VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

1.

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG BẢO TRÂN

“CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN

Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP NHÌN TỪ GÓC ĐỘ

CHÍNH SÁCH XÃ HỘI”

(Nghiên cứu trường hợp khu công nghiệp Sóng Thần tỉnh Bình Dương)

N ội học 931 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Ã HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN THỊ KIM XUYẾN

HÀ NỘI - 2020

LỜI CA ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án này là công trình khoa học do tôi thực hiện. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, được tiến hành thực hiện một cách nghiêm túc, các kết quả nghiên cứu của tác giả đi trước được tiếp thu một cách cẩn trọng, trung thực, có trích nguồn dẫn trong luận án. Số liệu trong luận án này là do tác giả thiết kế điều tra, những kết quả, số liệu trong Luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Nghiên cứu sinh NGUYỄN HOÀNG BẢO TRÂN

LỜI CẢ ƠN

Tôi xin cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Khoa Xã hội

học, Phòng Quản lý Đào tạo đã hỗ trợ cho tôi trong quá trình học tập, hoàn

thiện hồ sơ bảo vệ theo đúng chương trình đào tạo.

Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Liên đoàn Lao động Bình Dương,

đơn vị quản lý tôi trong công việc, đã giúp đỡ, tạo điều kiện, động viên tôi cả

về vật chất, tinh thần trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn Cô giáo hướng dẫn khoa học PGS.TS Trần

Thị Kim Xuyến, đã tận tình hướng dẫn và góp ý cho tôi thực hiện đề tài, luận

án nghiên cứu này. Trong quá trình cô hướng dẫn nghiên cứu, tôi không chỉ

học được những kiến thức khoa học, mà còn có cơ hội hiểu biết thêm về đạo

đức nghề nghiệp của người làm nghiên cứu.

Sau cùng, nhưng đặc biệt quan trọng, tôi xin cảm ơn gia đình và những

người thân. Sự động viên, khích lệ và những ủng hộ của họ có ý nghĩa lớn,

giúp tôi nuôi dưỡng niềm say mê và tập trung hoàn thành đề tài, luận án này.

Nghiên cứu sinh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

C ươ 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................... 14

1.1. Nghiên cứu gia đình đơn thân như một loại hình gia đình đặc thù. ....................... 14

1.2. Những nghiên cứu phụ nữ đơn thân, bà mẹ đơn thân ở Việt Nam .............................. 33

1.3. Các văn bản, chính sách liên quan ......................................................................... 37

1.4. Những kết quả nghiên cứu đạt được và khoảng trống nghiên cứu đang đặt ra ..... 41

C ươ 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU ................. 44

2.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................................... 44

2.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 60

CHƯƠNG 3. CHÂN DUNG XÃ HỘI VÀ CUỘC SỐNG CỦA BÀ MẸ CÔNG

NHÂN ĐƠN THÂN ..................................................................................................... 70

3.1. Chân dung xã hội của bà mẹ công nhân đơn thân.................................................. 70

3.2 Đặc điểm công việc của bà mẹ công nhân đơn thân ............................................... 81

3.3. Tiếp cận các dịch vụ xã hội của ba mẹ công nhân đơn thân .................................. 87

3.4 Tham gia hoạt động văn hóa giải trí và các mối quan hệ xã hội ............................. 95

CHƯƠNG 4. CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ

CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÓNG THẦN, TỈNH

BÌNH DƯƠNG .......................................................................................................... 105

4.1. Các yếu tố nhân khẩu xã hội ................................................................................ 105

4.2. Hoàn cảnh gia đình ............................................................................................... 109

4.3. Đặc điểm doanh nghiệp và việc thực hiện chế độ chính sách của doanh nghiệp. 120

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 139

TÀI LIỆUTHAM KHẢO ......................................................................................... 146

PHỤ LỤC .........................................................................................................................

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Công nhân lao động

CNLĐ

Bà mẹ đơn thân BMĐT

Chính sách xã hội CSXH

An sinh xã hội ASXH

Bảo hiểm xã hội BHXH:

Bảo hiểm y tế BHYT:

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Nghiên cứu sinh NCS

Nghị quyết/Trung ương NQ/TW

Chỉ thị/Trung ương CT/TW

Ban Chấp hành trung ương BCH TW

TT-BLĐTBXH Thông tư- Bộ lao động thương binh xã hội

Nghị định- Chính phủ NĐ-CP

Chỉ thị - Tổng Liên đoàn CT-TLĐ

Kế hoạch – Tổng Liên đoàn KH-TLĐ

Đề án - Tổng Liên đoàn ĐA-TLĐ

Công nhân lao động CNLĐ

CNVCLĐ: Công nhân, viên chức, lao động

Công nhân CN

Người lao động NLĐ

Khu công nghiệp KCN

Khu chế xuất KCX

Phỏng vấn sâu PVS

Tổng LĐLĐ VN: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

Cty TNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn

Cty FDI Công ty có vốn nước ngoài

DANH MỤC BIỂU

Biểu 1: Đặc điểm về tuổi của bà mẹ đơn thân .................................................... 71

Biểu 2 Trình độ học vấn của bà mẹ công nhân đơn thân ................................... 73

Biểu 3. Số con của nữ công nhân là mẹ đơn thân .............................................. 75

Biểu 4. Lý do ban đầu lựa chọn làm mẹ đơn thân .............................................. 78

Biểu 5 : Loại hình doanh nghiệp nữ công nhân là mẹ đơn thân đang làm việc 86

Biểu 6: Nhóm tuổi và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế .......................................... 89

Biểu 7: Trình độ học vấn và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế ............................... 91

Biểu 8: Hình thức ký hợp đồng lao động và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế ..... 92

Biểu 9: Bà mẹ đơn thân liên lạc với gia đình ..................................................... 99

Biểu 10: Các hình thức liên lạc về nhà với người thân ................................... 100

Biểu 11: Tần suất về thăm quê nhà của bà mẹ đơn thân .................................. 101

Biểu 12: Nhóm tuổi và loại nhà ở của bà mẹ đơn thân ................................... 110

Biểu 13: nơi làm việc và tình trạng nhà ở của bà mẹ đơn thân ........................ 111

Biểu 14: tình trạng hợp đồng lao động và tình trạng nhà ở của bà mẹ đơn

thân .................................................................................................................... 112

Biểu 15: thu nhập và tình trạng nhà ở của bà mẹ đơn thân ............................. 113

Biểu 16: nhóm tuổi và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân ............................. 115

Biểu 17: học vấn và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân ................................. 116

Biểu 18: trình độ chuyên môn và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân ........... 117

Biểu 19: nguồn gốc gia đình và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân .............. 118

Biểu 20: nơi làm việc và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân .......................... 119

Biểu 21: số năm làm việc và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân ................... 119

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Trình độ chuyên môn của bà mẹ đơn thân ............................................ 74

Bảng 2: Độ tuổi của con cái bà mẹ đơn thân ......................................................... 75

Bảng 3: Nguồn gốc xuất thân của Bà mẹ công nhân đơn thân .......................... 76

Bảng 4:Hợp đồng lao động của nữ công nhân là bà mẹ đơn thân ....................... 82

Bảng 5:Thu nhập hàng tháng của bà mẹ công nhân đơn thân ........................... 83

Bảng 6: Diện tích nhà ở ...................................................................................... 88

Bảng 7: Nhà ở của bà mẹ công nhân đơn thân................................................... 89

Bảng 8: Khó khăn khi tham gia các hoạt động văn hóa của bà mẹ đơn thân .... 96

Bảng 9: Số năm bà mẹ công nhân đơn thân làm việc tại Bình Dương ............. 106

Bảng: 10. Trang thiết bị sinh hoạt trong gia đình ........................................... 107

Bảng 11: Hoàn cảnh gia đình và loại hình nhà ở ............................................. 109

DANH MỤC HỘP

Hộp 1: Ý kiến của cán bộ ban ngành tỉnh Bình Dương về tuổi của bà mẹ đơn thân 72

Hộp 2: Ý kiến của bà mẹ đơn thân về việc đến Bình Dương .............................. 77

Hộp 3: Ý kiến của bà mẹ đơn thân về trang thiết bị gia đình ........................... 108

Hộp 4: Ý kiến gặp khó khăn trong tiếp cận nhà ở ........................................... 123

Hộp 5: Chính sách về khu vui chơi giải trí cho công nhân .............................. 127

Hộp 6: Doanh nghiệp với việc thực hiện chính sách ........................................ 128

Hộp 7: Vấn đề thực thi chính sách ................................................................... 133

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bà mẹ đơn thân là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ khá sớm ở Việt

Nam trong bối cảnh đất nước trải qua các cuộc chiến tranh và rủi ro thiên tai,

người chồng, người cha hy sinh ngoài mặt trận hoặc người đàn ông ở vùng

biển thường phải mưu sinh xa nhà và gặp nạn mỗi khi có thiên tai. Những

thập niên gần đây, nhóm bà mẹ đơn thân trẻ tiếp tục gia tăng trong bối cảnh

Việt Nam đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ tính 5 năm

trở lại đây số lượng các gia đình đơn thân đã tăng mạnh. Theo dữ liệu của Bộ

Văn hóa -Thể thao và Du lịch, năm 2012 cả nước mới có 7,64% gia đình chỉ

có cha (hoặc mẹ) và con được khảo sát thì đến 6 tháng đầu năm 2016 tỉ lệ này

đã tăng lên 11,17%. Điều này cho thấy đã xuất hiện một hình thái gia đình

mới, gắn bó và tồn tại song song cùng những hình thái gia đình truyền thống

và gia đình hiện đại đó là hình thái “gia đình mẹ (cha) đơn thân, nuôi con theo

kiểu “single mom” [9].

Có hai lý do mà nghiên cứu sinh thấy cần nghiên cứu về vấn đề này: một

là, gia đình đơn thân như một hiện tượng xã hội nhưng chưa được quan tâm

thỏa đáng về mặt chính sách, bao hàm cả khía cạnh pháp luật và thực thi pháp

luật trong thực tế; hai là dù đã được giới khoa học xã hội bắt đầu quan tâm,

nhưng sự thiếu vắng cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu về gia

đình trong lĩnh vực chuyên biệt này làm cho những nghiên cứu chưa phản ánh

được một cách đầy đủ và sâu sắc hiện tượng xã hội này. Một trong những hạn

chế đó, chính là việc nhìn nhận chưa bình đẳng loại hình gia đình mới trong

bối cảnh mới này so với các loại gia đình khác trong nền văn hóa xã hội

truyền thống.

Trần Thị Kim Xuyến và Lê Thi cho rằng vài thập niên trước, trong các

nguồn tư liệu nghiên cứu có trước, nổi lên vấn đề xã hội có liên quan tới hệ

1

quả của chiến tranh như: phụ nữ góa chồng, đơn thân, lớn tuổi không có

chồng vì nhiều lý do mà một trong những số đó là tình trạng mất cân bằng

giới tính trong các tập thể lao động. Tiếp theo đó, cũng theo tác giả Lê Thi

những vấn đề về cuộc sống của những người phụ nữ chịu ảnh hưởng từ sự

mất cân bằng giới tính tại các cộng đồng và những nơi làm việc với nhiều loại

hình khác nhau, từ tình trạng nhiều người chồng bỏ vợ con đi kiếm sống ở

những nơi khác nhưng không liên lạc với gia đình cũng như hậu quả mà ly

hôn hay sự chia tách gia đình để lại đối với phụ nữ và con cái của họ cũng đã

được phản ánh trong nhiều nghiên cứu [96][119].

Những năm gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa, do yêu cầu và tính

chất công việc, nhiều nhà máy xí nghiệp chỉ tuyển lao động nữ, dẫn tới tình

trạng tập trung quá nhiều lao động nữ trong một địa bàn làm việc. Cùng với

cường độ và thời gian làm việc căng thẳng, nhiều nữ công nhân khó kiếm

được người bạn đời của mình. Mặt khác, do sống xa gia đình, nhu cầu tình

cảm với người thân không được đáp ứng, cùng với nhu cầu quan hệ tình cảm

nam nữ, khiến cho nhiều nữ công nhân có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.

Trong nhóm những nữ công nhân không chồng mà có con, có không ít người

do quan niệm sống hay vì điều kiện riêng mà không lấy được chồng nhưng

cũng vẫn muốn có con nên đã chấp nhận những cuộc tình không hứa hẹn

v.v… Tất cả những điều đó tạo nên những nhóm phụ nữ đơn thân nuôi con

một mình, mà trong thực tế, người ta thường gọi là “phụ nữ đơn thân nuôi

con” hay “mẹ đơn thân”

Cùng là những người mẹ đơn thân nuôi con một mình, tuy nhiên, xã hội

lại có những góc nhìn khác nhau về các nhóm phụ nữ này. Tác giả Lê Thi chỉ

ra dù đã có cách nhìn cởi mở hơn, nhưng những trường hợp bà mẹ đơn thân là

những người có chồng đã mất hoặc ly dị thường được xã hội chấp nhận là một

gia đình khuyết và có cái nhìn cảm thông với họ. Còn đối với những phụ nữ

2

không chồng mà có con, họ khó lòng nhận được tình cảm tương tự từ những

người xung quanh và cũng không nhận được sự hỗ trợ xã hội, nhìn từ góc độ

thể chế [99].

Bình Dương trong những năm gần đây, nổi lên là một tỉnh tập trung nhiều

khu công nghiệp lớn của cả nước. Tổng số công nhân lao động toàn tỉnh hiện có

khoảng 1.200.000 người (dân số trên 2,2 triệu), trong đó lao động ngoài tỉnh

chiếm hơn 80%, lao động nữ khoảng 57%. Với 29 khu công nghiệp, Bình Dương

có 410.312 lao động công nghiệp tập trung, trong đó lao động nữ là 279.612

người (68%). Như vậy, lao động nữ là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ công

nhân đang làm việc trong các doanh nghiệp ở Bình Dương [126].

Quá trình CNH, HĐH đặc biệt là sự phát triển các khu, cụm công nghiệp

ở Bình Dương đã nhanh chóng hình thành các hộ gia đình có nữ công nhân

đơn thân. Theo khảo sát từ các cấp công đoàn hiện có 2.584 nữ công nhân đơn

thân nuôi con nhỏ, tập trung nhiều ở các Huyện Dĩ An là 774 người; Thuận An

297; Tân Uyên 562; TDM 194; Bến Cát 225...do đây là những địa bàn tập trung

nhiều khu công nghiệp [127].

Ở Bình Dương, theo quan sát từ thực tế, những “làng”1 [195] công nhân và

những gia đình công nhân ngày càng tăng và đang có xu hướng thay đổi nhanh

chóng, vấn đề nữ công nhân trở thành mẹ đơn thân nuôi con một mình cũng trở

nên phổ biến, không còn lẻ tẻ, ngẫu nhiên như trước, đây có thể xem như một

hiện tượng mới trong sự phát triển gia đình công nhân ở các khu công nghiệp.

Những gia đình bà mẹ công nhân đơn thân như là một tổ chức xã hội

mong manh dễ bị tổn thương sau khi ly hôn hoặc sinh con ngoài giá thú hoặc

từ một loạt các hệ lụy của sống chung, sống thử. Những đứa trẻ ở những gia

đình này thường không được đảm bảo về những điều kiện vật chất, thiếu cảm

giác an toàn, ấm áp, không có sự hỗ trợ tinh thần, tâm lý của chúng dễ bị tổn

1 Làng công nhân là từ thường được người dân ở Bình Dương dùng khi nói tới những khu ở của công nhân nhập cư quanh các khu công nghiệp.

3

thương hơn so với những đứa trẻ bình thường tạo nên lỗ hổng lớn trong cách

giáo dục, nuôi dưỡng con cái của họ. Ngày nay, quan niệm về người phụ nữ

đơn thân không còn quá khắt khe như trước, song vẫn còn đó vô vàn những

khó khăn mà họ phải đối mặt.

Phụ nữ đơn thân nuôi con nói chung và bà mẹ công nhân đơn thân nói

riêng như là một hiện tượng xã hội phổ biến trong cuộc sống hiện nay đòi hỏi

xã hội không nên nhìn nhận như là câu chuyện của cá nhân nữa, mà là một

trách nhiệm xã hội đối với nhóm yếu thế (phụ nữ, trẻ em). Việc nghiên cứu

hiện tượng bà mẹ đơn thân là công nhân ở các khu công nghiệp có ý nghĩa rất

to lớn trong việc quan tâm tới số phận của những cá nhân đang nỗ lực đóng

góp cho sự phát triển của xã hội và con cái họ, nhưng vẫn chịu nhiều thiên

kiến, thiệt thòi.

Thứ hai, về mặt cơ sở và phương pháp luận, ngay từ những năm 90 của

thế kỷ trước, các nghiên cứu xã hội học gia đình ở trên thế giới đã thay đổi

quan niệm về gia đình cha mẹ đơn thân, theo đó họ không coi loại hình gia

đình này là một kiểu “gia đình lệch lạc” hay “gia đình có nguy cơ”, mà coi nó

như “một loại gia đình thực sự” bình đẳng với các loại gia đình khác [77].

Điều này đã phản ánh không chỉ trong những quan điểm về lý luận mà cả

trong hàng loạt nghiên cứu thực nghiệm. Trong khi đó, ở Việt Nam, trong

thời gian gần đây, tuy nhiều nghiên cứu đã phản ánh về sự đa dạng hóa các

loại hình gia đình dưới tác động của sự biến đổi xã hội, nhưng loại hình gia

đình phụ nữ đơn thân nuôi con vẫn chưa được đề cập tới nhiều, kể cả tiếp cận

chính sách lẫn tiếp cận phân tích đời sống của họ. Điều này xuất phát từ quan

niệm cho rằng, gia đình là phải bao gồm ít nhất hai đơn vị đối ngẫu với vai trò

vợ chồng (như những gì người ta quan sát thấy và trong giá trị của văn hóa

truyền thống), nên những gia đình nào không giống vậy, thường được gọi là

“gia đình khuyết” hay “gia đình không đầy đủ” [121][15][129]. Đó cũng

chính là lí do vì sao, những vấn đề của gia đình loại này tuy được coi là “vấn

4

đề xã hội” nhưng chỉ được xếp vị trí khá khiêm tốn trong hệ thống xuất bản

phẩm khoa học về gia đình. Đồng thời, kể cả khi được đề cập đến trong

những nghiên cứu thực nghiệm, chúng cũng được coi như một phần phụ được

bổ sung theo nghĩa là một biến thể cho sự đa dạng các loại hình gia đình.

Như đã trình bày, ở Việt Nam, sau khi đất nước được thống nhất, nổi lên

những vấn đề có liên quan tới hệ quả của chiến tranh, chẳng hạn như vấn đề

việc làm cho bộ đội và thanh niên xung phong, tình trạng thanh niên không có

cơ hội lập gia đình tại các tập thể lao động do có sự chênh lệch về giới tính

của lao động và tuy không nhiều, nhưng chúng cũng đã được đề cập tới trong

các xuất bản phẩm nghiên cứu của Lê Thi và Trần Thị kim Xuyến [97][119].

Tuy nhiên, những nghiên cứu ở thời điểm đó, các tác giả mặc dù đã nỗ lực đặt

vấn đề trên cơ sở quyền con người, trên cơ sở quan niệm và thực hành về giá

trị gia đình trong bối cảnh văn hóa phương Đông, nhưng vẫn bị giới hạn ở chỗ

thiếu cơ sở lý luận về xã hội học gia đình, đặc biệt là quan điểm coi những

người “phụ nữ bị tước cơ hội lấy chồng”, hay phụ nữ đơn thân nuôi con một

mình như một “nạn nhân” và cần được sự giúp đỡ. Trong khi đó, trong bối

cảnh đương đại, “những biến đổi của xã hội, liên quan tới kinh tế, văn hóa,

không gian đô thị có tác động trực tiếp tới cuộc sống hàng ngày của các cá

nhân hiện diện trong một nhóm người quan hệ với nhau bởi huyết thống hoặc

hôn nhân. Nhưng ngược lại, gia đình cũng không chỉ đơn thuần chịu sự tác

động của cái cấu trúc xã hội đó mà thay đổi, nó còn tham gia vào một cách

chủ động” (Martine Segalen)[77].

Đề tài nghiên cứu “Cuộc s ng của những bà mẹ đơ t â ở các khu

công nghiệp nhìn từ óc độ chính sách hội xã – nghiên cứu trường hợp

khu công nghiệp sóng thần tỉ Bì Dươ ” sẽ là một phần đóng góp về

mặt lý luận cho nghiên cứu về các loại hình gia đình đặc thù ở Việt Nam,

đồng thời cung cấp thêm cơ sở dữ liệu thực nghiệm nhằm hướng đến gợi mở

hàm ý chính sách cho việc bảo vệ quyền tự do, cho tương lai hạnh phúc và sự

5

phát triển của con người và gia đình Việt Nam.

2. Mục đíc v iệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu và đánh giá về đời sống của những bà mẹ đơn thân ở các

khu công nghiệp Sóng thần Bình Dương nhìn từ góc độ chính sách xã hội. Từ

đó đề xuất một số kiến nghị chính sách nhằm giảm thiểu khó khăn và nâng

cao đời sống cho những bà mẹ đơn thân tại các khu công nghiệp.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung làm rõ các nhiệm vụ sau:

- Hệ thống hóa kết quả nghiên cứu đi trước để hoàn thiện những vấn đề

lý luận và thực tiễn về đời sống của các bà mẹ đơn thân; Đặc biệt rà soát các

văn bản chính sách hiện có liên quan đến đời sống của lao động nữ, lao động

là bà mẹ đơn thân có con nhỏ ở các khu công nghiệp hiện nay.

- Tìm hiểu đặc điểm xã hội của nhóm bà mẹ đơn thân, thực trạng đời

sống về vật chất, tinh thần của bà mẹ đơn thân là công nhân, phân tích những

thuận lợi, khó khăn và chỉ ra các yếu tố chi phối đời sống vật chất, tinh thần

của các bà mẹ đơn thân.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chính sách phù hợp nhằm nâng

cao đời sống của các bà mẹ đơn thân tại các khu công nghiệp.

3. Đ i tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu và câu hỏi, giả thuyết

nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Cuộc sống của những bà mẹ đơn thân là công nhân- nhìn từ các chiều

cạnh chính sách xã hội liên quan đến cuộc sống của các bà mẹ đơn thân đang

sống và làm việc tại khu công nghiệp Sóng thần, tỉnh Bình Dương

3.2. Khách thể nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu là những bà mẹ đơn thân đang nuôi con nhỏ ở khu

công nghiệp Sóng Thần, doanh nghiệp và cán bộ ban ngành thực thi chính

6

sách liên quan đến nữ công nhân là mẹ đơn thân ở tỉnh Bình Dương.

3.3. Phạm vi và địa bàn nghiên cứu

- Thời gian nghiên cứu: Các tài liệu thứ cấp được thu thập và phân tích

từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 12 năm 2018; Khảo sát thu thập số liệu sơ cấp

tại thực địa được tiến hành từ tháng 6/2018 – tháng 12/2018.

- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành khảo sát thực địa

tại địa bàn thị xã Dĩ An Tỉnh Bình Dương.

- Địa bàn nghiên cứu: Khu Công Nghiệp Sóng Thần 1, Sóng Thần 2, khu

công nghiệp Bình Đường Tỉnh Bình Dương

3.4. Câu hỏi nghiên cứu

- Bà mẹ đơn thân có chân dung xã hội như thế nào? Đời sống vật chất và

tinh thần của họ đang diễn ra như thế nào?

- Những yếu tố xã hội nào đang ảnh hưởng đến đời sống vật chất, tinh

thần của bà mẹ đơn thân là công nhân?

- Cần có giải pháp, chính sách hỗ trợ gì để cải thiện và nâng cao chất

lượng đời sống vật chất, tinh thần của bà mẹ đơn thân là công nhân?

3.5. Giả thuyết nghiên cứu

- Công nhân làm mẹ đơn thân có tuổi đời rất trẻ, học vấn trình độ chuyên môn

không cao, hợp đồng lao động không ổn định và mức thu nhập thấp, họ cũng chủ

yếu là những lao động bên ngoài địa phương. Bà mẹ đơn thân gặp nhiều khó khăn

về nhà ở, trang thiết bị sinh hoạt và hưởng thụ đời sống tinh thần.

- Đặc điểm cá nhân và hoàn cảnh gia đình (tuổi đời trẻ, công việc không

ổn định, thu nhập thấp và gia đình người thân ở xa đã ảnh hưởng đến chất

lượng cuộc sống vật chất và tinh thân của bà mẹ đơn thân.

- Thể chế, các chính sách và môi trường sống (Nhà nước, công đoàn và

chính quyền địa phương, doanh nghiệp, cộng đồng) đang còn nhiều khoảng trống

7

và chi phối đối với cuộc sống của nhóm bà mẹ đơn thân ở các khu công nghiệp.

4. P ươ p áp luậ v p ươ p áp iê cứu

4.1. Phương pháp luận

Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin, đường lối chính sách

của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, đường lối, chính sách về bảo đảm đời sống công

nhân tại các khu công nghiệp, đặc biệt là đối với các bà mẹ đơn thân.

Về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác -

Lênin Luận án dựa trên ba nguyên tắc cơ bản trong phương pháp luận nhận thức

của chủ nghĩa Mác – Lê nin, bao gồm:

Thứ nhất, đó là nguyên tắc đảm bảo tính khách quan, nghiên cứu sự vật, hiện

tượng như bản thân chúng đang tồn tại, không phán đoán chủ quan mà các kết

luận phải dựa trên những chứng cứ khoa học tin cậy.

Thứ hai, đó là nguyên tắc nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự phát triển.

Mỗi sự vật, hiện tượng trong xã hội và tự nhiên đều có quá trình nảy sinh, vận

động và phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ hiện tượng đến

bản chất. Nguyên tắc này đòi hỏi phải nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong một hệ

thống, đặt sự vật, hiện tượng trong môi trường với những mối liên hệ của nó.

Thứ ba, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thì tồn tại xã

hội quyết định ý thức xã hội; thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý; thực tiễn kiểm

chứng nhận thức.

Phương pháp luận thực chứng trong xã hội học, với các số liệu và bằng

chứng khảo sát thực nghiệm thu được sẽ tìm hiểu và luận giải thấu đáo các

vấn đề liên quan đến đời sống của bà mẹ đơn thân ở các khu công nghiệp.

Ngoài ra đề tài luận án cũng sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên

cứu chủ yếu và có tính phổ biến như: Phương pháp tiếp cận lịch sử, phương

pháp phân tích kết hợp giải thích và tổng hợp, khái quát hóa… nhằm làm rõ

8

đối tượng nghiên cứu và đạt được mục đích nghiên cứu.

Các quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với công nhân cũng được

quan tâm nhằm luận giải về các chiều cạnh chính sách xã hội liên quan đến

nhóm xã hội này ở nước ta hiện nay.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Để có được các dữ liệu khoa học và thực tiễn, góp phần trả lời cho câu hỏi

nghiên cứu và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã được đặt ra, Luận án đã sử

dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu: phân tích tài liệu thứ cấp, khảo sát

định tính và định lượng, hệ thống các phương pháp, kỹ thuật thu thập thông tin

này sẽ cho phép NCS tổng hợp các nguồn tài liệu sách, tạp chí, số liệu thống kê,

và các thông tin sơ cấp từ các phỏng vấn, bảng hỏi tại thực địa.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả đã tiến hành thu thập và

nghiên cứu, phân tích thông tin từ các tài liệu có sẵn bao gồm: các văn bản

của Đảng, Nhà nước, của tỉnh Bình Dương, các chính sách về công nhân, nữ

công nhân; các tài liệu viết về một số lý thuyết xã hội học, phương pháp

nghiên cứu xã hội học; các báo cáo và số liệu thống kê về tình hình công

nhân, công tác công đoàn phạm vi toàn quốc và của tỉnh Bình Dương; các

công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học của các tác giả trong và ngoài

nước về vấn đề có liên quan... Tác giả đã sử dụng phương pháp tổng hợp, so

sánh để xử lý, phân tích các thông tin có được từ nguồn tài liệu này.

- Phương pháp phỏng vấn bảng hỏi: được sử dụng để phỏng vấn các đối

tượng là bà mẹ đơn thân nhằm thu thập các thông tin định lượng về: (1) đặc điểm

xã hội của bà mẹ đơn thân; thực trạng cuộc sống vật chất, tinh thần của bà mẹ đơn

thân; (2) một số nhân tố ảnh hưởng cuộc sống và giải pháp cần thiết góp phần nâng

cao chất lượng cuộc sống của bà mẹ đơn thân. Các kết quả khảo sát định lượng

được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS Version 20.0 dành cho các nghiên cứu

khoa học xã hội để đảm bảo được tính khách quan, khoa học.

- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp phỏng vấn sâu được sử

9

dụng đối với bà mẹ đơn thân là công nhân để thu thập những thông tin định

tính giải thích sâu về cuộc sống của họ, những thông tin này sẽ bổ sung cho

các thông tin định lượng. Bên cạnh đó, nghiên cứu đã phỏng vấn thêm cán bộ

công đoàn cấp tỉnh và công đoàn cơ sở, lãnh đạo một số sở, ngành, doanh

nghiệp nhằm làm rõ hơn về các chính sách đang thực hiện trong việc hỗ trợ

đối với cuộc sống của bà mẹ đơn thân ở các doanh nghiệp.

- Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu nghiên cứu

Luận án đã tiến hành thu thập thông tin sơ cấp tại các doanh nghiệp, việc

chọn danh sách bà mẹ đơn thân được thực hiện ngẫu nhiên bằng phương pháp

bốc thăm; Chúng tôi đã mã hóa và gắn tên mỗi bà mẹ đơn thân một mã số và

chọn ra bằng cách bốc/nhặt ra các mã số đã được gắn ký hiệu trong tổng thể

mẫu.

Danh sách các doanh nghiệp được khảo sát cụ thể như sau: Công ty

Yazaki, công ty Asama, công ty Chutex, công ty O’leer, Công ty Duy Hưng,

công ty Liên Phát,

Số mẫu bà mẹ đơn thân ở các công ty thuộc khu công nghiệp Sóng Thần

là 774 người.

Mẫu tham gia phỏng vấn bảng hỏi là bà mẹ đơn thân đang làm việc tại

các doanh nghiệp.Tổng số mẫu tham gia trả lời phỏng vấn bằng bảng hỏi là

150 người.

Mẫu tham gia phỏng vấn sâu: 40 người, trong đó có 10 cán bộ sở, ngành,

cán bộ công đoàn, lãnh đạo doanh nghiệp và 30 công nhân là bà mẹ đơn thân

nhằm tìm hiểu sâu về các khía cạnh liên quan đến thực tế đời sống của các bà

mẹ đơn thân tại Khu Công Nghiệp Sóng Thần Tỉnh Bình Dương.

Khảo sát bảng hỏi và phỏng vấn sâu đã gặp một số khó khăn đó là một

số bà mẹ đơn thân nằm trong danh sách mẫu đã từ chối tham gia trả lời phỏng

vấn về cuộc sống của họ, mặc dù chúng tôi đã thăm lại nhiều lần để thuyết

phục họ đồng ý. Do vậy, nhóm nghiên cứu liên tục phải bổ sung mẫu phỏng

10

vấn bà mẹ đơn thân là công nhân.

Khung phân tích

Các chính sách xã hội; môi trường,

điều kiệ lao động trong doanh nghiệp

công nhân, bà mẹ đơ t â

Các chính sách đối với bà mẹ đơn thân:

Đời sống vật chất

Đời sống tinh thần

Đặc điểm xã hội: - Tuổi, Học vấn, chuyên môn - Nơi làm việc, Thu nhập - Hoàn cảnh gia đinh, Số con - Số năm công tác, hợp đồng lao động. ….

- Chính sách về việc làm , nhà ở…. -Chính sách về tiếp cận dịch vụ xã hội….

Đặc điểm kinh tế, xã hội, môi trường sống nơi bà mẹ đơn thân ở

5. Đó óp mới v ý ĩa t ực tiễn của luận án

5.1. Đó óp mới

Luận án góp phần nhận diện chân dung, đặc điểm xã hội của bà mẹ đơn

thân là công nhân đang làm việc ở khu công nghiệp tỉnh Bình Dương trong

bối cảnh hiện nay; thấy được thân phận cũng như sự khác biệt của những bà

mẹ đơn thân công nhân so với các nhóm bà mẹ có người chồng cùng chung

sống; những thuận lợi, khó khăn, thách thức mà họ đang phải đối diện trong

cuộc sống hiện nay.

Luận án phân tích các yếu tố chi phối cuộc sống vật chất, tinh thần của

bà mẹ đơn thân, tính chất của lao động di cư và nghề nghiệp đặc thù; đối

chiếu với hệ thống chính sách hiện hành cũng như vai trò tham gia của các

chủ thể xã hội khác nhau trong hỗ trợ nhóm bà mẹ đơn thân. Đây là cơ sở

quan trọng giúp các cơ quan hữu quan và doanh nghiệp hướng đến xây dựng

11

mô hình chính sách, quan tâm hỗ trợ kịp thời nhằm đảm bảo quyền của người

lao động là bà mẹ đơn thân và phát triển bền vững doanh nghiệp và địa

phương.

6. Ý ĩa lý luận v ý ĩa t ực tiễn

6.1 Ý nghĩa lý luận

Luận án sẽ góp phần bổ sung về nhận thức cho những quan điểm lý luận

nghiên cứu về gia đình, bà mẹ đơn thân, là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích

cho công tác giảng dạy chuyên ngành xã hội học gia đình, xã hội học giới, xã

hội học lao động ở Việt Nam hiện nay.

Ngoài ra, việc vận dụng các quan điểm lý luận trong luận án cũng góp

phần tìm hiểu khả năng áp dụng các quan điểm lý luận, lý thuyết xã hội học

vào thực tiễn nghiên cứu bà mẹ đơn thân là công nhân. Qua đó có những đóng

góp tri thức vào việc hoàn thiện khái niệm về nhóm bà mẹ đơn thân, quan

điểm lý luận về hướng nghiên cứu bà mẹ đơn thân ở nước ta và trên thế giới.

6.2 Ý nghĩa thực tiễn

Đây là nghiên cứu thực nghiệm xã hội học đầu tiên về bà mẹ đơn thân là

công nhân. Khảo sát sẽ cho thấy chân dung xã hội, cuộc sống thực tế và những

thiếu thốn về vật chất và tinh thần trong cuộc sống của bà mẹ đơn thân đang làm

việc tại các KCN và cư trú trên một số địa bàn thuộc tỉnh Bình Dương. Kết quả

nghiên cứu cũng chỉ ra yếu tố chi phối cuộc sống của những bà mẹ đơn thân là

công nhân. Điều quan trọng nhất là bằng chứng từ kết quả nghiên cứu có ý nghĩa

thực tiễn, là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích trong việc hoàn thiện chính sách,

huy động nguồn lực và sự tham gia của các chủ thể xã hội, góp phần cải thiện

hơn nữa đời sống của người lao động tại các khu công nghiệp mà ở đây là cuộc

sống của các bà mẹ đơn thân tại các khu công nghiệp trong cả nước nói chung và

ở Bình Dương nói riêng. Ngoài ra, những kiến nghị về phương hướng và giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách xã hội đối với bà mẹ đơn thân tại các

khu công nghiệp sẽ được vận dụng vào thực tiễn nhằm hoàn thiện công tác chăm

12

lo cho các nhóm yếu thế ở Bình Dương hiện nay.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và đề xuất giải pháp, nội dung của Luận án

bao gồm 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài

Chương 3: Chân dung xã hội và cuộc sống của bà mẹ công nhân đơn thân

Chương 4. Các yếu tố chi phối cuộc sống của những bà mẹ công nhân

13

đơn thân ở khu công nghiệp Sóng thần, tỉnh Bình Dương

C ươ 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Khi tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về chủ đề nữ đơn thân nuôi con một

mình nói chung và mẹ đơn thân là công nhân nói riêng, tác giả luận án gặp

không ít trở ngại do sự hạn chế của các công trình nghiên cứu khoa học

chuyên sâu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, vì vấn đề mà tác giả đã chọn lại là sự

giao thoa giữa hai lĩnh vực: thứ nhất là nghiên cứu gia đình, trong đó gia đình

có chủ hộ là phụ nữ đơn thân như một loại hình đặc thù của sự đa dạng các

dạng thức gia đình trong bối cảnh đương đại. Thứ hai, nghiên cứu về nữ công

nhân tại các khu công nghiệp trong bối cảnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa.

Chính vì vậy, trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu này, hai nội dung

lớn sẽ được đề cập tới là những nghiên cứu về gia đình có đề cập tới gia đình

có phụ nữ đơn thân ở nước ngoài và ở Việt Nam, những vấn đề liên quan tới

đời sống của những người công nhân, đặc biệt là công nhân nữ tại các khu

công nghiệp.

1.1. Nghiên cứu gia đình đơn thân như một loại hình gia đình đặc thù

Từ các nguồn tài liệu sẵn có trên thế giới mà NCS tiếp cận được có thể

nhận thấy, các gia đình có mẹ đơn thân thường xuất hiện nhiều hơn, đồng thời

những gia đình cha mẹ đơn thân do người đối ngẫu đã mất ngày càng giảm đi

kể cả theo thực tế và theo thống kê, có nghĩa là những gia đình chủ hộ đơn

thân do ly hôn hoặc không kết hôn ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Ở khía

cạnh này các tác giả phương Tây cho rằng đô thị hóa, công nghiệp hóa

phương tây đã mang đến một sự biến đổi đầy kịch tính về cấu trúc và hình

thái gia đình. Gia đình hạt nhân có đầy đủ bố mẹ và con cái ngày càng giảm,

thay vào đó tỉ lệ gia đình có bố hoặc mẹ đơn thân nuôi con do ly dị, sống thử

ngày càng tăng (Klett-Davies) [154] .

14

Bà mẹ đơn thân là ai?

Các tác giả (Gucciardi, Celasun, Stewart. Wendy Wang và cộng sự)

cho rằng mẹ đơn thân là những người có con nhưng chưa bao giờ kết hôn hay

đã ly thân, ly dị và hiện không sống với người bạn đời được thừa nhận về mặt

pháp lý [147].

Các nguồn tư liệu trên thế giới cho thấy, trong những năm 2000, mối

liên hệ giữa gia đình có mẹ đơn thân và tình cảnh sống bấp bênh được quan

sát thấy ở những bà mẹ trẻ. Mẹ đơn thân thường có trình độ học vấn thấp hơn

(so với nhóm mẹ sống có chồng). Họ thường sinh con sớm trong bối cảnh

người cha đứa trẻ thường là công nhân hoặc viên chức (Martine

Segalen)[77].

Giới trẻ Mỹ đều có xu hướng muốn sau này họ sẽ kết hôn

(Cherlin)[145]. Tuy nhiên, theo số liệu năm 2013 của Hoa Kỳ thì có đến 40%

trẻ em sinh ra trong gia đình không hôn nhân [156]. Theo như Shattuck và

Kreider cho biết thì có đến 60% phụ nữ sinh con nhưng không kết hôn trong

độ tuổi từ 20-24 [179]. Trong khi đó ở nước Anh gia đình truyền thống không

còn chiếm ưu thế và được thay thế bằng cuộc sống hiện đại hóa, không theo

tiêu chuẩn, việc sống chung hoặc chấp nhận làm mẹ đơn thân đang dần phổ

biến trong xã hội Anh và những người này là nhóm trẻ trong xã hội

(Berrington, Perelli-Harris & Trevena)[138]. Kết quả nghiên cứu định tính

của Jason Deparle và cộng sự cũng cho thấy, các bà mẹ đơn thân trong nghiên

cứu đều có độ tuổi từ 25 – 40 tuổi và có con từ 1-6 tuổi, 2/3 số trẻ em ở Mỹ

được sinh ra bởi những bà mẹ dưới 30 tuổi [178].

Theo số liệu của Cục Điều tra Dân số Mỹ, vào năm 1960 tỷ lệ ông bố,

bà mẹ đơn thân chỉ chiếm khoảng 9% trong tổng số hộ gia đình của nước này,

đến năm 2000 là 20%, và đến năm 2007 tỷ lệ này là 27%, tuy nhiên đến năm

2011 có khoảng 12 triệu hộ gia đình đơn thân và trong số này có đến 80% là

bà mẹ đơn thân. Điều đặc biệt ở đây là có khoảng 45% bà mẹ làm mẹ đơn

15

thân chưa bao giờ kết hôn. Kết quả này cũng trùng với nghiên cứu năm 2005

của Amato, Paul [140]. Tại Australia có 31% đứa trẻ khi sinh ra ở trong gia

đình bà mẹ chưa bao giờ kết hôn vào năm 2001, có 14% bố mẹ đơn thân vào

năm 2003, và đến năm 2011 tỷ lệ bố mẹ đơn thân ở quốc gia này chiếm

15,9% tổng số hộ gia đình của nước này (Văn phòng Thống kê Australia,

2011). Khi nhắc đến bố mẹ đơn thân không thể không nhắc đến Thụy Điển,

một đất nước phát triển, trình độ dân trí cao, quyền phụ nữ được tôn trọng, và

cũng được coi là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bà mẹ đơn thân cao. Quốc gia này

có những chính sách về phúc lợi xã hội cho người mẹ đơn thân và những đứa

trẻ sinh sống trong gia đình bà mẹ đơn thân [140].

Xét về trình độ học vấn và nghề nghiệp của bà mẹ đơn thân từ các kết

quả nghiên cứu chỉ ra rằng, phần lớn bà mẹ đơn thân đều có tình trạng kinh tế

- xã hội thấp và sinh con đầu ở độ tuổi còn trẻ (Shattuck và Kreider) [161].

Với những phụ nữ đơn thân sinh con sớm sẽ cản trở việc học hành và dẫn đến

hạn chế năng lực kiếm tiền của họ (Budig và England) [143], kết quả này

cũng giống với số liệu của văn phòng thống kê Mỹ năm 1997 (U.S. Census

Bureau) [196].

Ở một nghiên cứu khác của Hyunjoon Park phát hiện rằng, không có sự

khác biệt nhiều về trình độ giáo dục của bà mẹ đơn thân cũng như những phụ

nữ không phải bà mẹ đơn thân nhưng lại khác nhau nhiều về ham muốn học

hỏi giữa hai nhóm bà mẹ này [180].

Nhiều kết quả nghiên cứu cho biết, với những bà mẹ sinh con ngoài

hôn nhân có xu hướng bị thiệt thòi hơn những phụ nữ đã từng lập gia đình.

Nghiên cứu của Lichter, D., Graefe, D., & Brown, J. (2003), Terry-Humen,

E., Manlove, J., & Moore, K. A (2001), Driscoll, A. K., Hearn, G. K., Evans,

V. J., Moore, K. A., Sugland, B. W., & Call, V. (1999) về làm mẹ đơn thân

trong xã hội Mỹ chỉ ra rằng các bà mẹ sinh con khi chưa kết hôn bao giờ cũng

có thu nhập thấp hơn, trình độ văn hóa thấp hơn và phải phụ thuộc vào phụ

16

cấp xã hội nhiều hơn so với những phụ nữ có chồng. Có thể nói rằng, trong xã

hội Việt Nam cũng không khác biệt so với xã hội Mỹ, nhiều bà mẹ đơn thân

việc làm không ổn định, thậm chí thất nghiệp và không có thu nhập. Vì vậy,

sự giúp đỡ của người thân và gia đình về vật chất, tinh thần là phương thức hỗ

trợ mẹ đơn thân chăm sóc tốt cho con của họ.

Nếu nhìn theo quan điểm thị trường lao động, tỷ suất hoạt động lao

động của phụ nữ đơn thân cao hơn so với tỷ suất hoạt động của phụ nữ có

chồng. Tức là mẹ đơn thân để có thể trang trải chi phí cho gia đình, thường

phải đi làm nhiều hơn.

Một đặc điểm nữa của nhóm các gia đình có mẹ đơn thân là sự tích hợp

các yếu tố dễ bị tổn thương như: tuổi người mẹ có con sớm thường còn trẻ;

không được hưởng đời sống lứa đôi; thiếu sự giúp đỡ của người cha đứa trẻ;

trình độ nghề nghiệp thấp; thất nghiệp. Do vậy, các nước phương Tây có các

hình thức trợ cấp cho những phụ nữ này. Thông thường những người mẹ đơn

thân do việc làm bấp bênh, hay thu nhập thấp, hay không có thời gian trông con

nên họ thường nhận trợ cấp theo chế độ thu nhập thấp (Martine Segalen) [77].

Vì sao nghèo thường gắn với những gia đình nữ đơn thân? Wang Shijun2[167], đã chỉ ra những nguyên nhân là do sự chuyển đổi và cơ cấu kinh

tế của Trung quốc đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của những bà mẹ đơn

thân. Tỉ lệ phụ nữ có việc làm thấp hơn nam giới do chính phủ Trung Quốc

gặp khó khăn trong vấn đề thực hiện chính sách ưu đãi về việc làm cho phụ

nữ. Pháp luật chưa bảo vệ được công ăn việc làm đầy đủ cho phụ nữ trước khi

kết hôn và sau khi ly hôn có được việc làm liên tục. Đó cũng là lý do có

khoảng cách về thu nhập giữa nam và nữ đơn thân.

Khi nghiên cứu về gia đình có mẹ đơn thân trong tiến trình ly hôn và

sau ly hôn, Claude Martin [149] chỉ ra rằng, người nuôi con có được hỗ trợ

2(王世军)单亲家庭贫困问题,2002 Vấn đề nghèo trong các gia đình đơn thân”

17

hay không còn tùy thuộc vào cách thức mà mối liên hệ với người chồng cũ

còn duy trình hay đứt quãng. Trong số những người trong mẫu nghiên cứu

của ông chỉ có 75% cặp thuận tình ly hôn được nhận tiền trợ cấp. Còn trong

trường hợp chấm dứt mối liên hệ hoàn toàn, thì có 58% người không được

nhận. Ly hôn áp đặt cho hai vợ chồng, nhất là người chịu trách nhiệm nuôi

dưỡng con cái những lựa chọn về chỗ ở hay về công việc tạo thu nhập, mà

không phải ai cũng có được sự lựa chọn tối ưu. Đó chính là lý do gia đình mẹ

đơn thân thường gắn với nhóm nghèo hơn.

Mặc dù tình hình chung như vậy, nhưng các tác giả cho rằng, trong số

những người mẹ đơn thân vẫn có sự phân tầng nhất định. Những người thuộc

tầng lớp trên khá phù hợp với hình thức gia đình mới này, còn những tầng lớp

nghèo phải trả giá cho sự tan vỡ hôn nhân của họ. Chẳng hạn, những phụ nữ có

bằng cấp và thu nhập ổn định không nhất thiết rơi vào hoàn cảnh như vậy. Họ có

thể vẫn đi làm tạo thu nhập rồi thuê người trông con. Martine Segalen [77].

Những con đường để trở thành mẹ đơn thân

Ly hôn là một trong những cách nhanh nhất để biến một gia đình đầy

đủ thành một gia đình đơn thân. Như đã trình bày, sau ly hôn, nam giới có xu

hướng tái hôn nhiều hơn so với phụ nữ. Trong bối cảnh của các nước phương

Tây, các tác giả cho rằng, ly hôn dẫn tới nhiều sự đứt đoạn khác ngoài sự cắt

đứt mối liên hệ vợ chồng, chẳng hạn như sự gián đoạn về lĩnh vực xã hội, lĩnh

vực tình cảm, kinh tế v.v… Đường đời của cá nhân như vậy tạo ra sự đứt

quãng, nhiều khi dẫn tới hệ quả không mong muốn, vì không phải ai cũng có

thể “làm lại cuộc đời mình” bằng việc tái hôn. Cụ thể, từ cuộc khảo sát qua

điện thoại với 321 người đã ly hôn, Claude Martin đã nêu ra một số trường

hợp như:

1. Nhóm những người mẹ đơn thân và không muốn tái hôn. Nhóm này dù

mong muốn có được vị thế độc lập nhưng có cảm giác khó thực hiện được.

18

2. Nhóm những người mẹ rơi vào hoàn cảnh bấp bênh và đơn độc.

3. Nhóm những người chừng 50 tuổi ly hôn với tình huống con cái họ đã

rời khỏi nhà, thường không có ý định tái hôn.

4. Nhóm những người trẻ tuổi có bằng cấp thấp, tương đối đơn độc nhưng

được bố mẹ hỗ trợ sau khi chấm dứt hôn nhân.

5. Nhóm những người trẻ tuổi có bằng cấp thường có xu hướng tái hôn.

Họ vẫn giữ mối liên hệ với vợ hay chồng cũ.

Như vậy, sau khi ly hôn, sự độc lập về tài chính sẽ giúp cho những

người cha hay mẹ đơn thân không băn khoăn khi sống độc thân. Họ muốn giữ

vị thế độc thân hơn là dự kiến tái hôn. Tuy nhiên, với những người có tuổi và

có trình độ chuyên môn thấp, kinh tế bấp bênh sẽ khiến họ bị phụ thuộc nhiều

vào gia đình và xã hội hơn. Những phân tích vừa nêu thuộc về tiếp cận chủ

thể. Trong nghiên cứu với quan điểm tổng thể luận, các nhà nghiên cứu vẫn

chỉ ra một chiều kích khác. Đó là quan điểm cho rằng, những sự thay đổi của

hôn nhân, gia đình có nguồn gốc từ sự thay đổi cấu trúc xã hội.

Tập hợp những nghiên cứu xã hội học gia đình của các quốc gia

phương Tây, Martin Segalen đã thực hiện một phân tích lịch đại về diễn biến

của các kiểu hôn nhân. Theo ông, trong những năm 1960, xã hội học thường

quan tâm tới tính quyết định mang tính văn hóa xã hội và địa lý của tỷ lệ kết

hôn, rằng kết hôn do tình yêu tương đương với các cuộc hôn nhân bình đẳng.

Giai đoạn 1950-1970 việc kết hôn đòi hỏi cả tình yêu và hôn nhân hợp pháp

như là sự bổ sung cho nhau. Sự lôi cuốn cá nhân vẫn là biện minh duy nhất

cho việc kết hôn. Nhưng đến những năm 70, xã hội học lại tập trung vào việc

phân tích những nguyên nhân, những đặc trưng và hậu quả của việc mất lòng

tin vào hôn nhân. Ông cho rằng, các tác giả đã sai lầm khi giải thích sự giảm

sút số lượng đám cưới vào năm 1973 bằng biểu hiện của “sự trì hoãn hôn

nhân”. Ông nhận định, cần phải xem xét lại cách giải thích này, khi nhiều tác

giả cho rằng các cặp đôi chỉ lùi lại dịp kết hôn của họ, sau khi “sống thử”.

19

Thật ra ở đây không phải là vấn đề thời điểm, mà là một cách ứng xử mới đã

được đặt vào đúng vị trí của nó. Nhận thấy sự gia tăng bất ngờ của hiện tượng

ly hôn cũng vào thời điểm đó, ông cho rằng, đồng thời với việc mất niềm tin

vào hôn nhân, người ta cũng ly hôn nhiều hơn. Hiện tượng này diễn ra trong

bối cảnh phong trào nữ quyền nổi lên và quyền bình đẳng về giới được công

nhận trong xã hội phương Tây.

Các nhà xã hội học chứng kiến hiện tượng này đã đặt ra câu hỏi phải

chăng tình yêu là sự lựa chọn của cái riêng tư, mà nhà nước không nên can

thiệp vào? Họ lý giải rằng sự lựa chọn tạm thời sẽ thay thế cho khái niệm lứa

đôi với sự cam kết lâu dài. Việc kết hôn dần dần xuất hiện như thủ tục đơn

giản, sống chung không hôn thú (kết hôn thử) là một thực hành hợp lý [148].

Có lẽ vì vậy, những năm đầu thế kỷ XXI, các nhà xã hội học đã không

còn quan tâm tới hình thái của cuộc sống lứa đôi, mà quan tâm nhiều hơn tới

những gì diễn ra trong cuộc sống của họ. Chính vì vậy, xu hướng nghiên cứu

dưới tiếp cận tâm lý xã hội và xã hội học vi mô lại nổi lên trong thời gian này.

Chẳng hạn, Frangxoa De Singly và Jean-Claude Kaufmann đã chủ trì một

công trình nghiên cứu nổi tiếng: vai trò của sự hình thành cá tính và bản sắc

cá nhân trong cuộc sống lứa đôi (Martine Segalen)[150].

Từ thời gian này trở đi, theo cách nói của Martine Segalen, thuật ngữ

sống chung không hôn thú (sống thử) đã bị xóa khỏi vốn từ vựng của các nhà

xã hội học. Các tác giả mô tả sự tranh luận trong lý luận và thực tiễn khá chi

tiết trong phần tổng quan nghiên cứu của mình và cuối cùng đưa ra một khái

niệm được nhiều người chấp nhận nhất, đó là từ “bạn đời”.

Đồng thời, nếu như ly hôn và tái hôn giống như một trò chơi đu quay, nơi người ta có thể bước lên, rời khỏi nó và cũng có thể quay trở lại3 (Cherlin, 2009).

Tuy nhiên, có một vấn đề, nếu như ở châu Âu, vào khoảng những năm 1980,

20

người ta coi hôn nhân là một giai đoạn nằm trong chu trình đời sống gia đình, 3 Trong nghiên cứu của mình, Cherlin nhắc đến những nghiên cứu về hệ quả ly hôn trong bối cảnh nước Mỹ, trong đó họ nhấn mạnh về cái giá phải trả đối với trẻ em, và những cảnh báo đối với những ai có ý định kết hôn. (Cherlin, 2009; trích theo Martine Segalen, 2013).

bao gồm kết hôn, ly hôn rồi tái hôn4, tức là ly hôn đã trở thành thường xuyên và

coi như hiện tượng xã hội được chấp nhận, thì cái mà người ta cũng quan sát

được là tỷ lệ những người tái hôn ngày càng ít đi. Như vậy, ly hôn không phải là

sẽ xếp những người làm cha mẹ đơn thân vào nhóm những người chuẩn bị tái

hôn, mà có khả năng cao đẩy họ tới hoàn cảnh làm cha mẹ đơn thân.

Tình hình này cũng đã diễn ra tại châu Á. Phân tích sự thay đổi Xã hội và

Gia đình ở Đài Loan, Arland Thornton và Hui Shenglin [141] đã chỉ ra tác động

của sự biến đổi của xã hội ảnh hưởng tới gia đình đương đại. Họ đã chỉ ra lý do

quan trọng của sự gia tăng tình trạng mẹ đơn thân là sự thay đổi về giá trị cũng

như thực hành hôn nhân. Xã hội Đài Loan đã chứng kiến sự thay đổi, từ những

cuộc hôn nhân do sắp đặt đã dần thay thế bằng nhưng cuộc hôn nhân do tình

yêu. Đồng thời, trong qua trình tiến tới hôn nhân, người ta cũng quan sát được

những thay đổi trong cách hẹn hò và hiện tượng quan hệ tình dục trước hôn

nhân. Sự thay đổi trong quan niệm về giá trị đứa con, về số con, giới tính đứa

con hay thậm chí tầm quan trọng của tính vẹn toàn của gia đình v.v….cũng là

những nội dung phản ánh trong những nghiên cứu của các tác giả này. Do đó,

việc nghiên cứu mối quan hệ tình cảm, giao tiếp, khả năng giải quyết những mâu

thuẫn nẩy sinh trong quan hệ vợ chồng, sự chung thủy về tình dục... là những

vấn đề gợi mở cho luận án tiếp tục nghiên cứu và so sánh.

Thực tế cũng đã chứng minh, khi một trong hai người đối ngẫu mất đi

thì người còn lại đương nhiên rơi vào cảnh sống đơn thân dù họ có muốn hay

không. Tuy nhiên, từ những phân tích thống kê, các nhà khoa học đã chỉ ra

rằng, nhóm này chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong số những gia đình có

cha mẹ đơn thân và tỷ lệ này ngày cảng giảm (Algava) [142]. Trong phân tích

thống kê về các loại hình gia đình ở Pháp nêu rõ: vào năm 1962 trong số

4Martine Segalen, (2013) đưa ra con số thống kê: Trong những năm 1990 cứ 20 cuộc kết hôn thì có một người ly hôn (1/20). Tỷ lệ này vào năm 1975 là 1/6 và vào năm 1980 là 1/3.

21

700.000 gia đình cha mẹ đơn thân, trong đó có tới 50% gia đình góa vợ hoặc

chồng, còn vào năm 1990 con số này là 1.175.000 hộ, năm 1999 là 1.500.000

hộ, và cuối Thế Kỷ XX chỉ có 11% người góa bụa trong số những người làm

cha mẹ đơn thân.

Bên cạnh việc đưa ra những con số về sự giảm dần của các hộ gia đình

có chủ hộ là người góa, các tác giả phương Tây cũng đưa ra những dẫn chứng

về sự tăng dần của các cặp đôi không tái hôn sau khi ly hôn. Họ cố gắng

chứng minh rằng, tình trạng độc thân của những người sau ly hôn không phải

là giai đoạn “chờ đợi” cho cuộc tái hôn, mà là một sự lựa chọn mang tính

quyết định cho cuộc sống gia đình của mình.

Như vậy, con đường dẫn tới cuộc sống độc thân không chỉ là do ly hôn,

không chỉ do góa bụa mà do quan niệm và thực hành cuộc sống lứa đôi. Với sự

“lựa chọn tạm thời” được thay thế cho khái niệm lứa đôi có sự cam kết lâu dài,

thì việc chia tách các cặp đôi dường như trở nên dễ dàng hơn. Cùng với sự hỗ trợ

của các chính sách xã hội, với sự độc lập về kinh tế, việc phụ nữ nuôi con một

mình dù có khó khăn hơn nhưng cũng vì thế mà ngày càng tăng lên.

Hệ quả của sự tan vỡ gia đình

Nhiều nghiên cứu trên thế giới không chỉ dừng lại ở chỗ mô tả tình

hình đời sống của những gia đình có mẹ đơn thân, mà còn chỉ ra những hệ

quả của những hoàn cảnh đó. Họ phân tích những tác động khác nhau của tính

dễ bị tổn thương về kinh tế của nam giới và phụ nữ, khi gặp những thay đổi

về đặc điểm gia đình như khi kết hôn hoặc khi ly hôn. Martine Segalen [77]

khi nghiên cứu về gia đình và các quan hệ của gia đình ở châu Âu đã đặt gia

đình và sự biến đổi gia đình trong các quan hệ với dòng họ, thân tộc, xã hội

và đề cao vị thế thiết chế xã hội của gia đình, dòng họ và nhấn mạnh vai trò

giáo dục, xã hội hoá gia đình. Ông nêu rõ những sự đứt đoạn khi có chia tách

gia đình, dẫn tới những sự gián đoạn trong mạng lưới hỗ trợ từ phía dòng họ

đối với một người trong cặp vợ chồng ly tán. Trước khi ly hôn, mỗi khi có

22

vấn đề khó khăn, kể cả về kinh tế lẫn những vấn đề phi kinh tế, các bên đối

ngẫu có thể nhờ cậy phần nào ở họ hàng từ hai phía, nhưng sau khi ly hôn, sự

hỗ trợ này giảm hẳn đi một nửa.

Cuộc sống của những cặp đôi sau ly hôn cũng thường được các tác giả

mô tả bằng tính bấp bênh của thu nhập. Nhiều phụ nữ sau khi ly hôn tham gia

vào việc tạo thu nhập để trang trải cho cuộc sống của mình và những đứa con.

Điều đó giúp họ duy trì sự độc lập. Tuy nhiên, vì phải thực hiện vai trò kép,

vừa giành thời gian cho việc kiếm tiền, vừa cần thời gian để chăm sóc cho con

cái và làm việc nhà, cuộc sống của họ trở nên bấp bênh hơn. Mặc dù vậy,

nhiều nghiên cứu cho rằng, nếu so với những người đàn ông sau khi ly hôn,

dường như ly hôn đẩy phụ nữ vào lĩnh vực nghề nghiệp và tham gia cộng

đồng tốt hơn so với nam giới. Bertaux (1977) lập luận, vào giai đoạn trưởng

thành, ít nhất đối với người đàn ông, một lối sống ổn định được xây dựng trên

ba trụ cột là nhà ở, việc làm (bao hàm cả thu nhập và sự hòa nhập xã hội) và

gia đình. Khi một trong ba thành tố này biến mất, những người đàn ông này

thấy mình bị “tổn thương”, thậm chí còn hơn cả phụ nữ, họ thấy mình bị mất

cân bằng và thường bị rơi vào nghiện ngập rượu bia, thất nghiệp và cuối cùng

dẫn tới mất chỗ ở. Nghiên cứu của tác giả chỉ ra tỷ lệ khá cao, những người

đàn ông sau ly hôn gia nhập hàng ngũ những người vô gia cư.

Trong bối cảnh văn hóa phương Đông đối với gia đình chia tách, tình

hình càng trở nên nghiêm trọng hơn, khi sự hỗ trợ từ mạng lưới họ hàng thân

tộc luôn được đề cao. Các tác giả châu Á cũng đã chỉ ra tình trạng bị giới hạn

sự giúp đỡ khi các cặp đôi chia tay. Ít nhất, họ mất hẳn một nửa sự hỗ trợ của

mạng lưới gia đình, dòng họ.

5(李洪涛) 单亲母亲现状研究“Tình hình hiện tại của bà mẹ độc thân”.

23

Nghiên cứu về vấn đề khó khăn ở những gia đình bà mẹ đơn thân và nguyên nhân nghèo khổ của họ Li Hongtao5 [166] đã dựa trên tiếp cận về vai

trò giới để chỉ ra hoàn cảnh của các bà mẹ đơn thân khi họ phải đối mặt với

các vấn đề kinh tế, gia đình, tinh thần, con cái mà không có người hỗ trợ.

Về hệ quả của ly hôn có liên quan tới trẻ em, Xu Anqi(徐安琪) và Ye

Wenzhen (叶文振) [163] cho rằng, việc ly hôn sẽ ảnh hưởng đến trí tuệ và sự

phát triển tâm sinh lý của trẻ em. Nghiên cứu của họ chỉ ra những sự khác biệt

ở trẻ em từ 7-13 tuổi của các gia đình cha mẹ đơn thân do ly dị so với những

gia đình đầy đủ. Những ảnh hưởng từ hoàn cảnh sống mới tới sự phát triển trí

tuệ của trẻ thể hiện rõ qua các hành vi của trẻ trong hoạt động xã hội như trầm

cảm, kết quả học tập và khả năng giao tiếp xã hội thấp hơn so với những trẻ

cùng trang lứa sống trong môi trường gia đình hoàn chỉnh.

Tuy nhiên, những biến cố về hoàn cảnh gia đình không chỉ dẫn tới

những hệ quả tiêu cực, ngược lại hoàn cảnh đó cũng có thể dẫn tới kết quả

tích cực khác. Chẳng hạn, Sun Li Ping (孙立萍6 [175] đã đưa ra những bằng

chứng để xác nhận rằng, chính những trẻ em trong các gia đình mẹ đơn thân

lại được giáo dục tốt hơn, rằng chúng có tính tự lập rất cao.

Trong khi một số tác giả nhấn mạnh hệ quả kinh tế của việc chia tách

gia đình dẫn tới sự nghèo khó của gia đình mẹ đơn thân, một số khác lại nhìn

nhận vấn đề của những người mẹ đơn thân dưới tiếp cận nhu cầu. Tang Weijun7[168] là một trong số đó. Tác giả cho rằng, một người mẹ đơn thân

cần 4 vấn đề: một là nhu cầu giúp đỡ về kinh tế, thứ hai cần có sự nhìn nhận

khoan dung, thứ ba cần loại bỏ tính tiêu cực, thứ tư là trẻ em ở những gia đình

này cần phải được điều chỉnh.

Một vài nghiên cứu ở Nam Hàn - đất nước chịu ảnh hưởng của hệ tư

6Sun Li Ping (孙立萍) 当前我国离婚式单亲家庭与其子女社会化 7(唐文军) 单亲母亲的处境和需要“Tình hình và nhu cầu của các bà mẹ đơn thân”

24

tưởng Khổng giáo, việc một người phụ nữ nước này mang thai và sinh con

ngoài giá thú sẽ bị áp lực bởi bạn bè, gia đình và xã hội, cho nên phần lớn

những phụ nữ này sẽ lựa chọn phương án phá thai hoặc sau khi sinh con ra sẽ

cho con đi làm con nuôi. Khoảng 90% trẻ em được cho làm con nuôi đều xuất

thân từ con của những phụ nữ không chồng nhưng có con, thậm chí có rất

nhiều phụ nữ không đăng ký cho con của họ vì sợ bị phân biệt đối xử. Tuy

nhiên, do sự thay đổi xã hội Nam Hàn dẫn đến sự gia tăng các gia đình bà mẹ

đơn thân và rất nhiều gia đình này có cuộc sống khó khăn cho nước này đã

ban hành một số chính sách hỗ trợ cho các gia đình đơn thân [179].

Có thể nói, đây là những nghiên cứu hết sức giá trị giúp cho nghiên cứu

sinh có cái nhìn sâu sắc và cụ thể để định hướng cho luận án cuộc sống của

những bà mẹ công nhân đơn thân họ cũng là những đối tượng được coi là có

thu nhập thấp trong xã hội Việt Nam hiện nay. Những vấn đề liên quan tới

tình cảnh nghèo khó và sự bấp bênh của cuộc sống, khiến cho nhiều nghiên

cứu chuyển sang xu hướng phân tích các chính sách xã hội đối với những bậc

cha mẹ đơn thân, đặc biệt khi người đó là phụ nữ.

Đời s ng vật chất và tinh thần của bà mẹ đơ t â

Theo thống kê của Bộ Lao Động (Labor Department), năm 2011, có 2,3

triệu phụ nữ có con dưới 18 tuổi thất nghiệp, chiếm tỉ lệ hơn 50% trong tổng

số 1,200.000 bà mẹ thất nghiệp tại đất nước này và thu nhập của bà mẹ đơn

thân dưới $25,000/năm ($24,487). Trong khi đó, một gia đình có đủ vợ chồng

thu nhập trung bình là $77,749/ năm. Những bà mẹ đơn thân chỉ nhận được sự

hỗ trợ từ chính phủ khoảng $300/tháng. Tỷ lệ nghèo trong gia đình bà mẹ đơn

thân mẹ chiếm là 40,7% so với 8,8% đối với gia đình có đủ vợ chồng. Đa số

các trẻ em nghèo chiếm 24% và có 3/4 gia đình vô gia cư là những gia đình

người mẹ đơn thân [8]

Hiện nay chính phủ Mỹ có chương trình trợ giúp phiếu thực phẩm dành

cho 2/3 bà mẹ độc thân, có 41% trẻ em của các bà mẹ đơn thân, nhận được

25

phiếu nhận thực phẩm. Mặc dù 2/5 các bà mẹ đơn thân là người nghèo, nhưng

chỉ có 1/10 nhận được trợ cấp từ Chương trình Hỗ trợ tạm thời cho các gia

đình nghèo (Temporary Assistance for Needy Families- TANF). Mục đích

đầu tiên của TANF là “cung cấp hỗ trợ cho các gia đình nghèo để trẻ em có

thể được chăm sóc tại nhà riêng của họ hoặc những người thân. Tuy nhiên,

các khoản trợ cấp hỗ trợ không đủ để đáp ứng mục tiêu này”.

Theo kết quả nghiên cứu của Tinsley, những người mẹ đơn thân ở quốc

gia này phần lớn có cuộc sống khó khăn và trình độ học vấn thấp hơn dân số

chung của cả Vương quốc Anh (Tinsley)[162], nhưng tỷ lệ bà mẹ đơn thân có

việc làm (toàn thời gian và bán thời gian) tăng từ 43% (1996) lên đến 60%

(2013) (Klett-Davies) [156].

Trước tình trạng đó, Vương quốc Anh đưa ra chính sách tập trung vào

chăm sóc trẻ em, cụ thể là cung cấp cho trẻ em một khoản tiền để các bà mẹ

có thể nuôi dưỡng con của họ như chi trả cho giáo dục, nhà ở, quần áo và chi

phí cho lương thực của trẻ. Với những đứa trẻ đi học sẽ được cung cấp học

phí đến 16 hoặc 20 tuổi phụ thuộc vào bậc học trung học hay đại học (The

Guardian 2013).

Khi tiến hành tranh cử, các thành viên của các Đảng đều đưa ra một

trong những nhiệm vụ mà họ cần phải giải quyết chính là “Giải quyết nạn đói

nghèo trong các gia đình cha mẹ đơn thân hiện đang nuôi con thông qua hình

thức trả lương khi họ làm việc. Bằng cách như vậy sẽ là cơ hội nâng cao phúc

lợi xã hội và hòa nhập xã hội cho cha mẹ đơn thân” (Klett-Davies)[154].

Ngoài ra nước này còn có chính sách hỗ trợ cho bà mẹ đơn thân như: Chương

trình tiếp cận việc làm, thỏa thuận mới cho cha mẹ đơn thân, thuế làm việc hỗ

trợ cho những gia đình cha mẹ đơn thân làm việc dưới 16 giờ/ tuần và có thu

nhập ở dưới một ngưỡng nhất định sẽ được hưởng khoản trợ cấp thuế và một

số chính sách khác hỗ trợ cho nhóm này… Mặc dù, các hộ gia đình cha mẹ

đơn thân được chính phủ quan tâm và có các chính sách hỗ trợ cho họ cũng

26

như con cái của họ nhưng những bà mẹ đơn thân có nguy cơ gặp nhiều bất lợi

cao hơn gấp 5 lần so với những gia đình có đầy đủ cả bố lẫn mẹ (Điều tra tài

nguyên và gia đình 2014).

Quyết định trở thành mẹ đơn thân là một trong những quyết định

không dễ, những người phụ nữ này phải gánh chịu nhiều thiệt thòi và bất lợi

hơn so với những phụ nữ hiện có chồng (Jennifer và cộng sự)[153], thậm chí

các bà mẹ đơn thân có vấn đề về sức khỏe tâm thần hơn so với những bà mẹ

hiện đang sống cùng chồng hoặc bạn trai (Waldfogel, Craigie, & Brooks-

Gunn) và bị bất lợi về kinh tế hơn bà mẹ khác (Kiernan & Mensah). Một số

kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, không chỉ người mẹ đơn thân chịu thiệt

thòi hơn những bà mẹ có chồng hay bạn trai bên cạnh mà ngay bản thân đứa

trẻ trong sống trong gia đình bà mẹ đơn thân có nguồn tài chính và trình độ

học vấn thấp hơn những đứa trẻ có cả cha và mẹ. Tình trạng hôn nhân của

cha mẹ trẻ có thể có tác động đến chất lượng sống của trẻ (U.S. Census

Bureau, 1997). Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng, những bà

mẹ đơn thân họ đưa ra được quyết định chủ động khi mang thai và sinh con

cho nên họ không bị xung đột với người chồng, người cha của đứa trẻ và chủ

động về kinh tế nên ít gặp khó khăn trong cuộc sống cũng như chăm sóc đứa

trẻ (Hertz; Jadva et al; Murray & Golombok)[151][158].

Nhiều kết quả nghiên cứu cho biết, với những bà mẹ sinh con ngoài

hôn nhân có xu hướng bị thiệt thòi hơn những phụ nữ đã từng lập gia đình.

Nghiên cứu của Lichter, D., Graefe, D., & Brown, J. (2003), Terry-Humen,

E., Manlove, J., & Moore, K. A (2001), Driscoll, A. K., Hearn, G. K., Evans,

V. J., Moore, K. A., Sugland, B. W., & Call, V. (1999) về làm mẹ đơn thân

trong xã hội Mỹ chỉ ra rằng các bà mẹ sinh con khi chưa kết hôn bao giờ cũng

có thu nhập thấp hơn, trình độ văn hóa thấp hơn và phải phụ thuộc vào phụ

cấp xã hội nhiều hơn so với những phụ nữ có chồng. Có thể nói rằng, trong xã

hội Việt Nam cũng không khác biệt so với xã hội Mỹ, có nhiều bà mẹ đơn

27

thân không có việc làm, thu nhập ổn định, thậm chí thất nghiệp. Trong xã hội

hiện đại, đặc biệt là ở khu vực đô thị quan niệm về bà mẹ đơn thân đã cởi mở

hơn rất nhiều so với trước năm 2000, mọi người chia sẻ và có cách nhìn thiện

cảm hơn với bà mẹ đơn thân nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại một số định kiến

và đánh giá tiêu cực về bà mẹ đơn thân. Đây cũng là một trong những nguyên

nhân gây ảnh hưởng đến sức khỏe đối với nhóm đối tượng này. Những tác

động này mô hình chung gây nên sự bất ổn về mặt tâm lý, gặp khó khăn, hạn

chế trong quá trình mang thai, sinh con, nuôi con và tham gia các hoạt động

xã hội (Nguyễn Thị Thu Vân) [133].

Khi trở thành bà mẹ đơn thân thì họ gặp phải rất nhiều khó khăn, từ khi

đứa trẻ xa cha, tương lai của người mẹ và cách sắp xếp cuộc sống cho tới lúc

đứa trẻ trưởng thành có việc làm và lập gia đình (Nidhi Kotwal và Bharti

Prabhakar)[159]. Những khó khăn của trẻ em dường như phần lớn liên quan

đến các khía cạnh của việc ly hôn hơn là làm cha mẹ đơn thân. Một yếu tố đã

được tìm thấy có liên quan đến các vấn đề điều chỉnh của trẻ em là xung đột

giữa cha mẹ (Amato) [139][140]. Những khó khăn về tài chính thường gặp do

các gia đình độc thân sau ly hôn cũng cho thấy có liên quan đến các vấn đề

tâm lý của trẻ em. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã chứng minh mối liên hệ

giữa trầm cảm của cha mẹ, chất lượng bố mẹ kém và kết cục tiêu cực của con

ở các gia đình đơn thân sau ly hôn

Bà mẹ đơn thân nhìn từ góc độ thể chế

Khi quan tâm tới các gia đình có mẹ đơn thân gắn với các chính sách xã

hội, các nhà nghiên cứu cũng thường thực hiện nghiên cứu so sánh giữa các

quốc gia khác nhau. Chẳng hạn, Klett-Davies Martina so sánh về cuộc sống

của những người mẹ sống đơn thân cùng con cái khi sống dựa vào tiền trợ cấp

của Chính phủ của nước Anh và Đức. Hai vấn đề mà tác giả quan tâm là

những vấn đề của gia đình có mẹ đơn thân làm mẹ đơn thân khi nhận tiền trợ

28

cấp của chính phủ.

Tại Đan Mạch, một trong những quốc gia có chính sách xã hội đối với

gia đình và các cá nhân của cũng nổi lên những vấn đề của nhóm hộ gia đình

đặc thù này. Dưới tiếp cận quyền, các tác giả Polakow Valarie, Halskov

Therese và Jorrgense Per schultz cũng phân tích về cuộc sống và vấn đề đói

nghèo của người mẹ đơn thân ở Đan Mạch trong so sánh với các bối cảnh xã

hội khác. Họ mô tả những khó khăn của những người mẹ đơn thân khi phải cố

gắng vừa làm việc vừa nuôi con, vay mượn tiền để trang trải cuộc sống và đưa

ra những quyết định. Họ nhấn mạnh, với các quy định hiện hành mang tính

phổ quát cho các gia đình nói chung, quyền lợi của ngững người mẹ đơn thân

và con cái của họ- những người được coi là những người ngoài lề là một thứ

quyền lợi bị giảm bớt và họ phải đấu tranh rất nhiều để khôi phục quyền lợi

của chính mình. Các tác giả cho rằng, giáo dục chính là con đường có thể

giúp các bà mẹ đơn thân thoát khỏi tình trạng nghèo khó, tăng thu nhập, bên

cạnh đó sự hỗ trợ của mạng lưới xã hội cũng hết sức cần thiết.

Không dừng lại ở việc phân tích những vấn đề về chính sách, nhiều

nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp hỗ trợ xã hội đối với các hộ gia đình và

những phụ nữ đơn thân.

Đặc thù văn hóa - xã hội ở châu Á, cũng không tránh hỏi sự tác động

của biến đổi kinh tế, xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa. Những vấn đề của

gia đình mẹ đơn thân cũng đang ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà

xã hội học. Sau khi phân tích bối cảnh của những gia đình có cha mẹ đơn thân

và sự hạn chế của các chính sách xã hội ở thời điểm khảo sát, các học giả

châu Á cũng đã nhấn mạnh đến sự hỗ trợ từ chính phủ, các tổ chức, cộng

đồng và mạng lưới xã hội. Họ cũng cho rằng sự khác biệt về giới trong vấn đề

nghề nghiệp và trong cuộc sống phụ nữ đơn thân gặp khó khăn nhiều hơn nên

cần sự hỗ trợ nhiều hơn từ các chính sách an sinh xã hội. Đây là những nhận

29

định rất có giá trị, là những giải pháp hết sức thiết thực để hỗ trợ cho những

công nhân khi làm mẹ đơn thân được tạo điều kiện tham gia học tập (Xu Anqi (2006)8 Guo Li (2002)9) [163] [164].

Trong xã hội chịu nhiều ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo như Hàn

Quốc, hiện tượng bà mẹ đơn thân trong xã hội Hàn Quốc hiện đại thường

trong thời gian đầu bị coi là trái với quan niệm gia đình truyền thống đã tồn

tại lâu đời trong lịch sử. Tuy nhiên gần đây, số lượng những người mẹ đơn

thân có học vấn cao ngày càng nhiều hơn, và cùng với sự ủng hộ của các nhà

hoạt động xã hội, nhóm người mẹ đơn thân bắt đầu lên tiếng về quyền lợi của

mình. Chính vì vậy, vấn đề các chính sách xã hội hỗ trợ đối với họ cũng đã

được đặt ra.

Chính sách xã hội đối với người mẹ đơn thân tại Hàn Quốc được thực

hiện căn cứ theo Luật hỗ trợ gia đình khuyết một thành viên nói chung, trong

đó có gia đình người mẹ đơn thân và con cái của họ. Luật này được ban hành

năm 2007 với mục đích hỗ trợ gia đình khuyết một thành viên, duy trì sự ổn

định trong cuộc sống cũng như thúc đẩy tính tự lập, hướng tới gia đình khỏe

mạnh, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội. Cụ thể hóa Luật này,

chính sách xã hội của Hàn Quốc đối với người mẹ đơn thân có hai nội dung

chính sau: 1) Đầu tư và hỗ trợ nơi ở tạm thời (thành lập, vận hành các khu nhà

tạm trú) cho các gia đình khuyết một thành viên, trong đó có gia đình người

mẹ đơn thân và con cái của họ, với mục đích giúp họ giải quyết những khó

khăn về nơi cư trú, tạo điều kiện để tự lập; 2) Hỗ trợ cụ thể về vật chất như

chi phí nuôi con, miễn giảm học phí cho con cái các gia đình đối tượng thụ

hưởng chính sách (Kang Eun-hwa, 2006, trích theo Nguyễn Thị Thu Vân)

[133]. Về chi phí hỗ trợ của chính phủ, trên thực tế thì chưa có một chính sách

8(徐安琪) 家庭:和谐社会建设中的功能变迁和政策支持(Gia đình: những thay đổi và chính sách hỗ trợ xây dựng một xã hội hài hòa).(2006) 9郭砾)女户主单亲家庭的社会支持问题 “Gia đình cha mẹ đơn thân phụ nữ làm chủ các vấn đề hỗ trợ xã hội”(2002)

30

cụ thể nào dành riêng cho người mẹ đơn thân, mà chỉ có các quy định thuộc

phạm vi các dự án hỗ trợ gia đình khuyết một thành viên, hoặc các gia đình

thu nhập thấp nói chung.

Sự hỗ trợ từ chính sách an sinh xã hội của Hàn Quốc cũng đã tính tới

các khu nhà tạm trú cho những cô gái phải nuôi con một mình mà gặp khó

khăn (Lee Mi-jeong [76]. Các khu nhà tạm trú đều có nhiều chương trình

phong phú, đa dạng, đặc biệt là chương trình chăm sóc sức khỏe, chương trình

hỗ trợ người mẹ học nghề, chuẩn bị cho quá trình tự lập. Ở các khu nhà này,

những người mẹ đơn thân đều có cùng hoàn cảnh nên đã giúp họ bớt dần mặc

cảm, giải tỏa bớt những âu lo - một tâm lý không tốt cho sức khỏe người mẹ

trước và sau khi sinh con.

Như vậy, các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân trên thế giới đã chỉ

ra tiến trình phát triển và sự công nhận về xã hội đối với loại hình gia đình có

cha mẹ đơn thân. Với việc liệt kê những nguyên nhân hay nguồn gốc dẫn các

kiểu loại gia đình đơn thân, điểm chung nhất từ những phát hiện của các tác

giả trên thế giới là các hộ gia đình có cha mẹ đơn thân thường gắn với tình

trạng nghèo khó, thiếu hỗ trợ về kinh tế và xã hội, vì vậy hộ cần những chính

sách xã hội phù hợp với từng bối cảnh cụ thể, đặc biệt là phụ nữ. Tuy nhiên,

điều mà nghiên cứu sinh nhận thấy cần lưu ý là, bối cảnh làm nảy sinh tình

trạng gia đình đơn thân của nữ chủ hộ ở phương Tây chủ yếu là do sự thay đổi

những giá trị sống của các nhóm chủ thể này nhiều hơn là do bối cảnh kinh tế

xã hội như ở các quốc gia Á châu. Trong khi bối cảnh kinh tế xã hội ở các

nước phương Tây dần dần làm thay đổi các giá trị, dẫn tới những quan niệm

và thực hành cuộc sống của họ thay đổi theo xu hướng đảm bảo sự tự do cá

nhân, thì bối cảnh của các nước phương đông, đặc biệt là châu Á, sự ảnh

hưởng này có vẻ khắc nghiệt hơn, nó tác động trực tiếp tới hành vi trong cuộc

sống của họ. Buộc họ phải lựa chọn theo hướng duy lý hơn. Những nghiên

cứu của các học giả châu Á cho thấy một bối cảnh tương đồng với Việt Nam,

31

là những quốc gia đang cố phát triển nhanh từ cái nền kinh tế thấp kém hơn

(so với phương Tây). Những điều này làm cho nghiên cứu sinh đặt ra câu hỏi:

phải chăng, dù cho những giá trị về gia đình của họ có được duy trì hay

không, sự tự do của họ có được đề cao hay không, và những điều đó có giúp

họ giảm bớt gánh nặng về áp lực đạo đức của xã hội khi họ bị buộc phải sống

cuộc sống độc thân nuôi con.

Wang Shijun10[167], đã chỉ ra những nguyên nhân là do sự chuyển đổi

và cơ cấu kinh tế của Trung quốc đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của

những bà mẹ đơn thân. Tỉ lệ phụ nữ có việc làm thấp hơn nam giới do chính

phủ Trung Quốc gặp khó khăn trong vấn đề thực hiện chính sách ưu đãi về

việc làm cho phụ nữ. Pháp luật chưa bảo vệ được công ăn việc làm đầy đủ

cho phụ nữ trước khi kết hôn và sau khi ly hôn có được việc làm liên tục.

Theo kết quả nghiên cứu của Tinsley [162] chỉ ra rằng, những người

mẹ đơn thân ở quốc gia này phần lớn có cuộc sống khó khăn và trình độ học

vấn thấp hơn dân số chung của cả Vương quốc Anh, còn Klett-Davies tỷ lệ bà

mẹ đơn thân có việc làm toàn thời gian và bán thời gian tăng từ 43% (1996)

lên đến 60% [156].

Amato [139][140] cho thấy những khó khăn về tài chính thường gặp do

các gia đình độc thân sau ly hôn cũng cho thấy có liên quan đến các vấn đề

tâm lý của trẻ em.

Dưới tiếp cận quyền, các tác giả Polakow Valarie, Halskov Therese và Jorrgense Per schultz 11 cũng phân tích về cuộc sống và vấn đề đói nghèo của

người mẹ đơn thân ở Đan Mạch trong so sánh với các bối cảnh xã hội khác.

Họ mô tả những khó khăn của những người mẹ đơn thân khi phải cố gắng vừa

làm việc vừa nuôi con, vay mượn tiền để trang trải cuộc sống và đưa ra những

10(王世军)单亲家庭贫困问题,2002 Vấn đề nghèo trong các gia đình đơn thân” 11trong nghiên cứu Diminished rights, Danish lone mother families in internationnal contexts (Quyền lợi bị giảm bớt, Các gia đình người mẹ đơn thân Đan Mạch trong bối cảnh quốc tế) (2001)

32

quyết định. Họ nhấn mạnh, với các quy định hiện hành mang tính phổ quát

cho các gia đình nói chung, thì quyền lợi của ngững người mẹ đơn thân và

con cái của họ - những người được coi là những người ngoài lề (do gia đình

họ không phài là gia đình đầy đủ và không có tư cách pháp lý) là một thứ

quyền lợi bị giảm bớt và họ phải đấu tranh rất nhiều để khôi phục quyền lợi

của chính mình. Các tác giả cho rằng giáo dục chính là con đường có thể giúp

các bà mẹ đơn thân thoái khỏi tình trạng nghèo khó, tăng thu nhập bên cạnh

đó sự hỗ trợ của mạng lưới xã hội cũng hết sức cần thiết [160].

1.2. N ữ iê cứu p ụ ữ đơ t â , b mẹ đơ t â ở Việt Nam

Hôn nhân là một việc hệ trọng của đời người, nó là cầu nối giữa 2 con

người không cùng chung huyết thống hòa làm một, nó là sợi dây ràng buộc

giữa người đàn ông và người phụ nữ, gắn kết họ trở thành một gia đình. Tuy

nhiên, trong xã hội hiện đại vấn đề ly hôn đang xảy ra ngày càng nhiều ở Việt

Nam. Ngày càng nhiều phụ nữ chủ động đứng đơn ly hôn và chấp nhận làm

mẹ đơn thân sau khi chia tay chồng. Theo Kết quả Điều tra Gia đình Việt

Nam năm 2006 cho biết, hiện tượng ly hôn đang tăng lên chủ yếu là do áp lực

về kinh tế, khác biệt về lối sống và sự không chung thuỷ của hai giới. Kết quả

điều tra cho thấy tỷ lệ ly hôn là 2,6% với lứa tuổi từ 18-60, thành thị là 3,3%,

nông thôn là 2,4% và tỷ lệ phụ nữ xin ly hôn cao gấp 2 lần so với nam giới.

Hầu hết trẻ em sau khi cha mẹ ly hôn đều sống với mẹ (Bộ Văn hóa Thể thao

và Du lịch, GSO và UNICEP, Viện Gia đình và Giới)[9]

Trong các nhóm phụ nữ yếu thế ở Việt Nam hiện nay thì nhóm phụ nữ

đơn thân là nhóm ít nhận được sự quan tâm, hỗ trợ từ phía cộng đồng, xã hội.

Trong các nghiên cứu khoa học xã hội thì vấn đề phụ nữ đơn thân nói chung

và phụ nữ đơn thân nuôi con cũng ít được bàn tới. Vấn đề này chỉ được đề cập

đan xen trong các công trình nghiên cứu về phụ nữ nông thôn, các nghiên cứu

về ly hôn và các công trình nghiên cứu về nhóm phụ nữ nghèo. Trong quá

trình tìm kiếm tài liệu, tác giả nhận thấy hiện nay những nghiên cứu riêng về

33

phụ nữ đơn thân ở Việt Nam chỉ có một vài nghiên cứu, ngoài ra chủ yếu là

các bài viết trên các tạp chí và các bài báo.

Tác giả Võ Thị Cẩm Ly [65] trong luận án “Phụ nữ làm mẹ đơn thân ở

nông thôn Bắc Trung Bộ: Chân dung xã hội và thực tiễn sinh kế” đã nhận

diện những đặc điểm xã hội của phụ nữ làm mẹ đơn thân cũng như quá trình

tạo dựng, phát triển sinh kế của nhóm phụ nữ này trong bối cảnh xã hội

chuyển đổi

Tác giả Chu Thị Thu Trang [110] trong luận văn của mình cũng đã đề

cập đến phụ nữ đơn thân ở vùng trung du miền núi phía bắc, đề tài có cái nhìn

tổng hợp, khách quan và toàn diện về những vấn đề khó khăn, những nhu cầu

của những phụ nữ đơn thân nuôi con; mở ra hướng tiếp cận mới trong hoạt

động trợ giúp cho phụ nữ đơn thân nuôi con dưới góc độ của những người

làm công tác xã hội.

Hoàn cảnh gia đình và điều kiện kinh tế của các hộ đơn thân ở khu vực

nông thôn phần lớn đều rơi vào tình trạng khó khăn, nghèo đói. Thực trạng

này không phải do người phụ nữ đơn thân họ không có năng lực để phát triển

kinh tế mà thực tế là họ chưa biết cách phát huy năng lực của bản thân hoặc

chưa có cơ hội, điều kiện để phát huy năng lực của mình. Trong cuốn sách

“Phụ nữ nông thôn và việc phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp” của

tác giả Lê Thi, NXB khoa học xã hội, năm 1998 đã đánh giá các tiềm năng

phát triển ngành nghề phi nông nghiệp của phụ nữ nông thôn, chỉ ra những

thuận lợi, khó khăn của họ khi kinh doanh. Từ đó đưa ra các giải pháp,

khuyến nghị giúp người phụ nữ nông thôn phát huy vai trò của mình trong

việc phát triển kinh tế gia đình, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề ở nông thôn.

Lý giải tình hình phụ nữ đơn thân ngày càng tăng, các tác giả khẳng định

rằng do phụ nữ ngày càng tự chủ được về kinh tế và công việc. Quan niệm của

xã hội cũng đã thoáng hơn trước, phụ nữ không nhất thiết phải kết hôn mới sinh

con. Nhiều phụ nữ do lỡ làng trong chuyện tình cảm, hay có một cú sốc về tâm

34

lý không muốn lấy chồng nhưng vẫn muốn có con đã chọn giải pháp này. Nhưng

cũng không ít phụ nữ chọn giải pháp mẹ đơn thân bởi họ có thể bảo đảm một

cuộc sống đầy đủ cho con mà không cần nửa kia. Ðó cũng là một cách để khẳng

định vai trò tự chủ, bình đẳng của phụ nữ trong xã hội hiện đại.

Những nghiên cứu này phản ánh các nhóm phụ nữ đơn thân nuôi con

tại các vùng nông thôn khác nhau ở miền bắc Việt Nam, nhưng không đề cập

sâu tới nhóm công nhân tại các khu công nghiệp cả ở miền bắc lẫn miền Nam,

tất cả các bài viết, các tài liệu trên đây đã cung cấp rất nhiều tư liệu tham khảo

và phương pháp tiếp cận về vấn đề trợ giúp cho đối tượng là phụ nữ đơn thân

ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có một công trình hay một đề tài

nào đề cập đầy đủ, toàn diện và có hệ thống dưới góc nhìn từ chính sách xã

hội cho đối tượng công nhân nữ đơn thân nuôi con, nơi diễn ra công nghiệp

hóa và hội nhập kinh tế toàn cầu mạnh mẽ.

Một số nghiên cứu về hoàn cảnh sống của nữ công nhân tại các khu

công nghiệp ở Việt Nam

Trong nguồn tư liệu hiện có ở Việt Nam, nghiên cứu sinh chưa tìm thấy

nghiên cứu nào chọn nhóm nữ công nhân đơn thân nuôi con tại các khu công

nghiệp làm khách thể nghiên cứu. Mà chủ yếu những nghiên cứu tập trung về

các khía cạnh của lao động nữ di cư đến các khu công nghiệp như việc làm,

thu nhập, hay những khía cạnh về đời sống hôn nhân, gia đình của công nhân

tại các khu công nghiệp ... nhưng với những nghiên cứu đó đã giúp tác giả

hiểu được nhiều về điều kiện lao động cũng như hoàn cảnh sống của công

Về giải pháp và kiến nghị

nhân ở các khu công nghiệp trong đó có nữ công nhân đơn thân.

Trong các nghiên cứu, các giải pháp thường được các tác giả đi trước

nêu ra là: Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về việc chăm lo đời sống vật

chất và tinh thần cho công nhân lao động trong các khu, cụm công nghiệp;

Đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở trong các

35

doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn; Nâng cao tiền lương và thu nhập

cho công nhân lao động; Chăm lo phát triển nhà ở cho công nhân lao động;

Phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, xây dựng các thiết chế văn hoá phục vụ công

nhân lao động trong các khu, cụm công nghiệp.

Các biện pháp để khắc phục cũng được gợi ý như: các cấp, các ngành

cần xây dựng chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng nông thôn nhằm

hạn chế di dân; Nhà nước cần có biện pháp kiềm chế lạm phát để đời sống

công nhân được ổn định; cần có cơ chế hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng

khu cư xá, các thiết chế văn hoá phục vụ nhu cần văn hoá tinh thần cho công

nhân ngay tại doanh nghiệp; cần thường xuyên tổ chức tuyên truyền nâng cao

nhận thức cho người lao động biết về các loại tệ nạn xã hội để họ phòng tránh

(Hà Thị Dụng) [36].

Mặc dù có đề cập tới tình hình lao động và cuộc sống của nữ công nhân

với những trải nghiệm khó khăn của họ, những nghiên cứu của các tác giả nêu

trên ít nhiều cũng có chỉ ra được lối sống đặc trưng của công nhân thời kỳ

CNH trong đó có lối sống chung, sống thử của công nhân.

Như vậy, có thể thấy trong những nghiên cứu về gia đình đã thực hiện ở

Việt Nam thường tập trung vào những vấn đề của gia đình đầy đủ. Những

hình thái gia đình mới, chẳng hạn như gia đình sau li hôn, gia đình mẹ đơn

thân... vẫn còn ít được đề cập tới, những nghiên cứu chuyên sâu như của tác

giả Lê Thi, đề cập ở trên được coi là trường hợp điển hình của loại nghiên cứu

này và đã được tham khảo, áp dụng trong quá trình thu thập thông tin của đề

tài luận án. Những nghiên cứu về công nhân cũng chưa quan tâm tới nhóm mẹ

đơn thân là công nhân. Từ những phân tích nguồn tư liệu sẵn có đã nêu, tác

giả luận án nhận ra rằng, hiện tượng mẹ đơn thân nuôi con một mình như một

hiện tượng xã hội mới nổi lên trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa

và thực tiễn cho thấy hiện tượng này đang ngày càng gia tăng. Nó không chỉ

nói lên những khó khăn của những người mẹ đơn thân đó mà còn ảnh hưởng

36

tới thế hệ tương lai, khi các em nhỏ trong các gia đình đó chưa được xã hội

quan tâm thỏa đáng. Khi thực tiễn xã hội thay đổi, các chính sách cũng cần

được thay đổi.

1.3. Các vă bả , chính sách liên quan

Cho đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính

sách quan tâm tới công nhân lao động về việc nâng cao trình độ tay nghề, về

sự cải thiện tiền lương, thu nhập. Riêng với lao động nữ, vấn đề bình đẳng

giới trong lao động, việc làm, trong đời sống xã hội đã được quan tâm ngày

càng nhiều hơn. Việc lồng ghép giới đã được thực hiện trong các chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong các chương

trình, kế hoạch hành động của các ban, ngành, đoàn thể, đơn vị, doanh nghiệp

gắn với mục tiêu thực hiện tốt Luật Bình đẳng giới và thực hiện Nghị Quyết

11/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Ngày 28/6/2000, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số

55-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng của cơ sở đối

với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”; Nghị quyết số: 04 –

NQ/TW năm 2007 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận

động phụ nữ trong tình hình mới”; Nghị quyết 11- NQ/TW ngày 27 tháng 4

năm 2007 về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước; Nghị Quyết 20 NQ/TW ngày 28/1/2008 của BCH TW Đảng về

"Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH-

HĐH đất nước”. Chỉ thị số 20 CT/TW ngày 5/11/2012 của Bộ Chính trị về

“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và

bảo vệ trẻ em” và những văn bản quan trọng của Đảng đã góp phần định

hướng cho công tác nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước; Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chọn ngày

28-6 hàng năm là ngày Gia đình Việt Nam, là dịp để tôn vinh những giá trị

37

văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam; tổ chức các hoạt động thiết thực,

giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng gia đình hướng tới sự phát triển bền

vững, nhất là gia đình trong xã hội hiện nay.

Nghị định số 85/2015/NĐ-CP ngày 1/10/2015, quy định chi tiết một số

điều của Bộ luật Lao động về chính sách đối với lao động nữ, gồm: Quyền

làm việc bình đẳng của lao động nữ; cải thiện điều kiện lao động, chăm sóc

sức khỏe đối với lao động nữ; quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn thực

hiện hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai…; Thông tư 59/2015/TT-

BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ngày 29/12/2015 đã

quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành chế độ thai sản như: điều kiện hưởng

chế độ thai sản, thời gian hưởng chế độ thai sản, mức hưởng chế độ thai sản...

Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ

Việt Nam đến năm 2010 và chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn

2011 -2020; Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011

-2020; Bộ Chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia; Các nghị định hướng

dẫn thực hiện Bình đẳng giới, xử phạt vi phạm bình đẳng giới, vi phạm phòng

chống bạo lực gia đình…

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 1028/QĐ – TTg ngày

8/6/2016, Quyết định phê duyệt Chương trình giáo dục đời sống gia đình đến

năm 2020, với mục tiêu giáo dục đời sống gia đình nhằm cung cấp cho các

thành viên trong gia đình những kiến thức chung về đời sống gia đình; những

điều cần thiết chuẩn bị cho hôn nhân và gia đình; giáo dục đời sống gia đình

đối với gia đình trẻ, gia đình độ tuổi trung niên, gia đình người cao tuổi, phấn

đấu đạt một trong những mục tiêu “Có 80% cán bộ, công nhân tại các KCN,

KCX được tham gia các sinh hoạt chuyên đề về giáo dục đời sống gia đình”.

Luật Hôn nhân và Gia đình [71] quy định: “Nhà nước có chính sách,

biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn

nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia

38

đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng

cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình;

vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia

đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của

mỗi dân tộc”.

Luật Bình đẳng giới quy định: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí,

vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình

cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành

quả của sự phát triển đó (Điều 5); Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt

đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế -

xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa

nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” (Điều 4); Vợ, chồng bình đẳng với

nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia

đình; Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định, lựa chọn

và sử dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp, sử dụng thời gian

nghỉ con ốm theo quy định của pháp luật; các thành viên nam, nữ trong gia

đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình” (Điều 18); “Giáo dục các

thành viên trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ và phân công hợp lý công

việc gia đình” (Điều 33) [68].

Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030

được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 629/QĐ-TTg ngày

29/5/2012 xác định mục tiêu chung là “Xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến

bộ, hạnh phúc; thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội”.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình [73] quy định: Bạo lực gia đình là

hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại

về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình; Luật này

quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia

39

đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống

bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình

(Điều 1)

Bộ Luật Lao động [7] quy định: “Lao động nữ trong thời gian nuôi con

dưới 12 tháng tuổi được nghỉ: mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc để

cho con bú, vắt, trữ sữa, nghỉ ngơi”; “người sử dụng lao động lắp đặt phòng

vắt trữ sữa mẹ phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc, nhu cầu của lao

động nữ và khả năng của người sử dụng lao động” (Điều 7); quy định về tổ

chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo ở nơi có nhiều lao động nữ (Điều 9), (Điều 10).

Chương X của Bộ Luật Lao động 2012 đã có một số điều, khoản quy định về

nguyên tắc bình đẳng giới, cấm phân biệt đối xử về giới, hỗ trợ người sử dụng

lao động sử dụng nhiều lao động nữ.

Luật Bảo hiểm xã hội năm [70] quy định chi tiết về điều kiện, thời gian,

mức hưởng của các đối tượng quy định tại Điều 24 và khoản 1 Điều 31 của

Luật này như lao động nữ mang thai, lao động nữ sinh con...

Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội đã quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành chế độ thai sản như: điều

kiện hưởng chế độ thai sản, thời gian hưởng chế độ thai sản, mức hưởng chế

độ thai sản...

Nghị định số 67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo

trợ xã hội như “Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới

16 tuổi; trường hợp con đang đi học văn hóa, học nghề được áp dụng đến

dưới 18 tuổi” và Quy định này được hướng dẫn cụ thể tại khoản 1 Thông tư

số 09/2007/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

Theo Điều 12 Luật Bảo hiểm Y tế thì tất cả trẻ em dưới 6 tuổi đều được

hưởng chế độ bảo hiểm miễn phí không phân biệt trẻ em trong gia đình có cả

bố và mẹ hay trẻ em không có bố hoặc mẹ (Luật Bảo hiểm Y tế)[67].

Chỉ thị số 09/CT-TTg về việc đẩy mạnh thực hiện các giải pháp giải

40

quyết vấn đề trường, lớp mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Có thể nói, trong những năm qua dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà

nước, của tổ chức Công đoàn, các doanh nghiệp đã chú trọng trong việc xây

dựng môi trường, điều kiện việc làm, thực hiện tương đối đầy đủ các chế độ

chính sách đối với lao động nữ, đã có nhiều nỗ lực quan tâm đến cuộc sống

của gia đình người lao động nói chung theo luật định nhưng chưa có quy định

cụ thể nào buộc doanh nghiệp phải có chính sách bảo vệ hoặc hỗ trợ bà mẹ

công nhân đơn thân.

Các tài liệu mà chúng tôi thu thập được cho thấy hiện tượng bà mẹ đơn

thân trên thế giới và ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng và là vấn đề quan

tâm của gia đình và xã hội. Mặc dù, có nhiều ý kiến trái chiều về quan niệm

bà mẹ đơn thân hiện nay nhưng ở mặt chủ quan chúng tôi thấy đời sống của

bà mẹ đơn thân vừa có những thuận lợi và khó khăn riêng mà chỉ những

người trong hoàn cảnh đó mới hiểu được, các chính sách hỗ trợ cho bà mẹ

đơn thân ở Việt Nam vẫn còn chung chung thường lồng ghép với các nhóm

đối tượng bảo trợ xã hội khác và các chính sách hỗ trợ cho nhóm này cũng

chưa được đề cập tới.

1.4. Những kết quả nghiên cứu đạt được và khoảng tr ng nghiên

cứu đa đặt ra

Có thể thấy, đề tài bà mẹ công nhân đơn thân vẫn là một đề tài mới, còn

nhiều mảng trống trong nghiên cứu, nhất là nghiên cứu dưới góc độ chính

sách xã hội và đặt nó trong sự tương quan, so sánh với mô hình gia đình hiện

đại. Với các bài viết, các tài liệu trên đã cung cấp rất nhiều tư liệu tham khảo

và phương pháp tiếp cận về vấn đề trợ giúp cho đối tượng là phụ nữ đơn thân

ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công trình hay một đề tài

nào đề cập đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về cuộc sống của bà mẹ đơn thân

là công nhân tại các khu công nghiệp – nơi tập trung khá đông lực lượng lao

động nữ đơn thân nuôi con dưới góc nhìn và phương pháp tiếp cận của các

41

chính sách xã hội. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề đã được đề

cập trong các công trình, tài liệu kể trên, kết hợp với khảo sát thực tế tại Khu

Công Nghiệp Sóng Thần, tỉnh Bình Dương để thực hiện.

Tổng quan tài liệu và các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và

ngoài nước có đề cập đến gia đình cha mẹ đơn thân và những vấn đề liên quan

mà tác giả tiếp cận được thuộc về nhiều hướng tiếp cận của khoa học xã hội

như: Xã hội học, giáo dục học, tâm lý học, nhân khẩu học, tội phạm học, công

tác xã hội và các ngành khoa học khác với nhiều góc độ khác nhau. Xác định

rằng, luận án tiến sĩ này chủ yếu dựa trên tiếp cận xã hội học, tuy nhiên theo

xu hướng liên ngành, một số hướng tiếp cận của các ngành khoa học khác

cũng sẽ được tác giả quan tâm tới.

Do những nguồn tài liệu nghiên cứu từ nước ngoài được dịch ra tiếng Việt

còn hạn chế và trong chừng mực khá khiêm tốn của vốn tiếng Anh và tiếng

Trung của tác giả luận án, nên chỉ một số công trình có liên quan mới được đề

cập tới, vì vậy kết cấu của phần tổng quan này sẽ phân định theo nội dung của

từng chủ đề sẽ giúp tác giả và người đọc dễ dàng nắm bắt vấn đề hơn.

Việc tổng quan tình hình nghiên cứu về gia đình, giúp cho tác giả hiểu

được những hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu về gia đình vì theo

thiển ý của tác giả, gia đình nữ đơn thân chính là một loại hình gia đình trong

bối cảnh đương đại dưới ảnh hưởng của sự biến đổi xã hội. Bên cạnh đó, việc

tổng quan về chủ đề này cũng cho thấy vị trí của gia đình phụ nữ đơn thân

trong hệ thống các đề tài nghiên cứu gia đình ở Việt Nam. Còn việc phân tích

về nữ công nhân giúp cho tác giả hiểu rõ hơn về bối cảnh sống và làm việc

của những người nữ công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất để từ đó

đặt câu hỏi nghiên cứu một cách phù hợp hơn đối với nhóm khách thể nghiên

cứu đặc thù này.

Mặc dù gia đình, phụ nữ và trẻ em được Đảng và nhà nước quan tâm

nhiều thể hiện qua các văn bản pháp quy, các chính sách. Tuy nhiên, thực tế

42

hiện nay chưa có văn bản, chính sách để cập tới đối tượng đặc thù là mẹ đơn

thân. Người mẹ đơn thân và con cái của họ chỉ có thể được hưởng sự hỗ trợ

khi họ là hộ nghèo như chúng tôi đã nêu ở trên. Những em nhỏ trong gia đình

này cũng chỉ được hưởng chế độ theo quy định chung dành cho trẻ em thuộc

các nhóm yếu thế trong xã hội. Thực tế này đòi hỏi các cơ quan hữu quan nên

có chính sách riêng cho đối tượng này. Vì vậy, cần tìm hiểu về cuộc sống thực

tế của bà mẹ đơn thân là công nhân, nắm bắt nhu cầu của họ, tìm hiểu khoảng

trống chính sách để từ đó đề xuất chính sách hoặc huy động các nguồn lực xã

hội giúp bà mẹ đơn thân cải thiện cuộc sống và hòa nhập với xã hội, đúng với

mong đợi của Đảng và Nhà nước ta là không ai bỏ lại phía sau trong quá trình

phát triển.

Dưới đây, tác giả sẽ trình bày cơ sở lý luận và thực tế liên quan tới nữ

43

công nhân ở các khu công nghiệp

C ươ 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ ở lý luận

2.1.1. Các khái niệm

B mẹ đơ t â

Mẹ đơn thân hay bà mẹ đơn thân, hoặc nữa phụ nữ đơn thân là khái niệm

được một số tác giả đã sử dụng trong một số các công trình nghiên cứu như đã

nêu trên phần tổng quan. Chẳng hạn, Lê Thi [100] đưa ra quan điểm chung

nhất về phụ nữ đơn thân là những phụ nữ không có chồng, phụ nữ thiếu, vắng

chồng, những phụ nữ không có chồng sống bên cạnh, do nhiều lý do, nhiều

hoàn cảnh khác nhau. Theo bà, phụ nữ đơn thân được phân thành 02 loại:

Loại thứ nhất, phụ nữ đã lập gia đình gồm số phụ nữ đã góa chồng, ly dị, ly

thân, hoặc chồng đi vắng xa lâu ngày không có tin tức; Loại thứ hai, phụ nữ

chưa lập gia đình chưa lấy chồng nhưng đã nhiều tuổi (bao gồm phụ nữ không

có chồng nhưng có con ngoài giá thú từ 1 đến 3, hoặc 4 con. Họ thường sống

với con cái hay với cha mẹ đẻ; Phụ nữ không có chồng không có con. Họ

sống với cha mẹ đẻ hay anh chị em ruột, họ hàng, số sống độc thân ít). Một

tác giả khác xét về mặt bản chất chia phụ nữ đơn thân thành 2 nhóm: nhóm

những người phụ nữ buộc phải chịu hoàn cảnh đơn thân do hoàn cảnh mang

lại, buộc phải chọn cách sống một mình và nhóm những người phụ nữ chủ động sống đơn thân12.

Theo Gucciardi và cộng sự, bố/mẹ đơn thân là khái niệm chỉ những

người có con nhưng chưa bao giờ kết hôn, hay đã ly thân, ly dị và hiện không

trang http://www.baohaiquan.vn/Pages/GS-TS-Le-Thi-Quy-Vien-truong-Vien-

12 Trên Nghien-cuu-gioi-va-phat-trien-Chong-chenh-phu-nu-don-than.aspx

44

sống với người bạn đời được thừa nhận về mặt luật pháp, hoặc góa bụa

(Gucciardi, Celasun và Stewart, 2004; dẫn theo Võ Thị Cẩm Ly)[65]. Khái

niệm này đề cập đến ba nhóm phụ nữ đơn thân: nhóm có con và đã ly hôn;

nhóm có con và đã ly thân; nhóm có con và chưa từng kết hôn hoặc chồng đã

qua đời.

Có thể nhận thấy gia đình mẹ đơn thân là một hiện tượng xã hội, một mô

hình tổ chức cuộc sống của một nhóm bà mẹ trong xã hội. Trong mô hình

này, chỉ có sự tồn tại của hai nhân tố là người mẹ và đứa con, hoàn toàn thiếu

vắng người cha với tư cách pháp lí phù hợp. Những vai trò về kinh tế, nuôi

dạy con cái của người cha có thể không được thực hiện hoặc thực hiện trong

một giới hạn hết sức hạn chế.

Khi phân loại các hình thái gia đình, Mai Huy Bích [15] cũng đã đưa ra

quan điểm về gia đình có cha hoặc mẹ đơn thân (one-parent family). Ông cho

rằng, đó là một biến thể của gia đình hạt nhân gồm hai thế hệ (cha hoặc mẹ và

con cái chưa kết hôn), trong thế hệ thứ nhất (tức thế hệ cha mẹ), không đủ hai

người của cặp vợ chồng, mà chỉ có một người (hoặc cha hoặc mẹ) do nhiều

nguyên nhân khác nhau (ly hôn, góa, hay đơn giản là không hoặc chưa kết

hôn mà có con,…)

Trong đề tài nghiên cứu này, tác giả sử dụng khái niệm “Bà mẹ đơn

thân” để đề cập tới những người nữ công nhân vì những lý do khác nhau hiện

tại đang nuôi con một mình làm việc tại các Khu công nghiệp .

Khái niệm cuộc sống

Cuộc sống là một khái niệm khá rộng và có nhiều cách hiểu khác nhau.

Theo từ điển tiếng Việt của Hồ Ngọc Đức [39] thì đời sống có 4 cách hiểu

như sau:

+ Tình trạng tồn tại của con người

+ Sự hoạt động của con người trong từng lĩnh vực (Đời sống vật chất,

đời sống tinh thần, đời sống văn hóa, đời sống nghệ thuật)

45

+ Phương tiện để sống

+ Lối sống của cá nhân hay tập thể (Đời sống xa hoa, đời sống cần

kiệm, đời sống chan hòa,....).

Dưới tiếp cận của Xã hội học, “Lối sống là tổng hòa các dạng hoạt động

sống ổn định, có hệ thống và sự thống nhất nội tại, đó là cách thức mà con người

tổ chức hoạt động sống của mình trong những điều kiện sống cụ thể. Các dạng

hoạt động sống đó bao gồm: hoạt động lao động sản xuất, hoạt đông sinh hoạt vật chất, hoạt động văn hóa tinh thần, hoạt động sinh hoạt xã hội”13

Như vậy, cả hai định nghĩa trên cho thấy, các dạng hoạt động cơ bản

nói lên lối sống hay đời sống con người là hoạt động liên quan tới vật chất

(cách họ lao động sản xuất để tạo ra của cải, cách họ sống với những điều

kiện sống (kinh tế-xã hội) mà họ có và hoạt động sinh hoạt (bao gồm sinh

hoạt văn hóa-tinh thần, tham gia hoạt động xã hội…)

Với mục tiêu của đề tài luận án, tác giả tập trung vào hai dạng hoạt

động cơ bản là hoạt động liên quan tới vật chất, được gọi là đời sống vật chất

và các hoạt động văn hóa-tinh thần, được gọi chung là đời sống tinh thần.

Đời sống vật chất

Đời sống vật chất là những sinh hoạt dựa trên những yếu tố vật chất

như những điều kiện sống mà con người có được để tồn tại. Trong đề tài,

những điều kiện mà người công nhân tổ chức hoạt động sống bao gồm: thu

nhập, chi tiêu; việc làm; nhà ở, đồ dùng sinh hoạt, đồ trang trí có giá trị vật

chất như: xe máy, ti vi, tủ lạnh...Nói đến đời sống vật chất là nói đến sự sở

hữu, những thứ có thể nhìn thấy, cầm nắm, tính đếm được.

Đời sống tinh thần

Đời sống tinh thần được hiểu bao gồm tất cả những gì liên quan đến

46

lĩnh vực tinh thần: từ những giá trị, sản phẩm tinh thần đến những hiện tượng, 13 I. T. Lê vư kin, Trần Thị kim Xuyến, Những yếu tố hình thành lối sống của ngườI Việt Nam trong bối cảnh đổi mới. NXB Viện hàn lâm khoa học Cộng Hòa Liên Bang Nga, 1993

quá trình tinh thần, từ những hoạt động tinh thần (sản xuất tinh thần, phân

phối, tiêu dùng giá trị tinh thần như phim ảnh, sách báo, tivi, internet, game,

công viên, các câu lạc bộ, ...) đến những quan hệ tinh thần (trong trao đổi,

giao tiếp tinh thần như gặp gỡ, thăm hỏi...). Nói đến đời sống tinh thần là nói

đến tính liên tục về thời gian, tính rộng lớn về không gian của tất cả những

hiện tượng, những quá trình tinh thần. Với ý nghĩa như vậy, nội dung phạm

trù đời sống tinh thần được hiểu như sau: Đời sống tinh thần là tất cả những

giá trị, sản phẩm, hiện tượng, những quá trình, những hoạt động, những quan

hệ tinh thần của con người phản ánh đời sống.

Khái niệm đời sống tinh thần được sử dụng trong đề tài nói lên các hoạt

động liên quan tới sinh hoạt văn hóa và tinh thần của con người. Tác giả sẽ

quan tâm tới các hoạt động ngoài giờ làm việc của người công nhân như: thời

gian nghỉ ngơi, nội dung và thời lượng tham gia các hoạt động vui chơi giải

trí, các hoạt động thăm viếng gia đình, bạn bè và những người thân hay các

hoạt động hỗ trợ lẫn nhau về tinh thần của những người cùng cảnh ngộ.

Như vậy, trên cơ sở hai chỉ báo lớn là đời sống vật chất và đời sống

tinh thần với các dạng hoạt động, việc phân tích tình hình đời sống của những

bà mẹ công nhân đơn thân ở các khu công nghiệp trên địa bàn Dĩ An hiện nay

sẽ được xem xét dưới góc độ chính sách xã hội để chỉ ra những điểm được và

chưa được, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm giảm nhẹ những tổn thương

mà họ phải chịu đựng.

K ái iệm Khu công nghiệp

Khái niệm KCN đã được quy định trong Nghị định 36/NĐ-CP ngày

24/4/1997 của Chính phủ về “Quy chế hoạt động của các KCN, KCX, Khu

công nghệ cao”. Theo đó, KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản

xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh

giới địa lý xác định (có tường rào bao quanh), không có dân cư sinh sống, do

47

Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.

- Trước hết, KCN là một khu vực khép kín, biệt lập với các khu dân cư

và có diện tích xác định. Thứ hai, KCN ra đời và tồn tại trước khi các cơ sở

công nghiệp được xây dựng và sẽ có thời kỳ trong KCN không có bất kỳ một

cơ sở sản xuất công nghiệp nào. Thứ ba, việc thành lập KCN phải do Chính

phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định.

- Theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày

14/3/2008, KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các

dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập

theo điều kiện, trình tự và thủ tục theo luật định.

- Hiện nay, đã xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ, các cụm công

nghiệp ở các địa phương do chính quyền địa phương quyết định thành lập như

ở Bình Dương hiện nay có 29 khu công nghiệp đã được phê duyệt. Mặc dù có

một số đặc điểm đặc thù (quy mô thường nhỏ hơn, ảnh hưởng thường hẹp

hơn), nhưng về bản chất thì các KCN không có sự khác biệt so với các KCN

do Trung ương thành lập. Vậy khái niệm KCN phải bao hàm cả các KCN loại

này (các KCN do chính quyền địa phương thành lập).

Khái niệm Chính Sách xã hội

Khái niệm chính sách xã hội, hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau

nhưng trong nghiên cứu này đề tài tham khảo các khái niệm:

Trong Lý thuyết xã hội và xã hội học hiện đại Chính sách xã hội là sự

tổng hợp các phương thức, các biện pháp của Nhà nước, của các đảng phái và

tổ chức chính trị khác nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân

dân phù hợp với trình độ phát triển đất nước về kinh tế, văn hoá, xã hội…

Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật những chủ

trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.

Trong cuốn giáo trình về chính sách xã hội của Lê Ngọc Hùng [57] có

48

ba cách định nghĩa về chính sách xã hội.

Thứ nhất, chính sách xã hội là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học và

đào tạo về chính sách xã hội.

Thứ hai, chính sách xã hội là hệ thống các dịch vụ xã hội đảm bảo phúc

lợi xã hội, bảo trợ xã hội, phát triển xã hội, phát triển con người.

Thứ ba, chính sách xã hội là quá trình xã hội trong đó chính sách được

xây dựng và thực thi nhằm đạt được các mục tiêu xác định là nâng cao phúc

lợi xã hội, bảo trợ xã hội, phát triển con người và phát triển xã hội bền vững.

Ở nước ta hiện nay chính sách xã hội thường được nhìn nhận ở hai cấp độ.

Thứ nhất, theo nghĩa hẹp là chính sách xã hội cho những nhóm lao động xã hội

gọi là “đối tượng chính sách” và “đối tượng xã hội”. Thứ hai, theo nghĩa rộng

bao hàm cả chính sách giai cấp, chính sách đối với các tầng lớp, những nhóm xã

hội lớn như thanh niên, trí thức, chính sách dân tộc, tôn giáo…

Vậy khái niệm chính sách xã hội là sự tác động của nhà nước vào việc

phân phối và ổn định các hoàn cảnh sống cho con người thuộc các nhóm xã

hội khác nhau trong lĩnh vực thu nhập, việc làm, sức khoẻ, nhà ở và giáo dục

trên cơ sở mở rộng, bình đằng và công bằng xã hội trong một bối cảnh lịch sử

và cấu trúc xã hội nhất định.

A i x ội

Trong cuốn Từ điển Xã hội học Oxford, an sinh xã hội được hiểu:

những hệ thống duy trì thu nhập do nhà nước quản lý nhằm tránh cho mọi

người khỏi rơi vào tình trạng nghèo hoặc cứ nghèo mãi. Một số hệ thống an

sinh dựa trên quy chế công dân, một số khác thì dự trên nơi cư trú của người

thụ hưởng (Bùi Thế Cường) [28].

Trong cuốn “Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam” do Viện Khoa học

lao động và xã hội cùng với Dự án hỗ trợ giảm nghèo GIZ đưa ra khái niệm

an sinh xã hội: “hệ thống các chính sách can thiệp của nhà nước (bảo hiểm xã

hội/trợ giúp xã hội) và tư nhân (các chế độ không theo luật định hoặc của tư

49

nhân) nhằm giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo

vệ của người dân và xã hội trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu

nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội” [152].

Theo Chiến lược An sinh xã hội Việt Nam 2011-2020, an sinh xã hội là

hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các đối tác xã hội

thực hiện nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các phúc lợi

xã hội, nâng cao năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản

lý và kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, thiên tai,

chuyển đổi cơ cấu, khủng hoảng kinh tế dẫn đến giảm hoặc bị mất thu nhập

và giảm khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản.

Hệ thống chính sách an sinh xã hội Việt Nam gồm 3 nhóm chính sách chính:

Chính sách thị trường lao động; i)

ii) Bảo hiểm xã hội;

iii) Trợ giúp xã hội .

Xuất phát từ quan điểm cơ bản rằng hệ thống an sinh xã hội hướng tới

đảm bảo các nguyên tắc: phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro đối với

người dân, do vậy trong nghiên cứu này nghiên cứu sinh hiểu an sinh xã hội

là: “hệ thống các chính sách can thiệp của nhà nước cùng với sự hỗ trợ của

các cá nhân, tổ chức (trong khuôn khổ quy định của luật pháp) nhằm giảm

mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của người dân

và xã hội trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm

ổn định, phát triển và công bằng xã hội, nâng cao khả năng ứng phó của

người dân đối với các rủi ro, nguy cơ thông qua việc hỗ trợ, trang bị cho họ

các phương thức nhằm nâng cao mức sống cá nhân và hộ gia đình ”.

2.1.2. Các quan điểm lý thuyết được vận dụng

Lý thuyết trao đổi và thuyết lựa chọn hợp lý

Lý thuyết trao đổi có nguồn gốc từ những người theo tư duy thực dụng

50

chủ nghĩa trong triết học của những người theo môn phái Epicure, tiếp đó

quan điểm này được Jeremy Bentham, John Stuart Mill và G.E. Moore phát

triển hơn trong những thập niên cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.

Tư duy thực dụng chủ nghĩa phát triển sâu rộng hơn trong khoa học xã

hội vào những năm 80 của thế kỷ trước. Nó hiển hiện rõ rệt trong lý thuyết

kinh tế vi mô về gia đình (điển hình là tác giả Becker), trong tâm lý học xã

hội với các tác giả (Emerson, Homans, Nye), trong xã hội học tổ chức (tác giả

chính Blau), và lý thuyết lựa chọn hợp lý (mà đại biểu là Coleman, Hechter).

Các tác giả này khác nhau rất nhiều về những điều mà họ nhấn mạnh, đặc biệt

về cách họ đưa động cơ cá nhân vào hợp nhất với quá trình vĩ mô về sự có đi

có lại và biến đổi xã hội. Tuy nhiên, tiêu điểm của tất cả các lý thuyết này là

tập trung vào chủ nghĩa thực dụng hợp lý của cá nhân.

Trong nghiên cứu về gia đình hiện nay, Ivan Nye được xem là đại biểu

tiêu biểu nhất của lý thuyết lựa chọn hợp lý. Luận điểm chính thức về lý

thuyết trao đổi của Nye (1979) dựa rất nhiều vào cách tiếp cận tâm lý học xã

hội của các bậc tiền bối trong lĩnh vực tâm lý học, như là Thibaut and Kelley.

Hiện nay, luận điểm của Nye được áp dụng triệt để và đầy tham vọng vào

nghiên cứu gia đình.

Hai khái niệm cơ bản của lý thuyết trao đổi và lựa chọn hợp lý là

“reward” and “cost”. Trong công trình nghiên cứu này theo gợi ý của tác giả

Mai Huy Bích (2009) chúng tôi chọn dịch khái niệm “reward” và “cost” với

các hàm nghĩa “được” - “mất”, “lợi”- “hại”, “hơn”- “thiệt”.

“Được”, là bất kỳ thứ gì được coi là có lợi cho người hành động, còn

điều “mất” thường được quan niệm là trái ngược với điều “được”. Mặc dù

điều “mất” thường được quan niệm là phủ nhận của điều “được” tức là những

điều không có lợi cho người hành động nhưng chúng ta cũng nên đưa vào đây

51

cả những điều mất ngầm ẩn và khó thấy.

Kinh tế học vi mô thường tập trung vào những điều “được” và “mất”

trong kinh tế, còn các nhà lý thuyết trao đổi và lựa chọn hợp lý thường xem

xét “được” và “mất” rộng hơn lý thuyết kinh tế học rất nhiều.

Các nhà lý thuyết trao đổi và lựa chọn hợp lý thường giải thích rằng

những nhóm xã hội như gia đình có thể tồn tại lâu dài là vì nó đáp ứng được

lợi ích của các thành viên cá nhân. Các cá nhân tập hợp với nhau thành nhóm

đề dành được điều “lợi” cho họ. Tất nhiên, tư cách là thành viên trong nhóm

xã hội cũng có thể đòi hỏi nhất thiết phải có sự thỏa hiệp và thậm chí phải trả

giá đối với các thành viên cá thể. Nếu cái giá phải trả của việc tham gia làm

thành viên trong nhóm vượt quá cái “lợi” và cái “được” thì việc là thành viên

của nhóm không còn là một sự lựa chọn hợp lý nữa. Như vậy, người ta

thường quan niệm nhóm gia đình là nguồn gốc mang lại những điều “lợi” cho

các thành viên riêng lẻ. Trong lý thuyết trao đổi gia đình được coi như là tập

hợp các cá nhân.

Mới thoạt nhìn, thuyết trao đổi và lựa chọn hợp lý có vẻ không phù hợp

với một lĩnh vực tình cảm như tình yêu nam nữ … song suy cho cùng quan hệ

tình yêu, hôn nhân và gia đình giữa nam và nữ xưa nay bị chi phối bởi sự tính

toán và lòng vụ lợi, có điều mức độ và hình thức biểu hiện rất tinh vi.

Con người ta tác động qua lại để tăng tối đa lợi ích hay những điều

được của bản thân, và giảm tối thiểu điều mất hoặc cái giá phải trả (Mai Huy

Bích (2003tr.220)[14].

Dựa trên tiếp cận quan hệ trao đổi và lựa chọn hợp lý khi tìm hiểu cuộc

sống của bà mẹ đơn thân, chúng tôi giả định rằng các bà mẹ đơn thân lựa

chọn kiểu sống này dựa trên sự tính toán về cái “được”, và cái “mất” mà họ

có thể có trong cuộc sống. Với quan niệm của người Việt Nam đương đại, dù

chủ nghĩa cá nhân đã được quan tâm hơn, nhưng giá trị của gia đình, của đứa

con vẫn còn được đề cao. Với cách tổ chức và thực hiện hệ thống an sinh xã

52

hội hiện tại, người ta vẫn cần có đứa con để vừa được bày tỏ tình cảm, vừa có

người “chăm sóc mình lúc về già”. Đứa con vẫn có giá trị như một công cụ

bảo hiểm lúc về già. Cái lợi hay cái được của họ không thuộc về hiện tại mà

thuộc về tương lai. Cái mất của họ là sự vất vả khi không có người cùng sẻ

chia việc chăm sóc con cái, là sự thiếu thốn về kinh tế hay thậm chí là cả sự

kỳ thị của xã hội ở chừng mực nhất định nào đó. Vậy là dù họ chủ ý lựa chọn

không cần chồng nhưng có con hay là không cố tình lựa chọn nhưng chấp

nhận tình huống không mong muốn thì lợi ích của họ vẫn là ở chỗ có đứa con

để nương tựa lúc về già. Một điều mà tác giả luận án muốn lưu ý nữa, đó là

bối cảnh thể chế đã thay đổi. Luật pháp Việt Nam tuy không khuyến khích

nhưng vẫn chấp nhận con ngoài giá thú. Mọi trẻ em sinh ra đều là công dân

Việt Nam và đều có quyền được làm giấy khai sinh và theo luật trẻ em năm

2016, trẻ em đều được hưởng chế độ chăm sóc y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi

cũng như chế độ phổ cập giáo dục như nhau. Chính khía cạnh pháp lý này đã

giúp cho các bà mẹ có nhiều cơ hội hơn cho lựa chọn mang tính được mất này

của họ. Điều này cũng đã được làm sáng tỏ sau khi thu thập và xử lý thông tin

cũng như trình bày kết quả nghiên cứu.

Lý thuyết v n xã hội

Vốn xã hội (social capital) là khái niệm do James Coleman đề xuất. Nó

được sử dụng để mô tả những kiểu quan hệ tồn tại giữa các cá nhân khi đặt

trong bối cảnh gia đình và cộng đồng, và được coi là có ảnh hưởng lớn tới sự

thành đạt về học vấn của con người nói chung và trẻ vị thành niên (Bùi Thế

Cường và cộng sự, 2010)[28]. Sau này vốn xã hội trở thành một khái niệm

trung tâm trong các nghiên cứu khoa học xã hội. Lý thuyết vốn xã hội của

Coleman được sử dụng để giải thích nhiều hành vi khác nhau về sự tham gia

của mọi công dân đến kết quả giáo dục và sự phát triển của vị thành niên.

Từ tiếp cận phát triển, các nhà khoa học cho rằng, vốn xã hội không tồn

tại độc lập, mà có mối quan hệ chặt chẽ với các loại nguồn vốn khác để con

53

người có thể sinh kế và tồn tại. Chẳng hạn, trong khung phân tích sinh kế bền

vững của DFID “sinh kế bao gồm các khả năng, các nguồn vốn hay nguồn lực

(bao gồm các nguồn vốn vật chất và xã hội) và các hoạt động cần thiết kiếm sống”14. Trong nghiên cứu về sinh kế bền vững, Chamber và Conway 15 và

các tác giả khác sau này, đã nêu rõ các nguồn vốn mà con người có thể sử

dụng để kiếm sống là: vốn con người (giáo dục, kỹ năng, sức khoẻ, số lượng

các thành viên trong hộ gia đình), vốn tài nguyên (đất đai, vườn tược); vốn vật

chất (nhà ở và các phương tiện sống, công cụ, phương tiện sản xuất, công

trình giao thông thuỷ lợi, công nghệ thông tin liên lạc); vốn tài chính (tiền, tiết

kiệm, tín dụng, hàng hoá lưu chuyển, đại gia súc…) và vốn xã hội (mạng lưới

và những hỗ trợ xã hội thuộc về các hộ gia đình). Có được các nguồn vốn này

cho phép các hộ gia đình tăng sự tin tưởng, khả năng làm việc cùng nhau, chia

sẻ và tiếp cận các cơ hội.

Điểm đáng chú ý là có sự quan hệ qua lại giữa các loại vốn. Một loại vốn

vật chất có thể tạo ra nhiều lợi ích. Nếu hộ gia đình đã tiếp cận được đến đất

đai (vốn tự nhiên), họ có thể cũng tiếp cận đến tín dụng dễ dàng hơn vì họ

cũng có thể dùng đất cho các hoạt động sản xuất trực tiếp mà còn dùng để thế

chấp cho các khoản vay. Nếu như một hộ không có cả đất đai, để vay vốn, họ

có thể nhờ vào sự giúp đỡ của hội phụ nữ, hội nông dân hay các nhóm xã hội

nào đó để có thể vay tín chấp. Nghĩa là sự kết hợp các loại vốn theo nhiều

cách khác nhau để tạo ra thu nhập của hộ.

Từ góc nhìn quản lý, vốn xã hội được hiểu như là tổng hợp những mối

quan hệ, liên hệ giữa con người với con người hoặc các chủ thể người với

nhau trong một cộng đồng xã hội xác định mà nhờ đó, con người có thể tạo

14 DFID (1999), Sustainable Livelihoods Guidance Sheets, http://www.nssd.net/references/SustLiveli/DFIDapproach.htm#Guidance dẫn theo Nguyễn Văn Sửu (2010), “Khung sinh kế bền vững: Một cách phân tích toàn diện về phát triển và giảm nghèo”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2, tr 3-12. 15 . Chambers, R. and G. Conway (1992), Sustainable rural livelihoods: practical concepts for the 21st century (Sinh kế nông thôn bền vững

54

dựng lòng tin, tạo mạng lưới xã hội phức hợp và tăng cường khả năng làm

việc chung để đạt tới những kết quả cao cho sự phát triển của mỗi con người và của cả cộng đồng xã hội (Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Thị Lan, 2009)16.

Theo hướng tiếp cận này, vốn xã hội bao gồm hai thành tố cơ bản. Đó là

mạng lưới quan hệ xã hội và niềm tin. Mạng lưới xã hội, do con người có thể

thiết lập được với những người khác về mặt số lượng và chất lượng. Các nhà

xã hội học, vì vậy thường gắn vốn xã hội với cơ cấu nhóm xã hội, cơ cấu phân

tầng xã hội với các kiểu liên hệ và quan hệ xã hội đặc trưng trong từng hệ

thống xã hội. Còn niềm tin xã hội được tạo ra bởi hệ thống các giá trị, chuẩn

mực đạo đức, luật pháp, phong tục tập quán mà mỗi nhóm, mỗi giai tầng, mỗi

cộng đồng xã hội đã xây dựng, đặt nền tảng cho cách tư duy và hành động của

mình. Chính nhờ mạng lưới các quan hệ xã hội và niềm tin xã hội mà mỗi con

người, mỗi chủ thể có những khả năng làm việc chung để nâng cao tối đa

những lợi ích của cá nhân mình cũng như lợi ích của cả cộng đồng.

Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Thị Lan không dựa trên tiếp cận sinh kế

nên không đề xuất các yếu tố của nguồn vốn sinh kế như Chambers và

Conway [38], mà coi vốn xã hội là một trong những thành tố của hệ thống các

nguồn vốn đảm bảo cho cuộc sống của con người như vốn kinh tế, vốn văn

hóa, vốn chính trị…. Mặc dù vậy họ cũng nhấn mạnh tới mối quan hệ hữu cơ

giữa các nguồn vốn đó. Theo họ, khi người ta sử dụng nguồn vốn xã hội sẽ

phát triển, mở rộng, nâng cao được hiệu quả hoạt động của những vốn khác.

Ngược lại, nhờ các nguồn vốn khác được sử dụng thông qua mạng lưới xã hội

16 Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Thị Lan, “Từ quan niệm về vốn xã hội thử phân tích về việc sử dụng vốn xã hội trong phát triển xã hội bền vững ở nước ta hiện nay” đề tài cấp Nhà nước “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Mã số KX.03.09/11-15.

55

mà vốn xã hội được phát triển. Người ta càng có khả năng sử dụng tốt, có

hiệu quả những nguồn lực đã huy động được của mình để phát triển sự nghiệp

và góp phần vào sự phát triển xã hội.

Chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân và các nguồn lực xã hội, Portes, Van

der Gaag & Snijders, cho rằng ở cấp độ cá nhân, vốn xã hội đề cập đến việc

con người tiếp cận các nguồn lực thông qua mạng lưới xã hội tương hỗ. Các

nguồn lực xã hội cung cấp cho con người hai loại vốn khác nhau. Đó là hỗ trợ

xã hội và đòn bẩy xã hội (Domínguez và Watkins). Theo họ, mối quan hệ hỗ

trợ xã hội giúp đỡ các cá nhân để ứng phó với nhu cầu của cuộc sống hàng

ngày và những căng thẳng khác. Những mối quan hệ này nhằm cung cấp sự

hỗ trợ về mặt cảm thông và chia sẻ cũng như các hình thức trợ giúp cụ thể

như phương tiện đi lại, khoản vay nhỏ, hoặc một nơi để ở trong trường hợp

khẩn cấp. Mặt khác, đòn bẩy xã hội đề cập đến việc sử dụng các mối quan hệ

mạng lưới đối với di động xã hội. Trong nghiên cứu của Hogan, Hao, and

Parish về mạng lưới xã hội cho bà mẹ đơn thân tại Mỹ đã chỉ ra rằng, những

hỗ trợ của gia đình phổ biến hơn cho những bà mẹ đơn thân và đặc biệt là

những bà mẹ đơn thân là người da đen bởi vì những bà mẹ đơn thân da đen

thường sống với người thân và họ nhận được sự hỗ trợ về tài chính cũng như

chăm sóc con cái của họ.

Lý thuyết mạng lưới xã hội với các góc nhìn khác nhau đã được sử

dụng trong quá trình thao tác hóa khái niệm, từ những câu hỏi nghiên cứu đến

các câu hỏi thực nghiệm.

Những điểm mà tác giả đã lưu ý trong khi thu thập thông tin, lập luận,

lí giải thông tin là:

Thứ nhất, vị trí và vai trò của nguồn vốn xã hội trong mối quan hệ với

các thành tố của hệ thống các nguồn vốn khác nhau khác. Ở đây, trong năm

nguồn vốn sinh kế của Chambers và Conway như đã nêu ở trên, nguồn vốn tự

nhiên (đất đai, ruộng vườn…), vốn vật chất (nhà cửa, đồ dùng lâu bền và công

56

cụ lao động) vốn tài chính (tiền lương và các thu nhập khác) tương thích với

những yếu tố về điều kiện sống về vật chất. Vốn xã hội (bao gồm quan hệ,

mạng lưới, thành viên nhóm, niềm tin, sự phụ thuộc lẫn nhau và trao đổi cung

cấp các mạng lưới an sinh phi chính thức quan trọng) sẽ được xem xét trong

lĩnh vực sinh hoạt văn hóa-tinh thần. Vốn con người (các kỹ năng, tri thức,

khả năng làm việc và sức khỏe…) là những biến số về nhân khẩu xã hội như

trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, thâm niên công tác hay những vấn đề

liên quan tới sức khỏe đều được chú trọng khảo sát và coi chúng như những

biến độc lập để phân tích và so sánh sự sở hữu và vận dụng các loại nguồn

vốn khác nhau giữa các nhóm công nhân là mẹ đơn thân trong các dạng hoạt

động của họ.

Thứ hai, xác định các chỉ báo của nguồn vốn xã hội. Ở trên, cả hai

nhóm tác giả Domínguez, Watkins và Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Thị Lan [38]

khi đề cập tới các thành tố của vốn xã hội đều đề cập tới yếu tố mạng lưới xã

hội. Đồng ý với các tác giả này, khi tìm hiểu vốn xã hội của các nhóm nữ

công nhân nuôi con một mình ở Bình Dương, chúng tôi đã xác định mạng

lưới xã hội của họ thông qua việc yêu cầu họ liệt kê những người trong mối

quan hệ xã hội đã từng được thiết lập của mình để có thể xác định được về

mặt số lượng. Bên cạnh đó, việc tham gia vào các tổ chức xã hội như hội phụ

nữ, tổ công đoàn cũng là những cách thức mà họ sử dụng mạng lưới để mong

nhận được sự hỗ trợ xã hội của mình. Về mặt chất lượng, người trả lời sẽ

được yêu cầu mô tả tính chất của các mối quan hệ đó theo thời gian (trong

quá khứ và hiện tại).

Cũng theo lý thuyết vốn xã hội, khi con người dựa vào mạng lưới xã

hội để tận dụng nguồn vốn xã hội, thì chính họ lại nhận được hai loại vốn

khác nhau. Đó là mối quan hệ hỗ trợ xã hội giúp đỡ các cá nhân để ứng phó

với nhu cầu của cuộc sống hàng ngày và những căng thẳng khác. Những mối

quan hệ này nhằm cung cấp sự hỗ trợ về mặt cảm thông và chia sẻ cũng như

57

các hình thức trợ giúp cụ thể. Mặt khác, loại vốn thứ hai - đòn bẩy xã hội đề

cập đến việc sử dụng các mối quan hệ mạng lưới đối với di động xã hội

(Domínguez and Watkins). Do vậy, trong nghiên cứu, tác giả luận án đã xác

định thêm hai chỉ báo khi thu thập và khái quát hóa thông tin: (1) Những mối

quan hệ hỗ trợ xã hội, theo đó những biểu hiện mang tính hỗ trợ từ những

người khác trong mạng lưới xã hội như phương tiện đi lại, các khoản vay nhỏ,

giúp đỡ lúc mình hay con cái ốm đau, trông con cái lúc có việc khẩn cấp hay

đi làm tăng ca, hoặc một nơi để ở trong trường hợp khẩn cấp v.v...(2) yếu tố

đòn bẩy xã hội, trong đó xem thử, ngoài việc sử dụng những khoản hỗ trợ xã

hội trong cuộc sống thường ngày, những bà mẹ đơn thân có sử dụng các mối

quan hệ trong mạng lưới để được thăng tiến về mặt chuyên môn, tay nghề hay

vị thế xã hội nào đó hay không và nếu có thì như thế nào.

Thứ ba, trong khi quan tâm tới các nguồn vốn, đặc biệt là vốn xã hội,

nghiên cứu sinh cũng đã nhận ra rằng, các loại nguồn vốn mà con người sở

hữu luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nếu một người, một chủ thể nào

đó khi có vốn xã hội sẽ có thể sử dụng vốn kinh tế, vốn văn hóa v.v… từ

những người khác trong mạng lưới xã hội của mình. Nhờ đó mà làm gia tăng

những khả năng kinh tế, xã hội lên gấp bội. Cũng như vậy, nhờ vốn xã hội,

người ta sẽ tạo dựng được niềm tin vào nhau, củng cố, phát triển bền vững

được những mạng lưới xã hội hiện có. Do đó, họ có thể tăng cường, phát triển

năng lực kinh tế, xã hội theo nhiều hướng, làm được nhiều việc mà nếu chỉ

riêng một chủ thể sẽ không thể làm được (Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Thị

Lan)[38].Vì vậy, không dừng ở việc mô tả các nguồn vốn đó, mà tác giả luận

án còn phải chỉ ra được cách thức và những bà mẹ đơn thân tận dụng một

cách linh hoạt các nguồn vốn khác vốn dĩ rất hạn hẹp của mình. Tác giả đã giả

định rằng đối với những người nữ công nhân nhập cư nguồn vốn tài nguyên,

vật chất và tài chính (ruộng vườn, nhà cửa và thu nhập) rất hạn chế. Để gia

đình nhỏ của họ có thể tồn tại được, họ phải tận dụng tối đa các nguồn vốn

58

còn lại là chính bản thân họ với sức khỏe, kiến thức kỹ năng và nguồn vốn xã

hội. Nếu người mẹ đơn thân nào tận dụng được tốt nguồn vốn xã hội, họ có

thể làm tăng các nguồn lực mà trước đó còn hạn chế.

Cuối cùng, kết hợp với tiếp cận phân tích chính sách, tác giả luận án đã

phân tích quá trình vận dụng và kết hợp các nguồn vốn đã nêu trong sự phân

tích các văn bản pháp luật, các chính sách và hệ thống dịch vụ liên quan tới an

sinh xã hội đối với nhóm đối tượng đặc thù.

Qua điểm về tiếp cận chính sách xã hội

Theo tác giả Phạm Xuân Nam [84] thì “Chính sách xã hội là sự thể chế

hoá, cụ thể hoá đường lối, chủ trương, giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên

những tư tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo phù hợp với bản chất chế độ

chính trị – xã hội, phản ánh lợi ích trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói

chung và từng nhóm xã hội nói riêng nhằm tác động trực tiếp vào con người

và điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con người với con người, giữa con

người với xã hội, hướng tới mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu cầu

ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân”

Tiếp cận chính sách trong nghiên cứu này được thể hiện rõ từ quan điểm

của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta được nêu trong Cương lĩnh

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tác giả cho

rằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong xã hội hiện đại thể hiện rõ nhất ở vai

trò của nhà nước trong việc tái phân phối của cải và các nguồn lực xã hội,

theo đó dành nhiều ưu tiên hơn cho người lao động, cho những người mà vì lý

do nào đó không tự lo cho mình được (trẻ em, người già, người tàn tật), các

nhóm yếu thế (người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ, người sống ở

vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo), những người bị suy giảm thu nhập vì

nhiều lý do khác nhau (thất nghiệp, thiếu việc làm, nông dân, người bị thiên

tai, dịch bệnh) và ở đây là cả nhóm bà mẹ đơn thân. Đây chính là quan điểm

then chốt của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện xuyêt suốt và nhất quán từ

59

văn kiện Đại hội Đảng cho đến các chính sách xã hội với nhóm yếu thế trong

xã hội, thể hiện ý trí quyết tâm trong đường lối phát triển không có ai bị bỏ

quên trong quá trình phát triển, và mọi người đều được hưởng lợi công bằng

từ quá trình phát triển đất nước.

2.2. Cơ ở thực tiễn

2.2.1. Khái quát đặc điểm chung khu công nghiệp tỉnh Bình Dương

Điều kiện tự nhiên, kinh tế và dân s

Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam thuộc khu

vực phát triển năng động nhất của cả nước; phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước,

phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai; phía Nam giáp Thành Phố Hồ Chí Minh; phía

Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Thành Phố Hồ Chí Minh.

Tỉnh Bình Dương có dân số khoảng 2.2 triệu người, diện tích tự nhiên 2.694.4km2, nằm trên các trục giao thông quan trọng của quốc gia như Quốc

lộ 13, đường Hồ Chí Minh, đường vành đai 3, vành đai 4, đường xuyên Á,

cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và các cảng biển chỉ từ 10 đến 30 km. Với

vị trí địa lý thuận lợi, Bình Dương là đầu mối giao lưu quan trọng giữa các

tỉnh Tây Nguyên, miền Trung với Thành Phố Hồ Chí Minh.

Tình hình kinh tế của tỉnh Bình Dương trong thời gian qua tiếp tục tăng

trưởng ổn định. Tăng trưởng GRDP năm 2018 của tỉnh tăng 9,01% (kế hoạch:

8,5%). GRDP bình quân đầu người đạt 130,8 triệu đồng (kế hoạch 130 triệu

đồng); cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp - thuế nhập khẩu

với tỷ trọng tương ứng là 63,87% - 23,94% - 3,08% - 9,11% (kế hoạch

63,80% - 24,41% - 3,49% - 8,30%).

Với đặc điểm là vùng công nghiệp trẻ, năng động và có sức bật cao, có

tiềm năng lớn, luôn đi đầu với chính sách trải thảm đón nhà đầu tư được cộng

đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước hoan nghênh, hưởng ứng. Bình

Dương đã trở thành điểm đến được ưu tiên lựa chọn của các nhà đầu tư trong

60

và ngoài nước, tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế của tỉnh Bình Dương trong

thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước nói chung và vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam nói riêng.

Bình Dương hiện có 7 trung tâm thương mại, 11 siêu thị và trên 100

chợ truyền thống, giúp người dân, công nhân tại các nhà máy xí nghiệp thuận

tiện trong việc mua sắm.

Bình Dương có lực lượng lao động tại chỗ gần 1,3 triệu người và có hệ

thống đào tạo nhân lực có chất lượng tốt với 8 trường Đại học, 7 trường cao

đẳng, 16 trường trung cấp, 45 trung tâm dạy nghề cơ bản đáp ứng việc đào

tạo nguồn nhân lực cho tỉnh.

Bình Dương có 29 KCN; 12 cụm công nghiệp, thu hút hơn 35.548

doanh nghiệp, trong đó 3.397 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đến từ 64 quốc

gia, vùng lãnh thổ, giải quyết từ 40 đến 50 nghìn chỗ làm việc mỗi năm, thu

nhập bình quân từ 5,5 - 6,5 triệu đồng/người/tháng. Toàn tỉnh hiện có trên 1,2

triệu lao động, chiếm trên một nửa dân số của tỉnh, trong đó có trên 80% lao

động đến từ các tỉnh, thành phố khác [126].

Gia tăng dân số

Qui mô dân số so với các tỉnh, thành khác trong vùng Đông Nam Bộ,

Bình Dương có quy mô dân số thấp nhưng tốc độ gia tăng dân số cao. Khi

mới thành lập tỉnh (năm 1997), dân số có Bình Dương có 679.044 người đến

năm 2010 dân số tăng lên 1.619.930 người và đến cuối năm 2018 dân số Bình

Dương tăng lên 2.300.000 người [19].

Ở Bình Dương gia tăng dân số tự nhiên theo quy luật: sinh thô giảm,

tốc độ gia tăng tự nhiên chậm và giảm dần. Năm 1999 gia tăng tự nhiên là

1,53% đến năm 2010 là 1,06%. Và đến năm 2017 là 0,8%. Tỉ lệ gia tăng dân

số tự nhiên thấp hơn so với cả nước. Đó là kết quả của sự nỗ lực đúng hướng

với nhiều biện pháp. Trước hết, đó là sự nỗ lực của các cơ quan chức năng, sự

tiến bộ trong nhận thức và những thành tích đạt được trong công tác kế hoạch

61

hóa gia đình, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Bình Dương là một tỉnh có diện tích và số dân thuộc loại nhỏ so với các

tỉnh, thành trong cả nước, song mật độ dân số trung bình (năm 2017 là 741

người/km2) lại cao hơn mức bình quân của cả nước (404 người/km2). Trên

địa bàn tỉnh, sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các huyện thị. Sự chênh

lệch về mật độ dân số giữa nơi cao nhất và thấp nhất lên tới 35 lần (so với

huyện Dầu Tiếng huyện có mật độ dân số thưa nhất). Nguyên nhân: các thành

phố, thị xã kinh tế đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, là nơi tập trung đa số

các trung tâm công nghiệp trên địa bàn tỉnh vì vậy thu hút nhiều lao động

trong và ngoài tỉnh về đây làm việc (mật độ dân số cao một phần do dân nhập

cư nhiều). Còn ở các huyện như Dầu Tiếng, Phú Giáo hoạt động kinh tế chủ

yếu là nông nghiệp, kinh tế chưa thực sự phát triển mạnh nên một bộ phận lao

động di cư sang các thành phố, thị xã kiếm việc làm, trong khi diện tích đất

đai lại tương đối lớn nên mật độ dân số thấp hơn so với các huyện, thành phố,

thị xã, khác.

Tốc độ gia tăng dân số tự nhiên giảm đáng kể nhưng số dân tăng hàng

năm vẫn không giảm. Có thể nói dân số Bình Dương có sự biến động không

chỉ phụ thuộc vào gia tăng tự nhiên mà còn phụ thuộc vào gia tăng cơ học.

Tăng dân số của Bình Dương chủ yếu là do gia tăng cơ học. Nguyên nhân do

kinh tế phát triển nhanh. Trong thời gian qua Bình Dương thu hút nhiều người

dân từ các tỉnh trong cả nước mà chủ yếu là từ các tỉnh phía Bắc. Trung bình

mỗi năm tỉnh Bình Dương có thêm 40 đến 50.000 người nhập cư, phần lớn là

những người trong tuổi lao động và tập trung chủ yếu ở phía Nam của tỉnh -

nơi tập trung nhiều các khu công nghiệp như thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An và

thành phố Thủ Dầu Một.

Lực lượng lao động của tỉnh Bình Dương hiện nay.

Bình Dương hiện có hơn 35.000 doanh nghiệp, số doanh nghiệp này đã

tạo việc làm cho hơn 1.2 triệu lao động trong và ngoài tỉnh. Công tác chăm lo

62

đời sống vật chất và tinh thần cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống cho

công nhân đang làm việc và sinh sống tại Bình Dương là mối quan tâm đặc

biệt của lãnh đạo và các cấp, các ngành trong tỉnh. Ngoài các chính sách hỗ

trợ cho người lao động như dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm, hàng năm

tỉnh còn tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa khác nhằm đẩy mạnh công tác

vận động các ngành các cấp, các doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân

trong tỉnh cùng quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân.

Mỗi năm Bình Dương thu hút từ 400 - 500 dự án đầu tư mới với nhu cầu lao

động hơn 50.000 người, lực lượng lao động trong tỉnh không đủ đáp ứng, thị

trường trong tỉnh luôn sôi động, người lao động có nhiều cơ hội để lựa chọn

việc làm. Vì vậy, ngoài giải quyết việc làm cho lao động trong tỉnh, Bình

Dương còn trở thành điểm đến của lao động ngoài tỉnh và có không ít lao

động đã chọn Bình Dương là quê hương thứ hai. Hiện nay, số lao động ngoài

tỉnh đến lao động làm việc chiếm hơn 80% so với tổng số lao động đang làm

việc. Với nguồn lao động nhập cư và lao động của tỉnh đã đáp ứng tương đối

nhu cầu lao động của các doanh nghiệp về số lượng cho hoạt động sản xuất.

Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp hiện nay đã từng bước sử dụng máy

móc công nghiệp tiên tiến trong hoạt động sản xuất, nên đòi hỏi người lao

động phải có tay nghề nhưng thực tế cho thấy chất lượng lao động trong các

doanh nghiệp còn thấp, phần lớn lao động được tuyển từ vùng nông thôn, hạn

chế về trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, chưa có tác phong công

nghiệp, tính tổ chức kỷ luật và tính ổn định việc làm của người lao động chưa

cao, người lao động chưa thật sự gắn bó với việc làm. Vì thế tình trạng

chuyển dịch lao động từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác vẫn xảy

ra, gây không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp do khó

ổn định được lực lượng lao động trong sản xuất.

Đời sống của công nhân tại các khu công nghiệp Bình Dương

Cùng với việc phát triển các khu, cụm công nghiệp (gọi chung là khu

63

công nghiệp) hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Dương đang hình thành các

“làng” công nhân sinh sống xung quanh các khu công nghiệp, với quy mô dân

số và tốc độ phát triển ngày càng nhanh. Hầu hết công nhân là những người

đến từ các địa phương khác mà chủ yếu xuất thân từ nông thôn. Do vậy, nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân là vấn đề mà các cấp, các

ngành tỉnh Bình Dương đặc biệt quan tâm.

Toàn tỉnh Bình Dương hiện nay có 26 khu công nghiệp tập trung và 12

cụm công nghiệp đã đi vào hoạt động, thu hút hơn 35.500 doanh nghiệp vốn

trong nước và gần 3.400 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; trong đó,

số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chiếm trên 90%. Những năm qua, lực

lượng công nhân ở các khu công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đóng

góp vào sự phát triển kinh tế của tỉnh, nhưng đồng thời đã kéo theo những hệ

lụy, tình hình an ninh, trật tự ở địa phương có đông công nhân không được

bảo đảm, tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng; điều kiện ăn, ở, sinh hoạt của

công nhân tạm bợ; đời sống tinh thần nghèo nàn,... Nguyên nhân của vấn đề

này, một phần do kết cấu hạ tầng ở những địa phương có khu công nghiệp còn

hạn chế; nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần

cho công nhân.

Đa số công nhân luôn có áp lực công việc căng thẳng, không có thời

gian và điều kiện để học tập nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cũng

như tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa văn nghệ, thể dục thể

thao, sinh hoạt cộng đồng. Trong khi, một số doanh nghiệp chưa thực sự quan

tâm chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân. Một số doanh nghiệp

còn cho rằng doanh nghiệp chỉ thực hiện các chỉ tiêu kinh tế và chăm lo đời

sống vật chất cho người lao động, còn chăm lo về mặt văn hóa tinh thần

không thuộc trách nhiệm của họ.

Công nhân có tâm lý là làm việc và tăng ca để kiếm thêm tiền trang trải

cuộc sống hoặc gửi về phụ giúp gia đình, nên không có thời gian nắm bắt

64

thông tin về những vấn đề chính trị - xã hội, đường lối, chủ trương, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Điều dễ nhận thấy là, công nghiệp đã đem

lại cho công nhân cuộc sống ngày càng khá hơn, mức sống của công nhân

từng bước được cải thiện, nhưng sự giao thoa và biến đổi văn hóa cũng đã

làm nảy sinh không ít tiêu cực trong nếp sống đã phá vỡ một phần trong quan

hệ đạo đức truyền thống.

Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, Bình Dương cơ bản trở thành

tỉnh công nghiệp và là đô thị loại I trực thuộc Trung ương, vì vậy, những năm

tới, tỉnh sẽ tiếp tục đẩy mạnh phát triển nhanh về công nghiệp và hằng năm

cần thu hút trên 40.000 người lao động. Theo đó, dự báo đến năm 2020, lực

lượng lao động trên địa bàn tỉnh đạt khoảng trên 1,4 triệu người, đây là lực

lượng có vai trò quan trọng, đóng góp to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa của tỉnh; đồng thời, cũng đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm giải

quyết, đặc biệt là vấn đề đời sống vật chất và tinh thần của lực lượng này.

2.2.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội trên địa bàn Thị xã Dĩ An

Thị xã Dĩ An nằm giáp ranh giữa 3 tỉnh thành là Bình Dương, thành phố

Hồ Chí Minh và thành phố Biên Hòa, Đồng Nai nên Dĩ An có vị trí hết sức

thuận lợi, có hệ thống giao thông thuận lợi cả đường bộ, đường thủy, đường sắt

dễ dàng thu hút nguồn vốn, nguồn nhân lực khoa học - kỹ thuật, đồng thời lại sử

dụng được hầu hết các cơ sở hạ tầng sẵn có của thành phố Hồ Chí Minh như: sân

bay, nhà ga, bến cảng, đường bộ. Trong những năm qua, vận dụng đường lối đổi

mới của Đảng với tư duy kinh tế dám nghĩ, dám làm của lãnh đạo, đặc biệt Bình

Dương là tỉnh có chính sách thông thoáng, “trải thảm đỏ” để thu hút đầu tư trong

nước và nước ngoài nên kinh tế tỉnh có tốc độ phát triển khá cao, đặc biệt là

trong lĩnh vực phát triển công nghiệp và xây dựng.

Dĩ An là điểm xuất phát đầu tiên về phát triển KCN của tỉnh Bình Dương

với khu công nghiệp Sóng Thần 1 vào năm 1995 đến nay thị xã Dĩ An có 6 khu

65

công nghiệp đang hoạt động, việc phát triển KCN ở thị xã Dĩ An ảnh hưởng rất

lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và của tỉnh Bình

Dương nói chung.

Hiện nay thị xã Dĩ An có khoảng 30 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư

và nhiều nhất là: Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông và Trung Quốc. Vốn FDI

nước ngoài đầu tư trong nhiều lĩnh vực: xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất

kinh doanh, dịch vụ trong đó nhiều nhất là sản xuất công nghiệp, chủ yếu là

công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, điện tử…

Thị xã Dĩ An là đơn vị hành chính nhỏ nhất của tỉnh Bình Dương với diện

tích 60,05 km2 chỉ chiếm 2,2% diện tích toàn tỉnh. Thị xã Dĩ An có 7 phường

gồm: Phường An Bình, Bình An, Bình Thắng, Dĩ An, Đông Hòa, Tân Bình, Tân

Đông Hiệp.

Cơ sở hạ tầng ở các KCN hoàn chỉnh đứng đầu trong tỉnh, đáp ứng nhu

cầu sản xuất và thu hút đầu tư, ngoài ra thị xã Dĩ An đã tập trung phát triển hệ

thống giao thông công cộng, bến bãi đậu xe, kết hợp với chỉnh trang đô thị làm

cho diện mạo đô thị ngày càng khang trang, hiện đại, xứng tầm với một đô thị

loại III. Bên cạnh việc tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, việc thực hiện

hạ tầng điện, cấp thoát nước, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường cũng được thị

xã Dĩ An hết sức quan tâm, đầu tư. Việc đầu tư đồng bộ các kết cấu này nhằm

đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh sống của người dân trên địa bàn, tạo sức hút

lớn đối với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.

Dĩ An là đô thị đông dân thứ 2 trong toàn tỉnh, với vị trí nằm ngay ngã ba

của 3 thành phố lớn và đông dân là: thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Biên

Hòa, thành phố Thủ Dầu Một nên có thị trường tiêu thụ rất rộng lớn, đây là động

lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp trong các KCN

trên địa bàn.

Mặc dù Dĩ An là địa phương có diện tích nhỏ nhất trong tỉnh nhưng có

dân số đông đứng thứ 2 trong 9 huyện, thị của toàn tỉnh và có mật độ dân số

66

cao nhất tỉnh 6568 người/km2 cao gấp gần 10 lần mật độ trung bình của toàn

tỉnh 723 người/km2. Dân số thị xã Dĩ An tăng nhanh có nguyên nhân chủ yếu

do công nghiệp phát triển mạnh nên thu hút lao động từ các địa phương khác.

Cơ cấu dân số theo giới tính có sự chênh lệch khá lớn, tỉ lệ nữ giới cao

hơn nam giới, nguyên nhân chủ yếu do các ngành công nghiệp trong các KCN

trên địa bàn thị xã Dĩ An chủ yếu là các ngành công nghiệp nhẹ: may mặc,

giày da cần lao động nữ nên lượng lao động nhập cư chủ yếu là lao động nữ,

từ đó dẫn tới có sự chênh lệch lớn về cơ cấu dân số theo giới tính, Tỉ lệ giới

tính nữ chiếm 59,2% và Nam chiếm 40,8 %. Cao hơn mức trung bình của tỉnh

Bình Dương (Nữ 56,6% nam 43,4%).

Dĩ An có cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ số người trong tuổi lao động cao

75,6%, do nhu cầu của sự phát triển các ngành công nghiệp, KCN nên cần

nguồn lao động trẻ từ địa phương cũng như lao động nhập cư từ các địa

phương khác đến.

Tì ì oạt độ các k u cô iệp trê địa b T ị x Dĩ A

Vị trí các k u cô iệp

Dĩ An chiếm tỷ lệ khá lớn và trong số 43 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu

tư vào tỉnh Bình Dương riêng thị xã Dĩ An có khoảng 30 quốc gia và vùng

lãnh thổ đầu tư vào nhiều nhất là: Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông và Trung

Quốc. Vốn FDI nước ngoài đầu tư trong nhiều lĩnh vực: xây dựng kết cấu hạ

tầng, sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong đó nhiều nhất là sản xuất công

nghiệp, chủ yếu là công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, điện tử…

Đất sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau trong đó đất xây dựng các

KCN là 1075,9 ha chiếm 17,9% tổng quỹ đất gồm: KCN Sóng Thần 1 (178

ha), KCN Bình Đường (16,5) ha, KCN Sóng Thần 2 (279,27 ha), KCN Tân

Đông Hiệp A (52,8 ha), KCN Tân Đông Hiệp B (169,9 ha), KCN dệt may

Bình An (25,9 ha).

Về qui mô, tổng quy mô các KCN trên địa bàn thị xã Dĩ An có diện

67

tích 715,46 ha, qui mô đa dạng có thể chia làm 2 loại:

Qui mô lớn trên 150 ha: Có 3 KCN là KCN Sóng Thần 2, Sóng Thần 1

và Tân Đông Hiệp B chiếm 86,7% .

Qui mô nhỏ: 3 KCN là Bình An, Tân Đông Hiệp A và Bình Đường

chiếm 13,3%. Trong đó KCN Bình Đường là KCN đầu tiên và cũng là KCN

có qui mô nhỏ nhất trong toàn tỉnh Bình Dương với diện tích chỉ 16,5 ha.

Sản phẩm trong các KCN đa dạng và phong phú trong đó có một số

ngành có thế mạnh chủ yếu thuộc nhóm ngành CN nhẹ, CN chế biến hàng

tiêu dùng: CN may mặc, CN giày da ...Các sản phẩm chủ lực trong các KCN

dựa trên thế mạnh về nguồn nguyên liệu tại chỗ, nguyên liệu nhập, nguồn

nhân công giá rẻ, thị trường tiêu thụ rộng lớn cả trong và ngoài nước, đem lại

hiệu quả kinh tế cao cho nhà đầu tư.

Hiện nay nhờ vận dụng tốt các chính sách của Đảng, nghị quyết của

Trung ương áp dụng thông thoáng trên địa bàn tỉnh Bình Dương và ở Dĩ An.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, nhanh gọn

với tinh thần cầu thị, tôn trọng hỗ trợ doanh nghiệp của đội ngũ cán bộ công

chức và chính quyền địa phương các cấp, lãnh đạo địa phương thực sự quan

tâm giải quyết các khó khăn của doanh nghiệp, nỗ lực cải thiện môi trường

đầu tư và xúc tiến thương mại… Đã tạo ra một môi trường đầu tư thông

thoáng, thu hút mạnh nguồn lực đầu tư cả trong và ngoài nước nhờ đó các

KCN ở thị xã Dĩ An có tỷ lệ lấp đầy cao nhất trong tỉnh.

Tình trạng công nhân, mô tả v i ét ơ bộ về s lượng CNLĐ trê

địa bàn thị x Dĩ An.

* Về quy mô: Dĩ An hiện có trên 2.240 doanh nghiệp sản xuất nằm

trong và ngoài khu, cụm công nghiệp góp phần giải quyết việc làm cho trên

200.000 lao động chiếm khoảng 52% dân số.

Về độ tuổi: lao động dưới 35 tuổi chiếm hơn 80%, lao động ngoài tỉnh

chiếm 72%. Các doanh nghiệp trên địa bàn thị xã phần lớn là doanh nghiệp vừa và

68

nhỏ. Quá trình hoạt động, người lao động cũng biến động nhưng không đáng kể.

* Về tiền lương và thu nhập: Công nhân lao động khu vực doanh nghiệp,

tiền lương có tăng lên do Nhà nước hàng năm có điều chỉnh tiền lương tối thiểu

vùng, địa bàn thị xã Dĩ An thuộc vùng I, hiện nay mức lương bình quân là 5,2

triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, trước tình hình giá cả các mặt hàng thiết

yếu ngày càng tăng, ảnh hưởng đến đời sống của người lao động, thu nhập

không đủ trang trải các chi phí trong sinh hoạt, nên đời sống công nhân còn gặp

nhiều khó khăn. Đa số các doanh nghiệp, cơ sở trên địa bàn thị xã đều có xây

dựng thang bảng lương, có chế độ nâng lương, nâng bậc cho người lao động

theo qui định của pháp luật lao động, tuy nhiên vẫn còn một số doanh nghiệp

chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm như trong xây dựng thang lương,

bậc lương và tỷ lệ nâng lương thấp để làm cơ sở ký kết hợp đồng lao động

nhằm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp thấp, ảnh

hưởng đến quyền lợi của người lao động.

* Về điều kiện lao động, môi trường lao động, an toàn lao động: Các

doanh nghiệp có đông lao động đã có các giải pháp cải thiện điều kiện làm việc

cho người lao động, quan tâm trang bị dụng cụ bảo hộ lao động, khám sức

khỏe định kỳ, khám bệnh nghề nghiệp cho CNLĐ… Tuy nhiên, vẫn còn một số

doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chưa thực hiện nghiêm về pháp luật Bảo hộ lao

động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (doanh nghiệp gỗ là chủ yếu) …

dẫn đến tai nạn lao động, thiệt hại về kinh tế của doanh nghiệp và tính mạng,

sức khỏe của người lao động.

* Về nhà ở: Đa phần công nhân từ nơi khác đến thuê nhà trọ ở các khu

vực lân cận gần công ty để dễ đi lại làm việc, trên địa bàn hiện có trên 34.000

69

phòng trọ giải quyết cho hơn 82.000 công nhân lao động.

CHƯƠNG 3

CHÂN DUNG XÃ HỘI VÀ CUỘC SỐNG CỦA

BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN

Trong chương này, luận án sẽ tập trung tìm hiểu các đặc điểm xã hội và

cuộc sống của bà mẹ đơn thân là công nhân. Nội dung của chương sẽ phác

thảo chân dung xã hội về họ, nêu lên những đặc điểm nhân khẩu xã hội của bà

mẹ đơn thân và tìm hiểu xem đời sống vật chất và tinh thần của họ. Dựa trên

những bằng chứng thực nghiệm thu được chúng tôi cố gắng làm rõ chân dung

xã hội với các đặc điểm xã hội như nguồn gốc gia đình và đặc điểm cá nhân

của bà mẹ đơn thân; đồng thời cũng tìm hiểu rõ điều kiện sống như nhà ở,

trang thiết bị, và hoạt động giải trí của bà mẹ đơn thân. Trước tiên, chúng tôi

muốn làm rõ đặc điểm xã hội của bà mẹ đơn thân. Đặc điểm nhân khẩu xã hội

phản ánh chân dung của con người. Theo lý thuyết vốn xã hội, những đặc

điểm này chính là nguồn vốn con người. Nó là những đặc điểm của chủ thể

hành động. Với những nét đặc trưng về chân dung của mình sẽ được mô tả

dưới đây, những người nữ công nhân nuôi con một mình sẽ vận dụng các

nguồn vốn khác để đảm bảo cho gia đình đơn thân của mình như thế nào

chính là những nội dung sẽ được trình bày trong chương này.

3.1. Chân dung xã hội của bà mẹ cô â đơ t â

3.1.1 Đặc điểm nhân khẩu xã hội

Câu hỏi nghiên cứu đặt ra ở đây là bà mẹ đơn thân là công nhân có đặc

điểm nhân khẩu xã hội như thế nào? Dựa vào kết quả khảo sát mẫu định tính

và định lượng công nhân là bà mẹ đơn thân đang làm việc ở các công ty thuộc

khu công nghiệp Sóng thần 1, Sóng Thần 2, Khu Bình Đường, trong phần này

nghiên cứu sẽ làm rõ tuổi, học vấn, trình độ chuyên môn, thu nhập.

70

Tuổi, học vấn và trình độ chuyên môn

Tuổi, học vấn và trình độ chuyên môn là những yếu tố thuộc về nguồn

vốn con người như trong phần lý thuyết về nguồn vốn xã hội đã xác định.

Qua khảo sát 150 bà mẹ đơn thân, kết quả cho thấy độ tuổi của bà mẹ đơn

thân từ trong mẫu phỏng vấn có độ tuổi từ 19 đến 49, trong đó có 1/5 người có

độ tuổi trung bình từ 19 tuổi đến 25 tuổi (chiếm 21,3%). Nhóm tuổi từ 26 đến 35

chiếm phân nửa (51,3%) và nhóm còn lại, từ 36 tuổi trở lên là 27,3%.

Biểu 1: Độ tuổi của bà mẹ đơn thân (Đơn vị:%)

Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Thông tin từ cuộc phỏng vấn sâu cán bộ Sở Lao động Thương binh và

xã hội cũng xác nhận rằng, phần lớn các trường hợp mẹ đơn thân mà họ nắm

được chủ yếu rơi vào độ tuổi 26 đến 36, trong khi các trường hợp nhóm tuổi

71

trẻ hơn như dưới 20 tuổi và trên 36 tuổi ít hơn (xem hộp 1).

Hộp 1: Ý kiến của cán bộ ban ngành tỉnh Bình Dương về tuổi của bà

mẹ đơn thân

Hiện nay theo số liệu của ngành lao động thương binh xã hội chúng tôi

nắm được thì Bình Dương đang có trên 584 ngàn lao động nữ và ở độ tuổi từ

18 – 40 có tỉ lệ trên 85%. Còn về số lượng lao động nữ là bà mẹ đơn thân

nuôi con nói chung CNLĐ ở các khu công nghiệp nói riêng trên địa bàn tỉnh

Bình Dương thì cũng có và tuổi của họ còn rất trẻ. Về góc độ ngành chúng tôi

chưa khảo sát để có số liệu cụ thể và cũng chưa có chính sách, chế độ để hỗ

trợ cho đối tượng này nhưng chúng tôi có chế độ chính sách cho người nghèo

nếu người lao động là người của địa phương và thuộc diện hộ nghèo thì cũng

được hưởng chế độ này còn chế độ riêng thì chưa có. (Nam, 51 tuổi, Sở

LĐTB&XH tỉnh Bình Dương).

Hiện nay công đoàn Bình Dương đang rất quan tâm đến hiện tượng bà

mẹ đơn thân là công nhân nuôi con ngày càng nhiều, tuổi của bà mẹ đơn thân

thường ở độ 26, 27 tuổi, số ít còn lại là những phụ nữ tuổi trên 30 tuổi. Nhóm

bà mẹ đơn thân ở các độ tuổi này thường có con vẫn còn rất nhỏ, các cháu

đang học ở mẫu giáo hoặc tiểu học (Nữ 42 tuổi, LĐLĐ tỉnh Bình Dương).

Thực tế cho thấy những công nhân khi mới đến các khu công nghiệp tuổi

đời rất trẻ, họ chỉ học hết cấp 2 hoặc mới tốt nghiệp cấp 3. Do sống xa nhà

thiếu thốn tình cảm, quan hệ yêu đương với bạn trai, có quan hệ tình dục

nhưng thiếu kiến thức về phòng tránh thai nên nhiều trường hợp lỡ có thai và

không thể bỏ, sau khi có thai, công việc thường khó khăn và người bạn trai

cũng bỏ và họ rơi vào cảnh đơn thân một mình nuôi con. Một số trường hợp

họ chủ động trở thành bà mẹ đơn thân, nhưng thực tế số này không nhiều.

Trình độ học vấn;

Trình độ học vấn của bà mẹ đơn thân cũng là một chỉ báo quan trọng

72

được nghiên cứu này quan tâm. Bởi chỉ báo này sẽ có liên quan không chỉ

công việc mà còn là các hệ quả trở thành bà mẹ đơn thân. Điều này cũng cho

thấy bà mẹ đơn thân ở nhiều cấp học khác nhau, làm mẹ đơn thân là lựa chọn

của không riêng bất kì phụ nữ ở trình độ nào. Kết quả khảo sát cho thấy bà mẹ

đơn thân có trình độ: Tiểu học ít (5,3%), chủ yếu là THCS 47,3% và THPT

47,3%, điều đáng quan tâm là trong mẫu khảo sát nhóm có trình độ trung học

cơ sở khá đông. Với trình độ học vấn này sẽ liên quan trực tiếp công việc, thu

nhập mà bà mẹ đơn thân đang làm hiện nay.

Biểu 2: Trình độ học vấn của bà mẹ công nhân đơn thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Các số liệu vừa cho thấy trình độ học vấn của bà mẹ đơn thân thấp. Các

thông tin phỏng vấn sâu khi hỏi hồi cố về quá khứ của họ cho thấy điều kiện

kinh tế gia đình khó khăn nên đã buộc họ phải nghỉ học sớm để tham gia mưu

sinh giúp đỡ gia đình. Điều quan trọng là học vấn thấp sẽ ảnh hưởng đến ổn định

công việc cũng như cuộc sống của nữ công nhân là bà mẹ đơn thân.

Trình độ chuyên môn;

Bên cạnh các yếu tố về tuổi, trình độ học vấn, nghiên cứu cũng quan

tâm đến yếu tố trình độ chuyên môn của bà mẹ đơn thân là công nhân đang

73

làm việc ở các doanh nghiệp ở Bình Dương hiện nay.

Bảng 1 Trì độ chuyên môn của bà mẹ đơ t â (Đơ vị %)

Chuyên môn Chưa qua tạo Cao đẳng Đại học Tổng

Trường hợp Tỷ lệ % đào tạo 53 35,3 Đào tại DN 65 43,3 Trung cấp nghề 10 6,7 5 3,3 17 11,3 150 100%

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Bảng 1: cho thấy trình độ chuyên môn của bà mẹ công nhân đơn thân

thấp, họ chủ yếu là lao động giản đơn được tuyển dụng vào doanh nghiệp

được tham gia đào tạo trước khi làm việc. Trong số bà mẹ đơn thân được

phỏng vấn có đến 35,3% chưa qua các lớp đào tạo nghề, và có 43,3% công

nhân đã được đào tạo nghề tại doanh nghiệp; điều đáng quan tâm là số công

nhân có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên rất ít, trong đó số bà mẹ có

trình độ trung cấp có 6,7%, cao đẳng có 3,3% và đại học có 11,3% .

Thực tế khảo sát cho thấy do nhu cầu của doanh nghiệp về sử dụng lao

động không đòi hỏi kỹ thuật quá cao, công việc chủ yếu chỉ cần các thao tác

quen tay, quen việc là có thể đáp ứng được công việc gia công may mặc, giày

da, lắp ráp linh kiện điện tử, v.v… nên không đòi hỏi phải đào tạo lao động

chất lượng cao có trình độ cao đẳng, đại học. Hơn nữa, doanh nghiệp luôn đề

cao vấn đề lợi nhuận lên hàng đầu, chính vì vậy giá thành thuê một lao động

phổ thông bao giờ cũng ưu đãi hơn một lao động trình độ cao trong một công

việc không đòi hỏi nhiều về trình độ.

3.1.2 . Số con

Số con cùng với lý do ban đầu làm mẹ đơn thân tỉ lệ thuận với nhau.

Theo kết quả điều tra mẫu 150 bà mẹ đơn thân ở địa phương cho thấy, có

65% là mẹ một con; 33% là mẹ 2 con, chỉ 2% là có 3 con ngoài ra không có

trường hợp khác như 4 con trở lên.

Lý giải về nguyên nhân dẫn đến khác biệt số con giữa các phụ nữ

chúng tôi cho rằng hoàn cảnh của họ là khác nhau, có con ngoài hôn nhân

thường là do tình yêu sau đó mang thai xong không được cưới, một số khác là

74

do phụ nữ quá lứa, lỡ thì mong muốn có một đứa con để có chỗ nương tựa về

sau nên thường chuyện đó chỉ diễn ra một lần. Còn đối với những gia đình

đơn thân có từ 2 đến 3 con thường là do họ chung sống với nhau nhưng không

được hạnh phúc dẫn đến chia tay. Để khảo sát kỹ hơn hoàn cảnh của bà mẹ

đơn thân, chúng tôi đã tìm hiểu tuổi con của bà mẹ đơn thân ở Bình Dương.

Biểu 3: Số con của nữ công nhân là mẹ đơn thân.

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Số con cũng là một chỉ báo về chân dung của bà mẹ đơn thân, bởi điều

này sẽ liên quan rất nhiều đến những khó khăn trong công việc và cuộc sống

của họ khi số thành viên trong gia đình gia tăng.

Độ tuổi của con cái;

Kết quả khảo sát cho thấy, tại thời điểm điều tra, 86.7% nữ công nhân

có con dưới 6 tuổi, chỉ 13.3% là con trên 6 tuổi. Vấn đề này đơn thuần chỉ là

độ tuổi của con chứ nó không mang nhiều ý nghĩa bởi lẽ nó phụ thuộc vào đối

tượng điều tra, thời điểm điều tra.

Bảng 2: Độ tuổi của con cái trong gia đình mẹ đơn thân

Độ tuổi Dưới 6 tuổi Trên 6 tuổi Tổng

Trường hợp 130 20 150

Tỉ lệ % 86,7 13,3 100%

75

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Số liệu trên cho thấy rõ phần lớn tuổi con của bà mẹ đơn thân là rất nhỏ,

điều này tất yếu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống vật chất, tinh thần của

bản thân họ, bởi giai đoạn con cái nhỏ, các bà mẹ sẽ phải dành nhiều thời gian

cũng như phải chi phí nhiều hơn bao gồm các chi phí như học phí gửi con,

tiền sữa, thuốc thang khi con ốm, v.v…Các thông tin này sẽ được phân tích

kỹ hơn ở các phần tiếp theo của luận án.

3.1.3 Hoàn cảnh gia đình

Hoàn cảnh gia đình cũng là một chỉ báo phản ánh đặc điểm của bà mẹ

đơn thân hiện nay. Bà mẹ đơn thân có nguồn gốc xuất thân như thế nào? Các

thông tin dưới đây sẽ trả lời câu hỏi này.

Bảng 3: Nguồn gốc xuất thân của Bà mẹ công nhân đơn thân

Nguồn gốc xuất Người Người địa Tổng

thân địa phương phương khác

Trường hợp 36 114 150

Tỉ lệ % 24 76 100%

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Kết qủa khảo sát cho thấy nguồn gốc cư trú của nhóm bà mẹ công nhân

đơn thân ở địa bàn khảo sát chỉ có 24% là người dân địa phương, còn lại là

người từ các địa phương khác. Các bằng chứng này có thể khẳng định là

nguồn gốc xuất thân của bà mẹ đơn thân chủ yếu là ở các địa phương bên

ngoài đến sinh sống và làm việc ở Bình Dương. Với một tỉnh công nghiệp lớn

như Bình Dương không thể nào người dân địa phương đáp ứng đủ số lượng

lao động, nhập cư cũng là một xu thế của sự phát triển khu công nghiệp.

Không chỉ tại Bình Dương mà tất cả các khu công nghiệp nói chung thì nguồn

lao động chủ yếu đều từ nơi khác đến. Họ đều xuất thân từ những vùng quê

còn nhiều khó khăn và đi tìm mảnh đất tốt nhằm cải thiện cuộc sống. Thông

tin PVS ở các hộp trên cũng cho thấy bà mẹ đơn thân đến từ các tỉnh thành

76

khác nhau trên cả nước, trong đó có những địa phương gần Bình Dương,

nhưng có những công nhân đến từ những tỉnh thành rất xa ngoài phía Bắc như

Thanh Hóa, Nam Định, Hòa Bình.

Hộp 2. Ý kiến của bà mẹ đơn thân về việc đến Bình Dương

“Em vào Nam năm 2012 nhưng đến Bình Dương thì mới từ năm ngoái

năm 2017 tới giờ. Vì ở Bình Dương cũng dễ sống hơn, công việc làm ở đây

lương cũng tương đối sống đủ cho 2 mẹ con.” (LTO, 33 tuổi, Thanh Hóa)

“Một người bạn em ở quê rủ em vào Bình Dương làm công nhân tại công

ty giày Liên Phát. Em xin phép anh chị và theo bạn vào xin làm công nhân.

(LTMD, 30 tuổi, Bình Định).

Thế nhưng cuộc sống không chỉ êm đềm là miếng cơm, manh áo mà

còn có những thứ khác đó là tình cảm, thứ khó định hình, định dạng ấy lại vô

cùng phức tạp, nó không thuận chiều là yêu, cưới rồi kết hôn mà đôi khi tách

dòng có những trường hợp đặc biệt lại là mẹ đơn thân.

3.1.4 Lý do làm mẹ đơn thân

Câu hỏi tiếp tục đặt ra là lý do vì sao dẫn đến việc họ trở thành bà mẹ

công nhân đơn thân, nhiều nghiên cứu trước đã cho thấy hoàn cảnh của người

phụ nữ nuôi con một mình xảy ra ở các trường hợp như: ly hôn, ly thân, có

con ngoài hôn nhân, góa… Vậy bà mẹ đơn thân là công nhân ở Bình Dương

có hoàn cảnh tương tự không?

Cho đến nay, số lượng công nhân làm mẹ đơn thân tại Bình Dương vẫn

chưa được thống kê chính thức, tuy nhiên, qua nắm bắt số liệu báo cáo từ các

công đoàn cơ sở có đông lao động nữ ở Bình Dương cho thấy, số lượng nữ

công nhân đơn thân đang ngày càng tăng lên. Ngoài ra một xu hướng mới có

con ngoài hôn nhân của bà mẹ đơn thân là chủ động có con mà không tiến tới

xác lập hôn nhân và khảo sát đề tài cũng cho thấy bà mẹ đơn thân tại các

77

doanh nghiệp hiện nay tuổi đời rất trẻ, con cái còn rất nhỏ và hoàn cảnh người

thân, gia đình ở xa nơi làm việc. Học vấn, trình độ chuyên môn của bà mẹ

đơn thân không cao có quan hệ mật thiết với mức thu nhập và tình trạng hợp

đồng lao động của bà mẹ đơn thân đang làm việc trong các khu công nghiệp ở

Bình Dương.

Kết hôn sớm và ly hôn sớm ở giới trẻ hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề

cho gia đình và xã hội. Bên cạnh đó cũng phản ánh được phụ nữ trẻ hiện nay

dễ dàng đưa ra quyết định và chấp nhận làm mẹ đơn thân hơn so với phụ nữ

trong xã hội trước kia. Tuy biết trước đời sống gia đình công nhân đơn thân sẽ

gặp nhiều khó khăn nhưng họ vẫn chấp nhận và những bà mẹ công nhân đơn

thân với mức thu nhập như hiện nay sẽ khó khăn nhiều trong việc tổ chức và

nuôi dạy con và con số này hiện nay là rất nhiều trong các khu công nghiệp và

địa bàn đông lao động như Bình Dương.

Biểu 4. Lý do ban đầu trở thành mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Kết quả định lượng cho thấy, những người phụ nữ xác nhận tình trạng

đơn thân do có con ngoài hôn nhân chiếm tỷ lệ cao nhất (47,3%). Tiếp theo là

nhóm đã li hôn hoặc li thân (30,7%). Bên cạnh đó, một số người xác nhận

78

rằng họ không sống chung với chồng nhưng không nói rõ lý do (15,3%). Các

trường hợp còn lại chiếm 6,7%. Những dữ liệu định tính cũng cho thấy có

khoảng 1/3 những bà mẹ đơn thân tại khu vực khảo sát đã từng có gia đình

nhưng sau đó ly hôn hoặc ly thân. Nhóm những người phụ nữ này được coi là

“danh chính ngôn thuận” vì họ đã từng kết hôn. Tuy vậy, hầu hết các bà mẹ

này đều không được người chồng hỗ trợ cho việc nuôi con.

Tại các khu tập thể hay các khu nhà trọ tự phát, người ta không ngần

ngại nói về hoàn cảnh sống chung không hôn thú hoặc có quan hệ thân thiết

như đôi lứa của các cô gái lao động nhập cư. Có những người đã sống với

nhau như vợ chồng, nhưng khi thấy các cô gái có con, họ đã bỏ đi. Những

người phụ nữ này hoàn toàn không có tư cách pháp lý gì để buộc người cha

của đứa trẻ chia sẻ về kinh tế hay thăm hỏi con cái. Chị ĐTL bày tỏ: “Chị với

ổng lúc đầu thấy được thì ở chung thôi, đâu có cưới hỏi gì lúc đó chị cũng 30

tuổi rồi, biết chị có thai 3,4 tháng nhà ảnh phản đối giữ lắm, nhà ảnh ở miền

Tây họ nó chị ở miền Bắc xa lắm họ không thích, lúc chị mang thai gần đến

ngày sinh thì anh bỏ đi. Nghe nói đâu theo con nhỏ nào đó vì mình không có

gì ràng buộc mà.”( ĐTL, 31 tuổi). Tương tự như vậy, LTMD “Đã từng quen

và sống chung 2 năm như vợ chồng với một thanh niên kém 5 tuổi, mang thai

và sinh con một mình. Không được sự ủng hộ và chăm sóc của gia đình,

người thân. Về quê sinh con, được 5 tháng thì cùng con trở lại Bình Dương

làm việc. Từ khi sinh con đến nay đối tác không một lời hỏi han, chăm sóc,

không chu cấp, trước tự sống bằng tiền trợ cấp thai sản, sau tự đi làm, tự

trang trải nuôi con”.(LTMD, 30 tuổi).

Cũng có người có quan hệ tình dục với người yêu, nhưng đã không

muốn có trách nhiệm với cái thai của người mình yêu như THL, một cô gái

mới lên Bình Dương làm hơn một năm: “Em quen bạn trai cùng chỗ làm và

khi biết có thai bạn trai bỏ đi luôn, Hiện con trai em đã được 26 tháng

79

tuổi”.(THL, 18 tuổi).

Như vậy có thể thấy, luật hôn nhân và gia đình mới chỉ bảo vệ những

người mẹ và những trẻ em trong các gia đình có các cặp vợ chồng được công

nhận về mặt pháp lý. Tức là chỉ có những người mẹ đã kết hôn mới có tư cách

pháp lý để ra tòa buộc người cha phải chia sẻ trách nhiệm nuôi con.

Từ một góc độ khác, khi chấp nhận hoàn cảnh, những người mẹ đơn

thân đã rất nỗ lực vượt qua những thách thức để nuôi con cái của mình. Tuy

không được hỗ trợ về mặt vật chất nhưng họ cũng được hỗ trợ về mặt tinh

thần. Khi trả lời phỏng vấn, nhiều chị chia sẻ rằng họ cũng không ngại khi

không có chồng mà có con vì xung quan họ cũng có nhiều người như vậy,

rằng họ thấy xã hội bây giờ cũng không quá khắt khe với việc nuôi con một

mình. Bên cạnh đó, họ cũng nhận được nhiều sự chia sẻ, thông cảm hơn từ

những người xung quanh. Một nữ công nhân 30 tuổi là người nhập cư nói:

“Lý do để trở thành mẹ đơn thân do cũng được anh chị trong gia đình

khuyên, bạn bè khuyên, một phần do thai đã quá lớn một phần do lớn tuổi và

bản thân cũng nghĩ sẽ không ai dám quen và lấy mình nữa nên muốn giữ lại

thai nhi và quyết định trở thành bà mẹ đơn thân” (LTMD, 30 tuổi).

Một phần do điều kiện kinh tế xã hội phát triển, việc kiếm tiền của phụ

nữ cũng khá thuận lợi khi các nhà máy xí nghiệp mọc lên và họ trở thành

những công nhân. Tuy không hề nhàn hạ nhưng thu nhập hàng tháng có thể tự

nuôi con mặc dù có nhiều khó khăn. “Em thấy xung quanh mình nhiều người

có hoàn cảnh như mình lắm, nhiều nhiều lắm nói chung thời buổi này người

ta làm kinh tế có thu nhập rồi nên người ta không phụ thuộc vào đàn ông, nếu

người đàn ông đó mà như thế nào thì sẽ ly thân hoặc là ly hôn chứ không như

hồi xưa như ông bà mình là phải cam chịu vì con tại vì hồi xưa mẹ mình, bà

mình đâu có đi làm kinh tế được nên phải phụ thuộc vào chồng hà còn bây

giờ thời nay không có như vậy đàn ông thấy mà không hợp là chia tay tại vì

thời nay mình làm kinh tế được có thể tự lo cho mình được cho con mình

80

được mắc chi phải ôm thêm một cục nợ vào mình nữa em nói thấy có đúng

không? Bản thân em cực lo cho ở con còn phải cực chỗ chồng nữa.”(PTT, 36

tuổi, Quảng Bình).

Hay bạn Q, 22 tuổi “chị ơi có chồng chưa chắc sướng đâu, như một chị

ở cùng dãy phòng trọ với em nè, mang tiếng có chồng chứ toàn phải làm nuôi

chồng thôi, còn chồng thì chỉ biết nhậu và đánh vợ thôi mà đánh dã man lắm

còn chẳng biết làm gì, nên thôi em chẳng cần chồng như vậy, ở vậy với con tự

do hơn”.

Từ những phân tích trên cung cấp cái nhìn rõ hơn những bà mẹ đơn

thân là công nhân, đây là nhóm xã hội mới, đang gia tăng về số lượng, nhóm

phụ nữ này thiếu sự hỗ trợ từ phía người chồng và họ hàng, gia đình nhà

chồng trong cuộc sống nói chung và lĩnh vực kinh tế hộ gia đình nói riêng.

Điều này có thể tạo nên những điểm khác biệt trong cuộc sống của họ so với

nhóm phụ nữ khác trong xã hội. Ngoài ra, những nghiên cứu còn cung cấp cơ

sở khoa học giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách trong việc

xây dựng, điều chỉnh và triển khai các chính sách hỗ trợ cho nhóm phụ nữ này.

3.2. Đặc điểm công việc của bà mẹ cô â đơ t â

3.2.1. Loại hợp đồng lao động

Hợp đồng lao động của bà mẹ đơn thân đang làm việc trong các doanh

nghiệp ở địa phương hiện nay cũng là một chỉ báo được quan tâm nhằm làm rõ

công việc hiện tại của nữ công nhân là bà mẹ đơn thân có ổn định không? Qua

số liệu điều tra cho thấy 96,3% công nhân được kí hợp đồng lao động với phía

doanh nghiệp, và chỉ 3.3% không kí hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động là

một chứng từ pháp lý bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên đặc biệt là người lao động.

Đa phần những nữ công nhân là mẹ đơn thân không xác định được mình đã kí

loại hợp đồng nào (70,7%) đây là biểu hiện rõ nhất cho những thiệt thòi của

công nhân khi trình độ thấp. Còn lại chủ yếu phía doanh nghiệp sẽ kí với người

lao động hợp đồng làm việc có giá trị từ 1 đến 3 năm. Một số trường hợp khác

81

với hợp đồng dưới 1 năm thuộc vào dạng lao động thời vụ nhưng con số này

chiếm tỉ lệ thấp (2%). Như vây, kết quả cho thấy phần lớn bà mẹ đơn thân là

công nhân không xác định được hợp đồng lao động họ đang ký với doanh

nghiệp, thực tế này có 2 khả năng có thể xảy ra đó là hợp đồng dài hạn hoặc hợp

đồng ngắn hạn, và nếu đúng là hợp đồng ngắn hạn thì họ có thể mất việc bị đuổi

việc bất cứ khi nào doanh nghiệp không cần, điều này sẽ tác động đến cuộc sống

của bản thân họ và con cái.

Bảng 4: Hợp đồng lao động của nữ công nhân là bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Loại hợp Không Dưới Từ Không Tổng

đồng ký 1 năm 1-3 năm xác định

Trường hợp 5 3 36 10 150

6

Tỉ lệ % 3,3 2,0 24,0 70,7 100

%

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Có thể thấy, không phải hoàn toàn thời gian làm việc lâu thì được kí hợp

đồng dài hạn. Điều này phụ thuộc vào những chiến lược phát triển từ phía doanh

nghiệp. Còn những người lao động phải phụ thuộc cuộc sống vào sự sống còn

của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, doanh nghiệp phát đạt thì

cuộc sống của những nữ công nhân ổn định, lâu bền, tuy nhiên nếu doanh nghiệp

xảy ra khó khăn thì cuộc sống của người lao động trong đó có nhóm bà mẹ đơn

thân cũng sẽ chao đảo.

3.2.2 Tiền lương và thu nhập

Thu nhập cũng là một chỉ báo quan trọng có liên quan đến đời sống vật

chất, tinh thần của nữ công nhân là bà mẹ đơn thân. Trong lý thuyết về vốn xã

hội, thu nhập chính là nguồn vốn tài chính. Nó được coi là nguồn lực quan

trọng để đảm bảo cho cuộc sống của người lao động. Trong phần này, cách

82

sinh kế chính của những người mẹ đơn thân là làm công nhân với các ngành

nghề khác nhau, cùng với nó là nguồn thu nhập của họ sẽ được mô tả và phân

tích bằng các dữ liệu định lượng và định tính.

Công nhân lao động khu vực doanh nghiệp, tiền lương có tăng lên do

Nhà nước hàng năm có điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng, địa bàn thị xã Dĩ

An thuộc vùng I, hiện nay mức lương cơ bản là 4,2 triệu đồng/người/tháng.

Nếu tính cả tiền hiệu suất, chuyên cần, tăng ca thường xuyên thì mức lương từ

6,5 triệu – 8 triệu [19].

Không chỉ vậy, có những công ty hiện nay trả lương cho công nhân theo

hình thức sản phẩm, người công nhân muốn kiếm được nhiều tiền phải ra sức

làm việc cật lực, thậm chí không dành thời gian nghỉ ngơi vì nếu nghỉ ngơi thu

nhập sẽ ít đi, hoặc họ chấp nhận làm việc do không có điều kiện để lựa chọn

hoặc do những áp lực về những chi phí trong cuộc sống của họ và con cái buộc

phải làm việc.

Trường hợp chị VTN, 34 tuổi, công nhân công ty CT, quê Kiên Giang,

nuôi 2 con 13 tuổi và 8 tuổi, cho biết:

Về công việc, “giờ với tuổi này cũng khó đi tìm công việc, phần mình

cũng không có học hành gì vào làm được trong công ty này cũng là nhờ có

người quen giới thiệu, giờ mà đi tìm việc chỗ khác cũng khó lắm”

Kết quả nghiên cứu định lượng của đề tài luận án cũng cho thấy lương

phổ biến của nhóm mẹ đơn thân khoảng từ năm đến mười triệu. Thực tế tổng

thu nhập của người lao động đa số chỉ ở mức 7,5 triệu. Số người có mức lương

trên 10 triệu chưa tới 1/10 trong số 150 người trả lời.

Bảng 5: Thu nhập hàng tháng của bà mẹ công nhân đơn thân

Mức thu Dưới 5 Từ 5-10 Trên 10 Tổng

nhập triệu triệu triệu

Trường hợp 18 121 11 150

Tỉ lệ % 12,0 80,7 7,3 100%

83

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Có thể thấy thu nhập của công nhân là không thấp nếu so sánh với một

số ngành nghề khác tại địa phương như lao động tự do hoặc lĩnh vực dịch vụ.

Tuy nhiên, để có thể nuôi con, chăm sóc về y tế, sức khỏe và học hành cho

con cái của họ thì số thu nhập đó hoàn toàn không đủ. Còn đối với nhóm có

thu nhập dưới 5 triệu (12%) tức là chỉ nhận ở mức lương cơ bản thuộc vào

những trường hợp như học việc, không đạt hiệu suất, mất chuyên cần thì sẽ

càng khó khăn hơn. Chính vì vậy, phần lớn những người mẹ công nhân nuôi

con một mình này coi tăng ca là một cơ hội. Người có thu nhập cao như chị

DTNT không phải là nhiều: “Lương của chị không có tiền độc hại nhưng mà

có tăng ca lương được tháng 7 triệu, không tăng ca khoảng 6 triệu/tháng.”

(DTNT, 46 tuổi, Kiên Giang). Đa số các chị đều bày tỏ“Tháng mà ít tăng ca

được 5,8 triệu”. (ĐTL, 41 tuổi, Hà Tĩnh); “Tháng tăng ca đầy đủ cũng được

7 triệu, không tăng ca thì chỉ 5,2 triệu đến 5,5 triệu thôi” (PTH, 26 tuổi,

Thanh Hóa).

Với mức thu nhập như vậy nên đối với bà mẹ công nhân đơn thân, khó

khăn về kinh tế là vấn đề lớn nhất mà họ gặp phải. Trưởng Ban nữ công công

đoàn công ty ZYK cho biết: “Mặt bằng lương chung trong các công ty may,

giày da chỉ trên 5,5 triệu, nếu có tăng ca thì khoảng 7 triệu, trong khi theo quy

định của nhà nước thì quy định điều chỉnh lương 1 lần trong năm nhưng tỉ lệ

điều chỉnh lại giảm, lúc trước một lần tăng từ 11,3% rồi dần dần mỗi năm tăng

tỉ lệ càng thấp như hiện giờ tăng chỉ có 5,4%, nghĩa là mội lần tăng công nhân

không được bao nhiêu chỉ vài chục ngàn nhưng mà giá cả nhà trọ của công

nhân thì tăng vùn vụt. Giá cả hàng tiêu dùng cũng tăng theo lương”.

Nghịch lý đối với các bà mẹ đơn thân nằm ở chỗ, nếu vì phải chăm sóc

con mà không tăng ca được thì thu nhập sẽ thấp, mà nếu đi làm tăng ca thì

không ai chăm sóc con cho họ. Nếu gửi con đi nhà trẻ thì lại thêm một khoản

84

chi nữa mà thu nhập của họ khó có thể cân đối nổi.

Vì cuộc sống luôn phụ thuộc vào kinh tế, điều kiện kinh tế sẽ chi phối

mọi mặt hoạt động của con người từ đời sống vật chất như nhà ở, trang thiết

bị gia đình, trang phục mặc, ăn uống, phương tiện đi lại, cho đến tiếp cận các

dịch vụ giáo dục, y tế và vui chơi, giải trí…

3.2.3 Điều kiện làm việc

Trên địa bàn thị xã Dĩ An hiện có 06 khu và 01 cụm công nghiệp tập

trung với diện tích 828,64 ha. Có 5/6 khu công nghiệp tỷ lệ lấp kín đạt 100%,

riêng khu công nghiệp Tân Đông Hiệp B đạt 90%, thu hút 214 dự án đầu tư

nước ngoài với tổng vốn 1.367 triệu USD và 211 dự án đầu tư trong nước

đăng ký hoạt động với tổng vốn đăng ký 8.094 tỷ đồng giải quyết việc làm

cho trên 200.000 lao động.

Số công nhân lao động làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn thị xã Dĩ

An hiện có trên 200.000 người, chiếm khoảng 52% dân số của toàn thị xã. Để có

được thông tin về nơi làm việc của nữ công nhân là bà bẹ đơn thân, chúng tôi đã

đưa ra câu hỏi “Chị cho biết Loại hình doanh nghiệp chị đang làm việc hiện nay?”

Qua kết quả phỏng vấn sâu và phỏng vấn bằng bảng hỏi nhóm bà mẹ

đơn thân cho thấy lý do bà mẹ đơn thân đến tỉnh Bình Dương làm việc và sinh

sống; có lẽ lý do chính Bình Dương là mảnh đất “đất lành chim đậu” với đầy

đủ các yếu tố về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng giao thông, dịch vụ xã hội,

và ưu đãi của chính quyền địa phương nên đã thu hút được sự đầu tư của các

loại hình doanh nghiệp đến Bình Dương. Mặt khác, cũng phải đề cập đến

những chính sách tuyển dụng và ưu đãi của các công ty về nơi ở, thu nhập và

chế độ phúc lợi xã hội,.... cũng là yếu tố thu hút các nhóm nhân công tìm đến

các doanh nghiệp ở Bình Dương. Có thể thấy chúng bổ trợ cho nhau trên

85

nguyên tắc “hai bên cùng có lợi”.

Biểu 5. Loại hình doanh nghiệp nữ công nhân là mẹ đơn thân đang làm

việc (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong các KCN trên địa

bàn Dĩ An tập trung đầu tư chủ yếu ở 2 KCN Sóng Thần 1 và Sóng Thần 2,

riêng số doanh nghiệp trong nước ở 2 KCN này chiếm 73,1%, còn các doanh

nghiệp nước ngoài chiếm 89,1% trong tổng 6 KCN trên địa bàn. Đây là 2

KCN có diện tích rộng lớn, có vị trí thuận lợi được đầu tư sớm nên thu hút

đầu tư nhiều, ngoài ra, còn có 2.240 doanh nghiệp sản xuất nằm ngoài khu,

cụm công nghiệp góp phần giải quyết việc làm cho lao động và đóng góp lớn

cho sự phát triển CN của địa phương cũng như của tỉnh Bình Dương.

Trong quá trình công nghiệp hóa, Bình Dương đã có thể tự hào là một

tỉnh trong những tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa cao nhất nước, với mong

muốn gắn phát triển kinh tế với đảm bảo an sinh xã hội, tuy nhiên, vì rất nhiều

lý do, dù cho các cấp quản lý ở địa phương và các chủ doanh nghiệp đã chung

86

tay nỗ lực rất nhiều trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách nhằm mang lại

cho người công nhân một đời sống tốt nhất nhưng vẫn còn đó những lo lắng,

bất an của công nhân đối với công việc, tiền lương, điều kiện làm việc chưa

được thực hiện một cách thỏa đáng.

3.3. Tiếp cận các dịch vụ xã hội của ba mẹ cô â đơ t â

3.3.1. Nhà ở

Nhà ở và đồ dùng lâu bền theo lý thuyết về nguồn vốn xã hội là nguồn

lực vật chất (tài sản) mà con người cần có để sinh tồn.

Về nhà ở, theo giá cả thị trường nhà ở tại Bình Dương, nhà ở xã hội cho

lao động có thu nhập thấp có giá từ 115 đến 150 triệu đồng cho một căn hộ chung cư diện tích 30m2 nhà ở riêng đất nền tại các phường ven thành phố có giá từ 550 triệu đồng trở lên cho một nền đất có diện tích 100m2. Như đã biết

mức thu nhập của công nhân phải rất tiết kiệm mới đủ trang trải chi tiêu cho

bản thân và con cái. Đối với một công nhân bình thường, để sở hữu một ngôi

nhà riêng cho mình tại Bình Dương là điều không dễ dàng thì với công nhân

đơn thân nuôi con chắt chắn là điều không thể vì chi phí bỏ ra để mua nhà là

rất cao trong khi thu nhập hàng tháng của bà mẹ đơn thân rất thấp tiết kiệm

lắm mới đủ chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày của mẹ con và họ hoàn toàn

không có một chút vốn tích lũy nào.

Ở Bình Dương, đa phần công nhân từ nơi khác đến thuê nhà trọ ở các

khu vực lân cận gần công ty để dễ đi lại làm việc, trên địa bàn Dĩ An hiện có

trên 34.000 phòng trọ giải quyết cho hơn 82.000 công nhân lao động.

Công nhân tại các doanh nghiệp nói chung và là mẹ đơn thân nói riêng

đại đa số là người nhập cư nên phải thuê nhà trọ của người dân ở quanh khu

công nghiệp, kết quả điều tra cho thấy có 95/150 trường hợp chưa có nhà

riêng cho bản thân (Chiếm 63,7%), hiện vẫn lựa chọn cư trú là thuê nhà riêng

hoặc phòng trọ, (18%) trường hợp nương dựa vào người thân, chủ yếu là nhà

bố mẹ và anh, chị em, và (4%) được thuê nhà của doanh nghiệp. Số công

87

nhân ở tại địa phương có nhà riêng chỉ chiếm 14,7%.

Thông thường, các khu nhà trọ của công nhân không đảm bảo các điều

kiện sinh hoạt tối thiểu như diện tích chật hẹp, thiếu ánh sáng, thiếu nước

sạch. Về diện tích phòng trọ chủ yếu là dưới 14m2 chiếm 43,3%, 15-25m2

chiếm 35,5%. Còn không gian từ 26-150m2 chủ yếu thuộc vào nhà ở của tư

nhân chiếm tỉ lệ không cao (21,3%).

Bảng 6: Diện tích nhà ở

Diện tích Dưới 14m2 15-25m2 26-150 m2 Tổng

Trường hợp 65 53 32 150

Tỉ lệ % 43,3 35,3 21,3 100%

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Qua phỏng vấn sâu một số trường hợp như chị TTTN, 35 tuổi: “Em ở

trọ cùng với mẹ, em đi làm bà chăm cháu, diện tích phòng trọ 9m2, cộng cả

điện, nước mỗi tháng hết 1,2-1,3 triệu” Như vậy chia trung bình mỗi người

chỉ có vẻn vẹn diện tích phòng ở là 3m2, bao gồm cả vệ sinh và sinh hoạt,

khang trang hơn là trường hợp của chị ĐTNT, 46 tuổi cũng thuê một phòng

trọ 9m2 chị chỉ sống một mình cùng với con: “Chị lên đây ở trọ phòng nhỏ

9m2, ở bên Thạnh Bình. Ở có mình với con. Tại chị cũng hơi khó tính nên ở

mình, không ở với ai.”

Theo thống kê của Bộ xây dựng năm 2016 cho biết, diện tích trung

bình của 1 người đạt khoảng 20m2 có khi là hơn. Nhưng của những người

công nhân thuê trọ chỉ xoay quanh dưới 15m2 cho một gia đình. Nếu gia đình

có cả cha lẫn mẹ, nguồn thu nhập gấp đôi, chi phí sinh hoạt tăng lên không

đáng kể thì ắt hẳn họ sẽ lựa chọn cho mình một căn phòng thuê, nhà thuê có

diện tích lớn hơn. Tuy nhiên, mẹ một mình nuôi con sẽ tiết kiệm đáng kể chi

phí, họ cố gồng mình sống tạm trong không gian nhỏ một chút nhưng có thể

đấp ứng được chi phí cho con hai mẹ con là tốt rồi.

88

Kết quả kháo sát định lượng cũng cho thấy phần lớn bà mẹ đơn thân là

công nhân đang sinh sống trong các khu nhà trọ, số bà mẹ đơn thân có sở hữu

nhà ở riêng hoặc nhà ở của bố mẹ là rất thấp kết quả này đã phần nào phản

ánh khó khăn về cuộc sống vật chất của họ.

Bảng 7: Nhà ở của bà mẹ công nhân đơn thân

Nhà ở Nhà riêng Nhà của bố Nhà trọ Nhà doanh Tổng

mẹ nghiệp cho thuê

27 95 6 150 Trường hợp 22

18 63,3 4 100% Tỉ lệ % 14,7

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

3.3.2 Y tế

Tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản như dịch vụ y tế cũng là vấn đề phản ánh

thực trạng đời sống của bà mẹ đơn thân và con cái của họ. Để có được những

thông tin về nội dung này, chúng tôi đã đưa ra những câu hỏi như: chị đã gặp

những khó khăn gì trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế hiện nay.

Biểu 6: Nhóm tuổi và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Kết quả khảo sát cho thấy, bà mẹ đơn thân ở các nhóm tuổi đều gặp

89

những khó khăn giống nhau trong việc tiếp cận dịch vụ y tế. Cụ thể, cả 3

nhóm đều có tỷ lệ cao nhất và mức độ tương đương nhau về khó khăn thủ tục

bảo hiểm y tế; tiếp đến là nhóm khó khăn liên quan đến thái độ của bác sĩ và

nhân viên y tế không quan tâm đúng mong đợi của họ; nhóm khó khăn bệnh

viện xa nơi ở cũng được đề cập đến, điều đáng quan tâm là có một tỷ lệ khá

cao bà mẹ đơn thân ở cả 3 nhóm tuổi cho biết khó khăn chi phí khám chữa

bệnh cao so với thu nhập của họ. Với thu nhập của người lao động như hiện

nay thì việc mình bị bệnh hay con bị bệnh đều là vấn đề mà họ rất sợ.

Trình độ học vấn và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế

Trình độ học vấn và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế, tiếp tục cho thấy khó

khăn nổi bật nhất là thủ tục khám bảo hiểm y tế, điều đáng quan tâm là nhóm

học vấn tiểu học gặp khó khăn về thủ tục bảo hiểm y tế cao gấp đôi so với hai

nhóm còn lại. Các khó khăn còn lại như bệnh viện xa, thái độ của bác sĩ và

nhân viên y tế, chi phí khám chữa bệnh có sự khác biệt nhưng không nhiều

giữa các nhóm. Cũng có thể dễ dàng hiểu được khi trình độ học vấn thấp sẽ

gặp rất nhiều trở ngại trong việc đi khám và chữa bệnh. Chị T, 36 tuổi “em

cũng không biết mình có bảo hiểm không nữa vào làm công ty họ đưa cái gì

thì mình biết cái đó thôi chứ không có hỏi, khi em hoặc con em bị bệnh em chỉ

ra nhà thuốc nói họ bán thuốc hoặc cứ để vậy tự khỏi thôi chứ em không đi

bệnh viện vì nếu lỡ nằm viện thì tốn nhiều tiền lắm” T công ty LN; “em trước

cũng có bảo hiểm nhưng hết hạn rồi đâu có thấy ai kêu mình mua gì đâu, em

mới làm ở đây, em cũng ít đi bệnh viện khi nào thấy mệt thì xin lên phòng y tế

nằm một chút đỡ thì lại xuống làm giờ mà đi bệnh viện cực lắm” M, 22 tuổi

90

công ty CT.

Biểu.7: Trình độ học vấn và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Hình thức ký hợp đồng lao động:

Hình thức ký hợp đồng lao động và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế, cho

thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm. Cụ thể, nhóm bà mẹ đơn thân không

có hợp đồng lao động và nhóm bà mẹ có hợp đồng ngắn hạn dưới 1 năm chủ

yếu gặp khó khăn thủ tục khám bảo hiểm và bệnh viện xa nơi ở điều này cũng

dễ hiểu vì thường chưa ký hợp đồng hay hợp đồng dưới 1 năm người lao động

thường không được doanh nghiệp đóng các loại bảo hiểm trong đó có BHYT,

với nhóm bà mẹ đơn thân có hợp đồng lao động 1-3 năm và hợp đồng lao

động không xác định cũng gặp khó khăn về thủ tục khám bảo hiểm, tuy nhiên,

các khó khăn như bệnh viện xa nơi ở, thái độ phục vụ của bác sĩ và nhân viên

y tế, chi phí khám bệnh cao so với thu nhập có tỷ lệ xấp xỉ nhau. Điều này cho

thấy việc tiếp cận các dịch vụ y tế của bà mẹ công nhân còn gặp nhiều khó

91

khăn và cần được hỗ trợ nhiều hơn.

Biểu 8: Hình thức ký hợp đồng lao động và khó khăn tiếp cận dịch vụ y tế

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Mặc dù rất nỗ lực, tuy nhiên công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho

lao động nữ còn gặp rất nhiều khó khăn. Với cường độ làm việc cao, đồng

lương chưa đủ trang trải các sinh hoạt thiết yếu; lại phải sống xa nhà, ở trọ

trong các diện tích chật hẹp, không đảm bảo về vệ sinh, môi trường; cùng với

đó là tình trạng mất cân bằng giới tính tại các doanh nghiệp và KCN diễn ra

phổ biến... làm lao động nữ ở các KCN tỉnh Bình Dương đang phải đối diện

với nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến cả sức khỏe và tương lai. Theo quy định

của Luật Lao động, việc khám sức khỏe định kỳ cho người lao động phải

được thực hiện ít nhất 1 lần/năm. Riêng đối với các công việc nặng nhọc

trong môi trường nguy hiểm, độc hại thì người lao động phải được khám sức

khỏe định kỳ ít nhất 6 tháng/1 lần. Tuy nhiên, phần lớn lao động trẻ còn thờ ơ

với việc chăm lo sức khỏe cho chính mình. Vì vậy mà cần có sự công bằng

trong ký hợp đồng tuyển dụng của các doanh nghiệp; công nhân cần được

truyền thông nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải đi khám, chữa bệnh; cán

bộ y tế cần nâng cao trách nhiệm cũng như thái độ phục vụ trong việc khám

92

chữa bệnh giữa các hình thức khám dịch vụ khám bảo hiểm.

3.3.3 Chăm sóc và giáo dục trẻ em

Chế độ ăn uống

Chế độ ăn uống hàng ngày cũng là một thông số quan trọng phản ánh

cuộc sống của bà mẹ đơn thân. Chế độ ăn uống gồm loại thực phẩm và khẩu

phần các bữa ăn trong ngày của họ có 3 bữa sáng, trưa và tối. Thông thường

bà mẹ đơn thân là công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp họ được hỗ trợ ăn

trưa tại phân xưởng, nếu làm tăng ca họ sẽ được hỗ trợ thêm bữa ăn phụ nữa,

chính vì vậy mà bữa ăn tại nhà của những nữ công nhân cũng thất thường.

Như chị ĐTNT, 41 tuổi chia sẻ: “đi làm về đến phòng, người mệt rã rời, có

cơm nấu từ sáng, rồi nấu gói mì hay hủ tiếu gì đó trộn trộn vào cho dễ nuốt,

cho đỡ đói, hoặc làm về ghé mua bó rau 2 ngàn nấu canh vậy cũng xong.

Mình ăn vậy chứ là ngon lắm rồi, ăn đồ ngon nhớ tới con ở quê, nó không có

gì ăn. Ở quê không có gì làm, chỉ có tiền mình gửi về thôi”. Họ chủ yếu ăn tạm

bợ để dành tiền nuôi con. Nếu như những đứa trẻ trong những gia đình có đầy

đủ cả cha và mẹ chúng còn uống sữa thay cơm và nước lọc, sữa là nguồn chính

của chúng thế nhưng con của những nữ công nhân chỉ giám uống buổi tối,

uống hà tiện mặc dù biết con trẻ cần sữa cho sự phát triển của chúng “Hàng

tháng em chi tiêu dè xẻn, để có thêm sữa cho con (tháng hơn 800 ngàn) chủ

yếu uống vào ban đêm không dám cho uống ban ngày” (TTTN, 35 tuổi), hay

chị H, 45 tuổi có con trai 12 tuổi bị bệnh úng xương chia sẻ “con chị bị bệnh

không tự ngồi hay đi đứng gì được, khi biết con bị vậy lúc được 3 tuổi ổng bỏ

đi luôn, chị làm ở công ty này cũng hơn mười năm rồi và cũng ở mỗi phòng trọ

này thôi, vì nó ở sát công ty chị làm, hàng ngày cứ tới bữa ăn trưa chị lấy xuất

cơm trong công ty của mình chị mang về hai mẹ con cùng ăn”.

Trường hợp chị NTR, 1983 quê Thanh Hóa, công nhân công ty CT, nuôi

1 con nhỏ 5 tuổi cho biết: Chị một mình nuôi con nhỏ 5 tuổi với đồng lương ít

ỏi dù mình nhịn ăn nhưng cũng cố dành cho con được những gì tốt nhất, chị

93

tâm sự chia sẻ về thu nhập và cuộc sống của 2 mẹ con “Lương chị làm có trên

4 triệu thôi tiền gửi trẻ nếu mà hằng tháng không tăng ca theo mẹ thì hết 1

triệu, nếu mà tăng ca đến 8h tối là 1 triệu 3, tiền ăn uống hằng ngày, chi phí

phòng trọ hết 2 triệu rưỡi rồi chị chỉ còn có hơn 1 triệu nên lâu lâu chị mới

dám cho con thêm vài bịch sữa, chị thực sự không có dư, tháng nào là hết

tháng đó luôn, tại nó còn rủi ro như con bệnh mẹ bệnh, mình thì đâu có dư,

tháng nào cũng thiếu, bữa sáng chị chỉ uống nước không hà, chị cứ nhịn ăn

sáng cho tới ngày 10 tây để chị lãnh lương chứ chị không có dám mượn ai

Chị nghĩ là bây giờ mình vay mượn tiền á, lãnh lương có nhiêu đó rồi mình

trả tiền cho người ta rồi tiền đâu có xài nữa, bởi vậy chị cứ cứ nhịn thôi, cố

nhịn mà, em thấy trong cái ruột nó khó chịu nó cồn cào dữ lắm mà cứ ráng

vậy đó, cứ ráng cho đến..đến trưa mới được ăn cơm công ty, còn tối nếu được

tăng ca thì chị được ăn cơm công ty xong là chị về không ăn nữa, chị chỉ có

nấu cho thằng cu chị ăn thôi, bây giờ làm mẹ là phải nhường cho con hết, chị

chẳng dám tính gì cho mình cả, mà chị nói chứ chị mặc cái áo là rách tùm

lum rồi, cái quần cũng vậy đằng trước rách chị quay lại đằng sau mặc tiếp,

có chị nói vậy “Sao em mặc cái áo rách quá vậy, cái áo đó chị lau nhà được

rồi đó mà em vẫn mặc”, tủi lắm chứ em tại vì mình không có, chị không có

chị cứ mặc hoài cái áo vậy đó”.

Về thời gian làm việc, “ở công ty này vì được thường xuyên tăng ca nên

cũng có thu nhập, mặc dù biết tăng ca nhiều thì không có thời gian dành cho

con, tội lắm hôm nào tăng ca là bé của chị lủi thủi ở nhà một mình chơi với

mấy đứa trẻ cùng dãy trọ nhiều lúc về thấy con nhem nhuốc, chưa cơm nước

gì mà thương đứt ruột”

Về thu nhập, “lên Bình Dương làm kiếm tiền nuôi con, một tháng làm

được 5,1 triệu (nếu tháng nào có tăng ca được khoảng 6,5 triệu) gửi về quê

cho mẹ 2 triệu nuôi giúp chị đứa lớn ăn học, nó học được lớp 7 rồi còn lại

3,3 triệu chị phải trả tiền phòng trọ 1,2 triệu, tiền ăn của 2 mẹ con, đứa nhỏ

94

chị 8 tuổi rồi mà nó chưa biết được chữ nào nhưng cũng đành chịu thôi chị

hết sức rồi, chị lại bệnh liên miên cũng không có sức làm thêm. Làm ở công ty

tới ngày 10 hàng tháng mới được lãnh lương đâu có đủ tiền sài đâu em nên

chị cứ phải mượn chị em vòng vòng sài trước rồi lãnh lương ra trả nên chẳng

khi nào trong người chị có đồng dư nào”

Trường hợp chị TH, 31 tuổi, quê ở Thanh Hóa, công nhân công ty

Asama có con trai 5 tuổi khi được hỏi về những khó khăn trong cuộc sống chị

chia sẻ “thật sự là rất túng thiếu, mẹ con tôi chi tiêu dè dặt, chắt chiu hết sức

có thể. Cả tuần có khi chỉ dám tiêu cho mình 50.000 nghì đồng còn lại để

dành cho con có thêm hộp sữa, về vật dụng trong phòng rất sơ sài, trong

phòng chẳng có gì mọi thứ đều cũ kỹ do chị xin được của những người ở trọ

trước họ dọn đi để lại mình sài tiếp thôi chứ cũng không mua sắm gì, giờ chị

chỉ ao ước có được chiếc xe đạp cũ để đi làm cho đỡ mệt thôi, chị ở trọ cách

công ty cũng hơn 2km, những lúc khỏe đi làm về còn đỡ những lúc mệt tan ca

đi không muốn nổi lúc đó chỉ thèm có chiếc xe đạp đạp về cho đỡ thôi”.

Như vậy, các thông tin phỏng vấn sâu vừa cho thấy những khó khăn liên

quan đến vấn đề ăn mặc trong cuộc sống của bà mẹ đơn thân, trong đó đáng

lưu ý là công việc bấp bênh, thu nhập thấp, hoàn cảnh gia đình người thân ở

xa đã chi phối nhiều đến các hoạt động chi tiêu ăn uống hàng ngày đối với

những hoàn cảnh bà mẹ đơn thân công việc bấp bênh và có 2 con. Thực tế này

cũng là cơ sở để các cấp chính quyền cũng như doanh nghiệp có chính sách

quan tâm và hỗ trợ cho cuộc sống của họ và con cái.

3.4. Tham gia hoạt độ vă óa iải trí và các m i quan hệ xã hội

Như đã trình bày ở phần lý thuyết, đời sống tinh thần có mối quan hệ

hữu cơ với đời sống vật chất. Đời sống tinh thần rất quan trọng đối với việc

tái sản xuất sức lao động của con người. Khi tinh thần tốt thì bộ não sẽ ở trạng

thái cân bằng và giúp con người có chất lượng cuộc sống tốt hơn về mặt tâm

lý cũng như thể lực. Các dạng hoạt động mà con người thực hiện thuộc lĩnh

95

vực này thuộc thời gian ngoài giờ làm việc, bao gồm: việc đi chơi, tham quan,

mua sắm, chơi với con cái, giao tiếp với người thân, bạn bè…. Ở đây, hoạt

động giao tiếp liên quan tới nguồn vốn xã hội trong lý thuyết vốn xã hội. Nhờ

mạng lưới giao tiếp, người ta có thể nhận được sự hỗ trợ xã hội, đặc biệt trong

trường hợp thiếu người đàn ông trong gia đình như những người mẹ đơn thân

đang được nghiên cứu.

Trong thực tế, đời sống văn hóa, tinh thần của công nhân hết sức thiếu

thốn. Giờ làm việc và tăng ca tại các nhà máy đã chiếm hết thời gian trong

ngày cũng như cả tuần. Họ hầu như ít có cơ hội tiếp cận với phim ảnh, sách

báo, các sân chơi và các hình thức giải trí khác.

Về quỹ thời gian, thông thường một người công nhân sẽ làm việc trong

khoảng 8h một ngày, nếu có tăng ca sẽ lên tới 12h/ngày. Sau những thời gian

tại công xưởng những nữ công nhân trở về với vai trò là một người mẹ bên

những đứa con của mình. Họ dành khoảng thời gian đó để chăm sóc cho con

cái và bản thân. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy số thời gian rảnh rỗi của

nữ công nhân là mẹ đơn thân khá ít, 74% người được hỏi có dưới 1 giờ là thời

gian rảnh rỗi; 19,3% cho biết có thời gian rỗi từ 1 đến 3 giờ và 6,7% cho biết

có trên 3 giờ là rảnh rỗi trong ngày. Nhìn vào kết quả này, có thể thấy trẻ em

sống với những người nữ công nhân nuôi con một mình mẹ đơn thân gặp rất

nhiều thiệt thòi. Điều này phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần của

con trẻ, những đứa trẻ thiếu vắng tình cảm của người cha.

Bảng: 8. Khó khăn khi tham gia các hoạt động văn hóa của bà mẹ đơn thân

Khó khăn Tổng

Vé vào các tụ điểm giải trí cao

Không có thời gian đến nhà văn hóa, công viên

Trường hợp Tỉ lệ % Chưa có nhà văn hóa trong khu công nhân 118 78,7 21 14 11 7,3 150 100

96

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Bên cạnh những hoạt động mang tính cá nhân, nữ công nhân là mẹ đơn

thân cũng mong muốn được tham gia các hoạt động tập thể tại khu vực công

cộng mà họ đang sinh sống. Tuy nhiên, họ gặp phải một số khó khăn ở nơi cư

trú như về điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều thiếu thốn, chưa có nhà văn hóa

trong khu công nhân. Khảo sát cho thấy có (78,7%) trả lời chưa có nhà văn

hóa ở nơi ở; Vé vào các tụ điểm giải trí cao (14%); và 7,3% số người được

hỏi lại cho rằng họ không có thời gian đến nhà văn hóa, công viên.

Một thực tế nữa, người lao động thường xuyên phải làm việc tăng ca

nên không có thời gian để thư giãn, giải trí. Qua khảo sát tại các khu công

nghiệp phần lớn thiếu các điều kiện để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ về văn

hóa tinh thần, nghi ngơi, học tập, giao lưu văn hoá, thể thao và hầu như các

hoạt động văn hóa cộng đồng được tổ chức gắn với các sự kiện của đất nước

của địa phương thì không nhiều và thường tổ chức ở các khu trung tâm lớn,

xa khu nhà trọ, không thuận lợi để họ tham gia. Còn các hoạt động văn hóa,

thể thao mất phí khi tham gia như các chương trình biểu diễn nghệ thuật, các

câu lạc bộ yoga, erobic,... thì điều kiện của người mẹ đơn thân lại không cho

phép họ tham gia. Các hoạt động văn hoá, thể thao dành cho công nhân lao

động vẫn còn rất hạn chế. Các hoạt động văn hoá tinh thần trong khu công

nghiệp như tổ chức giao lưu văn nghệ, thể dục thể thao để nâng cao trí lực,

thể lực… cho công nhân lao động cũng không được thường xuyên và nếu có

họ cũng không chủ động tham gia.

Mối quan hệ xã hội

Xã hội Việt Nam từ xưa đã có những cái nhìn không mấy thiện cảm đối

với các hoàn cảnh đơn thân đặc biệt với trường hợp đơn thân do có con ngoài

hôn nhân thì bị quy chụp với những câu nói, chửi khắc nghiệt như “không

chồng mà chửa”, “đồ con hoang”… thậm chí còn có những hình phạt tàn khốc

đối với người phụ nữ rơi vào tình cảnh như vậy. Gia đình bà mẹ đơn thân sẽ

gặp muôn vàn khó khăn từ sự kì thị, xa lánh thậm chí đến mối quan hệ ruột rà

97

là gia đình cũng từ mặt để bảo vệ danh tiếng cho “gia môn”, họ hàng. Hiện

nay, mặt dù các quan niệm, dư luận xã hội đối với bà mẹ đơn thân không còn

khắc nghiệt như trước tuy nhiên những giá trị cũ vẫn còn âm hưởng và ăn sâu

trong nhận thức của mọi người. Vì vậy, bà mẹ đơn thân dù sống trong xã hội

hiện đại vẫn luôn bị dư luận xăm soi, lên án, có cái nhìn không mấy thiện cảm,

hầu hết bà mẹ đơn thân đều cảm nhận được điều đó. Chị H.T.M.H cho biết:

“Có chứ, người ta nói sau lưng mình á. Mình không có nghe nhưng vẫn nghe

người ta kể lại. Nói chung người ta chửi mình không à, người ta nghĩ mình

không biết xấu hổ đó. Người ta nói kệ người ta, mình cứ sống thôi”, hay khi

muốn dạy dỗ con cái họ cũng lôi mình ra như trường hợp của bạn T.T. “mày cứ

lo yêu đương không lo học hành đi muốn như con T đó hả”; như tâm sự của chị

N.T.G khi nhìn con chơi với chúng bạn chia sẻ “nhiều lúc tủi lắm chứ người ta

cứ nhìn con mình với con mắt thương hại “tội nó, cho nó chơi với, nó không

cha đó...” Đặc trưng lối sống đô thị, lối sống công nghiệp là tính ẩn danh và

mối quan hệ đứt đoạn, do đó, đa số bà mẹ công nhân đơn thân là người gốc tại

các địa phương khác thì vấn đề định kiến hay chỉ trích đối với hoàn cảnh đơn

thân không khắt khe như lối văn hóa nông thôn. Dư luận xã hội mờ nhạt và ít

can thiệp, ảnh hưởng đến đời sống bà mẹ đơn thân là cảm nhận của hầu hết các

bà mẹ đơn thân đang tạm trú tại Bình Dương. Có thể nhận thấy bà mẹ đơn thân

vẫn được nhìn nhận là lệch chuẩn của xã hội, những người xung quanh vẫn còn

định kiến về bản thân họ. Điều này dẫn đến cuộc sống của bà mẹ đơn thân sống

khép kính, cô lập với cộng đồng xung quanh.

Mối quan hệ gia đình

Về phía người thân, việc đi đến quyết định làm mẹ đơn thân không chỉ tác

động trực tiếp đến bản thân người mẹ mà còn ảnh hưởng lớn đối với các quan hệ

với người thân, cuộc sống của bà mẹ đơn thân trở nên khó khăn và phức tạp nếu

gia đình không đồng ý và ủng hộ quyết định của họ. Mặc dù họ không rời bỏ

nhưng những diễn biến tâm lý, quan hệ tình cảm sẽ có sự biến đổi theo một

98

chiều hướng nào đấy phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Khi những người phụ nữ

là mẹ đơn thân đi lao động trong các nhà máy, xí nghiệp xa gia đình, người thân

thì tần suất liên lạc về nhà phần nào thể hiện mối quan hệ của họ.

Theo kết quả khảo sát về tần suất liên lạc với người thân trong năm vừa

qua cho thấy: 57,3% bà mẹ đơn thân cho biết mỗi tháng liên lạc với người

thân ở quê nhà một lần, 28,7% cho biết vài tháng liên lạc một lần, và chỉ có

một tỷ lệ rất thấp 4,7% cho biết có liên lạc thường xuyên (vài ngày trên tuần).

Biểu 9: Bà mẹ đơn thân liên lạc với gia đình

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Nhiều khi họ có nhu cầu chia sẻ tình cảm nhưng lại không biết chia sẻ

với ai ngay cả với những người cùng cảnh ngộ, những người thân. Như chị

PTH, 26 tuổi kể lại rằng: “Nhiều lúc buồn chẳng biết chia sẻ cùng ai, gọi cho

mẹ sợ mẹ buồn, mẹ em cũng 80 tuổi rồi.” Họ giấu những tâm tư, tình cảm,

những suy nghĩ một mình chịu đựng vì sợ người xung quanh chê cười, sợ

người thân lo lắng, gánh nặng về kinh tế trên vai người mẹ nặng một thì gánh

nặng trong tim những tâm sự nặng gấp mười. Nhưng những đứa con là niềm

động viên, an ủi lớn nhất trong cuộc đời người phụ nữ đặc biệt là phụ nữ đơn

thân. Chị ĐTL, 41 tuổi là một ví dụ: “Chị chẳng biết chia sẻ với ai, đêm nằm

ngủ, nghĩ tới cảnh 2 mẹ con bơ vơ, nghĩ vậy xong nước mắt lại chảy. Có khi

99

bé thấy hỏi sao mẹ khóc chẳng biết trả lời con thế nào; có lẽ con cũng hiểu,

lâu lâu Chị cho tiền có bữa 2 ngàn, 3 ngàn rồi bỏ ống heo, đến sinh nhật mẹ

mua bánh mấy chục ngàn tặng mẹ, mấy dì hỏi chị mới nói có biết đâu, nó tự

mua, ai cũng nói con ngoan vậy hạnh phúc lắm rồi.”.

Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, với sự mở rộng của

Internet và các mạng xã hội, con người có thể lựa chọn nhiều phương thức

liên lạc khác nhau như gọi điện, nhắn tin qua Facebook, Zalo hay viết thư tay.

Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển, sử dụng phương tiện điện thoại

hay máy tính sẽ tiện lợi, thông tin gửi đi nhanh chóng cho nên ít người còn sử

dụng hình thức liên lạc bằng thư tay. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy

nhóm công nhân là mẹ đơn thân trả lời có liên lạc với người thân bằng thư tay

có đến 27%, điều này cũng dễ hiểu vì đa số những công nhân vào Bình

Dương làm việc đều có xuất thân từ những vùng nông thôn, điều kiện kinh tế

của người thân thấp, không phải ai cũng có điều kiện để sử dụng điện thoại.

NTH 31 tuổi “quê em ở xa và còn nghèo lắm, bố mẹ em cũng chẳng biết điện

thoại di động là gì đâu, hàng tháng em gủi tiền về cho bố mẹ mà phải đi cả

40Km để ra huyện mới nhận được”.

Biểu 10: Các hình thức liên lạc về nhà với người thân

100

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Câu hỏi tiếp tục đặt ra là tần suất về thăm quê nhà của bà mẹ đơn thân

như thế nào? Kết quả khảo sát nhận thấy:

Biểu 11: Tần suất về thăm quê nhà của bà mẹ đơn thân

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Do tính chất công việc của công nhân được nghỉ vào ngày chủ nhật họ

dành thời gian để nghỉ ngơi bên cạnh những đứa con của mình. Hơn nữa với

đồng lương không nhiều, tiết kiệm cũng chỉ đủ chi trả cho cuộc sống thường

ngày nên việc tổ chức đi lại cho một chuyến đi dài ngày, chi tiêu mua quà cáp

mỗi khi về quê cũng còn là những điều trăn trở của những nữ công nhân là mẹ

đơn thân. Có thể người thân, gia đình không mưu cầu những thứ đó nhưng

bản thân bà mẹ đơn thân đi xa trở về lại suy tính rất nhiều, chính vì vậy mà

tần suất về thăm gia đình rất thấp: bà mẹ đơn thân cho biết về thăm quê vài

tháng một lần chiếm (27,3%); về thăm quê năm một lần (39,3%); vài năm một

lần (28,7%), con số này phần nào cho thấy họ làm ăn xa nhà, rất xa nên

chuyện về quê hằng năm là không thể. Với cuộc sống của mẹ đơn thân nuôi

con đủ ăn, lo được cho con đã là mừng chưa dám nói đến việc có dư thừa về

101

kinh tế. Trong vấn đề này họ sẽ cần phải cân nhắc rất kỹ bởi ai đi xa cũng đều

muốn trở về nhà nhưng việc có thực hiện chúng hay không còn phụ thuộc vào

nhiều yếu tố. Kết quả khảo sát cho thấy chỉ có một số ít bà mẹ đơn thân trong

mẫu khảo sát (4,7%) trả lời mỗi tháng về nhà một lần, theo quan sát và kết

quả phỏng vấn sâu của chúng tôi được biết số lượng này hầu hết là những

người có quê quán ở gần nơi làm việc nên họ có thể sắp xếp đi lại thăm quê

hàng tháng được.

Các thông tin phỏng vấn sâu cũng làm rõ thêm sự khó khăn của những

người mẹ đơn thân là công nhân khi muốn bày tỏ tấm lòng với cha mẹ trong

bối cảnh hiện nay. Chị ĐTL, 41 tuổi tâm sự “Chị đã không về quê 5 hay 7

năm gì rồi, có năm công đoàn cũng cho vé về quê nhưng chị cũng nhường cho

người khác vì về quê mà không cho con chỉ cho mẹ không lẽ bỏ con lại cho

ai, rồi 2 mẹ con không có về. Em thử nghĩ xem chi tiêu cho 2 mẹ con về quê

cũng phải mất mấy triệu vậy là mất đứt tháng lương. Hồi ông ngoại bị tai

biến, 2 mẹ con từ Nam về Bắc mất hết 4 triệu rưỡi, chị phải mượn nhỏ trong

tổ 3 triệu”.

Trường hợp của Chị ĐTNT gửi con cho ông bà ở quê, cũng băn khoăn

chia sẻ: “Một năm chị cũng ráng về một lần, năm nay nghỉ 2-9 được 3 ngày

chị xin thêm 1 ngày ở với con. Nó gặp mẹ mừng lắm. Mẹ ơi, con nhớ mẹ lắm,

mẹ ở nhà với con nhe. Chứ mẹ đi suốt mà. Nó kêu mẹ đừng đi làm nữa,

thương con lắm nhưng chỉ biết nói mẹ làm kiếm tiền cho con đi học, mua

quần áo mới không thua bạn bè, con cố gắng đi học đi, người ta biết viết chữ

con biết viết chữ, không ai khi dễ mình”.

Các thông tin phỏng vấn sâu đề cập đến sự hỗ trợ từ người thân hay

chính quyền địa phương “mọi sự hỗ trợ của gia đình về kinh tế là mình hoàn

toàn không có, chị phải chi tiêu tằn tiện để còn gửi về quê mà, còn ở địa

phương chị chưa nhận được sự hỗ trợ nào hết, với phần mình thấy mình là

người ở trọ đâu có dám hỏi chứ thấy mỗi năm cũng có được chủ nhà trọ cho

102

phần quà tết có mấy ký gạo, đường, muối, bột ngọt vậy thôi mà vậy cũng quý

lắm rồi, còn trong công ty thì có công đoàn cũng được phần quà tết cho con,

công đoàn cũng có tổ chức tặng quà trong dịp 1/6, rồi có trao học bổng cho

con mình nữa nói chung mình đi làm thấy cũng được an ủi lắm”. (VTN, 34

tuổi công nhân công ty CT có nhà ở Kiên Giang đơn thân nuôi 2 con một 13

tuổi, một 8 tuổi).

Ý kiến của chị THL, 18 tuổi quê Thanh Hóa: gia đình làm nông vào

Bình Dương từ năm 2015, làm công nhân tại công ty HM khi được hỏi có

nhận được sự hỗ trợ nào từ người thân không? bạn chia sẻ “em vấp ngã, mang

thai khi mới 16 tuổi khi biết em có thai ảnh bỏ em giờ em sinh con rồi nuôi

con được hơn 2 tuổi rồi em vẫn thương ảnh lâu lâu vẫn liên hệ, vẫn muốn qua

lại bình thường, giống như tình nhân vậy đó nhưng không thể nào đến được,

ảnh vẫn chưa có gia đình và cũng không có hỗ trợ em đồng nào cả”. Về thu

nhập: “lương em hơn 5 triệu, hai mẹ con sống tiết kiệm cũng đủ, con em còn

nhỏ phải uống sữa nhiều nên em cũng chẳng có dư, đủ là may mắn lắm rồi,

trời thương nên con em cũng ít bệnh chứ mà bệnh nữa tiền thuốc men em

không biết phải làm sao. Mọi sự trợ giúp: “hiện chỉ có hai mẹ con em tự lo

cho nhau thôi, em không dám cho gia đình biết mình có con, hiện giờ gia đình

em chưa biết em có con em định chờ con lớn hơn tí nữa rồi mới bế về và xin

ba mẹ em tha thứ, em cũng may mắn được làm ở công ty tuy thời gian em làm

chưa lâu nhưng vẫn được công ty xét và nhận giữ con trong nhà trẻ của công

ty nên cũng rất yên tâm” .

Có thể nói rằng đời sống tinh thần của công nhân là mẹ đơn thân đang

gặp rất nhiều khó khăn. Đa số họ có trình độ chưa cao, lương thấp, thiếu cơ

hội học hành nâng cao chuyên môn, hạn chế giao tiếp với xã hội, bị thiệt thòi

trong việc tiếp cận các dịch vụ vui chơi giải trí và giải tỏa căng thẳng. Doanh

nghiệp chỉ tập trung vào những nội dung liên quan trực tiếp đến việc thúc đẩy

sản xuất kinh doanh và còn khá thờ ơ với các nội dung gắn với việc cải thiện

103

việc làm, sức khoẻ và các hoạt động vui chơi giải trí cho công nhân. Còn mối

quan hệ của cá nhân với gia đình nhìn nhận qua kết quả điều tra thấy họ

thường xuyên liên lạc với người thân gia đình nhưng lại ít có điều kiện để trở

về quê hương để gặp gỡ trực tiếp vì những điều kiện không cho phép. Cuộc

sống tinh thần còn khó khăn ngay cả trong chính con người của họ.

*Tiểu kết

Mặc dù các chỉ số, dẫn chứng chúng tôi thu được đưa ra chưa nhiều,

chưa sâu nhưng cũng chỉ ra được những khó khăn thực tại của công nhân làm

mẹ đơn thân. Đời sống của họ nhìn chung là thấp hơn so với những gia đình

bình thường hay cả với mặt bằng công nhân. Việc khuyết đi vai trò của người

đàn ông trụ cột trong gia đình sẽ tạo ra nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề tài

chính – kinh tế và việc nuôi dạy con. Bên cạnh đó, những áp lực công việc,

tình cảm cá nhân, những định kiến xã hội ảnh hưởng lớn đến đời sống vật

chất và đời sống tinh thần của phụ nữ và trẻ em. Do đó, công nhân làm mẹ

đơn thân phải học cách thích ứng với những khó khăn xã hội, tìm hướng giải

quyết về vấn đề kinh tế, việc làm, vừa đảm bảo nuôi dạy, giáo dục con cho

toàn vẹn và họ vẫn chưa thực sự nhận được sự quan tâm, ưu đãi từ phía doanh

104

nghiệp, các cơ quan tổ chức tới cuộc sống của họ và những đứa con.

CHƯƠNG 4

CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG

NHÂN ĐƠN THÂN Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÓNG THẦN,

TỈNH BÌNH DƯƠNG

Trong chương 3, chúng tôi đã mô tả chân dung xã hội của bà mẹ đơn

thân và phân tích đời sống vật chất cũng như tinh thần của bà mẹ đơn thân.

Có thể nhận thấy đặc điểm, chân dung xã hội của bà mẹ đơn thân khá đa

dạng, họ cũng đang phải đối diện với nhiều khó khăn về vật chất, tinh thần

trong cuộc sống thường ngày. Trong chương này, luận án sẽ tập trung tìm

hiểu các yếu tố chi phối cuộc sống của bà mẹ đơn thân, từ đó thấy được sự

thuận lợi và khó khăn trong cuộc sống của công nhân là các bà mẹ đơn thân ở

Bình Dương hiện nay. Trong đó có các yếu tố cá nhân, hoàn cảnh gia đình,

nhóm yếu tố thuộc về chính sách của nhà nước, địa phương cũng như hệ

thống tổ chức công đoàn và chính sách của doanh nghiệp đối với công nhân,

công nhân là mẹ đơn thân.

Trước tiên, xin trình bày những thông tin về các yếu tố nhân khẩu xã hội

của những bà mẹ đơn thân mà chúng tôi khai thác được từ những cuộc phỏng

vấn tại thực địa.

4.1. Các yếu t nhân khẩu xã hội

Số năm làm việc

Số năm làm việc cũng là chỉ báo quan trọng cho thấy khoảng thời gian bà

mẹ đơn thân gắn bó với doanh nghiệp ở địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy

số năm bà mẹ công nhân đơn thân đến làm việc tại Bình Dương tương đối lâu,

đa số từ 3 năm trở lên. Cụ thể, có 44% làm việc từ 3-5 năm; 37,3% làm việc từ 5

năm trở lên, và chỉ một số ít làm việc dưới 2 năm, rơi vào những trường hợp mới

tham gia lao động, mới chuyển đến Bình Dương, trong thực tế có nhiều trường

105

hợp bà mẹ đơn thân chuyển nhiều công ty khác nhau mà giới quản lý ở địa

phương gọi là tình trạng “nhảy việc”. Do nhiều nguyên nhân, như tìm được việc

làm có chế độ đãi ngộ cao hơn, hoặc do bị doanh nghiệp thải loại vì không đáp

ứng công việc.

Bảng 9: Số năm bà mẹ công nhân đơn thân làm việc tại Bình Dương

Số năm Dưới 1 Từ 1 – 2 Từ 3-5 Trên 5 Tổng

năm năm năm năm

Trường hợp 13 15 66 56 150

Tỉ lệ % 8,7 10,0 44,0 37,3 100%

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Số giờ làm việc

Số giờ làm việc của công nhân luôn là vấn đề được dư luận xã hội quan

tâm, vì thời gian làm việc gắn liền với thu nhập của người công nhân. Qua

thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi đối với những bà mẹ công nhân, chúng tôi

nhận thấy công nhân phải làm việc trong suốt thời gian dài nhưng đồng lương

khá ít ỏi, trung bình mỗi ngày họ phải làm việc 10 giờ, so với thời gian quy

định là 8 giờ/ngày như vậy số giờ tăng ca trung bình 2 giờ/ngày.

Thời gian làm việc 8 giờ/ngày là khung thời gian lý tưởng theo quy định

của Nhà nước nhằm đảm bảo cho người lao động có thời gian để phục hồi sức

khỏe, tái sản xuất sức lao động cũng như có thời gian chăm sóc con cái. Nếu

phải thường xuyên tăng ca thì thời gian dành cho việc phục hồi sức khỏe là

khó đảm bảo, về lâu về dài điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của

ngươi lao động.

Trang thiết bị phục vụ sinh hoạt;

Trang thiết bị phục vụ sinh hoạt cũng là các thông số phản ánh chất

lượng cuộc sống của con người. Trong bối cảnh xã hội phát triển thì dù ở đâu

con người cũng có những trang thiết bị cơ bản để đáp ứng đời sống vật chất

106

cũng như tinh thần hằng ngày.

Bảng 10: Trang thiết bị sinh hoạt trong gia đình

Trang thiết bị Trường hợp Tỉ lệ (%)

Ti vi 111 74,5

Tủ lạnh 81 54

Máy giặt 40 26,7

Quạt 130 86,7

Điều hòa 13 8,7

Bình nóng lạnh 11 7,3

Lò vi sóng 7 4,7

Giường 81 54

Tủ 76 50,7

Bàn ghế 56 37,3

Xe đạp 61 40,7

Xe máy 103 68,7

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Bảng 10 cho thấy, phần lớn nữ công nhân là mẹ đơn thân đều có các

trang thiết bị cơ bản như: Ti vi; Tủ lạnh; Quạt; Giường; Tủ, xe đạp: xe

máy…, ngoài ra có một số trang thiết bị khác như máy giặt 26,7%, điều hòa

8,7%, bình nóng lạnh 7,3%, lò vi sóng 4,7%...

Qua số liệu phân tích có vẻ nghịch lý khi thu nhập và các khoảng chi

tiêu đều không đủ cho sinh hoạt hàng tháng nhưng các vật dụng sở hữa lại

nhiều, thực chất các thiết bị mà gia đình bà mẹ công nhân đơn thân sử dụng

không phải đồ dùng nào cũng có giá trị cao và do họ tự mua mà họ sử dụng

các vật dụng đó do “xin – cho - tặng” từ các tổ chức, cá nhân, các hội từ

thiện... hoặc mua với giá rất rẻ hoặc là quà của công đoàn công ty dành cho

107

vào dịp cuối năm.

Hộp 3: Ý kiến của bà mẹ đơn thân về trang thiết bị trong gia đình

“ Đồ dùng trong nhà, chủ yếu là được mọi người cho mỗi người một món, hoặc

là mua lại đồ sài rồi, chỉ có tủ lạnh là em mua trả góp từ công đoàn của công ty

em sài cũng lâu rồi đó hơn 1 năm (mà tiền em trả góp cũng chưa hết) vì có con

nhỏ cần phải trữ sữa và đồ ăn cho con nên em phải ráng nhịn để mua” (Chị

TTTN, 35 tuổi).

“Một mẹ một con sống chi phí cũng không đủ, chả dám ăn chơi như người ta,

giày, quần áo người ta bỏ mình lấy về xài, mình xin cũng nói thật, có sao nói

vậy” (ĐTL, 41 tuổi).

“Ti vi cũng chưa có, điện thoại thì em xài cái rẻ tiền này có 200 ngàn hà chủ

yếu để dành gọi về nhà khi cần thiết thôi”. (PTH, 26 tuổi).

Về phương tiện đi lại, đây là phương tiện quan trọng để bà mẹ đơn thân

dùng để di chuyển đến nơi làm việc hàng ngày. Kết quả khảo sát có 61 trường

hợp chiếm 40,7% sử dụng xe đạp; 103 trường hợp chiếm 68,7% sử dụng xe

máy. Vấn đề này khá đơn giản khi phương tiện bây giờ phổ biến nhất là xe

máy nên hầu hết bà mẹ đơn thân đều mua sắm phương tiện này. Tuy nhiên,

cũng có một số bà mẹ đơn thân không sử dụng do không biết đi xe máy hoặc

khoảng cách từ nơi ở đến nơi làm không quá xa nên nhóm này lựa chọn

phương tiện đi lại là xe đạp. Một số lý do khác cũng có thể khiến họ lựa chọn

xe đạp đó là chi phí mua ban đầu thấp hơn so với xe máy, không mất tiền mua

nhiên liệu hàng tháng và cũng có thể đây là một phương tiện thể dục hiệu quả

ngoài thời gian làm việc. Kết quả khảo sát cũng cho thấy có một số bà mẹ đơn

thân do thu nhập thấp nên chưa đủ khả năng để mua xe đạp hoặc xe máy để di

chuyển như chị ĐTL, 41 tuổi: “Chỗ trọ của chị cũng không được gần công ty

lắm cách hơn 2km, cách trường của con cũng hơn 2 km. Chị không có xe, cả

hai mẹ con phải đi bộ thôi, sáng chị làm đến 12h trưa mới nghỉ, con thì 12h

108

kém phải học rồi, nên chưa 10h con phải sách cặp đi từ nhà đến trường gần

1tiếng” hay họ phải nhờ đến sự hỗ trợ của mọi người xung quanh như chị

TTTN, 35 tuổi: “Trước em đi bộ không hà giờ em có chiếc xe máy cũng do

mấy chị trong công ty góp lại hỗ trợ và công đoàn giới thiệu, bảo lãnh cho em

vay thêm của tổ chức tài chính vi mô cép mua trả dần chứ tự em không thể

mua nổi”.

4.2 Ho cả ia đì

Như đã phân tích ở phần trên, kết quả khảo sát đã chỉ ra phần lớn bà mẹ

đơn thân có nguồn gốc xuất thân từ các tỉnh bên ngoài Bình Dương, chỉ có một

số lượng ít bà mẹ đơn thân là người địa phương. Họ là những người nhập cư từ

các địa phương khác nhau trên cả nước đến mưu sinh tại tỉnh Bình Dương.

Bảng 11: Hoàn cảnh gia đình và loại hình nhà ở (Đơn vị %)

Nguồn g c N ười địa N ười ơi Chung

p ươ khác

Loại nhà bà mẹ đơ t â ở

22.2 12.3 14.7 Nhà riêng

22.2 16.7 18.0 Nhà của b mẹ

52.8 66.7 63.3 Nhà trọ

2.8 4.4 4.0 Nhà doanh nghiệp cho thuê

36 114 150 S mẫu

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Kết quả xử lý tương quan giữa phân tổ nhóm các mẹ đơn thân là người

địa phương và người nhập cư cho thấy có sự khác biệt đáng kể về sở hữu nhà

ở cũng như loại nhà ở của họ. Chẳng hạn, trong khi có đến 22,2% bà mẹ đơn

thân người địa phương sở hữu nhà ở riêng, thì tỷ lệ này ở nhóm bà mẹ đơn

thân là người ngoài địa phương chỉ là 12,3%. Ở hình thức đang ở nhà của bố

mẹ cũng có sự khác biệt tương tự. Tuy nhiên, ở hình thức nhà trọ thì kết quả

109

lại theo chiều hướng ngược lại, cụ thể: có 66,7% bà mẹ đơn thân ngoài địa

phương cho biết đang thuê ở nhà trọ, trong khi tỷ lệ này ở nhóm bà mẹ đơn

thân là người địa phương cũng không phải là thấp 52,8% .

Như vậy, có sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm các bà mẹ đơn thân là người

địa phương với nhóm là người nhập cư. Những người tại địa phương thuận lợi

hơn khi hoặc là có nhà riêng, hoặc là được ở nhà cùng bố mẹ. Có đến hai

phần ba số bà mẹ đơn thân phải thuê nhà trọ và sống độc lập. Điều này phản

ánh không chỉ những khó khăn về cơ sở vật chất của họ, mà còn cho thấy sự

hạn chế trong việc tiếp nhận về nguồn lực xã hội từ người thân.

Nhóm tuổi và loại hình nhà ở

Biểu 12: Nhóm tuổi và loại nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Kết quả xử lý tương quan cho thấy sự chênh lệch không nhiều giữa 3

nhóm tuổi về sở hữu, sử dụng nhà ở. Điều đáng quan tâm là tỷ lệ sở hữu nhà

riêng cao nhất là nhóm bà mẹ đơn thân sinh năm 1968 – 1982 (18,8%), tiếp

đến là nhóm sinh năm 1983 -1990 (14,6%) và thấp nhất là nhóm sinh năm

1991-1999 (13%). Đối với hình thức nhà ở cùng bố mẹ, nhóm bà mẹ đơn

110

thân sinh năm 1983 -1990 có tỷ lệ cao nhất (19,25), tiếp đến là nhóm sinh

năm 1991-1999 (15,6%) và thấp nhất là sinh năm 1983 -1990 (14,6%). Hình

thức thuê nhà trọ ở, cả ba nhóm bà mẹ đơn thân có tỷ lệ tương đương nhau.

Tuy nhiên, có rất ít bà mẹ đơn thân đang ở nhà doanh nghiệp cho thuê, trong

đó nhóm trẻ tuổi nhất sinh năm 1991-1999 có tỷ lệ cao nhất (6,5%), kế đến là

nhóm sinh năm 1983 -1990 (3,9%) và thấp nhất là nhóm bà mẹ đơn thân sinh

năm 1968 – 1982 (2,1%).

Nơi làm việc và loại hình nhà ở

Biểu 13. Nơi làm việc và tình trạng nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Qua biểu đồ cho thấy nhóm bà mẹ đơn thân làm việc cho công ty có

vốn FDI có tỷ lệ sở hữu nhà riêng cao gấp hơn 2 lần nhóm bà mẹ đơn thân

làm việc cho công ty trách nhiệm hữu hạn (23,2% so với 9,6%); ở hình thức

sử dụng nhà ở của bố mẹ có sự chênh lệch không nhiều giữa hai nhóm, có

19,1% bà mẹ đơn thân đang làm cho công ty TNHH ở nhà của bố mẹ trong

khi tỷ lệ này ở nhóm bà mẹ đang làm cho công ty vốn FDI là 16,1%. Số liệu

khảo sát tiếp tục cho thấy sự chênh lệch rõ rệt về việc sử dụng nhà trọ giữa

nhóm bà mẹ đơn thân làm cho công ty TNHH và nhóm làm cho công ty vốn

111

FDI (69,1% so với 53,6%) và tỉ lệ bà mẹ đơn thân được thuê nhà ở do doanh

nghiệp cho thuê là rất thấp chỉ 7,1% ở các doanh nghiệp FDI và 2,1% ở các

doanh nghiệp có vốn trong nước lý do cũng rất dễ hiểu vì các doanh nghiệp

chưa có chế độ ưu tiên cho đối tượng này.

Hợp đồng lao động và loại hình nhà ở

Một câu hỏi tiếp tục đặt ra là Hợp đồng lao động có quan hệ với tình

trạng nhà ở của bà mẹ đơn thân không? Kết quả và phân tích dưới đây.

Biểu 14: Tình trạng hợp đồng lao động và tình trạng nhà ở của bà mẹ đơn

thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Hợp đồng lao động cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc ở trọ của bà mẹ là

công nhân đơn thân. Kết quả đã chỉ ra bà mẹ đơn thân là công nhân dù ở dạng

hợp đồng lao động không xác định, ngắn hạn hay lâu dài có tỷ lệ sở hữu nhà

riêng không cao (16%), tiếp đến là nhóm bà mẹ có hợp đồng lao động ký từ

1-3 năm (8,3%) và thấp nhất là nhóm không ký hợp đồng lao động (6%). Điều

đáng quan tâm là biểu 11 cho thấy tỷ lệ bà mẹ đơn thân ở nhà trọ cao nhất

thuộc về nhóm không ký hợp đồng lao động, tiếp đến là nhóm ký hợp đồng

lao động dưới 1năm và thấp hơn nữa là hai nhóm ký hợp đồng lao động từ 1 -

3 năm và hợp đồng dài hạn. Các thông tin phỏng vấn sâu cũng xác nhận thêm

112

thực tế này: “em đang ở trọ, em vào làm ở công ty này là nhờ được một chị

đang làm ở đây đưa vào, em làm hơn một năm rồi đâu có thấy ký gì đâu” TL

20 tuổi Công ty LN; “công ty này làm bài bản lắm, em vào thử việc có 1 tuần

sau đó bên nhân sự gọi lên ký hợp đồng luôn, hợp đồng của em ký theo từng

năm, em ký 2 lần rồi” T 24 tuổi công nhân công ty YZK.

Thu nhập và loại hình nhà ở

Biểu 15: Thu nhập và tình trạng nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Số liệu khảo sát cũng đã chỉ ra mức thu nhập trung bình hàng tháng của

bà mẹ đơn thân là rất thấp, họ có thu nhập cao hơn là nhờ làm thêm giờ.

Nguồn thu nhập hàng tháng không cao không có dư để tích lũy mà chỉ đảm

bảo chi tiêu tối thiểu cho cuộc sống hàng ngày của bản thân họ và con cái. Vì

mức thu nhập thấp, ngoài lương ra họ không có nguồn thu nhập nào khác nên

khi nhận lương về các khoản tiền chi tiêu đã có địa chỉ như tiền thuê nhà, tiền

mua chất đốt, thực phẩm hàng ngày, tiền chi phí cho học hành của con cái,

tiền khám chữa bệnh thuốc thang khi con cái ốm đau, và nhiều khoản chi phát

113

sinh đột xuất khác có thể xảy ra bất cứ ngày nào đối với họ. Thu nhập thấp,

phải tiết kiệm mới đủ trang trải cho cuộc sống thường ngày nên không có tích

lũy dẫn đến việc sở hữu riêng một căn hộ là điều xa xỉ đối với họ. “Có nhà

riêng cho mình và con ai mà không muốn, nhưng lương tháng chưa đến 7

triệu, chi tiêu trong một tháng nếu không bị nợ là may lắm rồi làm gì có dư để

mà mua đất, mua nhà” H, 30 tuổi công ty CT

Thực tế kết quả khảo sát, biểu đồ 12 cho thấy có sự khác biệt đáng kể

giữa các nhóm thu nhập và tình trạng sở hữu nhà ở. Chẳng hạn, 36,4% nhóm

thu nhập trên 10 triệu /tháng sở hữu nhà ở riêng thì hai nhóm còn lại có thu

nhập thấp hơn, tỷ lệ sở hữu nhà ở chỉ bằng một nửa so với nhóm thu nhập cao

và những người có sở hữu nhà riêng này cũng là những người dân của địa

phương còn nếu không phải là người địa phương thì cũng là những người có

tay nghề cao và thâm niên công tác lâu năm. Phỏng vấn sâu mẹ đơn thân MN,

35 tuổi, công ty CT “trước kia ở quê mình có nghề may rồi, đến Bình Bương

làm rồi lấy chồng ở đây luôn, ông xã bị tai nạn mất cũng mấy năm rồi, giờ ở

chung với ba má lo cho ba, má chồng luôn. Mình hiện đang làm quản đốc của

một phân xưởng, thu nhập cũng được 12 triệu, phải lo cho cả nhà ngó vậy

cũng vừa đủ hà ”.

Nhóm tuổi và diện tích nhà ở

Kết quả khảo sát định lượng cho thấy có sự chênh lệch không đáng kể

giữa các nhóm tuổi của bà mẹ đơn thân trong việc sử dụng diện tích phòng ở,

và diện tích dưới 14m2 là sự lựa chọn chung của đa số bà mẹ đơn thân. Để

minh chứng thêm chúng tôi phỏng vấn sâu một số bà mẹ đơn thân cũng nhận

114

được kết quả tương tự.

Biểu 16: Nhóm tuổi và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

MT, 46 tuổi công nhân công ty ASM “tuy bây giờ nhà trọ nhiều,

nhưng không phải nhiều mà được giá rẻ, mình cũng muốn ở rộng rãi, thoáng

mát nhưng giá một tháng tính luôn điện nước hơn triệu lận, thôi cứ ở vậy, riết

rồi cũng quen”; H, 32 tuổi công nhân công ty CT “mình trọ ở đây lâu rồi,

phòng trọ này nhỏ lại nóng nữa, ở hướng tây mà, nhưng có hai mẹ con ở riết

cũng quen, lại sát bên chỗ làm cũng tiện”; T, 22 tuổi công ty LP “em cũng

chuyển chỗ ở mấy lần rồi, chỗ nào cũng vậy thôi, ở đây giá cũng thấp với lại

ở đây họ cũng đã hiểu hoàn cảnh của mình rồi, giờ mà chuyển đi chỗ khác

cũng ngại lắm”;

Học vấn và diện tích nhà ở

Mối liên hệ giữa học vấn của bà mẹ đơn thân và diện tích nhà ở, những

bà mẹ đơn thân có học vấn tiểu học đang sống trong những căn phòng có diện

tích dưới 14m2 cao nhất, nhóm bà mẹ đơn thân có học vân THCS và nhóm bà

mẹ đơn thân có học vân THPT trở lên đang ở căn phòng có diện tích rộng

115

hơn. Cũng như ở trên trình độ học vấn thấp sẽ có việc làm ở những vị trí có

mức lương không cao nên việc được hưởng thụ mọi mặt của cuộc sống cũng

hạn chế trong đó có nhu cầu về nhà ở.

Biểu 17: Học vấn và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Trình độ chuyên môn và diện tích nhà ở

Những bà mẹ đơn thân có trình độ chuyên môn trung cấp nghề, đại học

có tỷ lệ sử dụng diện tích căn phòng rộng nhỉnh hơn so với các nhóm chưa

qua đào tạo nghề. Thông tin phỏng vấn sâu xác nhận thêm thực tế này: “mình

làm quản lý, lương cũng tương đối, ở nhà trọ được 25m2 và một gác lửng

10m, thuộc khu nhà trọ văn hóa kiểu mẫu của phường, giá cũng tương đối lại

được thoáng mát, sạch sẽ, khu vực an ninh nên cũng yên tâm vì mình có con

116

nhỏ và thường làm về trễ”, M 34 tuổi, công ty YZK.

Biểu 18: Trình độ chuyên môn và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn

thân (Đơn vị %)

Nguồn gốc gia đình và diện tích nhà ở

Đề tài cũng muốn đưa yếu tố về nguồn gốc gia đình của bà mạ đơn thân

vào để phân tích xem có sự khác biệt gì không. Kết quả cho thấy có sự khác

biệt rõ rệt giữa nhóm bà mẹ đơn thân là người địa phương và nhóm bà mẹ đơn

thân là người ngoài địa phương về sử dụng diện tích ở. Cụ thể nhóm bà mẹ

đơn thân là người địa phương có diện tích ở rộng hơn so với diện tích ở của

bà mẹ đơn thân là người ngoài địa phương. Điều này cũng dễ hiểu vì người

địa phương có điều kiện kinh tế tốt hơn, họ nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn từ

gia đình và không phải tiết kiệm gửi tiền về quê còn người ngoài địa phương

thì ngược lại. L, 41 tuổi quê Dĩ An “trước chị cũng có nhà riêng vậy, từ hồi

anh chị thôi nhau đến giờ chị đưa con về ở chung nhà với ba mẹ chị, nhà ông

bà cũng rộng rãi, con còn được ông bà chăm mình cũng yên tâm đi làm”; về

diện tích M, 33 tuổi quê Bến Tre cho biết “phòng trọ chị thuê ở tí xíu hà, chị

không biết được bao nhiêu mét nữa nhưng ngoài cái gác tí xíu ở trên còn ở

dưới chỉ để chiếc xe, cái nệm là hết chỗ rồi, mỗi lần muốn nấu ăn là phải đem

bếp ra ngoài hiên nấu” hỏi vì sao không chọn phòng ở rộng rãi hơn “vì còn

117

phải gửi tiền về quê cho ba chị lo cho đứa con lớn (bị bệnh down) nên ở đây

tuy có mẹ lên ở phụ chăm cháu mình cũng không dám chọn ở phòng trọ rộng

vì còn phải tiết kiệm, được đồng nào đỡ đồng đó chứ”.

Biểu 19: nguồn gốc gia đình và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Nơi làm việc và diện tích nhà ở

Đề tài cũng muốn xem nơi làm việc có ảnh hưởng gì về diện tích nhà

ở của bà mẹ đơn thân hay không. Vì giữa hai môi trường làm việc một bên

là vốn đầu tư trong nước và một bên là vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cũng

có sự khác nhau. Qua khảo sát, tỷ lệ nhóm bà mẹ đang làm việc cho công

ty có vốn FDI đang sống trong những căn phòng có diện tích rộng cao hơn

nhiều so với nhóm bà mẹ đơn thân đang làm việc cho công ty có vốn trong

nước. Vì sao có sự khác biệt này, lý do ở các công ty có vốn FDI thường có

quy mô sản xuất lớn hơn, cường độ làm việc, yêu cầu kỹ thuật cũng như

nhu cầu về lao động thường cao hơn nên để thu hút người lao động thì họ

118

buộc phải trả lương cao hơn.

Biểu 20: nơi làm việc và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Số năm làm việc và diện tích phòng ở

Mối liên hệ giữa số năm làm việc và diện tích căn phòng đang ở của các

nhóm bà mẹ đơn thân là công nhân. Cũng không có mấy khác biệt, dù mới đi làm

hay đã đi làm nhiều năm thì họ vẫn lựa chọn những căn phòng có diện tích nhỏ để

ở, điều này cho thấy sự khó khăn chung trong cuộc sống của họ về kinh tế.

119

Biểu 21: số năm làm việc và diện tích phòng ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)

Ở các KCN tỉnh Bình Dương, hầu hết các nữ công nhân đều đến từ vùng

nông thôn, đã tạo nên sức ép lớn về nhà ở. Tỷ lệ công nhân được giải quyết nhà

ở cũng chỉ đạt 10%. Hầu như những người lao động đều phải ở trong những

phòng trọ sơ sài, chật chội, tồi tàn, không có tivi, đài hay sách báo và thường

thuê gần khu vực nhà máy, xí nghiệp để thuận lợi cho công việc của mình.

Các dẫn chứng và phân tích vừa cho thấy các yếu tố chi phối sở hữu và

diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân là công nhân ở Bình Dương hiện nay, theo

đó những đặc điểm cá nhân (tuổi, trình độ chuyên môn, hợp đồng lao động,

nơi làm việc, …) và hoàn cảnh gia đình (người địa phường và người nhập cư

từ nơi khác đến) đều có liên quan rất nhiều đến việc sở hữu nhà ở và diện tích

của căn phòng mà bà mẹ đơn thân và con đang sinh sống cho thấy một bức

tranh chung đó là sự khó khăn về sở hữu nhà ở và điều này cần có sự hỗ trợ từ

nhà nước đến doanh nghiệp để họ có được một mức sống cao hơn phù hợp

hơn với sự phát triển chung của xã hội.

4.3 Đặc điểm doanh nghiệp và việc thực hiện chế độ chính sách của

doanh nghiệp.

4.3.1 Đặc điểm doanh nghiệp

Tỉnh Bình Dương là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về tốc

độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với hơn 30 khu công nghiệp có kết cấu hạ

tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, tỉnh Bình Dương đã tiến hành triển khai chương

trình đổi mới thu hút đầu tư giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu tập trung thu

hút đầu tư vào các đối tác có tiềm lực kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế lớn

trên thế giới, tăng cường kêu gọi, thu hút đầu tư FDI vào các lĩnh vực công

nghệ cao, giá trị gia tăng cao, ít thâm dụng lao động, thân thiện với môi

trường. và sự phát triển mạnh mẽ của tỉnh trong thời gian qua có sự đóng góp

rất lớn của của các doanh nghiệp thể hiện qua con số các dự án FDI đầu tư tại

Bình Dương hiện nay lên 3.639 dự án với tổng vốn đăng ký 33,76 tỷ

120

USD. Tính riêng trong năm 2018, khu vực doanh nghiệp FDI đóng góp hơn

49,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm gần 20% trong tổng thu ngân

sách của tỉnh.

Ngoài việc các doanh nghiệp FDI tham gia thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Bình Dương thông qua việc chuyển giao, đổi

mới công nghệ sản xuất; góp phần kết nối với doanh nghiệp đầu tư trong nước

tạo điều kiện cho Bình Dương ngày càng phát triển kinh tế bền vững hơn. Bên

cạnh đó, nguồn vốn FDI còn là một nguồn lực to lớn, tạo tiền đề cho tỉnh Bình

Dương phát triển theo hướng văn minh, hiện đại; đời sống nhân dân ngày càng

được cải thiện và nâng cao; làm nền tảng cho việc triển khai các giải pháp cụ thể

về phát triển công nghiệp gắn với xây dựng đô thị thông minh.

Những năm qua, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại

các khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn tỉnh đã chấp hành tốt chính sách

pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN, giúp người lao động yên tâm làm việc.

Việc đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài vào các khu công nghiệp ở

Bình Dương góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời tạo công ăn việc

làm cho người lao động. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước cũng

được nhà nước khuyến khích với nhiều chính sách đãi ngộ nhằm phát triển

sản xuất, gia tăng chỉ số GDP cho Việt Nam.

Nguồn nhân công dồi dào và chi phí thấp là một trong những yếu tố thu

hút đầu tư của các doanh nghiệp. Thế nhưng, đời sống của người lao động tại

các doanh nghiệp vẫn chưa đảm bảo, ngoài các chế độ theo quy định của nhà

nước như quy định mức lương tối thiểu vùng và tham gia các loại bảo hiểm

cho người lao động thì đời sống của người lao động vẫn chưa được quan tâm

đúng mức. Một số doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ đóng các loại bảo

hiểm cho công nhân. Có thể nói công nhân chưa được hưởng lợi nhiều so với

thành quả kinh tế mà họ tạo ra và tùy vào từng cách thức quản lý của doanh

nghiệp mà người lao động được hưởng các chế độ phúc lợi nhất định. Có

121

những doanh nghiệp tìm cách để “lách luật” làm giảm đi các khoản chi phí hỗ

trợ phúc lợi cho người lao động để tăng doanh thu cho người sử dụng lao

động. Một số doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho

người lao động. Vấn đề này xảy ra phổ biến ở các loại hình doanh nghiệp tư

nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

4.3.2 Việc thực hiện chế độ chính sách của doanh nghiệp.

Về việc làm và thị trường lao động

Trong những năm qua, với hệ thống chính sách về việc làm khá hoàn

chỉnh như đẩy mạnh tư vấn, giới thiệu việc làm, tăng cường khảo sát và khai

thác thị trường lao động; nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề; thực hiện

công tác kết nối giữa người lao động và doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả tổ

chức các phiên giao dịch việc làm định kỳ và lưu động; mở rộng mối quan hệ

với các ngành, địa phương, công ty, xí nghiệp trong các KCN, khu chế xuất…,

công tác giải quyết việc làm của tỉnh Bình Dương có nhiều chuyển biến tích

cực, đã giúp cho nhiều lao động trong đó có lao động nữ tìm được việc làm phù

hợp ở các KCN.

Theo báo cáo năm 2017 [126], tỉnh Bình Dương đã giải quyết việc làm

cho trên 45.000 lao động (đạt 101,1% kế hoạch); các trường trung cấp, cao

đẳng đào tạo nghề cho gần 65.000 người (đạt 103% kế hoạch).

Thực tế nữ công nhân lao động ở các KCN tỉnh Bình Dương hiện nay

đa số là phụ nữ di cư ở các nơi khác đến tìm việc làm và chủ yếu là lao động

chân tay, nghề chuyên sâu chưa có. Các doanh nghiệp tuyển vào, huấn luyện

một thời gian ngắn để làm việc trong các dây chuyền lắp ráp điện, điện tử, dệt

may, da giày… Có một điều là những chị em này không phải sẽ được làm tại

công ty lâu dài. Các doanh nghiệp chỉ sử dụng trong giai đoạn sức lao động

của công nhân tốt nhất. Đến ngoài 35, 40 tuổi là doanh nghiệp đã bắt đầu thải

loại họ. Các doanh nghiệp lại tính toán rất kỹ, chỉ ký hợp đồng lao động ngắn

122

hạn và nhiều lần như vậy để dễ sa thải.

Tình hình tranh chấp lao động dẫn đến đình công còn xảy ra nhiều nơi.

Việc ký kết quy chế phối hợp hoạt động giữa ban giám đốc và ban chấp hành các

Công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, thậm

chí là không có. Hiện nay tại các KCN tỉnh Bình Dương, số lao động nữ được ký

hợp đồng không xác định thời hạn lao động chiếm 70%, còn 30% số lao động nữ

chưa được ký hợp đồng lao động và ký hợp đồng ngắn hạn. Hầu hết nữ lao động

thường ít có cơ hội được đào tạo cơ bản cũng như được đào tạo lại, nâng cao tay

nghề trong quá trình làm việc.

Việc thực thi Bộ Luật lao động ở nhiều doanh nghiệp rất tùy tiện, đặc

biệt là trong bố trí việc làm, giờ giải lao và làm thêm giờ…Thậm chí nhiều

doanh nghiệp không tuyển dụng lao động nữ hoặc khi tiếp nhận phải cam kết

không sinh con trong 2-3 năm đầu. Điều này vô hình chung đã tước đi quyền

có việc làm của lao động nữ trong Bộ Luật Lao động.

Hộp 4. Doanh nghiệp với việc thực hiện chính sách

Hiện nay, các doanh nghiệp khi xây dựng các chính sách về tiền lương, lao

động và các chế độ liên quan đến người lao động không buộc họ quan tâm

đến vấn đề phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ vì nó chỉ là một hiện tượng xã hội

với xu hướng ngày càng phát triển và đang ngày càng trở nên phổ biến, do đó

không buộc doanh nghiệp phải có các chính sách hỗ trợ riêng cho đối tượng

này mà phải cần có sự quan tâm từ các tổ chức, đoàn thể xã hội như Công

đoàn, hội phụ nữ...để có những chính hỗ trợ đến đối tượng này chứ không

phải việc của các doanh nghiệp. Tuy nói vậy nhưng doanh nghiệp cũng hết

sức hỗ trợ cho những trường hợp này chỉ có điều không đưa vào trong

TULĐTT mà thôi.

(Nam, PGĐ nhân sự công Ty YZK, Bình Dương)

Có thể nói các cấp chính quyền, công đoàn tỉnh và doanh nghiệp đã có

quan tâm trong việc đảm bảo việc làm, thu nhập cho người lao động trong đó

123

có nhóm công nhân là bà mẹ đơn thân. Tuy nhiên, hoạt động này triển khai

không thường xuyên, hơn nữa trách nhiệm tham gia của mỗi doanh nghiệp

với mức độ nhiều ít rất khác nhau. Điều này dẫn đến sự trợ giúp của các chủ

thể đối với cuộc sống của bà mẹ đơn thân là ít có cải thiện.

Việc thực hiện mức lương tối thiếu vùng

Bộ Luật Lao động (2012) quy định “Mức lương tối thiểu là mức thấp

nhất trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất, trong điều kiện lao

động bình thường và phải đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của người lao động

và gia đình họ. Mức lương tối thiểu được xác định theo tháng, ngày, giờ và

được xác lập theo vùng, ngành”.

Từ năm 2013 đến nay, hàng năm Tổng Liên đoàn đều tổ chức khảo sát

thực tế về tiền lương, thu nhập, bữa ăn ca, chi phí tiêu dùng và mức sống tối

thiểu của NLĐ kết hợp với chỉ số trượt giá CPI sau mỗi năm, mức tăng trưởng

kinh tế, đời sống của NLĐ và khả năng chi trả của doanh nghiệp, từ đó tham

gia đề xuất với Hội đồng tiền lương quốc gia về mức lương tối thiểu vùng

từng năm phù hợp. Kết quả thương lượng năm 2014, mức lương tối thiểu tăng

trung bình 15,2% so với năm 2013; năm 2015, mức lương tối thiểu tăng trung

bình 14,2% so với năm 2014 và năm 2016 mức lương tối thiểu tăng trung

bình là 12,4% so với năm 2015, và theo quyết định mới nhất của Chính phủ

quy định về mức lương tối thiểu vùng năm 2019 tăng 5,3% so với năm 2018,

với quy định mới về tiền lương cơ bản đã góp phần cải thiện đời sống đối với

NLĐ. Tuy nhiên, những sự thay đổi chính sách tiền lương hàng năm không có

tác động nhiều trong việc cải thiện cuộc sống của bà mẹ đơn thân và con cái

của họ. Thông tin phỏng vấn sâu các bà mẹ đơn thân: “Tiền lương hàng năm

của em có tăng nhưng chỉ được thêm vài chục ngàn trong khi đó giá phòng

trọ cũng tăng lên, tiền gửi con họ cũng đòi lên, rau củ ngoài chợ cũng tăng

theo, hồi đó 20.000 ngàn em ăn được cả ngày có khi còn có được tí thịt, giờ

124

20.000 ngàn chỉ mua được rau thôi ”.

Hiện nay thu nhập thực tế của đa số người lao động, trong đó có lao

động nữ đơn thân ở các KCN tỉnh Bình Dương còn quá thấp (4,3 – 5,3 triệu

đồng/tháng), không đủ điều kiện để trang trải chi phí cần thiết trong sinh hoạt

hằng ngày. Đa phần họ phải thuê nhà trọ để ở, đây cũng là nguyên nhân khiến

đời sống của lao động nữ KCN, đặc biệt là lao động nữ đơn thân rơi vào tình

trạng bấp bênh, thiếu ổn định... Có tới 88,8% lao động nữ nhập cư phải làm

thêm để tăng thu nhập và cải thiện cuộc sống... Tình trạng nữ công nhân

“nhảy” việc vì chỗ làm cũ quá tệ, điều kiện làm việc không đảm bảo cũng diễn ra

thường xuyên [10].

Một thực tế nữa theo tìm hiểu của tác giả là doanh nghiệp có xu hướng

chia cắt tiền lương, trả lương cho người lao động ngang bằng với lương tối

thiểu, trả thêm các khoản phụ cấp khác nhau như tiền chuyên cần, xăng xe, ăn

trưa...nhưng đây là cách các doanh nghiệp thường áp dụng để nếu khi doanh

nghiệp gặp khó khăn thì sẵn sàng cắt những khoản phụ cấp trên khiến thu

nhập người lao động lại thấp đi và không ổn định, cuộc sống càng bấp bênh,

khó khăn.

Như vậy, cho thấy chính sách tăng lương tối thiểu hàng năm hiện nay

mới chỉ giải quyết một phần nào thu nhập và khó khăn trong cuộc sống của

các nhóm công nhân nói chung, và chính sách tăng lương này không có tác

động gì lớn đối với cuộc sống bà mẹ đơn thân. Như đã phân tích ở trên họ là

những người phải tự cân đối và quyết định nguồn thu nhập ít ỏi cho cuộc sống

của mình và chu cấp cho những đứa con mà không có sự chia sẻ cũng như hỗ

trợ từ phía người thân. Chính vì vậy, cần xem xét những chiều cạch chính

sách về tiền lương đễ hỗ trợ giúp bà mẹ đơn thân cải thiện khó khăn trong

cuộc sống.

Về nhà ở

Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản như: Nghị quyết số 18/NQ-CP,

125

ngày 20/4/2009 về một số cơ chế chính sách nhằm phát triển nhà ở cho học

sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các

KCN tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị; Quyết định số:

66/QĐ-TTg, ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, ban hành một số cơ

chế chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các KCN thuê và

Thông tư số 10/2009/TT-BXD, ngày 15/6/2009, hướng dẫn quản lý dự án đầu

tư xây dựng nhà ở sinh viên, nhà ở công nhân KCN và nhà ở thu nhập thấp.

Đã có những chủ trương, chính sách như: Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày

21-8-2006 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch phát triển các KCN ở Việt

Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 có lưu ý các KCN phải xây

dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, nhà ở và các dịch vụ tiện ích

cho người lao động.

Đến nay các dịch vụ về nhà ở, bệnh viện, nhà trẻ, trường học, chợ...

từng bước đáp ứng nhu cầu tối thiểu của công nhân. Một số ít các doanh

nghiệp xây dựng được ký túc xá dành cho công nhân; chú trọng nâng cao chất

lượng dịch vụ về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin, bảo đảm người

dân tiếp cận được phổ biến, đầy đủ mức tối thiểu dịch vụ xã hội cơ bản. Trên

địa bàn tỉnh Bình Dương đã có 85 dự án xây dựng nhà ở công nhân, có khả

năng bố trí cho khoảng 200.000 chỗ ở. Hiện nay 25 dự án đã hoàn thành với

7219 căn hộ dự kiến đến cuối năm 2018 sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng

thêm 2100 căn hộ. Với địa bàn Dĩ An nơi tiến hành khảo sát hiện nay đang

thực hiện dự án nhà ở xã hội Thạnh Tân với quy mô 1.172 căn hộ nhưng để

người lao động nhất là những bà mẹ công nhân đơn thân sở được một căn hộ ở

đây cũng chỉ là mơ ước vì giá cho một căn hộ là rất cao.

Có thế nói cho đến nay đã có nhiều văn bản chính sách liên quan đến

chính sách nhà ở cho công nhân, song việc thực thi các chính sách này ở các

126

địa phương trong đó có tỉnh Bình Dương vẫn còn nhiều bất cập.

Hộp 5. Khó khăn trong tiếp cận nhà ở cho công nhân thu nhập thấp

Đã có nhiều chính sách dành ưu tiên cho công nhân được mua nhà giá

rẻ ở Bình Dương, chúng tôi có phối hợp cùng công đoàn cũng có thông báo

cho công nhân biết nếu có nhu cầu thì đăng ký mua. Nói thì dễ vậy nhưng để

mua một căn nhà được hỗ trợ của tỉnh thông qua Ngân hàng chính sách thì

gặp nhiều vấn đề lắm như phải có hộ khẩu thường trú hoặc KT3, phải được

đóng BHXH ít nhất là 1 năm, phải có giấy đăng ký kết hôn hoặc giấy xác

nhận độc thân, giấy xác nhận chưa có nhà ở và phải có tài sản để thế chấp và

còn nhiều yêu cầu thủ tục kèm theo nữa vì vậy mà việc để công nhân nói

chung mua được nhà là đã khó với công nhân làm mẹ đơn thân lại càng khó

hơn”. Nam, lãnh đạo Ban quản lý các KCN.

Đây chỉ mới nói đến thủ tục còn về thu nhập của người lao động thì

như chúng tôi cũng đã phân tích nhiều ở các phần trên. Như vậy để thấy, kể

cả thu nhập và chế độ chính sách thì việc để sở hữu một căn nhà cho riêng

mình của công nhân đơn thân nuôi con có thể nói là không thể.

Công nhân đến Bình Dương làm việc chủ yếu là người đến từ địa

phương khác, đa phần chọn làm việc trong các ngành như chế biến gỗ, may,

da giày, chế biến thực phẩm… bởi lẽ những công việc này chỉ đòi hỏi trình

độ lao động phô thông. Chính vì không có trình độ nên mức lương không

cao. Nếu người công nhân là người địa phương thì không phải lo lắng về vấn

đề nhà trọ, nhưng với công nhân nhập cư thì tiền thuê nhà trọ chiếm một

phần lớn trong số những chi phí thường xuyên của họ. Ngoài việc phải chịu

chung mức tăng giá sinh hoạt như những người dân ở đô thị khác, tiền thuê

nhà, tiền điên, nước họ phải trả cao hơn từ 20 đến 30%. Để có dư chút đỉnh

họ chọn cách ở chung nhiều người để giảm bớt chi phí và đây cũng là

127

nguyên nhân của việc sống chung, sống thử trong công nhân.

Về các thiết chế văn hóa, khu vui chơi giải trí

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 1780/QĐ- TTg ngày

12/10/2011 Phê duyệt Đề án xây dựng đời sống văn hóa công nhân ở các

KCN đến năm 2015, định hướng đến năm 2020; Ngày 11/1/2016, Ban Bí thư

Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 52 CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho công nhân

lao động KCN, KCX; Đề án số 467/ĐA-TLĐ ngày 07 tháng 4 năm 2017 về

đầu tư xây dựng thiết chế công đoàn phục vụ đoàn viên, công nhân lao động

tại các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) của Tổng Liên đoàn Lao

động Việt Nam.

Quyết định số 655/QĐ-TTg ngày 12 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng

Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đầu tư xây dựng các thiết chế của công

đoàn tại các khu công nghiệp, khu chế xuất”.

Kế hoạch số 14/KH-TLĐ ngày 7/6/2017 về tổ chức, triển khai thực

hiện đề án đầu tư xây dựng các thiết chế của Công đoàn tại các khu công

nghiệp, khu chế xuất, phấn đấu đến năm 2030 tất cả các KCN, KCX trên cả

nước đều có thiết chế của Công đoàn, từ đó nâng cao đời sống vật chất, văn

hóa, tinh thần cho đoàn viên, công nhân lao động bằng những việc làm cụ thể

và thiết thực.

Hộp 6: Chính sách về khu vui chơi giải trí cho công nhân

Hiện nay với đồng lương ít ỏi của người công nhân, họ phải chi dùng cho mọi

vấn đề để đảm bảo duy trì cuộc sống thì việc bỏ tiền ra cho các dịch vụ vui

chơi giải trí của con cái cũng như bản thân họ là một việc họ phải cân nhắc.

Khi hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có nhiều khu vui chơi, nhiều thiết chế văn

hóa để người lao động đến mà không phải tốn phí. Thời gian tới đây, tổ chức

công đoàn sẽ thực hiện đề án “Đổi mới nội dung, phương thức, tổ chức hoạt

128

động công đoàn tỉnh Bình Dương trong tình hình mới” vấn đề về xây dựng

các trung tâm, thiết chế văn hóa cho CNLĐ cũng là một nội dung mà tổ chức

công đoàn Bình Dương quan tâm, và hướng tới đây Bình Dương sẽ ưu tiên

dành xây dựng 5 khu thiết chế công đoàn trên địa bàn các huyện tập trung

nhiều khu công nghiệp và đông công nhân lao động như Dĩ An, Tân Uyên,

Bến Cát, Bàu Bàng hi vọng với đề án này sẽ giải quyết một phần nào những

thiếu thốn về đời sống văn hoá của người lao động, cả tỉnh Bình Dương hiện

nay chỉ mới có một trung tâm văn hóa lao động dành cho công nhân nằm ở

khu công nghiệp Vsip thị xã Thuận An.

(Nam, lãnh đạo LĐLĐ tỉnh Bình Dương)

Về nhu cầu về đời sống văn hóa tinh thần của CNLĐ là rất lớn do số lượng

CNLĐ trên địa bàn thị xã Dĩ An khá đông. Nhưng các thiết chế VH-TT trên

địa bàn chưa tương ứng được với nhu cầu của CNLĐ. Với đặc điểm là một

địa phương tập trung đông CNLĐ, nhu cầu được quan tâm chăm lo về đời

sống văn hóa tinh thần cũng như việc xây dựng các thiết chế VH-TT nhằm

phục vụ nhu cầu của họ là khá lớn. Tuy nhiên, hiện nay các thiết chế VH-TT

phục vụ CNLĐ trên địa bàn thị xã vẫn còn thiếu. Chỉ có một trung tâm VH-TT

do Nhà nước đầu tư nằm ở trung tâm thị xã. So với tổng số DN đang hoạt

động trên địa bàn, số lượng DN quan tâm chăm lo đời sống văn hóa tinh

thần, xây dựng các thiết chế VH-TT phục vụ nhu cầu của người lao động vẫn

còn ít. Nhiều công ty, xí nghiệp ở các KCN không có thiết chế VH-TT phục vụ

CNLĐ hoặc có công trình đã đưa vào sử dụng rồi nhưng lại chuyển đổi mục

đích sử dụng khác. Các KCN trên địa bàn có quá trình hình thành trước thời

điểm 2011 cho nên việc quy hoạch phát triển các thiết chế VH-TT phục vụ

CNLĐ có những khó khăn nhất định.

(Nam, lãnh đạo phòng VH-TT thị xã Dĩ An).

Các thông tin phỏng vấn sâu vừa cho thấy những khó khăn trong việc

129

tiếp cận các cơ sở văn hóa, vui chơi giải trí của công nhân là bà mẹ đơn thân

hiện nay. Bình Dương trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp ở giai

đoạn đầu chỉ tập trung cho xây dựng cơ sở hạ tầng đường xá và nhà xưởng,

chưa chú ý trong hình thành các công viên cây xanh, xây dựng nhà văn hóa

dành cho công nhân. Cho dù trong những năm gần đây Chính phủ đã ban

hành nhiều văn bản nhằm phát triển thiết chế văn hóa công nhân các khu công

nghiệp; các cấp chính quyền ở địa phương quan tâm và có nỗ lực nhằm cải

thiện đời sống văn hóa của công nhân nhưng thực tế vấn đề này vẫn chưa

được giải quyết triệt để. Trong khi đó các loại hình văn hóa giải trí đang có xu

hướng dịch vụ hóa tại địa phương và điều này đã làm cho đời sống của người

công nhân đã nghèo lại càng nghèo hơn trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện

nay. Chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, nhàm chán, đơn giản và vẫn

còn không ít tiêu cực, phiền hà.

Điều kiện sống của người công nhân khó khăn về vật chất, nghèo nàn

về đời sống văn hóa tinh thần. Công nhân phải tăng ca liên tục để lo cho con

đi học, lo có tiền tiết kiệm về quê, lo mua nhà để thoát khỏi cảnh ở trọ… Sau

mười mấy giờ làm việc và đi lại (di chuyển từ nhà trọ tới nhà máy và ngược

lại), người công nhân không còn đủ sức để nghĩ tới việc hưởng thụ các loại hình

vui chơi giải trí. Việc vui chơi, giải trí, học tập… đối với họ trở nên xa vời.

Trường hợp nữ công nhân đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ thì đời sống

văn hóa tinh thần càng trở thành một điều gì đó vô cùng xa xỉ đối với họ.

Trong điều tra khảo sát của đề tài, chỉ có rất ít số công nhân xem tivi

thường xuyên, không đến 2% số công nhân có giá sách trong phòng và 100% số

chủ nhà trọ cho biết, khu trọ của họ không có chỗ vui chơi, giải trí. Có khoảng

60% công nhân lao động không xem tivi, nghe đài và 85% trả lời không đọc báo,

tạp chí các loại. (Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018)

Vào những ngày nghỉ, hầu hết nữ công nhân đều ở nhà. Thi thoảng họ

rủ nhau đi chợ, đi siêu thị, tuy nhiên việc này cũng hiếm hoi vì thời gian và

130

tiền bạc không cho phép. Hàng năm, ở các doanh nghiệp có tổ chức một vài

hoạt động nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân như liên

hoan văn nghệ, hội thi thể thao, tham quan… tuy nhiên, những hoạt động này

còn rất ít về số lượng. Những hoạt động thiết thực dành riêng cho nữ công

nhân lại càng ít ỏi hơn. Đặc biệt, những hoạt động dành riêng cho từng đối

tượng nữ công nhân (nữ công nhân thanh niên, nữ công nhân mới lập gia

đình, nữ công nhân trung niên) thì còn hiếm hoi hơn nữa.

Có những nơi đến 90% lao động nữ. Tỷ lệ như vậy chị em gặp khó khăn

trong việc tìm kiếm bạn đời để xây dựng tổ ấm riêng của mình. Do tình trạng

mất cân bằng giới tính ở ngay các KCN, khu chế xuất dẫn đến tình trạng sống

thử trước hôn nhân của công nhân có xu hướng tăng cao. Ngày càng đông nữ

công nhân sống độc thân, có con ngoài giá thú, tình trạng nạo phá thai tăng hay

sinh con bỏ con vẫn còn thường xảy ra. Phần đông không nuôi nổi con phải gửi

về quê hoặc bỏ việc. Nhiều người chấp nhận làm vợ hờ mong trang trải cuộc

sống qua ngày. Tất cả những cám dỗ về vật chất, tinh thần đó là cạm bẫy đối với

nữ công nhân trẻ, nhất là các đối tượng lao động ngoại tỉnh. Trở thành những hệ

lụy về văn hóa - xã hội đáng lo ngại trong đời sống văn hóa, tinh thần của công

nhân tại các KCN của tỉnh hiện nay.

Việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp

Số người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hằng tháng từ nguồn Quỹ Bảo

hiểm xã hội và số đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề được

giới thiệu việc làm trong lực lượng lao động là công nhân của tỉnh ngày càng

tăng mạnh. Các thủ tục hành chính cũng được đơn giản hóa, giảm số thủ tục,

quy trình thao tác và số lượng hồ sơ, chỉ tiêu trên hồ sơ tạo điều kiện thuận lợi

cho người lao động tham gia.

Trong những năm qua, việc thực hiện các chính sách BHXH cho công

nhân nữ ở các KCN tỉnh Bình Dương được quan tâm, nhằm chia sẻ rủi ro và

trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Thực hiện Nghị quyết 21 của Bộ

131

Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT

giai đoạn 2012 - 2020, BHXH tỉnh đã tham mưu Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân ban

hành các văn bản hướng dẫn và triển khai đồng bộ, nghiêm túc để công nhân

các KCN tập trung, nhất là công nhân nữ hiểu rõ về quan điểm, chủ trương,

chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc tham gia BHXH, BHTN, BHYT.

Đến nay, về cơ bản đã đạt được kết quả rất khả quan.

Việc thực hiện đầy đủ chính sách BHXH, BHTN, BHYT với NLĐ đã

tạo sự gắn bó với doanh nghiệp, nguồn lực ở công ty cũng ổn định và NLĐ

không "nhảy cóc" hay "đứng núi này trông núi nọ" đi tìm đơn vị mới có chính

sách tốt hơn.

Nhìn chung các doanh nghiệp trong các KCN tỉnh Bình Dương đã thực

hiện tương đối tốt chính sách bảo hiểm cho NLĐ, góp phần tạo ra sự ổn định

cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức độ bao phủ của BHXH còn thấp, tỷ lệ lao

động tham gia BHXH bắt buộc mới chiếm khoảng 16% tổng lao động xã hội

và 67% đối tượng thuộc diện đóng BHXH bắt buộc.

Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp không thực hiện chính sách BHXH,

BHYT cho NLĐ, làm hai bên phát sinh mâu thuẫn. Theo Ban quản lý các

KCN Bình Dương, trong năm 2017 các KCN đã xảy ra 14 vụ ngừng việc tập

thể đình công với số công nhân tham gia trên 8.000 người [10].

Chất lượng công tác khám chữa bệnh BHYT cũng chưa cao, chưa đáp

ứng được sự hài lòng của người bệnh (điều kiện nhân lực, trang thiết bị y tế

tại một số đơn vị y tế tuyến cơ sở còn hạn chế; thủ tục hành chính trong khám

chữa bệnh BHYT còn rườm rà, tình trạng quá tải, lạm dụng quỹ BHYT vẫn

xảy ra ở các cơ sở này; công tác phát hành thẻ BHYT vẫn còn sai sót, trùng

lặp ảnh hưởng quyền lợi của người có thẻ; khối lượng công việc và hồ sơ

giám định ngày càng tăng, nhưng người có trình độ chuyên môn y, dược còn

ít, nên đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giám định.

Tình trạng nợ đóng bảo hiểm xã hội cho lao động, trong đó có lao động

132

nữ còn lớn, chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc đóng - hưởng. Đến cuối tháng

12/2017, trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tổng số tiền nợ BHXH, BHYT của

các đơn vị sử dụng lao động hơn 182 tỷ đồng. Việc phát triển đối tượng tham

gia BHXH, BHYT tuy đã có chuyển biến tích cực, nhưng chưa đáp ứng được

so với yêu cầu. Số người tham gia BHXH, BHYT bắt buộc và BHXH tự

nguyện còn thấp so với số lao động nữ ở KCN...

Hộp 7: Vấn đề thực thi chính sách.

Hiện có 1264 doanh nghiệp đang hoạt động tại 26 KCN với 259.444

lao động trong đó nữ 148.642 người chiếm 57,29%. Có 983 doanh nghiệp đã

thực hiện tốt việc đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao

động, đạt 86.63% trên tổng số lao động đã ký hợp đồng. Nhiều doanh nghiệp

đang tích cực hoàn tất hồ sơ đóng BHXH, BHYT cho NLĐ, kể cả lao động ký

hợp đồng từ ba tháng. Tuy nhiên NLĐ hiện nay thường làm việc không ổn

định, thời gian tham gia đóng BH không nhiều họ không có cái nhìn về lâu về

dài trong việc tham gia đóng BH, đây cũng là một khó khăn cho NLĐ khi nghỉ

hưu chưa nói đến là gánh nặng cho xã hội.

(Nam, Lãnh đạo BQL KCN tỉnh Bình Dương).

Về BHXH hiện nay vẫn còn nhiều công ty trốn hoặc nợ không đóng BH

cho người lao động đầy đủ, dẫn đến trường hợp nhiều công nhân khi sinh

hoặc bị ốm đau không được hưởng các chế độ theo quy định. Đây là một thiệt

thòi rất lớn cho người lao động nói chung và những lao động đơn thân nói

riêng, để đảm bảo quyền lợi của người lao động, công tác kiểm tra giám sát

của các cơ quan chức năng cần được thực hiện nghiêm hơn nữa để quyền lợi

của người lao động không bị thiệt thòi.

(Nam, Trưởng phòng chế độ BHXH tỉnh Bình Dương)

Vấn đề nhà trẻ, mẫu giáo KCN

Bộ luật Lao động 2012 [7], qui định rõ: “Nhà nước có kế hoạch, biện

133

pháp tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo ở nơi có nhiều lao động nữ và người sử

dụng lao động giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần

chi phí gửi trẻ, mẫu giáo cho lao động nữ (khoản 4 Điều 154). Theo qui định

trên, Nhà nước phải có trách nhiệm xây dựng chính sách, pháp luật, qui

hoạch, tổ chức nhà trẻ, mẫu giáo ở những nơi có nhiều lao động nữ. Người sử

dụng lao động có trách nhiệm giúp đỡ, hỗ trợ về kinh phí xây dựng nhà trẻ,

lớp mẫu giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí cho lao động nữ gửi con ở nhà trẻ,

mẫu giáo.

Chỉ thị số 09/CT- CP ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc

đẩy mạnh thực hiện các giải pháp giải quyết vấn đề trường, lớp mầm non ở

các khu công nghiệp, khu chế xuất đã đề ra các biện pháp để khắc phục tình

trạng thiếu hụt nhà trẻ mẫu giáo tại KCN khi mà nhu cầu gửi trẻ ở độ tuổi

mầm non, nhất là độ tuổi nhà trẻ (dưới 36 tháng tuổi) ngày càng tăng. Nghị

định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về khu công

nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế tại khoản 9, điều 35 cũng quy định Uỷ

ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm “chỉ đạo các tổ chức có liên quan lập kế

hoạch đầu tư và tổ chức xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ

tầng xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu kinh tế như: đường giao

thông, hệ thống cung cấp điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc, các điểm

đấu nối kỹ thuật với các công trình kết cấu hạ tầng trong hàng rào khu công

nghiệp, khu kinh tế, cơ sở đào tạo nghề, nhà ở, cơ sở khám chữa bệnh, trường

học và các công trình công cộng khác đáp ứng nhu cầu phát triển khu công

nghiệp, khu kinh tế”, tức là bao gồm nhà trẻ, mẫu giáo trong KCN, khu kinh

tế. Đối với các khu công nghiệp trên địa bàn đề tài khảo sát (Dĩ An) không có

các nhà trẻ, mẫu giáo hay trường học dành cho con em người lao động cũng

như người dân địa phương. Như đã chia sẻ ở phần đặc điểm của địa bàn

nghiên cứu, thì các khu công nghiệp ở Dĩ An được hình thành sớm nhất khi

tỉnh bắt đầu có chủ trương chuyển đổi nền kinh tế theo hướng công nghiệp

134

nên chưa có kinh nghiệp trong việc khi quy hoạch khu công nghiệp phải dành

ra một quỹ đất cho các dịch vụ, các công trình công cộng như trường học,

bệnh viện.

Việc tìm nơi gửi con em công nhân cũng là vấn đề đáng ngại. Sự thiếu

vắng các nhà trẻ, trường mầm non tại các KCN và với mức chi phí từ 900 –

2.000.000/tháng để thuê người trông con hoặc gửi các trường mầm non tư

thục đạt tiêu chuẩn đã khiến phần lớn công nhân lao động chọn giải pháp gửi

con về quê cho ông bà chăm sóc hoặc gửi con vào những nhóm giữ trẻ tự

phát với chi phí thấp hơn.

Hiện nay, toàn tỉnh Bình Dương có 26/29 KCN đã hoạt động với 259.444

lao động trong đó gần 90% dân nhập cư với quá nửa là nữ. Trong tổng số lao động

này có khoảng 70% lao động có nhu cầu gửi con. Thế nhưng hiện nay những

trường mầm non dành cho con em công nhân ở quanh các KCN vẫn trong tình

trạng thiếu hụt. Cả tỉnh Bình Dương với hơn 3 ngàn doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài thì có chưa đến 10 doanh nghiệp có trường mầm non dành cho con

công nhân là công ty Yazaky, công ty Hài Mỹ, công ty Chí Hùng, công ty

Shyanghungcheng, công ty Thiên Nam. Trong khi đó, việc gửi con ở những trường

mầm non công lập thì vẫn phải chờ do ưu tiên con có hộ khẩu thường trú trước

hoặc một số trường có uy tín thì giá cả lại cao, trong khi lương của công nhân lại

không đáp ứng được. Chính vì thế, nhiều người buộc lòng phải gửi con ở những

nhà trẻ, nhóm trẻ, mầm non tư nhân mà biết có nhiều bất trắc có thể xảy ra. Có thể

nói, cùng với gánh nặng cơm áo mưu sinh trong công việc, tình trạng công nhân

phải gửi con em mình vào những nhà trẻ, nhóm trẻ hay các trường mầm non tự thục

không ưng ý là khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp không hỗ trợ chi phí giữ trẻ cho

lao động nữ có con trong độ tuổi nhà trẻ mẫu giáo…

Thông tin phỏng vấn sâu dưới đây sẽ phản ánh rõ hơn về những khó

khăn trong việc đảm bảo trường lớp cho con em công nhân tại các khu công

nghiệp, trong đó có con của bà mẹ đơn thân là công nhân ở địa bàn khảo sát

135

T, 30 tuổi công ty LP “trường học trong khu vực công ty không có, còn

trường học ở trong khu vực gần công ty thì có là trường điểm của địa phương

nữa nhưng khi nộp hồ sơ họ thường ưu tiên con em là người dân địa phương

trước, do mình ở nơi khác đến nên rất khó cho con vào học các trường này

nên tôi phải đưa cháu đến trường ở khu vực khác, trường tư, hàng ngày đưa

cháu đến đó xa mất nhiều thời gian, chi phí đi lại, học tập cũng cao hơn,

mình lại chỉ có một mình không có người thân giúp đỡ trong việc đưa đón

cháu đi học hàng ngày…” “hiện em đang gửi con ở ngoài nhóm trẻ, em vẫn

biết gửi con ở những nơi này cũng lo lắm nhưng gần chỗ em ở trọ với lại họ

giữ theo ngày, theo giờ và gửi lúc nào thì trả tiền lúc đó, như vậy cũng tiết

kiệm được một chút vì khi nào mình nghỉ ở nhà thì không phải gửi con đỡ tốn

tiền” TH 28 tuổi Công ty ASM.

Các dẫn chứng phỏng vấn sâu vừa cho thấy rất rõ những khó khăn trong

việc tiếp cận trường lớp của con em bà mẹ đơn thân đòi hỏi các cấp chính

quyền, công đoàn và công ty phải quan tâm.

Các chính sách dịch vụ xã hội

Những năm vừa qua, việc thực hiện chính sách ASXH cho nhân dân nói

chung công nhân nói riêng ở Bình Dương đã đạt được nhiều kết quả quan

trọng. Hệ thống chính sách ngày càng đồng bộ và hoàn thiện hơn. Đời sống vật

chất và tinh thần của công nhân được cải thiện. An sinh xã hội đã trở thành chỗ

dựa cho nhiều gia đình công nhân nghèo và nhiều đối tượng dễ bị tổn thương.

Các chính sách được triển khai đồng bộ giúp đối tượng thụ hưởng tăng khả

năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ

giúp pháp lý, nhà ở, tín dụng, nước sinh hoạt...

Công tác chăm lo cải thiện đời sống của người lao động cũng được các

cấp, các ngành và cả doanh nghiệp quan tâm như thông qua nguồn vốn từ quỹ

quốc gia giải quyết việc làm của Trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, các

136

loại Quỹ xã hội do công đoàn vận động như Quỹ Mái ấm công đoàn, Quỹ vì nữ

công nhân lao động nghèo, Qũy tương thân tương ái… đến nay, đã hỗ trợ cho

nhiều đoàn viên, công nhân lao động xây dựng nhà hay vay không lãi suất...

Các cấp công đoàn phối hợp với lãnh đạo các doanh nghiệp, đơn vị tổ

chức thăm hỏi, tặng quà và động viên người lao động có hoàn cảnh khó khăn

và bị bệnh hiểm nghèo, nhiều Công đoàn cơ sở còn tổ chức quyên góp trong

công nhân lao động để giúp đỡ những công nhân nữ có hoàn cảnh đặc biệt

khó khăn tại doanh nghiệp (như công nhân bị đau ốm, bệnh tật hiểm nghèo;

con công nhân lao động bị ốm đau, gia đình bị thiên tai, hỏa hoạn…).

Hàng năm, vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc, từ nguồn ngân sách của

công đoàn và sự hỗ trợ của các cấp ủy, chính quyền địa phương và các doanh

nghiệp trên địa bàn tỉnh, các cấp công đoàn trong tỉnh tổ chức các hoạt động

như: tặng quà tết, tặng vé xe, tổ chức văn nghệ, bốc thăm trúng thưởng…cho

nữ công nhân lao động còn có hoàn cảnh khó khăn, công nhân lao động xa quê.

Năm 2018, Liên đoàn Lao động tỉnh thực hiện chương trình tặng 4000 vé xe

cho công nhân trong đó có lao động nữ có hoàn cảnh khó khăn nhiều năm

không về quê ăn tết, các Công đoàn cơ sở có đông công nhân lao động cùng

với doanh nghiệp hỗ trợ từ 20% - 40% giá vé cho công nhân lao động về quê

ăn tết, phối hợp với công ty vận tải tổ chức đưa, đón công nhân về quê đảm bảo

an toàn.

Ngoài ra các cấp công đoàn trong tỉnh còn phối hợp cùng Ban giám đốc

công ty luôn tổ chức các chương trình liên hoan văn nghệ, sinh hoạt tập thể và

tặng quà cho công nhân viên như quà Trung thu, thưởng lễ 30-4. Nhiều Công ty

còn có nhà ăn tập thể thoáng mát, bảo đảm vệ sinh môi trường và điều kiện an

toàn thực phẩm, hỗ trợ các bữa ăn giữa ca trên 15.000 ngàn/người bảo đảm chất

lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, thường xuyên cải thiện bữa ăn theo nguyện

vọng của người lao động. Đối với công nhân nữ nuôi con nhỏ, nhiều công ty hỗ

137

trợ thêm 100 ngàn đồng/cháu…

Hoạt động xã hội của Công đoàn Bình Dương trong thời gian qua đã

được tổ chức với nhiều nội dung, hình thức đa dạng phong phú, đã giảm bớt

được phần nào những khó khăn mà NLĐ ở các KCN gặp phải.

Tuy nhiên, nguồn lực cho ASXH và phúc lợi xã hội còn hạn chế, chủ

yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp.

Chính sách tín dụng ưu đãi còn chồng chéo phức tạp, chưa kết hợp đồng bộ

với các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.

Quy định về mức vay, thời hạn vay, điều kiện vay chưa phù hợp với nhu cầu

thực tế sản xuất - kinh doanh của phụ nữ theo từng ngành nghề cụ thể. Đối

tượng là nữ công nhân di cư khó tiếp cận kênh vay vốn ưu đãi này.

Chính sách trợ giúp xã hội cho nữ công nhân ở các KCN còn được

thể hiện qua bữa ăn trưa của người công nhân. Tuy nhiên, qua tìm hiểu,

khảo sát ở một số doanh nghiệp thì bữa ăn trưa của người công nhân còn

rất đạm bạc, nghèo về dinh dưỡng, không mấy tuân thủ quy tắc vệ sinh an

toàn thực phẩm, chẳng những khó mang lại năng lượng cần thiết để người

công nhân tái sản xuất sức lao động, mà lại còn tiềm ẩn những nguy cơ có

hại trực tiếp cho sức khỏe

Ngoài ra, ở một số doanh nghiệp, việc giải quyết chế độ thai sản theo

quy định còn chậm, gây nhiều khó khăn, bức xúc trong công nhân; thực hiện

chế độ bồi dưỡng sinh con thứ nhất, hoặc thứ 2; nghỉ giờ sữa cho con bú;

thanh toán giờ vệ sinh phụ nữ; phụ cấp, trợ cấp nặng nhọc, độc hại cho lao

động nữ… ở một số doanh nghiệp cũng chưa nghiêm túc. Do vậy, đời sống

của nhiều nữ công nhân lao động, nhất là nữ công nhân lao động ngoại tỉnh đã

khó khăn lại càng khó khăn hơn. Và các chế độ chính sách đang được thực

hiện tại địa phương, doanh nghiệp cũng thực hiện chung cho tất cả các đối

tượng, trong khi đối tượng công nhân là mẹ đơn thân gặp khó khăn thì chưa

được ưu tiên hỗ trợ vì vậy mà cần có những chính sách hay quy định riêng

138

cho đối tượng là công nhân đơn thân nuôi con.

KẾT LUẬN

Những dẫn chứng, phân tích đã phác thảo chân dung xã hội và cuộc

sống của bà mẹ đơn thân là công nhân ở khu công nghiệp tỉnh Bình Dương

hiện nay. Trong đó có những đặc điểm nổi bật của bà mẹ đơn thân như hoàn

cảnh gia đình từ tỉnh xa đến; trình độ học vấn và trình độ chuyên môn thấp.

Bà mẹ đơn thân chủ yếu làm việc trong cty TNHH hoặc công ty có vốn nước

ngoài FDI, họ tham gia vào các công việc lao động chân tay, ít đòi hỏi chuyên

môn, kỹ thuật cao; thời gian tham gia làm việc tại các công ty này nhiều do

tăng ca. Mặc dù tham gia nhiều thời gian ở công ty nhưng thu nhập của bà mẹ

đơn thân vẫn thấp, không có tích lũy để có thể có một cuộc sống tốt hơn trong

lương lai cho bản thân và cho con cái của họ.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy có nhiều nhóm yếu tố đang chi phối

cuộc sống vật chất và tinh thần của bà mẹ đơn thân là công nhân ở khu công

nghiệp tỉnh Bình Dương. Nhóm yếu tố thuộc về đặc điểm cá nhân và hoàn

cảnh gia đình chi phối điều kiện sống về vật chất và tinh thần của bà mẹ đơn

thân là công nhân. Hoàn cảnh xa gia đình, họ hàng, quê hương và bà mẹ đơn

thân ít nhận được sự hỗ trợ từ gia đình, người thân; thậm chí có bà mẹ còn đối

mặt với định kiến của gia đình, người thân về hoàn cảnh đơn thân. Có trường

hợp bà mẹ đơn thân nhưng gia đình, người thân không biết về cuộc sống hiện

nay của họ đang diễn ra như thế nào. Có thể thấy đời sống vật chất và tinh

thần của bà mẹ đơn thân là công nhân ở khu công nghiệp tỉnh Bình Dương

đang gặp rất nhiều khó khăn thách thức trong cuộc sống. Họ trở thành một

nhóm xã hội mới, nhóm xã hội yếu thể trong các khu dân cư ở Bình Dương,

điều đáng quan tâm là chất lượng cuộc sống của họ thấp so với các nhóm xã

hội khác và họ đang là nhóm xã hội có nguy cơ cao bị bỏ lại phía sau trong

quá trình công nghiệp hóa và phát triển ở tỉnh Bình Dương.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy hoàn cảnh và lý do dẫn đến trở thành

139

bà mẹ đơn thân của nữ công nhân ở khu công nghiệp tỉnh Bình Dương. Trong

đó phần lớn nữ công nhân trở thành bà mẹ đơn thân là do đổ vỡ trong tình

yêu, hôn nhân; ngoài ra còn có trường hợp phụ nữ và gia đình họ gặp rủi ro

trong cuộc sống như chồng bị tai nạn lao động, tai nạn giao thông chết, điều

đáng quan tâm là có một số lượng đáng kể nữ công nhân chủ động trở thành

bà mẹ đơn thân. Phần lớn bà mẹ đơn thân đang có 1 con, số ít bà mẹ đơn thân

có 2 hoặc 3 con. Cho thấy xu hướng công nhân làm mẹ đơn thân đang ngày

càng gia tăng ở khu công nghiệp ở Bình Dương hiện nay.

Kết quả khảo sát cho thấy các khía cạnh liên quan đến đời sống vật chất

của bà mẹ đơn thân là công nhân. Phần lớn bà mẹ đơn thân cùng con nhỏ

đang cư trú trong các khu nhà trọ chất lượng thấp, diện tích quá hẹp, thiếu

không gian vui chơi, khu vệ sinh xập xệ, trang thiết bị sinh hoạt có giá trị

thiếu thốn. Các bữa ăn hàng ngày không đảm bảo và chất lượng bữa ăn

kém.... Bà mẹ đơn thân và con nhỏ cũng gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận

dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe ở địa phương. Những điều này ảnh hưởng

trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực của xã hội và đất nước.

Dẫn chứng cũng cho thấy bà mẹ đơn thân là công nhân ở khu công

nghiệp cũng đang phải đối diện với nhiều khó khăn liên quan đến đời sống

tinh thân. Thời gian giải trí ít (xem ti vi, nghe đài ít, ít tiếp cận với công nghệ

thông tin....; không có điều kiện tiếp cận các dịch vụ vui chơi giải trí, các khu

vui chơi công cộng, nhà văn hóa, công viên, mức độ giao tiếp bạn bè, giao

tiếp cộng đồng xã hội nơi cư trú ít, liên lạc thăm hỏi người thân, gia đình, họ

hàng ở quê hương..., những chỉ báo này làm tăng tính thụ động và ngày càng

tạo ra khoảng cách cách biệt của họ với xã hội và cộng đồng.

Kết quả khảo sát cũng chỉ ra các đặc điểm cá nhân của bà mẹ đơn thân

như trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết, nhận thức kém, thu nhập thấp, thời

gian làm việc nhiều....đang chi phối rất lớn đến sắp xếp cuộc sống, đời sống

vật chất và tinh thần của bà mẹ đơn thân cùng như con cái họ. Họ thiếu thốn

140

và gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận và hòa nhập xã hội ở địa phương sở tại.

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố khách quan cũng đang tiếp

tục chi phối cuộc sống cuả bà mẹ đơn thân. Các cấp chính quyền, ban, ngành,

đoàn thể và doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm hỗ trợ cho bà mẹ đơn thân

về việc làm cũng như phúc lợi xã hội cho gia đình bà mẹ đơn thân. Hiện nay

đã có nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện làm việc, cuộc sống thuận lợi cho

nhóm công nhân, nhưng chưa có một chính sách riêng dành cho đối tượng bà

mẹ đơn thân, chưa có chính sách ưu tiên cho đối tượng này về việc làm, thu

nhập, nhà ở, y tế, giáo dục cho họ và con cái họ.

Việc phát triển các khu công nghiệp nhiều năm liền là điểm sáng thu

hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần phát triển kinh tế, tăng thu nhập

cho người dân nhưng đồng thời cũng tăng dân số cơ học. Vì vậy, giải quyết

nhà ở cho lao động nhập cư, trong đó có công nhân đơn thân để giúp họ ổn

định cuốc sống, yên tâm lao động, sản xuất, gắn bó và đóng góp cho địa

phương .

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, mặc dù các cấp chính quyền địa

phương đã có nhiều cố gắng để nâng cao đời sống cho người lao động. Để

đảm bảo sự phát triển bền vững của các khu công nghiệp, các cơ quan chức

năng, nhà đầu tư phải quan tâm hơn đến đời sống của công nhân, bảo vệ

quyền lợi và nguyện vọng chính đáng của người lao động của những người

yếu thế.

Tất cả những nguyên nhân trên một phần do CNLĐ ít quan tâm, thiếu

thông tin hoặc chưa nắm vững các chính sách dành cho mình; việc tiếp cận

với công nhân để tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách của Đảng

và Nhà nước liên quan đến lao động nữ còn khó khăn; sự phối hợp của các

ngành chức năng trong việc triển khai thực hiện và kiểm tra giám sát chưa

hiệu quả. Một phần doanh nghiệp chưa chưa nhận thức rõ trách nhiệm của

mình, chưa quan tâm chăm lo đến đời sống của công nhân lao động trong đó

141

có lao động nữ.

Đảng và nhà nước tiếp tục chỉ đạo giải quyết những vấn đề bức xúc của

người lao động như, đảm bảo việc làm, chế độ tiền lương tương xứng với

công sức của người lao động, có chính sách về trường học, nhất là nhà trẻ,

mẫu giáo; xây dựng các thiết chế văn hóa ở các khu công nghiệp để công

nhân có khu vui chơi, giải trí. Xây dựng và hoàn thiện các chủ trương, chính

sách phát triển về đời sống vật chất văn hóa tinh thần cho đội ngũ công nhân

lao động tại các khu công nghiệp. Phải làm thế nào để các nhà hoạch định

chính sách hiểu và tìm ra các biện pháp, chiến lược hiệu quả giúp công nhân

thoái khỏi đời sống văn hóa nghèo nàn như hiện nay. Việc đầu tư cho công

nhân phải được thỏa đáng, nhất là nhanh chóng đưa tiền lương áp sát với mức

sống tối thiểu của họ. Khi tiền lương không đủ trang trải cho cuộc sống, sức

khỏe không đảm bảo, công nhân khó hoàn thành định mức công việc trong 8

giờ quy định. Về lâu dài sẽ tạo ra lớp người nghèo mới ảnh hưởng nghiêm

trọng đến ASXH.

Việc nghiên cứu và đề xuất mức lương ối thiểu phải bổ sung thêm các

căn cứ như: chỉ số giá tiêu dùng, đời sống lao động, sự chênh lệch mức lương

giữa khu vực chính thức và phi chính thức, lương giữa doanh nghiệp quy mô

lớn và doanh nghiệp quy mô nhỏ.

Có cơ chế chính sách ưu đãi đối với việc xây dựng nhà ở xã hội để

khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân.

Khuyến khích xã hội hóa về nhà ở, đồng thời thực hiện chính sách tạo

điều kiện, khắc phục tư tưởng thả nổi cho thị trường tự điều tiết, cần huy động

sự tham gia của nhiều thành phần, sự nỗ lực của bản thân người lao động,

trách nhiệm của người sử dụng lao động, sự tạo điều kiện của nhà nước và sự

hỗ trợ của cộng đồng xã hội.

Khuyến nghị:

Trên cơ sở những kết quả phát hiện về cuộc sống vật chất và tinh thần

142

của bà mẹ đơn thân là công nhân ở khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương. Luận

án đưa ra một số khuyến nghị về chế độ, chính sách cho bà mẹ đơn thân là

công nhân như sau:

Đối với chính quyền địa phương

- Cần có chế tài, hình thức xử phạt đủ sức răn đe với các doanh nghiệp

không chấp hành tốt Bộ luật Lao động và Luật công đoàn.

- Cần có văn bản cụ thể để hỗ trợ, đãi ngộ đối với NLĐ là bà mẹ đơn

thân ở các khu công nghiệp như ưu đãi về việc làm, nhà ở, nhà trẻ, các dịch

vụ y tế, văn hóa...

- Có quy định rõ chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều

lao động nữ và có cơ chế rõ ràng, đầy đủ để những doanh nghiệp có thể dành

một phần quỹ đất, kinh phí để xây dựng và quản lý nhà trẻ, mẫu giáo.

- Có quy định cho doanh nghiệp mức hỗ trợ chi phí gửi trẻ cho lao động

nữ và được xem như khoảng chi phí hợp lý của doanh nghiệp.

- Bố trí quỹ đất công hợp lý để xây dựng các thiết chế, tụ điểm văn hóa

phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của người lao động và con của họ gần các

Khu, cụm công nghiệp.

- Dành nguồn quỹ hỗ trợ bà mẹ công nhân đơn thân nuôi con vay không

lãi xuất để học nghề, nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn để có nhiều cơ

hội hơn trong việc làm, tăng thu nhập và nuôi dạy con cái.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm bà mẹ đơn thân và con của họ tiếp

cận, hòa nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội ở địa phương để họ có cơ hội

được chia sẻ cũng như nhận được nhiều sự hỗ trợ hơn trong cuộc sống.

- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân

trong xã hội, đặc biệt là nhóm trẻ vị thành niên, thanh niên công nhân về lối

sống, về trách nhiệm của bản thân đối với đời sống hôn nhân, gia đình trong

143

tương lai.

Đ i với tổ chức cô đo

- Vận động các tổ chức tín dụng có chính sách phù hợp hỗ trợ cho bà

mẹ công nhân đơn thân được vay tín chấp không lãi suất để giải quyết một

phần khó khăn trong cuộc sống hay mua nhà ở xã hội.

- Cần tăng cường phối hợp, lồng ghép tuyên truyền, định hướng cho

công nhân trẻ về cuộc sống hôn nhân gia đình, về sức sức khỏe sinh sản, bình

đẳng giới… để họ có trách nhiệm hơn với bản thân với gia đình và xã hội.

Đ i với Doanh nghiệp

- Cần có trách nhiệm hơn trong việc thực thi các chính sách, có cơ chế

ưu tiên về việc làm, thời gian làm việc và các phúc lợi cho công nhân là mẹ

đơn thân; ưu tiên việc làm cho những người yếu thế, đơn thân là lao động nữ

mang thai và nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

- Chủ động và bố trí thời gian cho công đoàn tổ chức và công nhân được

nghe các buổi truyền thông về chế độ chính sách, về hôn nhân gia đình và

thường xuyên được tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ do địa phương

và công đoàn tổ chức.

- Có chế độ ưu tiên cho công nhân là mẹ đơn thân được gửi con tại nhà

trẻ của doanh nghiệp (nếu có) hoặc hỗ trợ tiền gửi trẻ cho công nhân làm mẹ

đơn thân làm việc tại doanh nghiệp.

Đ i với các tổ chức xã hội trong và ngoài cộ đồng:

Cần có cơ chế mở tạo điều kiện và huy động sự tham gia của các tổ

chức xã hội, các nhà từ thiện, các chủ thể xã hội trong và ngoài cộng đồng

quan tâm và tham gia hỗ trợ cho bà mẹ đơn thân và con cái của họ, nhằm giúp

họ có nhiều nguồn lực hơn trong việc hòa nhập toàn diện với cuộc sống.

- Nhận xét chung: trong bối cảnh Bình Dương đang hướng đến là thành

phố công nghiệp, văn minh, hiện đại và trở thành thành phố thông minh, đây

là chương trình chiến lược đột phá kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương đến

144

năm 2021, tầm nhìn 2030, hướng tới một nền kinh tế có giá trị gia tăng cao

hơn, với mục tiêu cuối cùng là thực hiện tốt các chương trình về nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực; phát triển đô thị văn minh, giàu đẹp; việc quan

tâm đến các nhóm xã hội yếu thế, trong đó có nhóm bà mẹ công nhân đơn

thân cũng là một sơ sở giúp giảm khoảng cách cách biệt cuộc sống giữa các

nhóm trong quá trình phát triển xã hội.

Việc quan tâm có những chính sách can thiệp hỗ trợ hiệu quả sẽ là cơ sở

giúp nhóm yếu thế, bà mẹ đơn thân thích ứng tốt với đời sống xã hội, giảm

khoảng cách xã hội giữa các nhóm trong cuộc sống và hướng đến một xã hội

145

phát triển bền vững và bao trùm ở tỉnh Bình Dương.

TÀI LIỆUTHAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. A.G. Côvaliov (1971), Tâm lý học cá nhân, Tập 1, Nhà xuất bản Giáo

Dục, Hà Nội.

2. Alejandro Pores (2003), Vốn xã hội - nguồn gốc và những áp dụng nó

trong xã hội học hiện đại, Tạp chí Xã hội học, 4,84/2003.ng

3. Đặng Nguyên Anh (1998), Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình

di cư, Tạp chí Xã hội học, 2,16-23.

4. Phan Tuấn Anh ( 2015), Vấn đề phát triển nguồn nhân lực tại các khu

công nghiệp tỉnh Bình Dương đến năm 2020: Nghiên cứu trường hợp

các khu công nghiệp Sóng Thần, Tạp chí khoa học, 9-23,11/2015.

5. Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng (2000) Phụ nữ, giới và phát triển,

Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.

6. Chung Á, Nguyễn Đình Tấn (1998), Nghiên cứu xã hội học, Nhà xuất

bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Bộ Luật Lao Động (2012), nhà xuất bản Lao động.

8. Bộ Lao động, Thương Binh Và Xã Hội (2012), Thực trạng đời sống

NLĐ trong các KCN, KCX và các khuyến nghị chính sách, Báo cáo kết

quả nghiên cứu, 2012.

9. Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch và UNICEF, 2007. Công bố kết quả

nghiên cứu Gia đình năm 2006.

10. Ban Quản Lý các Khu Công Nghiệp Bình Dương, Báo cáo năm về hoạt

động sản xuất kinh doanh và tình hình thực hiện dự án đấu tư năm 2010,

2015, 2016, 2017, 2018.

11. Ban Nữ Công Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (2010), Thực trạng

và một số giải pháp thực hiện chính sách lao động nữ ở khu vực kinh tế

146

ngoài nhà nước, Đề tài cấp Bộ,2010.

12. Liêu Khả Bạch, Vương Mai, Diêm Xuân Chi (2008), Vị trí vai trò của

giai cấp công nhân đương đại, Nguyễn Ngọc Lân dịch Nhà xuất bản

Lao động, Hà Nội.

13. Mai Huy Bích (1993), Đặc điểm gia đình đồng bằng sông Hồng, Nhà

xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

14. Mai Huy Bích (2003), Xã hội học gia đình, Nhà xuất bản Khoa học Xã

hội, Hà Nội

15. Mai Huy Bích (2011), Xã hội học gia đình, Nhà xuất bản Khoa học Xã

hội, Hà Nội

16. Đỗ Thị Bình và cộng sự (2002), Gia đình Việt Nam và người phụ nữ

trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất

bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

17. Phạm Thị Bình (2013), Chức năng của gia đình dưới tác động của kinh

tế thị trường hiện nay, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, 3(363) 2013,

Viện Thông tin Khoa học Xã hội.

18. Cho Eun-Hee (2009), Những vấn đề về luật pháp đối với những gia đình

chung sống không kết hôn và phương án giải quyết, Viện nghiên cứu

Luật, Đại học Inha, Vol.12. 8.

19. Cục Thống Kê, Niên giám thống kê tỉnh Bình Dương năm 2000, 2010,

2015, 2016, 2017.

20. Chính Phủ (1997), Nghị định 36/CP, ngày 24-4-1997 về quy chế khu

công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.

21. Chính Phủ (2004), Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Quyết định

số 25/2004/QH11.

22. Chính Phủ (2008), Nghị định số 29/NĐ-CP, ngày 14/3/2008 quy định về

khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.

23. Chính Phủ (2009), Nghị quyết số 18/NQ-CP, ngày 20/4/2009 về một số

147

cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh

viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu

công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị.

24. Chính Phủ (2009), Quyết định số 66/QĐ-TTg, ngày 24/4/2009 về Ban

hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động

tại các khu công nghiệp thuê.

25. Chính Phủ (2013), Nghị định quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với

đối tượng bảo trợ xã hội, Quyết định số 136/2013/NĐ –CP.

26. Bùi Thế Cường (2002), Chính sách xã hội công tác xã hội ở Việt Nam

thập niên 90, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội.

27. Bùi Thế Cường (2005), Nghiên cứu phúc lợi xã hội: nhìn lại một chặng

đường, Tạp chí Xã hội học số 4 (92)(2005).

28. Bùi Thế Cường (2010), Từ điển Xã hội học, Oxford, Hà Nội, Nhà xuất

bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

29. Trần Văn Chiến, Trần Thị Kim Xuyến (2003-2005), Tìm hiểu thực trạng

phụ nữ kết hôn với người Đài Loan tại khu vực Đồng bằng sông Cửu

Long, Đề tài cấp Bộ.

30. Lê Thị Kim Chi (2005), Nhu cầu động lực và định hướng xã hội, Nhà

xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

31. Đinh Thị Vân Chi (2003), Nhu cầu giải trí của Thanh niên, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hoá, Nhà xuất bản Văn hoá

Nghệ thuật, Hà Nội.

33. Mary Debus. Tổng quan về nghiên cứu định tính, Tạp Chí Xã hội học,

4/1992.

34. DFID (1999), Sustainable Livelihoods Guidance Sheets,

http://www.nssd.net/references/SustLiveli/DFIDapproach.htm#Guidance

148

dẫn theo Nguyễn Văn Sửu (2010), Khung sinh kế bền vững: Một cách

phân tích toàn diện về phát triển và giảm nghèo, Tạp chí Dân tộc học, Số

2, tr 3-12.

35. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1999), Xã hội học, Nhà xuất bản Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

36. Hà Thị Dụng (2013), Nghiên cứu đời sống tinh thần công nhân nữ nhập

cư tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn khoa CTXH - Đại học mở

TPHCM Niên khóa 2009-2013.

37. Trần Hữu Dũng (2006), Vốn xã hội và phát triển kinh tế, Tạp chí Tia

sáng, Báo điện tử, 4/2006.

38. Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Thị Lan (2009), Vai trò của vốn xã hội trong

phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, Đề tài cấp nhà nước,

KX.03.09/11-15.

39. Hồ Ngọc Đức, Từ điển tiếng Việt.

40. Đảng Bộ tỉnh Bình Dương, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần

thứ VII, VIII, IX, X.

41. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, X, XI, XII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Đặng Quang Điều (2008), Việc làm và đời sống của người lao động trong các

khu công nghiệp, khu chế xuất, Tạp chí Lao động và Công đoàn 4, 2018.

43. Vũ Cao Đàm (2000), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất

bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

44. Kang Eun-Hwa (2006), Luận bàn về việc bảo đảm quyền nuôi dưỡng con cái

của người mẹ đơn thân, Chuyên đề phụ nữ Hàn Quốc, cuốn 22, Số 3.

45. Bùi Thị Thanh Hà (2003), Vị thế nữ công nhân công nghiệp trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghiên cứu trường hợp Hà Nội.

46. Bùi Thị Thanh Hà (2003), Công nhân công nghiệp trong các doanh

nghiệp liên doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Khoa học xã

149

hội, Hà Nội.

47. Nguyễn Thị Hạnh (2012), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng

giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, luận

văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN.

48. Nguyễn Minh Hòa (2012), Nhà ở xã hội – Nhà ở cho người thu nhập

thấp, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam,5/2012.

49. Lê Ngọc Hùng (1999), Công bằng xã hội và hội nhập xã hội đối với phụ nữ:

Một số vấn đề thực tiễn và phương pháp tiếp cận, Tạp chí Khoa học về phụ

nữ, 38/ 1999.

50. Lê Ngọc Hùng (2000), Quyền phụ nữ trong điều kiện kinh tế hiện nay ở

Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2000.

51. Lê Ngọc Hùng (2002), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

52. Lê Ngọc Hùng (2008), Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua

một số nghiên cứu ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu con người, 4, 37

53. Lê Ngọc Hùng (2013), Vấn đề thiếu hụt lao động tỉnh Bình Dương giai

đoạn 2011-2015, Đề tài khoa học, Trung tâm tư vấn và Dịch vụ Khoa

học công nghệ.

54. Lê Ngọc Hùng, (2014), Lý thuyết xã hội học hiện đại, Nhà xuất bản Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

55. Lê Ngọc Hùng (2015), Hệ thống, cấu trúc & Phân hóa xã hội, Nhà xuất

bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.

56. Lê Ngọc Hùng (2016), Chính sách xã hội và kiến tạo xã hội: Một số vấn

đề lý thuyết và thực tiễn, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị,

1,14/2016.

57. Phạm Văn Quyết (2017), Những rào cản từ hệ thống an sinh xã hội đối

150

với hòa nhập xã hội của lao động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt

Nam, Kỷ yếu Hội thảo, Chăm sóc sức khỏe - Những vấn đề xã hội học

và công tác xã hội, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.

58. Phạm Văn Quyết (2016), Mạng lưới xã hội và hòa nhập xã hội của lao

động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt Nam, Tạp chí lý luận chính trị,

4,63-69/2016.

59. Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên cứu Phụ nữ giới và gia đình, Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

60. Trần Hồng Kỳ (2009), Một số vấn đề về phát triển khu công nghiệp và

khu chế xuất Việt Nam, Hội thảo quốc tế: Tác động xã hội vùng của các

khu công nghiệp ở các nước Đông Nam Á và Việt Nam, Bộ Kế hoạch

Đầu tư, Hà Nội, 2009.

61. Kobayashi Fuumio, Đại học Thương mại Yokohama (2009), Xây dựng

KCN Thăng Long và vật liệu đường bộ Việt Nam - Trung Quốc, Hội thảo

quốc tế, Hà Nội.

62. Kratkij Clovar po Sociologij (1989), Từ điển tóm tắt Xã hội học, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

63. Nguyễn Văn Sửu (2010), Khung sinh kế bền vững: một cách phân tích

toàn diện và giảm nghèo, Tạp chí Dân tộc học, 2,3-12/2010.

64. Phạm Phương Lan (2013), Về chính sách xã hội đối với công nhân trong

giai đoạn hiện nay, Tạp chí khoa học xã hội, 7,179/2013

65. Võ Thị Cẩm Ly (2016), Từ nghiên cứu về sinh kế đến những vấn đề đặt

ra đối với nghiên cứu sinh kế của phụ nữ làm mẹ đơn thân ở Việt Nam,

Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, 3/2016.

66. Tương Lai (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt

Nam,Nhà xuất bảnKhoa học xã hội, Hà Nội.

67. Nguyễn Đức Lộc (2014), Hiện trạng và khả năng tiếp cận phúc lợi của

người công nhân đang làm việc tại các khu công nghiệp tỉnh Bình

151

dương, Việt Nam, Tạp chí Chính trị Xã hội số 2 tr.59-81.

68. Nguyễn Đức Lộc (2015), Vai trò của mạng lưới thân thuộc trong chiến

lược ứng phó rủi ro của người công nhân đang làm việc tại các khu công

nghiệp tỉnh Bình Dương, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập

18,X5,119-129.

69. Luật Bình Đẳng Giới (2008), Nhà xuất bản Hồng Đức.

70. Luật Bảo Hiểm Y Tế 2008.

71. Luật Bảo Hiểm Y Tế Sửa Đổi 2014.

72. Luật Hôn Nhân Gia Đình (2015), Nhà xuất bản Lao động

73. Luật Công Đoàn (2012), Nhà xuất bản Lao động.

74. Luật Phòng Chống Bạo Lực Gia Đình, Nhà xuất bản Tư Pháp.

75. Liên Đoàn Lao Động Tỉnh Bình Dương, Báo cáo hoạt động công đoàn

năm 2016, 2017, 2018. 70.

76. Claudia Mast (2003), Truyền thông đại chúng những kiến thức cơ bản,

Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội.

77. Lee Mi-jeong (2011), Phương án cải thiện hệ thống phúc lợi đối với

người mẹ đơn thân lựa chọn nuôi con, Viện nghiên cứu chính sách phụ

nữ Hàn Quốc.

78. Martine Segalen (2013), Xã hội học gia đình, Nhà xuất bản Thế giới.

79. Nguyễn Hữu Minh (2006), Gia đình- Nguồn gốc hỗ trợ tình cảm cho

thanh niên và vị thành niên: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Xã hội

học, 3,95.

80. Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh (2008), Bình đẳng giới ở Việt

Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

81. Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh (2009), Bạo lực gia đình đối với

Phụ nữ ở Việt Nam thực trạng diễn tiến và nguyên nhân, Nhà xuất bản

Khoa học Xã hội.

82. Nguyễn Hữu Minh (2012), Các mối quan hệ trong gia đình ở Việt Nam:

152

Một số vấn đề cần quan tâm, Tạp chí Xã hội học, 4,91-100.

83. Nguyễn Hữu Minh (2014), Gia đình Việt Nam trong quá trình Công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh, Nhà xuất

bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

84. Phan Thị Thanh Mai, Hà Thị Minh Khương (2012), Chăm sóc và giáo

dục con trong gia đình có vợ hoặc chồng di cư lao động. Tạp chí nghiên

cứu Gia đình và Giới,4, 40-49.

85. Phạm Xuân Nam (1997), Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải

pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Mai Quỳnh Nam (2004), Gia đình trong tấm gương Xã hội học, Nhà xuất bản

87. Vũ Hào Quang, Gia đình Việt Nam quan hệ, quyền lực và xu hướng biến

đổi, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.

88. Trần Hữu Quang (2006), Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội, Tạp chí Khoa

học xã hội, 7,74-81.

89. Lê Thị Quý (2011), Giáo trình xã hội học gia đình, Nhà xuất bản Chính

trị- Hành chính.

90. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2012), Phương pháp nghiên cứu

Xã hội học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.

91. Ph.Ăngghen, (1884), Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của

nhà nước, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. ọc

92. Trường Đại Học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình luật hôn nhân và gia

đình Việt Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội. sử -

93. Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với GCCN và công đoàn Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và

hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

94. Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (2013), Mức sống của lao động nữ

nhập cư tại các KCN, KCX hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.

95. Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà

153

Nội.

96. Bùi Đình Thanh (2004), Xã hội học và Chính sách xã hội, Nhà xuất bản

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

97. Lê Thi (1996), Gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng, Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội, 1996.

98. Lê Thi (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, Nhà xuất bản Khoa học xã

hội, Hà Nội.

99. Lê Thi (1998), Gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng, Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

100. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

101. Lê Thi (2002), Cuộc sống của phụ nữ đơn thân ở Việt Nam, Nhà xuất

bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

102. Lê Thi (2004) Hỏi đáp về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam, Nhà xuất

bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

103. Lê Thi (2005), Cuộc sống của những người phụ nữ đơn thân ở Việt Nam,

Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.

104. Lê Thi (2006), Cuộc sống và biến động của hôn nhân, gia đình Việt Nam

hiện nay, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

105. Lê Thi (2009), Sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hôn nhân

gia đình giữa các thế hệ người Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

106. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình Xã hội học về giới, Nhà xuất bản

Đại học quốc gia, Hà Nội.

107. Hoàng Bá Thịnh (2012), Biến đổi quy mô và loại hình gia đình Việt Nam

đầu thế kỷ 21, Thực tại và Tương lai của gia đình trong thế giới hội

154

nhập, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, 2012.

108. Hoàng Bá Thịnh (2014), Kết hôn sớm: Một vấn đề xã hội ở Việt

Nam, Gia đình Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập từ

cách tiếp cận so sánh, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2014.

109. Hoàng Bá Thịnh (2015), Lao động nữ di cư làm việc ở khu vực phi

chính thức và mức độ tiếp cận an sinh xã hội, An sinh xã hội và Công

tác xã hội, Nhà xuất bản Hồng Đức, 2015.

110. Hoàng Bá Thịnh (2018), Những giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam

hiện nay, Chương trình nghiên cứu, đánh giá tổng thể về gia đình thời

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, mã số

KHXH-GĐ/16-19/10, 2017-2018.

111. Chu Thị Thu Trang (2016), Thực trạng công tác hỗ trợ phụ nữ đơn

thân phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Bá Xuyên thị xã Sông Công,

tỉnh Thái Nguyên. Tạp chí Khoa học sông nghệ, 112, 2016.

112. Nguyễn Mạnh Thắng (2009), Xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn

2010 – 2020, Báo cáo kết quả điều tra, khảo sát, Đề tài khoa học cấp

Nhà nước, Mã số KX.04.15/06-10.

113. Nguyễn Mạnh Thắng (2015), Những vấn đề bức xúc, cấp bách của

công nhân, lao động trong các KCN, KCX - Thực trạng và giải pháp,

Đề tài khoa học cấp Bộ, 2015.

114. Nguyễn Mạnh Thắng, Lê Cao Thắng (2014-2017), Giáo dục chính trị,

tư tưởng cho công nhân trong các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay, Đề

tài khoa học cấp Bộ.

115. Nguyễn Thị Bích Thúy (2015), Thực trạng đời sống người lao động

trong các KCN, KCX và các khuyến nghị chính sách, Tạp chí Khoa học

– Lao động và Xã hội 31,45,4/2015.

116. Lã Thị Thu Thủy (2011), Thay đổi tâm lý của thanh niên công nhân

155

xuất thân từ nông thôn, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

117. Vũ Quang Thọ (2015), Lối sống công nhân Việt Nam trong điều kiện

công nghiệp hóa, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

118. Vũ Quang Thọ, Vũ Thị Loan (2013), Giải pháp gắn kết đào tạo với sử

dụng lao động sau đào tạo nghề tại các trường dạy nghề thuộc hệ

thống công đoàn, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

119. Vũ Quang Thọ (2015), Xây dựng lối sống văn hoá của công nhân Việt

Nam – Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

120. Trần Thị Kim Xuyến (1983), Vấn đề gia đình, Tạp chí Xã hội học,

4/1983.

121. Trần Thị Kim Xuyến (1986), Chính sách xã hội đối với nữ thanh niên

tại các nông trường, Tạp chí Xã hội học, 4,50/1986.

122. Trần Thị Kim Xuyến (2002), Gia đình và những vấn đề của gia đình

hiện đại, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2002.

123. Trần Thị Kim Xuyến (2003), Giới và công tác giảm nghèo, Nhà xuất

bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2003.

124. Trần Thị Kim Xuyến (2004), Đời sống tinh thần của nữ nhập cư tuổi

thành niên. Đề tài cấp Trường Đại học, 2004.

125. Trần Thị Kim Xuyến (2005), Nghiên cứu về bình đẳng giới trong gia

đình Việt Nam, Đề tài cấp Trường Đại học, 2005.

126. Trần Thị Kim Xuyến (2007), Nâng cao năng lực nghiên cứu và giảm

nghèo tại cộng đồng nông thôn tỉnh Bình Phước theo phương pháp huy

động sự tham gia của người dân, Đề tài cấp Tỉnh, 2005-2007.

127. UBND Tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - văn hóa – xã hội

năm 2016, 2017, 2018.

128. UBND tỉnh Thị Xã Dĩ An, Báo cáo tình hình kinh tế - văn hóa – xã hội

năm 2016, 2017, 2018.

129. Viện Sử Học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2008), Xây dựng và

156

phát triển văn hoá của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình

đổi mới và hội nhập quốc tế, thuộc chương trình: Xây dựng con người

và phát triển văn hoá Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập

quốc tế, Mã số: KX.03/06-10.

130. Lê Ngọc Văn (2012), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nhà

xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

131. Phạm Viết Vượng (2000), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học,

Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.

132. Lê Ngọc Văn, Mai Văn Hai, Đặng Thị Hoa, Bùi Thị Hương Trầm

(2016), Hệ giá trị gia đình Việt Nam từ hướng tiếp cận Xã hội học, Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

133. Lê Ngọc Văn (2005), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia

đình Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học, Hà Nội .

134. Nguyễn Thị Thu Vân (2015), Vị thế của người mẹ đơn thân trong xã

hội Hàn Quốc hiện nay và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ Nhân học, 2015.

135. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển Xã hội học, Nhà xuất bản Thế giới,

Hà Nội.

136. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Gia đình và Giới (2012),Xây

dựng gia đình ở người di cư lao động tự do, TLV.1390.

137. Đỗ Thị Yên (2011), Chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho lao động nữ trong

các khu công nghiệp và vai trò của công đoàn, Đề tài cấp Bộ, 2011.

138. Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch và UNICEF, 2007. Công bố kết quả

nghiên cứu Gia đình năm 2006.

T i liệu tiế ước o i

139. Ann Berrington, Perelli-Harris & Trevena(2015),Commitment and the

changing sequence of cohabitation, childbearing, and marriage:

Insights from qualitative research in the UK. Demographic Reserch,

157

Volume 33.

140. Amato P. R (2000), The consequences of divorce for adults and

children. Journal of Marriage and the Family, 62, 1269–1287.

141. Amato P. R. (2005),The impact of family formation change on the

cognitive, social, and emotional well-being of the next generation. The

Future of Children, 15, 75–96. 10.1353/foc.2005.0012

142. Arland Thornton, Hui-Sheng Lin (1994), Social Change and Family in

Taiwan.

143. Algava (2003), Histoires de familles, histores familiales: Les résultats

de l;enquête famille de 1999.

144. Budig, Michelle and Paula England (2001), The Wage Penalty for

Motherhood, American Sociological Review. 66:204-225.

145. Silke Aisenbrey, Economic penalties and rewards of family formation,

gender and education in the low-income sector in Germany.

146. Cherlin, Andrew. 2004, The Deinstitutionalization of Marriage,

147. Chambers, R. and G. Conway (1992), Sustainable rural livelihoods:

Journalof Marriage and Family

practical concepts for the 21st century, IDS discussion paper, 296.

Brighton.

148. Gucciardi, E., N. Celasun, D.E. Stewart (2004), Single-mother families

in Canada, Can J Public Health, 95, pp.70-73

149. Louis Roussel (1989), La famille incertaine, Sociologie du travail

Année. 1990 32-4pp. 588-592, Fait partie d’un numéro

thématique:Sortir du chômage...?

150. Martin Claude (1997), L'après divorce. Lien familial et vulnérabilité.

compte-rendu, Population Année 1997 52-5 pp. 1253-1254

151. Martin Segalen (2010) Sociologie de la famille, Published by Armand

158

Colin, 2010.

152. Hertz R. (2006), Single by chance, mothers by choice: How women are

choosing parenthood without marriage and creating the new American

family, New York

153. ILSSA và GIZ. (2011). Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam. Hà Nội: Tổ

chức GIZ và Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA)

154. Jennifer E.Lansford và cộng sự (2001), Does Family Structure Matter?

A Comparison of Adoptive, Two-Parent Biological, Single-Mother,

Stepfather, and Stepmother Households, Journal of Marriage and

Family. Volume 63, p840-851

155. Klett – Davies Martina (2001)(2007), Going it Alone? Lone

Motherhood in Late Modernity, London School of Economics, UK.

156. Kiernan & Mensah (2010), Unmarried parenthood, family trajectories,

parent and child well-being. Bristol, UK: The Policy Press.

157. Klett-Davies (2016), Under pressure? Single parents in the UK. Report

study.

158. Martin, Joyce A., Brady E. Hamilton, Michelle J.K. Osterman, Sally C.

Curtin and T.J. Matthews (2015), Births: Final Data for 2013,

NationalVital Statistics Reports 64.1 National Center for Health

Statistics.

159. Murray & Golombok(2005), Solo mothers and their donor

insemination infants: follow-up at age 2 years, Human Reproduction,

Volume 20, Issue 6, P 1655–1660.

160. Nidhi Kotwal và Bharti Prabhakar (2017), Problems Faced by Single

Mothers. Journal of Social Sciences ,Volume 21, 2009 - Issue 3

161. Polakow Valarie, Halskov Therese & Schultz Jorgensen Per (2001),

Diminished rights, Danish lone mother families in internationnal

159

contexts, The lolicy Press.

162. Rachel M. Shattuck and Rose M. Kreider (2013) American Community

Social and Economic Characteristics of Currently Unmarried Women

With a Recent Birth: 2011, American Community Survey Reports ,

ACS-21

163. Tinsley, M. (2014), Parenting Alone - Work and welfare in single

164. 徐 安 琪 , (2006), 家 庭 : 和 谐 社 会 建 设 中 的 功 能 变 迁 和 政 策 支 持

[J].社会科学.

165. 郭砾 , (2002), 女户主单亲家庭的社会支持问题[J]. 学习与探索.

166. 徐 安 琪 , 叶 文 振 , (2001), 父 母 离 婚 对 子 女 的 影 响 及 其 制 约 因 素

[J].中国社会科学,

167. 李洪涛 (2000), 社会性别视角的解析:单亲母亲现状研究[J].妇女

研究论丛,

168. 王世军, (2002),单亲家庭贫困问题[J].浙江学刊,

169. 唐文军, (1999),单亲母亲的处境和需要[J].中华女子学院学报,164.

王世军, (2002),单亲家庭及其对子女成长的影响[J].学海,

170. 徐安琪, (2004),单亲家庭子女福利及其法律、政策援助[J].青年研

究,

171. 166.林崇德, (1992),离异家庭子女心理的特点[J].北京师范大学学

报(社会科学版.

172. 吴德清, (1999),当代中国离婚现状及发展趋势[M].文物出版社.

173. 徐安琪, (2003), 单亲弱势群体的社会救助[J].江苏社会科学.

174. 徐安琪, (2007),离婚与女性地位及权益之探讨[J].浙江学刊,

160

parent households, London: Policy Exchange,

175. 王师堂,王海燕, (2005), 对单亲家庭子女教育问题的探讨[J].江西

教育科研,

176. 孙立萍, (2005),当前我国离婚式单亲家庭与其子女社会化[D].吉林

大学社会学,

177. 李洪涛, (2000),社会性别视角的解析:单亲母亲现状研究[J].妇女

研究论丛,

178. 王美燕、吴冬才(2007),构建我国单亲家庭家务劳动价值补偿制度的探讨

[J].福建论坛(社科教育版),

179. https://www.nytimes.com/2012/02/18/us/for-women-under-30-most-

Website tham khảo

, Jason Deparle and Sabrina

births-occur-outside-marriage.html Tavernisefeb , For Women Under 30, Most Births Occur Outside

Marriage.

180. https://www.census.gov › library › publications › 2013 › acs › acs-21,

Rachel M. Shattuck and Rose M.Kreider, Social and Economic

Characteristics of Currently Unmarried Women With a Recent Birth:

2011

181. http://scholar.google.com/citations?user=DpuRLdsAAAAJ&hl=en

187, 2008. Parental involvement and students' cognitive outcomes in

Korea: Focusing on private tutoring. H Park, S Byun, K Kim.

Sociology of Education 84 (1), ...

182. http//phununet.com.tin-tuc-xa-hoi/trao-luu-lam-me-don-than-noi-thiet-

thoi-con-tre - Hoàng Mai, “Trào lưu làm mẹ đơn thân – nỗi thiệt thòi

cho con trẻ”, Tạp chí Phụ nữ và thời cuộc.

183. http://w.w.w. Doisong.vn. Xu hướng làm mẹ đơn thân- hãy nghĩ đến

161

quyền con trẻ.

184. http//vieclam.laodong.com, Giang nguyễn (2014), Nhọc nhằn nữ công

nhân nuôi con đơn thân.

185. http//www.tinmoi.vn/vietnamnet, Hoàng Đức (2015), Chuyện đời long

đong của các nữ lao động khu công nghiệp.

186. http//www.tinmoi.vn/Dân trí, Nữ công nhân, gian nan tìm hạnh phúc.

187. http//www.tinmoi.vn/vietnamnet, 06/08/2012 Bài viết, Nữ công nhân:

Đắng ngắt những cuộc tình vơ vội.

188. http//www.tinmoi.vn/Dân trí Bài viết, Nhà trẻ bán trú cho nữ công nhân.

189. http//www.vanhoanghean,com.vn, 04 /8/ 2014 Quang Hiền, Lao động

nữ tại các khu công nghiệp còn nhiều khó khăn, thiệt thòi,

190. http//www.trungtamphukhoadongy.com Bài viết, Chăm sóc sức khoẻ

nữ công nhân tại các khu công nghiệp,

191. http// www.tinmoi.vn/ vietnamnet - Hoàng Đức (2015), Chuyện đời

long đong của các nữ lao động khu công nghiệp,

192. http// www. Doisong.vn, Xu hướng làm mẹ đơn thân - hãy nghĩ đến

quyền con trẻ.

193. http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/332-Quan-he-ngoai-hon-nhan-trong-

gia-dinh-Viet-Nalichsu@tnus.edu.vn, Nguyễn Việt Hương (2013).

194. http// www.tapchicongsan org.vn - Vũ Văn Phúc (3/2012) , An sinh xã

hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

195. http://www.dankinhte.vn/an-sinh-xa-hoi-la-gi 196. http://www.tapchicongsan.org.vn/- Nguyễn Thị Thanh Vân (6-2012)

“Đời sống của công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Bình

Dương”nay http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/332-Quan-he-

197. U.S. Bureau of the Census, Current Population Reports,. Series P23-

194, Population Profile of the United

162

States: 1997. U.S. Government ...www.census.gov/library/publicati

PHỤ LỤC

- Hướng dẫn PVS

- Bảng hỏi

1

- Tư liệu ảnh đời sống bà mẹ đơn thân là công nhân

Mã số phiếu

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Kính chào ông/bà!

Tôi là nghiên cứu sinh thuộc Học viện Khoa học xã hội. Hiện nay, tôi đang tiến hành nghiên cứu về đề tài “Cuộc sống của những bà mẹ đơn thân ở các khu công nghiệp nhìn từ góc độ chính sách hội xã – nghiên cứu trường hợp khu công nghiệp sóng thần tỉnh Bình Dương”, để có thông tin phục vụ cho việc viết luận án tốt nghiệp, tôi mong ông (bà) cho biết ý kiến bằng cách trả lời những câu hỏi dưới đây.

Tôi xin cam kết mọi thông tin ông (bà) cung cấp mang tính khuyết danh, chỉ

phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học và không chia sẻ dưới bất kì hình thức nào.

Phỏng vấn viên: ...............................................................................................................

Thời gian phỏng vấn: ......................................................................................................

Địa điểm phỏng vấn: .......................................................................................................

PHIẾU KHẢO SÁT

A. THÔNG TIN CHUNG CỦA B ĐT:

C1 Giớitính

1. Nam 2. Nữ

C2 Năm sinh (dương lịch) …………….

C3 Trình độ học vấn

C4 Trình độ chuyên môn, tay

nghề

C5 Anh (chị) là?

C6 Loại hình doanh nghiệp anh (chị) đang làm việc?

C7 Hợp đồng lao động anh

(chị) đã ký với doanh nghiệp

1. Tiểu học( cấp I) 2.Trung học cơ sở( cấp II) 3.Trung học phổ thông ( cấp III) 1. Chưa qua đào tạo nghề 2. Đào tạo nghề tại doanh nghiệp 3. Trung cấp nghề 4. Cao đẳng nghề 5.Đại học 1.Người địa phương (tại tỉnh đang làm việc) 2.Người nơi khác đến đây làm việc 1.Công ty tư nhân 2.Công ty Trách nhiệm hữu hạn 3.Công ty Cổ phần 4.Công ty có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 5.Không biết/Khôngrõ 1.Không có hợp đồng lao động, hoặc bằng miệng 2.Dưới 1 năm 3.Có thời hạn từ 1 đến 3 năm 4.Không xác định thời hạn

2

C8 Tình trạng hôn nhân hiện

tại của anh/chị?

1: Đã kết hôn và hiện đang sống cùng vợ chồng 2: Đã kết hôn nhưng không sống cùng (vợ, chồng đang ở nơi

khác)

(Chọn 1 đáp án)

3: Chưa kết hôn 4: Ly thân, ly hôn 5: Khác:…………………………………….

C9 Tổng thu nhập bình quân hàng tháng của anh/chị?

1: Dưới 5 triệuđồng 2: Từ 5 triệuđến 10 triệuđồng 3: Trên 10 triệuđồng

(Chọn 1 đápán)

C10 Hiện nay Anh/chịcómấy

con?

1:Chưacó con 2: Một con 3: Hai con 4: Ba con trởlên 5. Trongđó:số con dưới 6 tuổi là..............con.

C11 Số năm anh/chị đến làm việc ở Bình Dương

1. Dưới 1 năm 3. Từ 3 đến 5 năm 2. Từ 1 đến 2 năm 4. Trên 5 năm

C12 Đơn vị anh/chị có khu nhà ở cho công nhân không

1. Có 2. Không 3. Không biết

C13

1. Nhà riêng, 2. Nhà bố mẹ 3. Nhà của doanh nghiệp cho thuê

Nhà ở anh/chị đang ở?

4. Nhà trọ khu dân cư

Tổng diện tích nhà ở,

C14

phòng trọ mà anh, (chị)

5. Khác (ghi rõ).................... 1. Bao nhiêu mét vuông:.......................m2 2. Bao nhiêu người ở cùng:………….. người

đang có hoặc đang thuê ?

Tại nhà anh/chị đang ở có

những loại trang thiết bị

C15

nào? (có thể chọn nhiều

đáp án)

9. Giường 10. Tủ 11. Bàn ghế 12. Xe đạp 13. Xe máy 14. Ô tô 15. Điện thoại di động 16.Khác:....................

1. Ti vi 2. Tủ lạnh 3. Máy giặt 4.Đèn chiếu sáng 5. Quạt 6. Điều hòa 7. Bình nóng lạnh 8. Lò vi són 1. Nước giếng khơi/ giếng khoan

C16

2. Nước máy của Nhà Nước theo tiêu chuẩn nước sạch

Nước sinh hoạt hằng ngày anh/chị dùng được lấy từ đâu?

3. Khác:..............................................................

3

B: ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN CỦA B ĐT

1. Chi tiêu cho ăn uống hằng ngày

C17

2. Chi tiêu cho giáo dục con cái

3. Chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe gia đình

4. Chi tiêu cho điện nước hằng tháng

Với mức thu nhập như vậy, anh/chị phải chi tiêu cho những việc gì trong tháng? ( có thể chọn nhiều đáp án)

5. Chi tiêu cho giải trí/ lễ hội/ du lịch

6. Đóng góp cho hoạt động xã hội, từ thiện

7. Mua sắm trang thiết bị gia đình

8. Đám ma/ đám cưới/ các sự kiện khác

9. Gửi về quê cho người thân

10. Khác:...............................................................

1. Thủ tục đăng ký học cho con cái

C18

2. Trường học quá xa nơi ở

Anh/chị gặp khó khăn gì trong tiếp cận với các dịch vụ giáo dục?

3. Không tin tưởng vào thầy cô giáo ở cơ sở giáo dục

4. Giờ đón trả học sinh không hợp với giờ làm việc

5. Chi phí học tập cao so với thu nhập

6. Khác:.........……………………….............................

1. Thủ tục khám bảo hiểm y tế

C19

2. Bệnh viện quá xa nơi ở

Anh/chị gặp khó khăn gì trong tiếp cận với các dịch vụ y tế?

3. Thái độ của bác sĩ và nhân viên y tế không quan tâm

4. Chi phí khám chữa bệnh cao so với thu nhập

5. Khác:………………………......................................

1. Công viên, nhà văn hóa thành phố xa nơi ở

C20

2. Chưa có nhà văn hóa, công viên trong khu công

nhân

Anh/chị gặp khó khăn gì trong tiếp cận với các dịch vụ văn hóa, thể thao?

3. Chưa có khu vui chơi, thể thao dành cho công nhân

4. Chi phí đến các khu vui chơi, giải trí cao so với thu

nhập

5. Không có thời gian tham gia các hoạt động này

6. Khác:………………………......................................

1. 1. Tiền lương, thu nhập thấp, không có tích lũy

C21

2. 2. Ốm đau không có tiền chữa bệnh

Anh (chị) cho biết những băn khoăn, lo lắng trong cuộc sống hiện nay?(có thể

4

chọn nhiều ý)

3. 3. Công việc không ổn định

4. 4. Không có nhà cửa ổn định

5. 5. Không tìm được nơi gửi con, chăm sóc con dưới 6

tuổi an toàn

6. 6. Phải xa con do gửi con về quê cho ông, bà do không

có điều kiện chăm sóc

7. 7. Khác:...................................................................

1. Một lần /tháng 4. Vài năm 1 lần

Từ khi đến đây, Anh/chị có về thăm quê, người thân?

C22

2. Vài tháng 1 lần 5. Không có điều

kiện

3. Một năm 1 lần về thăm

quê

C23 Yếu tố nào dẫn Anh/chị đến quyết định làm cha, mẹ đơn thân

1. Có người yêu và người yêu bỏ 2. Chủ động xin con 3. Lý do khác....................................

C24 Trước khi quyết định

làm cha/mẹ đơn thân Anh/chị có tham khảo ý kiến

1. Người thân 2. Bạn bè 3. Ý kiến khác................................................

C25

Sau khi quyết định đơn thân nuôi con Anh/chị gặp những khó khăn gì nhất

C 26

Chị gặp những khó khăn nào trong quá trình làm việc?

C26 Anh/Chị có hay vấp phải những đánh giá, phán xét có tính định kiến đối với hoàn cảnh của mình không?

C 28 Doanh nghiệp nơi anh chị làm việc có tổ chức các hoạt động nào dưới đây để hỗ trợ công nhân tìm hiểu và lập gia đình không? Có thể chọn nhiều ý

1. Bị mọi người bàn tán, xa lánh. 2. Khôngcó ai hỗ trợ về vật chất và tinh thần 3. Mất việc làm 4. Lý do khác................................................ 1. Tính chất công việc 2. Thời gian làm việc 3. Yêu cầu công việc 4. Mức lương 5. Chế độ 1. Từ đồng nghiệp 2. Từ bạn bè 3. Từ hàng xóm 4. Từ gia đình 1. Không tổ chức 2. Tổ chức câu lạc bộ giao lưu, kết bạn 3. Truyền thông về chăm sóc sức khỏe sinh sản 4. Tư vấn về tiền hôn nhân 5. Thi về nữ công gia chánh

5

6. Tổ chức cưới tập thể cho công nhân 7. Tổ chức kết nghĩa, đối thoại 8. Khác ..............................................

C29

1. Quan hệ tình dục trước hôn nhân tăng 2. Nạo phá thai trước hôn nhân nhiều 3. Nhiều lao động nữ đẻ và nuôi con một mình

tăng

4. Cưới rồi không dám sinh con vì kinh tế khó

khăn

Anh (chị) chia sẻ những băn khoăn, lo lắng trong vấn đề hôn nhân gia đình của công nhân tại khu công nghiệp hiện nay? Có thể chọn nhiều ý.

C30

5. Có con nhưng không đăng kí kết hôn 6. Tình trạng sống độc thân ngày càng nhiều 7. Không đủ điều kiện chăm sóc, nuôi con 8. Khác ................................................... 1. Tiền lương, thu nhập thấp, không có tích lũy 2. Ốm đau không có tiền chữa bệnh 3. Công việc không ổn định 4. Không có nhà cửa ổn định 5. Không tìm được nơi gửi con, chăm sóc con

dưới 6 tuổi an toàn

6. Phải xa con do gửi con về quê cho ông, bà

Anh (chị) cho biết về những băn khoăn, lo lắng trong cuộc sống hiện nay? có thể chọn nhiều ý

do không có điều kiện chăm sóc

7. Khác ..............................................................

C THÔNG TIN VỀ TỔ CHỨC NHÀ TRẺ, MẪU GIÁO TRONG CÁC KCN

1. Có

2. Không

C31

Đơn vị anh/chị có khu nhà trẻ, mẫu giáo dành cho con công nhân không

3. Không biết

1. Mầm non công lập

2. Mầm non tư thục

C 32

Tại nơi anh/chị làm việc và sinh sống có nhà trẻ, mẫu giáo nào? (chọn nhiều phương án)

3. Mầm non thuộc KCN, KCX

4. Người dân tự tổ chức giữ trẻ tại nhà

1. Mầm non công lập

2. Mầm non tư thục

C33

Anh/chị đang gửi con ở cơ sở giáo dục nào?

3. Mầm non thuộc KCN, KCX

4. Người dân tự tổ chức giữ trẻ tại nhà

6. Cháu không đi nhà trẻ, mẫu giáo

6

1. Không có hộ khẩu thường trú

C34

2. Chi phí quá cao

3. Độ tuổi được nhận

lựa chọn nhiều

4. Xa nơi ở

Anh/chị có gặp khó khăn gì trong việc đăng ký gửi con nhà trẻ, mẫu giáo (Có thể phương án trả lời)

5. Thủ tục phức tạp

6. Khác (Ghi rõ):…………………………

1.Dưới 1 triệu đồng

C35

2.Từ 1 triệu đến dưới 2 triệu

Hàng tháng Anh/chị phải đóng cho mỗi cháu bao nhiêu tiền (đã bao gồm cả tiền ăn) cho việc gửi trẻ

3.Từ 2 triệu đến dưới 3 triệu

4. Từ 3 triệu đến 4 triệu

5. Trên 4 triệu

1.Chỉ trong giờ làm việc

Thời gian Anh/chị gửi con tại địa điểm trên như thế nào?

C36

2.Trong giờ làm việc và cả khi làm thêm giờ,

tăng ca

3. Trong giờ làm việc và cả khi làm thêm giờ,

tăng ca và ngày cuối tuần, ngày lễ

1. Công viên 2.Câu lạc bộ

C37

3.Nhà thiếu nhi 4. Nhà văn hóa

Nơi anh/chị đang sống có các khu vui chơi, giải trí nào dành cho trẻ em?

5. Khác………………………..

1.Hỗ trợ học phí cho con đi học

2.Hỗ trợ địa phương xây dựng nhà trẻ, mẫu

Để đảm bảo việc chăm sóc con nhỏ đồng thời yên tâm làm việc anh/chị mong muốn hỗ trợ gì từ phía công ty

giáo

C38

3.Có khu giữ trẻ tại nơi làm việc

4. Ưu tiên ca làm việc ban ngày

5. khác ...............................................

1.tuyên truyền cho CNLĐ kiến thức chăm sóc

con cái

C39

Công đoàn đã làm được việc gì trong việc trợ giúp anh/chị nuôi con nhỏ?

2. Hỗ trợ các phương tiện tránh thai

3. Chăm sóc SKSS/KHHGĐ cho CNLĐ

4. Thăm hỏi, động viên con CNLĐ lúc ốm đau

7

5. Hỗ trợ, động viên lao động nữ nghỉ khi con

ốm, đau

1. Gắn bó lâu dài với DN và địa phương

2. Tuân thủ nội quy, quy chế nhà trẻ, mẫu giáo

C40

đề ra

Để hưởng ứng chương trình xây dựng nhà trẻ, mẫu giáo trong KCN, KCX, Anh/chị sẵn sang cam kết điều gì trong những điều sau:

3.Tận tụy trong công việc để đạt hiệu quả cao

nhất

1. Khoảng cách trường xa nơi ở của gia đình

C41

2. Cơ sở vật chất nhà trẻ, trang thiết bị cơ sở

lựa chọn nhiều

thể

giáo dục không đảm bảo

Anh/chị nhận xét thế nào về nơi anh/chị gửi con? (Có phương án trả lời)

3. Không yên tâm về thái độ chăm sóc trẻ của

cô giáo

4. Đóng góp các khoản học phí cao so với thu

nhập

5. Thời gian nhận và trả trẻ hằng ngày về gia

đình không phù hợp với giờ làm việc của

doanh nghiệp

6. Khác .......................................................

C42

1. Kết hôn và có con 2. Có sức khỏe tốt để làm việc và chăm sóc

gia đình

Anh/chị mong muốn điều gì trong cuộc sống gia đình? (Có thể lựa chọn nhiều phương án trả lời)

3. Con cái chăm ngoan, học giỏi 4. Vợ chồng con cái được làm việc và sống

gần nhau

5. Cả vợ chồng có việc làm và thu nhập ổn

định

6. Có nhà ở ổn định cho riêng mình 7. Có nhà trẻ mẫu giáo ở khu công nghiệp,

DN

C43

Anh/chị định hướng nghề nghiệp cho con cái sau này?

8. Mong muốn khác :......................... 1. Tiếp tục làm công việc như bố mẹ cháu 2. Cho con học hành để có tương lai tốt hơn 3. Hiện tại chưa xác định được 4. Ý định khác:....................................

8

Tiền lương

C 44 Để anh/ chị yên tâm làm việc thì doanh nghiệp cần phải ưu tiên những chính sách nào cho công nhân?

1. 2. Nhà trẻ, Trường mầm non 3. Nhà ở 4. Khác………………………………….

1. Nắm và phối hợp giải quyết những vẫn

C45

đề khó khăn, bức xúc cho công nhân

2. Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể dục,

Anh/chị mong muốn điều gì nhất ở công đoàn?

thể thao

3. Tổ chức các hoạt động giao lưu, kết bạn 4. Tổ chức các hoạt động tư vấn về sức khỏe, chăm sóc sức khỏe cho người lao động

5. Tổ chức thăm quan, du lịch cho công

nhân

C46

Anh/chị mong muốn ở doanh nghiệp có?

6. Mong muốn khác:......................... 1. Mô hình tư vấn chăm sóc SKSS. 2. Ca bin vắt trữ sữa 3. Mô hình tư vấn giáo dục nuôi dạy con cái 4. Mong muốn khác……………….

C 47. Anh/Chị đã thay đổi công việc bao nhiêu lần từ khi làm cha, mẹ đơn thân?

Những công việc đó là gì? Lý do thay đổi công việc?

………………………………………………………………………………………

C 48. Một tháng Anh/Chị phải chi phí bao nhiêu cho con, khoản chi nào cho con

là nhiều nhất?

………………………………………………………………………………………

C 49. Khi gặp khó khăn về kinh tế Anh/Chị sẻ giải quyết như thế nào?

……………………………………….………………………………………………

C 50. Theo Anh/Chị khó khăn về kinh tế có phải là khó khăn lớn nhất trong cuộc

sống của gia đình làm mẹ đơn thân hay không?

………………………………………………………………………………………

C 51. Thời gian nào anh/chị cảm thấy khó khăn nhất từ lúc bắt đầu cuộc sống đơn

thân và nuôi dạy con nhỏ? Khó khăn là gì?

9

………………………………………………………………………………………

C 52. Theo Anh/Chị sự khác biệt căn bản nhất trong việc giáo dục con giữa gia

đình làm mẹ đơn thân và gia đình đầy đủ bố mẹ là gì?

………………………………………………………………………………………

C53. Anh/chị có biết về các chính sách xã hội hỗ trợ cho người đơn thân nuôi con

không. Nếu biết đó là những chính sách nào?

……………………….………………………………………………………………

D ĐỀ NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN ĐƠN

THÂN

C54. Để anh/ chị yên tâm làm việc thì doanh nghiệp cần phải ưu tiên những chính

sách nào cho công nhân?

………………………………………………………………………………………

C55. Để anh/ chị yên tâm làm việc thì tổ chức cô đo ở đơ vị và tỉnh cần phải

làm gì cho công nhân?

………………………………………………………………………………………

C56. Để anh/ chị yên tâm làm việc thì chính quyền các cấp ở địa p ươ cần phải

làm gì cho công nhân?

………………………………………………………………………………………

C57. Các đề nghị khác của anh/ chị

………………………………………………………………………………………

XIN CẢ ƠN ANH/CHỊ

10

PHỤ LỤC

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN

BỘ CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU

1.Thông tin cá nhân.

1. Chị cho biết, họ tên đầy đủ của chị? Năm sinh? 2. Địa chỉ chỗ ở hiện tại là? 3. Quê quán của chị? 4. Tôn giáo của chị? 5. Trình độ học vấn? 6. Nghề nghiệp của chị? 7. Thời gian làm việc trong một ngày? 8. Chị có bao nhiêu con? 9. Con nhỏ nhất được bao nhiêu tuổi rồi? 10. Chị bắt đầu sống cuộc sống đơn thân từ khi nào? 11. Nguyên nhân ban đầu nào khiến chị chọn làm mẹ và sống

đơn thân?

12. Hiện tại chị đang sống với ai? 13. Nhà chị ở đang thuê hay của chị? 1. Công việc hiện tại của chị là gì? 2. Chị đã thay đổi công việc bao nhiêu lần từ khi làm mẹ đơn thân? Những công việc đó là gì? Lý do chị thay đổi công việc?

3. Thu nhập hiện tại hằng tháng của chị bao nhiêu? Ngoài lương, chị có thêm những nguồn thu nhập nào khác? 4. Trung bình mức chi hằng tháng của gia đình chị là bao

nhiêu? Các khoản chi nào là nhiều nhất?

5. Nguồn thu nhập có đủ trang trải các chi phí sinh hoạt cuộc

sống của gia đình chị?

6. Những khó khăn thường gặp nào trong quá trình chi tiêu

trong cuộc sống gia đình chị?

2.Khó k ă về tài chính

7. Một tháng chị phải chi bao nhiêu cho con? Khoản chi nào

cho con là nhiều nhất?

8. Chị có nhận được sự trợ giúp nào về kinh tế từ bố đứa trẻ và

người thân không?

9. Khi gặp những khó khăn về kinh tế, chị sẽ giải quyết như thế

nào?

10. Theo chị, khó khăn về kinh tế có phải là khó khăn lớn nhất trong cuộc sống của của gia đình làm mẹ đơn thân hay không?

1. Chị gặp những khó khăn nào trong quá trình làm việc? (Tính chất công việc, thời gian làm việc, yêu cầu công việc, mức lương, chế độ…)

3. Áp lực về công việc

11

2. Việc phân bổ thời gian một ngày của chị như thế nào cho

công việc, chăm sóc con, nghỉ ngơi…?

3. Chị có được hỗ trợ, giúp đỡ nào trong công việc nhà không?

(phương tiện, máy móc, người nhà, giúp việc…)

4. Mức độ công việc nhà đối với chị như thế nào? (nhiều, vừa

phải, ít..)

5. Chị có thường xuyên cảm thấy áp lực về công việc không?

Đó là khi nào?

6. Khi bị áp lực về công việc, chị sẽ vượt qua như thế nào? 1. Chị có hay cảm thấy buồn chán, cô đơn không? Đó là khi

nào? Cách chị vượt qua nỗi buồn?

2. Chị có hay chia sẻ tình cảm, tâm tư với ai không? Và với ai? 3. Chị có tham gia hội, nhóm nào ở ngoài đời sống hoặc trên

mạng xã hội?

4. Chị có thường xuyên tương tác, theo dõi, chia sẻ thông tin

trên đó không?

4.Tình cảm cá nhân

5. Với cuộc sống đơn thân, nhu cầu tình dục có không và giải

pháp như thế nào?

6. Lý do khiến chị làm mẹ đơn thân đến bây giờ? 7. Chị có đang tìm hiểu bạn khác giới không hoặc có dự định

tái hôn/ kết hôn không?

1. Chị có hay vấp phải những đánh giá, phát xét có tính định

kiến đối với hoàn cảnh của chị không? (Từ đồng nghiệp, bạn bè, hàng xóm, gia đình…)

2. Con cái chị có khi nào bị những người xung quanh nói điều

không hay mang tính định kiến không? Sự việc như thế nào? 3. Chị có còn liên lạc, qua lại với gia đình chồng cũ/ bố đứa trẻ

5.Các quan hệ xã hội

không? Mối quan hệ của chị với họ như thế nào? 4. Mối quan hệ giữa chị với gia đình chị như thế nào? 5. Từ khi bắt đầu cuộc sống đơn thân, mối quan hệ trước kia có

bị ảnh hưởng gì không và như thế nào?

6. Chị có những lời khuyên hay chia sẻ gì cho người phụ nữ khác khi họ chọn cuộc sống làm mẹ đơn thân không? 7. Nếu được chọn lại, chị có quyết định vẫn làm mẹ đơn thân

không? Tại sao?

1. Chị sắp xếp việc đưa đón con như thế nào? 2. Nếu chị có công việc đột xuất, chị sẽ nhờ ai hỗ trợ rước và

chăm sóc bé?

3. Con cái có thường xuyên hỏi thăm về người bố không và cách chị trả lời con như thế nào? Phản ứng của trẻ như thế nào?

6.Việc nuôi dạy con cái

4. Chị có thể cho biết những diễn biến tâm lý, thay đổi của trẻ khi gia đình tan vỡ? Hoặc khi trẻ biết mình không có ba? 5. Chị có thể cho biết chị gặp những khó khăn nào trong quá trình chăm sóc con/ trong quá trình dạy dỗ, giáo dục con?

12

6. Thời gian nào chị cảm thấy khó khăn nhất từ lúc bắt đầu

cuộc sống đơn thân và nuôi dạy con nhỏ? Khó khăn đó là gì?

7. Sinh hoạt hằng ngày giữa chị và con như thế nào? 8. Những thời điểm trẻ quậy phá hoặc không ngoan, chị xử lý

như thế nào?

9. Các hoạt động vui chơi, giải trí giữa chị và trẻ là gì? 10. Chị có thường xuyên đưa trẻ ra ngoài chơi hay không? 11. Theo chị, sự khác biệt căn bản nhất trong việc giáo dục con giữa gia đình làm mẹ đơn thân và gia đình đầy đủ bố mẹ là gì?

12. Chị thường tham khảo việc chăm sóc dạy dỗ con từ nguồn

thông tin nào?

13. Chị có học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm về việc giáo dục con với

những bà mẹ đơn thân khác không?

14. Sau một thời gian làm mẹ đơn thân và chăm sóc con cái một mình, chị đã rút ra được những kinh nghiệm gì cho bản thân? 15. Theo chị, khó khăn lớn nhất trong việc nuôi dạy con của gia

đình làm mẹ đơn thân là gì? Tại sao?

13

Bữa cơm đạm bạc của bà mẹ đơn thân

Nơi ở chật chội

14

PHỤ LỤC ẢNH

Bà mẹ đơn thân T.H công nhân công ty Asama sau giờ làm tại công ty.

Một nơi gửi con của công nhân đơn thân

15

Nơi ở của bà mẹ công nhân đơn thân

Một nơi giữ trẻ con công nhân đơn thân

16

Con công nhân đơn thân tại một nơi giữ trẻ.

Bà mẹ đơn thân đón con sau giờ làm

17

Cán bộ công đoàn thăm động viên gia đình công nhân đơn

18

Bà mẹ đơn thân THL công nhân công ty Hài Mỹ

19

Bà mẹ đơn thân TL công nhân công ty Liên Nghĩa.

20