intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:180

15
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay" được hoàn thành với mục tiêu nhằm hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH, luận án khảo sát, phân tích thực trạng, đánh giá ưu điểm và hạn chế của việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BUNTIENG BUNLAPHENG PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở CÁC TỈNH PHÍA BẮC NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2023
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đẩy đủ theo quy định. Tác giả luận án Buntieng Bunlapheng
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 5 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người 5 1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 15 1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 20 1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu 25 Chương 2: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở CÁC TỈNH PHÍA BẮC NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 27 2.1. Con người, nhân tố con người, phát huy nhân tố con người - quan niệm, chủ thể, nội dung, phương thức 27 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay 56 2.3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở phía Bắc Lào và yêu cầu đặt ra đối với phát huy nhân tố con người 68 Chương 3: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở CÁC TỈNH PHÍA BẮC NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 79 3.1. Thực trạng phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay 79 3.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế về phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay 104
  4. Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở CÁC TỈNH PHÍA BẮC NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY 121 4.1. Nâng cao nhận thức của các chủ thể nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay 121 4.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo - bồi dưỡng nhân tố con người theo hướng đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay 131 4.3. Sử dụng hợp lý, hiệu quả nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay 139 4.4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay 145 KẾT LUẬN 156 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 159 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160 PHỤ LỤC 168
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ 01 CHDCND Cộng hòa Dân chủ Nhân dân 02 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 03 CNXH Chủ nghĩa xã hội 04 NDCM Nhân dân Cách mạng 05 XHCN Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1. Trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo quản lý cấp bộ trưởng, thứ trưởng và vụ trưởng ở các bộ và cơ quan ngang bộ 76
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người là xuất phát điểm đồng thời là trung tâm và mục tiêu hướng tới của triết học Mác - Lênin. Theo đó, con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của mọi quá trình lịch sử. Chính vì vậy, nhân tố con người được khẳng định là có giá trị lớn lao và có ý nghĩa quyết định trong hoạt động thực tiễn. Trong xã hội văn minh hiện đại ngày nay, vị thế của con người ngày càng được khẳng định là “nguồn lực của mọi nguồn lực”, là tài nguyên to lớn của mỗi quốc gia. Vấn đề then chốt để tạo được động lực chính là có chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm khơi dậy mọi khả năng tích cực, năng động, sáng tạo của nhân tố con người, đồng thời hướng tính tích cực, năng động và sáng tạo đi đúng quy luật, nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Nhận thức được vai trò to lớn đó của nhân tố con người, Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào luôn coi đây là yếu tố then chốt trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Chính con người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định hiệu quả việc khai thác nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Đặc biệt, từ khi đổi mới đến nay, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn coi con người là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Đảng NDCM Lào cũng xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Bởi, CNH, HĐH là con đường tất yếu để “biến” một nước có nền nông nghiệp lạc hậu như nước Lào thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có đời sống vật chất, tinh thần cao. Do vậy, Đảng NDCM Lào khẳng định: “Chúng ta cần phải coi CNH, HĐH đất nước là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước, vì CNH, HĐH và xây dựng xã hội chủ nghĩa có cùng một ý nghĩa” [92, tr.50]. Đồng thời, cũng cho rằng CNH, HĐH đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kể cả nội lực và ngoại lực, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nhân tố, nhất là nhân tố con người để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
  8. 2 Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào đang trên con đường đổi mới. Đây là quá trình cải biến xã hội mang tính cách mạng, điều đó đòi hỏi con người - chủ thể của xã hội phải thay đổi chính bản thân mình, phải xóa bỏ những lực cản trong xã hội và trong mỗi con người. Do vậy, việc xây dựng và phát triển đất nước đang được Đảng và Nhà nước đặt ra vấn đề là cần phải phát huy hơn nữa nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Theo đó, Đại hội lần thứ IX của Đảng NDCM Lào đã khẳng định: “xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, và “thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [94, tr.24, 38]. Đến Đại hội lần thứ X, Đảng NDCM Lào khẳng định: “nâng cao trình độ lực lượng sản xuất và xây dựng nền tri thức, trong đó coi con người là đối tượng và trung tâm của sự phát triển” [95, tr.44]. Hiện nay, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng NDCM Lào ngày càng nhận thức đầy đủ hơn vai trò của CNH, HĐH để thúc đẩy sự phát triển của đất nước nói chung và của các tỉnh phía Bắc nước CHDCND Lào (các tỉnh phía Bắc Lào) nói riêng. Điều này được khẳng định trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng NDCM Lào, nhất là quan điểm về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH. Đảng NDCM Lào ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò quan trọng của việc CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay. Trong đó, phải nỗ lực đào tạo và sử dụng nhân tố con người nhằm phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Bên cạnh đó phải chú trọng xây dựng hệ thống giáo dục - đào tạo từ mẫu giáo cho đến đại học và sau đại học chặt chẽ hơn, chú trọng mở rộng xây dựng các cơ sở đào tạo, tạo điều kiện cho con người có cơ hội đươc đi học; việc phân bố và sử dụng con người cũng đang được chuyên môn hóa và hợp lý hơn; tạo môi trường cho con người làm việc, ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhân tố con người… Tuy nhiên, việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào còn nhiều bất cập như: số lượng còn ít, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, chưa thực sự là động lực để đẩy mạnh CNH, HĐH, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay. Thực tiễn chỉ ra, một bộ phận nhân tố con người ở các tỉnh phía Bắc Lào còn thiếu tinh thần chủ động trong học tập, rèn luyện nâng cao kỹ năng lao động; thiếu ý chí tự lực tự cường và phong cách lao động của xã hội công nghiệp; điều kiện lao động còn kém; tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định; tình trạng thất học, mù chữ khá cao, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,… Bởi vậy, để phát
  9. 3 huy nhân tố con người cần có sự tiếp sức của toàn xã hội và hệ thống chính trị để khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên. Do vậy, việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay để có những giải pháp hữu hiệu, tạo sự chuyển biến về chất nhằm phát huy nhân tố con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: Phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay làm luận án tiến sĩ Triết học. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH, luận án khảo sát, phân tích thực trạng, đánh giá ưu điểm và hạn chế của việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ của luận án - Luận án tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan để đánh giá những yếu tố kế thừa và những khoảng trống nghiên cứu cần tiếp tục làm rõ. - Luận án hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH. - Luận án phân tích thực trạng và đánh giá ưu điểm, hạn chế của việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay. - Luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án - Phạm vi nghiên cứu của luận án: Con người trong độ tuổi lao động, tham gia trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu vấn đề phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào từ năm 2010 tới nay.
  10. 4 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận của luận án Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay Sỏn Phôm Vi Hẳn và các quan điểm của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào về phát huy nhân tố con người, giải phóng con người, phát triển con người. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phương pháp: lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, hệ thống hóa và điều tra xã hội học. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Đây là là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên dưới dạng luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử bàn về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào. Do đó, luận án sẽ góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về nhân tố con người và tầm quan trọng của nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH. - Bên cạnh đó, luận án chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng tới phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào. - Đồng thời luận án khảo sát, đánh giá chính xác thực trạng, từ đó đề ra phương hướng và những giải pháp có tính khả thi nhằm xây dựng nhân tố con người Lào đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án góp phần luận chứng về mặt lý luận trong việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở nước CHDCND Lào. - Những luận điểm của luận án góp phần làm rõ một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay. - Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho các hoạt động nghiên cứu, học tập về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở nước CHDCND Lào hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
  11. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Vấn đề phát huy nhân tố con người là đề tài được đông đảo các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề phát huy nhân tố con người, từ các góc độ, các lĩnh vực khác nhau. Sau đây là một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài: 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Thứ nhất, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam Trong cuốn sách: “Phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH đất nước hiện nay” của Hoàng Thái Triển đã nêu rõ, theo quan niệm của Triết học Mác - Lênin, con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Cuốn sách góp phần chỉ ra sự phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người là sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Do vậy, “Nhân tố con người là tổng hợp những phẩm chất, năng lực về trí tuệ, thể lực tồn tại trong mỗi con người đang sống và được tập hợp lại thành tổ chức, quản lý theo một phương thức thích hợp để họ đem ra vận dụng sáng tạo mỗi khi sản xuất ra giá trị sử dụng và lợi ích của sự phát triển xã hội và hoàn thiện con người” [48, tr.34]. “Nói nhân tố con người là nói đến những phẩm chất, thuộc tính, tri thức, kinh nghiệm, năng lực, thói quen… của con người được biểu hiện trong các dạng thức hoạt động khác nhau, qua đó ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh tế” [48]. Cuốn sách giúp luận án kế thừa cơ sở lý luận về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH. Tuy nhiên thực tiễn ở Lào và Việt Nam có những điều kiện cơ bản khác nhau nên cần vận dụng linh hoạt vào luận án. Trong cuốn, “Giải pháp đột phá phát huy nhân tố con người Việt Nam trong xây dựng, phát triển đất nước hiện nay” của tác giả Trần Văn Phòng đã khẳng định, quan niệm: “nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các thuộc tính, các đặc trưng quy định vai trò chủ thể (cá nhân, tập thể, cộng đồng) tích cực, chủ động, sáng tạo,
  12. 6 đặt trong quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần xã hội [37, tr.4]. Do vậy, thực chất việc phát huy nhân tố con người là phát huy vai trò chủ thể con người trong các hoạt động sáng tạo cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người. “Phát huy nhân tố con người là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện cho mỗi người phát triển toàn diện, phát huy tối đa tài năng, năng lực của cá nhân cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Cuốn sách giúp tác giả luận án tham khảo về mặt giải pháp để phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay. Đặc biệt là giải pháp về phát huy năng lực nhận thức (năng lực trí tuệ, tư duy, xử lý thông tin,...) và hoạt động thực tiễn (năng lực sống, làm việc, ứng xử, thích nghi,...) của con người”. Khi phát huy được các năng lực của nhân tố con người là phát huy được động lực phát triển của xã hội. Muốn vậy, phải đánh giá đúng năng lực của từng người. Muốn đánh giá đúng năng lực của từng người cần căn cứ vào hiệu quả, kết quả công việc mà người đó đảm nhiệm. Trên cơ sở năng lực của từng người mới có giải pháp phát huy đúng sở trường của họ. Bài: “Quan điểm của Đảng về con người và phát huy nhân tố con người trong nghị quyết Đại hội XI”, của tác giả Nguyễn Văn Thanh và Lê Trọng Tuyến. Nội dung bài viết cập nhật quan điểm của Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam về mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ” [44, tr.61] được coi là khâu đột phá thứ hai. Bài viết có thể là tài liệu tham khảo để tác giả đề xuất các giải pháp phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào. Đặc biệt là quan điểm được đưa ra tại Đại hội XI “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Bài: “Phát huy nhân tố con người trong xây dựng nhà nước kiến tạo ở Việt Nam” của tác giả Phan Quang Trung đã đưa ra, vấn đề phát huy nhân tố con người trong xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển là chủ đề được giới nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách Việt Nam quan tâm, đề cập từ nhiều hướng tiếp cận. Nhà
  13. 7 nước ở Việt Nam và ở Lào có nhiều điểm tương đồng, do đó, luận án kế thừa một số kết quả nghiên cứu về vai trò của nhân tố con người trong xây dựng nhà nước kiến tạo, “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” [49, tr.20]. Bài: “Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Công Nhất đã khái quát “Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố có liên quan đến con người, là sự thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ quan và khách quan để tạo nên năng lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được hình thành và phát huy tác dụng vào trong thực tiễn sản xuất vật chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng, quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định” [35, tr.25]. Bài viết giúp tác giả kế thừa một số quan điểm về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào như quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy nhân tố con người qua các kỳ Đại hội như sau: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” [5, tr.87]. Ở Đại hội này, phát huy nhân tố con người được hiểu là sự đảm bảo giữa quyền và lợi ích của công dân; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; đáp ứng cả nhu cầu trước mắt và lợi ích lâu dài. Ở Đại hội VIII (năm 1996), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam là một quá trình phát triển mang tính cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là sự nghiệp của quảng đại quần chúng với tư cách là nguồn lực quyết định. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp CNH, HĐH to lớn này: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH” [3, tr.13]. Trên cơ sở kế thừa các quan điểm của Đại hội, Luận án có thể đưa ra các quan điểm khẳng định
  14. 8 nhân tố con người chính là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các giải pháp thực thi được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương thức đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu... Đảng còn tiếp tục khẳng định: chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước; gắn vấn đề nhân tố con người với tinh thần nhân văn nhằm tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái với những quan hệ xã hội lành mạnh. Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển” [6, tr.78-79]. Ở Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng: gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên” [10, tr.123]. Qua các kỳ đại hội Đảng ở
  15. 9 Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đồng thời để đẩy mạnh CNH, HĐH cần phát huy nhân tố con người, bởi đây là nguồn lực của mọi nguồn lực. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả kế thừa, hoàn thiện khung lý thuyết về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở Lào. Bài: “Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong phát triển đất nước” của Đoàn Nam Đàn. Tác giả cho rằng: “Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang tính sinh học. Tính sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người là điều kiện quyết định sự tồn tại của con người. Song con người không phải là động vật thuần túy như các động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với nội dung văn hóa lịch sử của nó. Con người là sản phẩm của xã hội, là con người xã hội mang bản tính xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã hội của con người, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá nhân và nhân cách. Vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng. Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuân theo các quy luật của bản thân giới tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo xã hội” [4]. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả kế thừa, hoàn thiện khung lý thuyết về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay. Từ quan điểm mác-xít về con người cho thấy, khi con người là một thực thể tự nhiên - xã hội, con người nói chung biểu hiện ra trên nhiều phương diện. Chẳng hạn, con người tồn tại với tư cách là một nguồn tài nguyên đặc biệt - tài nguyên con người; con người tồn tại với tư cách là một nguồn lực đặc biệt hay nguồn lực con người, hoặc tồn tại với tư cách là một nhân tố thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội gọi
  16. 10 là nhân tố con người… Bởi vậy, khái niệm nhân tố con người là sự tiếp tục triển khai quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người. “nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) như Việt Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con người” [4]. Bài: “Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, của tác giả Nguyễn Hiền Lương đã chỉ rõ: “lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chứng minh một cách thuyết phục ý nghĩa quyết định của nhân tố con người đối với sự thành bại hay hưng vong của đất nước. Một trong những bài học kinh nghiệm được rút ra từ cuộc khủng hoảng đất nước sau hai cuộc chống ngoại xâm của thế kỷ XX là cách nhìn nhận, sử dụng con người” [26, tr.3]. Vận dụng tư tưởng triết học Mác về vai trò của con người vào thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đã khẳng định nhân tố con người giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Động lực cơ bản phát huy nhân tố con người hiện nay ở Việt Nam là phải quan tâm đến lợi ích của con người, phải thực hiện dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội và nâng cao năng lực trí tuệ cho con người. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả kế thừa, hoàn thiện khung lý thuyết về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay. Bài: “Phát huy nhân tố con người theo Tư tưởng Hồ Chí Minh” của Vũ Hồng Huy cho rằng: “Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội; con người là chủ thể của các mối quan hệ xã hội - lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Theo Hồ Chí Minh, con người có sức mạnh rất to lớn. Trong con người có sẵn các nguồn lực, bao gồm: Nguồn lực của cải, tài chính; Nguồn lực sức lao động; Nguồn lực trí tuệ” [22]. Bài viết góp phần hoàn thiện các giải pháp để phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở Lào như Đảng, chính quyền, mỗi cá nhân phải có lòng thương yêu vô hạn, sự cảm thông, sự tin tưởng tuyệt đối vào con người, vào nhân dân. Thứ hai, để phát huy sức mạnh của con người, Đảng, Chính phủ phải hoạch định, xác lập một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn, phục vụ cho lợi ích của dân tộc tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, bao quát các lĩnh vực
  17. 11 của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề an sinh xã hội. Thứ ba, muốn phát huy được sức mạnh của con người thì phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của con người, các quyền lợi của con người phải được bảo vệ và ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Thứ tư, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa có thể được hoàn thiện trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, nhưng phải có điều kiện. Một trong những điều kiện đó là việc coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo. Giáo dục, đào tạo có vai trò to lớn để có một đội ngũ lao động giỏi, nâng cao dân trí, đào tạo người lao động trẻ có trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, có phẩm chất cần thiết của người lao động mới, có tri thức văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, có ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, có phong cách và phương pháp làm việc khoa học” [22]. Trong cuốn sách: “Phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”của Trần Thị Hợi (chủ biên) các tác giả đã tập trung tìm hiểu nhân tố con người và phát huy nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh; thực trạng phát huy nhân tố con người ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh; một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Về nhân tố con người, các tác giả cho rằng: “nhân tố con người là toàn bộ những dấu hiệu riêng có, những yếu tố nói lên vai trò của con người (cá nhân và cộng đồng người) như là chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, với những yếu tố, những tiêu chí về vai trò xã hội, về trí tuệ nhân cách (năng lực - phẩm chất) của con người” [21, tr.14-15]. Cuốn sách góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở Lào. Đặc biệt, “phát huy nhân tố con người là phát hiện, làm bộc lộ, khai thác, sử dụng, tận dụng những yếu tố, những quá trình cấu thành nên nhân tố con người, đồng thời tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để mỗi người, mỗi nhóm hay cộng đồng thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động, sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội vì cuộc sống, vì hạnh phúc của con người” [21, tr.10]. Bài: “Vấn đề xây dựng con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước”, của tác giả Trần Thị Minh Ngọc đã cho rằng, lịch sử là do con người sáng tạo nên. Theo đó, chủ thể xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh không thể là ai khác ngoài con người Việt Nam. Do vậy, xây
  18. 12 dựng con người Việt Nam hiện nay đang trở thành một đòi hỏi cấp thiết của thời kỳ CNH, HĐH đất nước, đồng bộ và khả thi nhằm xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính” [34, tr.10]. Với nhiều nét tương đồng giữa con người Việt Nam và con người Lào, các giải pháp tác giả nêu ra là những tài liệu quý để luận án tham khảo, đưa ra các giải pháp phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh phía Bắc Lào hiện nay. Bài: “Phát triển nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh Miền núi Phía Bắc hiện nay”, của tác giả Lê Tuấn Ngọc. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở các tỉnh miền núi phía Bắc Lào hiện nay. Từ đó, đã đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn lực cho khu vực này, cụ thể như: xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH ở các tỉnh trong khu vực; phát triển giáo dục - đào tạo, coi trọng đẩy mạnh và đổi mới công tác đào tạo nghề; có chính sách hợp lý về tuyển dụng, sử dụng nguồn lực con người và đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện chính sách an sinh xã hội, tạo tiền đề cật chất cho phát triển nguồn lực con người” [33, tr.65]. Cuốn sách: “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện” của tác giả Thành Duy (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, “là một trong số những công trình nghiên cứu tiêu biểu về những quan điểm cơ bản của mối quan hệ giữa văn hóa với việc xây dựng con người phát triển toàn diện, nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người phát triển toàn diện, về đặc điểm, bản chất quan niệm, giải pháp xây dựng con người phát triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay” [2]. Thứ hai, các công trình nghiên cứu ở Lào Bài viết “Phát triển nguồn lực con người - một số quan điểm và khái niệm về con người” của Khămpheng Thipmuntaly, đã: (1) Phân tích và làm rõ vấn đề cần phải coi trọng nhân tố con người, xem nhân tố con người như một động lực quan trọng đóng góp vào việc thúc đẩy quá trình phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội và phải có tầm nhìn chiến lược hơn để phát huy yếu tố con người để đáp ứng quá trình CNH, HĐH đất nước; (2) Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề nhân tố con người, thể hiện qua những nội dung cơ bản như: lợi ích vật chất và tinh thần, nhu cầu của mỗi cá nhân - đây là động lực tác động trực tiếp đến mỗi một cá
  19. 13 nhân cũng như ảnh hưởng đến việc phát huy, thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của con người trong lao động sản xuất [23]. Luận án: “Vai trò của chính sách xã hội đối với việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay” của Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông. Luận án có ý nghĩa quan trọng với nghiên cứu của tác giả khi chỉ ra hai cách tiếp cận: “Một là, coi nhân tố con người như là một hoạt động của những nghiên cứu riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng như tiềm năng trí tuệ và thể lực của mỗi người quyết định. Hai là, coi nhân tố con người như là một tổng hòa các phẩm chất, thuộc tính, đặc trưng, năng lực đa dạng của con người” [55, tr.9]. Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng: nhân tố con người là tổng hòa những khả năng, năng khiếu, thể lực, trí lực, tình cảm, lý tưởng, đạo đức... Từ quan niệm về nhân tố con người, tác giả đưa ra quan niệm về phát huy nhân tố con người; theo tác giả phát huy nhân tố con người là “chăm lo tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi người, mỗi cộng đồng người thể hiện tối đa năng lực của chính mình trong lao động, trong hoạt động sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội vì hạnh phúc của mỗi con người” [55, tr.15]. Về bản chất phát huy nhân tố con người là nâng cao tính tích cực xã hội của người lao động, tác giả còn cho thấy nguyên nhân của sự hoạt động nhận thức và thực tiễn, tính chủ động, lòng hăng hái nhiệt tình sáng tạo chính là nhu cầu và lợi ích. “Suy cho cùng cái thôi thúc con người ta hoạt động một cách tích cực đó là nhu cầu và lợi ích” [55, tr.16]. Ngoài ra, tác giả còn nêu tầm quan trọng của chính sách xã hội trong việc phát huy nhân tố con người. Đặc biệt luận án có thể tham khảo những quan điểm của nghiên cứu này khi chỉ ra chính sách xã hội “góp phần điều tiết các quan hệ xã hội để thực hiện công bằng xã hội; chính sách xã hội là cầu nối giữa kinh tế và đạo đức; chính sách xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến việc đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; chính sách xã hội là nơi hội tụ giữa ý Đảng và lòng dân, là cầu nối giữa dân với Đảng” [55, tr.37-39]. Luận án: “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Viêng Chăn”của Xư Lao Sô Tu Ky đã trình bày khái niệm nguồn nhân lực: “Nguồn nhân lực của một đất nước được đánh giá trên hai mặt chủ yếu là số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được đánh giá bằng các chỉ tiêu: tỉ lệ nguồn nhân lực trong dân số; tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số; tỉ lệ tham gia lực lượng lao động của người trong độ tuổi lao động; tỉ lệ lao động có việc làm trong lực lượng lao
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0