intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:69

93
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của Khoá luận là làm rõ vấn đề kết hôn đồng tính có phải là quyền con người hay không. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và những khó khăn trong việc công nhận hôn nhân đồng tính là hợp pháp. Qua đó, đề xuất những biện pháp khắc phục, góp phần nhỏ vào công tác xây dựng hệ thống pháp luật trong vấn đề đảm bảo quyền kết hôn của người đồng tính.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ PHƯƠNG THẢO HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH DƯỚI GÓC ĐỘ QUYỀN CON NGƯỜI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI – 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ PHƯƠNG THẢO HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH DƯỚI GÓC ĐỘ QUYỀN CON NGƯỜI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. LÃ KHÁNH TÙNG HÀ NỘI – 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khoá luận là nghiên cứu của riêng bản thân tôi. Các số liệu, trích dẫn trong Khoá luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Nếu không có sự trung thực nào trong nghiên cứu này, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Sinh viên Bùi Thị Phương Thảo
  4. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giảng viên TS. Lã Khánh Tùng – người đã tận tình hướng dẫn và hỗ trợ em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các bạn sinh viên đã giúp đỡ em trong quá trình học tập và quá trình hoàn thành bài khoá luận này. Do chưa có nhiều kinh nghiệm và trình độ nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, Khoá luận tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên để bài khoá luận được hoàn thiện hơn, giúp em có những kinh nghiệm quý báu trong những nghiên cứu sau này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2019 Sinh viên Bùi Thị Phương Thảo
  5. MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Đặt vấn đề ................................................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài .............................................................. 3 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.............................................................. 3 5. Bố cục của khoá luận ............................................................................... 4 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ KẾT HÔN ĐỒNG TÍNH. ............................................................................................ 5 1.1 Khái niệm quyền con người ............................................................... 5 1.2 Sự phát triển của quyền con người ................................................... 6 1.3 Quyền kết hôn trong luật nhân quyền quốc tế ............................. 11 1.4 Người đồng tính và quyền của người đồng tính ............................ 13 1.4.1 Khái niệm người đồng tính ............................................................. 13 1.4.2 Quyền của người đồng tính ............................................................. 15 1.4.2.1 Cơ sở lý luận về quyền của người đồng tính ............................ 15 1.4.2.2 Những văn bản là cơ sở của việc ghi nhận quyền của người đồng tính trên phương diện quốc tế ...................................................... 20 1.4.3 Hôn nhân đồng tính ......................................................................... 23 Tiểu kết 1: ........................................................................................................................ 27 Chương 2: THỰC TRẠNG KẾT HÔN ĐỒNG TÍNH TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM ......................................................................................................... 27
  6. 2.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc công nhận quyền kết hôn của người đồng tính ..................................................................................................... 27 2.1.1 Yếu tố tâm lí, xã hội ........................................................................ 27 2.1.2 Yếu tố tôn giáo ................................................................................ 30 2.1.3 Yếu tố chính trị ................................................................................ 34 2.2 Vấn đề ghi nhận quyền kết hôn đồng tính của các nước trên thế giới và Việt Nam ................................................................................................ 38 2.2.1 Quy định pháp luật của một số quốc gia đã công nhận quyền kết hôn của người đồng tính ........................................................................... 38 2.2.2 Quy định pháp luật của một số quốc gia không công nhận hôn nhân đồng tính ................................................................................................... 43 2.2.3 Quy định pháp luật của Việt Nam ................................................... 46 2.3 Những khó khăn trong việc ghi nhận quyền kết hôn đồng tính ..... 48 Tiểu kết 2: ........................................................................................................................ 52 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO VỆ QUYỀN KẾT HÔN ĐỒNG TÍNH Ở VIỆT NAM ..................................................................................... 53 3.1 Hệ quả khi pháp luật không công nhận hôn nhân đồng tính .......... 53 3.2 Một số kiến nghị đối với các quy định của pháp luật Việt Nam về hôn nhân đồng tính .................................................................................... 57 KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 59 Tài liệu tham khảo ........................................................................................................ 60
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Viết tắt Thuật ngữ Tiếng anh 1 Đồng tính nữ, đồng tính Lesbian, Gay, Bisexual, LGBT nam, song tính, chuyển giới Transgender 2 AmericanPsychological APA Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ Association 3 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân Universal Declaration of UDHR quyền Human Rights 4 Công ước Quốc tế về các International Covenant on ICCPR Quyền Dân sự và Chính trị Civil and Political Rights 5 Công ước Quốc tế về các International Covenant on ICESCR Quyền Kinh tế, Xã hội và Economic, Social and Văn hóa Cultural Rights 6 Hội đồng nhân quyền của The United Nations’ HRC Liên hợp quốc Human Rights Council 7 BLDS Bộ luật dân sự năm 2015 8 Viện nghiên cứu Xã hội, iSEE Kinh tế và Môi trường 9 Luật Luật Hôn nhân và gia đình HN&GĐ năm 2014 10 XHCN Xã hội chủ nghĩa
  8. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Sự tồn tại của người đồng tính trong xã hội là sự thật và không thể chối bỏ. Nhưng rất nhiều người trong số họ phải sống trong vỏ bọc để tránh sự kì thị, xa lánh của những người xung quanh. Mặc dù người đồng tính là một phần hợp thành nên xã hội loài người nhưng ở nhiều nơi trên thế giới họ vẫn là nạn nhân của những hành vi ngược đãi. Thậm chí, trước đây, đồng tính luyến ái được coi là một loại bệnh tâm thần được hình thành đồng thời dưới cả khía cạnh bệnh lý và tâm lý. Nhiều người cũng cho rằng, hiện tượng đồng tính luyến ái là sự phát triển lệch lạc, lệch chuẩn về cả đạo đức và lối sống, trái với thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Trong nhiều năm trở lại đây, nhiều người không ngần ngại công khai mình là người đồng tính. Nhiều phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền được kết hôn cho những người đồng tính luyến ái đã xuất hiện ở khá nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, việc hai người đồng tính sống chung như vợ chồng cũng không còn xa lạ. Từ nhiều năm qua, vấn đề này vẫn không ngừng được quan tâm với hai quan điểm trái ngược nhau về việc công nhận hay không công nhận hôn nhân của cặp đôi đồng tính. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia thừa nhận hôn nhân đồng tính như: Hà Lan (năm 2001) là nước đầu tiên thừa nhận hôn nhân đồng tính, Bỉ (năm 2003), Na Uy (năm 2008), Đan Mạch (năm 2012), New Zealand (năm 2013), Mỹ (năm 2015) … và gần đây nhất là Úc (tháng 12/2017). Việt Nam chưa công nhận hôn nhân đồng tính. Tại điều 10 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính". Sau khi ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã có quy định mới là: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2, Điều 8). Quy định này tuy có phần tiến bộ hơn và đã có bước thay đổi trong tư duy về việc kết hôn đồng tính, nhưng về mặt pháp lí thì quyền và nghĩa vụ của 1
  9. “gia đình” người đồng tính không được bảo vệ như quan hệ vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình. Hơn nữa, nhìn dưới góc độ quyền con người thì quyền được tôn trọng, bảo vệ và quyền được đối xử bình đẳng, trong đó có quyền được kết hôn và quyền mưu cầu hạnh phúc là một quyền chính đáng không ai được phép ngăn cản. Vì sở dĩ, quyền con người mang những giá trị cao quý, được kết tinh từ những nền văn hoá và văn minh nhân loại, là phương tiện chung để bảo vệ, thúc đẩy nhân phẩm, hạnh phúc của con người. Nhằm hiểu rõ hơn về vấn đề hôn nhân đồng tính cũng như mong muốn góp một phần nhỏ hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền kết hôn của người đồng tính, vì vậy tôi chọn đề tài:"Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề đồng tính luyến ái hay cụ thể hơn là vấn đề hôn nhân đồng tính không còn xa lạ. Vấn đề này đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ như: xã hội học, y tế, tâm lí học, luật học… Có thể kể đến là: Xu hướng và tác động xã hội của hôn nhân đồng giới: Xu hướng thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Nguyễn Thu Nam – Khoa dân số và phát triển, Viện chiến lược và chính sách y tế, Bộ Y tế; Hôn nhân cùng giới: xu hướng thế giới, tác động xã hội và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - Tổng hợp tài liệu từ các nghiên cứu khác nhau do Viện nghiên cứu xã hội kinh tế và môi trường (iSEE) thực hiện với sự đóng góp của nhiều tác giả và một số tạp chí… Dưới góc độ quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, luận văn nghiên cứu, như: Trương Hồng Quang (2013), “Tìm hiểu một số vấn đề dưới góc độ pháp lí về đồng tính, song tính, chuyển giới”; Trương Hồng Quang (2014), “Người đồng tính, song tính, chuyển giới tại Việt Nam và vấn đề đổi mới hệ thống pháp luật”; nhóm nghiên cứu Lương Thế Huy và Phạm Quỳnh Phương (2016), “Có phải bởi vì tôi là LGBT? Phân biệt đối xử dựa 2
  10. trên xu hướng tính dục và bản dạng giới tại Việt Nam; Trương Hồng Quang (2017), “Tìm hiểu quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính ở Việt Nam”. Một số nghiên cứu chuyên sâu của các tác giả về vấn đề hôn nhân đồng tính, như: Ths. Ngô Thị Thanh Thủy (2014), “Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia,… Cũng nghiên cứu về vấn đề này nhưng Khoá luận muốn nhấn mạnh về quyền kết hôn của người đồng tính, một số quyền nhân thân chính đáng của người đồng tính và giải thích về vấn đề kết hôn đồng tính có phải là quyền con người hay không, những khó khăn trong việc ghi nhận quyền kết hôn của người đồng tính và việc không công nhận hôn nhân đồng tính dẫn đến những hậu quả nào. Từ đó đưa ra một số kiến nghị để bảo vệ quyền kết hôn của người đồng tính. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích của Khoá luận là làm rõ vấn đề kết hôn đồng tính có phải là quyền con người hay không. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và những khó khăn trong việc công nhận hôn nhân đồng tính là hợp pháp. Qua đó, đề xuất những biện pháp khắc phục, góp phần nhỏ vào công tác xây dựng hệ thống pháp luật trong vấn đề đảm bảo quyền kết hôn của người đồng tính. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Các phương pháp nghiên cứu được thực hiện trong đề tài là: - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác - Lênin. - Phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở - Phương pháp phân tích luật viết - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp - Phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu thực tế 3
  11. 5. Bố cục của khoá luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về quyền con người, sự phát triển của quyền con người và quyền kết hôn đồng tính Chương 2: Thực trạng của quyền kết hôn đồng tính Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo vệ quyền kết hôn đồng tính ở Việt Nam 4
  12. Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ KẾT HÔN ĐỒNG TÍNH. 1.1 Khái niệm quyền con người Theo định nghĩa của Văn phòng Cao uỷ Liên Hợp Quốc thì: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và sự tự do cơ bản (fundamental freesoms) của con người” [6,tr.14]. Trong khoa học pháp lý, quyền con người được hiểu là những quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân; là những quyền mà bất cứ ai cũng không được phép xâm hại. Hay nói cách khách, quyền con người là những quyền tự nhiên mà bất cứ ai cũng có quyền đó, được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã thể hiện sự phát triển lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người so với những bản Hiến pháp trước đó bằng việc dành toàn bộ chương II để quy định các quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, con người có các quyền: quyền sống, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe; quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật đời tư; quyền được bảo hộ danh dự, uy tín, nhân phẩm; quyền có nơi ở hợp pháp và bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng; quyền sở hữu tư nhân đối với tài sản, quyền thừa kế… Như vậy, quyền con người nói một cách đơn giản là quyền mà một cá nhân sẽ có được, chỉ cần là con người mà không bị phụ thuộc vào quốc tịch, nơi sinh sống, giới tính, dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, hay bất cứ đặc điểm nào khác. Việc nghiên cứu nội dung quyền con người là nền tảng cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. Vì vậy, quyền 5
  13. con người luôn là nội dung thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận thế giới cũng như các tổ chức quốc tế và khu vực. 1.2 Sự phát triển của quyền con người Ý thức về quyền con người và việc thực hiện quyền con người là một quá trình lịch sử lâu dài gắn với lịch sử phát triển của loài người, giải phóng con người qua các hình thái kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp. Qua đó, quyền con người được thừa nhận rộng rãi và đã trở thành giá trị chung của toàn thể nhân loại. Trong nhiều xã hội tiền hiện đại cũng đã có các quan niệm về công lý, về sự bình đẳng, phẩm giá và sự tôn trọng của con người. Tuy nhiên, họ cho rằng người cai trị có nghĩa vụ cai quản hợp lý và vì lợi ích chung của mọi người là xuất phát từ đấng tối cao hoặc từ truyền thống chứ không dựa trên khái niệm các quyền cá nhân hay quyền con người. Khái niệm nhân quyền có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dưới dạng các quyền tự nhiên của con người như quyền được sống,... Người đầu tiên được cho là đã phát triển một lý thuyết toàn diện về nhân quyền là triết gia người Anh - John Locke (1632 - 1704). John Locke cho rằng người dân hình thành nên các xã hội, các xã hội hình thành nên chính phủ để đảm bảo quyền được hưởng các quyền tự nhiên của họ và họ chỉ có nghĩa vụ trung thành với những chính phủ bảo vệ các quyền của họ, thậm chí những quyền này còn được ưu tiên hơn những lợi ích khác của chính phủ. Tuy nhiên, hàm ý các quyền này chỉ mang tính phổ quát chứ không thực sự xem xét tới quyền của tất cả mọi người. Trọng tâm thực sự là bảo vệ những người nam giới, những người có sở hữu tài sản mà không phải là phụ nữ, những người hầu hay những người lao động. Mặc dù vậy, tư tưởng của John Locke cũng đã là một bước đột phá. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được coi là con người mà chỉ được coi là những công cụ biết nói. Cho nên họ không có và không được thừa nhận các quyền con người. So với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến đã là một bước tiến lớn trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con người. Giai cấp tư sản là người đầu tiên giơ ngọn cờ nhân quyền 6
  14. và họ dựa vào các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, công lý - vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động, tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người, quyền tư hữu. Tuy vậy giai cấp tư sản bỏ qua điều kiện quan trọng để người lao động thoát khỏi đói nghèo và bị bóc lột là quyền kinh tế, văn hoá, xã hội mà chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người, nội dung các quyền con người tiếp tục được phát triển. Nhiều cuộc đấu tranh chính trị lớn trong hai thế kỷ qua liên quan đến việc mở rộng một loạt quyền được bảo vệ. Xu hướng này bao gồm mở rộng quyền bầu cử cho mọi công dân, cho phép người lao động được đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc, xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử vì giới tính và chủng tộc. Những lập luận như là tất cả chúng ta đều có các quyền cơ bản giống nhau, được Nhà nước tôn trọng và quan tâm như nhau được chấp nhận đã dẫn tới những thay đổi chính trị xã hội trên toàn thế giới. Dấu mốc lớn phải kể đến là Sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, Liên hợp quốc chính thức ra đời vào ngày 24-10-1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày 10-12-1948. Tuyên ngôn gồm 30 điều về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đã đặt cơ sở cho việc bảo đảm, thúc đẩy các quyền con người trên thế giới trong 70 năm qua. Từ những tư tưởng sơ khai đầu tiên đến những quyền đầu tiên được ghi nhận trong các điều ước quốc tế như các quyền về dân sự, chính trị gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản lật đổ chế độ phong kiến (như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, quyền được xét xử công bằng,..); hay các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá được thúc đẩy mạnh mẽ quá trình pháp điển hoá từ giữa thế kỷ XX (như quyền có việc làm, quyền được chăm sóc y tế,…). Cho đến ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của các ngành khoa học và quá trình toàn cầu hoá, quyền con người cũng đã và đang phát 7
  15. triển, không ngừng được mở rộng. Có thể kể đến như trên phương diện đời sống xã hội có Quyền con người với môi trường. Quyền con người đối với môi trường là một trong những quyền thuộc nhóm quyền thứ ba (quyền được hưởng hòa bình, quyền phát triển và quyền được sống trong môi trường trong lành). Tuyên bố Stockholm năm 1972 được xác định là một mốc đầu tiên cho sự gắn kết giữa hai vấn đề: quyền con người và môi trường - với tinh thần là con người có các quyền cơ bản về tự do, bình đẳng và điều kiện sống tối thiểu trong môi trường trong lành, cho phép con người có cuộc sống hạnh phúc. Ngoài ra, vấn đề này còn được khẳng định trong một số văn kiện khu vực, trong đó tiêu biểu là Hiến chương châu Phi về quyền của con người và của các dân tộc (Điều 21); Nghị định thư San Salvador bổ sung Hiến chương châu Mỹ về quyền con người (Điều 11). Một trong những yếu tố chính thúc đẩy sự ra đời và thực thi luật môi trường, quyền con người đối với môi trường là sự báo động về ô nhiễm, suy thoái và khủng hoảng môi trường toàn cầu, có nguyên nhân chính từ hoạt đông sống hiện nay của con người. Chính sự biến đổi này đã gây hại đến đời sống kinh tế, sức khỏe, hưởng thụ các quyền cơ bản của con người. Ngoài ra, ở giai đoạn ngày nay, người ta không những chú trọng về quyền được sống trong môi trường trong lành của con người mà còn nhắc tới quyền công bằng với các thế hệ tương lai trong việc được hưởng những nguồn tài nguyên không phải là vô tận của trái đất khi đứng trước các vấn đề về biến đổi khí hậu, vấn đề khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Luật nhân quyền quốc tế tuy có nét đặc trưng chung là có tính phổ quát và tất cả mọi người đều có cơ hội hưởng quyền như nhau không phân biệt giới tính, sắc tộc, tuổi tác… Nhưng trên thực tế, một số nhóm người gặp khó khăn trong việc tiếp cận các quyền cũng như tự mình thực hiện các quyền mà mình đáng được hưởng. Do vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn nên dễ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay vi phạm về quyền con người và được gọi chung là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Trong luật quốc tế, một 8
  16. số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương là phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người không quốc tịch, người thiểu số, người cao tuổi… Do vậy, để giảm thiểu những khó khăn và khả năng bị xâm phạm quyền của họ thì ngoài những công ước quy định quyền chung cho tất cả mọi người như ICCPR, ICESCR thì có những công ước riêng ghi nhận về quyền của nhóm người này. Ví dụ như đối tượng dễ bị tổn thương là những người khuyết tật - được coi là một trong các nhóm thiểu số lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Tình trạng thân thể bị khuyết tật khiến họ đã và đang phải chịu những thiệt thòi trên tất cả phương diện của đời sống xã hội. Nếu như trước đây chỉ xuất phát từ tình thương và lòng nhân đạo, người khuyết tật chỉ được quan tâm ở mức độ là đảm bảo mức sống tối thiểu và được chăm sóc về y tế thì trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển hơn thì nhận thức cũng thay đổi. Với nhận thức rằng họ cũng là chủ thể của quyền nên việc chăm lo đến quyền của người khuyết tật chính là việc phải tạo điều kiện thuận lợi cho họ được thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hòa nhập cộng đồng và tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội. Ví dụ như: tăng cường đào tạo nghề, tạo công ăn việc làm cho người khuyết tật, cũng như xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử với người khuyết tật trong việc làm. Thêm vào đó cũng phải tính đến quyền được tham gia giao thông, khả năng tiếp cận với các công trình công cộng thông qua việc xây dựng các phương tiện, công trình hỗ trợ cho họ. Vì vậy, việc ra đời của Công ước quốc tế về Quyền của người khuyết tật vào tháng 3/2007 là một cơ sở pháp lý vững chắc để các nước tiến hành các chương trình, dự án liên quan đến việc tăng cường và củng cố quyền của người khuyết tật trên phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Có thể kể đến những công ước riêng ghi nhận về quyền của nhóm người dễ bị tổn thương như: đối với quyền của phụ nữ được ghi nhận tại Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) hay Công ước về trấn áp buôn người và bóc bột mại dâm người 9
  17. khác năm 1949; Quyền của trẻ em được ghi nhận tại Công ước về quyền trẻ em (CRC); Quyền của người khuyết tật được ghi nhận tại Công ước về quyền của những người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 2007; … Ngoài ra quyền của một số nhóm người mới chỉ được ghi nhận trong các văn kiện mềm như các Tuyên bố, Hướng dẫn mà không có sự ràng buộc về mặt pháp lý như Quyền của người thiểu số trong Tuyên bố về quyền của những người thuộc nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ năm 1992; Quyền của người sống chung với HIV/AIDS trong các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người 1996; phong trào vận động cho các quyền LGBT trình lên Liên hợp quốc một dự thảo về định hướng tình dục và sự đồng giới năm 2008… Tuy nhiên, trong từng thời kỳ xã hội khác nhau, các đối tượng trong nhóm dễ bị tổn thương có thể bị thay đổi và có thể được bổ sung bao gồm những nhóm người gặp những nguy cơ cao về quyền con người ở trong nhiều hoàn cảnh, bối cảnh. Như đã nói ở trên, nhóm người dễ bị tổn thương là những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người. Bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Đối với nhóm người LGBT, thì từ trước tới nay họ cũng được xếp vào nhóm người dễ bị tổn thương do thường có ít cơ hội tác động đến các thể chế và chính sách quyết định cuộc đời họ như không thể tích cực vận động cho các quyền của họ khi mà hành vi tình dục đồng giới vẫn bị coi là phạm pháp tại rất nhiều quốc gia; phải đối mặt với các rào cản mang tính hệ thống, không đơn thuần về mặt kinh tế, mà cả về chính trị, xã hội và văn hoá. Phần nhiều trong số những văn kiện quốc tế về quyền con người được Liên hợp quốc thông qua sau hai công ước cơ bản Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) và Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR) là để pháp điển hóa các quyền áp dụng với các nhóm người dễ bị tổn thương. Liên quan đến sự phát triển về quyền của nhóm, hiện 10
  18. tại, quyền của người LGBT là một trong những quyền đang được vận động để pháp điển hóa trong luật quốc tế. Đây là một vấn đề gây nhiều tranh cãi trên lĩnh vực quyền con người trong vài thập kỷ gần đây. Những người ủng hộ quyền của LGBT đã lập nên các tổ chức và phát động những phong trào mang tính chất toàn cầu để vận động cho việc thừa nhận và pháp điển hóa các quyền được kết hôn giữa những người đồng giới; quyền của các cặp đồng giới nam được nhận nuôi con nuôi; và trên hết là quyền của tất cả những người LGBT không bị phân biệt đối xử do xu hướng tình dục và giới tính [10]. 1.3 Quyền kết hôn trong luật nhân quyền quốc tế Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân đầu tiên được đề cập trong Điều 16 Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền (UDHR). Theo đó thì nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam và nữ có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời gian chung sống và khi ly hôn. Việc kết hôn chỉ được tiến hành khi có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai (Khoản 1 và 2). Khoản 3 điều này khẳng định, gia đình là tế bào tự nhiên và cơ bản của xã hội, được nhà nước và xã hội bảo vệ. Các quy định trên của UDHR sau đó được tái khẳng định và cụ thể hoá trong điều 23 ICCPR và điều 10 ICESCR. Trong ICCPR đã có những quy định khẳng định quyền tự do kết hôn của nam và nữ khi đến tuổi kết hôn, đồng thời nhấn mạnh quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử giữa vợ và chồng trong các vấn đề gia đình. Cụ thể là tại điều 23 quy định: 1. Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên của xã hội, cần phải được nhà nước và xã hội bảo hộ. 2. Quyền kết hôn và lập gia đình của nam và nữ đến tuổi kết hôn phải được thừa nhận. 3. Không được tổ chức việc kết hôn nếu không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai. 11
  19. 4. Các quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm của vợ và chồng trong suốt thời gian chung sống và khi ly hôn. Trong trường hợp ly hôn, phải có quy định bảo đảm sự bảo hộ cần thiết với con cái. Liên quan đến Điều 23 ICCPR, HRC đã giải thích thêm về ý nghĩa và nội dung của các quyền ghi nhận trong Điều này trong Bình luận chung số 19 thông qua tại phiên họp thứ 39 năm 1990 của Ủy ban, có thể tóm tắt những điểm quan trọng như sau: Thứ nhất, Khoản 2 Điều 23 ICCPR khẳng định quyền của nam và nữ đến tuổi kết hôn thì được kết hôn và lập gia đình một cách tự do, tự nguyện. Công ước không quy định độ tuổi kết hôn cụ thể cho cả nam giới lẫn nữ giới - việc này tùy thuộc pháp luật của các quốc gia thành viên; tuy nhiên, độ tuổi kết hôn cần ở mức phù hợp để anh ta hoặc cô ta có thể thể hiện được sự tự nguyện hoàn toàn việc kết hôn trong khuôn khổ và điều kiện luật pháp cho phép. Thêm vào đó, các quy định pháp luật quốc gia về vấn đề này phải phù hợp với các quyền khác được Công ước bảo đảm, ví dụ như quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tín ngưỡng (hàm ý rằng luật pháp của mỗi quốc gia phải tạo điều kiện cho khả năng kết hôn giữa những người theo các tôn giáo khác nhau và có quốc tịch khác nhau). Việc pháp luật quốc gia quy định lễ cưới phải đồng thời được tổ chức theo nghi thức tôn giáo và đăng ký kết hôn theo luật dân sự cũng không trái với Công ước (đoạn 4). Thứ hai, về nguyên tắc, quyền xây dựng gia đình hàm ý là nam nữ có thể sinh đẻ và sống cùng nhau một cách tự nguyện. Vì vậy, chính sách kế hoạch hóa gia đình của các quốc gia thành viên phải phù hợp các điều khoản có liên quan của Công ước và đặc biệt không được mang tính chất phân biệt đối xử hay cưỡng bức. Thêm vào đó, quyền này cũng đòi hỏi các quốc gia thành viên phải thực thi các biện pháp phù hợp, cả ở cấp độ quốc gia và hợp tác quốc tế, để đảm bảo sự thống nhất hay tái thống nhất các gia đình bị chia tách do các nguyên nhân chính trị, kinh tế hay các nguyên nhân khác (đoạn5). 12
  20. Thứ ba, về quyền bình đẳng khi kết hôn, HRC đặc biệt lưu ý rằng không được có sự phân biệt đối xử về giới tính liên quan đến việc nhập hay từ bỏ quốc tịch do kết hôn. Tương tự, HRC cũng lưu ý rằng cần bảo đảm quyền của cả vợ và chồng được giữ nguyên họ của anh ta hay cô ta, hoặc được bình đẳng trong việc lựa chọn một họ mới sau khi kết hôn (đoạn 7). Thứ tư, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng liên quan đến tất cả các vấn đề nảy sinh trong đời sống gia đình, ví dụ như việc lựa chọn nơi cư trú, tổ chức cuộc sống, giáo dục con cái, quản lý tài sản... (đoạn 8). Vì vậy, không được có bất cứ sự phân biệt đối xử nào giữa vợ và chồng trong các vấn đề như cơ sở và các thủ tục ly hôn, việc trông nom, chu cấp, nuôi dưỡng, thăm nom con cái...(đoạn 9)[5]. 1.4 Người đồng tính và quyền của người đồng tính 1.4.1 Khái niệm người đồng tính Từ trước đến nay, nhiều người nghĩ rằng đồng tính, song tính thuộc giới tính thứ ba bên cạnh giới tính nam và giới tính nữ. Tuy nhiên, quan niệm này là hoàn toàn sai lầm. Thực chất trong xã hội chỉ có hai giới tính là nam và nữ. Vấn đề đồng tính hay song tính liên quan đến một khái niệm còn khá mới mẻ, chưa được hiểu biết rộng rãi, đó là xu hướng tính dục [6,tr.13]. Tuy nhiên, nếu không làm rõ thuật ngữ này thì khó có thể hiểu một cách đúng đắn và đầy đủ về đồng tính. Tính dục người được tạo nên bởi 4 yếu tố: (1) Giới sinh học: cấu trúc gen, ngoại hình, tuyến nội tiết… do các yếu tố sinh học quy định. (2) Bản sắc giới: sự cảm nhận của bản thân thuộc giới tính nam hay nữ. (3) Thể hiện giới: sự thể hiện bằng những hành vi cư xử theo kiểu nam giới hay nữ giới. (4) Xu hướng tính dục: chỉ sự hấp dẫn về mặt tình cảm, sự lãng mạn, trìu mến và hấp dẫn về mặt tình dục giữa những người cùng giới tính (xu 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2