Luận án tiến sĩ Địa lý: Các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp đảm bảo An ninh lương thực vùng Đồng bằng sông Cửu Long
lượt xem 17
download
Lịch sử nghiên cứu đề tài là Vấn đề đảm bảo An ninh lương thực đã được quan tâm từ rất xa xưa trong lịch sử của nhân loại, ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuy nhiên, các nghiên cứu có tính hệ thống và khoa học thì muộn hơn nhiều. Năm 1992, FAO mới đưa ra được định nghĩa đầy đủ về ANLT. Qua thời gian, quan niệm về An ninh lương thực có những biến đổi khác nhau và đã có nhiều nghiên cứu về An ninh lương thực.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Địa lý: Các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp đảm bảo An ninh lương thực vùng Đồng bằng sông Cửu Long
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ BÉ BA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ HỌC 1
- TP Hồ Chí Minh – Năm 2019 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ BÉ BA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC Chuyên ngành : Địa lí học Mã số : 62 31 05 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1.PGS.TS NGUYỄN KIM HỒNG 2
- 2.PGS.TS ĐÀO NGỌC CẢNH Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2019 3
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu và kết quả trình bày trong Luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình luận án nào trước đây.
- MỤC LỤC Trang phụ bìa
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nội dung đầy đủ 1 ANLT An ninh lương thực 2 CGH Cơ giới hóa 3 CĐL Cánh đồng lớn 4 ĐBSH Đồng bằng sông Hồng 5 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 6 ĐNB Đông Nam Bộ 7 TN Tây Nguyên 8 TDMNPB Trung du miền núi phía Bắc 9 DHNTB Duyên hải Nam Trung Bộ 10 BTB Bắc Trung Bộ 11 BĐKH Biến đổi khí hậu 12 FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (Food and Agriculture Organization of the United Nations) 13 WB World Bank (Ngân Hàng Thế Giới)
- 14 BĐGLT Biến động giá lương thực 15 VFA Hiệp hội lương thực Việt Nam 16 WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) 17 TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership Agreement
- DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
- DANH MỤC BẢN ĐỒ Số TÊN BẢN ĐỒ 1 Bản đồ hành chính vùng ĐBSCL 2 Bản đồ các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT vùng ĐBSCL 3 Bản đồ các nhân tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT vùng ĐBSCL 4 Bản đồ tổ chức lãnh thổ các cây lương thực ở vùng ĐBSCL 5 Bản đồ tình hình mất ANLT theo địa phương ở ĐBSCL năm 2018 6 Bản đồ hiện trạng sử dụng đất vùng ĐBSCL năm 2018
- MỞ ĐẦU Bảng 1. 1. Tính cấp thiết của đề tài Lương thực được coi là nhu cầu cơ bản không thể thiếu được đối với đời sống xã hội con người. Ở Việt Nam, đảm bảo ANLT là một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm trong điều kiện dân số tăng, diện tích đất nông nghiệp giảm, cùng với tác động của BĐKH dẫn đến thu nhập của nông dân đang sụt giảm dần, xu hướng“ly nông” ngày càng tăng nhất là những vùng sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước, nguồn cung lương thực không những đảm bảo cho nội vùng mà còn cung cấp lương thực đảm bảo ANLT quốc gia và xuất khẩu thu ngoại tệ. Cụ thể, sản xuất lương thực của vùng chiếm 48,4% diện tích và 49,6% sản lượng cây lương thực có hạt của cả nước, bình quân lương thực có hạt theo đầu người là 1.360 kg, gấp 2,6 lần mức trung bình cả nước; Riêng cây lúa, vùng ĐBSCL chiếm 54,8% diện tích và 55,2% sản lượng lúa cả nước, bình quân sản lượng lương thực có hạt theo đầu người là 1.383,4 (2018) [67]. Mức tiêu dùng gạo và lương thực khác quy gạo chung của cả nước từ 12,7 Kg/người/tháng (2005) xuống 10,8 Kg/ người/ tháng (2010) và 9,9 Kg (2016). Theo Niên giám thống kê Việt Nam năm 2018, trong giai đoạn 2005 – 2018, mức tiêu dùng lương thực (đã quy đổi ra gạo) khoảng 133 kg/người/năm thì ĐBSCL không chỉ đảm bảo ANLT cho 17,66 triệu dân vùng, đảm bảo lương thực cho gần 92,7 triệu dân cả nước mà vẫn dư thừa khoảng 1/2 sản lượng lương thực. Song không phải mỗi người dân trong vùng ĐBSCL cũng như cả nước được cung cấp, được tiếp cận lương thực như nhau. Thực tiễn, vấn đề đảm bảo ANLT ở ĐBSCL hiện vẫn còn nhiều bất cập. Hiện tại, có một nghịch lý là người nông dân ở vựa lúa quốc gia, nơi cung cấp lương thực, đặc biệt là sản xuất lúa gạo đã giúp Việt Nam là nước đứng đầu trên thế giới về xuất khẩu gạo nhưng đổi lại họ là người có mức thu nhập thấp nhất và không tiếp cận đầy đủ lương thực. Mặt khác, hàng năm, lượng lương thực sản xuất dư ra rất nhiều nhưng số lượng lớn là lương thực chất
- lượng chưa cao và bán với giá rẻ, điều này đẩy nông dân sản xuất lương thực trở thành người nghèo nhất. Vựa lúa ĐBSCL là vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn mức trung bình cả nước, nông dân trồng l ương thực ở ĐBSCL có thu nhập thấp hơn so với lao động trong những lĩnh vực khác. Vấn đề ANLT ở ĐBSCL cần được xem xét một cách toàn diện là đảm bảo ANLT vùng ĐBSCL phải gắn với ANLT quốc gia và đảm bảo thu nhập cho nông dân, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT ở vựa lúa trên cơ sở khai thác hiệu quả nguồn lực kinh tế và khắc phục những nhân tố gây nên sự bất ổn định trong sản xuất, phân phối và tiếp cận lương thực ở ĐBSCL. Từ đó, tìm giải pháp đảm bảo ANLT ở ĐBSCL. Đặc biệt, quan tâm đến tìm giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ trồng cây lương thực và hộ nghèo trong vùng. Xuất phát từ các lí do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “ Các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp đảm bảo An ninh lương thực vùng Đồng bằng sông Cửu Long”. Bảng 2. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Vấn đề đảm bảo ANLT đa đu ̃ ̛ơc quan tâm t ̣ ừ rât xa x ́ ưa trong lich s ̣ ử cua nhan ̉ ̂ ̣ ở ca phuong Đong lân phuong Tay. Tuy nhiên, các nghiên c loai, ̉ ̛ ̛ ̂ ̃ ̛ ̛ ̂ ứu có tính hệ thống và khoa học thì muộn hơn nhiều. Năm 1992, FAO mới đưa ra được định nghĩa đầy đủ về ANLT. Qua thời gian, quan niệm về ANLT có những biến đổi khác nhau và đã có nhiều nghiên cứu về ANLT. 2.1. Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT trong sản xuất (cung lương thực) trên thế giới và Việt Nam. Vấn đề cung cầu lương thực luôn là trọng tâm của nhân loại, ngày nay dưới áp lực suy giảm nguồn tài nguyên cho sản xuất nông nghiệp, BĐKH,.v.v nên đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất và đảm bảo ANLT trên thế giới và ở Việt Nam. 2.1.1 Ở Việt Nam Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là vấn đề quan trọng trong chính sách phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế của Việt Nam nói chung.
- ĐBSCL là một trong 7 vùng kinh tế, vùng trọng điểm cung ứng lương thực không những giữ vai trò chủ đạo đảm bảo ANLT cho nội vùng mà còn cho các vùng khác trong cả nước và xuất khẩu lương thực. Vì vậy, có rất nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất lương thực đảm bảo nguồn cung cho đảm bảo ANLT nội vùng và quốc gia. Đặng Kiều Nhân (2009) trong công trình Năng suất và lợi tức sản xuất lúa cao sản ở ĐBSCL giai đoạn 19952006 đã nhận ra được những yếu tố chính ảnh hưởng đến năng suất và lợi tức sản xuất lúa ở ĐBSCL. Cụ thể, từ kết quả phân tích số liệu thống kê năng suất và lợi tức trong thời gian 10 năm của nông hộ, cho rằng diện tích lúa tăng ở những khu vực có điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất lương thực theo hướng thâm canh và hạn chế độc canh cây lúa là điều kiện cần thiết để đảm bảo nguồn cung lương thực bền vững và tăng thu nhập cho người trồng lương thực. Phạm Lê Thông (2011) qua nghiên cứu Hiệu quả kỹ thuật và kinh tế của vụ lúa Đông Xuân ở ĐBSCL đã khẳng định vấn đề lựa chọn vật tư đầu vào và lao động nông thôn thường xuyên được tập huấn khuyến nông, kỹ thuật sản xuất mới, sử dụng máy móc hiện đại,...có tác động lớn đến tăng năng suất lúa gạo ở vùng ĐBSCL. Nguyễn Hữu Đặng (2012), Hiệu quả kỹ thuật và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của hộ trồng lúa ở ĐBSCL, Việt Nam giai đoạn 2008 2011. Nghiên cứu đánh giá hiện trạng sản xuất lúa ở ĐBSCL nhìn chung hiệu quả mang lại chưa cao và có xu hướng giảm là do sự không đồng bộ trong ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và lựa chọn nguồn vật tư đầu vào tối ưu kém. Nguyễn Tiến Dũng, Lê Khương Ninh (2015) Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất lúa của nông hộ ở Thành phố Cần Thơ. Trên cơ sở phân tích dữ liệu sơ cấp từ điều tra nông hộ sản xuất lúa gạo tại Cần Thơ cho thấy sản xuất lúa gạo chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như quy mô diện tích, phương thức mua vật tư, phương thức bán, tập quán sản xuất, số lượng, chất lượng và kinh nghiệm
- của nguồn lao động,… Lê Thị Lương, Võ Thành Danh (2018), Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng nông nghiệp ở Thành phố Cần Thơ, đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn gốc tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào việc tăng cường vốn vật chất đầu tư vào nông nghiệp, mở rộng quy mô đất canh tác do thủy lợi và cộng nghệ. Vũ Thị Kim Cúc (2011), Vai trò của các nhân tố kinh tế xã hội đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Hải Phòng, nghiên cứu cho rằng lực lượng lao động chất lượng cao, thị trường và chính sách nhà nước, ..sẽ góp phần cho sản xuất nông nghiệp chuyển hướng tích cực theo hướng sản xuất lương thực hàng hóa 2.1.2 Trên thế giới Các học giả Trung Quốc, Vương Dật Châu và cộng sự (1999) trong cuốn sách “An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa” [20] đã đề cập đến nội dung của ANLT dưới góc độ là bộ phận quan trọng của an ninh kinh tế, đề ra tác động 2 mặt của toàn cầu hóa và tính phức tạp của an ninh thế giới đối với ANLT của Trung Quốc. Như vậy, đảm bảo ANLT là góp phần đảm bảo an ninh kinh tế và chịu sự ảnh hưởng lớn của toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Báo cáo phát triển con người (2005) của Liên hợp quốc (UNDP) với chủ đề: “Hợp tác quốc tế trong thời điểm quyết định: viện trợ, thương mại và an ninh trong một thế giới không bình đẳng” đã chỉ ra những cản trở, bất bình đẳng của thương mại trong nông nghiệp hiện nay đối với các nước đang phát triển, từ đó tác động đối với sản xuất lương thực và đảm bảo thực hiện mục tiêu ANLT trên thế giới. Food security: Challengen of feeding 9 billion people (2010) [114] của H. Charles, J. Godfray và cộng sự cho rằng những thách thức cho đảm bảo ANLT toàn cầu trong 40 năm tới là sức ép của tăng dân số, BĐKH, khan hiếm nguồn nước,… khả năng mở rộng nguồn cung lương thực hạn hẹp và nhu cầu lương thực tăng. Nghiên cứu cũng cho rằng cần liên kết giữa các quốc gia để giải quyết nguồn cung
- cho vấn đề ANLT. Water and food security in Vietnam: Challengenges for rice production (2013), [115] Chu Thái Hoành đánh giá hiện trạng cung cấp lương thực và nhu cầu lương thực cho ANLT Việt Nam. Đặc biệt, ở khía cạnh ANLT hộ gia đình thì lượng Kcal đóng góp vào cơ cấu khẩu phần ăn cũng thay đổi theo chiều hướng tích cực (giảm Kcal từ lương thực). Tuy nhiên, để đảm bảo ANLT Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng còn rất nhiều thách thức như đối với chính sách, thu nhập người trồng lúa thấp,…Đặc biệt, là nhu cầu nguồn nước cho sản xuất lương thực dưới tác động BĐKH. Rice production or rice farmer’s liverhoods for national food security under salinity intrucsion in the Mekong Delta (2013) [112], Đặng Kiều Nhân và cộng sự trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn và đưa ra 3 kịch bản tác động của xâm nhập mặn: với mức xâm nhập mặn 30 cm có đến 50.000 ha đất và 120.000 tấn lương thực bị mất, nếu xâm nhập mặn kết hợp xây dựng các đập thủy điện và kết hợp khô hạn thì hơn 500.000 ha bị ảnh hưởng và 1.000.000 tấn lương thực bị mất, chỉ xâm nhập mặn ở các cửa sông lớn (Cái Lớn, Cái Bè, Cổ Chiên và Hàm Luông) thì mức độ ảnh hưởng sẽ ít hơn nhiều. 2.2 Nghiên cứu về các giải pháp đảm bảo ANLT trên thế giới và Việt Nam 2.2.1 Trên thế giới Tìm giải pháp đảm bảo ANLT luôn là vấn đề đáng quan tâm của thế giới. Vì vậy, cùng với nhiều công trình nghiên cứu, còn có những chương trình hành động nhằm thực thi các chính sách chống đói nghèo, đảm bảo ANLT trên quy mô toàn cầu, nhất là ở các nước đang phát triển. Chiến dịch Chống đói (1960) của Liên hiệp quốc và Tổ chức Nông Lương với mục đích của chiến dịch là để kết thúc đói bằng cách cho phép người dân tự phát triển sản xuất lương thực đủ để nuôi sống bản thân, chứ không phải thông qua sự phụ thuộc vào viện trợ lương thực. Vào thời điểm đó, quan điểm phổ biến cho rằng, nhân tố chính tác động đến ANLT là khả năng sản xuất, nếu Chính phủ các
- nước có thể sản xuất đủ lương thực để cung cấp nhu cầu trong nước của họ thì nạn đói sẽ biến mất. Như vậy, thời gian này, quan niệm ANLT chỉ chú trọng đến tính ổn định trong sản xuất và khẳng định là giải pháp quyết định trong đảm bảo ANLT. Chương trình lương thực theo tiêu chuẩn WHO (1962) cùng với sự ra đời của Ủy ban Codex Quốc tế đã đề cập đến các vấn đề bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, đảm bảo công bằng trong thương mại, các tiêu chuẩn lương thực an toàn, thúc đẩy sự phối hợp của các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ là một trong những giải pháp cho nỗ lực đảm bảo ANLT. Cam kết quốc tế về ANLT của Liên hiệp Quốc (1974) được thông qua trong Hội nghị về ANLT tại Rome: Do trong những năm 1970, ANLT thế giới thật sự gặp khó khăn do tác động của BĐGLT tăng cao gây nên tình trạng khủng hoảng lương thực toàn cầu và dân số ngày càng tăng nhanh. Vì vậy, vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách chính là “ANLT và bùng nổ dân số” [2]. Trong giai đoạn này, ngoài nhân tố sản xuất ra, thì dân số tăng nhanh và BĐGLT cũng tác động mạnh đến ANLT. Giải pháp quan trọng nhất là hướng đến những cải tiến trong sản xuất nông nghiệp và “Cuộc cách mạng xanh” đã tăng sản lượng lương thực góp phần ổn định ANLT trong sản xuất. Tuy nhiên, quan niệm về ANLT lúc này chủ yếu là tập trung vào các vấn đề cung lương thực đảm bảo nguồn cung cấp và ở một mức độ nào đó là ổn định giá cả lương thực chủ yếu ở cấp độ quốc gia và quốc tế. Cho đến cuối những năm 1980, hầu hết các nhà nghiên cứu đã cho rằng, khẩu phần ăn với 2100 kcal một ngày là tiêu chuẩn đánh giá ANLT [2]. Điều này tuy mang tính chủ quan nhưng đã bắt đầu có thay đổi về nhận thức rằng, mỗi cá nhân có nhu cầu khác nhau về số lượng, chất lượng lương thực, chứ không phải là 2100 Kcal tiêu chuẩn. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn được chấp nhận khi đánh giá tiếp cận ANLT cấp quốc gia và vùng. Vì thế, trong thời kỳ này, các tổ chức quốc tế liên quan đến các vấn đề về lương thực và y tế như: Tổ chức Nông lương Thế giới
- (FAO), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Thế giới (IFPRI) và nhiều tổ chức khác đều nỗ lực kêu gọi phát triển nguồn lương thực, thực phẩm cân bằng và đời sống khỏe mạnh. Người ta cũng quan tâm nhiều hơn đến sở thích đối với lương thực, thực phẩm theo truyền thống văn hoá hoặc xã hội. Mức độ phức tạp và cụ thể theo từng hoàn cảnh của ANLT cho thấy rằng, quan niệm này chính là động lực thúc đẩy các hành động trung gian nhằm tạo ra những giải pháp hữu hiệu cho đảm bảo ANLT dựa trên những tiêu chuẩn chung của thế giới về đời sống cân bằng, năng động và khoẻ mạnh. Báo cáo phát triển thế giới (2008) của Ngân hàng thế giới với tiêu đề: “Tăng cường nông nghiệp cho phát triển” đã chỉ ra vai trò của nông nghiệp với đảm bảo ANLT, các giải pháp phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần đảm bảo ANLT ở cả cấp độ toàn cầu, quốc gia và hộ gia đình. 2.2.2 Ở Việt Nam Nguyễn Sinh Cúc (2008) An ninh lương thực Việt Nam – những cảnh báo và giải pháp, Nghiên cứu đã khái quát trong bối cảnh BĐGLT diễn biến phức tạp đã gây nên những khó khăn và thách thức lớn cho đảm bảo ANLT từ sản xuất đến tiêu dùng trong nước và xuất khẩu,… Do vậy, giải pháp hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng thâm canh, phát triển thị trường lương thực trong nước và nâng cao giá trị lương thực hàng hóa xuất khẩu,..góp phần tăng cường thu nhập cho hộ trồng lúa là giải pháp thiết thực để ANLT được đảm bảo. Chương trình hành động của APEC được thông qua trong tuần lễ ANLT và đối thoại chính sách cao cấp về ANLT và nông nghiệp bền vững và BĐKH tại Cần Thơ từ 18 đến 25/8/2017 đã thảo luận 3 chương trình hành động: (1) Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình khung nhiều năm của APEC về ANLT và BĐKH (gọi tắt là MYAP) 2018 – 2020; (2) Kế hoạch hành động thực hiện khung chiến lược APEC về phát triển nông thôn đô thị bền vững để tăng cường ANLT và tăng trưởng chất lượng (gọi tắt là AP); (3) Tuyên bố Cần Thơ về tăng cường ANLT và
- nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH. APEC đã nêu lên các hướng cho giải quyết ANLT của nhân loại là phải tăng cường liên kết và trao đổi thông tin trong nghiên cứu về ANLT giữa các lĩnh vực, các địa phương, quốc gia, phát triển nông nghiệp sinh thái, công nghệ cao và thích ứng với BĐKH, phát triển nông thôn – đô thị đi đôi với xóa đói giảm nghèo [6]. 2.3 Nghiên cứu tổng hợp về đảm bảo ANLT, các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp đảm bảo ANLT ở vùng ĐBSCL. Ở khía cạnh nghiên cứu tổng hợp các nhân tố và giải pháp đảm bảo ANLT có nhiều tác giả đã đưa ra có rất nhiều nghiên cứu có giá trị góp phần làm sáng tỏ các nhân tố ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT, đặc biệt, các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận lương thực. 2.3.1 Trên thế giới Đầu tiên, đề cập đến lý thuyết của Foster (1999) về ANLT. Trong công trình nghiên cứu The World Food Problem: Toward Ending Undernutrition in the Third World: Foster quan tâm đến ANLT và cho rằng các nhân tố giới hạn khả năng tiêu dùng lương thực qua công thức sau [112]: Sơ đồ 0.1. Các yếu tố giới hạn khả năng tiếp cận lương thực của hộ gia đình[112], [2] Nếu xét trên cấp độ ANLT cấp hộ gia đình khi vế trái lớn hơn vế phải thì hộ đạt được ANLT. Foster đã khẳng định mức độ ảnh hưởng trực tiếp của các nhân tố (thu nhập, giá cả) đến tình hình ANLT và ảnh hưởng gián tiếp thông qua các yếu tố như giáo dục, vốn, đất đai, việc làm, sức khỏe,… Để thấy rõ hơn ảnh hưởng của những yếu tố trên đến ANLT, chúng ta sẽ tìm hiểu các ảnh hưởng trên thông qua những nghiên cứu về khía cạnh tiếp cận lương thực của Diskin qua công trình “Understanding Linkages among Food Availability, Access, Consumption and Nutrition in Africa: Empirical Findings and Issues From the Literature.” (1995), Diskin đã đưa ra các mô hình thể hiện mối liên hệ giữa tiêu dùng
- lương thực của người dân với một số các yếu tố ảnh hưởng như thu nhập, quy mô đất đai, giáo dục, tài sản khác,...[108]. Các yếu tố này có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả năng tiếp cận và tiêu dùng lương thực của dân cư qua các kênh khác nhau. Theo Diskin, hai yếu tố chính quyết định trực tiếp đến khả năng tiêu dùng lương thực là giá lương thực và thu nhập [108]. Hơn nữa, theo lý thuyết hành vi người tiêu dùng lương thực với số lượng lớn hơn, đa dạng hơn khi giá lương thực giảm. Ngược lại, khi giá lương thực tăng, với một mức thu nhập không đổi, khả năng mua của người tiêu dùng giảm, người tiêu dùng có khuynh hướng giảm lượng tiêu thụ. Trong khi về mặt lý thuyết thì phản ứng của người tiêu dùng đối với sự thay đổi của giá cả hàng tiêu dùng về nguyên tắc chung là đúng như trên đã nói. Đặc biệt cần lưu ý một khía cạnh thực tế, lương thực là một mặt hàng đặc biệt, có vai trò thiết yếu đối với đời sống. Do đó, độ co giãn theo giá của cầu đối với lương thực theo giá là rất thấp. Điều này có ý nghĩa là việc tăng giá lương thực không phải là luôn luôn làm giảm lượng tiêu dùng lương thực theo một tỉ lệ như có thể quan sát thấy đối với các hàng hóa khác. Ngược lại, thông thường, để bảo đảm mức tiêu dùng lương thực, người tiêu dùng có thể cắt giảm các hàng hóa khác làm tăng tỉ trọng chi tiêu cho lương thực. Tuy nhiên, ngoài các nhân tố về thu nhập và giá cả, trong dài hạn, theo Diskin thì ở tất cả các cấp độ của ANLT thì các nhân tố thuộc nguồn lực như đất đai, lao động, giáo dục, kinh nghiệm, vốn,... là nhân tố chính tác động đến khả năng tiếp cận lương thực của gia đình. Nguồn lực càng lớn (đất đai, lao động, vốn,...) sẽ tham gia tăng khả năng tiếp cận lương thực, từ đó dẫn đến, tiêu dùng lương thực càng tăng. “Household Food Security: A Conceptual Review” (1995) [120], Maxwell và Frankenberger cũng cho rằng, tài sản của hộ gia đình là nhân tố quyết định đến khả năng tiêu dùng và số lượng lương thực tiêu dùng của hộ. Trong đó, Maxwell và
- Farankenberger đã chia tài sản của hộ ra nhiều loại như: tài sản dùng trong sản xuất (đất đai, máy móc, công cụ lao động, súc vật,...), tài sản dự trữ (vàng, bạc, nhà cửa, tiền mặt,…), nguồn nhân lực (sức lao động, giáo dục, sức khỏe,…), và những mối quan hệ xã hội. Hơn nữa, thường những hộ gia đình ở vào tình trạng thiếu lương thực là những hộ có ít tài sản. Guide to Measuring household food security (2000) của Gary Bickel và cộng sự [111] đã khẳng định rằng nhân tố gây nên mất ANLT ở những vùng có nhiều tiềm năng cho sản xuất lương thực là do chính sách của nhà nước không hiệu quả. Nghiên cứu cũng cho rằng đánh giá ANLT, đặc biệt ở cấp độ của hộ gia đình là thật sự khó khăn. Vì vậy, đã xây dựng 18 câu hỏi và thang đo 10 cấp độ về ANLT hộ gia đình là Food secure và Food insecure (Food insecure without hunger và Food insecure with hunger). Trong “Food insecure with hunger” lại chia làm 2 bậc là less severe (maderate) và moresevere (severe) để xác định mức độ mất ANLT hộ gia đình ở Mỹ vào thời điểm xác định. Measuring Food insecurity (2010), Cristopher B. Barett trên quan điểm nhà kinh tế học của Mỹ [118] đã đánh giá bối cảnh ANLT thế giới là khá khó khăn, có gần một tỷ người trên thế giới mất ANLT và gấp đôi con số đó là khẩu phần ăn thiếu dưỡng chất. Ông cũng khẳng định rằng, đa số các nghiên cứu đều chỉ nhằm giải pháp cải thiện tình hình chứ khái niệm đo lường chính xác vấn đề ANLT thật sự khó khăn. Nhà kinh tế học người Ấn Độ Amatya Sen trong hầu hết nghiên cứu của mình gồm “Poverty and Famines” (1981) [99], “Utilitarism and Beyond, “Choice, Welfare and Measurement” (1982), “Resources, Values and Development” (1984), “Commodities and Capabilities” (1985): Đối với Amartya Sen, chính những nhân tố kinh tế xã hội là quyết định đối với ANLT. Tình trạng mất ANLT không phải do khan hiếm lương thực, mà là do bất bình đẳng trong sự tiếp cận lương thực, mà điều này lại phát sinh từ sự bất bình đẳng trong sự phân phối thu nhập. Nghiên cứu cho rằng, mất ANLT là do thiếu những chính sách nhà nước về ANLT. Đồng thời cũng khẳng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Địa lý: Nghiên cứu quá trình đô thị hóa và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ
203 p | 424 | 66
-
Luận án Tiến sĩ Địa lí: Di cư và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng Đông Nam Bộ
177 p | 219 | 41
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Địa chất: Nghiên cứu đặc tính địa chất công trình của đất loại sét yếu amQ2 2-3 phân bố ở các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long phục vụ xử lý nền đường
27 p | 147 | 25
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Địa chất: Địa tầng và lịch sử phát triển các thành tạo Kainozoi đới đứt gãy Sông Ba và phụ cận
27 p | 139 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Địa lý học: Nghiên cứu một số hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế ở tỉnh Đồng Nai
195 p | 157 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Địa lý học: Phát triển du lịch biển - đảo tỉnh Phú Yên
192 p | 99 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Địa lý: Nghiên cứu cơ sở khoa học và đề xuất giải pháp tiêu úng, thoát lũ sông Phan - Cà Lồ
0 p | 139 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thể chế địa phương tại Việt Nam
151 p | 51 | 16
-
Dự thảo tóm tắt luận án Tiến sĩ Địa lý: Đánh giá điều kiện địa lý và tài nguyên phục vụ tổ chức lãnh thổ du lịch tỉnh Vĩnh Phúc
26 p | 140 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Địa lý: Phát triển du lịch đường sông ở thành phố Đà Nẵng
168 p | 30 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý Quỹ Đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp tỉnh Hà Tĩnh
213 p | 14 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý dạy học theo tiếp cận năng lực ở các trường trung học phổ thông chuyên trên địa bàn thành phố Hà Nội
216 p | 12 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Địa lý: Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tỉnh Phú Thọ theo hướng nâng cao hiệu quả
208 p | 27 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Địa lý tài nguyên và môi trường: Đánh giá tài nguyên đất phục vụ sản xuất nông nghiệp bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu tỉnh Thái Bình và Nam Định
177 p | 18 | 5
-
Luận án Tiến sĩ Địa lý tài nguyên và Môi trường: Nghiên cứu tích hợp hệ cảm biến và hệ thống thông tin địa lý phục vụ quản lý tài nguyên và môi trường
158 p | 14 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Địa lý: Cơ sở địa lý học phục vụ phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng vùng Đông Bắc Việt Nam
32 p | 98 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Vật lý địa cầu: Bong bóng plasma và đặc trưng dị thường ion hóa xích đạo khu vực Việt Nam và lân cận
27 p | 12 | 1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Địa lý tài nguyên và Môi trường: Nghiên cứu tích hợp hệ cảm biến và hệ thống thông tin địa lý phục vụ quản lý tài nguyên và môi trường
26 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn