intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Địa lý: Các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp đảm bảo An ninh lương thực vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Chia sẻ: Trần Văn Ha | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:311

71
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lịch sử nghiên cứu đề tài là Vấn đề đảm bảo An ninh lương thực đã được quan tâm từ rất xa xưa trong lịch sử của nhân loại, ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuy nhiên, các nghiên cứu có tính hệ thống và khoa học thì muộn hơn nhiều. Năm 1992, FAO mới đưa ra được định nghĩa đầy đủ về ANLT. Qua thời gian, quan niệm về An ninh lương thực có những biến đổi khác nhau và đã có nhiều nghiên cứu về An ninh lương thực.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Địa lý: Các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp đảm bảo An ninh lương thực vùng Đồng bằng sông Cửu Long

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ BÉ BA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ GIẢI  PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC  VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ HỌC 1
  2. TP Hồ Chí Minh – Năm 2019 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ BÉ BA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ GIẢI  PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC  Chuyên ngành : Địa lí học  Mã số : 62 31 05 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1.PGS.TS   NGUYỄN   KIM  HỒNG        2
  3. 2.PGS.TS  ĐÀO NGỌC CẢNH Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2019 3
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số  liệu và kết   quả trình bày trong Luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công  trình luận án nào trước đây.
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nội dung đầy đủ 1 ANLT An ninh lương thực 2 CGH Cơ giới hóa 3 CĐL Cánh đồng lớn 4 ĐBSH Đồng bằng sông Hồng 5 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 6 ĐNB Đông Nam Bộ 7 TN Tây Nguyên 8 TDMNPB Trung du miền núi phía Bắc 9 DHNTB  Duyên hải Nam Trung Bộ 10 BTB Bắc Trung Bộ 11 BĐKH Biến đổi khí hậu 12 FAO Tổ   chức   Lương   thực   và   Nông   nghiệp   Liên   Hiệp  Quốc (Food   and   Agriculture   Organization   of   the   United   Nations) 13 WB World Bank (Ngân Hàng Thế Giới)
  7. 14 BĐGLT Biến động giá lương thực 15 VFA Hiệp hội lương thực Việt Nam 16 WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) 17 TPP Hiệp định  đối tác  xuyên Thái Bình Dương (Trans­ Pacific Partnership Agreement
  8. DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
  9. DANH MỤC BẢN ĐỒ   Số TÊN BẢN  ĐỒ 1 Bản đồ hành chính vùng ĐBSCL 2 Bản đồ các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT vùng ĐBSCL 3 Bản đồ các nhân tố kinh tế ­ xã hội ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT vùng   ĐBSCL 4 Bản đồ tổ chức lãnh thổ các cây lương thực ở vùng ĐBSCL 5 Bản đồ tình hình mất ANLT theo địa phương ở ĐBSCL năm 2018 6 Bản đồ hiện trạng sử dụng đất vùng ĐBSCL năm 2018
  10. MỞ ĐẦU Bảng 1. 1. Tính cấp thiết của đề tài Lương thực được coi là nhu cầu cơ  bản không thể  thiếu được  đối với đời  sống xã hội con người.  Ở Việt Nam, đảm bảo ANLT là một trong những vấn đề được đặc biệt quan   tâm trong điều kiện dân số tăng, diện tích đất nông nghiệp  giảm, cùng với tác động  của BĐKH dẫn đến thu nhập của nông dân đang sụt giảm dần, xu hướng“ly nông”  ngày càng tăng nhất là những vùng sản xuất còn gặp nhiều khó khăn.  ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả  nước, nguồn cung lương thực không những  đảm bảo cho nội vùng mà còn cung cấp lương thực đảm bảo ANLT quốc gia và  xuất khẩu thu ngoại tệ. Cụ thể, sản xuất lương thực của vùng chiếm 48,4% diện  tích và 49,6% sản lượng cây lương thực có hạt của cả nước, bình quân lương thực   có hạt theo đầu người là 1.360 kg, gấp 2,6 lần mức trung bình cả  nước; Riêng cây   lúa, vùng ĐBSCL chiếm 54,8% diện tích và 55,2% sản lượng lúa cả  nước, bình  quân sản lượng lương thực có hạt theo đầu người là 1.383,4 (2018) [67]. Mức tiêu   dùng gạo và lương thực khác quy gạo chung của cả  nước từ 12,7 Kg/người/tháng  (2005) xuống 10,8 Kg/ người/ tháng (2010) và 9,9 Kg (2016).  Theo Niên giám thống kê Việt Nam năm 2018, trong giai đoạn 2005 – 2018,  mức tiêu dùng lương thực (đã quy đổi ra gạo) khoảng 133 kg/người/năm thì ĐBSCL  không chỉ  đảm bảo ANLT cho 17,66 triệu dân vùng, đảm bảo lương thực cho gần  92,7 triệu dân cả  nước mà vẫn dư  thừa khoảng 1/2 sản lượng   lương thực. Song  không phải mỗi người dân trong vùng ĐBSCL cũng như  cả  nước được cung cấp,   được tiếp cận lương thực như nhau.  Thực tiễn, vấn đề đảm bảo ANLT ở ĐBSCL  hiện vẫn còn nhiều bất cập. Hiện tại, có một nghịch lý là người nông dân ở vựa lúa  quốc gia, nơi cung cấp lương thực, đặc biệt là sản xuất lúa gạo đã giúp Việt Nam  là nước đứng đầu trên thế giới về xuất khẩu gạo nhưng đổi lại họ là người có mức   thu nhập thấp nhất và không tiếp cận đầy đủ  lương thực. Mặt khác, hàng năm,  lượng lương thực sản xuất dư ra rất nhiều nhưng số lượng lớn là lương thực chất  
  11. lượng chưa cao và bán với giá rẻ, điều này đẩy nông dân sản xuất lương thực trở  thành người nghèo nhất. Vựa lúa ĐBSCL là vùng có thu nhập bình quân đầu người  thấp hơn mức trung bình cả  nước, nông dân trồng l ương thực  ở  ĐBSCL có thu  nhập thấp hơn so với lao động trong những lĩnh vực khác. Vấn đề ANLT ở ĐBSCL  cần được xem xét một cách toàn diện là đảm bảo ANLT vùng ĐBSCL phải gắn với  ANLT quốc gia và đảm bảo thu nhập cho nông dân, xác định các nhân tố ảnh hưởng  đến đảm bảo ANLT  ở vựa lúa trên cơ sở khai thác hiệu quả nguồn lực kinh tế và   khắc phục những nhân tố gây nên sự bất ổn định trong sản xuất, phân phối và tiếp   cận lương thực  ở  ĐBSCL. Từ  đó, tìm giải pháp đảm bảo ANLT  ở  ĐBSCL. Đặc  biệt, quan tâm đến tìm giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ trồng cây lương thực và   hộ nghèo trong vùng.  Xuất phát từ  các lí do trên, tôi chọn đề  tài nghiên cứu: “ Các nhân tố   ảnh   hưởng và giải pháp đảm bảo An ninh lương thực vùng Đồng bằng sông Cửu Long”. Bảng 2. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Vấn đề đảm bảo ANLT đa đu ̃ ̛ơc quan tâm t ̣ ừ rât xa x ́ ưa trong lich s ̣ ử cua nhan ̉ ̂  ̣ ở ca phuong Đong lân phuong Tay. Tuy nhiên, các nghiên c loai,  ̉ ̛ ̛ ̂ ̃ ̛ ̛ ̂ ứu có tính hệ thống   và khoa học thì muộn hơn nhiều. Năm 1992, FAO mới đưa ra được định nghĩa đầy   đủ về ANLT. Qua thời gian, quan niệm về ANLT có những biến đổi khác nhau và  đã có nhiều nghiên cứu về ANLT. 2.1. Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT trong sản  xuất (cung lương thực) trên thế giới và Việt Nam.  Vấn đề  cung cầu lương thực luôn là trọng tâm của nhân loại, ngày nay dưới  áp lực suy giảm nguồn tài nguyên cho sản xuất nông nghiệp, BĐKH,.v.v nên đã có  rất nhiều công trình nghiên cứu về  các nhân tố   ảnh hưởng đến sản xuất và đảm   bảo ANLT trên thế giới và ở Việt Nam. 2.1.1 Ở Việt Nam Vấn đề  nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là vấn đề  quan trọng trong   chính sách phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế  của Việt Nam nói chung.  
  12. ĐBSCL là một trong 7 vùng kinh tế, vùng trọng điểm cung  ứng lương thực không   những giữ vai trò chủ đạo đảm bảo ANLT cho nội vùng mà còn cho các vùng khác  trong cả  nước và xuất khẩu lương thực. Vì vậy, có rất nhiều nghiên cứu về  các  nhân tố   ảnh hưởng đến sản xuất lương thực đảm bảo nguồn cung cho đảm bảo   ANLT nội vùng và quốc gia. Đặng Kiều Nhân (2009) trong công trình Năng suất và lợi tức sản xuất lúa cao   sản ở ĐBSCL giai đoạn 1995­2006 đã nhận ra được những yếu tố chính ảnh hưởng  đến năng suất và lợi tức sản xuất lúa  ở  ĐBSCL. Cụ  thể, từ  kết quả  phân tích số  liệu thống kê năng suất và lợi tức trong thời gian 10 năm của nông hộ, cho rằng   diện tích lúa tăng ở những khu vực có điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất lương   thực theo hướng thâm canh và hạn chế độc canh cây lúa là điều kiện cần thiết để  đảm bảo nguồn cung lương thực bền vững và tăng thu nhập cho người trồng lương  thực. Phạm Lê Thông (2011) qua nghiên cứu  Hiệu quả  kỹ  thuật và kinh tế  của vụ   lúa Đông Xuân  ở  ĐBSCL  đã khẳng định vấn đề  lựa chọn vật tư  đầu vào và lao  động nông thôn thường xuyên được tập huấn khuyến nông, kỹ thuật sản xuất mới,   sử  dụng máy móc hiện đại,...có tác động lớn đến tăng năng suất lúa gạo  ở  vùng   ĐBSCL. Nguyễn Hữu Đặng (2012), Hiệu quả  kỹ  thuật và các yếu tố   ảnh hưởng đến   hiệu quả  kỹ  thuật của hộ  trồng lúa  ở  ĐBSCL, Việt Nam giai đoạn 2008­ 2011.   Nghiên cứu đánh giá hiện trạng sản xuất lúa ở  ĐBSCL nhìn chung hiệu quả  mang  lại chưa cao và có xu hướng giảm là do sự không đồng bộ trong ứng dụng khoa học  kỹ thuật vào sản xuất và lựa chọn nguồn vật tư đầu vào tối ưu kém.  Nguyễn Tiến Dũng, Lê Khương Ninh (2015) Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu   quả sản xuất lúa của nông hộ ở Thành phố  Cần Thơ. Trên cơ sở phân tích dữ liệu  sơ cấp từ điều tra nông hộ sản xuất lúa gạo tại Cần Thơ cho thấy sản xuất lúa gạo  chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như quy mô diện tích, phương thức mua   vật tư, phương thức bán, tập quán sản xuất, số lượng, chất lượng và kinh nghiệm  
  13. của nguồn lao động,… Lê Thị  Lương, Võ Thành Danh (2018),  Phân tích các yếu tố   ảnh hưởng đến   tăng trưởng nông nghiệp  ở  Thành phố  Cần Thơ, đã phân tích các  nhân tố   ảnh  hưởng đến nguồn gốc tăng trưởng nông nghiệp chủ  yếu phụ  thuộc vào việc tăng   cường vốn vật chất đầu tư vào nông nghiệp, mở rộng quy mô đất canh tác do thủy  lợi và cộng nghệ. Vũ Thị  Kim Cúc (2011),  Vai trò của các nhân tố  kinh tế  ­ xã hội đối với sự   chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Hải Phòng, nghiên cứu cho rằng  lực lượng lao động chất lượng cao, thị  trường và chính sách nhà nước, ..sẽ  góp   phần cho sản xuất nông nghiệp chuyển hướng tích cực theo hướng sản xuất lương  thực hàng hóa 2.1.2 Trên thế giới Các học giả Trung Quốc, Vương Dật Châu và cộng sự (1999) trong cuốn sách   “An ninh quốc tế  trong thời đại toàn cầu hóa” [20] đã đề  cập đến nội dung của  ANLT dưới góc độ là bộ phận quan trọng của an ninh kinh tế, đề ra tác động 2 mặt   của toàn cầu hóa và tính phức tạp của an ninh thế  giới đối với ANLT của Trung  Quốc. Như  vậy, đảm bảo ANLT là góp phần đảm bảo an ninh kinh tế  và chịu sự  ảnh hưởng lớn của toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Báo cáo phát triển con người (2005) của Liên hợp quốc (UNDP) với chủ  đề:  “Hợp tác quốc tế trong thời điểm quyết định: viện trợ, thương mại và an ninh trong   một thế giới không bình đẳng” đã chỉ ra những cản trở, bất bình đẳng của thương  mại trong nông nghiệp hiện nay đối với các nước đang phát triển, từ  đó tác động   đối với sản xuất lương thực và đảm bảo thực hiện mục tiêu ANLT trên thế giới.  Food   security:   Challengen   of   feeding   9   billion   people  (2010)   [114]   của   H.  Charles, J. Godfray và cộng sự cho rằng những thách thức cho  đảm bảo ANLT toàn  cầu trong 40 năm tới là sức ép của tăng dân số, BĐKH, khan hiếm nguồn nước,…   khả  năng mở  rộng nguồn cung lương thực hạn hẹp và nhu cầu lương thực tăng.  Nghiên cứu cũng cho rằng cần liên kết giữa các quốc gia để giải quyết nguồn cung 
  14. cho vấn đề ANLT. Water and food security in Vietnam: Challengenges for rice production (2013),  [115] Chu Thái Hoành đánh giá hiện trạng cung cấp lương thực và nhu cầu lương  thực cho ANLT Việt Nam. Đặc biệt, ở khía cạnh ANLT hộ gia đình thì lượng Kcal  đóng góp vào cơ cấu khẩu phần ăn cũng thay đổi theo chiều hướng tích cực (giảm   Kcal từ lương thực). Tuy nhiên, để đảm bảo ANLT Việt Nam nói chung và ĐBSCL   nói riêng còn rất nhiều thách thức như đối với chính sách, thu nhập người trồng lúa  thấp,…Đặc biệt, là nhu cầu nguồn nước cho sản xuất lương thực dưới tác động   BĐKH. Rice   production   or   rice   farmer’s   liverhoods   for   national   food   security   under  salinity intrucsion in the Mekong Delta (2013) [112], Đặng Kiều Nhân và cộng sự  trên cơ  sở  nghiên cứu lí luận và thực tiễn và đưa ra 3 kịch bản tác động của xâm   nhập mặn: với mức xâm nhập mặn 30 cm có đến 50.000 ha đất và 120.000 tấn  lương thực bị mất, nếu xâm nhập mặn kết hợp xây dựng các đập thủy điện và kết  hợp khô hạn thì hơn 500.000 ha bị  ảnh hưởng và 1.000.000 tấn lương thực bị mất,  chỉ xâm nhập mặn ở các cửa sông lớn (Cái Lớn, Cái Bè, Cổ  Chiên và Hàm Luông)  thì mức độ ảnh hưởng sẽ ít hơn nhiều. 2.2 Nghiên cứu về các giải pháp đảm bảo ANLT trên thế giới và Việt Nam 2.2.1 Trên thế giới Tìm giải pháp đảm bảo ANLT luôn là vấn đề đáng quan tâm của thế giới. Vì  vậy, cùng với nhiều công trình nghiên cứu, còn có những chương trình hành động  nhằm thực thi các chính sách  chống đói nghèo, đảm bảo ANLT trên quy mô toàn  cầu, nhất là ở các nước đang phát triển.  Chiến dịch Chống đói (1960) của Liên hiệp quốc và Tổ chức Nông Lương với   mục đích của chiến dịch là để  kết thúc đói bằng cách cho phép người dân tự  phát  triển sản xuất lương thực đủ  để nuôi sống bản thân, chứ không phải thông qua sự  phụ  thuộc vào viện trợ  lương thực. Vào thời điểm đó, quan điểm phổ  biến cho   rằng, nhân tố  chính tác động đến ANLT là khả  năng sản xuất, nếu Chính phủ  các 
  15. nước có thể  sản xuất đủ  lương thực để  cung cấp nhu cầu trong nước của họ  thì   nạn đói sẽ biến mất. Như vậy, thời gian này, quan niệm ANLT chỉ chú trọng đến   tính  ổn định trong sản xuất và khẳng định là giải pháp quyết định trong đảm bảo  ANLT. Chương trình lương thực theo tiêu chuẩn WHO (1962) cùng với sự ra đời của  Ủy ban Codex Quốc tế đã đề cập đến các vấn đề bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng,   đảm bảo công bằng trong thương mại, các tiêu chuẩn lương thực  an toàn, thúc đẩy  sự  phối hợp của các tổ  chức liên chính phủ  và phi chính phủ  là một trong những  giải pháp cho nỗ lực đảm bảo ANLT. Cam kết quốc tế về ANLT của Liên hiệp Quốc (1974) được thông qua trong   Hội nghị  về  ANLT tại Rome: Do trong những năm 1970, ANLT thế  giới thật sự  gặp khó khăn do tác động của BĐGLT  tăng cao gây nên tình trạng khủng hoảng  lương thực toàn cầu và dân số ngày càng tăng nhanh. Vì vậy, vấn đề quan tâm hàng   đầu của các nhà hoạch định chính sách chính là  “ANLT và bùng nổ  dân số”  [2].  Trong giai đoạn này, ngoài nhân tố  sản xuất ra, thì dân số  tăng nhanh và  BĐGLT  cũng tác động mạnh đến ANLT. Giải pháp quan trọng nhất là hướng đến những cải  tiến trong sản xuất nông nghiệp và  “Cuộc cách mạng xanh”  đã tăng sản lượng  lương  thực  góp phần  ổn  định ANLT  trong sản  xuất.  Tuy nhiên,  quan  niệm  về  ANLT lúc này chủ  yếu là tập trung vào các vấn đề  cung lương thực ­ đảm bảo  nguồn cung cấp và  ở  một mức độ  nào đó là ổn định giá cả  lương thực chủ  yếu  ở  cấp độ quốc gia và quốc tế. Cho đến cuối những năm 1980, hầu hết các nhà nghiên cứu đã cho rằng, khẩu  phần ăn với 2100 kcal một ngày là tiêu chuẩn đánh giá ANLT [2]. Điều này tuy  mang tính chủ quan nhưng đã bắt đầu có thay đổi về  nhận thức rằng, mỗi cá nhân  có nhu cầu khác nhau về số lượng, chất lượng  lương thực, chứ không phải là 2100  Kcal tiêu chuẩn. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn được chấp nhận khi đánh giá tiếp  cận ANLT cấp quốc gia và vùng. Vì thế, trong thời kỳ này, các tổ chức quốc tế liên  quan đến các vấn đề  về  lương thực và y tế  như: Tổ  chức Nông lương Thế  giới 
  16. (FAO), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP),  Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Thế  giới (IFPRI) và nhiều tổ  chức khác   đều nỗ  lực kêu gọi phát triển nguồn lương thực, thực phẩm cân bằng và đời sống  khỏe mạnh. Người ta cũng quan tâm nhiều hơn đến sở  thích đối với lương thực,  thực phẩm theo truyền thống văn hoá hoặc xã hội. Mức độ phức tạp và cụ thể theo  từng hoàn cảnh của ANLT cho thấy rằng, quan niệm này  chính là động lực thúc  đẩy các hành động trung gian nhằm tạo ra những giải pháp hữu hiệu cho đảm bảo   ANLT dựa trên những tiêu chuẩn chung của thế  giới về   đời sống cân bằng, năng  động và khoẻ mạnh. Báo cáo phát triển thế giới (2008) của Ngân hàng thế  giới với tiêu đề: “Tăng  cường nông nghiệp cho phát triển” đã chỉ ra vai trò của nông nghiệp với đảm bảo  ANLT, các giải pháp phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần  đảm bảo ANLT ở cả cấp độ toàn cầu, quốc gia và hộ gia đình. 2.2.2 Ở Việt Nam Nguyễn Sinh Cúc (2008) An ninh lương thực Việt Nam – những cảnh báo và   giải pháp,  Nghiên cứu đã khái quát trong bối cảnh BĐGLT diễn biến phức tạp đã   gây nên những khó khăn và thách thức lớn cho đảm bảo ANLT từ sản xuất đến tiêu  dùng trong nước và xuất khẩu,… Do vậy, giải pháp hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất  lương thực theo hướng thâm canh, phát triển thị  trường lương thực trong nước và  nâng cao giá trị lương thực hàng hóa xuất khẩu,..góp phần tăng cường thu nhập cho   hộ trồng lúa là giải pháp thiết thực để ANLT được đảm bảo. Chương trình hành động của APEC được thông qua trong tuần lễ  ANLT và  đối thoại chính sách cao cấp về ANLT và nông nghiệp bền vững và BĐKH tại Cần   Thơ từ 18 đến 25/8/2017 đã thảo luận 3 chương trình hành động: (1) Kế hoạch hành  động thực hiện Chương trình khung nhiều năm của APEC về ANLT và BĐKH (gọi   tắt là MYAP) 2018 – 2020; (2) Kế  hoạch hành động thực hiện khung chiến lược   APEC về  phát triển nông thôn ­ đô thị  bền vững để  tăng cường ANLT và tăng  trưởng chất lượng (gọi tắt là AP); (3) Tuyên bố Cần Thơ về tăng cường ANLT và  
  17. nông nghiệp bền vững thích  ứng với BĐKH. APEC đã nêu lên các hướng cho giải  quyết ANLT của nhân loại là phải tăng cường liên kết và trao đổi thông tin trong   nghiên cứu về  ANLT giữa các lĩnh vực, các địa phương, quốc gia, phát triển nông   nghiệp sinh thái, công nghệ  cao và thích  ứng với BĐKH, phát triển nông thôn – đô   thị đi đôi với xóa đói giảm nghèo [6]. 2.3 Nghiên cứu tổng hợp về đảm bảo ANLT, các nhân tố   ảnh hưởng và giải   pháp đảm bảo ANLT ở vùng ĐBSCL. Ở khía cạnh nghiên cứu tổng hợp các nhân tố và giải pháp đảm bảo ANLT có  nhiều tác giả đã đưa ra có rất nhiều nghiên cứu có giá trị góp phần làm sáng tỏ  các  nhân tố ảnh hưởng đến đảm bảo ANLT, đặc biệt, các nhân tố ảnh hưởng đến khả  năng tiếp cận lương thực. 2.3.1 Trên thế giới Đầu tiên, đề  cập đến lý thuyết của Foster (1999) về ANLT. Trong công trình   nghiên cứu The World Food Problem: Toward Ending Undernutrition in the Third   World: Foster quan tâm đến ANLT và cho rằng các nhân tố  giới hạn khả năng tiêu  dùng lương thực qua công thức sau [112]: Sơ đồ 0.1. Các yếu tố giới hạn khả năng tiếp cận lương thực của hộ gia đình[112], [2] Nếu xét trên cấp độ ANLT cấp hộ gia đình khi vế trái lớn hơn vế phải thì hộ  đạt được ANLT. Foster đã khẳng định mức độ ảnh hưởng trực tiếp của các nhân tố  (thu nhập, giá cả) đến tình hình ANLT và ảnh hưởng gián tiếp thông qua các yếu tố  như giáo dục, vốn, đất đai, việc làm, sức khỏe,… Để thấy rõ hơn ảnh hưởng của những yếu tố trên đến  ANLT, chúng ta sẽ tìm  hiểu các ảnh hưởng trên thông qua những nghiên cứu về khía cạnh tiếp cận lương  thực của  Diskin qua công trình  “Understanding Linkages among Food Availability,  Access, Consumption and Nutrition in Africa: Empirical Findings and Issues From the  Literature.” (1995), Diskin đã đưa ra các mô hình thể hiện mối liên hệ giữa tiêu dùng  
  18. lương thực của người dân với một số các yếu tố ảnh hưởng như thu nhập, quy mô  đất đai, giáo dục, tài sản  khác,...[108]. Các yếu tố  này có thể  tác động trực tiếp  hoặc gián tiếp đến khả  năng tiếp cận và tiêu dùng lương thực của dân cư  qua các  kênh khác nhau. Theo Diskin, hai yếu tố  chính quyết định trực tiếp đến khả  năng tiêu dùng   lương thực  là giá lương thực và thu nhập [108]. Hơn nữa, theo lý thuyết hành vi  người tiêu dùng lương thực với số lượng lớn hơn, đa dạng hơn  khi giá lương thực  giảm. Ngược lại, khi giá lương thực tăng, với một mức thu nhập không đổi, khả  năng mua của người tiêu dùng giảm, người tiêu dùng có khuynh hướng giảm lượng   tiêu thụ. Trong khi về mặt lý thuyết thì phản ứng của người tiêu dùng đối với sự thay  đổi của giá cả hàng tiêu dùng về nguyên tắc chung là đúng như trên đã nói. Đặc biệt  cần lưu ý một khía cạnh thực tế, lương thực là một mặt hàng đặc biệt, có vai trò  thiết yếu đối với đời sống. Do đó, độ  co giãn theo giá của cầu đối với lương thực  theo giá là rất thấp. Điều này có ý nghĩa là việc tăng giá lương thực không phải là  luôn luôn làm giảm lượng tiêu dùng lương thực theo một tỉ lệ như có thể  quan sát  thấy đối với các hàng hóa khác. Ngược lại, thông thường, để  bảo đảm mức tiêu  dùng lương thực, người tiêu dùng có thể  cắt giảm các hàng hóa khác   làm tăng tỉ  trọng chi tiêu cho lương thực. Tuy nhiên, ngoài các nhân tố về thu nhập và giá cả, trong dài hạn, theo Diskin   thì ở tất cả các cấp độ  của ANLT thì các nhân tố thuộc nguồn lực như đất đai, lao  động, giáo dục, kinh nghiệm, vốn,... là nhân tố  chính tác động đến khả  năng tiếp  cận lương thực của gia đình. Nguồn lực càng lớn (đất đai, lao động, vốn,...) sẽ  tham gia tăng khả  năng tiếp cận lương thực, từ  đó dẫn đến, tiêu dùng lương thực   càng tăng. “Household Food Security: A Conceptual Review”  (1995)  [120],  Maxwell và  Frankenberger cũng cho rằng, tài sản của hộ gia đình là nhân tố quyết định đến khả  năng tiêu dùng  và  số  lượng lương thực tiêu dùng của hộ.  Trong đó, Maxwell và 
  19. Farankenberger đã chia tài sản của hộ ra nhiều loại như: tài sản dùng trong sản xuất   (đất đai, máy móc, công cụ lao động, súc vật,...), tài sản dự trữ (vàng, bạc, nhà cửa,  tiền mặt,…), nguồn nhân lực (sức lao động, giáo dục, sức khỏe,…), và những mối  quan hệ  xã hội. Hơn nữa, thường những hộ  gia đình ở  vào tình trạng thiếu lương   thực là những hộ có ít tài sản. Guide to Measuring household food security (2000) của Gary Bickel và cộng sự  [111] đã khẳng định rằng nhân tố  gây nên mất ANLT ở  những vùng có nhiều tiềm  năng cho sản xuất lương thực là do chính sách của nhà nước không hiệu quả.  Nghiên cứu cũng cho rằng đánh giá ANLT, đặc biệt  ở  cấp độ  của hộ  gia đình là  thật sự khó khăn. Vì vậy, đã xây dựng 18 câu hỏi và thang đo 10 cấp độ  về  ANLT  hộ  gia đình là Food secure và Food insecure (Food insecure without hunger và Food   insecure with hunger). Trong “Food insecure with hunger” lại chia làm 2 bậc là less  severe (maderate) và moresevere (severe) để xác định mức độ mất ANLT hộ gia đình   ở Mỹ vào thời điểm xác định. Measuring Food insecurity (2010), Cristopher B. Barett trên quan điểm nhà kinh  tế  học của Mỹ [118] đã đánh giá bối cảnh ANLT thế giới là khá khó khăn, có gần  một tỷ người trên thế  giới mất ANLT và gấp đôi con số đó là khẩu phần ăn thiếu   dưỡng chất. Ông cũng khẳng định rằng, đa số  các nghiên cứu đều chỉ  nhằm giải  pháp cải thiện tình hình chứ  khái niệm đo lường chính xác vấn đề  ANLT thật sự  khó khăn. Nhà kinh tế học người  Ấn Độ  Amatya Sen trong hầu hết nghiên cứu của mình gồm  “Poverty and Famines”  (1981) [99],  “Utilitarism and Beyond, “Choice, Welfare and   Measurement”   (1982), “Resources, Values and Development”  (1984), “Commodities   and Capabilities” (1985): Đối với Amartya Sen, chính những nhân tố kinh tế ­ xã hội  là quyết định đối với ANLT. Tình trạng mất ANLT không phải do khan hiếm lương  thực, mà là do bất bình đẳng trong sự  tiếp cận lương thực, mà điều này lại phát  sinh từ  sự  bất bình đẳng trong sự  phân phối thu nhập. Nghiên cứu cho rằng, mất   ANLT  là  do thiếu những chính sách nhà nước về  ANLT. Đồng thời cũng khẳng  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2