Lạm phát - Phá giá đồng nội tệ
lượt xem 283
download
I/ Phá giá đồng nội tệ là gì Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lạm phát - Phá giá đồng nội tệ
- A. CƠ SỞ LÝ LUẬN I/ Phá giá đồng nội tệ là gì Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Việc phá giá đồng Việt Nam (VND) nghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác như USD, EUR… II/ Tác động của việc phá giá đồng nội tệ. 1. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ tới tài khoản vãng lai Mục tiêu của phá giá tiền tệ là làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa và từ đó cải thiện cán cân thanh toán vãng lai. Khi đồng nội tệ giảm giá sẽ làm tăng tỷ giá danh nghĩa, kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Khi tỷ giá tăng (phá giá), giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu tính theo đồng nội tệ tăng được gọi là hiệu ứng giá cả. Khi tỷ giá giảm làm giá hàng xuất khẩu rẻ hơn đã làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế khối lượng nhập khẩu. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng khối lượng. Tuy nhiên, việc cán cân thương mại xấu đi hay được cải thiện tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng cái nào trội hơn. a) Trong ngắn hạn Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần có thời gian để điều chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các nguồn lực vào và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy trong ngắn hạn thì số lượng hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập khẩu không giảm mạnh. Nếu giá hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng không nhiều đồng thời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên do tỷ giá đã thay đổi dẫn đến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi. b) Trong trung hạn GDP hay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi cho đầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm tăng cầu về xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ điều chỉnh như sau: Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung. Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của việc phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụng chính sách tài chính thắt chặt (tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng cầu không tăng nhằm ngăn chặn sự tăng lên của giá cả trong nước. c) Trong dài hạn Nếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài chính thắt chặt có thể triệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếu tố từ phía cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm. Chính phủ phải phá giá tiền tệ vì: Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại. Trong trường cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ. Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại sau khi phá giá bao gồm: 1
- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu: Đối với các nền kinh tế đang phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế này không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng không thể lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng giá cả. Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu: Đối với các nước đang phát triển, yêu cầu về chuẩn hàng hóa tham gia thương mại quốc tế cao, cho nên một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều này làm cho hiệu ứng khối lượng ít có tác động đến cán cân thương mại hơn ở các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động cải thiện cán cân thương mại của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh hơn ở các nước đang phát triển. Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu tỷ trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi hàng nhập khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất khẩu khi phá giá. Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu. Mức độ linh hoạt của tiền lương: Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước giảm bớt lợi thế có được từ phá giá tiền tệ. Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước: Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm lý sành hàng ngoại, thì một sự đắt lên của hàng nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu dùng của họ, họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo, mức độ gia tăng số lượng hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài. 2. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với lạm phát Do giá cả nhập khẩu tăng, nên giá cả nội địa cũng thường tăng lên sau khi thực hiện phá giá tiền tệ. Ảnh hưởng này sẽ càng lớn nếu nhập khẩu chiếm một tỉ trọng lớn trong tiêu dùng nội địa và nếu nhà xuất khẩu đặt giá nội địa cao bằng với giá xuất khẩu sang nước ngoài. Việc tăng giá hàng nội địa sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giá cả - lương. Nếu lương được điều chỉnh theo mức độ lạm phát thì trong trường hợp này lương sẽ tăng. Như vậy, sẽ dẫn tới hiện tượng lạm phát leo thang gây ảnh xấu đến tiết kiệm, đầu tư, phát triển kinh tế, phân bổ thu nhập cũng như ổn định chính trị. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ gây nên lạm phát có thể kiểm soát được bằng cách giảm tín dụng kinh tế và giảm thâm hụt ngân sách. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với sản xuất Trong ngắn hạn, việc tăng giá sẽ làm giảm tiền lương thực tế (trước khi lương danh nghĩa được điều chỉnh), đồng thời giảm tài sản của người dân đang được cất giữ dưới dạng đồng tiền nội địa, tài khoản ngân hàng và trái phiếu nội địa. Tài sản của người dân sẽ không bị ảnh hưởng nhiều nếu họ cất giữ dưới phương thức tài sản nước ngoài. Giảm thu nhập thực tế sẽ hạn chế người dân tiêu dùng dẫn tới giảm mức chi tiêu của quốc gia. Do vậy, thông thường sẽ có sự tái phân bổ thu nhập và tài sản sau khi phá giá tiền tệ. Tuy nhiên, nếu việc tái phân bổ này được thực hiện ở nhóm dân số có mức tiêu dùng thấp thì vẫn dẫn tới việc giảm chi tiêu của quốc gia. Việc giảm chi tiêu có thể cải thiện tài khoản vãng lai, nhưng đồng thời cũng làm giảm cầu đối với hàng hóa nội địa, từ đó gây ra thất nghiệp trong một số ngành kinh tế. Qui mô sản xuất sẽ tăng hoặc giảm phụ thuộc vào mức độ chi tiêu chính phủ và tốc độ ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến việc sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu. 3. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến ngân sách Phá giá tiền tệ có thể có những ảnh hưởng gián tiếp đến ngân sách, có thể cải thiện hay làm thâm hụt ngân sách. Điều này phụ thuộc vào tầm quan trọng của các khoản thu và chi chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá hối đoái. - Xét về nguồn thu ngân sách bao gồm các khoản như thuế xuất nhập khẩu và viện trợ nước ngoài. Phá giá có xu hướng làm tăng thuế thu đối với giao dịch thương mại nước ngoài. Mức độ ảnh hưởng của chính sách này phụ thuộc vào tương quan so sánh giữa thuế thu từ xuất nhập khẩu và tổng thuế thu được, độ co giãn về thuế, độ co giãn theo giá của xuất nhập khẩu. Nếu đất nước nhận được một lượng lớn viện trợ nước ngoài, thì khoản thu này cũng sẽ tăng theo tỉ lệ của phá giá tiền tệ. - Xét về nguồn chi ngân sách gồm những khoản bù trừ nguồn thu. Trước hết, nếu đất nước đang có một khoản nợ nước ngoài lớn, thì việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho họ phải trả khoản lãi suất lớn. Thứ hai, khoản chi của chính phủ cho mua xăng dầu, máy tính, thiết bị quân sự từ nước ngoài sẽ tăng lên. III. Các yếu tố cần xem xét khi phá giá đồng nội tệ Khi xem xét có nên giá tiền tệ hay không, các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc cẩn trọng các yếu tố có ảnh hưởng đến hiệu quả của phá giá tiền tệ: + Xuất khẩu sản phẩm có nhiều nguồn gốc nhập khẩu: Một số lĩnh vực sản xuất tại một quốc gia, cần thiết phải nhập nguyên liệu thô hoặc sản phẩm sơ chế làm đầu vào cho sản xuất xuất khẩu. Trong trường hợp này, phá giá tiền tệ làm tăng giá thành sản xuất hàng xuất khẩu, và làm hạn chế cơ hội có giá cả cạnh tranh hơn so với những 2
- hàng xuất khẩu mà đầu vào chỉ bao gồm hàng hóa trong nước. Do đó phá giá tiền tệ đặc biệt thuận lợi cho các ngành sản xuất mà nguyên liệu đầu vào là các hàng hóa nội địa - ví dụ khoáng sản và nông nghiệp. + Chi phí sản phẩm thiết yếu: Các nước đang phát triển đặc biệt phụ thuộc vào một số sản phẩm nhập khẩu, đầu tư, năng lượng và sản phẩm y tế. Phá giá tiền tệ làm giá thành các sản phẩm này tương đối đắt đỏ và có thể có tác động tiêu cực đến tăng trưởng và đời sống nhân dân. + Nợ nước ngoài: Một số nước nghèo luôn ở trong tình trạng vay nợ nước ngoài nhiều. Việc phá giá danh nghĩa đồng tiền nội địa làm tăng nợ nước ngoài tính bằng đồng nội địa. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cho ngân sách nhà nước, do phải trả lãi, và các khoản trả góp nước ngoài cao do đồng ngoại tệ tăng giá. Trong những trường hợp này, cần thay đổi thuế và chi tiêu chính phủ. Các công ty tư nhân có nợ nước ngoài cũng có thể bị ảnh hưởng lớn đặc biệt nếu sản phẩm của các công ty này hướng vào thị trường nội địa. + Vấn đề cơ cấu chính sách: Khi có tác động của những chính sách như trợ giá, kiểm soát giá hoặc hạn ngạch xuất khẩu, sẽ làm cản trở sự cân bằng các nhân tố bên ngoài theo qui luật kinh tế. Những vấn đề này cần được xử lý ngay nếu không phá giá tiền tệ sẽ không có ý nghĩa. Phá giá tiền tệ không chỉ tác động đến những vấn đề kinh tế mà còn ảnh hưởng đến những vấn đề mang tính chính trị, xã hội. Vì thế, để thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ, các nước đều phải xem xét và cân nhắc một cách kỹ lưỡng các mặt lợi và hại của biện pháp này dựa trên tất cả các khía cạnh của nền kinh tế. Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại. Trong trường hợp cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ. II. TRUNG QUỐC PHÁ GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ 1/Lịch sử phá giá đồng nhân dân tệ của Trung Quốc Nếu nhắc tới phá giá không thể không nhắc tới Trung Quốc, một quốc gia đã tạo nên sự đột phá từ phá giá đồng CNY. Trong vòng 14 năm (từ 1979 đến 1993), Trung Quốc đã 7 lần điều chỉnh mạnh tỷ giá hối đoái của mình với xu hướng chung là phá giá mạnh đồng CNY. Năm 1993, mức phá giá so với năm 1985 đã là gần 70%. Nhưng mặc dù phá giá liên tục và với biên độ lớn như vậy, tổn thất xuất khẩu do tỷ giá (đánh giá cao đồng CNY) gây ra vẫn rất lớn. (Đơn vị: CNY). Năm 1979 1981 1983 1985 1988 1993 Chi phí để thu 1 USD 2,40 2,31 3,02 3,67 5,80 6,32 xuất khẩu Tổn thất ứng với 1 0,85 0,49 0,22 0,73 2,08 1,0 USD xuất khẩu Bảng I. Tổn thất tài chính đối với xuất khẩu do tỷ giá ở Trung Quốc ( Nguồn: N. Lardy 1992; Wong 1998.) Lý do là vì tỷ giá CNY/USD có mặt bằng xuất phát “phá giá” quá thấp nên dù phá giá mạnh như vậy, mức tỷ giá vẫn chưa đạt đến điểm “hòa vốn” cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Để cải thiện tình hình, năm 1994, Chính phủ Trung Quốc quyết định phá giá mạnh đồng NDT. Biên độ phá giá lên tới 50% Năm Tỷ giá bình quân Kim ngạch xuất Kim ngạch nhập (/USD) khẩu (triệu USD) khẩu (triệu USD) 1993 5.7620 75659 86313 1994 8.6187 102561 95271 Ta có thể tính toán một số chỉ số: - Hệ số co dãn xuất khẩu theo giá: 3
- = 0.769 - Hệ số co dãn nhập khẩu theo giá = 0.252 = 0.76+0.252 =1.012 > 1 Phản ánh tính trội của hiệu ứng khối lượng. Điều này nghĩa là: sau khi phá giá hiệu ứng khối lượng phản ứng đủ bù đắp cho hiệu ứng giá cả. Kết quả là cấn cân vãng lai được cải thiện. Vì vậy, việc cải cách chế độ tỷ giá đã có tác động rất mạnh và hầu như tức thời đến động thái của nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là đối với hoạt động ngoại thương. Việc phá giá đồng NDT với quy mô 50% dẫn tới kết quả tức thì: cán cân thương mại từ chỗ thâm hụt 10654 triệu USD năm 1993 chuyển thành cán cân thặng dư 7290 triệu USD năm 1994. Kể từ đó cho đến khi Trung Quốc gia nhập WTO (2001), xu hướng này luôn được giữ vững với mức thặng dư thương mại cao ổn định. Kể từ đó, thặng dư thương mại của Trung Quốc liên tục tăng với tốc độ cao (Đơn vị: triệu USD) Đồ thị I. Xu hướng tăng trưởng của Trung Quốc 2/ Lý do Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ Khuyến khích việc xuất cảng của nước họ vì nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc quá nhiều vào việc xuất cảng. Khi thị trường thế giới mua ít hơn thì nhiều xí nghiệp ở Trung Quốc đóng cửa, trong 2007 có khoảng 1000 xí nghiệp đóng cửa và sa thải nhân viên, điều đó đã gây ra những xáo trộn xã hội cho nên chính phủ Trung Quốc và ngân hàng Trung Ương của họ muốn giảm giá đồng CNY so với USD để hàng hóa của Trung Quốc bán ra nước ngoài có thể rẻ hơn. Đặc biệt là đối với Châu Âu, vào năm 2006 -2007 đồng USD đã xuống giá so với EUR, 2008 đồng USD lên giá, vì CNY (đồng nhân dân tệ) của Trung Quốc gắn liền với USD khi USD lên giá so với EUR thì CNY cũng lên theo, điều này có nghĩa là hàng hóa của Trung Quốc bán sang Châu Âu sẽ mắc hơn. Do đó chính phủ Trung Quốc giảm giá CNY. 3. Nguyên nhân Trung Quốc phá giá thành công 4
- Nền kinh tế Mỹ bị lệ thuộc vào Trung Quốc: Trong cán cân mậu dịch giữa Trung Quốc và Mỹ, nước Mỹ luôn luôn bị thiếu hụt (mua rất nhiều hàng của Trung Quốc, và bán sang Trung Quốc ít hơn). Do vậy Mỹ kêu gọi chính phủ Trung Quốc tăng NDT để hàng hóa bán sang Trung Quốc sẽ rẻ hơn và hàng Trung Quốc bán sang Mỹ sẽ đắt hơn một chút. Nếu Trung Quốc giảm giá đồng nhân dân tệ sẽ gây một phản ứng bất lợi cho Mỹ và Mỹ sẽ trả đũa lại Trung Quốc. Trong năm 2008 Mỹ nợ Trung Quốc với trái phiếu công mà chính phủ Mỹ phát hành cho Trung Quốc là 600 tỷ, khi NDT xuống giá khiến cho USD tăng lên, điều đó có nghĩa là giá trị trái phiếu của Trung Quốc nắm giữ cao hơn, Trung Quốc sẽ được lợi, ngược lại Mỹ sẽ bị thiệt. Nếu chính phủ Mỹ trả đũa khiến USD xuống giá sẽ bất lợi cho chính phủ Trung Quốc vì giá trị của các trái phiếu đó sẽ xuống. Trung Quốc sẽ trả đũa lại là ngưng không mua trái phiếu của Mỹ nữa điều đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ở bên Mỹ. Hành động giảm giá đồng nhân dân tệ sẽ gây ra cuộc chiến tranh giữa hai bên trên phạm vi thương mại, hối suất, tín dụng... đây là hậu quả rất nghiêm trọng và có thể ảnh hướng đến cả thế giới Nền kinh tế Trung Quốc phát triển các mặt hàng xuất khẩu có mặt ở nhiều nước trên thế giới Lượng dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc khá lớn Tình hình lạm phát thấp ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1. Những điều kiện để Việt Nam phá giá thành công Tỉ trọng hàng hóa đủ chuẩn tham gia thương mại quốc tế Tính linh hoạt của nền kinh tế chuyển sang xuất khẩu Năng lực thay thế hàng xuất khẩu Tâm lí tiêu dùng hàng ngoại của người nước ngoài đã thật sự tin tưởng và an toàn khi người mua hàng hóa của Việt Nam. Người tiêu dùng trong nước sẳn sàng chuyển từ sử dụng hàng hóa nhập khẩu giá cao sang hàng nội địa giá thấp hơn, đồng thời người nước ngoài cũng sẳn sàng chuyển sang sử dụng hàng nhập khẩu của Việt Nam do giá cả rẻ hơn Tỉ trọng hàng nhập khẩu trong đầu vào sản phẩm xuất khẩu thấp. Cần chú trọng đến thời điểm phá giá. Nếu giá hàng nhập khẩu đang thấp và có xu hướng hạ thì việc phá giá mới có tác dụng vì sau khi phá giá, giá hàng nhập khẩu sẽ không bị tăng đột ngột, qua đó hạn chế sự gia tăng giá của hàng nội địa do giảm thiểu ảnh hưởng giá cả của nguyên vật liệu đầu vào của nhập khẩu. Quỹ dự trữ ngoại tệ phải đủ lớn. Khi tiến hành phá giá, thị trường có xu hường tích trữ ngoại tệ nhằm đảm bảo an toàn tài sản, do đó cần phải có nguồn dữ trự ngoại tệ đủ lớn nhằm can thiệp kịp thời, đảm bảo duy trì tỉ giá đúng kế hoạch Mức độ linh hoạt của tiền lương. 2/ Phá động nội tệ yếu có lợi trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay ? Ảnh hưởng của phá giá đến cán cân vãng lai Mục tiêu của phá giá là để cải thiện cán cân vãng lai, có nghĩa là góp phần vào làm giảm sự mất cân bằng giữa tiết kiệm vào đầu tư. Nhưng đối với Việt Nam, liệu biện pháp phá giá có cải thiện được cán cân thương mại hay không khi hầu hết các mặt hàng sản xuất trong nước đều phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu (90% tổng giá trị hàng nhập là nhập nguyên vật liệu sản xuất), ngay cả hàng xuất khẩu cũng đến 70% là giá trị hàng nhập. Bên cạnh đó, năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu ở Việt Nam đều còn hạn chế. Thâm hụt cán cân thương mại đã trở thành một hiện tượng thường nhật trong cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam trong nhiều năm gần đây. Thực trạng này bắt nguồn sâu xa từ chính sự mất cân đối trong cơ cấu xuất nhập khẩu. - Cơ cấu xuất khẩu (Xem bảng 1) Bảng 1 Tỷ trọng một số mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu giai đoạn 2005- T9/2010 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Thủy sản 8.42% 8.57% 7.66% 7.35% 7.08% 7.38% Gạo 1.58% 1.23% 0.47% 3.67% 2.93% 4.26% 21.01 16.97 18.83 11.22 Dầu thô % % % % 7.79% 6.07% Cao su 3.60% 2.83% 3.64% 2.45% 3.60% 3.98% Gỗ và sản phẩm gỗ 5.05% 5.29% 4.89% 5.10% 5.78% 4.59% 5
- 16.16 13.43 15.96 16.73 16.13 17.21 Dệt, may % % % % % % 10.77 10.00 Giày dép % % 8.30% 9.18% 8.63% 6.23% Điện tử, máy tính 4.71% 5.43% 4.89% 4.49% 4.76% 5.08% (Nguồn: Tổng cục thống kê) Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu, danh mục hàng xuất khẩu còn chậm đa dạng hóa, tỷ trọng kim ngạch 8 mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, tuy giảm từ 71,3% năm 2008 xuống 54,8% trong 9 tháng đầu năm 2010, nhưng phần lớn là do xuất khẩu dầu thô giảm mạnh. Cùng lúc đó, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gỗ và sản phẩm gỗ, dệt may và giày dép vẫn phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên giá trị gia tăng thấp. - Cơ cấu nhập khẩu (Xem bảng 2) Bảng 2 Tỷ trọng một số mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu giai đoạn 2005- T9/2010 9t đầu 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Xăng dầu 12.58% 11.30% 13.22% 8.33% 7.37% 6.35% Chất dẻo 3.52% 4.38% 4.17% 3.19% 3.71% 4.84% Vải 6.97% 7.00% 5.87% 6.11% 5.41% 6.01% Nguyên PL dệt, 6.67% 4.50% 3.33% 3.33% 2.58% 3.08% may, giày dép Sắt thép 7.30% 6.93% 8.40% 9.07% 6.82% 6.88% Điện tử, máy tính 4.85% 5.25% 4.76% 5.93% 5.96% 6.57% và LK Ô tô 2.73% 2.00% 3.22% 2.35% 5.54% 3.50% Máy móc, thiết bị, 15.15% 16.25% 15.87% 22.22% 19.62% 15.38% DC, PT khác Hóa chất 2.27% 2.25% 2.38% 2.04% 2.08% 2.59% Sản phẩm hoá 2.42% 2.25% 1.98% 2.13% 2.46% 2.52% chất (Nguồn: Tổng cục thống kê) Tỷ trọng 10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn không thay đổi nhiều từ năm 2005 (64,5%) đến nay (58%). Nhóm hàng tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Cơ cấu này cho thấy nhập khẩu của ta chủ yếu là để phục vụ sản xuất nên những biện pháp kiềm chế nhập khẩu hiện nay tập trung vào các nhóm hàng hóa tiêu dùng đặc biệt như ô tô, xa xỉ phẩm... sẽ chỉ có thể có những tác động nhỏ đến tình trạng nhập siêu hiện nay. Hơn thế nữa, tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu của nước ta ở mức cao (theo một số tính toán là khoảng 70%) dẫn tới thực tế là muốn tăng xuất khẩu thì nhất thiết phải tăng nhập khẩu, làm hạn chế khả năng gia tăng xuất khẩu nhanh hơn so với nhập khẩu. - Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, mà đối với một nền kinh tế đang phát triển, có một số hàng hóa mà các nền kinh tế này không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng không chắc sẽ lựa chọn hàng trong nước. Như vậy, nếu thực hiện phá giá, nền kinh tế Việt Nam với năng lực sản xuất hàng thay thế cho hàng nhập khẩu còn hạn chế, có thực sự hạn chế được nhập khẩu để cải thiện cán cân thương mại hay không? - Năng lực sản xuất hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là sản xuất nhỏ lẻ và có năng suất thấp. Chất lượng hàng hóa, kể cả những mặt hàng chiến lược là gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy, hải sản chế biến là những mặt hàng Việt Nam chiếm vị trí nhất nhì trên thế giới thì chất lượng sản phẩm của chúng ta còn kém so với các nước có cùng mặt hàng trong châu lục vì thế tỷ lệ hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ và châu Âu còn nhỏ. Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng cho sản xuất các mặt hàng xuất khẩu và xuất khẩu lớn còn rất manh mún và chưa đủ sức để thúc đẩy sản xuất đại trà. Nếu các doanh nghiệp trong nước không có năng lực sản xuất hàng xuất khẩu (cung cấp không đủ lượng, chất theo nhu cầu của đối tác) hoặc không tìm được thị trường xuất khẩu cho mình thì khi Chính phủ thực hiện phá giá, những cơ hội kinh 6
- doanh tốt mà Chính phủ hướng tới thông qua phá giá sẽ bị bỏ lỡ, hoạt động xuất khẩu và cán cân thương mại không chắc chắn có thể được cải thiện. Luồng vốn vào - ra trong nền kinh tế Dòng vốn vào là một nguồn quan trọng, bù đắp lại thâm hụt thương mại cho nước ta trong những năm gần đây. Dòng chu chuyển vốn (qua các kênh FDI, FII và vay nợ) nhìn chung tăng qua các năm, đặc biệt tăng mạnh từ năm 2007 sang năm 2008 - đạt mức cao kỷ lục vào năm 2008. (Xem biểu 1) Biểu 1 Như vậy, nếu thực hiện phá giá mạnh sẽ có thể gây ra tâm lý lo ngại về các bất ổn, yếu kém trong nền kinh tế Việt Nam cho các nhà đầu tư, có thể khiến họ đưa ra quyết định rút vốn. Hậu quả là có thể gây bất ổn định kinh tế. Ảnh hưởng của phá giá đến lạm phát Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI cho thấy nhìn chung, CPI từ năm 2001 đến 2008 tăng khá mạnh, đặc biệt là hai năm 2007 và 2008 (12,6% và 19,89%). Lạm phát tuy đã được kiềm chế ở mức thấp trong năm 2009 và hiện đang trong tầm kiểm soát, nhưng diễn biến của lạm phát trong 20 năm qua ở Việt Nam, cho thấy tính ổn định nhìn chung là không cao. Do đó, ổn định lạm phát luôn luôn là mục tiêu điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Khi thực hiện phá giá, do giá cả nhập khẩu tăng nên giá cả nội địa cũng thường tăng lên, gây áp lực lên lạm phát. Điều này đã từng xảy ra ở Trung Quốc, khi Trung Quốc phá giá CNY 50% năm 1994, Trung Quốc đã phải đối mặt với lạm phát tăng cao, năm 1994 là 24,24%, tăng hơn 66,25% so với mức lạm phát năm 1993. Xét trên khía cạnh này thì trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, khi mà phá giá có cải thiện cán cân thương mại hay không còn chưa chắc chắn (như đã phân tích ở trên) thì lạm phát đã tăng. Trong khi đó, Việt Nam với thực trạng kinh tế như hiện nay khó có thể chấp nhận trước tình trạng tái lạm phát trở lại. Một điểm khác hết sức quan trọng là hiện nay Chính phủ đang kêu gọi hạ lãi suất. Trong khi đó, thông thường, nếu NHNN phá giá nội tệ, để có thể kiềm chế lạm phát, biện pháp thường được sử dụng theo lý thuyết là thắt chặt tiền tệ, nghĩa là phải tăng lãi suất. Như vậy, việc phá giá nội tệ sẽ có thể trở thành mâu thuẫn với chủ trương giảm lãi suất của Chính phủ. 7
- Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam Việt Nam là nền kinh tế đô la hóa, trong suốt thời kỳ cải cách, mức độ đôla hóa tính theo tiêu chí của IMF có giảm dần, song so với các nước trên thế giới Việt Nam vẫn là nước bị đôla hóa. Tâm lý đầu cơ và găm giữ ngoại tệ rất phổ biến trong nền kinh tế. Nhận biết được điều này, Chính phủ và đặc biệt là NHNN Việt Nam đã và đang hết sức nỗ lực để hạn chế tình trạng đô la hóa. Nếu phá giá VND vào lúc này mà không có biện pháp đi cùng để ngăn chặn tâm lý kỳ vọng vốn đang tồn tại khá mạnh trên thị trường tiền tệ Việt Nam, khi hệ quả của dư âm về lạm phát năm 2008 vẫn còn, sẽ khiến người dân và doanh nghiệp tích cực dự trữ ngoại tệ, làm cho cung ngoại tệ không những không được cải thiện mà còn đẩy cầu ngoại tệ lên cao; ảnh hưởng không tốt tới nỗ lực hạn chế đô la hóa của các nhà điều hành. Thậm chí, trong trường hợp các giải pháp không tạo được lòng tin, thì mục đích ngăn chặn những bất ổn trong nền kinh tế trong việc phá giá VND không những không giải quyết được, mà có thể còn đẩy nền kinh tế tới chỗ bất ổn hơn. Ảnh hưởng của phá giá đến ngân sách Phá giá tiền tệ có thể cải thiện hoặc làm thâm hụt ngân sách còn phụ thuộc rất nhiều vào việc các nguồn thu, chi ngân sách có chịu ảnh hướng trực tiếp bởi tỷ giá hay không. - Xem xét cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam thì tỷ lệ thu ngân sách từ dầu thô và xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng gần 40% trong tổng nguồn thu của ngân sách, hơn nữa, nguồn viện trợ cũng khá lớn. Vì vậy, phá giá sẽ tăng đáng kể nguồn thu của Chính phủ nếu tính bằng VND. Tuy nhiên, phá giá làm ảnh hưởng đến hoạt động doanh nghiệp, làm kinh tế suy giảm thì sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nguồn thu của Chính phủ. - Xét về cơ cấu chi, thì khoản chi lớn nhất mà chịu tác động lớn của tỷ giá là các khoản vay để bù đắp thâm hụt ngân sách bằng ngoại tệ. - Xem xét vấn đề nợ nước ngoài (Xem bảng 3) Bảng 3 Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP (%) 2005 2006 2007 2008 2009 31.2 31.4 32.5 29.8 39.0 Nguồn: Bộ Tài chính Xem xét tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải, nếu xét theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới. Hiện nay, nợ nước ngoài của Chính phủ Việt Nam tập trung chủ yếu vào các loại tiền JPY, USD, EUR, SDR. Cụ thể, lớn nhất là các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR chiếm 27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm 10,68%; còn lại là các đồng tiền khác chiếm 3,37% tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ. Mặc dù cơ cấu đồng tiền vay trong tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ nhưng không thể phủ nhận thực tế những dao động của tỷ giá sẽ có ảnh hưởng nhất định đến giá trị của các khoản nợ khi quy đổi ra nội tệ. Tóm lại, để thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ, phá giá phải được xem xét và cân nhắc một cách kỹ lưỡng các mặt lợi và hại dựa trên tất cả các khía cạnh của nền kinh tế; phải đảm bảo nền kinh tế đã có đủ các điều kiện để có thể phát huy tốt mặt tích cực và hạn chế được những mặt tiêu cực của việc phá giá. Thêm vào đó, mức độ phá giá là bao nhiêu cũng phải được cân nhắc cẩn thận, dựa trên tình hình cụ thể. Nếu có quyết định phá giá, cũng phải phá giá có lộ trình. Để tránh việc phá giá sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao và từ đó dẫn đến bất ổn định vĩ mô, đi kèm với phá giá cần phải có một sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó quan trọng nhất là sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa với hiệu quả đầu tư cao. Thêm nữa, có lẽ cần có một quỹ dự trữ ngoại hối đủ mạnh để can thiệp trong thời gian đầu sau khi tiến hành phá giá. BÀI HỌC ĐỒNG NỘI TỆ YẾU ĐƯỢC XEM XÉT CHO BỐI CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM Mục tiêu của chính sách tỷ giá nước ta trong thời gian tới là: Tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát - Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại. - Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. - Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi. - Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá. 8
- Để đạt được mục tiêu trên chúng tôi đưa ra một số định hướng hoàn thiện chính sách TGHĐ như sau: Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chính sách TGHĐ phải liên tục được hoàn thiện và điều chỉnh thích ứng với môi trường trong nước và quốc tế thường xuyên thay đổi. Để góp phần khai thác tối đa những lợi ích và giảm thiểu những tổn thất từ hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian tới cần hoàn thiện theo những định hướng cơ bản sau: Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá. Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước. Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa. Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng khi tiền đồng mất giá trong chính sách “Đồng tiền yếu”. Một thực tế đã và đang diễn ra, đó là đồng tiền Việt Nam (VND) đang giảm giá so với đồng dollar Mỹ (USD). Một dollar Mỹ (1 USD) tương đương 10.000 VND – 12.000 VND cách đây hơn 10-12 năm, giờ đã là khoảng 19.500 VND theo giá thị trường (gần gấp đôi). Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh tự nhiên, khách quan, do “bàn tay vô hình” của thị trường tự chi phối và điều tiết hay do chính sách can thiệp tỉ giá của ngân hàng nhà nước và chính phủ từ mềm mại, linh hoạt, nhẹ nhàng hay “đột ngột” gây sốc cho thị trường. Điều này tác động đến các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu nói riêng như thế nào? Khảo sát trường hợp doanh nghiệp A, B, C, D, E, F như dưới đây: Assumption: Export 100USD VND devalued 2.000VND (18.000VND to 20.000VND) (a) 180.000VND (before devalued) or (b) 10USD; Fixed profit proposed per Profit rate at 10%: VND or USD export after all costs and expenses A B C D E F No Import Rate 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1 1 USD paid $50 $60 $70 $80 $90 $100 Incremental charge 2 100.000 120.000 140.000 160.000 180.000 200.000 (VND) Profit after devaluation 3 80 60 40 20 0 -20 in (a) in VND Profit after devaluation 4 100.000 80.000 60.000 40.000 20.000 0 in (b) in VND Incremental profit up to 5 50% 40% 30% 20% 10% 0% local materials rate Note: this means every 10% of local-made material will create 10% profit increasing Giả thiết: - Doanh nghiệp trong các trường hợp A, B, C, D, E, F đều thu được doanh số 100 USD khi xuất hàng - Các trường hợp làm hàng xuất khẩu với tỉ lệ nội địa hóa khác nhau: A – nhập khẩu 50% (phải trả cho bên bán nước ngoài 50 USD để nhập hàng nguyên vật liệu về) tức A phải mua nguyên liệu đầu vào hết 50 USD, còn lại mua trong nước hay tỉ lệ nội địa hóa đầu vào của A trong trường hợp này là tối đa 50% (không kể hàng hóa A mua được trong nước cũng do doanh nghiệp khác nhập khẩu về); tương tự B có tỉ lệ nhập khẩu là 60% hay 60 USD tức tỉ lệ nội địa tối đa tới 40% (dùng mua hàng trong nước)… và F – nhập khẩu 100% hay nhập hoàn toàn cho mỗi 100 USD doanh 9
- số thu về hay F là doanh nghiệp nhập khẩu 100 USD cho mỗi 100USD xuất khẩu (giả thiết lý thuyết hoặc F chính là doanh nghiệp chuyên nhập khẩu). - Tỷ giá biến động từ 1 USD tương đương 18.000 VND lên 20.000 VND như thời gian vừa qua, tức biến động 2.000 VND cho mỗi USD. - Lợi nhuận (sau chi phí) thu về của các doanh nghiệp A, B, C, D, E, F đều là 10% trên doanh số xuất khẩu 100USD; tức là (a) 180.000 VND tại thời điểm trước khi tỉ giá biến động (doanh nghiệp dự kiến lời 10% bằng tiền Đồng vì các chi phí doanh nghiệp trong nước được dự kiến bằng VND; và là (b) 10 USD tại thời điểm thu về bằng USD hàng xuất khẩu. Giả thiết khác: doanh nghiệp chưa thể tăng giá hàng hóa bán ra. Giải thích: Chúng ta nhận thấy, để thu về 100 USD, doanh nghiệp phải trả cho bên bán nước ngoài (hàng 1) bằng USD với tỉ lệ tăng tương ứng theo tỉ lệ hàng nguyên liệu phải nhập về. Số tiền đồng (VND) phải trả thêm cho mỗi USD cũng gia tăng theo (hàng 2 – nhân với 2.000VND). So với dự kiến lợi nhuận bằng tiền đồng (VND) tức trường hợp (a) thì (xem hàng số 3) lợi nhuận các doanh nghiệp sẽ giảm từ A: 80.000VND xuống –F: 20.000VND (thua lỗ); nếu theo dự kiến bằng USD như trường hợp (b) (doanh nghiệp được bán USD theo giá thị trường khi xuất khẩu và thu tiền về) thì đỡ hơn một chút (xem hàng số 4). Hàng số 5, cho thấy khi so sánh giữa các trường hợp A, B, C, D, E, F thì mỗi khi tỉ lệ % số tiền USD phải trả để mua hàng nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh (nhập khẩu) tăng lên 10% thì lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp giảm 10%. Điều này tỉ lệ nghịch với tỉ lệ nội địa hóa nguyên vật liệu. Nếu doanh nghiệp chỉ phải thanh toán hàng hóa bằng tiền đồng VND trong nước thì sẽ không phải chịu thiệt khi tỉ giá biến động như vừa qua (ít tác động). Doanh nghiệp có tỉ lệ nội địa hóa càng cao sẽ có ưu thế lợi nhuận lớn hơn doanh nghiệp có tỉ lệ nội địa hóa thấp, do chịu thiệt khi tiền đồng Việt Nam giảm giá hay phá giá tiền đồng. Ví dụ: A (nhập khẩu 50% và mua nội địa tối đa tới 50%) sẽ có lợi hơn B, C, D, E và dĩ nhiên là F vì có tỉ lệ nhập khẩu cho sản xuất kinh doanh cao hơn (xét biến động tỉ giá chứ không khảo sát lợi thế khi doanh nghiệp mua hàng giá rẻ từ nước ngoài). Tỉ lệ nội địa hóa tùy thuộc nhiều vào lĩnh vực, ngành nghề, chủng loại hàng hóa cũng như lợi thế so sánh của mỗi quốc gia như tài nguyên thiên nhiên (mỏ quặng, thủy hải sản, nông lâm sản…); cơ cấu dân số và chất lượng dân số lao động già, trẻ; trình độ giáo dục, khoa học công nghệ, phát minh sáng kiến, trình độ quản lý nhà nước và điều hành kinh tế vĩ mô – thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở của chính sách và pháp luật, khả năng học hỏi, sáng tạo, rút kinh nghiệm và vượt khó trong điều hành doanh nghiệp; và các mối tương quan lịch sử, địa chính trị, kinh tế truyền thống của các quốc gia và khu vực. Do vậy, việc quyết định điều chỉnh tăng hay giảm giá tiền đồng so sánh với một ngoại tệ nào đó, ở đây là USD – một ngoại tệ truyền thống mạnh nhất trên thế giới, phải nhìn vào cấu trúc hiện tại của nền kinh tế đất nước. Ngoài các yếu tố như thâm hụt ngân sách (bội chi khoảng 5% năm 2008 và 6.9% năm 2009), tăng trưởng tín dụng nhanh (hơn 40% liên tiếp trong 2 năm 2008 và 2009 - theo TBKTSG số 1-2010, trang 12), đầu tư kém hiệu quả và thất thoát trong các dự án nguồn vốn nhà nước (các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ và nhà nước phải tái đầu tư để cứu) hoặc vay ODA (cần lưu ý là các quốc gia có khả năng tự chủ tài chính cao sẽ không cần phải vay ODA - vay ưu đãi lãi suất tương đối thấp, dài hạn và có điều kiện - ngay cả các quốc gia trong khu vực như Thailand, Indonesia, Malaysia… với phép tính đơn giản là phải thuê chuyên gia của nước cho vay, trả lương cao; mua hàng hóa của nước cho vay ODA, thì họ đã lời vài chục phần trăm cho việc bán hàng hóa này, thực chất đây có thể là một bài toán kinh doanh chứ không hẳn là viện trợ hay trợ giúp 100% - đây là gánh nặng phải trả trong tương lai con cháu chúng ta, nếu chúng ta sử dụng vốn ODA phung phí, không hiệu quả, thất thoát, tham nhũng – hơn nữa, việc điều chỉnh tỉ giá cũng có thể làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài phải trả khi thanh toán bằng ngoại tệ), dự trữ ngoại tệ, vàng ở mức độ an toàn ra sao, mức độ nợ nước ngoài và lãi suất phải trả hàng năm… chúng ta cần chú ý vấn đề tỉ lệ nội địa hóa trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại cũng như tương lai. Nên chăng các nhà điều hành kinh tế vĩ mô cần có các nghiên cứu sâu, các thông tin lượng hóa đầy đủ, cụ thể như: lĩnh vực nào, ngành nghề nào, công ty nào sẽ được lợi hay hại từ biến động tỉ giá tăng hay giảm? Dự báo trước sẽ giúp phòng tránh các tác động xấu trên thị trường. Không thể máy móc sao chép các mô hinh kinh tế các nước khác trong khi điều kiện mỗi nước hoàn toàn khác nhau. Trung Quốc có nền kinh tế sản xuất dựa vào sức lao động giá rẻ và tiêu tốn tài nguyên môi trường nhưng cũng có tỉ lệ nội địa hóa hàng hóa nâng cao hơn Việt Nam ( hàng công nghiệp chiếm tới 95% tổng lượng hàng xuất khẩu năm 2008 – theo TBKTSG số 1-2010, trang 50); các quốc gia phát triển như Mỹ, Đức,… có nền xuất khẩu dựa vào chất xám, công nghệ cao, hiện đại có thể muốn giữ chính sách đồng tiền yếu để hỗ trợ xuất khẩu. Nói cách khác, các công ty Trung Quốc với tỉ lệ nội địa hóa cao hơn sẽ có lợi hơn các công ty Việt Nam có tỉ lệ nội địa hóa thấp trong cùng một chính sách ‘đồng tiền yếu’ hỗ trợ xuất khẩu. 10
- Khi phải quyết định phá giá hay giảm giá đồng tiền VND – chính sách “đồng tiền yếu” - để cứu thâm hụt ngân sách hay hỗ trợ xuất khẩu, nâng sức cạnh tranh hàng hóa để chiếm lĩnh thị trường quốc tế, hoặc chống nhập siêu cao (nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu – có lẽ không thể tránh khỏi trong phát triển kinh tế giai đoạn hiện tại), nếu không cân nhắc kỹ các yếu tố lợi hại, sẽ chịu các tác động như giá tiêu dùng gia tăng nhanh (nhiều nghiên cứu, nhận định tỉ lệ lạm phát sẽ tăng cao trong năm 2010 – điều này có lẽ là hiển nhiên, bởi vì giá USD đã tăng khoảng 5-7% và giá vàng đã tăng từ 22 – 23 triệu đồng/lượng tới khoảng 27 triệu đồng/lượng như hiện nay tức hơn 17% trong năm 2009 – trên bình diện từ 2-3 năm, 2007 – 2009, thì cả vàng vàUSD đã tăng hơn 20% - 25% so với VND), ảnh hưởng đến mọi tầng lớp xã hội mà người lao động nghèo sẽ gánh chịu nặng nề nhất ( ví dụ: gói xôi tăng từ 3,000VND lên 5,000VND; ổ bánh mì tăng từ 5,000VND lên 8,000VND thì người lao động, hưu trí với mức lương và thu nhập cố định thấp sẽ bị thiệt hại nặng nhất, không đủ tiền cho nhu cầu tối thiểu hàng ngày). Bất ổn về tỉ giá sẽ khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân có tâm lý găm giữ vàng, USD, bất động sản… để tránh bị mất giá tài sản. Không thể kêu gọi họ hy sinh quyền lợi riêng vì một mục đích chung chưa rõ ràng, cụ thể ( ví dụ: tôi bán USD với giá 18.500 VND cho ngân hàng, liệu khi cần nhập hàng tôi có được mua USD với giá đó không? Hay ngân hàng vẫn ‘bắt’ doanh nghiệp tự mua USD từ ‘chợ đen’? Hơn nữa, người khác có hy sinh như tôi? Ai được hưởng lợi nhiều hơn?). Thực tế, nếu đầu năm 2009, ai đó bán vàng ra đầu tư sản xuất kinh doanh, sau một năm làm ăn có lãi, có thể không mua lại được số vàng đầu năm đã bán. Trên bình diện quốc tế, một quốc gia có đồng tiền chưa chuyển đổi tự do được (khi đi công tác nước ngoài, chúng ta phải tự mua USD để mang theo dùng, chưa thể mang VND theo và đổi tiền ở ngân hàng nước ngoài) sẽ gặp rất nhiều bất lợi trong thương mại quốc tế cũng như uy tín và thương hiệu của đất nước (ví dụ: doanh nghiệp không thể thương thảo hợp đồng mua hàng và thanh toán bằng VND). Chúng ta cũng tự đánh mất khả năng sử dụng ‘bàn tay vô hình’ của thị trường để điều chỉnh chính sách tỉ giá. Các thay đổi chính sách tỉ giá liên tục, mang tính chủ quan hoặc thiếu kinh nghiệm mà sai sót là tất yếu, chạy sau biến động thị trường sẽ làm mất uy tín về khả năng điều hành kinh tế vĩ mô (năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2009 đã tụt hạng từ 68/131 giai đoạn 2007-2008 đến 70/134 giai đoạn 2008-2009 xuống 75/133 giai đoạn 2009-2010, chủ yếu do yếu tố về ổn định kinh tế vĩ mô, tụt sâu 42 bậc, từ 70 xuống 112 – theo TBKTSG số 1-2010, trang 11) tạo một tâm lý không tốt cho cả người mua, người bán và các thương vụ hợp tác làm ăn từ nhỏ tới lớn, cho tới hợp tác ở qui mô quốc tế khu vực và thế giới. Nên chăng phải có một lộ trình rõ ràng giúp đồng tiền Việt Nam có khả năng chuyển đổi tự do, sòng phẳng với các đồng tiền phổ biến khác trên thế giới? Đây cũng là một nội dung quan trọng của hội nhập với nền kinh tế thế giới? Nhà nước nên định giá đồng nội tệ thấp vì Lượng dự trữ ngoại tệ của nhà nước khoảng vào 20 - 30 tỉ USD Vấn đề xuất nhập khẩu Chưa giải quyết được vấn đề chợ đen KẾT LUẬN Chính sách của Việt Nam hiện nay là "đồng VNĐ mạnh", ngược với chính sách của Trung Quốc, "đồng tệ yếu". Điều này cũng dễ hiểu vì chúng ta hiện nay đang nhập siêu (ví dụ năm 2009 chúng ta nhập siêu 12 tỉ USD ) trong khi Trung Quốc đang xuất siêu (tháng 9 năm 2009, Trung Quốc xuất sang Mỹ là 28 tỉ USD trong khi nhập từ Mỹ 6 tỉ USD http://news.bbc.co.uk/1/hi/world/asia-pacific/8365135.stm). Ví thể việc giữ đồng VNĐ mạnh giúp lợi cho việc nhập khâu của Việt Nam và ngược lại với Trung Quốc khi họ làm yếu đồng nhân dân tệ để làm lợi cho việc xuất khẩu. Phá giá đồng tiền không có lợi cho đại bộ phận người dân Các nhà làm chính sách muốn hỗ trợ cho xuất khẩu bằng chính sách tỉ giá? Như mọi người biết, khi đồng tiền Việt Nam giảm giá so với đồng USD thì mọi người sẽ có xu hướng cất giữ USD, mặt khác khi tỉ giá biến đông sẽ gây áp lực rất lớn lên lạm phát vì phần lớn sản phẩm của tiêu dùng tại Việt Nam là hàng nhập khẩu và trong trường hợp có lợi cho xuất khẩu thì đại bộ phận người dân Việt Nam sẽ gặp khó khăn. Đồng tiền yếu, nhưng vẫn xuất siêu: Việt Nam định giá đồng tiền yếu để hỗ trợ xuất khẩu.Tuy nhiên bấy lâu nay vẫn rơi vào trình trạng nhập siêu. Đánh thuế nhập khẩu cao để hỗ trợ sản xuất trong nước, như ô tô chẳng hạn nhưng nền công nghiệp vẫn chưa phát triển Trước hết, nước ta là nước đang phát triển và trình độ công nghệ kỹ thuật còn chưa cao. Điều này chứng tỏ ở việc tỉ lệ nội địa hóa chưa cao hay có nghĩa là giá trị tăng lên trong sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam chưa cao. Khi mà chúng ta phải bỏ thêm 15.3 đồng đầu tư để tạo thêm 5.32 đồng sản phẩm (Báo cáo 2009, Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư tăng 15.3% so với 2008 trong khi GDP chỉ tăng 5.32%). Và cũng vì thế mà chúng ta rất cần đến đầu tư nước ngoài (tôi đang nói đến đầu tư vào lĩnh vực sản xuất). Vậy thử nghĩ một nhà đầu tư có nên bỏ 1 11
- USD đổi lấy 18,000 VND và rồi sau đó ráng kiếm 20,000 VND để thu về 1 USD. Chúng ta đang thực thi chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Kế đến là yếu tố nợ nước ngoài. Tôi chưa có số liệu cập nhật nhưng theo ông Ajay Chhibber, Giám đốc Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam cho biết năm 2007 là khoảng 20 tỷ USD. Con số này tương đương 1/3 GDP vào lúc đó. Nếu để tỷ giá USD tăng, một loạt các công trình đầu tư xây dựng cơ bản hay sản xuất kinh doanh phải kéo dài thời gian hoàn vốn hoặc tăng tỷ lệ khấu hao do sự trượt giá. Lúc này, vô hình trung lại kéo giá cả tăng và tăng nguy cơ lạm phát. Mà khi một lượng lớn hơn VND được tung ra để mua USD trả nợ, nguy cơ đổ vỡ chính sách tiền tệ vĩ mô là có thật. Còn có ý kiến cho rằng tự do mua bán USD trên tài khoản sẽ lôi kéo người dân chuyển sang nắm giữ VND của bạn Nguyễn Văn Liêm tôi cho là chưa ổn. Có lẽ bạn hơi tự tin vào dự trữ ngoại tệ của nước ta. Còn nhớ nữa cuối năm 2008 khi mà giá USD đã từng chạm 20,000 VND, khi đó Thống đống Nguyễn Văn Giàu công bố dự trữ ngoại tệ tương đương 20.7 tỷ USD nhằm hạ nhiệt thị trường. Tại sao chuyện đó không lập lại vào năm nay? Tại sao Việt Nam đã phải công bố cam kết ODA kỷ lục cho năm 2010 với hơn 8tỷ USD? Và tại sao lại yêu cầu các Tổng công ty và Tập đoàn Nhà nước bán USD cho Ngân hàng? Tôi nghĩ anh Liêm nên lo cho túi USD của VN trong lúc này hơn là lạc quan. Ngoài ra còn có yếu tố Dòng tiền nóng, tôi gọi chung các khoản đầu tư nước ngoài vào thị trường tài chính, chứng khoán và bất động sản. Có bạn đã chỉ ra kinh nghiệm của Anh năm 1992 và khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 (Thái Lan là 1 điển hình). Khi cho tự do chuyển tiền ra nước ngoài thì nguy cơ xảy ra dòng tiền nóng như ở Thái Lan là rất cao. Liệu nền tài chính của chúng ta có đứng vững? Còn khi kiểm soát những đồng tiền rút ra khỏi Ngân hàng phải bằng VND, vô hình trung chúng ta tạo ra 1 bức tường ngăn cách giữa Ngân hàng và nguồn ngoại tệ trong dân. Tôi thực sự chưa tin là VND đã tạo đủ niềm tin trong dân cho dù nó được niêm yết ở mức tỷ giá nào. Thiết nghĩ, đánh giá các chính sách điều tiết tiền tệ vĩ mô hiện nay đã đúng hay sai lúc này có lẽ chưa phải lúc. Vì 1 chính sách không thể thỏa mãn muôn dân. Trước hết sẽ có 1 bộ phận có lợi, 1 số bất lợi và còn lại là chưa ảnh hưởng nghiêm trọng. Và theo sau đó ít nhiều những bù đắp nhằm tạo ra bình đẳng tương đối. Cái đáng nói ở đây là Con người vì họ trực tiếp thực thi chính sách và phản ứng theo chính sách. Nếu chúng ta thực sự chỉ mua USD khi có nhu cầu (ngoài nhu cầu nắm giữ) thì sẽ không có những đợt sóng tỷ giá như vừa qua. Nếu như quán triệt thực hiện được các chính sách vĩ mô từ các cấp, có lẽ nguồn USD của chúng ta sẽ được sử dụng, luân chuyển hiệu quả. Ngoài ra, khi những người kinh doanh không vì chạy theo lợi nhuận ngắn hạn, không nhập về những sản phẩm kém chất lượng (giá rẻ) để đè bẹp nền kinh tế non trẻ của chúng ta thì có lẽ áp lực thanh toán USD cho nước ngoài không quá cao để mà tạo ra các đợt sóng. Tôi nghĩ cần có thêm nhiều thời gian để nói về việc này và vấn đề dân tộc cũng như đạo đức quản lý, kinh doanh. Mong là sẽ có nhiều sự ủng hộ trong vấn đề này để vực dậy tinh thần dân tộc Việt Nam. Tóm lại: Áp dụng chính sách đồng nội tệ yếu lúc bây giờ là chưa hợp lý. Việt Nam vừa tham gia WTO năng lực cạnh tranh doanh nghiệp còn yếu. các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sử dụng các nguyên vật liệu từ nước ngoài, trong kinh doanh các doanh nghiệp rất sợ rủi ro về tỉ giá cần có một chính sách tỉ giá ổn định của Nhà nước. Cân đợi một khoảng thời gian nữa kinh kinh tế Việt Nam phát triển ổn định hơn mới sử dụng chính sách đồng nội tệ yếu. 12
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chống lạm phát _ Bài toán kinh tế kiểm tra khả năng tân nội các
43 p | 902 | 473
-
Tỉ giá và lạm phát
2 p | 412 | 131
-
Tài liệu chuyên đề Kinh tế Việt Nam: Mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất, tỷ giá, hàng hóa
15 p | 146 | 31
-
Nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư và năng suất lao động thấp
4 p | 130 | 30
-
Tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam, Lê quang Tường, thanh tra viên cao cấp, Thanh tra Chính phủ
10 p | 262 | 26
-
Bài giảng chương 7: Lạm phát và thất nghiệp
9 p | 277 | 16
-
Mô hình nông lâm kết hợp trong hoạt động kinh tế của các dân tộc khu vực miền núi và giải pháp hỗ trợ đồng bào phát triển nông nghiệp bền vững
8 p | 69 | 13
-
Sổ tay xây dựng và phát triển hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội: Phần 1
321 p | 80 | 8
-
Nghiên cứu tình huống Lạm phát ở Việt Nam.
19 p | 98 | 8
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô 1: Bài 9 - Phạm Xuân Trường
28 p | 106 | 7
-
Kinh tế vĩ mô - Bài 9
28 p | 89 | 6
-
Chính sách mục tiêu lạm phát - Kinh nghiệm của một số nước châu Á và bài học cho Việt Nam
9 p | 91 | 6
-
Phân tích tác động của tỷ giá hối đoái và lạm phát lên giá vàng tại Việt Nam
17 p | 85 | 5
-
Bài giảng Kinh tế học vĩ mô 1 - Chương 6: Lạm phát và thất nghiệp (Năm 2022)
40 p | 15 | 5
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Lý thuyết và thảo luận chính sách: Bài 3 - Đỗ Thiên Anh Tuấn
15 p | 11 | 5
-
Mối quan hệ giữa lạm phát và giá xăng dầu tại thị trường nội địa Việt Nam năm 2018
5 p | 49 | 4
-
Hệ lụy “Vàng hóa” nền kinh tế tại Việt Nam
4 p | 15 | 3
-
Gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN – những thách thức đặt ra cho ngành nông sản Việt Nam
8 p | 14 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn