intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:63

25
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài "Đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy" là khám phá những nét độc đáo trong cảm nhận cũng như trong bút pháp nghệ thuật viết về đề tài đô thị của nhà văn. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ************** NGUYỄN ANH HOA ĐÔ THỊ ĐƯƠNG ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỬA HIỆU GIẶT LÀ CỦA ĐỖ BÍCH THÚY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2018
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 Lời cảm ơn KHOA NGỮ VĂN Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ ************** tận tình của cô giáo hướng dẫn – TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh, sự góp ý tạo điều kiện của các thầy cô giáoNGUYỄN Văn học trong tổ ANH HOAViệt Nam, cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Tuyết Minh, cùng toàn ĐÔ THỊ ĐƯƠNG ĐẠI TRONG thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. TIỂU THUYẾT CỬA Hà Nội,HIỆU ngày thángGIẶTnămLÀ 2018 CỦA ĐỖ BÍCH THÚY Người thực hiện Nguyễn Anh Hoa KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. GVC Nguyễn Thị Tuyết Minh HÀ NỘI – 2018
  3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn – TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh, sự góp ý tạo điều kiện của các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam, cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Tuyết Minh, cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 05 năm 2018 Người thực hiện Nguyễn Anh Hoa
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng tôi không trùng lặp với bất kì khóa luận hay đề tài nghiên cứu khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 05 năm 2018 Người thực hiện Nguyễn Anh Hoa
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5 4. Đối tượng nghiên cứu................................................................................ 6 5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 6 6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 6 7. Cấu trúc của khóa luận .............................................................................. 7 NỘI DUNG ................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ...................................................................................... 8 1.1. Giới thuyết khái niệm............................................................................. 8 1.1.1. Đề tài ................................................................................................... 8 1.1.2. Đô thị ................................................................................................... 8 1.1.3. Đô thị đương đại .............................................................................. 10 1.2. Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam ................................................. 11 1.2.1. Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam trước 1986 ........................... 11 1.2.2. Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 .............................. 13 1.3. Đỗ Bích Thúy và tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là ..................................... 14 1.3.1. Đôi nét về tác giả Đỗ Bích Thúy....................................................... 14 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ............................................................................ 15 1.3.3. Tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là .............................................................. 17 CHƯƠNG 2 ĐÔ THỊ ĐƯƠNG ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỬA HIỆU GIẶT LÀ NHÌN TỪ NỘI DUNG PHẢN ÁNH .......................................... 20 2.1. Bức tranh hiện thực cuộc sống đô thị đương đại ................................. 20 2.1.1. Hiện thực xã hội văn minh hiện đại .................................................. 20 2.1.2. Sự biến đổi của môi trường sinh thái ................................................ 27 2.1.3. Sự thay đổi của đời sống gia đình ..................................................... 31
  6. 2.2. Con người đô thị................................................................................... 33 2.2.1. Con người sùng bái vật chất, chạy theo văn minh ............................ 33 2.2.2. Con người với lối sống ích kỉ............................................................ 36 2.2.3. Con người cô đơn .............................................................................. 37 CHƯƠNG 3 ĐÔ THỊ ĐƯƠNG ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỬA HIỆU GIẶT LÀ - NHÌN TỪ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT ................................ 41 3.1. Điểm nhìn trần thuật............................................................................. 41 3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 45 3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện ............................................................... 45 3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật ............................................................................ 47 3.3. Giọng điệu ............................................................................................ 49 3.3.1. Giọng điệu hài hước, hóm hỉnh......................................................... 49 3.3.2. Giọng điệu cảm thương, xót xa ......................................................... 51 KẾT LUẬN ................................................................................................. 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 55
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với chủ trương mở cửa, hội nhập với thế giới, quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra mạnh mẽ từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Nhiều đô thị đã ra đời, phố phường được thành lập. Quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế đã làm cho tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh. Điều đó đã có những tác động hai mặt đến đời sống xã hội của con người. Bên cạnh những mặt tích cực cũng kèm theo nhiều mặt tiêu cực đáng tiếc. Cuộc sống đô thị đã mang đến cho nhiều người thay đổi vận mệnh, theo chiều hướng tốt lên nhưng nó cũng xuất hiện nhiều tệ nạn, cám dỗ, làm cho bao con người quay cuồng, mất phương hướng, bị cuốn vào vòng xoáy của lối sống mới. Điều đó đồng nghĩa với việc những giá trị tốt đẹp, những truyền thống văn hóa dân tộc đang dần bị mai một. Đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI cùng với Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, cuộc gặp của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987, “tất cả những điều đó đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật” [15, tr228]. Các nhà văn với vai trò là người thư kí trung thành của thời đại đã ghi lại những đổi thay của cuộc sống hiện đại. Vì thế, đô thị đương đại là một trong những đề tài ngày càng được nhiều các nhà văn lựa chọn. Đó là một mảnh đất màu mỡ để các nhà văn có thể khắc họa hiện thực cuộc sống và những con người nơi phồn hoa, đô thị. Trong số những nhà văn đương đại viết về Hà Nội, Đỗ Bích Thuý là một cái tên mới nhưng đã để lại dấu ấn trên văn đàn. Xuất thân từ vùng cao nguyên đá Hà Giang với những tác phẩm viết về vùng đất ấy, Đỗ Bích Thúy được coi là nhà văn của vùng cao nguyên đá Hà Giang. Nhưng một trong những tiểu 1
  8. thuyết mới nhất - tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của chị lại viết về Hà Nội, từ cảm xúc, hoài niệm của tác giả về những ngày đầu sống tại thủ đô. Đỗ Bích Thuý khẳng định ngọn nguồn cảm xúc của những tác phẩm viết về Hà Nội chính là tình yêu với cuộc sống và con người nơi đây: “Nhưng tôi yêu Hà Nội và tôi sẽ viết về nó với tình yêu ấy, với những nỗi xúc động run rẩy khi nghĩ về nó, như khi người đàn ông đem lòng yêu một cô gái, anh ta nhất định phải tìm cách thổ lộ” [23]. Cùng với một số truyện ngắn (Chiếc hộp khảm trai, Sương khói mịt mờ, Đàn bà đẹp, Trong đám đông có một ánh mắt), tản văn (Nhớ Hà Nội, Chuyển nhà, Dâu da xoan,…) và đặc biệt là tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là chị đã mang đến một bức tranh đời sống phố thị đa dạng, những mảng màu trong quá trình đô thị hoá có lúc chói gắt, có lúc xám xịt nhưng vẫn ẩn chứa những nốt trầm truyền thống đáng quý. Vì những lý do trên, chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu đề tài khóa luận: Đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy. 2. Lịch sử vấn đề Nhà văn Đỗ Bích Thúy – đứa con của đại ngàn Tây Bắc đã có không ít những tác phẩm để lại dấu ấn trên văn đàn hôm nay, đặc biệt là ở mảng đề tài viết về miền núi. Gần đây chị đã có sự “chuyển hướng” trong đề tài sáng tác, bắt đầu có những tác phẩm viết về đề tài đô thị. Tiêu biểu cho mảng đề tài mới này là tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là. Tác phẩm đã nhận được sự đón đọc của độc giả, sự quan tâm của giới phê bình, nghiên cứu. Có thể kể một số công trình nghiên cứu, bài báo sau đây: Bài viết “Trong bếp tro tàn còn hòn than đỏ” đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội, nhà nghiên cứu Ngô Văn Giá viết “Trong những cái viết về đời sống đô thị hôm nay, truyện của Thúy lấp ló mấy chủ đề: đời sống thường nhật lao động của những đôi vợ chồng trẻ, những người tiêu biểu cho một thế hệ Hà Nội 2
  9. xưa, nói theo cách của nhà văn Nguyễn Khải – những hạt bụi vàng của Hà Nội (Một người Hà Nội). Mới thế thôi. Chưa có nhiều để khái quát điều gì. Nhưng bằng vào những gì tác giả đã công bố, mạch truyện đi vào lớp người xưa với những hoài niệm về phẩm giá và văn hóa của đất kinh thành có vẻ thích hợp hơn ngòi bút Đỗ Bích Thúy… Văn của Thúy không phải hướng vào những cái sẽ là, cũng không hẳng là thế mạnh với những cái đang là. Văn Thúy phần nhiều thích hợp với những cái đã là, những cái đã là lấp lánh ánh sáng của chiều sâu văn hóa và nhân bản.”[7]. Trong bài viết này, Ngô Văn Giá hi vọng vào “một thứ văn dấn thân hơn nữa trong tư thế của một người nghệ sĩ – tri thức thực thụ” [7] của Đỗ Bích Thúy. Dương Thùy Chi trong bài viết “Nhà văn Đỗ Bích Thúy, viết trên đôi cánh giấc mơ” cũng nhận xét: “chị muốn mang đến cho độc giả mà chị đang viết về nơi đã gắn bó với mình suốt 16 năm qua, đã mang đến cho chị mọi vui buồn, chứng kiến chị đổi thay. Hà Nội đang dần gắn bó với tâm hồn u buồn chầm chậm của chị như những thanh vọng sau bờ rào đá ngày nào”[3] Bài viết “Sương khói mịt mờ - Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy”, in trên báo Nhân dân (5/2/2013) nhận định “Nhìn vào bên ngoài của Hà Nội hôm nay, nhiều người tưởng những điều tinh tế như trong văn của Nguyễn Khải, xa hơn là Vũ Bằng, Thạch Lam đã mất; tiêu cực hơn, người ta chỉ thấy một Hà Nội chật chội, xô bồ, một Hà Nội với trẻ con vượt đèn đỏ, nghiện ngập và trộm cắp. Sương khói mịt mờ của Đỗ Bích Thúy không từ chối hiện thực. Hà Nội với khu phố cổ của cô bức bối, chật chội, thậm chí còn nhếch nhác, nhưng đằng sau những bức tường có nhiều chuột không sợ người ấy, bên trong, thẳm sâu cất giấu ở những hẻm ngõ đèn còn nhập nhoạng như sương khói, vẫn lóe sáng, âm ỉ những điều tử tế, ân cần, chan chứa cái tình” [2]. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ nhận định “Truyện ngắn không có chuyện sẽ tẻ nhạt nếu thiếu đi sự quan sát dựng cho ra những chi tiết có không khí hết 3
  10. sức tinh tế trong đời sống Hà Nội của một nhà văn vốn giàu tình cảm. Từ đề tài miền núi, hiện thực và lãng mạn, bay lên như Tiếng đàn môi bên bờ rào đá, văn chương nhà văn xuất thân từ miền núi này, sau hơn chục năm gần đây bắt đầu len lỏi vào cái sâu thẳm của đất ngàn năm, mà ở đó Đỗ Bích Thúy vẫn giữ được góc nhìn hết sức nhân hậu và bản lĩnh” [2]. Khi tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là ra đời, nhà văn Nguyễn Văn Thọ một lần nữa khẳng định: “Đỗ Bích Thúy rất mạnh về chi tiết, kết cấu khi dựng những trang văn xuôi dù ở bất cứ thể loại nào, từ tạp văn tới truyện ngắn, ưu điểm đó thêm một lần bộc lộ rõ trong Cửa hiệu giặt là. Những trang sách được viết từ sự quan sát tinh tế, giàu trực cảm đã làm nên bức tranh hấp dẫn bạn đọc có khi là những điều lặt vặt, có khi là tiếng cười giễu cợt… tạo nên một tiểu thuyết khá sinh động về đời sống đô thị hôm nay” [10]. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh lại ghi nhận ở cuốn sách “sự nhẹ nhõm như những gì vốn có”, bởi theo ông, “được sinh ra trên thế gian này đã là một hạnh phúc, và như thế cũng chẳng nên quá nặng nề. Cuốn sách ấm áp tình người, giữa những bon chen xô bồ người ta vẫn tìm thấy những khoảng sáng tốt đẹp mà con người dành cho nhau. Ông nói, đọc xong cuốn sách thấy yêu cuộc đời hơn” [18]. Hoàng Đăng Khoa cho rằng “bắt gặp một Đỗ Bích Thúy vừa lạ vừa quen, lạ bởi chất u mua, hoạt kê đời thường, quen với những thân phận phụ nữ nhẫn nhịn thiệt thòi và chung nhất là tấm lòng bao dung của người viết. Một lần nữa, tính nữ trong văn học lại thể hiện đậm đà nơi tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, dù viết về miền núi hay đồng bằng thì những nhân vật nữ vẫn hiện lên đáng yêu, đáng trân trọng” [18]. Trong bài viết “Nhà văn Đỗ Bích Thúy – muốn sục sạo thế giới bằng đôi mắt cô thợ giặt là”, tác giả Mai An cho rằng “Đỗ Bích Thúy đến với thể loại tiểu thuyết như là để làm mới mình, và từ lúc nào đó đã là một tế bào của Hà 4
  11. Nội”[1]. Tác giả tỏ ra đồng cảm với Đỗ Bích Thúy khi cho ra đời một cuốn tiểu thuyết với mảng đề tài hoàn toàn mới “Vì sự chờ mong của bạn đọc. Và đó là một phần đời sống mà tôi đã và đang trải qua trong suốt mười sáu năm sống ở Hà Nội. Hơi thở… để tôi có thể viết về nó”[1] Bài viết “Cửa hiệu giặt là – Bức tranh Hà Nội viết bằng văn xuôi”, tác giả Đỗ Hiền đã viết “Nữ tác giả của cao nguyên đá đã dựng lại trong tác phẩm một Hà Nội quen thuộc, có thể bắt gặp ở bất cứ góc phố nào, giống như một cuốn nhật ký chụp lại vài lát cắt cuộc sống của người dân nơi góc phố nhỏ. Cô Viên 35 tuổi quá lứa lỡ thì khiến bà mẹ lo lắng; ba nhân viên ngoại tỉnh làm việc trong cửa hiệu đang ở tuổi mới lớn với những va đập trong tình bạn, tình yêu; vợ chồng Oanh - Phương chủ cửa hiệu tốt tính, dễ mến... Từng ấy con người cứ sống và yêu thương, dối lừa, chia sẻ cùng nhau. Mỗi người là một mảnh ghép không thể thiếu trong bức tranh cuộc sống Hà thành hôm nay” [10]. Nhìn chung, những bài viết về tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là mới chỉ dừng lại ở những nhận xét khái quát chung. Đây là khoảng trống để khóa luận của chúng tôi đi sâu tìm hiểu đề tài “Đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy”. Những ý kiến đánh giá trên sẽ là những gợi mở quan trọng để chúng tôi tiếp cận và triển khai đề tài này với mong muốn thêm một tiếng nói khẳng định đóng góp của Đỗ Bích Thúy viết về đề tài đô thị đương đại. 3. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài: “Đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy”, chúng tôi muốn khám phá những nét độc đáo trong cảm nhận cũng như trong bút pháp nghệ thuật viết về đề tài đô thị của nhà văn. 5
  12. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy do NXB Phụ nữ xuất bản năm 2014. 5. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận khảo sát đề tài đô thị đương đại cùng các biểu hiện của nó trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy. Ngoài ra, người viết có tham khảo một số tác phẩm khác của Đỗ Bích Thúy như: Chiếc hộp khảm trai, Sương khói mịt mờ… 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp lịch sử - xã hội: Xem xét sự phát triển của đô thị Việt Nam qua các giai đoạn, từ đó nhận ra đề tài đô thị ở từng thời kỳ. Đồng thời thấy được dòng chảy của đề tài này và phát hiện ra những nét riêng của Đỗ Bích Thúy. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Qua việc phân tích hình thức nghệ thuật tác phẩm để làm rõ đề tài đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thúy. - Phương pháp hệ thống: Đặt tác phẩm Cửa hiệu giặt là trong mối quan hệ biện chứng với một số truyện ngắn khác cùng tác giả và trong một số tác phẩm của các nhà văn khác cùng đề tài. - Phương pháp liên ngành: tiếp cận đối tượng bằng nhiều cách thức, dựa trên những dữ liệu của nhiều chuyên ngành như: văn hóa, lịch sử… - Kết hợp các thao tác thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp: Đây là những thao tác cơ bản trong nghiên cứu các vấn đề văn học, giúp người viết đi sâu vào khám phá những khía cạnh cụ thể của tác phẩm, từ đó làm rõ hơn chủ đề đô thị trong văn xuôi của Đỗ Bích Thúy. 6
  13. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phẩn Mở đầu và Kết luận, Nội dung chính của khóa luận gồm ba chương: Chương 1: Khái quát về đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Chương 2: Đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là nhìn từ nội dung phản ánh. Chương 3: Đô thị đương đại trong tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là nhìn từ hình thức nghệ thuật. 7
  14. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Giới thuyết khái niệm 1.1.1. Đề tài Theo Từ điển Thuật ngữ văn học, đề tài “là khái niệm chỉ các loại hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm” [9, tr110]. Bất kì tác phẩm văn học nào cũng có một đề tài nhất định. Phạm vi cuộc sống trong tác phẩm vô cùng phong phú, vì thế đề tài cũng hết sức phong phú, đa dạng. Đề tài là một phương diện khách quan trong nội dung tác phẩm. Nó là sự nhận thức, cảm nhận của nhà văn về phạm vi hiện thực cụ thể mà nhà văn lựa chọn và phản ánh. Giới hạn phạm vi đề tài có thể được xác định rộng hẹp khác nhau. Đề tài là cơ sở để nhà văn khái quát chủ đề, xây dựng hình tượng nghệ thuật. Mỗi nhà văn thường có “vùng đất” quen thuộc với kinh nghiệm, vốn sống, hứng thú, cá tính của mình. Việc các định đề tài cho phép liên hệ nội dung tác phẩm với một mảnh đất nhất định của hiện thực. Đề tài không chỉ được khơi gợi, quy định bởi cuộc sống hiện thực mà còn được xác lập bởi lập trường tư tưởng, thẩm mĩ, cách nhìn, quan niệm nghệ thuật, tài năng sáng tạo; phụ thuộc vào những yêu cầu của thời đại và hoàn cảnh sáng tác riêng của mỗi nhà văn. 1.1.2. Đô thị Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, “đô thị là không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp” [11, tr836]. 8
  15. Đô thị được hình thành từ lịch sử phát triển kinh tế xã hội, do sự phân công lao động xã hội mà chủ yếu là thay đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch lao động trong nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp. Trong quá trình vận động, do kinh tế phát triển, con người có nhu cầu ngày càng cao hơn, một bộ phận dân cư lao động tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp để hoạt động thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, quản lí xã hội,… những người này và gia đình của họ tập trung lại, sinh sống tại các địa điểm phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ có đặc điểm chủ yếu là lao động phi nông nghiệp. Đó là điểm dân cư đô thị đầu tiên. Những đô thị đầu tiên trên thế giới đã được hình thành cách đây hàng nghìn năm, bắt đầu từ những thành phố cổ Isarel hay Hy Lạp. Ở Việt Nam, lịch sử phát triển đô thị có từ rất lâu. Các đô thị được hình thành sớm cùng với sự hình thành của các quốc gia cổ đại như Văn Lang, Âu Lạc. Đến thời kỳ phong kiến, các đô thị ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển từ các thành cổ hay từ những điểm buôn bán lớn. Thời kỳ này đô thị còn ít ỏi, quy mô nhỏ bé, chủ yếu là các đô thị mang chức năng chính trị, quân sự, bên cạnh đó tập trung dân cư tiểu thủ công nghiệp, các thương gia. Có thể kể đến một số đô thị thời kỳ bấy giờ như: Thăng Long, Vân Đồn – Quảng Ninh, Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam), Gia Định… Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã áp dụng chính sách chia để trị nên tổ chức mạng lưới đô thị hành chính cùng với các đồn trú rải đều trên khắp lãnh thổ nước ta. Ngoài ra, để thực hiện chính sách vơ vét tài nguyên, bóc lột thuộc địa, chúng đã xây dựng các nhà máy và khu công nghiệp. Điều này đã dẫn đến sự hình thành của các đô thị với các thị dân hoạt động công nghiệp như: Hòn Gai, Cẩm Phả, Nam Định, Hải Phòng, Đã Nẵng, Biên Hòa, Đồng Nai, Sài Gòn… Đồng thời các đô thị quân sự chính trị cũng được phát triển. Nhằm phục vụ tầng lớp thống trị, các đô thị nghỉ dưỡng ra đời: Sa Pa, Tam 9
  16. Đảo, Đà Lạt, Đồ Sơn, Nha Trang… Như vậy, mạng lưới đô thị thời kì này đã tăng lên nhanh chóng cùng với đó là lối sống phương Tây du nhập vào Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến đời sống vật chất, văn hóa của thị dân. Khi đất nước thống nhất, đặc biệt là sau năm 1986, nhờ chính sách mở cửa, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước, hệ thống đô thị phát triển mạnh mẽ cả về số lượng đô thị và dân số đô thị với đủ các loại hình: đô thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô thị tổng hợp. Nhiều trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn đã mọc lên ở cả ba miền: Hà Nội, Đã Nẵng, TP. Hồ Chí Minh… Đặc biệt do chủ trương phát triển kinh tế làm trọng tâm, tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh và có chiều hướng phức tạp. 1.1.3. Đô thị đương đại Nếu không tính đến các đô thị phong kiến, ở Việt Nam đô thị hiện đại (mô hình phương Tây) hình thành cùng với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, đầu tiên là Sài Gòn sau đó lan rộng ra Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định… Từ khi Đổi mới, tốc độ phát triển đô thị ở nước ta diễn ra nhanh hơn. Một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hệ thống đô thị ở Việt Nam không ngừng phát triển “từ 629 đô thị (năm 1999) đã tăng lên tới 755 đô thị (năm 2010) [15, tr 55], và tính đến tháng 01/2018, toàn quốc có 813 đô thị (tăng 11 đô thị loại V so với năm 2016), bao gồm: 02 đô thị loại đặc biệt, 19 đô thị loại I, 23 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV, 640 đô thị loại V; tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 37,5% (tăng 0,9% so với năm 2016)” [14]. Như vậy, có thể thấy, trong những năm gần đây tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra ngày càng nhanh. Đô thị hóa đang là xu thế của toàn cầu nhưng bên cạnh những mặt tích cực thì quá trình đô thị hóa kéo theo rất nhiều những hệ lụy như: ô nhiễm môi trường, mất cân bằng về mật độ phân bố dân cư dẫn đến 10
  17. tình trạng đất chật người đông, lối sống, văn hóa đô thị theo nhà máy, xí nghiệp, khu vui chơi giải trí tràn vào các miền quê. Những vấn đề xã hội của con người nảy sinh ngày một nhiều. Sự biến đổi tâm lý của cư dân đô thị cũng ngày một lớn. Văn học đương đại đã dành khá nhiều trang viết để phản ánh thực trạng của cuộc sống đô thị đương đại. Không ít nhà văn đã đặt ra những vấn đề về sự tha hóa của con người trong vòng xoáy xã hội đồng tiền, của nền kinh tế thị trường, hay làm sao để giữ gìn, bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc. Đề tài đô thị đã và đang là một đề tài được khai thác nhiều hơn nữa. 1.2. Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam 1.2.1. Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam trước 1986 Những năm đầu của thế kỷ XX, khi không gian thôn dã quen thuộc dần nhường chỗ cho các không gian đô thị mới nổi, đô thị nghiễm nhiên có vị trí quan trọng trong văn chương Việt Nam lúc bấy giờ. Khi nhóm Tự lực văn đoàn được thành lập, họ là những nhà văn được tiếp cận mạnh mẽ từ nền văn minh phương Tây. Rất nhiều tác phẩm của các thành viên Tự lực văn đoàn viết về cuộc sống chốn đô thị. Nhân vật trong các tác phẩm của họ mang màu sắc cá tính mạnh mẽ. Họ mạnh dạn thể hiện cái “tôi” cá nhân cùng các quan điểm của mình. Các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đều đề cao những cô gái tân thời, những chàng trai tiến bộ dám vượt qua mọi rào cản để xây dựng tình yêu (Đoạn tuyệt, Bướm trắng). Thạch Lam cũng viết về đô thị nhưng thường là những phố huyện nghèo, nhỏ bé, tối tăm, cuộc sống của con người quẩn quanh bế tắc. Tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách đã đề cập đến cuộc sống nơi đô thị với những tư tưởng mới về tình yêu, quyền tự do và hạnh phúc của con người trong một giai đoạn mà khuôn khổ lễ giáo phong kiến đã ăn sâu vào gốc rễ văn hóa người Việt nhưng đồng thời cũng là minh chứng cho sự du nhập của những tư tưởng, lối sống phương Tây. Hồ Biểu Chánh cũng có nhiều 11
  18. tác phẩm: Cay đắng mùi đời, Tiền bạc – bạc tiền, Thầy thông ngôn… tái hiện lại bức tranh đô thị với nhiều tầng lớp khác nhau. Cũng viết về đề tài đô thị nhưng các nhà văn hiện thực lại nhìn bằng những cảm quan riêng. Với Vũ Trọng Phụng, đô thị hiện lên hỗn tạp, xô bồ thậm chí cuộc sống nơi đô thị còn là sự học đòi lố lăng, giả tạo, dối trá cùng rất nhiều các tệ nạn nghiện hút, cờ bạc, mại dâm… Có thể kể đến một số tác phẩm viết về đô thị của Vũ Trọng Phụng như: Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Làm đĩ, Cơm thầy cơm cô, Số đỏ… Với Nguyễn Công Hoan, đô thị hiện lên nhố nhăng, bỉ ổi như những tấn hài kịch, con người sống cuộc sống đó phải tính toán, lừa lọc, làm trò…Một số tác phẩm thể hiện rõ nét những điều này như: Mất chiếc ví, Người ngựa ngựa người, Báo hiếu trả nghĩa cha… Đến với Nam Cao, bên cạnh mảng đề tài viết về người nông dân nhà văn cũng dành khá nhiều trang để viết về người trí thức với cuộc sống nơi thành thị. Họ quanh năm phải đối mặt với cơm áo, gạo tiền. Có thể kể đến một số tác phẩm như: Sống mòn, Đời thừa, Giăng sáng… Văn học giai đoạn 1945 – 1975, trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, mang tính chiến đấu cao. Con người xuất hiện trong giai đoạn này là con người của cộng đồng, màu sắc cá nhân mờ nhạt. Do đó không gian đô thị, nhân vật mang màu sắc đô thị ít xuất hiện. Tuy nhiên, vẫn có một số ít tác phẩm của các nhà văn có màu sắc đô thị như Đôi mắt của Nam Cao. Tác phẩm đã tập trung khắc họa nhân vật trí thức, tiểu tư sản – nhà văn Hoàng dù về quê tản cư nhưng vẫn mang lối sống, nếp nghĩ của người thành thị. Nhà văn Tô Hoài với Những ngõ phố cũng ghi lại được cuộc sống của người dân nghèo nơi đô thị với những thay đổi tích cực. Một số tác phẩm dù mang tính chiến đấu cao nhưng phần nào cũng phản ánh được bối cảnh của đô thị như hình ảnh người dân thủ đô trong 12
  19. Hai trận tuyến và trong lòng Hà Nội của Hà Minh Tuân, hay Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của Nguyễn Tuân, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng… 1.2.2. Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 Sau Đại hội Đảng toàn quốc năm 1986, đất nước tiến hành đổi mới toàn diện. Văn học nghệ thuật cũng bước vào một cuộc cách tân thực sự. Tư duy của người nghệ sỹ cũng bắt đầu thay đổi. Cảm hứng sử thi dần mất đi nhường chỗ cho cảm hứng nhân văn đời thường. Mảng đề tài đô thị trở nên hấp dẫn và được nhìn nhận sâu sắc, đa chiều hơn. Ngay từ những năm đầu đổi mới, qua một số tác phẩm của các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Trần Trung Chính, Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải… “đô thị hiện lên với nhiều băn khoăn, trong sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn, sự đa dạng phức tạp thời bình và tính một chiều thời chiến, cảm hứng thế sự đời tư và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; rồi các phân vân, trăn trở trong những khác biệt về giới và tính dục, về không gian sống, vấn đề cá nhân cá tính, tình yêu, hạnh phúc…” [5]. Nguyễn Minh Châu với những tác phẩm Sống mãi với cây xanh, Khách ở quê ra đã đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị. Ma Văn Kháng thì làm sống dậy đời sống thế tục đô thị với Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú… Nguyễn Khải với Một người Hà Nội. Đến sau, nhưng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lại có cái nhìn sâu sắc nhiều chiều hơn về đề tài đô thị. Ông nhìn cuộc sống và con người đô thị bằng thái độ lạnh lùng, sắc lẹm. Ở đó con người biến dạng với những giành giật, toan tính, vụ lợi, ích kỷ (Tướng về hưu, Huyền thoại phố phường, Không có vua...). Sau Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp… không thể không nhắc tới sự xuất hiện của hàng loạt cây bút trẻ, họ đa số đều là những người sống trong các đô thị, trở về đô thị mưu sinh nên họ tiếp cận đô thị một 13
  20. cách khác hẳn những nhà văn đi trước. Không gian đô thị với những nhọc nhằn mưu sinh, “những cảnh và người” nơi đô thị xô bồ, đất nước đang phân hóa mạnh mẽ bởi sự thay đổi về đời sống kinh tế, luân lí và đạo đức… hiện lên rất rõ trong những sáng tác của Tạ Duy Anh (Thiên thần sám hối), Hồ Anh Thái (Tự sự 265 ngày), Võ Thị Hảo, Phan Triều Hải, Nguyễn Thị Thu Huệ (Thành phố đi vắng)… Sang thế kỉ XXI, đề tài đô thị được mở rộng hơn. Đô thị hóa là cảm hứng lớn của nhiều nhà văn như Phong Điệp (Lạc chốn thị thành, Blogger…), Dương Thụy (Con gái Sài Gòn, Oxford thương yêu…), Trần Nhã Thụy (Sự trở lại của vết xước...), Đỗ Bích Thúy (Cửa hiệu giặt là)… 1.3. Đỗ Bích Thúy và tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là 1.3.1. Đôi nét về tác giả Đỗ Bích Thúy Đỗ Bích Thúy sinh ngày 13/04/1975 là người Kinh, quê gốc ở Nam Định nhưng chị sinh ra và lớn lên ở Hà Giang. Đây là mảnh đất thuộc địa đầu cực bắc của Việt Nam, nơi có những ngọn núi cao lưng chừng trời và nhiều sông suối chảy theo những hẻm núi, nơi sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số như H’Mông,Tày, Dao… Nhắc đến Hà Giang người ta sẽ nhớ ngay đến vẻ đẹp của dòng sông Nho Quế uốn lượn theo sườn núi, nhớ đến những bộ trang phục đầy màu sắc và bản tính của những con người dân tộc cần cù, chịu thương chịu khó. Chị sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, gắn bó với những mỏm đá tai mèo, gắn bó với những người dân tộc Tày, H’ Mông nơi đây. Chính mảnh đất này đã hun đúc trong chị một chút “không khí” của núi rừng. Cộng thêm bốn năm làm báo ở Hà Giang, được đi và đắm mình trong không gian văn hóa của các dân tộc, tất cả những yếu tố này đã hội tụ tạo nên một tài năng văn chương. Chị đến với văn chương từ rất sớm, năm 17 tuổi bắt đầu bén duyên với làng văn Việt Nam từ cuộc thi sáng tác truyện ngắn báo Văn nghệ Quân đội 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0