intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa dân gian: Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:231

169
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án: Nhận diện cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong quá trình lịch sử, trình bày diện mạo, chức năng, giá trị và vai trò của nó trong xã hội truyền thống và đương đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa dân gian: Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------------- VŨ THỊ THU HÀ CỔNG LÀNG NGƯỜI VIỆT Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA DÂN GIAN Mã số: 62 22 01 30 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Xuân Kính Hà Nội, 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án: Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ do tôi thực hiện. Các tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và lần đầu tiên được công bố tại luận án này. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nghiên cứu sinh I
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 Chương 1: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỔNG LÀNG, TỔNG QUAN VỀ CHÂU THỔ VÀ LÀNG VIỆT BẮC BỘ, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG ............................ 8 1.1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng ............................................................................. 8 1.2. Tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và làng Việt ..................................................... 15 1.3. Lí thuyết vận dụng......................................... .................................................... 38 Chương 2: NHẬN DIỆN CỔNG LÀNG TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ ................................................................................................................... 46 2.1. Vị trí và sự phân bố cổng làng .......................................................................... 46 2.2. Phân loại cổng làng ........................................................................................... 55 2.3. Điêu khắc, trang trí trên cổng làng .................................................................... 72 2.4. Mối quan hệ giữa cổng làng với đình làng, chùa làng ...................................... 80 Chương 3: CHỨC NĂNG VÀ GIÁ TRỊ CỦA CỔNG LÀNG Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ ................................................................................................................... 84 3.1. Chức năng của cổng làng .................................................................................. 84 3.2. Giá trị của cổng làng ....................................................................................... 104 Chương 4: CỔNG LÀNG TRONG LỊCH SỬ VÀ TRONG CUỘC SỐNG ĐƯƠNG ĐẠI, NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ................................................. 116 4.1. Cổng làng trong lịch sử ................................................................................... 116 4.2. Cổng làng trong cuộc sống đương đại ............................................................ 119 4.3. Những vấn đề bàn luận ................................................................................... 125 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 141 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ……… ....... . 144 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 145 PHỤ LỤC ...................................................................................................... ........156 II
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CB Chủ biên ĐH Đại học GS Giáo sư H Hà Nội KHXH Khoa học xã hội NCS Nghiên cứu sinh Nxb Nhà xuất bản PGS Phó giáo sư Tr. trang TS Tiến sĩ TSKH Tiến sĩ khoa học Tp Thành phố UBND Uỷ ban nhân dân VHDG Văn hóa dân gian VHDT Văn hóa dân tộc VHNT Văn hóa nghệ thuật VHTT Văn hóa thông tin xb Xuất bản III
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn hóa truyền thống của người Việt từ ngàn đời nay được lưu giữ một phần lớn và quan trọng là ở làng. Làng Việt ở Bắc Bộ là nơi định cư sớm của cư dân Việt. Đa phần công việc trong làng là làm nghề nông. Về cảnh quan, có đường làng, chùa làng, đình làng, ao làng, chợ làng,... và nhiều làng không thể thiếu cổng làng. Cổng làng được các nhà nghiên cứu văn hóa xếp vào danh mục các di sản văn hóa vật thể, cũng như các di tích kiến trúc nghệ thuật khác như đình, chùa, đền, miếu, văn chỉ, từ chỉ, nhà thờ họ... Song, cổng làng không chỉ là di sản văn hóa vật thể. Ẩn sau diện mạo khó quên của những chiếc cổng làng, còn có những giá trị văn hóa phi vật thể mà nếu được quan tâm nghiên cứu, cổng làng sẽ là tư liệu quý, giúp chúng ta hiểu thêm về làng Việt và văn hóa dân tộc. Là một bộ phận cấu thành của thực thể làng Việt, cổng làng có vai trò, chức năng của nó. Cổng làng thể hiện mơ ước, nguyện vọng của cộng đồng, mang giá trị tâm linh, trở thành một biểu tượng khó mờ phai đối với dân làng. Thêm nữa, cổng làng còn là vách ngăn, một thứ biểu tượng để phân biệt làng này với làng khác, là nơi chức dịch kiểm soát dân làng. Vai trò, chức năng ấy đã dần dần thay đổi. Những yếu tố truyền thống và biến đổi hiện nay trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trang trí, những yếu tố vay mượn của cổng làng và ý nghĩa của cổng làng trong không gian văn hóa của làng quê xưa và nay luôn luôn cần được tìm hiểu. Việc nghiên cứu một cách hệ thống cổng làng vùng châu thổ Bắc Bộ sẽ góp phần khẳng định những giá trị truyền thống văn hóa của làng, góp thêm tiếng nói vào việc nghiên cứu sự biến đổi văn hóa hiện nay. Thực trạng của cổng làng hiện nay có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm, số lượng cổng làng cũ hiện tại không còn nhiều bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Có nhiều cách lý giải, ứng xử trước sự biến đổi này. Liệu có cần thiết giữ gìn nét truyền thống của cổng làng ở mỗi làng quê cho phù hợp với cảnh quan không gian 1
  6. của làng? Sự tồn tại của cổng làng sẽ làm tôn thêm vẻ đẹp truyền thống của mỗi làng, hay chỉ bó buộc không gian sống của con người, cản trở giao thông khi xe cộ càng nhiều, kích thước càng lớn? Khi xây mới hoặc tu sửa cổng cũ thì cần lưu ý những gì? Trong thời kì mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế, văn hóa hiện nay, cổng làng cũng như nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật khác đã trải qua nhiều tác động tiêu cực của thời gian, của cơ chế thị trường và những bất cập trong quản lý văn hóa, đặc biệt là của quá trình đô thị hóa quá nóng. Diện mạo, chức năng và giá trị của cổng làng đang dần mai một theo văn hóa truyền thống. Để bảo tồn, phát huy và khai thác những giá trị lịch sử - nghệ thuật cổng làng của người Việt vùng châu thổ Bắc Bộ trong bối cảnh hiện nay, với những lý do vừa trình bày, tôi chọn “Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ” làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Nhận diện cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong quá trình lịch sử, trình bày diện mạo, chức năng, giá trị và vai trò của nó trong xã hội truyền thống và đương đại. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 2.2.1. Tìm hiểu sự vận động của cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong diễn trình lịch sử 2.2.2. Phân tích các chức năng, giá trị của cổng làng truyền thống 2.2.3. Khảo sác các xu hướng ứng xử hiện nay với cổng làng 2.2.4. Trình bày những suy nghĩ về vai trò của cổng làng trong xã hội đương đại, dự báo số phận của nó trong tương lai. Nhằm thực hiện những nhiệm vụ trên, tức là tác giả luận án đã trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau: - Cổng làng ra đời từ bao giờ, diện mạo, chức năng xã hội và giá trị của nó ra sao? - Cổng làng biến đổi như thế nào trong cuộc sống hiện nay? 2
  7. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các cổng làng truyền thống và cổng làng mới ở châu thổ Bắc Bộ từ xưa đến nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1.Không gian nghiên cứu Không gian nghiên cứu là cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ. Châu thổ Bắc Bộ là một vùng rộng lớn, bên cạnh việc cố gắng bao quát bức tranh chung, tình hình chung, nghiên cứu sinh chọn những điểm nghiên cứu có tính đại diện. Trước hết, NCS chú ý đến những cổng làng là đại diện cho bốn tiểu vùng Đông, Tây, Nam, Bắc của Bắc Bộ xưa. Về xứ Đông, chúng tôi khảo sát cổng làng Cầu Nôm (nay thuộc Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên), (H1)1. Về xứ Đoài (phía Tây) chúng tôi khảo sát cổng làng Mông Phụ (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội), (H2). Về phía Nam, nghiên cứu sinh khảo sát cổng làng Tây Bình Cách (xã Đông Xá), (H3); cổng Tây (thôn Duyên Hà, xã Đông Kinh), (H4), cả hai cổng làng này đều thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Về xứ Bắc, chúng tôi khảo sát một số cổng làng xã Dương Xá2 (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), (H5); cổng làng Đồng Kị (nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), (H6); cổng làng Thổ Hà (nay thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang), (H7). Thứ hai, NCS chú ý đến những tiêu chí đại diện khác. Cổng làng Ước Lễ (nay thuộc Thanh Oai, Hà Nội ), là cổng làng cổ được coi là đẹp nhất châu thổ Bắc Bộ, là cổng trước của một làng nông nghiệp có hai nghề phụ nổi tiếng là nghề giã giò và nghề may mặc. Cổng làng Mông Phụ là chiếc cổng cổ nhất còn giữ được cho đến nay (H8). Cổng làng Cầu Nôm là cổng của một làng buôn bán trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Làng này có nghề buôn đồng nát nổi tiếng: “Bao nhiêu đồng nát thì về Cầu Nôm, con gái nỏ mồm thì ở với cha” (tục ngữ). Cổng làng Thổ Hà là cổng làng nghề gốm lâu đời. Cổng làng Đồng Kị là cổng của một làng có quá trình 1 (H1), (H2), (H3)... tương ứng với hình ảnh trong phụ lục. 2 Xã Dương Xá gồm có sáu thôn: Dương Đanh, Dương Đá, Dương Đình, Thuận Tiến Thuận Quang, Yên Bình. 3
  8. đô thị hóa rất nhanh, tiêu biểu cho loại làng “vươn ra phố” (Nguyễn Thị Phương Châm). Cổng làng Tây Bình Cách và cổng Tây làng Duyên Hà, Thái Bình tiêu biểu cho loại cổng của những làng thuần nông. Một số cổng hiện còn ở đường trên phố Thụy Khuê (quận Tây Hồ, Hà Nội hiện nay), như Hồ Khẩu, Trích Sài, Bái Ân, Võng Thị... là loại cổng vốn là của làng xóm xưa kia, nay bị kẹt cứng trong không gian đô thị (H9). Cổng làng Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) nằm ngay sát nội đô Hà Nội, cũng là một kiểu cổng cần tìm hiểu. Ngoài ra, trong những phân tích cụ thể, trong những vấn đề cụ thể, chúng tôi sẽ phân tích những cổng làng khác nữa. 3.2.2.Thời gian nghiên cứu Tác giả luận án bắt đầu nghiên cứu cổng làng Bắc Bộ từ năm 2009 đến tháng 8 năm 2015. Những thông tin về thời gian trước năm 2009 là những thông tin hồi cố từ các cán bộ dân làng địa phương hoặc tác giả thu thập từ thư tịch, báo chí. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Khi nghiên cứu cổng làng người Việt ở Bắc Bộ, tác giả luận án luôn luôn đặt cổng làng trong bối cảnh của làng (bao gồm điều kiện địa lí tự nhiên, không gian vật lí và không gian văn hóa xã hội). Khi nghiên cứu cổng làng người Việt ở Bắc Bộ nghiên cứu sinh nhìn đối tượng trong sự vận động, vận dụng những tri thức về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật để lí giải sự biến đổi, sự xuất hiện những yếu tố mới, sự vắng bóng những yếu tố cũ. 4.2.Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài luận án, NCS sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu. Trước hết là phương pháp tập hợp các tài liệu thứ cấp. Tài liệu viết về cổng làng khá hiếm. Nhiều khi trong một cuốn sách, trong một bài tạp chí, chúng tôi chỉ tìm được mươi dòng có thông tin liên quan đến đề tài luận án. Thí dụ trong cuốn sách của Phan Hữu Dật, NCS chỉ tìm thấy một dòng thông tin: “Các làng miền Trung nước ta làm gì có cổng làng” [20, tr.116]. Chúng tôi đã đọc hết ba cuốn sách về văn bia mà không thấy một thông tin nào về cổng làng [110], [127], [128]. NCS 4
  9. đã đọc kĩ hai cuốn sách sưu tập 3000 và 5000 hoành phi, câu đối Hán Nôm do Trần Lê Sáng chủ biên mà không tìm thấy một thông tin nào về cổng làng [90], [91]. Thứ hai, từ những gợi ý của các tác giả đi trước, NCS tiến hành khảo sát thực địa. NCS khảo sát 47 cổng làng tại Hà Nội và các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Bình, Hưng Yên. Chúng tôi đã chụp ảnh, hỏi chuyện người dân địa phương. Có những cổng làng NCS đi đến nhiều lần như cổng làng Đường Lâm, cổng làng Dương Xá, cổng làng Đồng Kỵ, cổng làng Duyên Hà, cổng làng Cầu Nôm, cổng làng Ước Lễ,... Thứ ba, NCS sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp trong nghiên cứu văn hóa dân gian. Về phương pháp này, Đinh Gia Khánh đã trình bày chi tiết trong cuốn sách của Viện Văn hóa dân gian: Văn hóa dân gian những phương pháp nghiên cứu (1990) [126]. Tiếp thu những gợi ý của tác giả, NCS hiểu cổng làng là một tổng thể, nhiều yếu tố. Để hiểu nó, cần phân tích những yếu tố cụ thể để nghiên cứu sau đó sẽ tổng hợp lại. Thứ tư, phương pháp phỏng vấn chuyên gia cũng được sử dụng. NCS đã phỏng vấn GS.TSKH Phan Đăng Nhật và PGS.TS Nguyễn Xuân Đức. Cả hai vị đều là nhà nghiên cứu văn hóa, văn hóa dân gian. Đặc biệt GS.Phan Đăng Nhật năm nay 84 tuổi (sinh năm 1931). Kí ức của ông cho biết tình hình cổng làng ở làng quê ông trước cách mạng tháng Tám 1945. PGS.TS Nguyễn Xuân Đức (sinh năm 1948), hiện đang nghỉ hưu ở Hà Nội. Ông cho tôi biết văn hóa ở làng quê ông hiện nay ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ngoài ra, nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh được đào tạo về Hán học, có nhiều năm giữ cương vị Giám đốc Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thái Bình. Ông giúp đỡ chúng tôi những hiểu biết về một vùng quê lúa và cổng làng trước kia. Không chỉ qua trò chuyện, ông còn trực tiếp dẫn chúng tôi đến hai cổng làng cổ ở Thái Bình. Về Hán học, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ của nhà giáo TS. Nguyễn Ngọc Lân, Trường Đại học Hà Nội. Ông đã thể hiện các chữ Hán mà ở phần câu đối, tác giả Vũ Kiêm Ninh chỉ mới phiên âm bằng chữ quốc ngữ. Ông cũng góp phần trao đổi về ý nghĩa của một số điển tích. Thứ năm, NCS sử dụng phương pháp so sánh. NCS sẽ so sánh giữa các cổng làng với nhau để hiểu cái chung và nét riêng của từng khu vực và từng thời đại. 5
  10. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Đưa ra cái nhìn hệ thống về cổng làng của người Việt ở Bắc Bộ từ góc nhìn văn hóa học, trình bày những mốc chính trong diễn trình lịch sử của nó (trong điều kiện tài liệu hiện nay cho phép), mô tả và phân loại chi tiết về cổng làng. 5.2. Phân tích có hệ thống các chức năng, giá trị của cổng làng, nhìn nhận vai trò của các chức năng này trong diễn trình lịch sử. 5.3.Trình bày các xu hướng ứng xử với cổng làng trong cuộc sống đương đại, đề xuất những suy nghĩ để các nhà quản lí và giới nghiên cứu tham khảo. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lí luận 6.1.1. Góp phần vào việc nhận diện cảnh quan, đời sống văn hóa, tâm linh ở nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhận diện sự biến đổi của những yếu tố này trong thời đại mới. 6.1.2. Làm rõ vai trò qua lại giữa các thành tố trong một hệ thống với toàn bộ hệ thống và sự tương tác giữa các yếu tố trong một hệ thống. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn 6.2.1. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lí, các cấp có thẩm quyền trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống, hoạch định, xây dựng nông thôn mới hiện nay. 6.2.2. Bản luận án sẽ góp phần vào nhận thức của người dân Việt nói chung, của thế hệ trẻ nói riêng trên con đường tìm về cội nguồn, hướng về cội nguồn, trong đạo lí uống nước nhớ nguồn và từ đó thêm yêu quê hương, đất nước. 7. Cơ cấu của luận án Trong phần chính văn, ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bản luận án có bốn chương như sau: Chương 1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng, tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và làng Việt, lý thuyết vận dụng (tr.8 - tr.438) Chương 2. Nhận diện cổng làng truyền thống Bắc Bộ (tr.46 - tr.80) 6
  11. Chương 3. Chức năng và giá trị của cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ (tr.84 - tr.104) Chương 4. Cổng làng trong lịch sử và trong cuộc sống đương đại, những vấn đề bàn luận (tr.116 - tr.125) Ngoài ra, luận án còn có một phụ lục, nhằm làm rõ thêm nội dung của phần chính văn. 7
  12. Chương 1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỔNG LÀNG, TỔNG QUAN VỀ CHÂU THỔ BẮC BỘ VÀ LÀNG VIỆT, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG 1.1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng Khi nghiên cứu cổng làng, văn bia là một trong những nguồn tài liệu thu hút sự chú ý của chúng tôi. Văn bia thời Mạc (1996) của Đinh Khắc Thuân [110] giới thiệu 147 văn bia và một bài minh văn khắc trên chuông đồng chùa Tư Phúc (ở Thái Bình). 148 trong số tài liệu này, văn bia ở chùa chiếm đại đa số (nói về việc công đức tu sửa chùa, làm giếng chùa, dựng cầu vào chùa, làm lại hướng mới của chùa,…). Ngoài ra còn có bia đền thần, bia ghi lại công tích, sự nghiệp của danh nhân,… Trong công trình Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã (2003), tác giả Phạm Thị Thùy Vinh cho biết số lượng bia thời Lê; dựng và phân bố ở các địa điểm như sau: chùa 556 bia; đình 302 bia; đền, miếu 50 bia; văn chỉ 40 bia; từ đường 36 bia; lăng mộ 22 bia; từ chỉ 19 bia; cầu 15 bia; chợ 9 bia; sinh từ 7 bia; điếm 6 bia; am 1 bia [127]. Trong Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội. Tuyển tập văn khắc Hán Nôm (2010), chủ biên Phạm Thị Thùy Vinh và các đồng soạn giả biên dịch 135 bài minh văn, nội dung chủ yếu của các văn bản này nói về việc dựng chùa, tu sửa chùa, làm đình, đúc chuông, cung tiến ruộng đất, lập từ đường,… [128]. Trong tất cả ba cuốn sách nêu trên, không có một văn bia nào nói về việc xây hoặc tu sửa cổng làng! Cổng làng thường có các câu đối. Chính vì vậy, chúng tôi đã tìm đọc cuốn 3000 hoành phi, câu đối Hán Nôm (2003) do Trần Lê Sáng chủ biên [90], cuốn 5000 hoành phi, câu đối Hán Nôm (2015) cũng do Trần Lê Sáng chủ biên [91]. Đáng tiếc, hai cuốn sách không cho nghiên cứu sinh một thông tin nào về cổng làng. 8
  13. Những tài liệu đề cập đến cổng làng thực sự ít ỏi. Số lượng tài liệu không chỉ ít, trong mỗi tài liệu, đại đa số các tác giả lại chỉ viết rất ít về cổng làng. 1.1.1. Tài liệu viết không tập trung về cổng làng Pierre Gourou (1900 - 1999), nhà sử học và địa lí học người Pháp công bố cuốn sách Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ vào năm 1936. Khi viết về làng của người Việt, tác giả đặc biệt chú ý đến lũy tre và đã viết về cổng làng. Ông cho biết số lượng cổng của một làng, chất liệu xây dựng, kích thước của cổng và công dụng của cổng. Cuốn sách của ông còn có một bức ảnh về cổng làng Đông Viên, thôn Chu Quyến, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) [29]. Năm 1939 khi viết về khu phố buôn bán ở Hà Nội, Henri Bernard nhận thấy: “Những bức tường bao và những cổng phố được đóng lại vào ban đêm, đã chia cắt những phường khác nhau, với số lượng là 36, mỗi một phường lại chia thành hai phường nhỏ” [7, tr.79]. Tác giả không mô tả cổng phố, không có ảnh chụp và không cho biết cổng phố có khác cổng làng không, nó được làm bằng chất liệu gì. Chúng tôi không nhận được thông tin cụ thể về hình dáng, kích thước và chất liệu làm cổng. Vào nửa cuối những năm 60 của thế kỉ trước, tại Sài Gòn, trong cuốn sách Làng xóm Việt Nam với hơn 270 trang, tác giả Toan Ánh chỉ dành hai đoạn miêu tả cổng làng: một đoạn gồm 8 dòng (viết về chiếc cổng xây), một đoạn 15 dòng (viết về cổng tre). Cả hai chiếc cổng này đều ở Bắc Bộ [1,tr.6,10]. Năm 1977, trong cuốn sách nhiều tác giả, trong bài “Về vai trò của làng xã trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang giữ nước ở Việt Nam thời xưa”, tác giả Lê Văn Lan cho biết từ đầu Công nguyên, người Trung Quốc đã nói đến những lũy tre gai “không sao công phá được” ở các làng Việt, ghi nhận từ thế kỉ thứ XIII, sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu đã viết về các bụi tre gai ở Đại Việt. Từ đó tác giả nghĩ rằng đi kèm với lũy tre là cổng làng với hai hình thức thô sơ (cổng tre) và kiên cố (cổng xây bằng gạch). Tác giả không chỉ ra được những cái cổng đó được sách vở, tác giả nào ghi nhận [123]. Trong cuốn sách vừa nêu, trong bài “Làng xã trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông (thế kỉ XIII)”, tác giả Phùng Văn Cường 9
  14. cũng dẫn câu văn mà sứ giả Trần Phu ghi nhận những bụi tre gai nước Việt, và không nói gì về cổng làng [123, tr.262]1. Năm 1978, trong bài “Tìm hiểu về sự cư trú ở một số làng xã trên miền đồng bằng Bắc Bộ”, tác giả Huy Vu dành hai đoạn văn (đoạn dài nhất không quá một trang) miêu tả cảnh quan xung quanh cổng làng [124, tr. 78]. Năm 1991, trong cuốn sách của nhiều tác giả Văn hóa và văn hóa cư dân đồng bằng sông Hồng, Vũ Tự Lập miêu tả cảnh quan xung quanh cổng làng gần giống như Huy Vu đã viết: ...xưa kia vào làng rất khó, nhiều khi có có lối đi vào duy nhất, hai bên đường có ao, lại có cổng chắc chắn, cổng xây gạch cửa gỗ, bên trên có địch lâu tích trữ gạch đá, mảnh chai làm vũ khí tự vệ. Làng nghèo lắm thì cổng cũng có rào chông bảo vệ. Ở những làng giàu có, quản lí chặt chẽ thì cách cổng làng khoảng 50m lại xây điếm canh, có tuần phiên canh gác, nhất là về ban đêm. Trước cổng làng thường trồng các cây cổ thụ, như cây đa, cây đề, cây si, cây bàng và núp dưới chúng có cái quán nhỏ mở hàng nước [65, tr.55-56]. Cùng năm 1991, trong cuốn sách Mĩ thuật ở làng gồm 247 trang (cả chữ và hình), hai tác giả Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng chỉ viết về cổng làng vẻn vẹn mấy dòng như sau: Cổng làng thường là cổng gạch kiểu tam quan, có chạm trổ bằng vữa, đắp hình, ghép gốm… Nhiều cổng khá đồ sộ, nhưng thường thì xinh xắn mà thôi. Nó giống như cột mốc vào làng hơn là một cổng thành để tự vệ. Cái cổng thông thoáng này dẫn qua đoạn chính của đường làng tới đình và có thể có những đoạn khác cũng rộng rãi dẫn tới chùa, miếu, đến thờ… [86, tr.27]. Trong cuốn sách 740 trang khổ lớn của nhiều tác giả Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ (xb 2002), trong bài “Về không gian làng”, tác giả Nguyễn Tùng viết hai đoạn văn về cổng làng như sau: 1 Ở mục lục của sách, tên tác giả là Phạm Văn Cường, trong bài, tên tác giả là Phùng Văn Cường? 10
  15. + Trước năm 1945, Mộ Trạch (thôn Thượng) có ba cổng gạch ngày nay không còn nữa: Đông, Chùa và Nam. Cổng nam lớn nhất có gác cho tuần phiên ngủ. Theo hương ước của làng sửa đổi hay bổ sung vào năm 1665 và 1679, không gian cư trú của Mộ Trạch trước đây là lũy tre, hào và dường như cả tường gạch cao vây quanh: nếu đúng thế thì đây là điều khá hiếm!” [83, tr.115]. +…Ở Tả Thanh Oai, Đông Ngạc cũng như ở nhiều làng ngoại ô Hà Nội khác nằm dọc theo sông Hồng hay sông Tô Lịch, mỗi ngõ thường có một cổng mở ra đường ven sông và một cổng mở ra đồng ruộng. Ở Mộ Trạch và Mông Phụ, là hai làng xa sông, cổng làng có chức năng kiểm soát các con đường chính đi vào làng từ đường thiên lý hay không gian canh tác, nhằm bảo vệ không gian cư trú. Mông Phụ có 5 cổng mang tên của 5 khu (hay xóm): Đình, Sải, Sui, Chim và Hè. Điều đáng ngạc nhiên là trước đây ngoài 3 cổng Đông, Nam và Chùa, Mộ Trạch không có cổng ở phía bắc, chắc là vì thời xưa chưa có đường liên xã nối Mộ Trạch với My Cầu và Sặc” [83, tr.130]. Trong bản dịch tiếng Việt (in lần đầu 2007) của công trình Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ, John Kleinen cho rằng, không thể biết chắc chắn làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ “được bảo vệ bằng cổng gạch và hệ thống lũy tre khi nào” nhưng những mô tả của người nước ngoài từ đầu thế kỉ XIX đều khẳng định rằng đến lúc đó, cảnh tượng này là rất phổ biến [61, tr.40]. Nhà nghiên cứu dân tộc học Bùi Xuân Đính có hơn 30 năm gắn bó với đề tài làng xã, khảo sát nhiều làng cụ thể ở các vùng quê. Trong cuốn Lệ làng phép nước, ông nêu một số quy định về vấn đề bảo vệ an ninh trong làng, liên quan đến cổng làng [24]. Trong hai tập Hành trình về làng Việt cổ, ông và các đồng tác giả đã khảo sát sơ bộ cổng của các làng thuộc xứ Đoài như Yên Sở, Dương Liễu, Kim Hoàng, Hậu Ái, An Trai... thuộc xứ Nam như Ngọc Hồi, Văn Điển, Cổ Điển, Cương Ngô... [26],[27]. Tuy trong khuôn khổ khảo sát chung về làng, mang tính sơ bộ, song các phần viết cũng đưa ra các thông tin về cổng làng, như số lượng cổng, cách bố trí, 11
  16. những đặc điểm của làng qua hệ thống câu đối và các đại tự. Ông cũng cho biết những thông tin tư liệu về cổng làng ở một số làng thuộc loại hình “làng khoa bảng”, như Đông Ngạc, Phú Thị, Tả Thanh Oai... , trong cuốn Các làng khoa bảng Thăng Long – Hà Nội, do ông đồng chủ biên. Năm 2009, trong chuyên khảo Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay, tác giả Nguyễn Thị Phương Châm đề cập đến ba làng như những nghiên cứu trường hợp về làng quê cổ kính, điển hình của xứ Kinh Bắc xưa. Trong không gian và cảnh quan xưa của ba làng Đồng Kị, Trang Liệt, Đình Bảng trước kia, lũy tre làng gắn kết với cổng làng. Đến nay sự uy nghi của những cổng làng không còn, cổng làng chỉ còn lại như chứng tích của thời gian về một không gian cổ xưa của làng. Sự phân định giữa không gian trong làng và ngoài làng bằng những cổng làng cũng không còn nữa, do dân cư trong làng ngày càng tràn ra ngoài cổng làng, các ngôi nhà và những công trình mới vươn cao lên át đi vẻ uy nghi một thủa của những chiếc cổng xưa. [15, tr.134-135]. Năm 2011, trong cuốn Văn hóa tâm linh, nhà giáo Nguyễn Đăng Duy cho rằng, tâm linh xuất hiện trong mọi mặt của cuộc sống đời thường. Tâm linh trong đời sống cá nhân, gia đình (nằm ngay trong niềm tin thiêng liêng của con người), tâm linh trong cộng đồng làng xã, tính thiêng liêng trong tín ngưỡng tôn giáo được tôn thờ trong không gian thiêng, sự cố kết xóm làng trong cộng đồng làng xã chính là bản sắc văn hóa xóm làng và không gian thiêng của người Việt mang tính xã hội mà ở đó là không gian tâm linh qua kiến trúc dân gian như: đình, đền, chùa, miếu, am, cổng làng…[23]. Năm 2012 trong trong cuốn Văn hóa gốm của người Việt vùng đồng bằng sông Hồng, tác giả Trương Minh Hằng nhận xét rằng, đến thế kỉ thứ XIX sự xuất hiện các đô thị mới được dựa trên các làng cổ ngay lòng đô thị cổ. Đô thị mới xuất hiện rộng khắp nhưng vẫn không làm mất đi hình ảnh những chiếc cổng làng truyền thống [37, tr.31]. Năm 2012 trong luận án tiến sĩ Văn hóa học Khai thác các giá trị văn hóa truyền thống phục vụ phát triển du lịch, (nghiên cứu trường hợp làng Mông Phụ, xã 12
  17. Đường Lâm, Sơn Tây), tác giả Đào Duy Tuấn nhận định: “Cổng làng Mông Phụ được xây dựng vào đời Lê Thần Tông (1553). Cổng được làm như gian nhà, được xây bít đốc có trụ đỡ mái và đầu nóc, bên trong có khung gỗ, kèo, hoành rui, trên mái lợp ngói”[119]. Niên đại 1553 mà tác giả nêu ra cần phải bàn. Theo Niên biểu Việt Nam, vua Lê Thần Tông có hai thời gian trị vì là từ năm 1619 đến 1643, từ năm 1649 đến 1662 [130]. Vậy nếu đã công nhận thời gian xây dựng cổng dưới thời Lê Thần Tông thì con số 1553 là không chính xác. Còn hiện nay giới nghiên cứu chưa có bằng chứng cụ thể tin cậy nào chứng minh cổng làng Mông Phụ được xây dựng dưới thời vua Lê Thần Tông. Ở trên, một cách có chủ ý, chúng tôi đã làm rõ trong các tài liệu đã phân tích, chưa có tác giả nào tập trung nghiên cứu cổng làng, đa phần họ chỉ dành ít dòng viết về nó, trong khi mối quan tâm chuyên môn chủ yếu của họ dành cho vấn đề khác, chủ đề khác. 1.1.2.Tài liệu tập trung giới thiệu , nghiên cứu cổng làng Luận văn thạc sĩ Nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị của các cổng làng trong quy hoạch đô thị Hà Nội, (2002) của tác giả Giang Thị Thu Hiền, gồm 105 trang trình bày về vai trò và hình ảnh của cổng làng trong cấu trúc làng xã truyền thống Việt Nam và trong các hoạt động văn hóa dân gian truyền thống, tác giả còn bàn về các giá trị đặc sắc của cổng làng: giá trị sử dụng, giá trị lịch sử văn hóa và giá trị xã hội nhân văn của cổng làng. Tác giả cũng bàn về bố cục họa tiết, nghệ thuật trang trí, hình thức và tỉ lệ kiến trúc của cổng làng. Người viết còn phân loại các cổng làng ở khu vực Hà Nội, bàn về tính năng tồn tại cổng làng, tác giả chưa phân tích sâu cổng làng trong bối cảnh làng xã, điểm mạnh của luận văn là dưới cái nhìn của kiến trúc sư, tác giả đã có những bản vẽ chi tiết chuyên nghiệp về mặt bằng, mặt đứng, mặt sau, mặt cắt của một số cổng làng ở Hà Nội [45]. Cuốn sách Cổng làng Hà Nội xưa và nay (2007) của tác giả Vũ Kiêm Ninh cũng hết sức quý giá đối với việc chúng tôi. Tác giả đã đi khảo sát tất cả các quận huyện ngoại thành Hà Nội (ở thời gian chưa sáp nhập Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và một số xã của Hòa Bình vào Hà Nội). Số cổng làng mà ông đã 13
  18. nhận diện được ở quận Hoàn Kiếm là 2 cổng làng; quận Ba Đình 4; quận Cầu Giấy: 9; quận Đống Đa: 1; quận Hoàng Mai: 7; quận Long Biên: 6; quận Tây Hồ: 10; huyện Đông Anh: 22; huyện Gia Lâm: 9; huyện Sóc Sơn: 2; huyện Thanh Trì: 17; huyện Từ Liêm: 18. Ông cũng có quan tâm nhưng chưa tìm thấy cổng làng trên địa phận quận Hai Bà Trưng. Trong tập sách, tác giả giới thiệu 109 cổng làng1 [75]. Mỗi cổng đều có ảnh (do ông chụp), đều được mô tả khái quát; ở một số cổng, tác giả còn viết về nghề nghiệp, tín ngưỡng, lễ hội của làng,... Tập sách chưa phải là một chuyên khảo về cổng làng Hà Nội. Tác giả chưa được đào tạo về Hán học nên các câu đối chữ Hán chỉ mới được phiên âm, mức độ chính xác của bản dịch cần được thẩm định. Song từ đây, chúng tôi rút ra được nhiều thông tin bổ ích. Đó là những phiên âm, lời dịch câu đối chữ Hán, chữ Nôm và các câu đối chữ quốc ngữ ở những cổng làng cụ thể, một số cổng có thông tin về năm xây dựng hoặc năm xây dựng lại, lí do cổng bị tàn phá, tên tuổi những người hưng công xây dựng ở một số cổng làng,... Những cổng có niên đại sớm nhất là vào cuối thế kỉ XIX và số cổng này rất ít. Năm 2007, trong khóa luận tốt nghiệp Cổng làng, kiến trúc biểu trưng cho không gian làng Việt, tác giả Lê Thị Thu trình bày khái quát chung về không gian kiến trúc cổng làng, mô tả vẻ đẹp của cổng làng xứ Đoài trong sáng tạo nghệ thuật [109]. Dành hẳn sự quan tâm đối với cổng làng, năm 2011, tác giả luận án đã bảo vệ luận văn thạc sĩ Cổng làng ở ngoại thành Hà Nội truyền thống và biến đổi. Trên cơ sở tiếp thu những suy nghĩ, những nhận xét gợi mở của các tác giả đi trước, NCS đã khảo sát, tìm hiểu về sự biến đổi của cổng làng hiện nay tại hai xã Dương Xá và Kim Sơn thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Những thông tin trong luận văn mới dừng lại ở việc mô tả so sánh giữa các cổng làng thuộc huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, bàn về vấn đề bảo tồn di sản văn hóa của làng [31]. Trong luận án này, NCS có 1 Tác giả gọi 109 cổng là cổng làng, nhưng theo chúng tôi, có nhiều cổng như cửa Ô Quan Chưởng, cổng Ngõ Đa Lộc không phải là cổng làng. 14
  19. sử dụng kết quả điền dã về cổng làng khi thực hiện luận văn cao học. Như vậy, việc điền dã của NCS được tiến hành từ năm 2009 đến năm 2015. Bài viết “Nghệ thuật trang trí cổng làng Hà Nội” của tác giả L.T.L (2012) có nhiều thông tin và nhận xét quan trọng. Tác giả đã phân loại các kiểu cổng làng cổ của Hà Nội hiện tồn, đã phân tích sự đa dạng của đồ án, họa tiết, đề tài trang trí ở cổng làng. Tác giả nhận xét về ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đối với cổng làng Hà Nội. Bài viết cũng cho thấy sự liên quan, sự khác nhau, ảnh hưởng của chùa, đình đối với cổng làng thể hiện qua mô típ trang trí. Đúng như tác giả nhận xét, cổng làng Hà Nội “không những thể hiện được tài năng về bố cục, trang trí mà còn chứa đựng triết lí sâu xa về trời đất, về vũ trụ” [62, tr.91]. Tóm lại, cổng làng ít được chú ý đến trong công trình của các tác giả đi trước. Nếu đề cập đến, họ chỉ dành mươi dòng miêu thuật về nó và chủ yếu nói đến chức năng phòng vệ, phòng thủ của cổng làng. Trong tình hình ấy, luận văn thạc sĩ chuyên ngành kiến trúc của Giang Thị Thu Hiền, bài viết của tác giả L.T.L và cuốn sách của Vũ Kiêm Ninh là thực sự bổ ích đối với tôi1. 1.2. Tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và làng Việt 1.2.1. Tổng quan về châu thổ Bắc Bộ Sở dĩ chúng tôi trình bày về châu thổ Bắc Bộ bởi chỉ làng Việt ở Bắc Bộ mới có cổng. Hiện nay về địa lí tồn tại ba khái niệm: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Riêng về ranh giới của Bắc Bộ hiện có nhiều cách hiểu khác nhau. Đinh Gia Khánh quan niệm Bắc Bộ bao gồm cả Thanh Hóa; Trung Bộ được tính từ Nghệ Tĩnh đến hết Bình Thuận. Nguyễn Chí Bền lại quan niệm Bắc Bộ bao gồm đến hết Nghệ Tĩnh. Lê Bá 1 Ngoài các tài liệu mà chúng tôi đã đề cập, còn có bài trên các trang Webside của tác giả Mai Linh, Hồng Vân, kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, họa sĩ Nguyễn Định Long, Quách Đông Phương, Bùi Thế Tâm (người làng Thổ Hà) …... Đây không phải là những bài nghiên cứu chuyên sâu, chuyên ngành. Ở đây chủ yếu các tác giả nêu lên sự tiếc nuối cổng làng xưa, trăn trở về kiến trúc nông thôn còn ngổn ngang, trong đó cổng làng cũ mất đi, cổng làng có khi được xây mới nhưng phản cảm với truyền thống thẩm mĩ của cộng đồng. Cũng có bài cung cấp thông tin về việc khởi công xây cổng mới. 15
  20. Thảo quan niệm Bắc Bộ là đến hết Ninh Bình [97]. Vùng châu thổ Bắc Bộ còn được gọi là châu thổ sông Hồng. Chúng tôi quan niệm Bắc Bộ là được tính từ các tỉnh phía Bắc đến hết tỉnh Ninh Bình. Như vậy, châu thổ Bắc Bộ là phần đồng bằng của Hà Nội, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình. Vùng châu thổ Bắc Bộ có lịch sử lâu đời. Năm 1991 dân số khoảng 14 - 15 triệu người, cứ bình quân trên 1 km2 có gần 1000 người sinh sống, trong khi đó mật độ bình quân cả nước là 192 người/km2. Do đất chật người đông, cư dân châu thổ Bắc Bộ rất cần cù và là những người tài giỏi trong nghề trồng lúa. Bên cạnh nghề nông nhiều nghề thủ công đã phát triển như nghề mộc, nghề nề, nghề đan lát, nghề thêu, nghề gốm..v..v.. Việc đô thị hóa ở châu thổ Bắc Bộ diễn ra rất chậm chạp và rất ít có đô thị lớn. Trong lịch sử đã từng có các đô thị Cổ Loa, Luy Lâu, Long Biên (sau là Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội), Vân Đồn, Phố Hiến nhưng chỉ có Thăng Long là đô thị bền vững. Tuy nhiên xét đến cùng, trong Thăng Long xưa vẫn tồn tại nhiều yếu tố của văn hóa làng. Sở dĩ như vậy là vì đô thị đích thực phải là kết quả của sự phát triển công nghiệp, thương nghiệp, còn trước đây châu thổ sông Hồng về căn bản vẫn là một vùng nông nghiệp tự cung, tự cấp. Do điều kiện tự nhiên châu thổ thấp úng, bờ biển lầy lội, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thủy triều và rất thuận tiện cho việc canh tác lúa nước, nhưng khó giao lưu buôn bán, nhất là buôn bán với những nước xa xôi qua cảng biển, người Việt Bắc Bộ ngại lên rừng, ngại ra khơi, chỉ quen với việc khai thác đồng bằng châu thổ. Một số đô thị cổ thực chất là những thành quách, là trung tâm hành chính hơn là trung tâm buôn bán, sản xuất hàng hóa. Cảng Vân Đồn thực chất là nơi thu thuế. Do tâm lí bài ngoại của triều đình quân chủ, Phố Hiến cũng suy tàn với những chính sách “bế quan tỏa cảng”. Bởi vậy, đến thế kỉ XIX, chỉ có Thăng Long - Hà Nội là một đô thị, bên cạnh khu dinh thự của các quan, có những phố phường của người thợ thủ công và người buôn bán (từ cuối thế kỉ thứ XVIII cho đến năm 1884, Hà Nội mất vị trí của kinh đô, kinh đô chuyển về Huế). Tâm lí nông dân và chính sách 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1