Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý Quỹ Đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp tỉnh Hà Tĩnh
lượt xem 7
download
Luận án Tiến sĩ "Quản lý Quỹ Đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp tỉnh Hà Tĩnh" trình bày các nội dung chính sau: Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương và phương pháp nghiên cứu của luận án; Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương; Thực trạng quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý Quỹ Đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp tỉnh Hà Tĩnh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGUYỄN NHẬT LINH QUẢN LÝ QUỸ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ĐỊA PHƯƠNG - TRƯỜNG HỢP TỈNH HÀ TĨNH Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 9340410.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn 2. TS. Hoàng Triều Hoa HÀ NỘI - 2024
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận án “Quản lý Quỹ Đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp tỉnh Hà Tĩnh” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào của người khác. Trong quá trình thực hiện luận án, tôi đã thực hiện nghiêm túc các quy định về đạo đức nghiên cứu. Các kết quả trình bày trong luận án là sản phẩm nghiên cứu, khảo sát của riêng cá nhân tôi. Tất cả các nội dung tham khảo sử dụng trong luận án đều được trích dẫn tường minh, theo đúng quy định. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày 05 tháng 01 năm 2024 Tác giả luận án Nguyễn Nhật Linh 2
- LỜI CẢM ƠN Trước tiên, cho phép tôi xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành đến GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn và TS. Hoàng Triều Hoa đã hướng dẫn và giúp đỡ tận tình cho tôi trong suốt thời gian nghiên cứu để hoàn thiện luận án này. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Lãnh đạo Nhà trường, Khoa Kinh tế Chính trị, trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, cùng các thầy, cô trong và ngoài Khoa đã quan tâm, đóng góp ý kiến và hỗ trợ tôi rất nhiều trong thời gian vừa qua. Tôi xin trân trọng cảm ơn các nhà quản lý ở Quỹ ĐTPT Hà Tĩnh, cùng tập thể lãnh đạo, cán bộ, người lao động ở Quỹ đã nhiệt tình tham gia đóng góp ý kiến, cung cấp tài liệu và các thông tin quý báu giúp tôi thực hiện tốt công tác nghiên cứu. Sự giúp đỡ này có ý nghĩa hơn khi nó chính là sự khích lệ về mặt tinh thần và tư duy sáng tạo để tôi vượt qua những khó khăn, gian truân trong quá trình nghiên cứu luận án của mình. Và cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn ở bên cạnh động viên và cổ vũ tôi hoàn thiện luận án này. Hà Nội, ngày 05 tháng 01 năm 2024 Tác giả luận án Nguyễn Nhật Linh
- MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt BKS Ban kiểm soát BTV Ban Thường vụ CEO Chief Executive Officer Giám đốc điều hành CMSC Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp CP Cổ phần
- DNNN Doanh nghiệp Nhà nước DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa ĐTPT Đầu tư phát triển ĐTPTĐP Đầu tư phát triển địa phương DVMTR Dịch vụ môi trường rừng GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm nội địa GRDP Gross Regional Domestic Tổng sản phẩm trên địa bàn Product GTGT Giá trị gia tăng HĐND Hội đồng nhân dân HĐQL Hội đồng quản lý KCHTGTĐB Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ KCHTGTĐT Kết cấu hạ tầng giao thông đô thị KCN Khu công nghiệp LDIF Local Development Quỹ đầu tư phát triển địa phương Investment Fund MN Mầm non
- MTV Một thành viên NHTM Ngân hàng thương mại NSNN Ngân sách Nhà nước ODA Official Development Hỗ trợ phát triển chính thức Assistance SCIC Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước TB Trung bình TNCN Thu nhập cá nhân TNDN Thu nhập doanh nghiệp TNHH Trách nhiệm hữu hạn TP Thành phố UBND Ủy ban nhân dân USD United State Dollar Đồng đô la Mỹ WB World Bank Ngân hàng thế giới XHH Xã hội hóa XNK Xuất nhập khẩu
- DANH MỤC SƠ ĐỒ, HỘP, BIỂU ĐỒ, BẢNG SƠ ĐỒ: HỘP:
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đầu tư phát triển nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho xã hội. Đầu tư phát triển có thể hiểu là việc dùng vốn ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị) tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…) gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Vì vậy, vấn đề quản lý nhà nước về đầu tư phát triển cần được nhận thức đúng đắn, đầy đủ và phân tích xác đáng để có hành động đúng trong việc nghiên cứu đầu tư phát triển và quản lý nhà nước về đầu tư phát triển vì hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia, khu vực, địa phương. Vai trò quan trọng của đầu tư phát triển thể hiện ở các mặt như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân, khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy hội nhập kinh tế, bảo vệ môi trường sống, nâng cao chất lượng đời sống và xóa đói, giảm nghèo, tăng cường tính ổn định của nền kinh tế... Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững, nhất thiết phải có nhiều vốn để đầu tư nhưng làm thế nào để các tổ chức hay cá nhân đang nắm giữ những nguồn vốn nhàn rỗi và các doanh nghiệp đang có ý tưởng kinh doanh khả thi có thể gặp và hợp tác với nhau, cùng tìm cơ hội kinh doanh hiệu quả nhất. Các định chế tài chính trung gian ra đời là để đáp ứng nhu cầu cần những “chiếc cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn. Là một trong những định chế trung gian tài chính phi ngân hàng, Quỹ đầu tư phát triển địa phương có một số đặc điểm nổi bật như: Huy động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giảm phụ thuộc vào đầu tư công; Bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư như tăng tính thanh khoản các công cụ đầu tư, đa dạng hóa danh mục đầu tư, tăng khả năng tái đầu tư, tiết kiệm chi phí và tăng cường tính chuyên nghiệp cho đầu tư. Ở Việt Nam, với tốc độ hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới kể từ sau khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, thành viên cộng đồng Asean (AEC) năm 2005, và gần đây là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) chính thức đi vào hiệu lực (01/8/2020), thì công 8
- cuộc đổi mới nền kinh tế có những bước phát triển đột phá mới, cơ cấu kinh tế từng bước được điều chỉnh, tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh, kéo theo nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung là rất lớn. Trong những năm gần đây, ngân sách Trung ương và ngân sách hầu hết các địa phương đều trong tình trạng bội chi, mặc dù nằm trong giới hạn cho phép nhưng cũng cho thấy khả năng cân đối vốn của ngân sách dành cho phát triển cơ sở hạ tầng đang rất khó khăn. Vì vậy, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách để khuyến khích chính quyền các địa phương chủ động trong việc phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, và hệ thống Quỹ ĐTPTĐP ra đời trong bối cảnh đó, đã và đang trở thành một công cụ tài chính quan trọng giúp chính quyền các tỉnh, thành phố tập trung nguồn lực, huy động các thành phần kinh tế tư nhân tham gia trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế xã hội. Qua đó, hoạt động của Quỹ ĐTPTĐP sẽ giúp cho chính quyền địa phương khắc phục những khó khăn về cung cấp vốn dài hạn, về phát triển thị trường các định chế tài chính phi ngân hàng, tạo động lực cho các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào các dự án phát triển kinh tế xã hội, tăng cường hiệu quả đầu tư và cải thiện chất lượng dịch vụ. Với tầm nhìn dài để thực hiện các mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập thí điểm Quỹ Đầu tư phát triển đô thị thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1996, sau 10 năm thành lập, đến 2006 đã có 16 Quỹ ĐTPTĐP được thành lập trên cả nước. Với những kết quả tích cực trong hoạt động của Quỹ ĐTPTĐP, đến năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 138/2007/NĐ-CP để tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, từng bước tăng cường công tác giám sát hoạt động để hệ thống Quỹ ĐTPTĐP phát triển đúng hướng. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 37/2013/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 138/2007/NĐ-CP và năm 2020 đã ban hành Nghị định 147/2020/NĐ-CP thay thế hai Nghị định nêu trên. Trong thời gian qua, UBND tỉnh Hà Tĩnh cũng đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong việc đầu tư các dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và xem xét nguồn vốn Quỹ Đầu tư phát triển Hà Tĩnh là một trong những nhân tố quan trọng góp phần hiện thực hóa các chính sách đó. Quỹ Đầu tư phát triển Hà Tĩnh được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2012 với vai trò là một tổ chức tài chính nhà nước, là cánh tay nối dài của ngân sách, thực hiện đầu tư và cho vay hàng chục dự án ưu tiên phát triển kinh tế xã hội của Hà Tĩnh, 9
- quản lý ủy thác 05 Quỹ tài chính khác của tỉnh với nguồn vốn gần 1.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, hoạt động của Quỹ Đầu tư phát triển Hà Tĩnh chưa đạt được sự phát triển như định hướng hoạt động, nguồn vốn còn hạn hẹp so với nhu cầu đầu tư, còn gặp nhiều khó khăn về năng lực quản lý tài chính và thẩm định, giám sát các dự án, hành lang pháp lý còn nhiều vấn đề bất cập, hành lang pháp lý về Quỹ đầu tư phát triển địa phương vẫn đang có độ vênh so với các quy định của Luật chuyên ngành, Nghị định 147/2020/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ Đầu tư và phát triển địa phương mới được ban hành nhưng Nghị định này bộc lộ nhiều điểm bất cập, không theo kịp xu thế phát triển của thị trường, khiến hoạt động của Quỹ Đầu tư phát triển Hà Tĩnh gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu nghiêm túc, công phu và sự chung tay của các cấp, các ngành và các chuyên gia trong lĩnh vực này. Có thể thấy rằng, mô hình quỹ đầu tư phát triển có lịch sử lâu đời trên thế giới, nhưng đối với Việt Nam, nó vẫn là một mô hình mới và chưa có nhiều nghiên cứu khoa học về vấn đề này; Hệ thống lý thuyết liên quan đến quỹ đầu tư phát triển địa phương và quản lý của Nhà nước ở Việt Nam chưa được phát triển một cách hệ thống; Cần có nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng về việc quản lý các định chế tài chính và Quỹ đầu tư phát triển địa phương. Nhiều nghiên cứu hiện nay chỉ tập trung vào giác độ Quỹ ĐTPTĐP mà không xem xét đến yếu tố quản lý của Nhà nước để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giúp Quỹ ĐTPTĐP hoạt động đúng mục đích, đúng hướng, thực hiện sứ mệnh của một tổ chức tài chính nhà nước tại địa phương và có khả năng áp dụng rộng rãi cho các địa phương có tính tương đồng. Xuất phát từ thực tế đó, việc lựa chọn đề tài “Quản lý Quỹ Đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp tỉnh Hà Tĩnh” vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, là vấn đề mang tính chất thời sự, cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. 2. Câu hỏi nghiên cứu: - Vai trò và tầm quan trọng của Quỹ ĐTPTĐP trong phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương? - Nhân tố nào ảnh hưởng đến công tác quản lý Quỹ ĐTPTĐP? - Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động quản lý Quỹ Đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp Hà Tĩnh là gì? 10
- - Trong quá trình vận hành Quỹ ĐTPT Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả gì? Tồn tại hạn chế gì cần phải khắc phục trong thời gian tới” - Ban điều hành Quỹ ĐTPTĐP cần phải làm gì để nâng cao hiệu quả quản lý Quỹ ĐTPTĐP của tỉnh? 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là từ những phân tích và đánh giá thực trạng quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp tỉnh Hà Tĩnh, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Quỹ Đầu tư phát triển Hà Tĩnh, đặc biệt là đề xuất giải pháp xây dựng mô hình quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương trong trường hợp tỉnh Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, đưa ra những nhận định về việc áp dụng mô hình quản lý này cho các địa phương trong cả nước và những kiến nghị đối với cơ quan cấp trên để góp phần giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong quá trình hoạt động của Quỹ. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng khung phân tích về quản lý Quỹ ĐTPTĐP nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ ĐTPTĐP, hoàn thành các nhiệm vụ ưu tiên phát triển kinh tế xã hội của địa phương. - Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về mô hình, cách quản lý vận hành Quỹ ĐTPTĐP của các quốc gia có những nét tương đồng với Việt Nam và các địa phương trong nước để rút ra những kinh nghiệm có khả năng áp dụng cho Quỹ ĐTPT Hà Tĩnh. - Đánh giá thực trạng quản lý Quỹ ĐTPT Hà Tĩnh chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân từ khi đi vào hoạt động năm 2012 đến năm 2022. - Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Quỹ ĐTPTĐP. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 11
- - Về không gian: Luận án sẽ tập trung nghiên cứu quản lý Quỹ đầu tư phát triển Hà Tĩnh trên cơ sở thu thập dữ liệu về các đối tượng liên quan đến Quỹ đầu tư phát triển Hà Tĩnh và những tài liệu, số liệu tác giả thu thập thông qua các kênh chính thống. Về kết quả áp dụng, có thể áp dụng cho các Quỹ có điều kiện tương đồng với Quỹ ĐTPT Hà Tĩnh. - Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2022 từ khi Quỹ Đầu tư phát triển Hà Tĩnh được thành lập theo khung pháp lý Nghị định 138/2007/NĐ-CP năm 2007 đến khung pháp lý theo Nghị định 147/2020/NĐ-CP và định hướng, giải pháp được luận chứng cho giai đoạn đến năm 2030 và các năm tiếp theo. - Về nội dung: Đề tài tiếp cận dưới góc độ quản lý kinh tế với các nội dung sau: + Xây dựng chiến lược phát triển Quỹ ĐTPTĐP. + Tổ chức xây dựng bộ máy quản lý Quỹ ĐTPTĐP. + Tổ chức huy động vốn. + Hoạt động cho vay các dự án phát triển. + Đầu tư các dự án ngắn hạn, dài hạn. + Quản lý nguồn vốn được ủy thác. + Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược phát triển Quỹ ĐTPTĐP. 5. Những đóng góp mới của Luận án Về mặt lý luận: Luận án làm rõ điểm khác biệt của Quỹ ĐTPTĐP với các tổ chức đầu tư bằng nguồn vốn NSNN hay các định chế tài chính khác trên thị trường vốn. Khác biệt với hệ thống ngân hàng, Quỹ đầu tư phát triển có những đặc điểm nổi bật như Quỹ hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, các dự án Quỹ ĐTPTĐP đầu tư và cho vay là các dự án phát triển kinh tế - xã hội ưu tiên của tỉnh với đặc thù lợi nhuận thấp nên khó tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng thương mại, cơ cấu quản lý và mô hình tổ chức của Quỹ ĐTPTĐP có tính đặc thù với sự tham gia của UBND tỉnh và các Sở, ban, ngành để kiểm soát chặt chẽ các hoạt động nghiệp vụ. Mặc dù, các dự án kết cấu hạ tầng của địa phương có thể thực hiện bởi đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tuy 12
- nhiên các dự án đầu tư công là các dự án được phê duyệt mang tính chất chủ quan nhiều hơn, không có khả năng thu hồi vốn để tái đầu tư, phụ thuộc vào tình hình cân đối ngân sách hằng năm hoặc từng thời kỳ, thủ tục hành chính phức tạp, thời gian hoàn thành thường lâu hơn so với các dự án mà Quỹ ĐTPTĐP đầu tư, cho vay. Những nghiên cứu trước đây chưa thể hiện rõ về những khác biệt giữa Quỹ ĐTPTĐP so với hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác, vì vậy luận án đã khắc phục được những hạn chế này, đưa ra các định nghĩa, đặc điểm, vai trò mang tính hình thành những lý luận chuyên sâu về hệ thống Quỹ ĐTPTĐP. Về mặt thực tiễn: Từ thực tiễn kinh nghiệm của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, việc các tỉnh thành lập Quỹ ĐTPTĐP xuất phát từ nhu cầu huy động và sử dụng nguồn lực tài chính một cách hiệu quả để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Quỹ đầu tư phát triển địa phương giúp các tỉnh, thành phố thu hút nguồn vốn từ nhiều kênh khác nhau, bao gồm ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tư nhân, vốn ODA và các nguồn vốn khác; Quỹ giúp quản lý và phân bổ vốn một cách hiệu quả, hướng tới các dự án mang lại lợi ích kinh tế - xã hội lớn cho địa phương; Quỹ giúp tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng thiết yếu, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân; Quỹ hoạt động như một kênh trung gian, thu hút và kết nối vốn tư nhân với các dự án do Nhà nước định hướng, tạo ra các cơ chế hợp tác giữa hai bên; Quỹ giúp nâng cao hiệu quả đầu tư thông qua việc thu hồi vốn đối với các dự án thay vì cấp phát như đầu tư công; ngoài ra, qua việc thu hút đầu tư và phát triển hạ tầng, các tỉnh có thể nâng cao vị thế cạnh tranh của mình, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển địa phương. Tóm lại, việc thành lập Quỹ ĐTPTĐP giúp các tỉnh tập trung huy động các nguồn lực xã hội để tối ưu hóa đầu tư, góp phần hỗ trợ sự phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả và bền vững. Nói riêng đến tỉnh Hà Tĩnh, trong những qua, tỉnh đã đạt được những thành tích đáng kể trong phát triển kinh tế. Đến năm 2022, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) Hà Tĩnh đạt hơn 90 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 15 lần so năm 2004, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Bắc Trung Bộ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao qua các giai đoạn, tính chung cả thời kỳ 2005-2020 đạt hơn 10%/năm. Năm 2004, thu ngân sách của Hà Tĩnh đạt 400 tỷ đồng, đến năm 2022 đã lên gần 17.000 tỷ đồng. Từ một địa phương 13
- kinh tế còn khó khăn, thu nhập bình quân đầu người thấp, tỉnh Hà Tĩnh đã từng bước vươn lên và trở thành cực tăng trưởng mới của khu vực Bắc Trung Bộ. Bên cạnh việc kế thừa, điều chỉnh phương hướng phát triển phù hợp thực tiễn địa phương, việc huy động các nguồn lực ngoài đầu tư công, đặc biệt là nguồn vốn từ Quỹ ĐTPT Hà Tĩnh là một hướng đi đúng đắn, giúp một tỉnh với ngân sách khó khăn, luôn ở trong tình trạng bội chi, có thể phát triển, vươn lên, thu hẹp khoảng cách so với các tỉnh trong khu vực và trong toàn quốc. (Cục thống kê Hà Tĩnh, 2023). Dựa trên những phân tích và đánh giá từ góc độ lý luận và thực tiễn, luận án đề xuất các giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý quỹ ĐTPTĐP. Những giải pháp này sẽ có giá trị tham khảo cho các cơ quan quản lý Nhà nước tại các địa phương trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Luận án cũng đã đề xuất mô hình quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương trên cơ sở nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Tĩnh và đánh giá khả năng áp dụng mô hình này tại các địa phương khác, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Như vậy, có thể kết luận rằng đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về công tác quản lý Quỹ ĐTPTĐP dưới góc độ quản lý kinh tế, cụ thể là trên phương diện cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy, nghiên cứu của luận án là những đóng góp mới về mặt nội dung lý luận và thực tiễn cho đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý ĐTPTĐP. 6. Kết cấu của Luận án: Phần mở đầu Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương và phương pháp nghiên cứu của luận án Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương Chương 3: Thực trạng quản lý Quỹ đầu tư phát triển địa phương Kết luận Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án Danh mục tài liệu tham khảo 14
- CHƯƠNG 1 . TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ QUỸ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ĐỊA PHƯƠNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN Quỹ Đầu tư phát triển địa phương là một tổ chức tài chính Nhà nước tại địa phương, có tính chất đặc thù, hoạt động cho vay của Quỹ có nhiều nét tương đồng với hoạt động tín dụng của các ngân hàng, nhưng so với hệ thống ngân hàng thì Quỹ có thêm chức năng quản lý các quỹ tài chính khác, đầu tư tài chính, đầu tư dự án kết cấu hạ tầng, phát hành cổ phiếu theo mô hình của doanh nghiệp TNHH 100% vốn Nhà nước, đồng thời bộ máy quản lý Quỹ ĐTPTĐP có nhiều đặc điểm giống với bộ máy quản lý các Quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách khác…Vì vậy, trong phần tổng quan nghiên cứu, tác giả đã tham khảo một số luận án, đề tài khoa học, công trình nghiên cứu liên quan đến hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp nhà nước về công tác quản lý nguồn vốn đầu tư, công tác cho vay, quản lý nợ vay, quản trị doanh nghiệp, đầu tư dự án và nghiên cứu các công trình liên quan đến quản lý các Quỹ tài chính ngoài ngân sách khác có tính tương đồng về mô hình tổ chức.... . Những nghiên cứu về quản lý nguồn vốn Nhà nước, quản lý tài sản tại các tổ chức, doanh nghiệp nhà nước Liên quan đến vấn đề quản lý nguồn vốn Nhà nước, đã có nhiều công trình nghiên cứu huy động vốn, quản lý vốn Nhà nước, giám sát tài chính tại các doanh nghiệp, tổ chức tài chính, ngân hàng quốc doanh với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu theo các nội dung trên: - Dưới góc độ quản lý kinh tế, Phạm Phú Quốc (2015) đã đề xuất cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nước, thực trạng quản lý vốn tại công ty TNHH MTV trực thuộc UBND thành phố Hồ Chí Minh, đưa ra các giải pháp nhằm duy trì và phát huy những mô hình quản lý tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực để nâng cao hiệu quả quản lý vốn Nhà nước tại các công ty TNHH MTV trực thuộc UBND thành phố Hồ Chí Minh. Công trình đã đánh giá toàn diện hoạt động 15
- quản lý vốn Nhà nước tại công ty TNHH MTV trực thuộc UBND thành phố Hồ Chí Minh, với một đối tượng cụ thể trên một vùng kinh tế lớn nhất Việt Nam. Tác giả đã tập trung kiến nghị vào các vấn đề như chính sách đầu tư vốn Nhà nước, chủ thể quản lý vốn, nội dung quản lý, hình thức quản lý vốn và cơ chế kiểm tra, giám sát của Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước - Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời tác giả cũng đã tiến hành khảo sát việc quản lý vốn và cơ chế giám sát vốn tại các DNNN của một số nước trên thế giới như Trung Quốc, Singapore, các nước thành viên của Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế - OECD để có cái nhìn tổng quát và mang tính đa chiều hơn. - Để phục vụ xây dựng lộ trình quản lý nguồn vốn Nhà nước thích hợp, Nguyễn Thị Kim Đoan (2016) đã phân tích, đánh giá quá trình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010-2014, từ đó chỉ ra những hạn chế trên các khâu, từ quản lý vốn, quản lý sử dụng vốn, quản lý phân phối lợi nhuận và kiểm tra, giám sát vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý vốn Nhà nước trong đó có 03 giải pháp mang tính đột phá như về chính sách tuyển dụng, bổ sung tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh, đề xuất cơ chế kiểm tra, giám sát. Luận án đã làm sáng tỏ được các tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước. Tác giả cũng đã nghiên cứu sâu các mô hình của một số nước về quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại các DNNN và đã rút ra bài học kinh nghiệm có ý nghĩa cho thành phố Đà Nẵng trong việc quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, có khả năng áp dụng với các DNNN khác trên địa bàn cả nước. Tác giả cho rằng, việc đổi mới DNNN nói chung và đổi mới quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nói riêng trở thành vấn đề cấp thiết nhằm tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Đây là một công trình bước đầu góp phần giúp các cơ quan chính quyền địa phương có thể lập và thực hiện các đề án hoàn thiện quản lý vốn Nhà nước tại các DNNN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và có tính tham khảo cao cho các tỉnh, thành phố khác. - Trên cơ sở nghiên cứu về mô hình hoạt động Quỹ Đầu tư phát triển địa phương từ khi Nghị định 138/2007/NĐ-CP về tổ chức hoạt động Quỹ Đầu tư phát triển địa phương ra đời, Trần Minh Tín (2009) đã đánh giá, phân tích để tìm ra định hướng và những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ Đầu tư phát triển địa phương 16
- trong những năm tiếp theo. Theo tác giả, Quỹ đầu tư phát triển địa phương đã trở thành một công cụ tài chính quan trọng để các địa phương thực hiện thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu đề ra, tuy nhiên cần phải vận dụng linh hoạt hơn cơ chế vốn mồi để các quỹ thật sự trở thành cánh tay nối dài của ngân sách, phát huy hiệu quả chức năng định hướng, dẫn dắt các hoạt động đầu tư trên địa bàn và thu hút rộng rãi các nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác nhau để tập trung cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tác giả đã đưa ra các giải pháp cụ thể, chi tiết góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển địa phương. - Cùng nghiên cứu về công tác quản lý vốn tín dụng nhà nước, Nguyễn Cảnh Hiệp & Phạm Thu Hương (2019), đã đánh giá cơ chế tạo lập nguồn vốn trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước từ năm 2006 đến năm 2018 và phân tích tác động của cơ chế này đến với hoạt động cho vay đầu tư phát triển thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tạo lập nguồn vốn nhắm đáp ứng yêu cầu cho tăng trưởng cũng như đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thời gian tới. Theo tác giả, cơ chế tạo lập nguồn vốn trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có sự thay đổi theo hướng từng bước chuyển nguồn vốn vay của các cơ quan thực thi chính sách tín dụng đầu tư phát triển sang sử dụng các nguồn vốn huy động từ thị trường tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu giảm dần bao cấp từ ngân sách đối với hoạt động tín dụng Nhà nước và để tạo lập nguồn vốn cho hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thì cần phải triển khai các giải pháp đồng bộ: Chính phủ xem xét, bố trí ngân sách Nhà nước để ngân hàng phát triển thực hiện đúng lộ trình được phê duyệt tại Chiến lược phát triển Ngân hàng phát triển đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; cùng với đó, ngân hàng chính sách phát triển phải đẩy mạnh huy động vốn bằng các hình thức khác nhau được quy định tại Điều lệ tổ chức và hoạt động nhằm mở rộng quy mô, đa dạng hóa kỳ hạn của nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu cho vay với lãi suất phù hợp, mở rộng tìm kiếm, hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế nhằm huy động các nguồn vốn giá rẻ từ các tổ chức này, đặc biệt là nguồn vốn dành cho các lĩnh vực có nhiều dự án thuộc đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (xây dựng công trình cấp nước sạch, công trình xử lý nước thải, rác thải; xây dựng nhà máy phát điện sử dụng năng lượng tái tạo; sản xuất phương tiện, thiết bị tiết kiệm năng lượng…). 17
- - Trong các nghiên cứu về quản lý vốn tại doanh nghiệp Nhà nước có thể kể đến công trình nghiên cứu tiêu biểu về hiệu quả quản lý và sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp của Trần Kim Chung & Nguyễn Văn Tùng (2020). Tác giả đã nêu bật được các giải pháp đã mang lại hiệu quả sử dụng nguồn vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp trong những năm qua, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra và cần tiếp tục có những giải pháp, đổi mới, cải cách. Tác giả đã điểm qua về thực trạng vốn nhà Nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, đưa ra 06 tồn tại, hạn chế cơ bản và rút ra 06 giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Nguồn vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp để đầu tư sản xuất, kinh doanh là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, đặc biệt là các ngành thiết yếu. Vì vậy, theo tác giả cần phải có những động thái cải cách mạnh mẽ hơn nữa, doanh nghiệp Nhà nước cần phải tiếp tục theo tín hiệu của thị trường và mục tiêu hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. - Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc và Singapore về chính sách quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, Tống Phương Dung (2022) đã rút ra được những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn cho Việt Nam trong việc hoàn thiện các chính sách về sử dụng nguồn vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp một cách hiệu quả. Chính quyền Trung Quốc đã quản lý tài sản của Nhà nước tại các doanh nghiệp thông qua việc xây dựng hệ thống quản lý, giám sát tài sản Nhà nước rõ ràng, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cũng như hệ thống đánh giá và trách nhiệm giải trình đối với việc duy trì giá trị và gia tăng tài sản Nhà nước. Trong khi, Singapore trao toàn quyền cho Tập đoàn Temasek trong việc giám sát, đánh giá và thực hiện quyền đầu tư, phạm vi và quy mô đầu tư không ngừng được mở rộng. Tác giả cho rằng, để quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp hiệu quả thì Việt Nam phải xây dựng luật và khung pháp lý về quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp đúng đắn; phải đề cao vai trò quản lý, giám sát của cơ quan quản lý vốn, tài sản Nhà nước; cải cách mạnh mẽ quản lý và quản trị DNNN; có biện pháp, chế tài đủ mạnh để xử lý những DNNN yếu kém, không có khả năng cạnh tranh. - Để làm rõ các thách thức đặt ra đối với cơ quan quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, Đinh Thị Lan Hương (2019), đã khái quát những thành tựu và hạn chế của mô hình quản lý vốn giai đoạn 2005-2018, làm rõ về mô hình quản lý vốn hiện 18
- nay. Mô hình quản lý vốn Nhà nước giai đoạn 2005-2008 là mô hình quản lý hỗn hợp theo hình thức doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu vốn, mô hình này đã bộc lộ nhiều nhược điểm, hạn chế vì vậy để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP về thành lập Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC), đánh dấu bước thay đổi lớn về mô hình quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam. Theo tác giả, thì việc thành lập CMSC đã bước đầu khắc phục được một số tồn tại, hạn chế của Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) như vị trí pháp lý, chính trị cao hơn; đảm bảo môi trường công bằng, cạnh tranh; nâng cao hiệu quả quản lý vốn, nâng cao tính chuyên nghiệp, hiện đại…Tuy nhiên, mô hình này theo tác giả vẫn còn một số bất cập cần quan tâm, làm rõ như cơ quan thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước vẫn chưa tập trung về một đầu mối; chưa có mô hình rõ ràng, thống nhất đối với các doanh nghiệp công ích, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, an ninh, quốc phòng; mối quan hệ với các cơ quan liên quan chưa được thể chế rõ ràng, đầy đủ... - Bên cạnh các kết quả nghiên cứu trong nước, thì có một số nghiên cứu trên thế giới quan tâm về nội dung này, như nghiên cứu của tác giả Smyth, Russel (2000) về sự mất mát tài sản của các tổ chức Nhà nước tại Trung Quốc. Theo tác giả thì Chính phủ Trung Quốc đã chấp thuận việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung quốc lần thứ 15, một trong những nội dung cốt lõi của nghị sự Đại hội là thông qua chủ trương “giữ chặt cái lớn, phục hồi cái nhỏ”. Điều này được cho là bao gồm hai phần: thứ nhất là tạo ra một số doanh nghiệp và tập đoàn doanh nghiệp lớn thông qua việc sát nhập trong các lĩnh vực chiến lược; thứ hai, tăng cường các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua thử nghiệm cải các chủ sở hữu. Tuy nhiên, tại các địa phương thì người ta hiểu sai ý nghĩa của “phục hồi cái nhỏ” và coi đó là “bán rời cái nhỏ”. Theo tác giả, một số tỉnh thành đã áp dụng các phương pháp để thúc đẩy doanh số tại các công ty Nhà nước và thậm chí bán các công ty Nhà nước lớn vào tay tư nhân với giá thấp hơn giá thị trường, gây thất thoát lớn tài sản Nhà nước. Tác giả cũng đề cập đến nguyên nhân của sự mất mát tài sản tại các doanh nghiệp Nhà nước tại Trung Quốc, bao gồm việc áp dụng các chính sách kinh tế sai lầm, quản lý kém hiệu quả, tham nhũng và sự thiếu kiểm soát của Chính phủ. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất được các giải pháp để giải quyết vấn đề này, đặc biệt là tăng cường giám sát và kiểm 19
- soát của Chính phủ, đưa ra các chế tài mạnh mẽ để ngăn chặn sự thất thoát tài sản quốc doanh. - Nghiên cứu về vai trò của các số liệu kế toán trong định giá tài sản thông qua ví dụ về quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp Nhà nước, Chen, Charles JP, Jun Du & Xijia Su (2014) cho rằng việc định giá tài sản là khâu quan trọng trong quá trình đầu tư và mua bán tài sản công, tuy nhiên, số liệu kế toán có thể bị ảnh hưởng bởi những quyết sách chủ quan của các nhà quản lý doanh nghiệp, dẫn đến sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị ghi nhận trên sổ sách. Các tác giả đã tập trung khảo sát số liệu từ quá trình tư nhân hóa doanh nghiệp Nhà nước tại Trung Quốc từ năm 1990 đến năm 2000, khẳng định việc tư nhân hóa đã đưa đến sự gia tăng phát triển cho doanh nghiệp, tạo ra một sự khác biệt lớn. Bài báo đã liệt kê và phân tích các phương pháp định giá tài sản Nhà nước bao gồm định giá dựa trên dòng tiền, định giá dựa trên so sánh và định giá dựa trên giá trị sử dụng. Tuy nhiên, theo nhóm tác giả thì việc sử dụng một phương pháp định giá duy nhất không thể đưa ra giá trị chính xác của tài sản, cần sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để có thể đưa kết quả chính xác nhất. Đồng thời, tác giả đã khẳng định vai trò quan trọng của thông tin kế toán trong quá trình định giá tài sản và cho rằng việc sử dụng thông tin kế toán cần phải được các nhà quản lý quan tâm để tránh sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị sổ sách và đặc biệt, chú ý đến các yếu tố khách nhau trong quá trình định giá tài sản. - Một nghiên cứu khác về kiểm soát sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc, phân biệt giữa các hình thức sở hữu khác nhau trong doanh nghiệp Nhà nước tại Trung Quốc, Emuron, Abraham Simon Otim (2021) cho rằng đã có sự tự tin quá mức trong quản lý Nhà nước dẫn đến những quyết định sai lầm và kéo theo tình trạng khó khăn về tài chính của các công ty. Kiểm soát Nhà nước tại Trung Quốc được phân thành các hình thức khác nhau, bao gồm các văn phòng quản lý tài sản nhà nước (SAMBs); các doanh nghiệp Nhà nước (SOEs) liên kết với Chính phủ (SOECGs); các SOEs liên kết với chính quyền địa phương (SOELGs). Tác giả đã sử dụng số liệu các doanh nghiệp Nhà nước niêm yết tại Trung Quốc từ năm 2003 đến năm 2018, nghiên cứu đã chứng minh được một cách khách quan rằng sự tự tin của các nhà quản lý Nhà nước có mối liên hệ đáng kể với khó khăn tài chính, tuy nhiên khả năng rơi vào khó khăn tài chính khác nhau tùy thuộc với loại kiểm soát sở hữu. Tác giả khẳng định rằng, trong bối cảnh các nhà quản lý tự tin quá mức thì SAMBs ít có khả năng gặp khó khăn 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý Hành chính công: Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay
27 p | 246 | 80
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý đất đai: Nghiên cứu tác động của quá trình đô thị hóa đến quản lý, sử dụng đất và đời sống việc làm của người dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
200 p | 31 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động xây dựng văn hóa nhà trường trung học phổ thông tỉnh Nghệ An trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
254 p | 21 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đào tạo ngành thiết kế thời trang ở các trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh
221 p | 50 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý nhân lực trong cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cấp tỉnh ở Sơn La
181 p | 20 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di sản thế giới Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội gắn với phát triển du lịch
272 p | 22 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý dạy học thực hành ngành công nghệ kỹ thuật nhiệt tại các trường đại học
242 p | 69 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Phát triển đội ngũ giảng viên ngành Điện công nghiệp ở các trường cao đẳng trực thuộc Bộ Công Thương các tỉnh miền Bắc theo tiếp cận năng lực
299 p | 19 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ giảng viên theo tiếp cận vị trí việc làm ở các trường đại học địa phương
310 p | 19 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đào tạo trình độ đại học ngành Chỉ huy Tham mưu Lục quân theo tiếp cận năng lực ở các Trường Sĩ quan Lục quân trong bối cảnh hiện nay
246 p | 12 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng thương mại nông thôn tại vùng Đồng bằng sông Hồng
215 p | 7 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động phối hợp đào tạo trình độ đại học giữa trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực nam Đồng bằng sông Hồng với bệnh viện
220 p | 12 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý khoa học và công nghệ: Áp dụng bộ tiêu chuẩn UPM nhằm đánh giá mức độ thích ứng với đổi mới sáng tạo của các trường đại học tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư
226 p | 10 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý xây dựng: Nghiên cứu chức năng quản lý trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam
189 p | 9 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động xây dựng văn hóa nhà trường trung học phổ thông tỉnh Nghệ An trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
36 p | 13 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý đô thị và công trình: Quản lý rủi ro dự án đầu tư xây dựng công trình bệnh viện - Bộ Y tế
211 p | 11 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý sự thay đổi trong đào tạo theo tiếp cận CDIO tại các trường Đại học trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam
353 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn