỷ lệ mua và tỷ lệ nắm giữ. + Góp vốn mua cổ phần của Nhà đầu tư nước ngoài còn bị hạn chế. + Còn hạn chế các hình thức vay nước ngoài. - 12 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 - Khả năng đáp ứng ngoại tệ: quan hệ cung cầu ngoại tệ có sự cải thiện đáng kể do cơ chế tỷ giá đã có sự thay đổi cơ bản. Tuy NHNN vẫn công bố tỷ giá bình quân thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhưng biên độ đã nới rộng ra +/- 0,5%. Đồng thời đã mở rộng thời gian của giao dịch kỳ hạn (từ 3 ngày đến 365 ngày), bỏ các trần kỳ hạn cố định để xác định tỷ giá kỳ hạn theo mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Đặc biệt, NHNN đã cho áp dụng thí điểm giao dịch quyền chọn với mức phí theo thoả thuận. Với những quy định hiện hành, tỷ giá đã phản ánh tương đối sát với quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường cũng như kỳ vọng về giá trị đối ngoại của VND. Tuy đến nay chưa có một khiếu nại nào đối với việc không mua được ngoại tệ để đáp ứng các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn theo quy định nhưng thực tế khả năng đáp ứng ngoại tệ của các NHTM không cao qua việc nhiều Dự án FDI vẫn yêu cầu được Chính phủ đảm bảo cân đối ngoại tệ, vẫn tồn tại chế độ ưu tiên bán ngoại tệ để nhập khẩu xăng dầu. Hơn nữa, lạm phát cao và nhập siêu gia tăng trong khi Dự trữ ngoại hối Nhà nước còn hạn chế là những vấn đề đang và tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến tính chuyển đổi của VND. b) Mức độ ĐLH Tỷ lệ FCD/M2 liên tục giảm trong những năm gần đây, đến năm 2003 còn 23,6%. Thanh toán và kinh doanh ngoại tệ vẫn tiếp tục phát triển. Theo kết quả khảo sát năm 2002 của Đề tài nghiên cứu khoa học ngành Ngân hàng, hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do có quy mô từ 4 - 6 tỷ USD/năm, tương đương 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm đó; theo nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, số ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường tự do ước khoảng 5 tỷ USD. Đô la hóa trong niêm yết, định giá bằng ngoại tệ còn phổ biến. Đến năm 2004 khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất USD trên thế giới tăng, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ trong nước giảm thì tỷ lệ FCD/M2 đang có biểu hiện gia tăng trở lại, đạt gần 24%. Bảng 2 Các nước giao thương chính của Việt Nam - 13 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Biểu đồ 1 Tỉ lệ lạm phát hàng năm của VN IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA VND VÀ MỨC ĐỘ ĐÔ LA HÓA 1. Tính chuyển đổi của VND So sánh với các giai đoạn trước, tính chuyển đổi trong nước của VND đã tăng rất nhiều do vị thế của VND liên tục được nâng lên, chính sách quản lý ngoại hối đã thực hiện tự do hóa các giao dịch vãng lai và tiếp tục tự do hóa có chọn lọc các giao dịch vốn. Khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng cũng liên tục được cải thiện qua việc đổi mới cơ chế tỷ giá và sự phát triển, hoàn thiện các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế, mức độ ĐLH, trình độ của Hệ thống Ngân hàng, dịch vụ thanh toán, quy mô và hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, sự bất tiện trong sử dụng, và đặc biệt sự gia tăng của chỉ số lạm phát thì có thể nói rằng, vị thế của VND chưa cao, chưa được thị trường thực sự tin tưởng và ưa thích; về tính chuyển đổi quốc tế thì VND hầu như vẫn chưa có khả năng chuyển đổi ở nước ngoài. Bên cạnh đó, chính sách quản lý ngoại hối vẫn còn nhiều hạn chế, cơ chế tỷ giá còn thiếu linh hoạt, thị trường ngoại tệ (nhất là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng) còn kém phát triển, chu chuyển ngoại tệ chưa thông suốt làm giảm khả năng đáp ứng ngoại tệ. Các yếu tố trên đã hạn chế tính chuyển đổi của VND. - 14 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Biểu đồ 2 Tỉ giá giữa VND và USD 2. Mức độ ĐLH Căn cứ mức độ sử dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng của VND thì mức độ ĐLH trong nền kinh tế khá trầm trọng. Tỷ lệ FCD/M2 lúc lên cao, lúc hạ thấp, tuy nhiên, do tiết kiệm ngoại tệ được rút ra bằng ngoại tệ tiền mặt nên không phản ánh được mức độ ĐLH thực sự. Vấn đề gây hậu quả nhiều nhất là khối lượng ngoại tệ trôi nổi trong dân cư, không kiểm soát được, gây ra hiện tượng thanh toán, định giá và kinh doanh ngoại tệ trái phép. Nếu lấy lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong thời gian qua trừ đi số ngoại tệ các ngân hàng huy động được của dân cư thì ước tính số ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường bằng khoảng 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm 2004. - 15 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Biểu đồ 3 Đô la hóa trong lượng tiền gửi ngân hàng Biểu đồ 4 Tỉ lệ M2 trong nền kinh tế VN Biểu đồ 5 Lãi suất tiền gửi bằng VND và USD 3. Nguyên nhân của thực trạng trên Nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một - 16 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó. Ngay cả các Ngân hàng thương mại cũng có hiện tượng này. Hiện các Ngân hàng đang có cơ cấu dự trữ ngoại tệ bất hợp lý, trong khi thừa USD nhưng lại thiếu trầm trọng các ngoại tệ khác như Euro, Nhân dân tệ, Yên Nhật. Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản là những đối tác thương mại ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân xuất nhập khẩu của Việt Nam, nhưng khi doanh nghiệp có nhu cầu các ngoại tệ ngoài USD thì Ngân hàng lại hầu như không đáp ứng được. Hơn thế nữa, để tạo ra lợi nhuận, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn USD gửi ra các ngân hàng nước ngoài, nhất là Singapore và Hong Kong, để kiếm lãi suất cao. Điều này chỉ làm tình hình thêm xấu hơn vì những đồng USD đã không được đầu tư trong nước đồng thời phải gánh chịu rủi ro từ bên ngoài. Sau đó họ đã cho các doanh nghiệp trong nước vay. Mức tăng tín dụng ngoại tệ đạt mức cao điểm 41% vào năm 2003. Tính đến cuối năm 2003, khoản tiền được các ngân hàng cho vay bằng đô la đã chiếm đến 28%. Điều này làm cho doanh nghiệp đi vay USD sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi VND bị giảm giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng VND nhưng phải trả nợ bằng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỉ giá giữa USD và VND mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro. Ngoài ra, do chênh lệch giữa tỷ giá ấn định của NHNN với tỷ giá thị trường tự do khá lớn. Trong khi tỷ giá công bố của NHNN chỉ dao động ở mức trên 16.000 VND/ USD thì trên thị trường tự do, giá USD lên đến mức 18.000 VND/USD. Sự chênh lệch này đã góp phần làm xuất hiện nạn đầu cơ USD, làm cho thị trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái càng thêm phức tạp. Mặt khác, đồng đô la ở nước ta được sử dụng khá tự do. Mặc dù chính sách quản lý ngoại hối hiện hành không cho phép USD được sử dụng ngoài hệ thống ngân hàng, nhưng lại cho phép người dân được nhận kiều hối bằng ngoại tệ, được gửi ngoại tệ không kể nguồn gốc tại các ngân hàng và được rút cả gốc và lãi bằng ngoại tệ. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hóa đồng USD tại Việt Nam để mua các loại hàng hóa như bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí khách sạn... đã làm tăng quá trình đô la hóa. Thêm vào đó, nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ: Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân • 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, lượng kiều hối chuyển về nước ta các năm gần đây không ngừng tăng lên như sau: năm 1991: 35 triệu USD; 1992: 136,6 triệu USD; 1993: 140,98 triệu USD; 1994: 249,47 triệu USD; 1995: 284,96 triệu USD; 1996: 468,99 triệu USD; 1997: 400 triệu USD; 1998: 950 triệu USD; 1999: 1.200 triệu USD; 2000: 1,757 triệu USD; 2001: 1.820 triệu USD; 2002: 2.150 triệu USD; năm 2003: 2.580 triệu USD và 9 tháng đầu năm 2004 ước tính khoảng 2,1 tỷ USD. Năm 2007, Việt kiều đã chuyển về nước hơn 5 tỷ USD, tăng 1 tỷ USD so với năm 2006. Tuy nhiên theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, nếu tính cả các kênh không chính thức, thì nguồn kiều hối năm 2007 có thể lên đến 10 tỷ USD. Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng • nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam. - 17 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng khá nhanh, năm 1996 mới là 1,607 triệu lượt người; năm 1997 là 1,715 triệu;...; năm 2002 là 2,628 triệu;...; và trong 9 tháng đầu năm 2004 đạt gần 2,9 triệu lượt người. Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên • doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ. Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học • tập... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác. Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ • thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, chính phủ các nước. Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và • đầu tư gián tiếp. Chỉ riêng số vốn FDI thu hút được trong năm 2007 đã lên đến hơn 20 tỷ USD, vượt chỉ tiêu đặt ra từ 6-7 tỷ USD, vốn FII vào Việt Nam lên tới 6,2 tỷ USD Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển • của nền kinh tế. Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt • động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý. Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân chủ quan là do nước ta tăng trưởng kinh tế còn chưa bền vững, chưa thực sự dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả. Hệ thống ngân hàng - tài chính còn kém phát triển, chưa đạt trình độ tối thiểu của khu vực, các thị trường tài chính hoạt động chưa đồng bộ, thiếu hiệu quả và rủi ro cao. Chính sách quản lý ngoại hối còn có những quy định chặt chẽ không cần thiết, không tương xứng với trình độ phát triển của nền kinh tế. Cơ chế tỷ giá chưa có tính thị trường cao. Chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bị ách tắc, nhất là việc sử dụng ngoại tệ trong chính sách tài chính công làm cho khả năng đáp ứng ngoại tệ bị hạn chế và không phản ánh đúng thực chất. 4. Ảnh hưởng của Đô la hóa đối với nền kinh tế nước ta. 4.1 Tích cực Đô la hóa thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa theo chiều sâu và thúc đẩy chu chuyển hàng hóa quốc tế, khi được định giá bằng ngoại tệ thì hàng hóa và dịch vụ trong nước phải đạt tới chất lượng và giá cả cạnh tranh trên thị trường quốc tế,… Một trong những điểm tích cực nữa của “đô la hóa” là giúp thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cung ngoại tệ… do các nhà đầu tư biết rõ giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ không thay đổi. Đô la hóa có thể còn là yếu tố thu hút khách du lịch, giúp việc mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ của khách du lịch nước ngoài được dễ dàng. 4.2 Tiêu cực Về mặt điều hành tiền tệ, đô la hóa có những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế bền vững do nó làm giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ (do Mức cung tiền trở nên khó dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước - 18 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 không ổn định) giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá, tạo ra nguy cơ mất an toàn hệ thống ngân hàng vì NHNN không thực hiện được vai trò “Người cho vay cuối cùng” của mình. Tình trạng đô la hóa gây khó khăn cho việc ổn định trở lại thị trường ngoại tệ do đô la hóa làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ. Bên cạnh đó, đô la hóa làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thị trường ngoại hối, mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ phòng ngừa rủi ro khi đồng đô la Mỹ biến động bất thường. Ngoài ra, việc niêm yết giá bằng ngoại tệ cũng khiến cho người dân bị thiệt khi thanh toán tiền mua hàng hóa do các cửa hàng áp dụng tỷ giá không thống nhất. Nền kinh tế càng dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn với những thay đổi liên quan đến đồng đô la trên thế giới, cũng như các cú sốc kinh tế như sự dao động của giá dầu, thép… ngành xuất khẩu đã chịu tác động trực tiếp trước tiên, giá giảm dẫn đến xuất khẩu giảm kéo theo nền kinh tế phát triển chậm lại. - 19 -
- HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA TCND2,3 – K32 Phần III CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HÓA Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch... không thể xoá bỏ hay giảm triệt để ngay được. Đảng, Chính phủ và ngân hàng Trung ương đã chủ trương phải xoá bỏ đô la hóa trong nền kinh tế - xã hội nước ta, phải thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ. Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa 8) trong phần đề cập những chủ trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một lần nữa khẳng định yêu cầu "Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt Nam". Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau : 1) Giảm dần thói quen sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ trong dân chúng - Giải pháp cơ bản là nâng cao sức mạnh kinh tế, kiến tạo lòng tin đối với đồng nội tệ Củng cố lòng tin của dân chúng vào VND từ đó chuyển từ tiền gửi bằng ngoại tệ sang VNĐ và giảm dần thói quen sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ. Việc tạo lòng tin về một mức lạm phát ổn định và một tỷ giá ngoại hối linh hoạt là điều vô cùng quan trọng. Nếu không, với những biến động của lạm phát, sự kiểm soát tỷ giá tạo ra khoảng cách giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen sẽ làm cho công chúng luôn lo sở rủi ro về tỷ giá và lạm phát cao. - Cần sử dụng các công cụ tiền tệ để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho VND hấp dẫn hơn USD. Ví dụ như làm cho lãi suất tiền gửi bằng đồng USD trở nên kém hấp dẫn, có thể thông qua việc đưa ra mức lãi suất trần. Bên cạnh đó là việc nâng lãi suất tiền gửi bằng VND. Chính phủ cần ban hành quy định VND là tiền tệ giao dịch hợp pháp duy nhất. Đồng thời áp dụng những biện pháp hành chính mạnh đối với những nơi vi phạm quy định yết giá... Không được duy trì quyền sở hữu ngoại tệ không có nguồn gốc hợp pháp. Cần có quy chế rõ ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là sở hữu ngoại tệ hợp pháp chuyển từ nước ngoài vào; không cho phép sở hữu số ngoại tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ở chợ đen, rồi biến số đó thành sở hữu riêng. Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn 2) ngoại tệ hiện có Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực... khuyến khích sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế. - 20 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn "Hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam"
85 p | 1403 | 563
-
Tiểu luận: THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM
22 p | 579 | 304
-
Tiểu luận "Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế – chiến lược phát huy sức mạnh đồng nội tệ trong hội nhập kinh tế quốc tế"
11 p | 613 | 185
-
Đề tài: Một số tác động tích cực và tiêu cực và một số giải pháp hạn chế tình trạng đô la hoá
27 p | 455 | 148
-
Tiểu luận: Phân tích những tác động của tình trạng đôla hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục
45 p | 241 | 91
-
LUẬN VĂN: THỰCTRẠNG ĐÔ LA HOÁ Ở VIỆT NAM
88 p | 251 | 86
-
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ - ĐỀ TÀI: " THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN NỀN KINH TẾ"
14 p | 383 | 65
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tình trạng đô la hoá tại Việt nam và các giải pháp kiềm chế
81 p | 152 | 42
-
Tiểu luận tài chính quốc tế: Dollar hóa nền kinh tế
39 p | 150 | 40
-
Đề tài: Nhận xét 150 bệnh nhân tổn thương sọ não chấn thương trên ảnh chụp cắt lớp vi tính tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương
28 p | 136 | 39
-
ĐÔ LA HÓA, NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ LA HÓA ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
8 p | 238 | 38
-
Tiểu luận: Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam trong thời gian qua. Giải pháp hạn chế đô la hóa
26 p | 254 | 26
-
Tiểu luận: Hệ thống tiền tệ thế giới sau chiến tranh thế giới II và hiện tượng đô la hóa tại Việt Nam
51 p | 143 | 25
-
Báo cáo bài tập môn Tài chính quốc tế: Đô la hóa nền kinh tế
28 p | 148 | 23
-
Tiểu luận: Hệ thống tiền tệ Thế giới sau chiến tranh Thế giới lần thứ II và Hiện tượng đôla hóa tại Việt Nam hiện nay
50 p | 158 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, Văn hóa và Văn học Việt Nam: Đặc điểm hiện tượng viết tắt tiếng Việt trên một số báo điện tử (Báo Thái Nguyên, Báo Hà Nội mới, Báo Sài Gòn Giải phóng, Báo Lâm Đồng)
96 p | 40 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện tượng đa văn hóa trong tiểu thuyết Linh sơn của Cao Hành Kiện
101 p | 30 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn