intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

79
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận nghiên cứu những khía cạnh pháp lý cơ bản về lý luận của mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, những quy định của pháp luật hiện hành đối với vấn đề này nhằm tiếp cận cụ thể và rõ ràng hơn. Đồng thời, có sự khái quát, khách quan, toàn diện hơn, góp phần hoàn thiện quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nói riêng và Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHẬT HUỆ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI – 2019
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Thị Nhật Huệ 2
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phan Thị Lan Phương, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng sinh gửi lời càm ơn chân thành tới các thầy cô giáo tại Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn gia đình và bạn bè đã bên cạnh động viên tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu hoàn thiện nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn. Tác giả Nguyễn Thị Nhật Huệ 3
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. 1 LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ 3 MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 6 I. Tính cấp thiết của đề tài:....................................................................................................................6 II. Tình hình nghiên cứu đề tài:..............................................................................................................7 III. Đối tượng nghiên cứu: .......................................................................................................................8 IV. Mục đích nghiên cứu:.........................................................................................................................8 V. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................................................8 VI. Ý nghĩa khoa học của đề tài:.............................................................................................................9 VII. Kết cấu khóa luận:...............................................................................................................................9 CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................. 10 1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về mang thai hộ .................................................................. 10 1.1.1. Khái niệm mang thai hộ ................................................................................................................. 10 1.1.2. Đặc điểm pháp luật về mang thai hộ ................................................................................................ 12 1.2. Nội dung của pháp luật về mang thai hộ .................................................................................... 16 1.2.1. Pháp luật về mang thai hộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc thực hành, kiểm soát mang thai hộ ...................................................................................................... 16 1.2.2. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia quan hệ mang thai hộ.... 16 1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ............. 17 1.3.1. Phong tục tập quán, đạo đức truyền thống ................................................................................. 17 1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội.................................................................................................................. 18 1.3.3. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ............................................................................................. 18 1.4. Pháp luật về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới............................................................ 19 1.4.1. Nhóm các nước đã hợp thức hóa mang thai hộ........................................................................ 20 1.4.2. Nhóm các nước chưa hợp thức hóa mang thai hộ................................................................... 21 1.5. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ ......................................................................... 22 1.5.1. Vai trò của pháp luật về mang thai hộ ......................................................................................... 22 1.5.2. Ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ....................................................................................... 25 1.6. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo..... 26 1.6.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm về quyền cho các bên tham gia....................................... 26 1.6.2. Hoàn thiện pháp luật để phù hợp với truyền thống đạo đức ................................... 29 4
  5. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM ........................................................................ 33 2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ.................................................................................................. 33 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam............. 33 2.2.2. Những hạn chế của các quy định pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam .... 50 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về mang thai hộ ............................................................................... 56 2.2.1. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực mang thai hộ.................................................................. 56 2.1. Nguyên nhân của những hạn chế................................................................................................. 60 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM..................................................................................................................... 64 3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về mang thai hộ......................................................................... 64 3.1.1. Hoàn thiện một số các quy định pháp luật Hôn nhân và Gia đình về mang thai hộ............. 64 3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật Dân sự về mang thai hộ.................................................. 69 3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật Hình sự về mang thai hộ................................................ 69 3.2. Một số giải pháp khác để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ................................................................................................................................................. 70 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 73 5
  6. MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài: Tổ chức Y tế thế giới (WTO) dự báo: Vô sinh và hiếm muộn là vấn đề nguy hiểm thứ 3, chỉ đứng sau ung thư và bệnh tim mạch ở thế kỷ 21 và căn bệnh này dần trở nên phổ biến ở các nước Châu Á trong đó có Việt Nam. Ước muốn có được những đứa con là nguyện vọng rất chính đáng của những cặp vợ chồng hiếm muộn. Vì thế, đã có nhiều biện pháp hỗ trợ cho quá trình mang thai ra đời, từ phương pháp thụ tinh ống nghiệm cho đến việc mang thai hộ hay đẻ thuê đã gây ra những tranh cãi phức tạp. Ở Việt Nam, hằng năm có khoảng 500-700 cặp vợ chồng cần sử dụng các biện pháp y tế hỗ trợ để có con, tỷ lệ vô sinh hiếm muộn ngày càng nhiều. Trước khi Luật hôn nhân và gia đình 2014 sửa đổi và bổ sung có hiệu lực thì mang thai hộ là vấn đề bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, do nhu cầu của các cặp vợ chồng khao khát có con nên đã xuất hiện những bên “cung”, là những đường dây cung cấp dịch vụ mang thai hộ ngầm ngoài thị trường nhằm mang mục đích thương mại. Vì thế, đi kèm theo đó là phát sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến cả 2 bên về pháp lý và hợp đồng, gây khó khăn cho cơ quan chức năng có trách nhiệm xử lý. Trước tình hình đó, những quy định pháp luật điều chỉnh về mang thai hộ đã được Quốc Hội thông qua, điều chỉnh và bổ sung trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 .Đi kèm đó là những văn bản, nghị định hướng dẫn thi hành để đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. Việc quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là 1 bước tiến rất mạnh và tiến bộ của pháp luật Việt Nam, đáp ứng vấn đề chính đáng của các cặp vợ chồng hiếm muộn, giúp duy trì hạnh phúc gia đình bởi đã có nhiều trường hợp “ngang trái” với những hành vi “ông ăn chả, bà ăn nem” bên ngoài quan hệ hôn nhân hợp pháp để có con nối dõi. Việc quy định pháp luật như vậy đã tránh sự lạm dụng của các trường hợp vì mục đích thương mại như “đẻ thuê” hay lạm dụng tình dục, lợi dụng việc “đẻ thuê” để cưỡng đoạt tài sản,… Với những đổi mới về pháp luật cho thấy sự thay đổi nhận thức của các nhà làm luật Việt Nam khi quan tâm nhiều hơn đến vấn đề gia đình, thể hiện xu hướng hòa nhập quốc tế về khía cạnh mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Việc xác định quan hệ trong gia đình có ý nghĩa rất lớn đối với duy trì xã hội ổn định. Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều vấn đề pháp lý liên quan khá phức tạp về việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn khi mà đi sâu vào cuộc sống, pháp luật đã thể hiện 6
  7. nhiều sự bất cập, gây khó khăn cho những cặp vợ chồng vô sinh muốn có con với lí do chính đáng như việc quy định về điều kiện về người mang thai hộ và người nhận mang thai hộ, xác định quan hệ cha mẹ con,…và hơn nữa là dù đã quy định nhưng vấn đề mang thai hộ vì mục đích thương mại vẫn còn tồn tại do chế tài xử lý chưa thật sự thắt chặt. Điều đó thể hiện những quy định pháp luật chưa đi sát và giải quyết gốc rễ các vấn đề liên quan trong khi tình hình xã hội càng ngày càng phát triển và nảy sinh nhiều trường hợp “khó xử lý”. Do đó luôn cần hoàn thiện pháp luật để có thể theo kịp được sự phát triển của xã hội trong vấn đề về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Em nhận thấy việc nghiên cứu tổng quan về quản lý thực hiện cũng như thực trạng và thực thi pháp luật để tìm ra và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới là rất cần thiết.Chính vì thế, em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay” nhằm nghiên cứu cụ thể và rõ ràng hơn về vấn đề này. II. Tình hình nghiên cứu đề tài: Mang thai hộ là một vấn đề rất mới trong quy định pháp luật Việt Nam, cụ thể hơn là pháp luật về Hôn nhân và Gia đình. Sở dĩ như vậy là do trước đây, pháp luật nước ta nghiêm cấm hành vi này vì cho rằng đó là vi phạm đạo đức và xâm phạm quan hệ giữa cha mẹ con, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện thiên chức của mỗi người. Tuy vậy, trước tình hình xã hội, chúng ta đã có cái nhìn khác và đã đề cập đến vấn đề dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện sự kiểm soát của Nhà nước và cũng là mở ra con đường sang hơn cho các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn. Qua tìm hiểu thực tế, em thấy đây là 1 vấn đề có tính lý luận và áp dụng thực tiễn cao. Sau khi luật Hôn nhân và gia đình 2014 được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực, đã có nhiều bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này như: Nguyễn Thị Hương, “Một số vấn đề pháp luật về mang thai hộ”, khoa dân sự, trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Cừ (2016), “Pháp luật về MTH ở Việt Nam” , Tạp chí Luật học số 06/2016; Nguyễn Văn Lâm, “Bàn về mang thai hộ theo quy định pháp luật Việt Nam, tạp chí Kiểm sát 04/2016; Nguyễn Thị Lan, “Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh”, tạp chí Luật học số 04/2015….Hay là những luận văn nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ” - Bùi Thị Hoa, 2014; Luận văn thạc sĩ “Pháp luật kiểm soát mang thai hộ ở Việt Nam” – Trần Thị Thu Hằng, 2018; Luận văn thạc sĩ “Hợp đồng mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam” – Nguyễn 7
  8. Thị Phượng, 2019,… Cùng nhiều tác phẩm nghiên cứu, bài viết của các tác giả khác có liên quan đến vấn đề này. Những công trình nghiên cứu nêu bên trên đã phân thích, đánh giá và có những kiến nghị để nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý và thực hiện quy định pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo nhiều khía cạnh. Mặc dù vậy, đề tài về mang thai hộ vẫn không mất đi tính thời sự của nó và còn ẩn chứa nhiều bất cập khi đưa vào áp dụng thực tiễn. Chính vì thế bài khóa luận này em sẽ cố gắng nghiên cứu một cách hệ thống về thực trạng của vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Để từ đó có cái nhìn khách quan hơn, chỉ ra những ưu điểm và những điểm còn hạn chế của pháp luật. Dựa theo đó kiến nghị sửa đổi những bất cập và đóng góp xây dựng hoàn thiện pháp luật để các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ được đảm bảo tuyệt đối về quyền và nghĩa vụ, ngăn chặn hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại xảy ra gây rào cản về pháp luật. III. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Luận văn “Hoàn thiện pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam” tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề mang thai hộ để từ đó chỉ ra các điểm bất cập và hoàn thiện pháp luật. Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khac nhau, song do giới hạn của luận văn, tác giả xin phép chỉ đi sâu vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa, các tiêu chí hoàn thiện, các yếu tố ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật quốc gia về mang thai hộ đến việc tìm hiểu pháp luật mang thai hộ ở một số quốc gia; thực trạng pháp luật và những nguyên nhân, hạn chế đề từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ. IV. Mục đích nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những khía cạnh pháp lý cơ bản về lý luận của mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, những quy định của pháp luật hiện hành đối với vấn đề này nhằm tiếp cận cụ thể và rõ ràng hơn. Đồng thời, có sự khái quát, khách quan, toàn diện hơn, góp phần hoàn thiện quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nói riêng và Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nói chung. V. Phương pháp nghiên cứu 8
  9. Để đạt được những mục đích nghiên cứu đã đề ra, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp tổng hợp, bình luận: sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu vấn đề chung về khái niệm, nội dung, vai trò, ý nghĩa của việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; pháp luật một số nước trên thế giới và các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ. - Phương pháp phân tích, thống kê: sử dụng ở chương 2 khi phân tích từ pháp luật những hạn chế, vướng mắc về quyền và nghĩa vụ của các bên; chế tài áp dụng xử lý khi xảy ra vi phạm khi thực hiện mang thai hộ; đưa ra những trường hợp xảy ra khi áp dụng pháp luật về mang thai hộ diễn ra trong thực tiễn cuộc sống để từ đó đưa ra kiến nghị về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này ở chương 3. VI. Ý nghĩa khoa học của đề tài: Có cái nhìn khái quát và toàn diện hơn về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật để từ đó các cặp vợ chồng rơi vào trường hợp hiếm muộn có nhu cầu có con hợp pháp có thể yên tâm áp dụng, đồng thời, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này. VII. Kết cấu khóa luận: Khóa luận được chia làm 3 chương: - Chương I: Một số vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay - Chương II: Thực trạng pháp luạt và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam - Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ 9
  10. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về mang thai hộ 1.1.1. Khái niệm mang thai hộ Vô sinh là điều không mong muốn ở các cặp vợ chồng hiện nay. Tuy nhiên, bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản, không ít cặp vợ chồng đã có thể chào đón em bé ra đời. Hiểu đơn giản, đó là những biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích cao cả là giúp những người hiếm muộn, vô sinh có thể mang thai và được thực hiện thiên chức của mình. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, giải quyết được tình trạng vô sinh của cả nam và nữ do ảnh hướng của nhiều yếu tố bên ngoài như môi trường, hóa chất,… hoặc đến từ sự cấu tạo cơ địa của mỗi người gây khó khăn cho quá trình mang thai. Sự phát triển tích cực từ y học này đã đem lại rất nhiều hi vọng và hạnh phúc cho các cặp vợ chồng hiếm muộn có nhu cầu có con trên Thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Vì vậy, vô sinh là nguyên do dẫn đến sự hình thành các phương pháp hỗ trợ sinh sản, trong đó có phương pháp mang thai hộ. Ở Việt Nam, trước khi Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành, các khái niệm “mang thai hộ” và “chửa hộ”, “đẻ thuê” đã được sử dụng rộng rãi và phổ biến.Tuy nhiên, nội dung và ý nghĩa của các khái niệm này chưa có sự đồng nhất, thậm chí có sự đánh đồng giữa các khái niệm. Có người hiểu rằng “mang thai hộ” là việc người đàn ông (người chồng) quan hệ (sinh lý) trực tiếp, không sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản với một người phụ nữ (không phải là vợ), cho đến khi người phụ nữ này thụ thai, mang thai và sinh con. Trong trường hợp này, đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng của người đàn ông (người chồng) kết hợp với noãn của người phụ nữ (không phải vợ). Thực tế ở Việt Nam hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng vì lí do nào đó mà không thể có con chung tự nhiên (như người vợ bị dị tật mà không thể thụ thai và sinh con; hoặc người vợ không có tử cung do bệnh tật đã phải cắt bỏ,…) nên hai vợ chồng đã bàn bạc, thỏa thuận để cho người chồng có quan hệ (sinh lí) trực tiếp với một người phụ nữ khác (đã đồng ý) để thụ thai, mang thai và sinh con cho cặp vợ chồng vô sinh và người phu nữ nhận “mang thai hộ” có thỏa thuận với nhau về thù lao (tiền hoặc tài sản) cho việc mang thai hộ này. [1, tr11,12] 10
  11. “Đẻ thuê” hiểu một cách đơn giản là việc bên thuê đẻ và bên để thuê có thỏa thuận với nhau theo đó bên thuê đẻ sẽ trả cho bên đẻ thuê tiền hoặc tài sản, còn bên đẻ thuê sẽ mang thai, sinh con và trao con cho bên đẻ thuê. Với thực tế hiện nay cho thấy, việc đánh đồng khái niệm mang thai hộ với đẻ thuê, đẻ mướn không còn phù hợp, nó khiến vấn đề trở nên phức tạp và nhạy cảm hơn, không còn phù hợp với thuần phong mỹ tục cũng như luật pháp của người Việt Nam. Đã đến lúc phải hiểu mang thai hộ theo đúng ý nghĩa của nó, phù hợp với chế độ nhà nước và hệ thống pháp luật mỗi quốc gia. Ngày nay, với sự phát triển của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, những việc làm trên không được luật pháp bảo hộ và xã hội lên án. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, cụ thể là thụ tinh ống nghiệm cho phép lấy tinh trùng và noãn của một cặp vợ chồng ra khỏi cơ thể, cho tinh trùng và noãn thụ tinh để tạo phôi, nuôi cấy phôi và cho đưa phôi vào tử cung một phụ nữ khác để mang thai. Nhờ đó, kỹ thuật mang thai hộ chính danh mới có thể được thực hiện. Với thụ tinh ống nghiệm, chúng ta mới có kỹ thuật mang thai hộ đúng nghĩa. Mang thai hộ có thể hiểu đơn giản là trường hợp sau khi thụ thai trong ống nghiệm, nếu người mẹ vì lý do sức khỏe hay vì điều kiện nào đó không thể mang thai, phải nhờ đến người phụ nữ khác mang thai và sinh đẻ. Có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau về vấn đề này nhưng theo tác giả, để hiểu chuẩn về mặt pháp lý thì trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã có định nghĩa rất rõ ràng tại khoản 22 điều 3: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện của cả 2 bên và đáp ứng các điều kiện và yêu cầu của pháp luật là “người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại”. Có nghĩa, người mang thai hộ sẽ không vì mục đích kinh tế hay bất kỳ mục đích nào khác để mang thai giúp cặp vợ chồng không thể sinh con. Việc quy định như vậy giúp phân biệt giữa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại – điều bị pháp luật Việt Nam nghiêm cấm, được quy định rõ trong Bộ luật hình sự. 11
  12. Pháp luật cũng quy định rất rõ điều kiện để nhờ người mang thai hộ ở đây là người vợ ngay cả khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác mà vẫn không thể có con, thì mới được tìm đến biện pháp này như một cách “mượn tử cung” của người phụ nữ khác. Không chỉ thế, khái niệm trên đã đưa ra và quy định phương thức thực hiện mang thai hộ phải được thực hiện bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, tức là “lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ được nhờ mang thai và sinh con”.Như vậy, về mặt khoa học, noãn của người phụ nữ, tinh trùng của người đàn ông không phải là kết quả của sự kết hợp tự nhiên, trực tiếp giữa vợ và chồng mà phải nhờ vào biện pháp hỗ trợ y tế của các bác sỹ chuyên ngành. Từ noãn và tinh trùng lấy từ cơ thể vợ và chồng, bác sỹ thụ tinh trong ống nghiệm để tạo thành phôi và cấy phôi thai vào tử cung người mang thai hộ. Qua đó có thể thấy, việc mang thai hộ phải trải qua các trình tự nghiêm ngặt, không được “giúp đỡ trực tiếp” giữa người chồng bên nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ [4, tr18]. Điều đó có nghĩa con sinh ra sẽ có đặc điểm sinh học của cả vợ và chồng nhờ mang thai hộ. Khác với cách trước khi có biện pháp này là người chồng phải quan hệ trực tiếp hoặc bơm tinh trùng vào tử cung của người nhận mang thai hộ. Như vậy không đảm bảo về tính sinh học và bản chất thì hành vi này không thể được coi là mang thai hộ. 1.1.2. Đặc điểm pháp luật về mang thai hộ 1.1.2.1. Mang tính hợp đồng Theo Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Yếu tố thỏa thuận chính là yếu tố quyết định tạo nên hợp đồng. Đối với trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, để được công nhận và đảm bảo thì các bên tham gia vào quan hệ này phải tuân thủ theo các điều kiện quy định, phải có đầy đủ giấy tờ chứng thực chứng minh giữa người nhờ mang thai, người mang thai trước bên thứ 3 là pháp luật để được Nhà nước bảo hộ. Ta có thể định nghĩa về hợp đồng mang thai hộ như sau:“Hợp đồng mang thai hộ là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của bên nhờ mang thai hộ là cặp vợ chồng vô sinh với bên mang thai hộ là người phụ nữ tự nguyện mang thai vì mục đích nhân đạo, nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau trong quan hệ pháp luật về mang thai hộ”.[5, tr12] 12
  13. Trong mang thai hộ, trước khi các chủ thể tiến hành hoạt động mang thai hộ thì việc đầu tiên đó là các bên phải thỏa thuận với nhau những nội dung trong suốt quá trình mang thai hộ. Nói nôm na, đó chính là sự bàn thảo để tạo nên một hợp đồng dân sự mang tên hợp đồng mang thai hộ. Hợp đồng mang thai hộ là một loại hợp đồng đặc biệt bởi đối tượng ở đây là con người – đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Với loại hợp đồng này, pháp luật phải có những quy định rất sát sao để có thể đảm bảo được các quyền lợi của trẻ em. Với tính chất này, mục đích nhân đạo là cái cốt lõi xuyên suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Trường hợp vì mục đích thương mại hay có tính chất miễn cưỡng do bị đe dọa buộc phải chấp nhận hoặc khi giao dịch người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không được chấp nhận. Vì vậy, hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu bởi trẻ em không phải là món hàng trao tay, điều đó là vi phạm đạo đức con người và thuần phong mỹ tục. Quy định nội dung hợp đồng chặt chẽ là điều vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo tính pháp lý cho hợp đồng mang thai hộ đồng thời là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước tòa. Hiện tại, pháp luật Việt Nam đã ban hành Mẫu số 06 thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, ban hành kèm theo Nghị định Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.Thỏa thuận mang thai hộ này cũng được xem như một hợp đồng mang thai hộ mẫu được pháp luật ban hành sẵn để các bên chủ thể dựa vào đó, có căn cứ cũng như các điều khoản mẫu tiếp tục hoàn thiện những thỏa thuận của mình. Trong hợp đồng này có đầy đủ thông tin của các chủ thể tham gia vào quan hệ này. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ là tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận, đặt lợi ích của đứa trẻ sinh ra từ mang thai hộ lên hàng đầu. Mang thai hộ luôn đi kèm theo là những vấn đề pháp lý phức tạp và nhiều trường hợp dễ dẫn đến tranh chấp. Vì vậy hợp đồng mang thai hộ cần rõ ràng chi tiết bởi trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn thì các bên chủ thể trong quan hệ này là những người có quyết định cao nhất trong việc đưa ra các phương án hành động. Do vậy, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng ban đầu là căn cứ sát sao và rõ ràng nhất để giải quyết tranh chấp. 13
  14. 1.1.2.2. Mang tính kiểm soát Theo từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát” được hiểu là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định, được đặt trong phạm vi, quyền hành của một đối tượng nào đó. Từ khái niệm trên có thể hiểu kiểm soát pháp luật về mang thai hộ là cá nhân, một nhóm người, một tổ chức theo dõi, xem xét, đánh giá, đối chiếu với những quy định đã được đặt ra xem những cá nhân, nhóm người hay tổ chức nào đó có tuân thủ đúng với những quy định đó hay không. Nếu phát hiện ra có những hành vi trái với quy định đã được đặt ra thì phải kịp thời ngăn chặn, tránh để xảy ra hậu quả xấu [4, tr18] Có nghĩa, Nhà nước sẽ ban hành các văn bản pháp luật, quy định các điều kiện về mang thai hộ, các quy định sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc thỏa thuận của các bên, việc xác định cha mẹ con và giải quyết các tranh chấp pháp sinh. Tính kiểm soát của pháp luật ở đây bao quát cả tính hợp đồng thỏa thuận giữa các bên để đảm bảo được các vấn đề pháp lý liên quan trong trường hợp có phát sinh tranh chấp và đồng thời kiểm soát bằng các biện pháp y tế cụ thể, các cách thức để thực hiện mang thai hộ. Các điều kiện này cần có sự tham gia của các cơ sở y tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ về thủ tục pháp lý. Cụ thể để thực hiện mang thai hộ, các bên phải gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này, gồm:1. Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo mẫu; 2. Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo mẫu; 3. Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào; 4. Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; 5. Bản xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sả; 6. Bản xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định sau: người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải có đủ sức khỏe để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con; không đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh 14
  15. truyền nhiễm thuộc nhóm A, B; không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và đã từng sinh con; 7. Bản xác nhận của UBND cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này; 8. Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ; 9. Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa; 10.Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên; 11.Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý; 12. Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định. [4, tr20] Để ràng buộc trách nhiệm của các bên với sự thỏa thuận của mình và để pháp luật dễ kiểm soát, theo dõi thỏa thuận của hai bên, việc thỏa thuận giữa hai bên tham gia vào thỏa thuận mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng theo quy định của pháp luật. Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện rõ tinh thần tự nguyện của các bên tham gia thỏa thuận mang thai hộ với quy định hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ và nhận mang thai hộ đều phải tham gia ký kết thỏa thuận, trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng và việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý. Việc quy định rõ về sự tự nguyện của các bên phải được lập thành văn bản và có công chứng là điều kiện để pháp luật dễ dàng kiểm soát . Hiện nay trên Thế giới có thể chia thành 4 nhóm: nhóm nước chưa có quy định, nhóm nước phản đối, nhóm nước cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và nhóm nước chấp thuận thương mại hóa. Dù tình hình xã hội và quan điểm pháp luật của các quốc gia về mang thai hộ có khác nhau thì việc ban hành các quy định để kiểm soát cũng đều hướng chung một mục đích là bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia vào quan hệ và đảm bảo ý chí của Nhà nước về vấn đề này nhằm thỏa mãn các điều kiện và mục tiêu được đặt ra trước đó. 1.1.2.3. Mang thai hộ mang tính đạo đức Có thể nói, cho phép “mang thai hộ” không phải là cho phép “đẻ thuê”. Cho phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng có chỉ định để bảo đảm quyền làm 15
  16. mẹ chính đáng của mọi phụ nữ và người mang thai hộ không vì mục đích lợi nhuận. Mang thai hộ là một thành tựu của y học, có thể nói là một tiến bộ vượt bậc để biến mơ ước không thể làm mẹ của rất nhiều phụ nữ được trở thành hiện thực. Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình 1.2. Nội dung của pháp luật về mang thai hộ 1.2.1. Pháp luật về mang thai hộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc thực hành, kiểm soát mang thai hộ Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định rõ các cơ sở y tế khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và thẩm quyền cung cấp giấy xác nhận tình trạng sinh sản cho các trường hợp vô sinh muốn thực hiện biện pháp mang thai hộ. Ủy ban Nhân dân cấp xã là nơi đảm nhận việc xác nhận tình trạng quan hệ hôn nhân, quan hệ giữa bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ, tình trạng đã có hoặc chưa có con chung,…Trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, cụ thể là Tòa án nhân dân cấp Huyện. Mọi vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và các văn bản pháp luật khác có liên quan. 1.2.2. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia quan hệ mang thai hộ Hai bên khi tham gia vào quan hệ này sẽ phải xác lập các quyền và nghĩa vụ lẫn nhau. Điều này không chỉ được thể hiện dưới dạng thỏa thuận theo ý chí của bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ mà còn phải dựa vào yêu cầu của pháp luật về các nội dung thực hiện quyền. Pháp luật quy định rõ việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thơi gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan. Có thể nhận thấy, quy định về thời điểm phát sinh chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là hợp lý, một mặt bảo đảm tốt nhất cho sức khỏe của đứa trẻ từ khi còn là bào thai cho đến khi sinh 16
  17. ra, bảo đảm đứa trẻ nhận được sự chăm sóc tốt nhất từ hai bên trong quan hệ mang thai hộ, mặt khác bảo vệ quyền lợi, sức khỏe sinh sản cho người phụ nữa mang thai hộ. 1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ 1.3.1. Phong tục tập quán, đạo đức truyền thống Phong tục tập quán trở thành một bộ phận cấu thành căn bản của truyền thống văn hóa và giá trị đạo đức, việc duy trì và phát triển phong tục tập quán là việc làm cần thiết để bảo vệ bản sắc văn hóa và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hôi. Pháp luật chỉ thực sự phát huy được hiệu quả của nó khi được nhân dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác. Các nhà làm luật phải căn cứ dựa theo các giá trị truyền thống để ban hành các quy định pháp luật phù hợp với đặc điểm của dân tộc. Cơ sở đó là điều kiện khách quan giúp cho pháp luật gần với đời sống của người dân, dễ dàng được người dân chấp nhận và thực thi. Thiên chức làm mẹ là vinh dự mà tất cả phụ nữ trên Thế giới đều hạnh phúc mong đón nhận. Sự gắn kết giữa mẹ và con trong quá trình mang thai 9 tháng 10 ngày là sự thiêng liêng và đáng trân trọng. Trong cuộc sống, không có gì đáng quý và cảm động hơn tình mẫu tử. Chính vì vậy mà trước đây, việc một người mang thai và sinh con hộ người khác là điều không thể chấp nhận. Đã có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức, đi ngược lại phong tục, tập quán và truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ là hành vi đáng lên án mà còn bị phản đối kịch liệt bởi quan niệm mang thai, sinh con là công việc của người mẹ mà không thể trao thiên chức này cho một người phụ nữ khác. Sự phản đối này là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ mang thai và sinh con là đặc điểm riêng có ở người phụ nữ, thể hiện 21 tính đặc trưng của giống loài, trong quá trình hình thành và nuôi dưỡng thai, với tất cả tình yêu thương của người phụ nữ giành cho đứa trẻ đã hình thành nên sợi dây liên kết vô hình giữa mẹ và con. Sự liên kết này tuy vô hình nhưng thiêng liêng và ý nghĩa.Tuy vậy nhưng tạo hóa không phải lúc nào cũng công bằng với tất cả. Có những người phụ nữ không có khả năng làm mang thai và sinh con, họ chỉ có thể trông cậy vào các biện pháp hỗ trợ sinh sản và bước cuối là nhờ tới sự giúp đỡ của người 17
  18. phụ nữ khác (ở đây không bàn tới trường hợp người phụ nữ vô sinh nhưng không có nhu cầu nhờ mang thai hộ). Dù rằng nhờ người khác mang thai hộ đi ngược lại với những thói quen và quan niệm văn hóa của người Việt nhưng trong trường hợp này là vì mục đích nhân đạo cao cả nên dễ dàng được người dân chấp nhận. Nhưng không đồng nghĩa với việc tất cả các quốc gia đều đồng thuận.Nhiều dân tộc trên Thế giới coi đây là việc làm trái đạo đức và đáng bị lên án. Như vậy, sự chấp nhận, ủng hộ hay phản đối của người dân về vấn đề mang thai hộ là cơ sở để pháp luật hoàn thiện. Nếu pháp luật hợp lòng dân, đem lại lợi ích và thỏa mãn tư duy của nhân dân thì việc thực hiện pháp luật sẽ được diễn ra một cách tự giác. Vì vậy, trong việc xây dựng pháp luật về mang thai hộ cần phải nắm bắt được tinh thần và quan điểm chung của xã hội khi ban hành các quy định. 1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng.Các điều kiện kinh tế là cơ sở hạ tầng. Trong mối quan hệ biện chứng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, do 22 vậy, nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định. “Sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của pháp luật để phù hợp. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, nó không thể thấp hơn hay cao hơn trình độ phát triển của kinh tế”[7] Muốn pháp luật phát huy được hiệu quả, pháp luật phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội ở thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, kinh tế và xã hội phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều hơn các các nhu cầu mới trong đó có nhu cầu về mang thai hộ. Sở dĩ nhu cầu mang thai hộ nhiều do tỷ lệ vô sinh của người phụ nữ ở nước ta ngày càng cao. Bên cạnh đó, xã hội ngày càng hiện đại, kinh tế ngày càng phát triển đã góp phần làm tăng mức sống, mức thu nhập của người dân, nhiều người có cơ hội tiếp cận với kỹ thuật mang thai hộ vì chi phí của việc mang thai hộ là rất cao. Như vậy, chính sự đặc trưng và phổ biến của việc mang thai hộ đã đòi hỏi pháp luật cần nhanh chóng xây dựng các quy định về mang thai hộ để điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến vấn đề này nhằm hạn chế những hiện tượng tiêu cực xảy ra trong thực tiễn cuộc sống. 1.3.3. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật Sau khi Luật được ban hành, Luật phải được thi hành. Pháp luật muốn thi hành được đòi hỏi phải có các yếu tố đảm bảo "hiện thực hóa" các quy định đó trong 18
  19. cuộc sống. Việc xây dựng pháp luật mang thai hộ trong giai đoạn hiện nay là phù hợp nhờ vào những thành tựu phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt trong lĩnh vực y học. Quá trình mang thai hộ buộc phải có sự tham gia của các cơ sở y tế để tiến hành các kỹ thuật đối với người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ, đây là những kỹ thuật khó, đòi hỏi trình độ cao. Do đó, dù pháp luật cho phép mang thai hộ nhưng nếu khoa học học kỹ thuật về lĩnh vực y học không phát triển cũng không đủ điều kiện để thực hiện việc mang thai hộ trong thực tế. Với những thành tựu kỹ thuật y tế về mang thai hộ của Việt Nam hiện nay được giới chuyên gia nước ngoài đánh giá cao về sự tiến bộ và phát triển, đáp ứng được các yêu cầu khoa học và chuyên môn. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng những quy định pháp luật về mang thai hộ tại Việt Nam. Nó không chỉ là nền tảng khoa học để đưa ra khái niệm pháp lý liên quan mang thai hộ mà còn là cơ sở thực tiễn để đưa ra những quy định về mang thai hộ có tính khả thi, hiệu quả cao khi áp dụng vào thực tế. Do vậy, khi xây dựng các quy định pháp luật về mang thai hộ, chúng ta không chỉ dựa trên nền tảng yếu tố phong tục tập quán, tinh thần nhân đạo, điều kiện kinh tế xã hội mà còn dựa trên những thành tựu cũng như định hướng phát triển của khoa học kỹ thuật để nâng cao tính thực tiễn, tính khả thi cũng như hiệu quả lâu dài của quy định pháp luật. [6, tr20-23] 1.4. Pháp luật về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới Theo phân tích điều tra về mang thai hộ thì trong tổng số 105 quốc gia được thăm dò chỉ 71(68%) quốc gia trả lời câu hỏi về mang thai hộ. Hầu hết các quốc gia không trả lời về thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ là vì lý do tôn giáo. Trong số 71 quốc gia trả lời thì 15 (21%) quốc gia cho phép thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ và được quy định trong luật, 13 (23%) quốc gia có chủ trương, 30 (42%) quốc gia không cho phép và 10 (14%) quốc gia không đề cập đến thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ. 17 trong tổng số 71 quốc gia (24%) việc thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ được thực hiện, nhưng trong đó có 9 quốc gia không có quy chế hoặc hướng dẫn về vấn đề này. (LV KSoat MTH) Các nước khác nhau có những quy định khác nhau về vấn đề mang thai hộ. Có quốc gia thừa nhận, và đã luật hóa mang thai hộ nhưng có quy định điều kiện chặt chẽ, có quốc gia không thừa nhận nhưng cũng không cho phép; có nhiều quốc gia cấm hoàn toàn… Sở dĩ có sự khác nhau này là do: truyền thống, 19
  20. phong tục, tập quán, chế độ xã hội cũng như vấn đề quản lý công dân, dư luận xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật ở các nước là khác nhau. 1.4.1. Nhóm các nước đã hợp thức hóa mang thai hộ Các quốc gia đã hợp pháp hóa việc mang thai hộ được chia ra làm hai nhóm nước: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại. Đối với các quốc gia thuộc nhóm vì mục đích nhân đạo, chẳng hạn như Anh, Hy Lạp, Hunggari, Hà Lan, Bỉ, Canada, Australia, Nam Phi,… các thỏa thuận mang thai hộ chủ yếu được tiến hành trên cơ sở tự nguyện. Ở những quốc gia này, mang thai hộ được người dân quan tâm và ủng hộ bởi mang thai hộ ngoài việc giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn thỏa mong ước có con còn góp phần đảm bảo quyền làm mẹ chính đáng của phụ nữ. Ở Anh, việc mang thai hộ bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản và cả việc quảng cáo đề tìm người mang thai hộ đều được phép theo luật về thụ tinh nhân đạo từ năm 1994. Theo đó, Luât thừa nhận tính hợp pháp của việc hcuyeenr quyền làm cha mẹ từ người nhận đẻ thuê sang người thuê đẻ và việc xác định quan hệ cha mẹ con được thiết lập dựa trên quyết định của tòa án sau khi đứa trẻ ra đời theo yêu cầu của cặp vợ chồng đã thuê đẻ. Luật này cũng quy định cho người mẹ đẻ thuê có quyền phản đối việc xác định quan hệ cha mẹ con này trong thời hạn 6 tuần. Luật Hình sự Anh nghiêm cấm việc trả tiền cho người môi giới đối với việc mang thai hộ. [1, tr14]. Tại Anh, trừ phi được tòa án yêu cầu, người nhờ mang thai hộ không được phép chi trả bất kỳ khoản tiền nào đối với người mang thai vượt quá “các chi phí hợp lý” trong quá trình thai kỳ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có cách giải thích cụ thể nào về “các khoản chi phí hợp lý” này có tính xác thực như thế nào. Theo luật pháp Anh, mọi khoản chi trả của người mẹ phục vụ cho quá trình mang thai đều được xem là “chi phí hợp lý”. Pháp luật Hungari quy định biện pháp mang thai hộ chỉ được thực hiện giữa các thành viên trong gia đình. Tại Israel, Luật về mang thai hộ quy định biện pháp hỗ trợ sinh sản chỉ dành cho các cặp vợ chồng đã đăng ký kết hôn. Người phụ nữ nhận mang thai hộ có thể là người độc thân hoặc đã li hôn hay góa phụ và không thể là nguồ mẹ sinh học của đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ. [1, tr14] Nhìn chung, quy định pháp luật về mang thai hộ của các quốc gia này cũng có những nội dung tương đồng và phù hợp với thực tế của xã hội. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2