Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 19
download
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật trọng tài thương mại trên cơ sở liên hệ thực tiễn tại Việt Nam. Đồng thời, phân tích các quy định hiện hành của pháp luật trọng tài thương mại về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; đánh giá thực trạng áp dụng các quy định đó trong thực tiễn từ đó chỉ ra các khó khăn, vướng mắc đang và sẽ gặp phải liên quan đến việc áp dụng quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ HÀ XUYÊN THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HÀ NỘI-2017
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ HÀ XUYÊN THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Kinh doanh KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn : ThS.NCS.Trần Anh Tú Hà Nội-2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Hà Xuyên
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI........................................................................ 6 1.1 Khái quát chung về trọng tài thương mại. ......................................................... 6 1.2 Khái quát chung về thẩm quyền của trọng tài thương mại .............................. 10 1.2.1 Cơ sở lý luận để xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại .... 10 1.2.2 Phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại ................................ 12 1.3 Phân biệt thẩm quyền của trọng tài thương mại và thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại ................................ 17 CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH..................................................................................................... 22 2.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của các quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại giai đoạn trước Luật trọng tài thương mại năm 2010. ......... 22 2.1.1 Giai đoạn sơ khai (Trước năm 2003) ............................................... 22 2.1.2 Giai đoạn chuyển tiếp ( 2003-2010) ................................................ 29 2.2 Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương thương mại theo Luât trọng tài thương mại 2010 .................................................. 33 2.2.1 Các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài hợp lệ và có thể thực hiện được trên thực tế. .............................................................................. 33 2.2.2 Quy định tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài thương mại.............................................................................................................40 2.3 Phân định thẩm quyền của Trọng tài thương mại và Toà án theo pháp luật Việt Nam hiện nay. ................................................................................................ 47 2.4 Thực tiễn thi hành các quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại tại Việt Nam trong thời gian qua: ............................................................................... 51
- CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY. .................................................................................................... 56 3.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền trọng tài thương mại ........................................................................................................ 56 3.1.1 Cơ sở lý luận ................................................................................... 56 3.1.2 Cơ sở thực tiễn ................................................................................. 56 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại.........................................................................................................................60 3.3 Những giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. ................................ 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73
- DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT STT Viết tắt Nội dung từ 1. Luật Trọng tài thương Luật Trọng tài thương mại ngày 17 tháng mại 2010 06 năm 2010 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2. Pháp lệnh Trọng tài Pháp lệnh trọng tài thương mại số thương mại 2003 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hôi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 3. VIAC Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (Vietnam International Arbitration Centre) 4. UNCITRAL Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương mại quốc tế(United Nations Commission on International Trade Law)
- DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu bảng,biểu đồ Tên bảng, biểu đồ Trang Biểu đồ 1 Thống kê Trọng tài viên 54
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,Việt Nam ghi nhận ngày càng nhiều những mối quan hệ kinh tế, đặc biệt là với các nhà đầu tư đến từ các quốc gia khác nhau với tính chất và quy mô phức tạp hơn. Cơ hội mới đồng thời cũng mang đến cho doanh nghiệp những rủi ro mới. Chính vì vậy, hiện nay phương thức giải quyết tranh chấp được thừa nhận là một bộ phận quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro liên quan đến quá trình hoạt động. Bên cạnh rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài với lợi thế là thủ tục tố tụng nhanh gọn, kín đáo tiết kiệm hơn về thời gian, chi phí đã trở thành một trong những phương thức giải quyết tranh chấp hấp dẫn. Rất nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển đã tạo mọi điều kiện cho hoạt động của trọng tài thương mại phát triển nhằm đa dạng hóa việc giải quyết tranh chấp, tăng cơ hội lựa chọn cho các bên và giảm áp lực lên cơ quan tư pháp. Việt Nam vì vậy ngày càng quan tâm hơn đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật trọng tài thương mại để thay thế Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, với nhiều quy định mới về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế trong đó có quy định về mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các chuyên gia pháp lý, các nhà hoạt động thực tiễn và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tuy nhiên, thực tế trọng tài chưa trở thành một hình thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án được ưu chuộng. Trọng tài Việt Nam rất ít được sử dụng để giải quyết các tranh chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên nước ngoài nhất là các hợp đồng có giá trị lớn hầu như không lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu được giải quyết thông qua hệ thống tòa án hoặc trọng tài nước ngoài. Việc chậm phát 1
- triển phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong thực tiễn cuộc sống do nhiều nguyên nhân, trong đó có một phần lớn xuất phát từ hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về trọng tài thương mại chung và đặc biệt là các quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại nói riêng.Với mong muốn được luận bàn chuyên sâu, góp phần hoàn thiện pháp luật trọng tài ở Việt Nam, tác giả chọn đề tài: “ Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu Các vấn đề lý luận và thực tiễn về Trọng tài thương mại trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học pháp lý ở Việt Nam nói riêng đã được nghiên cứu, phân tích khá kỹ lưỡng bởi nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả khác nhau. Các sách chuyên khảo, luận văn, xã luận, bài viết được công bố tính đến thời điểm hiện nay đều đã đề cập được phần nào những vấn đề cốt lõi của phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài thương mại. Cụ thể ở cấp độ luận văn thạc sỹ có thể kể đến các công trình như: Luận văn “Pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại” của Tống Thị Lan Hương- do PGS.TS Nguyễn Văn Tý hướng dẫn; Luận văn “Về pháp luật trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Thu Thủy – do PGS.TS Dương Đăng Huệ hướng dẫn; Luận văn “Thẩm quền của hội đồng trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam” của Đặng Minh Phương do TS.Phan Thị Thanh Thủy hướng dẫn; Luận văn “So sánh pháp luật về trọng tài thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” của Nguyễn Thị Liên do GS.TSKH Đào Trí Úc hướng dẫn. Ở cấp độ bài báo khoa học có thể kể đến các tác phẩm như: Tác giả Nguyễn Vũ Hoàng với bài viết “Luật áp dụng trong lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế” đăng trên Tạp chí Luật học, Số đặc san về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế năm 2012; Tác giả Trần Quỳnh Anh với bài viết “Một số vướng mắc và hoàn thiện Luật trọng tài thương mại” đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2012. 2
- Các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập một cách khái quát về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung mà chưa có công trình nào đề cập một cách chuyên sâu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Vì vậy, trên cơ sở tham khảo một số tài liệu có liên quan, tác giả sẽ tiếp cận nghiêm túc và tìm hiểu một cách toàn diện nhất về vấn đề này, đồng thời đưa ra một số giải pháp,kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật trong nước. 3. Mục tiêu của Luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật trọng tài thương mại trên cơ sở liên hệ thực tiễn tại Việt Nam. Đồng thời, phân tích các quy định hiện hành của pháp luật trọng tài thương mại về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; đánh giá thực trạng áp dụng các quy định đó trong thực tiễn từ đó chỉ ra các khó khăn, vướng mắc đang và sẽ gặp phải liên quan đến việc áp dụng quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. Từ đó góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cần thiết cho việc đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại trên thực tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chủ yếu nghiên cứu những vấn đề lý luận và tiễn về thẩm quyền của trọng tài thương mại được trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Phạm vi nghiên cứu: Về mặt nội dung: Nội dung nghiên cứu của đề tài tiếp cận vấn đề thẩm quyền của trọng tài thương mại trên hai phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nghiên 3
- cứu các quy định của pháp luật về thẩm quyền của hội đồng trọng tài và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, tác giả đưa ra những đánh giá khách quan và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về thẩm quyền của trọng tài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Về mặt thời gian: Khi nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực tiễn, luận văn lấy mốc nghiên cứu từ năm 2010- năm Luật trọng tài thương mại ban hành cho đến nay. Nội dung luận văn cũng có sự nghiên cứu đối với các quy định pháp luật trước năm 2010, đặc biệt là các quy định trong Pháp lệnh về Trọng tài thương mại năm 2003. Khi đề xuất giải pháp, luận văn nêu ra những kiến nghị, đề xuất thực hiện trong thời gian 5-10 năm tới. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phát triển kinh tế, tìm ra các phương hướng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Ngoài ra, còn sử dụng các thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật. Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng tỏ vấn đề như: phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê,…Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 6. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của trọng tài thương mại 4
- Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của trọng tài thương mại và thực tiễn thi hành. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại tại Việt Nam hiện nay. 5
- CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1.1 Khái quát chung về trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện từ lâu trên thế giới.Phương thức này ngày càng được giới kinh doanh ưu tiên lựa chọn để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xảy ra tranh chấp vì những ưu thế vượt trội của nó so với các hình thức tài phán khác. Hiểu rõ khái niệm trọng tài thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ thẩm quyền của trọng tài. Trong khoa học pháp lý, trọng tài thương mại được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác nhau và do đó hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về trọng tài thương mại được ghi nhận. Khái niệm trọng tài Một trong những định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu trong Công ước La Hay năm 1988, theo đó: “Trọng tài là nhằm giải quyết những bất đồng giữa các bên thông qua một người thứ ba do chính các bên lựa chọn trên cơ sở tôn trọng pháp luật” Tiếp đó, Hiệp định La-Hay 1907 quy định: “Trọng tài quốc tế có đối tượng giải quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của những trọng tài viên do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở tôn trọng pháp luật” Tuy nhiên, hai cách định nghĩa này chỉ mới đưa ra một cách diễn giải về hoạt động của trọng tài mà chưa thấy được bản chất của sự việc. Ở một góc nhìn khác Luật sư tòa thượng thẩm Paris, Didier Skonicki định nghĩa ngắn gọn: “Trọng tài là tòa án tự, do ý chí của đôi bên tranh chấp. Nó cũng xét xử như tòa án nhà nước”. Một định nghĩa phổ biến hơn và thường được các quốc gia sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc xây dựng pháp luật nước mình là trong cuốn sách trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL cho rằng: “Trọng tài là 6
- những tranh chấp hay bất đồng được đưa ra cho một hoặc nhiều người được xem là công tâm, không thiên lệch quyết định và quyết định này có tính ràng buộc đối với hai bên”. Theo hội đồng trọng tài Mỹ (AAA) – một tổ chức trọng tài đã có về dày lịch sử hoạt động thì: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành”. Theo cuốn “Đại từ điển kinh tế thị trường” thì: “Trọng tài là một phương thức giải quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho bên thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên” Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại” Về mặt học thuật, trên thế giới cũng có nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu từ nhiều năm qua. Theo Okezie Chukwumerije: “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên với nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các bên lựa chọn hoặc bởi việc dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất định được lựa chọn bởi chính các bên” Với một quan điểm tương tự James anh Nicolas cho rằng: “Trọng tài được coi là một tiến trình tư được mở ra theo sự thoả thuận của các bên nhằm giải quyết một tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ phát sinh bởi một hội đồng trọng tài gồm một hoặc nhiều trọng tài viên”. Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài được nhìn từ những góc độ khác nhau, song nhìn chung có thể thấy tất cả các định nghĩa trên đều hiểu trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài 7
- phán phi nhà nước. Trọng tài là bên trung gian thứ ba được các bên tranh chấp chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên. Khái niệm trọng tài thương mại. Khái niệm trọng tài thương mại là không giống nhau tùy thuộc vào quy định của pháp luật mỗi quốc gia, trong đó khái niệm “thương mại” có ảnh hưởng rất lớn. Cho đến nay không tồn tại khái niệm thương mại nào được chấp nhận chung bởi tất các quốc gia trên thế giới. Pháp luật của mỗi quốc gia đều có cách tiếp cận đặc thù về vấn đề này. Tuy nhiên sự không thống nhất này được quốc tế công nhận và tôn trọng, trong công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài dù đã nỗ lực ghi nhận một sự giải thích về thuật ngữ “thương mại” nhưng lại dành cho các nước thành viên quyền bảo lưu đối với khái niệm này: “Quốc gia đó cũng có thể tuyên bố chỉ áp dụng công ước đối với các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật, theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng mà theo pháp luật quốc gia đó quy định là quan hệ thương mại”(Điều 1 Khoản 3). Hay như trong công ước Giơnevơ 1972 cũng quy định: “Mỗi nước tham gia hợp đồng có thể giới hạn nghĩa vụ của mình đối với hợp đồng được coi là thương mại do luật quốc gia quy định” Một trong những định nghĩa khá đầy đủ và được biết đến rộng rãi nhất phải kể đến là quy định tại phần chú thích tại Luật Mẫu trọng tài thương mại quốc tế Liên hợp quốc (1985), tuy nhiên nó cũng chỉ được các quốc gia sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc xây dựng khái niệm thương mại trong pháp luật nước mình. Khái niệm thương mại ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù là có hợp đồng hay không có hợp đồng. Theo đó những quan hệ được cho là có bản chất thương mại bao gồm: “ Bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại 8
- diện thương mại hoặc đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li- xăng (mua bán sáng chế phát minh), đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt đường bộ” [40, Điều 1]. Dưới góc độ của mỗi quốc gia, ở các quốc gia phát triển cao, thường sử dụng khái niệm thương mại và quy định phạm vi của nó khá rõ ràng trong các văn bản pháp luật với phạm vi rộng. Các quan hệ thương mại được phân biệt với các quan hệ dân sự ở mục đích của chúng: các quan hệ thương mại là các quan hệ nhằm mục đích thu lợi nhuận còn các quan hệ dân sự chỉ nhằm mục đích tiêu dùng cá nhân. Bộ luật Thương mại cộng hòa Pháp hiện hành bao gồm các quy định về thương nhân, về chứng từ lưu thông, về thương mại hàng hải…Luật Thương mại Philipin định nghĩa thương mại là hoạt động của con người nhằm thúc đẩy sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận và bao gồm các giao dịch thương mại trong tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực vận chuyển hành khách và hàng hóa. Bộ luật Thương mại Thái Lan cũng có phạm vi điều chỉnh khá rộng, bao gồm mua bán hàng hóa, thuê tài sản thuê mua tài sản, tín dụng, thế chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty hợp danh… Tại Việt Nam theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2010 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Quy định này có nghĩa khái niệm thương mại được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ là các hoạt động mua bán hàng hoá và những hoạt động gắn liền việc mua bán hàng hoá. Qua việc phân tích các nội dung cơ bản của trọng tài thương mại, có thể kết luận rằng: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp mà sự bắt đầu của nó dựa trên thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp nhằm 9
- giải quyết các tranh chấp có yếu tố thương mại bởi một hội đồng bao gồm một hoặc nhiều trọng tài viên. Với bối cảnh kinh tế xã hội phát triển như hiện nay, những tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thường xuyên xảy ra. Để giải quyết tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn một hay nhiều phương thức phù hợp với nhu cầu của mỗi bên. Trọng tài thương mại chính là một phương thức giải quyết tranh chấp bên cạnh các phương thức khác là thương lương, hòa giải hay giải quyết bằng tòa án. So với các phương thức còn lại, Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp kết hợp nhiều ưu điểm của của các phương thức này, như: Đảm bảo sự tự do thỏa thuận ý chí, bí mật và uy tín cho các bên, giữ được quan hệ giữa các bên sau khi giải quyết như phương thức thương lượng, hòa giải; đảm bảo sự chặt chẽ về thủ tục tố tụng và tính tài phán như hình thức tòa án. Ở các nước phát triển, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và được các thương nhân cũng như các nhà kinh doanh lựa chọn tối ưu để giải quyết tranh chấp. 1.2 Khái quát chung về thẩm quyền của trọng tài thương mại 1.2.1 Cơ sở lý luận để xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại Thứ nhất, Trọng tài thương mại là thiết chế “tài phán tư” Thẩm quyền của trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận trao cho.Thẩm quyền này không mang tính chất đương nhiên và không mang tính quyền lực nhà nước. Tính chất phi chính phủ của phương thức này được thể hiện: Về tổ chức: Hội đồng trọng tài, tổ chức trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, hoạt động theo quy định của pháp luật và quy tắc tố tụng riêng. Mỗi trung tâm trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lập và bình đẳng với các trung tâm trọng tài khác. Các tổ này hoạt động theo nguyên tắc tự hoạch toán, tự trang trải, lấy thu bù chi mà không được cấp kinh phí hoạt động trong ngân sách 10
- nhà nước. Chính vì vậy, Hội đồng trọng tài, các tổ chức trọng tài không nằm trong thiết chế nào của bộ máy nhà nước và không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước. Về trọng tài viên: Trọng tài viên là những người hành nghề tự do, không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh cá nhân hoặc trung tâm trọng tài. Họ không phải là công chức nhà nước, không được hưởng lương từ ngân sách nhà nước mà hưởng thù lao theo từng vụ việc tranh chấp. Đặc điểm này đảm bảo cho trọng tài thương mại thuần túy mang tính xã hội, không chịu áp lực của các cơ quan nhà nước, tăng tính độc lập và khách quan cho các quyết định của trọng tài. Đồng thời cũng tránh được sự cồng kềnh, quá tải cho bộ máy nhà nước. Về hiệu lực các phán quyết: Các phán quyết trọng tài không có bộ máy cưỡng chế riêng để đảm bảo thi hành. Để phán quyết này được thực thi, các bên phải sử dụng thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài theo công ước NewYork 1958 hoặc được pháp luật quy định. Thứ hai, trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp gắn với hoạt động thương mại Toà trọng tài là một trong những hình thức cổ xưa nhất để giải quyết bất hoà giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Hình thái đấu tiên về trọng tài có thể bắt nguồn từ các quốc gia thành bang cổ Hy Lạp, cổ La Mã và thời Xuân Thu Chiến Quốc cũng có ghi chép lại hình thức trọng tài này. Quy định sơ khai về trọng tài trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái buôn được tự phân xử bất hòa của mình không cần có sự can thiệp của nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh chấp, không chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao đổi hàng hóa, có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu. Nhìn chung, chế độ trọng tài thời xưa chủ yếu dùng để giải quyết tranh chấp giữa các thương nhân. Ngày nay mặc dù thẩm quyền của trọng tài thương mại đã được mở rộng, nhưng hầu hết các tranh chấp được giải quyết bằng hình thức trọng tài 11
- vẫn là các tranh chấp thương mại mà chủ yếu là tranh chấp từ hợp đồng thương mại. Đới với các tranh chấp thuộc các lĩnh vực khác như : Hôn nhân gia đình, sở hữu trí tuệ, tranh chấp liên quan đến quyền của người thứ ba trong vụ phá sản, tranh chấp trong lĩnh vực cạnh tranh, tranh chấp lao động , nhà nước thường can thiệp trực tiếp bằng việc bắt buộc giải quyết tại toà án hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhất định. Thứ ba, Trọng tài thương mại đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến lợi ích tư Xét về bản chất, trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên sự lựa chọn tự nguyện của các bên tranh chấp. Để được giải quyết bằng phương thức trọng tài, các bên cần phải có thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi xảy ra các tranh chấp thương mại. Bằng một điều khoản trọng tài (trong hợp đồng kinh tế thương mại) hay bằng một thoả thuận trọng tài (lập ra sau khi sau khi tranh chấp đã phát sinh), các bên tự nguyện đưa tranh chấp ra giải quyết bằng một cơ quan trọng tài (uỷ ban trọng tài hoặc trọng tài viên) do các bên lựa chọn. Thỏa thuận giữa các bên về tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát sinh thẩm quyền trọng tài. Như vậy, thẩm quyền của cơ quan trọng tài bắt nguồn từ “quyền lực theo hợp đồng” hay “quyền lực đại diện” do các bên tranh chấp giao phó, uỷ nhiệm. Tuy nhiên một khi đã được thoả thuận thì phán quyết của trọng tài có tính chất tài phán và bắt buộc các bên tuân thủ. Hơn thế nữa, về nguyên tắc thẩm quyền của quyết trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật, phương thức trọng tài tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên: từ việc xác định phạm vi các tranh chấp mà trọng tài được giải quyết, lựa chọn trọng tài viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng, luật áp dụng đối với tranh chấp đến việc phán quyết của trọng tài được thực hiện ra sao ... tất cả đều do các bên trong tranh chấp tự thoả thuận. 1.2.2 Phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại Trọng tài là một loại hình cơ quan tài phán, do đó vấn đề đầu tiên mà nhà 12
- nước nào cũng phải quan tâm là vấn đề về thẩm quyền của trọng tài. Dựa trên các cơ sở lý luận đã nêu trên có thể thấy phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại được xác định dựa trên các yêu tố sau: Thứ nhất, dựa trên sự thỏa thuận của các bên trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp bằng một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Như đã phân tích ở trên, thẩm quyền của trọng tài không phải là thẩm quyền đương nhiên mà là thẩm quyền theo sự lựa chọn, nghĩa là trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nếu được các bên lựa chọn bằng một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.Vì vậy, ý định sử dụng trọng tài phải được hiện thực hóa bằng một thỏa thuận trọng tài và được đàm phán giữa các bên liên quan. Một tranh chấp chỉ được giải quyết bằng hình thức trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Quy định này khác với tố tụng toà án, theo đó khi xảy ra tranh chấp thì bất cứ bên nào cũng có quyền yêu cầu toà án xem xét giải quyết mà không cần được bên kia đồng ý vì thẩm quyền của Toà án là đương nhiên. Nhưng trọng tài thì không như vậy, nếu các bên không có thoả thuận giải quyết bằng trọng tài thì trọng tài tuyệt nhiên không có thẩm quyền gì. Thoả thuận giữa các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát sinh thẩm quyền của trọng tài. Thông qua thỏa thuận trọng tài, các bên tranh chấp thống nhất giao cho trọng tài quyền thay mặt họ trong việc xem xét nội dung tranh chấp và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.Vai trò của một thỏa thuận trọng tài được thể hiện ở những phương diện: Một là, do thỏa thuận trọng tài được xác lập trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng của chính các bên nên một khi đã xác lập thỏa thuận trọng tài thì không bên nào được thoái thác việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài. Hai là, một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực cho phép khẳng định tòa án không có thẩm quyền và phải từ chối thụ lý vụ án khi một bên khởi kiện ra tòa, trừ trường hợp thoả thuân trọng tài vô hiệu hoặc không thực hiệu được. Điều 5 luật Mẫu thể hiện rất rõ vấn đề này: “những vấn đề chi phối bởi luật 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
117 p | 439 | 110
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về thành lập doanh nghiệp – Thực tiễn tư vấn tại Công ty TNHH tư vấn AZLAW
52 p | 203 | 64
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về giao kết hợp đồng lao động – Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần du lịch Nam Định
58 p | 109 | 42
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động - Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Nhựa Quỳnh Hằng SP
58 p | 84 | 34
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại Việt Nam
65 p | 80 | 30
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Chuỗi thực phẩm TH
53 p | 59 | 29
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH một thành viên Diesel Sông Công
57 p | 47 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013
96 p | 76 | 23
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Quy định về sa thải người lao động trái pháp luật và thực trạng áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng
65 p | 73 | 22
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi công công trình xây dựng - Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần tập đoàn Bách Việt
45 p | 50 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Pháp luật quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
88 p | 70 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp hiện nay
93 p | 76 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về dịch vụ môi giới kinh doanh bất động sản – Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Khảo sát Dịch vụ Thương mại Thiên Bảo
60 p | 39 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014
64 p | 77 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
70 p | 53 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng và vấn đề môi trường
45 p | 39 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp ở Việt Nam
64 p | 48 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Pháp luật về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
79 p | 51 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn