Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học: Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 17
download
Luận án Trên cơ sở lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước và thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam, luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học: Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THỊ HỒNG TRANG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2020
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THỊ HỒNG TRANG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 62 31 02 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH. Phan Xuân Sơn HÀ NỘI - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Vũ Thị Hồng Trang
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8 1.1. Những công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước 8 1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến chất vấn của đại biểu Quốc hội 14 1.3. Những vấn đề đặt ra cho tác giả luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết 23 CHƢƠNG 2: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 25 2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước - quan niệm, cơ chế, mục đích, nội dung, phương thức và tính tất yếu khách quan của kiểm soát quyền lực nhà nước 25 2.2. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội Việt Nam là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước 58 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM 89 3.1. Một số quy định về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở nước ta 89 3.2. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với tư cách là phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước 92 3.3. Đánh giá chung về thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 119 CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 131 4.1. Quan điểm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 131 4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 134 KẾT LUẬN 155 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 157 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tình cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực là một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua gần 35 đổi mới vừa qua, vấn đề kiểm soát quyền lực nói chung, kiểm soát quyền lực trong trong công tác cán bộ nói riêng luôn được Đảng ta đưa ra, bàn bạc, ra quyết sách khá kịp thời, điển hình như trong Văn kiện Đại hội XII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII,... Đặc biệt, Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị khoá 12 quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền đã thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta, của người đứng đầu Đảng, đứng đầu Nhà nước là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ thì nó là tác nhân chính làm tha hoá cán bộ, tha hoá những con người được trao quyền lực, từ đó làm tha hoá, thoái hoá, biến chất cả bộ máy, thể chế. Trong quá trình dân chủ hoá và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước vừa cơ bản, lại vừa cấp thiết. Cơ bản vì đó là yếu tố cấu thành khách quan của hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, và tính hiệu quả của nó là một trong những nội dung cốt lõi của nhà nước pháp quyền, là phương tiện để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân. Cấp thiết vì việc lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng của không ít cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất đang là vấn nạn, là nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ, vi phạm nghiêm trọng quyền tự do, dân chủ của người dân. Vì sao phải nhốt quyền lực trong lồng thể chế và pháp luật là một câu hỏi cần nghiên cứu thấu đáo để có hệ giải pháp vừa cấp bách vừa lâu dài mang tầm chiến lược. Qua quá trình nhận thức và rút kinh nghiệm từ thực tiễn, trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta khẳng định sự cần thiết của kiểm soát quyền
- 2 lực nhà nước "Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Chính vì vậy, quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay thực chất cũng là quá trình hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong nhà nước. Bên cạnh hoạt động lập pháp, hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội ngày càng được các nước coi trọng, đề cao để đảm bảo luật pháp Quốc hội ban hành được thực thi đúng đắn trong thực tiễn. Ở Việt Nam Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do đó việc kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội đối với hai nhánh còn lại càng phải được quan tâm. Theo quy định của luật pháp Việt Nam, Quốc hội có quyền giám sát tối cao mọi hoạt động của nhà nước, và Quốc hội có 5 hình thức cơ bản để thực hiện quyền kiểm soát này. Trong đó, hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội thu hút sự quan tâm đặc biệt của cả cử tri, nhân dân, lẫn các đại biểu Quốc hội vì đây là một trong những phương thức kiểm soát quyền lực có hiệu quả nhất của Quốc hội. Tính trực tiếp trao đổi, truy vấn, thông tin cập nhật theo những vấn đề thời sự, bức xúc nhất của đất nước, sự chủ động thực hiện quyền kiểm soát quyền lực của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, đối tượng bị kiểm soát là những người đứng đầu bộ máy nhà nước, thể hiện tính tối cao trong hoạt động giám sát... là những cơ sở để chất vấn trở thành một phương thức kiểm soát quyền lực quan trọng của Quốc hội, cần được quan tâm để nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước này của Quốc hội. Trong thời gian vừa qua, trong hoạt động giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội, hoạt động chất vấn có nhiều chuyển biến tích cực,
- 3 diễn ra sôi nổi, hiệu quả chứng tỏ hoạt động của Quốc hội ngày càng có tính dân chủ, tranh luận và thực chất nhiều hơn. Thông qua hoạt động chất vấn, trách nhiệm chính trị của đối tượng bị chất vấn được làm rõ, nhiều người trả lời chất vấn đã nhận trách nhiệm trước Quốc hội và có những giải pháp cụ thể, thiết thực tạo sự chuyển biến thực sự trong thực tiễn, nhiều yếu kém, hạn chế được khắc phục sau chất vấn. Chất vấn cũng là hình thức cảnh báo của Quốc hội đối với hoạt động của hành pháp, tư pháp về những vấn đề bức xúc, cử tri và dư luận quan tâm, những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của các cơ quan này để nghiêm túc điều chỉnh, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả, tính hợp pháp, hợp lý trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Với vai trò của chất vấn trong kiểm soát quyền lực nhà nước, có người cho rằng hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội là điểm sáng trong đời sống chính trị của nước ta thời gian qua và góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, mức độ, phạm vi kiểm soát quyền lực nhà nước của hoạt động chất vấn chưa đạt được như mong đợi. Mức độ kiểm soát quyền lực nhà nước của hoạt động chất vấn phụ thuộc vào năng lực lựa chọn vấn đề chất vấn, năng lực đeo bám, tranh luận đến cùng vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội để làm rõ trách nhiệm, nguyên nhân của vấn đề. Tuy nhiên, năng lực của đại biểu Quốc hội còn hạn chế. Một số đại biểu Quốc hội nể nang, né tránh, ít thực hiện hoạt động chất vấn. Vấn đề hậu chất vấn, giám sát việc thực hiện lời hứa cũng như xử lý các trường hợp không chịu nhận trách nhiệm, không tích cực giải quyết vấn đề của đối tượng bị chất vấn chưa thật sự chặt chẽ dẫn tới ảnh hưởng hiệu quả, hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước của hoạt động này. Nhiều người cho rằng chất vấn diễn ra sôi nổi trên nghị trường nhưng tác động của nó trong thực tiễn chưa lớn. Để phát huy những ưu thế của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội thì cần phải khắc phục những hạn chế trên bằng những
- 4 giải pháp thiết thực, hiệu quả. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài "Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài cho luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước và thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam, luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận án cần thực hiện những nhiệm vụ sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung và kiểm soát quyền lực thông qua chất vấn Quốc hội nói riêng. Trên cơ sở đó, luận án xác định phương pháp tiếp cận và hướng đi của luận án phù hợp với chủ đề nghiên cứu. - Làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, chức năng của Quốc hội và vai trò của hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội trong kiểm soát quyền lực nhà nước. - Phân tích thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu của luận án: hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay với tư cách là một phương thức kiểm soát quyền lực của Quốc hội.
- 5 - Phạm vi nghiên cứu của luận án: tính từ kỳ họp thứ 6 khoá XIII đến nay(gắn với Hiến pháp năm 2013). 4. Những đóng góp mới của luận án Luận án có những đóng góp mới sau: - Góp phần bổ sung lý luận kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện tổ chức bộ máy nhà nước mang tính đặc thù Việt Nam, chỉ ra sự khác biệt, những ưu thế của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với các phương thức kiểm soát quyền lực khác của Quốc hội và của các nhánh quyền lực khác nói chung, mối quan hệ giữa phương thức kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với các phương thức kiểm soát quyền lực khác của Quốc hội. - Phân tích, đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp trên phương diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 5.1. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về tổ chức bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, về hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội. - Tham khảo các lý thuyết chính trị về tổ chức nhà nước, về kiểm soát quyền lực nhà nước. Đặc biệt là tham khảo phương thức chất vấn của nghị viện một số nước như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản.
- 6 5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích hệ thống chính trị, phương pháp phân tích cấu trúc chức năng... Ngoài ra luận án còn sử dụng các phương pháp chung, liên ngành và chuyên ngành khác như các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp thống kê, so sánh, định tính, định lượng. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu nghiên cứu, các số liệu liên quan đến đề tài, các nội dung chất vấn trong các kỳ họp của Quốc hội. Phương pháp phân tích được sử dụng trong toàn bộ các phần của luận án như phân tích tài liệu để rút ra những mặt được và những nội dung còn thiếu trong nghiên cứu vấn đề của luận án, phân tích những vấn đề lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua chất vấn, phân tích thực trạng... Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng trong so sánh chất vấn của đại biểu Quốc hội Việt Nam với hình thức chất vấn của Quốc hội các nước khác, so sánh hoạt động chất vấn giữa các kỳ họp, giữa hoạt động trong và sau chất vấn. Phương pháp phỏng vấn sâu đối với các chuyên gia, các nhà lập pháp đã từng tham gia Quốc Hội qua các thời kỳ (Luận án đã phỏng vấn đồng chí Vũ Mão nguyên Chánh Văn phòng, nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại của Quốc Hội). Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng để kết hợp nhận định mang tính định tính với số liệu mang tính định hướng được luận án sử dụng để hoàn thành nội dung nghiên cứu của chương 3. 6. Ý nghĩa của luận án - Làm rõ hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội là một hình
- 7 thức kiểm soát quyền lực nhà nước, tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động chất vấn... - Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong hoạt động chất vấn. - Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng trong nghiên cứu chính trị, trong giảng dạy ở các cơ sở đào tạo. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục...nội dung của luận án gồm có 4 chương với 9 tiết.
- 8 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề trọng yếu của bất kỳ nhà nước nào. Trên thế giới điều này đã được khẳng định rất sớm bới các nhà tư tưởng chính trị- pháp lý thời đại Khai sáng. Các nghiên cứu liên quan về sau chỉ làm rõ hơn về phương thức tổ chức nhà nước và các cơ chế vận hành hệ thống chính trị sao cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả hơn mà thôi. Ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, trong đó có những công trình tiêu biểu sau: Lê Thị Anh Đào, "Kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một số vấn đề cơ bản", Tạp chí khoa học chính trị, số 3 năm 2011. Công trình này tác giả đã bàn những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát quyền lực, quyền lực nhà nước, tính tất yếu phải kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền. Lưu Văn Quảng Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đề tài cấp bộ năm 2008. Đề tài đã đặt ra vấn đề phải xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam như một đòi hỏi cấp bách từ việc hoàn thiện thể chế chính trị và bộ máy ở nước ta. Nội dung, các yếu tố của cơ chế kiểm soát quyền lực đã được tập thể tác giả nghiên cứu đề tài đề cập khá đầy đủ. Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay của Trần Kim Cúc, tác giả bàn về vai trò của pháp luật và yêu cầu phải có cơ chế pháp lý để kiểm soát quyền lực có hiệu quả. Lâm Quốc Tuấn Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy
- 9 nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Vũ Anh Tuấn "Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam'', Tạp chí sinh hoạt lý luận, (5), năm 2011. Lê Minh Quân ''Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân'', Tạp chí Cộng sản, (10), năm 2013; tác giả đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trần Ngọc Đường ''Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam'', Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (16), năm 2011; Phạm Hữu Nghị "Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (9), năm 2011… Các công trình nói trên đã cố gắng giải quyết những vấn đề có tính lý luận chung của kiểm soát quyền lực nhà nước, như: Tính phổ biến, sự cần thiết, mục đích, cơ chế thực hiện… Các công trình đã phân tích những quy định của pháp luật về sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các nhánh quyền lực; thử xác định các khái niệm, mục đích, chủ thể, phạm vi của kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhiều tác giả đã khái quát có hai hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là kiểm soát từ bên trong (giữa các cơ quan quyền lực nhà nước với nhau) và từ bên ngoài từ các đảng chính trị, các tổ chức công dân và của nhân dân. Sự cần thiết phải kết hợp cả hai hình thức này trong một thể chế chính trị cũng được đặt ra, Trần Ngọc Đường, 2011, Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh đề cập đến. Phân biệt sự giám sát bên trong hệ thống quyền lực nhà nước giữa các nhánh quyền lực với giám sát bên ngoài đó là sự giám sát có tính chất quyền lực nhà nước và không có tính chất quyền lực nhà nước. Nhiều tác giả đã đề cập đến hoạt động chất vấn, nhìn thấy sự liên hệ, sự cần thiết giữa việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động chất vấn, như là một hình thức giám sát đặc thù.
- 10 Để phân biệt giữa các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, các tác giả Vũ Minh Đoan, Vũ Thu Hạnh (2014) đã phân tích các khái niệm thanh tra, kiểm, tra, giám sát, kiểm sát và đã đưa ra khái niệm về kiểm soát quyền lực nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả còn tiếp tục đi sâu hơn, phân tích khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lập pháp, cơ chế kiểm soát quyền hành pháp và cơ chế kiểm soát quyền tư pháp và những yếu tố đảm bảo cho cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thực tế. Liên quan đến cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Trần Ngọc Đường trong công trình: Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; Vũ Anh Tuấn "Hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước", Tạp chí lý luận chính trị, (5), năm 2012, đã đi sâu phân tích sự mất cân đối trong nhận thức và tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta. Đó là coi trọng tính thống nhất, tập trung mà coi nhẹ tính kiểm soát, chế ước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các tác giả đặc biết chú ý đến cơ chế kiểm soát từ bên ngoài (của Đảng, của các tổ chức chính trị-xã hội, của các tổ chức xã hội và của nhân dân) đối với quyền lực nhà nước và sự phối hợp với cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Các giải pháp mà Trần Ngọc Đường đề xuất khá toàn diện bao gồm đề nghị các phương án sửa đổi một số quy định trong Hiến pháp hiện hành cho đến những quy định pháp luật cụ thể. Về giám sát tối cao của Quốc hội, tuy cuốn sách của Trần Ngọc Đường không bàn đến vấn đề chất vấn nhưng cho rằng chức năng giám sát tối cao của Quốc hội nên tập trung vào kiểm soát hoạt động của hành pháp, không nên kiểm soát tư pháp và các văn bản luật để đảm bảo thực quyền. Để làm rõ hơn vấn đề và các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, nhiều tác giả đã thực hiện nghiên cứu so sánh các nước trên thế giới, thậm chí
- 11 so sánh các tổ chức nhà nước của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Theo hướng này có: Nguyễn Quang Anh "Cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam", Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (286), tháng 3 năm 2015. Sự khác biệt của kiểm soát quyền lực nhà nước của một số nước pháp quyền tư sản và Việt Nam là ở cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các cơ quan quyền lực, đề cao vai trò các đảng phái chính trị đối lập, thông qua các tổ chức xã hội dân sự, các phương tiện truyền thông đại chúng, bầu cử tự do và giới hạn nhiệm kỳ. Bàn về tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước của nước Nga, và các nước Đông Âu qua cả hai giai đoạn, trước trước và sau 1991, nghiên cứu vấn đề tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Thái Vĩnh Thắng (2011) cho rằng, sự thiếu vắng cơ chế kiểm soát quyền lực trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là một trong những nguyên nhân của tình trạng mất dân chủ, mà hệ luỵ của nó là dẫn đến sự suy yếu nhà nước và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa. Từ những kinh nghiệm các nước phương Tây, bài học các nước Đông Âu, các tác giả đã hàm ý rút ra những những giá trị cần tham khảo, vận dụng ở Việt Nam. Sau khi phân tích tính so sánh việc tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, hầu hết các công trình trên đều thống nhất cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, thiếu sót, bất cập và nguyên nhân của tình trạng này. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp về tổ chức và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Đáng chú ý là cuốn Kiểm soát quyền lực nhà nước, một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, 2008 của Trịnh Thị Xuyến. Đây là cuốn sách được xuất bản từ luận án tiến sĩ (2007) lần đầu tiên ở Việt Nam, nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được
- 12 tiến hành một cách công khai, tương đối toàn diện và đầy đủ. Tác giả cuốn sách cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan. Tác giả đã làm rõ các khái niệm: kiểm soát quyền lực nhà nước, nội dung, mục đích, các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả đã khảo sát thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới, đặc biệt với hai mô hình hệ thống chính trị lựa chọn, là mô hình các nước có hệ thống hai đảng nổi trội và mô hình hệ thống một đảng nổi trội, từ đó rút ra những giá trị tham chiếu cho Việt Nam. Cuốn sách đã phân tích thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, với các chủ thể là nhân dân và Đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền. Các phương hướng và giải pháp kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, theo Trịnh Thị Xuyến, là hạn chế phạm vi quyền lực nhà nước, thay đổi cách thức kiểm soát của Đảng, xây dựng các cơ chế kiểm soát của nhân dân, xây dựng cơ chế kiểm soát trong bộ máy nhà nước, phát triển các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng độc lập, tự chủ, nâng cao trình độ văn hoá chính trị, dân chủ, pháp lý của nhân dân. Tác giả có bàn đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan lập pháp đối với hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, đây chỉ là một nội dung nhỏ của cuốn sách nên chưa được đề cập nhiều đến kiểm soát quyền lực cơ quan thực thi quyền hành pháp, hay quyền tư pháp thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội. Nhiều công trình cũng đã làm rõ khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước. Ví dụ như tác giả Nguyễn Thị Vân Giang trong bài "Kiểm soát quyền lực nhà nước và giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (10), năm 2010 đã đưa ra định nghĩa kiểm soát quyền lực nhà nước "Đó là hệ thống những thể chế, cơ chế, nguyên tắc, biện pháp… được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước hoặc xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả". Các tác giả Phạm Thế Lực trong bài viết ''Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước'', Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1), năm 2011 và Nguyễn Vân Giang "Kiểm soát quyền
- 13 lực nhà nước và giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (10), năm 2010 cũng khẳng định kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như do bản tính của con người, do tính có thể sai lầm của nhà cầm quyền (đảm bảo tính cẩn trọng của các quyết định), đảm bảo quyền tự do dân chủ, do quyền lực nhà nước là quyền lực uỷ quyền. Có công trình khẳng định tính tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước trên một phương diện khác đó là những hệ quả của việc thiếu vắng kiểm soát quyền lực nhà nước như tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp, trong bài viết "Thực trạng tổ chức thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (5), năm 2011 nêu những hệ quả của việc thiếu vắng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước như hoạt động cơ quan nhà nước khép kín, thiếu công khai, minh bạch; hoạt động của cơ quan nhà nước mang nặng tính chủ quan, thiếu lắng nghe ý kiến phản biện tích cực từ nhân dân; mắc phải những căn bệnh trầm kha khó chữa với đối nội (tham nhũng, quan liêu) đồng thời mất uy tín trước cộng đồng quốc tế trong quan hệ đối ngoại… Như vậy, nhìn chung, các công trình liên quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong hơn 10 năm lại đây, đã cho thấy, giới nghiên cứu chính trị và pháp lý Việt Nam đã có bước tiến xa trong nhận thức lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước. Từ chỗ coi Nhà nước của giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là "bất khả xâm phạm" không chia sẻ quyền lực với bất kỳ ai và không bị kiểm soát bởi bất kỳ ai, đã tiến đến chỗ thừa nhận kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu khách quan. Nhận thức này đã được đưa vào Cương lĩnh chính trị của Đảng (sửa đổi năm 2011), trong Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XI. Tuy nhiên, trong kiểm soát quyền lực nhà nước, có nhiều chủ thể, có nhiều phương thức. Giám sát tối cao của Quốc hội là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong nhà nước. Trong giám sát tối cao của Quốc hội lại có nhiều hình thức nữa. Về nội dung này, các nghiên cứu cho thấy hai khuynh hướng rõ rệt:
- 14 (i) Nghiên cứu giám sát tối cao của Quốc hội, như là nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo Luật tổ chức Quốc hội, mà không chú ý đến lý thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước như Phạm Ngọc Kỳ (với cuốn sách Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 1996, tác giả Trương Thị Hồng Hà với công trình Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 2009, Đặng Phương Hải với bài viết "Giám sát và hệ quả pháp lý từ hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (6), năm 2015. (ii) Coi giám sát tối cao của Quốc hội là một trong những hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng chưa có điều kiện đi sâu vào các hình thức cụ thể, nhất là hoạt động chất vấn tại kỳ họp. Tuy vậy, cần khẳng định rằng, các công trình nói trên, này đã cung cấp những vấn đề cơ bản nhất về kiểm soát quyền lực nhà nước, đó cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình triển khai đề tài. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Chức năng giám sát của Quốc hội đã là đối tượng nghiên cứu từ nhiều năm nay ở nhiều nước trên Thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu nghiên cứu về chức năng giám sát của Quốc hội mới chỉ đặt trong phạm vi nghiên cứu tổng thể về Quốc hội chứ chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng biệt về vấn đề này. Trong một thời gian dài, ở nước ta chưa có công trình nghiên cứu quy mô về hoạt động giám sát của Quốc hội. Gần chục năm sau đổi mới mới có một số công trình nghiên cứu về quyền giám sát của Quốc hội. Trong đó có một số công trình tiêu biểu như Quyền giám sát của Quốc hội - nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nguyễn Sỹ Dũng chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2004; Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Văn phòng Quốc hội, năm 2005; Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội, Nguyễn Sỹ Dũng chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006…
- 15 Tác giả Trần Ngọc Đường trong bài viết "Tiếp tục nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Tuyên giáo, (5), năm 2011 đã khẳng định giám sát tối cao của Quốc hội là một trong những cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong "Giám sát nói chung, giám sát tối cao của Quốc hội nói riêng, là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng cả 3 quyền đều mạnh, đảm bảo cho các quyền làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn được nhân dân giao phó". Nhiều tác giả cũng đã bước đầu nghiên cứu quyền giám sát của Quốc hội như là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả Nguyễn Sinh Hùng trong bài viết "Tăng cường vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng", Tạp chí Cộng sản, (2), năm 2013 cũng khẳng định "Giám sát tối cao của Quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xem là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, có nhiệm vụ phòng, chống sự tha hóa của kiểmn lực nhà nước. Do đó, có thể nói giám sát tối cao có vai trò trong phòng, chống tham nhũng - một biểu hiện của sự tha hoá quyền lực nhà nước". Nhiều công trình chuyên khảo nghiên cứu về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội cũng đã đưa ra định nghĩa về hoạt động này. Ví dụ như tác giả Phạm Ngọc Kỳ trong cuốn sách Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 1996 đã đưa ra định nghĩa quyền giám sát tối cao của Quốc hội "là quyền của Quốc hội thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản và hoạt động của Chủ tịch nước, uỷ ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, thủ tướng Chính phủ, toà án nhân dân tối cao và viện kiểm sát nhân dân tối cao, xử lý những vi phạm hiến pháp, luật bà nghị quyết của Quốc hội do những cơ quan nói trên gây ra nhằm bảo đảm cho Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành".
- 16 Mặc dù dưới các góc độc tiếp cận khác nhau nhưng các tác giả đều khẳng định vị trí pháp lý của Quốc hội trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam với tư cách là cơ quan đại diện cho cử tri cả nước, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Cùng với chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát là một chức năng quan trọng của Quốc hội. Nhiều công trình làm rõ mối quan hệ giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với các quyền khác của Quốc hội như quyền lập pháp hay quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Tác giả Phạm Ngọc Kỳ trong cuốn sách Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 1996 đã chỉ ra mối quan hệ này "Quyền giám sát tối cao của Quốc hội là 1 bộ phận trong hệ thống thẩm quyền của Quốc hội do đó nó có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau với các quyền khác của Quốc hội do hiến pháp quy định. Kết quả hoạt động giám sát là một trong những cơ sở để Quốc hội quyết định những vấn đề mà hiến pháp quy định thuộc thẩm quyền Quốc hội. Ngược lại, việc thực hiện các quyền khác là điều kiện làm cho quyền giám sát của Quốc hội được tôn trọng và được thực hiện". Tác giả đã làm rõ những nội dung, hình thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, chỉ ra những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả giám sát của Quốc hội như năng lực của đại biểu Quốc hội, cơ cấu tổ chức và cách làm việc của Quốc hội, điều kiện vật chất và hệ thống pháp luật. Tác giả đề ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội như đổi mới tổ chức và phương pháp giám sát của Quốc hội, đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điều kiện làm việc của đại biểu trong công tác giám sát, xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội. Đặc biệt tác giả còn nêu mối quan hệ giữa quyền giám sát tối cao với quyền lập hiến, lập pháp và quyền quyết định những vấn đề quan trọng của Quốc hội. Các tác giả đều khẳng định Quốc hội Việt Nam cũng như Quốc hội các nước hiện nay phải tăng cường thực hiện quyền giám sát của mình. Tác giả
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế: Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Hàn Quốc – Việt Nam và triển vọng trong bối cảnh thay đổi hệ thống quản trị toàn cầu trong thế kỷ 21
27 p | 309 | 53
-
Luận án Tiến sĩ: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng hiện nay
237 p | 131 | 23
-
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Ký sinh trùng và vi sinh vật học thú y: Nghiên cứu một số đặc tính sinh học của vi rút cúm A/H5N1 Clade 7 phân lập ở Việt Nam
156 p | 181 | 21
-
Luận án Tiến sĩ: Quản lý nhà nước về vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đô thị Hà Nội
188 p | 105 | 19
-
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học: Văn hóa ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
166 p | 98 | 16
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện phương thức trả lương linh hoạt cho người lao động chuyên môn kỹ thuật cao trong ngành dầu khí Việt Nam
0 p | 157 | 15
-
Luận án Tiến sĩ : Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
176 p | 99 | 15
-
Luận án Tiến sĩ: Không gian văn hóa Huế với sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh
169 p | 99 | 14
-
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế: Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2007 đến nay
222 p | 69 | 14
-
Luận án Tiến sĩ: Mối quan hệ giữa gắn kết xã hội và hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông
228 p | 49 | 9
-
Luận án Tiến sĩ: Đời sống văn hóa tinh thần của học sinh THPT hiện nay
210 p | 101 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Chiến lược sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp vận tải
161 p | 107 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Tác động của đầu tư trực tuyến nước ngoài tới chuyển dịch cơ cấu ngành Kinh tế tại vùng Đồng bằng sông Hồng
183 p | 49 | 7
-
Luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu biến động và giải pháp kiểm soát chất lượng môi trường vùng nuôi tôm tập trung tại Quảng Ninh
194 p | 20 | 6
-
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Cơ học: Đánh giá và mô phỏng các hệ số đàn hồi đa tinh thể hỗn độn
143 p | 52 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tác động của thay đổi công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo ở Việt Nam
217 p | 10 | 6
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản thơ trữ trình cho học sinh THPT qua hệ thống bài tập
227 p | 92 | 6
-
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Nhi khoa: Phát hiện người lành mang gen đột biến CYP21A2 và chẩn đoán trước sinh bệnh tăng sản thượng bẩm sinh thể thiếu enzym 21-hydroxylase
119 p | 56 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn