Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý
lượt xem 16
download
Mục đích của Khoá luận là làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về vấn đề bảo vệ trẻ em trở thành nạn nhân của tội phạm và thực tiễn các biện pháp bảo vệ vấn đề đó tại Việt Nam. Từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của tội phạm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT --------------- Bùi Thị Thúy Hoa BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ EM DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LÝ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI, 2019 1
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu của riêng tôi và chưa từng được nghiên cứu ở bất cứ công trình nghiên cứu nào. Nội dung khóa luận và trích dẫn, số liệu đươc sử dụng đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Những thông tin tham khảo đều được trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng. Sinh viên thực hiện Bùi Thị Thúy Hoa 2
- LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phạm Thị Duyên Thảo, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng sinh gửi lời càm ơn chân thành tới các thầy cô giáo tại Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn gia đình và bạn bè đã bên cạnh động viên tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu hoàn thiện nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn. Tác giả Bùi Thị Thúy Hoa 3
- DANH MỤC VIẾT TẮT HCM: Hồ Chí Minh VKS: Viện kiểm sát TTHS: Tố tụng hình sự LĐ- TB&XH: Lao động- Thương binh và xã hội VD: Ví dụ T.Ư: Trung ương TNCS: Thanh niên Cộng sản 4
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ ...... 12 1.1. Khái quát nạn nhân của tội phạm là trẻ em ......................................................................12 1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhìn dưới góc độ pháp lý .................................................................................................................................19 1.2.1. Khái niệm.............................................................................................................................. 19 1.2.2. Đặc điểm ............................................................................................................................... 20 1.3. Các biện pháp bảo vệ nạn nhân cảu tội phạm là trẻ em .................................................25 1.4. Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em .....................................................28 1.4.1. Khái niệm.............................................................................................................................. 28 1.4.2. Các công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em............29 1.4.3. Pháp luật quốc gia trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em ................................ 31 1.5. Vai trò của pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.................................34 1.6. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em ..40 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ EM Ở VIỆT NAM ................................................... 43 2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em..........43 2.2. Nội dung bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong pháp luật Việt Nam ..............44 2.2.1. Các khía cạnh bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong các quy định pháp luật51 2.3. Đánh giá ...................................................................................................................................68 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP BỔ TRỢ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ EM ......................... 74 3.1. Yêu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em ................................................................................................................................................74 3.2. Các giải pháp cụ thể................................................................................................................75 3.2.1. Tiếp tục sửa đổi hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.....75 3.2.2. Dùng các thiết bị thông minh để giám sát, phát hiện hành vi phạm tội với trẻ em. ...78 3.2.3. Sử dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động nhận tin báo............................................79 5
- 3.2.4. Thành lập hệ thống các cơ quan chuyên trách về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em ................................................................................................................................................80 3.2.5. Thực hiện tốt các công tác giám giám, kiểm tra trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em................................................................................................................................................81 3.2.6. Tăng cường vai trò, phối hợp giữa các cơ quan tổ chức trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em................................................................................................................................. 82 KẾT LUẬN.............................................................................................................................. 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86 6
- MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc quan tâm bảo vệ các quyền của trẻ em luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (20-11-1989) đã được Chính phủ của 191 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới phê chuẩn (tính đến hết tháng 12 năm 2004). Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cách thức xác định một con người cụ thể gọi là trẻ em và giới hạn về độ tuổi, nhưng trong phạm vi quốc tế, trẻ em nói chung đều được xác định là đối tượng được chăm sóc đặc biệt, cần nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, xã hội và cộng đồng. Ngày 2-1-1990, Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và là một trong những quốc gia phê chuẩn công ước này sớm nhất (thứ 3 trên thế giới và thứ 2 ở Châu Á). Để đảm bảo cho việc thực hiện công ước này, ngày 16-8-1991, Nhà nước đã ban hành Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tình hình xâm hại trẻ em nói chung và xâm hại tình dục trẻ em nói riêng ở Việt Nam trong những năm vừa qua vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Ngày 31-7-1998, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 9-1998 _NQ/CP về việc tăng cường và phòng chống tội phạm trong tình hình mới và phê duyệt Chương trình Quốc gia về phòng chống tội phạm. Một trong những nội dung quan trọng của Chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm được đề cập là đề án “Phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên” mà Bộ Công an được giao nhiệm vụ chính trong việc chủ trì, phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành. Ngày 16-3- 2000, Bộ Công an đã có Kế hoạch số 323/ BCA để triển khai công tác thực hiện Nghị quyết số 09/1998_NQ/CP và Đề án 04 của Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ củng cố các lực lượng nghiệp vụ trực tiếp phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên; phối hợp với các ngành nội chính điều tra, truy tố, xét xử kịp thời các đối tượng phạm tội loại này; đề xuất chủ trương, biện pháp đấu tranh phù hợp trong công tác phòng, chống lại các loại tội phạm này. 7
- Các vấn đề về bảo vệ trẻ em ngày càng được quan tâm tại Việt Nam. Theo báo cáo, có hơn 2,6 triệu trẻ em ở Việt Nam cần được bảo vệ đặc biệt. Trong số đó có trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và buôn bán vì mục đích tình dục; trẻ em lang thang cơ nhỡ; trẻ em tật nguyền; trẻ em vi phạm pháp luật; trẻ mồ côi; trẻ em bị ruồng bỏ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; và trẻ em sống trong cảnh nghèo đói. Hoàn cảnh của các em đều hết sức nghiệt ngã. Chỉ có một số ít trẻ em Việt Nam được nuôi dưỡng và chăm sóc ở các cơ sở của nhà nước, còn rất nhiều em khác phải tự bươn trải để kiếm sống. Một số em bị bắt lao động, còn một số khác sống lang thang trên các đường phố - chính tình cảnh đó khiến cho các em có nguy cơ cao bị nhiễm HIV, sử dụng ma túy và bị lôi cuốn vào các hành vi phạm tội và mại dâm. Có nhiều lý do phức tạp khiến các em lâm vào những tình cảnh éo le như vây. Các yếu tố kinh tế như nghèo đói, chênh lệch về thu nhập và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng làm cho các em trở nên dễ bị tổn thương hơn. Các trào lưu xã hội như di cư, các giá trị gia đình đang bị băng hoại và tình trạng phân biệt đối xử về giới cũng ảnh hưởng xấu tới trẻ em. Trẻ em được xếp vào nhóm người yếu thế trong xã hội, nhóm người này rất dễ trở thành nạn nhân của tội phạm.Chính vì vậy vấn đề bảo vệ trẻ em trước những hành vi vi phạm pháp luật là một vấn đề cấp bách của toàn xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế. Trong Luật Nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong Công ước về quyền trẻ em (CRC, năm 1989) và hai Nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang). Trong đó khái niệm “Trẻ em” được xác định là những người dưới 18 tuổi.Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định các quyền trẻ em được bắt đầu ngay khi mang thai hay sau khi ra đời; và về độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC. 8
- 2. 2 Một quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em theo pháp luật của Việt Nam hiện hành Cùng với việc phát triển kinh tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến bảo vệ các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các bộ luật, luật đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em phù hợp với các công ước quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Ở Việt Nam, quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 (trực tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác) và trong tất cả các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2001), năm 2013. Hiến pháp năm 1992, quyền trẻ em được chế định trực tiếp trong Điều 40 và được hàm chứa trong một số điều khác. Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại khoản 1, Điều 37: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, việc bảo vệ trẻ em cũng đã được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Luật Trẻ em năm 2016, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật phòng chống bạo lực gia đình…... Hiện nay có các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em như: Những điều cần biết về quyền trẻ em – Tác giả Vũ Ngọc Bình, sách do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 1996; Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam - sách do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1996; Quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam - sách do Nhà xuất bản Tư pháp, xuất bản năm 2005; Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam – sách do Nhà xuất bản Tư pháp, xuất bản năm 2006; 9
- Công ước về quyền trẻ em năm 1989 – cơ sở cho việc bảo vệ quyền trẻ em - Tạp chí luật học số 3 tháng 5, 6 năm 2003; Quyền trẻ em trong pháp luật -bài viết của Thạc sĩ Lê Thị Nga đăng trên báo điện tử của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, số 5 ngày 21/07/2007; Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam - Luận văn Thạc sĩ luật học Chu Mạnh Hùng Luận văn thạc sĩ tác giả Nguyễn Thị Huyền về đề tài Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài về bảo vệ quyền trẻ em. Luận án tiến sĩ tác giả Trần Hưng Bình về đề tài Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng Việt Nam. Các biện pháp bảo vệ và trợ giúp nạn nhân là phụ nữ và trẻ em bị bạo lực của tác giả Nguyễn Xuân Thu đăng trong tạp chí Luật. 3. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về vấn đề bảo vệ trẻ em trở thành nạn nhân của tội phạm và thực tiễn các biện pháp bảo vệ vấn đề đó tại Việt Nam. Từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của tội phạm. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. - Đánh giá nhận xét về bảo vệ nạn nhân của tội phạm dưới góc độ pháp lí. - Giải pháp nâng cao hiệu quả pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận ngiên cứu về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp luật 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận là Chủ nghĩa Mác –Lênnin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật. Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản - Phương pháp duy vật biện chứng và phươn pháp duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. - Phương pháp logic – lịch sử làm phương pháp chủ đạo. 10
- - Phương pháp tổng hợp: tổng hợp những kết quả đã phân tích và hình thành cái nhìn tổng quan về từ đó thấy được sự chuyển biến theo thời gian của việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. - Bên cạnh đó sử dụng các phương pháp khác như: so sánh, tiếp cận hệ thống. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn đã cố gắng hệ thống về các quy định của pháp luật về vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. - Những kết quả mà luận văn mà nghiên cứu được, phần nào là tài liệu tham khảo giúp cho việc nghiên cứu Nhà nước và pháp luật. 11
- CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ 1.1. Khái quát nạn nhân của tội phạm là trẻ em Trẻ em là một thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu phát triển của con người, về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm thành viên xã hội mà ngày càng có khả năng hội nhập xã hội với tư cách là những chủ thể tích cực, có ý thức, nhưng cũng cần được gia đình và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc. Khái niệm trẻ em được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng dưới góc độpháp lý trẻ em được xác định theo độ tuổi và độ tuổi của trẻ em tùy thuộc vào sự quy định của mỗi quốc gia và từng lĩnh vực mà trẻ em tham gia. Xét dưới khía cạnh Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, trẻ em là một chủ thể pháp luật. Cũng như các chủ thể khác ( cá nhân là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch hay pháp nhân), trẻ em có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở nhũng quy phạm pháp luật. Sự phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu thế kỷ XVI, XVII và XVIII đã kéo theo tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến, khắp nơi trên thế giới, rất nhiều thảm kịch về trẻ em đã diễn ra. Thêm vào đó cuộc chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 -1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh khốn khổ. Năm 1919, một tổ chức cứu trợ trẻ em đã được thành lập ở Anh và Thụy Điển. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ban hành một số công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc làm và bảo trợ xã hội. Năm 1923, người sáng lập ra Quỹ cứu trợ trẻ em ở nước Anh – bà Eglantuyne Jebb, khởi thảo hiến chương trẻ em. Đây được coi là mốc quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em. Năm 1924, tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em được Hội Quốc Liên thông qua, năm 1948 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tuyên ngôn thế giới về quyền con người. Năm 1959 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tuyên ngôn (thứ 2) về quyền trẻ em gồm 10 điểm. Tuyên ngôn khẳng định “Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ em điều tốt nhất”. Điều 24 Công ước 12
- quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 nêu rõ “Các trẻ em … phải được gia đình, xã hội và quốc gia bảo hộ”. Điều 10 Công ước quốc tếvề các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 quy định “Thanh thiếu niên phải được bảo vệ chống mọi hình thức bóc lột về kinh tếvà xã hội”. Một số văn kiện khác như Tuyên ngôn về việc bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong các trường hợp khẩn cấp hoặc xung đột vũ trang năm 1974. Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên Hiệp Quốc về việc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên năm 1985 cũng quy định nội dung tương tự. Về cơ bản trẻ em theo quy định của Công ước quốc về quyền trẻ em, trẻ em là những người chưa đủ18 tuổi; Theo quy định của pháp luật Việt Nam trẻ em là những người chưa đủ 16 tuổi. Như vậy, khái niệm quyền trẻ em được hiểu là những đặc quyền tựnhiên mà trẻ em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện nhằm đảm bảo sự sống còn, tham gia và phát triển toàn diện.[14] Thể chế hóa nội dung của quyền trẻ em trong các văn bản quy phạm pháp luật là một trong những biện pháp nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người trực tiếp tiếp thu thụ động tình thương, lòng tốt của bất cứ ai mà còn có thể trở thành chủ thể của quyền. Theo quy định của Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì quyền trẻ em gồm có các nhóm quyền cơ bản: quyền sống còn, quyền được phát triển, quyền được bảo vệvà quyền được tham gia. Trong các nhóm quyền đó quyền được phát triển là các điều kiện để trẻ em có thể phát triển đầy đủ nhất về tinh thần, đạo đức, được học tập, vui chơi; Quyền được bảo vệ bao gồm tất cả các quy định trẻ em phải được chống lại tất cả các hình thức xâm hại. Để đảm bảo được quyền trẻ em thực hiện tốt và phù hợp với công ước quốc tế về quyền trẻ em, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi nhiều đạo luật: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2016; Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991; Bộ luật Lao động năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2002; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2015; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các nghị định, thông tư hướng dẫn và các văn bản dưới luật khác liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em đã được ban hành. Pháp luật đã quy định rõ các quyền của trẻ em được hưởng, khi các quyền đó bị xâm hại bởi hành vi phạm pháp luật thì lúc này trẻ em trở thành nạn nhân. 13
- “ Khách thể của tội phạm có thể được định nghĩa là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên hoặc đe dọa thực tế gây nên thiệt hại đáng kể nhất định”. Một bộ phận quan trọng của khách thể của tội phạm là đối tượng tác động của tội phạm, để gây nên thiệt hại cho khách thể của tội phạm thì hành vi phạm tội phải tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Theo đó thì “ trẻ em” là một trong các đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động này là chủ thể của quan hệ xã hội nên ngoài những đặc điểm chung thì trẻ em còn có các đặc điểm về tâm sinh lý. Về sinh lý, như chúng ta đã biết trẻ em là những người dưới 16 tuổi theo pháp luật Việt Nam và dưới 18 tuổi theo pháp luật Quốc Tế. Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm phạm tội đối với trẻ em như sau: Phạm tội đối với trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm và các quyền khác của trẻ em mà pháp luật quy định, được thực hiện do người có năng lực hành vi dân sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Khái niệm "nạn nhân" có thể được truy trở lại từ các xã hội cổ đại.Nó được kết nối với khái niệm của sự hy sinh. Theo nghĩa ban đầu của thuật ngữ, một nạn nhân là một người hay một con vật được bị giết chết để tế lễ trong một buổi lễ tôn giáo để xoa dịu một số quyền lực siêu nhiên hoặc thần linh. Qua nhiều thế kỷ, từ này đã nhận thêm ý nghĩa. Bây giờ nó thường đề cập đến những cá nhân bị thương tích, mất mát, hoặc khổ đau vì bất kỳ lý do gì. Mọi người có thể trở thành nạn nhân của tai nạn, thiên tai,bệnh tật, hoặc các vấn đề xã hội như chiến tranh, phân biệt chủng tộc, săn lùng chính trị,và những bất công khác. Các “ nạn nhân của tội phạm” là những người bị tổn hại bởi các hành vi bất hợp pháp. Trong đoạn 1 của Tuyên ngôn về Các nguyên tắc công lý cơ bản cho các nạn nhân của tội phạm và lạm dụng quyền lực", nạn nhân được định nghĩa như sau: "Nạn nhân có nghĩa là những người, từng cá nhân hay tập thể, đã bị tổn hại, bao gồm thương tích thể chất hoặc tinh thần, đau khổ về cảm xúc, mất mát về kinh tế hoặc sự suy yếu đáng kể các quyền cơ bản của họ, hoặc những thiếu sót vi phạm luật hình sự hoạt động trong các quốc gia thành viên, bao gồm cảnhững biện 14
- pháp trừng phạt hình sự hay lạm dụng quyền lực". Một người có thể được coi là một nạn nhân theo tuyên ngôn này, bất kể thủ phạm đã được nhận dạng, bị bắt, bị truy tố, bị kết án hay chưa và không kể mối quan hệ gia đình giữa thủphạm và nạn nhân. Thuật ngữ "nạn nhân" cũng bao gồm, nếu thích hợp, gia đình trực hệ hoặc những người phụ thuộc trực tiếp của nạn nhân và những người mà do can thiệp để trợ giúp nạn nhân khi gặp khó khăn hoặc đã đển găn chặn sự vi phạm xảy ra xa hơn đã phải chịu đựng sự tổn hại. Nạn nhân là những cá nhân hoặc cộng đồng bị thiệt hại, bao gồm cả thểchất hoặc chấn thương tâm thần, đau khổvề cảm xúc, tổn thất kinh tếhoặc suy yếu đáng kể quyền cơbản của họ, thông qua các hành động hoặc thiếu sót cấu thành vi phạm thô bạo của luật nhân quyền quốc tế, hoặc các vi phạm nghiêm trọng về nhân đạo quốc tếpháp luật. Trong trường hợp thích hợp và phù hợp với luật pháp trong nước, thuật ngữ "nạn nhân" cũng bao gồm gia đình hoặc người thân trực tiếp của nạn nhân trực tiếp và những người đã bị can thiệp trong việc can thiệp để giúp đỡ các nạn nhân gặp khó khăn hoặc đển găn ngừa quá trình nạn nhân hóa Như vậy, nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền lợi ích hợp pháp khác. [1] Theo điều 1 của Luật trẻ em 2016 quy định “ Trẻ em là những người dưới 16 tuổi” Từ đó thể đưa ra khái niệm “ nạn nhân của tội phạm là trẻ em” là những người dưới 16 tuổi bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền lợi ích hợp pháp khác. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng tính mạng, sức khỏe của con người thì ai cũng có quyền được pháp luật bảo vệ khi bị xâm hại. Với mỗi tiêu chí khác nhau, có thể phân loại nạn nhân của tội phạm là trẻ em thành những nhóm cơ bản (mang tính tương đối) sau đây: Yếu tố bị xâm hại - Xâm hại thể chất: là bất kỳ hành vi cố ý nào gây thương tích hoặc chấn thương cho trẻ em bằng cách tiếp xúc cơ thể. Trong nhiều trường hợp, trẻ em là nạn nhân của lạm dụng thân thể. Các thuật ngữ đôi khi được sử dụng thay thế nhau bao 15
- gồm hành hung thể chất hoặc bạo lực thể xác, và có thể bao gồm cả lạm dụng tình dục. Xâm hại về thể chất gồm những hành động bất kỳ hoặc hành vi không ngẫu nhiên nào gây thương tích, chấn thương hoặc đau đớn thể xác hoặc tổn thương cơ thể. Hành vi ngược đãi đối với trẻ em thường do sự trừng phạt của cha mẹ, của thầy cô, người nuôi dạy hoặc từ người sử dụng lao động. Hậu quả của những hành vi này trực tiếp để lại trên cơ thể của nạn nhân và chúng ta có thể nhìn thấy được như vết thâm tím, vết sung tấy, vết xước, gẫy xương…vv và có thểm giám định mức độ thương tật. - Xâm hại tinh thần: là những hành vi của cha mẹ, người thân, người chăm sóc hay người có vị trí, quyền hạn ảnh hưởng đến trẻ lợi dụng sự yếu đuối phụ thuộc của trẻ đối với mình mà thực hiện những hành vi bao gồm lời nói, hành động, cử chỉ không làm tổn hại đến thể chất nhưng trực tiếp làm ảnh hưởng đến cảm xúc của trẻ, gây tổn thương về mặt tình cảm, tinh thần. Những hành vi xâm hại về tinh thần hậu quả không trực tiếp nhìn rõ ràng và nhanh chóng như hậu quả của những hành vi xâm hại về thể chất. Hậu quả của sự xâm hại về tinh thần có thể khiến trẻ em rơi vào tinh trạng hoảng loạn, rối loạn tâm thần hay mắc chứng bệnh trầm cảm. Hậu quả pháp lý của hành vi: Theo điều 9 của Bộ luật hình sự 2015 ta có thể chia nhóm nạn nhân của tội phạm là trẻ em theo mức độ hậu quả pháp lí mà pháp luật quy định đối với tội phạm - Nhóm nạn nhân bị xâm hại bởi tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 1 điều 9 quy định “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm” - Nhóm nạn nhân bị xâm hại bởi tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 2 điều 9 quy định “Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù” 16
- - Nhóm nạn nhân bị xâm hại bởi tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 3 điều 9 quy định “ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù” - Nhóm nạn nhân bị xâm hại bởi tội phạm ít nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 4 điều 9 quy định “Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.” Mục đích xâm hại: - Xâm hại tình dục: Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào Mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. - Cố ý gây thương tích: Cố ý gây thương tích là Hành vi cố ý xâm phạm thân thể, gây hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích cụ thể. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. - Mua bán trẻ em: Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác để trao đổi trẻ em như hàng hóa. Mua bán trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền con người của trẻ em và có thể xâm phạm đến hạnh phúc gia đình. Độ tuổi của nạn nhân Dựa vào độ tuổi của nạn nhân ta có thể phân chia nạn nhân của tội phạm thành hai nhóm - Nhóm nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới 6 tuổi: Theo quy định của bộ luật dân sự 2015 quy định thì trẻ em dưới 6 tuổi là những người không có năng lực hành vi dân sự. Tất cả trẻ em không thể bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Trong giai đoạn từ 0-6 tuổi theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học và giáo dục học cho rằng đây là giai đoạn trẻ phát triển mạnh 17
- mẽ và nhanh chóng, sự tăng trưởng, hoàn thiện về trọng lượng của não và các dây thần kinh. Đây được cho là giai đoạn nhạy cảm để trẻ tiếp xúc, khám phá thiên nhiên và cuộc sống xã hội. Nếu trẻ bị xâm hại trong giai đoạn này thì hậu quả gây ra cho trẻ em khá nặng về nhận thức về thế giới quan bên ngoài và về thể chất cũng ảnh hưởng rất nghiêm trọng vì cơ thể trẻ em giai đoạn này quá non nớt. - Nhóm trẻ em là nạn nhân của tội phạm trên 6 tuổi: Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 quy định “ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi”. Như vậy ta có thể thấy trong giai đoạn này trẻ đã bắt đầu có nhận thức về các mối quan hệ trong xã hội. Trẻ từ 6 tuổi bắt đầu tiếp cận con đường học hành bài bản, thông qua những con số, chữ viết. Không như trước đây, trẻ đã nhận thức được mối quan hệ nguyên nhân – kết quả. Thay vì chỉ toàn suy nghĩ mơ mộng và thiếu logic như khi còn học mầm non. Khi bị những hành vi xâm hại ở độ tuổi này trẻ em đã dần nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật. Hoàn cảnh của nạn nhân: Dựa vào hoàn cảnh, điều kiện, thể chất của trẻ ta có thể chia nạn nhân của tội phạm thành 2 loại - Nạn nhân của tội phạm là trẻ em có điều kiện, hoàn cảnh phát triển đảm bảo ( bình thường ): sống chung với bố mẹ, không bị khuyết tật, tâm sinh lí phát triển bình thường, đi học đầy đủ, được nhận tình cảm yêu thương chăm sóc từ gia đình và xã hội. - Nạn nhân của tội phạm là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt : Điều 10 của luật đã quy định: “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật”. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là nhóm đối tượng có xu hướng bị xâm hại cao do hoàn cảnh về nơi sinh sống, nhận thức và sự bảo vệ lỏng lẻo. 18
- 1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhìn dưới góc độ pháp lý 1.2.1. Khái niệm 1.2.1.1. Khái niệm bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm Trẻ em thuộc nhóm người yếu thế trong xã hội, nhóm người này thường rất dễ bị xâm phạm bởi các hành vi trái pháp luật. Vì vậy bảo vệ trẻ nói chung và bảo vệ trẻ em tránh khỏi sự xâm hại của tội pham là một vấn đề hoàn toàn nhức nhối. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em bao gồm hệ thống tất cả các biện pháp khác nhau để hạn chế, loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc quyền và lợi ích hợp pháp khác của trẻ em. Thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ em sau khi bị tội phạm xâm hại, tránh xảy ra tình trạng bị đe dọa và các hành vi vi phạm pháp luật khác nhằm che giấu hành vi phạm tội của tội phạm. Vì tội phạm là các hiện tượng của xã hội, do sự tác động qua lại phức tạp giữa các quá trình, hiện tượng xã hội. Như vậy tội phạm là hệ quả tất yếu trong mối liên hệ nhân quả giữa các quá trình. Muốn bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của tội phạm thì phải loại bỏ những yếu tố phát sinh ra nó và nguy cơ tái trở thành tội phạm. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em là hoạt động mang tính rộng rãi và liên tục do hành vi phạm tội xảy ra thường xuyên, liên tục cũng như nguy cơ tái trở thành nạn nhân của tội phạm là rất cao. Các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm phải được thực hiện một có hệ thống, khẩn trương nhanh chóng để bảo đảm quyền lợi của trẻ em được bảo vệ một cách tốt nhất. Các hoạt động bảo vệ về thể chất là các hoạt động bảo vệ sức khỏe, tính mạng cho nạn nhân. Các hoạt động này được tiến hành bởi cơi quan nhà nước kết hợp với gia đình và nhà trường và toàn xã hội. Sau khi phát hiện trẻ em bị xâm hại bởi hành vi vi phạm pháp luật thì gia đình nạn nhân, những người trực tiếp chung sống cùng trẻ cần có những biện pháp bảo vệ phù hợp. Cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm điều kiện để trẻ em được sống chung với mình, khi phát hiện ra việc trẻ em bị xâm hại phải báo cáo ngay với cơ quan có thẩm quyền để có phương pháp xử lí. Trong nhiều trường hợp nạn nhân 19
- phải gánh chịu sự xâm hại một cách liên tục trong thời gian dài vì những lí do như trẻ chưa nhận thức được đó là hành vi xâm hại đến quyền lợi của mình và im lặng, thứ hai do tâm lí sợ sệt do bị đe dọa hoặc sợ bố mẹ, thầy cô mắng. Do vậy khi gia đình phát hiện ra những biểu hiện lạ từ trẻ thì phải ngay lập tức tìm hiểu và báo với cơ quan có thẩm quyền đểnhanh chóng có biện pháp can thiệp kịp thời. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi phát hiện hoặc nhận được tin báo về hành vi phạm tội phải nhanh chóng có kế hoạch để điều tra và bảo vệ nạn nhân tránh khỏi tình trạng tái trở thành nạn nhân của tội phạm. Với chức năng và nhiệm vụ của mình cơ quan tư pháp hình sự phải là trung tâm của hệ thống bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trong cơ quan tư pháp hình sự thì cơ quan công an giữ vai trò là lực lượng nòng cốt trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Với đặc thù nghề nghiệp, bộ công an sẽ kết hợp với viện kiểm sát và tòa án trong việc xác định các trường hợp cần bảo vệ, biện pháp và các chương trình áp dụng. Bảo vệ nạn nhâncủa tội phạm là trẻ em bằng những hoạt động trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Sau khi bị xâm hại nạn nhân cần phải nhanh chóng được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong nhiều trường hợp do vì trình độ hiểu biết kém, nhận thức về pháp luật hạn chế nên cần có sự trợ giúp kịp thời các hoạt động trợ giúp pháp lí để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trợ giúp pháp lý cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em gồm tất cả những vấn đề liên quan đến thủ tục, và pháp luật như trình tự, thủ tục để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thủ tục khai báo, thủ tục tìm luật sư bảo vệ…vv. 1.2.2. Đặc điểm Chủ thể bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm trước hết và chịu trách nhiệm chính là các cá nhân, cơ quan, tổ chức mang quyền lực của nhà nước 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
117 p | 439 | 110
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật Việt Nam về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động – những vấn đề lý luận và thực tiễn
98 p | 129 | 40
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học chất lượng cao: Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law
50 p | 73 | 29
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay
73 p | 161 | 27
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng
92 p | 125 | 19
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
87 p | 74 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Lịch sử và xu hướng phát triển của hiến pháp các nước Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á
130 p | 46 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật việt nam và sự tương thích với chuẩn mực pháp luật quốc tế
84 p | 56 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Những chuyển biến về quyền hôn nhân và tài sản của phụ nữ Việt Nam thời cận đại từ góc độ pháp luật qua hoàng việt luật lệ và dân luật Bắc Kì 1931
40 p | 57 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay (Hồ Thị Phương Mai)
80 p | 79 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài ở Việt Nam
60 p | 78 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Biện pháp bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trong pháp luật Việt Nam
77 p | 49 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay
76 p | 67 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm hiểu địa danh tỉnh Cà Mau
130 p | 19 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Yếu tố kỳ ảo trong Chiếc áo khoác của Gogol và Miếng da lừa của Balzac
84 p | 18 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam
68 p | 67 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông trong Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam
86 p | 59 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Cơ chế kiểm soát trong nội bộ Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014
82 p | 52 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn