BỘ QUỐC PHÒNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HẬU CẦN

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ VỀ KINH PHÍ

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TẠI CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG – BẢO HIỂM

Hà Nội, 2019

BỘ QUỐC PHÒNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HẬU CẦN

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ VỀ KINH PHÍ

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TẠI CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng Mã số

: 9.34.02.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS NGUYỄN TRỌNG CƠ Hà Nội, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Số

liệu được nêu trong luận án là trung thực và có trích nguồn. Kết quả nghiên

cứu trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công

trình nghiên cứu nào .

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Thu Hương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................ 7 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài. .............................................. 7 1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước. ............................................... 17 1.3. “Khoảng trống” trong nghiên cứu về cơ chế tự chủ đối với chính quyền cấp xã. ................................................................................................. 22 CHƯƠNG 2. LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ KINH PHÍ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ .......................................................................................... 25 2.1. Khái quát về chính quyền cấp xã và quản lý ngân sách xã ................ 25 2.1.1. Chính quyền cấp xã trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ..... 25 2.1.2. Vai trò, nhiệm vụ, đặc điểm, cách phân loại chính quyền cấp xã .... 27 2.1.3. Quản lý ngân sách xã………………………………………………….34

2.2. Cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã ..................................................................................................................... 43 2.2.1. Khái niệm về cơ chế tự chủ ............................................................. 43 2.2.2. Vai trò cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã ......................................................................................... 46 2.2.3. Nguyên tắc cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã ......................................................................................... 48 2.2.4. Nội dung của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã ............................................................................... 51 2.2.5. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính. ......................................................................................... 56 2.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã..................................................... 611 2.3. Kinh nghiệm về chế độ tự quản địa phương của một số quốc gia trên thế giới. ........................................................................................................... 71 2.3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới ............................... 71 2.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với việt Nam khi giao tự chủ kinh phí quản lý hành chính cho chính quyền cấp xã .................................................. 76

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TỰ CHỦ KINH PHÍ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ..................................................................... 799 3.1. Khái quát chung về chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng.799 3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. ................................................ 799

3.1.2. Đặc điểm đội ngũ cán bộ và hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng. ....................................................... 822 3.2. Thực trạng cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng ........................................... 845 3.2.1. Khái quát quá trình triển khai cơ chế ............................................... 85 3.2.2. Thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng ........................ 866 3.3. Đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính tại chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng ................. 103 3.3.1. Tính hiệu lực của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính ...... 1033 3.3.2. Tính hiệu quả của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính ...... 1066 3.3.3. Tính linh hoạt và công bằng của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính .................................................................................................. 1177 3.4. Đánh giá chung về cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính và quá trình triển khai tại chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng 1199 3.4.1. Kết quả đạt được: ........................................................................ 1199 3.4.2. Một số hạn chế của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính ... 1211 CHƯƠNG 4 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ KINH PHÍ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG .............................................. 1288 4.1. Định hướng hoàn thiện bộ máy và cơ chế tự chủ tài chính đối với chính quyền cấp xã .................................................................................... 1288 4.1.1 Xác định rõ vai trò của chính quyền xã trong quản lý ................... 1288 4.1.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chính quyền xã .................................................................................... 130 4.1.3. Giao quyền tự chủ tài chính ở mức độ cao cho chính quyền cấp xã. ... 1322 4.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng ......................... 1366 4.2.1. Giải pháp nâng cao tính hiệu lực của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính. ........................................................................................ 1366 4.2.2. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính ......................................................................................... 1399 4.2.3. Giải pháp hoàn thiện tính linh hoạt và công bằng của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính ............................................................... 1533 4.3. Một số kiến nghị ............................................................................... 16060 4.3.1. Kiến nghị đối với trung ương ........................................................ 160

4.3.2. Kiến nghị đối với chính quyền địa phương .................................. 1622 KẾT LUẬN ................................................................................................ 1677 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN........................................................... 1699 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 17070 PHỤ LỤC ................................................................................................... 1777

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CBCC : Cán bộ công chức

CQNN : Cơ quan nhà nước

DVC : Dịch vụ công

HCNN : Hành chính nhà nước

HĐND : Hội đồng nhân dân

NSNN : Ngân sách nhà nước

NSX : Ngân sách xã

KPQLHC : Kinh phí quản lý hành chính

KBNN : Kho bạc nhà nước

KT – XH : Kinh tế - Xã hội

QLNS : Quản lý ngân sách

UBND : Ủy ban nhân dân

TCHC : Tổ chức hành chính

TC – NS Tài chính – Ngân sách

: Hệ thống quản lý kết quả ( Performance PMS management system )

Nghị định 130/NĐ-CP : Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày

17/10/2005 của Chính phủ Qui định chế độ tự

chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế

và kinh phí quản lý hành chính.

Nghị định 117/NĐ-CP : Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày

7/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một

số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP

ngày 17/10/2005 năm 2005 của Chính phủ quy

định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về

sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành

chính đối với các cơ quan nhà nước.

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1. Số lượng các xã, phường, thị trấn các tỉnh đồng bằng sông Hồng ........... 80

Bảng 3.2. Quy mô dân số và diện tích các tỉnh đồng bằng sông Hồng ..................... 81

Bảng 3.3: Định mức chi ngân sách xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành

phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015 ................................................................ 87

Bảng 3.4: Kết quả điều tra về biến động biên chế khi thực hiện tự

chủ…………………………………………………………………...90

Bảng 3.5: Định mức phân bổ KPQLHC theo biên chế cho các xã tại Thành

phố Hà Nội năm 2017 ................................................................................... 92

Bảng 3.6: Định mức phân bổ KPQLHC theo biên chế cho các xã tại tỉnh

Vĩnh Phúc (giai đoạn 2017 - 2020) .............................................................. 92

Bảng 3.7: Định mức phân bổ KPQLHC theo biên chế cho các xã tại tỉnh

Hải Dương (giai đoạn 2017 - 2020) ............................................................. 93

Bảng 3.8: Định mức phân bổ KPQLHC theo biên chế cho các xã tại tỉnh Hà

Nam (giai đoạn 2017 - 2020) ........................................................................ 94

Bảng 3.9 : Bình quân nguồn thu của 1 xã các tỉnh ĐBSH từ 2014 đến 2018 ............. 96

Bảng 3.10: Cơ cấu chi quản lý hành chính cấp xã các tỉnh ĐBSH từ 2014 -

2018 ................................................................................................................. 97

Bảng 3.11: Cơ cấu chi quản lý hành chính các xã 04 tỉnh Hà Nội, Hà Nam,

Hải Dương, Vĩnh Phúc từ 2014 – 2018 ...................................................... 98

Bảng 3.12:Nhận biết mức độ hoàn thành kế hoạch của xã năm 2016 -2018.….......108

Bảng 3.13: Lựa chọn phương án thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC.........................110

Bảng 3.14. Kinh phí tiết kiệm được qua các năm tại 500 xã ....................................... 111

Bảng 3.15. Chi thu nhập tăng thêm bình quân 01 tháng của chính quyền cấp

xã các tỉnh ĐBSH ...................................................................................... 114

Bảng 4.1. Tiêu chí đánh giá CBCC xã ........................................................................ 152

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. Sơ đồ mô hình tổ chức bộ máy UBND cấp xã................................ 34

Hình 2.2: Mối quan hệ ba chiều cần đảm bảo khi thực hiện chế độ tự chủ ........ 50

HÌnh 3.1. Tỷ lệ nguồn thu 6 tỉnh ĐBSH tực đảm bảo cân đối thu chi.............95

Hình 3.2. Sơ đồ khái quát cơ chế một cửa tại chính quyền cấp xã các tỉnh

ĐBSH .................................................................................................... 98

Hình 3.2. Cơ cấu chi QLHC của các xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng giai

đoạn 2014–2018 .................................................................................... 98

Hình 3.3. Cơ cấu chi của các xã trên địa bàn 4 tỉnh, thành phố Hà Nội, Hà

Nam, Hải Dương, Vĩnh Phúc, giai đoạn 2014–2018…………………99

Hình 3.4.Sơ đồ cơ chế một cửa tại chính quyền cấp xã các tỉnh

ĐBSH………………………………………………………………...107

Hình 3.5. Kêt quả đánh giá CBCC xã tại 500 xã thuộc phạm vi khảo sát….109

Hình 4.1: Quy trình thực hiện cơ chế tự chủ ................................................. 146

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính (KPQLHC) đối với chính

quyền cấp xã được coi là một trong những nội dung quan trọng trong quá trình

quản lý tài chính công ở Việt Nam. Việc giao quyền tự chủ KPQLHC cho

chính quyền cấp xã bắt đầu rõ nét từ năm 2014 với việc ban hành Nghị định số

117/2013/NĐ – CP ngày 7/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều

của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 năm 2005 của Chính phủ

quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí

quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước (CQNN). Luật ngân sách nhà

nước (NSNN) năm 2015 đã giao cho Chính phủ quy định việc thực hiện quản

lý ngân sách theo kết quả thực hiện nhiệm vụ (Khoản 15 -Điều 25) và vai trò

trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách (Khoản 1- Điều 61).

Phương thức này, một mặt nhấn mạnh đến việc trao quyền tự chủ trong việc sử

dụng “các gói ngân sách” cho các xã, mặt khác chú trọng đến đo lường “kết quả

của các khoản chi tiêu” nhằm đảm bảo trách nhiệm giải trình, hiệu quả trong sử

dụng ngân sách xã. Theo quy định tại Điều 1 của Nghị định số 130/2005/NĐ-

CP, việc giao quyền tự chủ cho Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường do Chủ tịch

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào quy định tại

Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ, hướng dẫn của

Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và điều kiện thực tế tại địa phương để quyết định. Đối

với cấp xã, việc thực hiện tự chủ có thực sự cải thiện, nâng cao hiệu quả, hiệu

lực quản lý ngân sách xã, đảm bảo tính minh bạch và hiệu suất của bộ máy

chính quyền cấp xã hay không là vấn đề cần phải làm rõ. Vì thực tiễn cho thấy,

việc triển khai ở cấp xã rất chậm và khó khăn. Theo báo cáo của Bộ Tài chính

năm 2008, mới có Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương đã triển khai giao

thực hiện chế độ tự chủ cho 100% số xã, phường. Một số tỉnh , thành phố đang

thực hiện thí điểm ở một số xã như: Hà Giang 18 xã, Lâm Đồng 59/145 xã

2

(37%), Đà Nẵng 6/56 xã (10,7%), Long An 30% , các địa phương còn lại (trong

tổng số 55 tỉnh, thành phố có báo cáo) chưa triển khai thực hiện. Năm 2014,

việc giao tự chủ KPQLHC cho chính quyền cấp xã có hiệu lực nhưng thực tế

các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) chưa triển khai cơ chế này. Vì rất nhiều

các nguyên nhân khác nhau, cụ thể:

- Chưa có quy trình cụ thể hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ tại các xã;

- Tại các xã chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện

nhiệm vụ của chính quyền cấp xã và cán bộ công chức xã (CBCC), cũng như

việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ tại các xã mang tính hình thức;

- Chưa phát huy vai trò chủ động của lãnh đạo xã trong công tác quản lý

ngân sách, tài chính xã;

- Các xã trong khu vực ĐBSH còn thụ động trong công tác kiện toàn bộ

máy, bố trí phân công và sắp xếp CBCC tại chính quyền cấp xã;

Do vậy, việc triển khai cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền

cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng là cần thiết. Nhằm đánh giá thực trạng

của cơ chế tự chủ, góp phần hoàn thiện cơ chế tự chủ về KPQLHC đối với

chính quyền cấp xã, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện cơ chế tự chủ về

kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng

bằng sông Hồng” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là: xây dựng các giải pháp hoàn thiện cơ

chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng

nói riêng và Việt Nam nói chung, có cơ sở khoa học và thực tiễn, có tính khả

thi cao về tính hiệu lực, hiệu quả, linh hoạt, công bằng và trách nhiệm giải trình.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan các công trình khoa học có liên quan; hệ thống hóa những

vấn đề lý luận chính quyền cấp xã, quản lý ngân sách cấp xã và cơ chế tự chủ

kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã.

3

- Phân tích thực trạng cơ chế tự chủ về KPQLHC tại chính quyền cấp xã

các tỉnh ĐBSH. Đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế, tìm ra những kết quả

đạt được, hạn chế và nguyên của những hạn chế đó.

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ về KPQLHC tại chính

quyền cấp xã, đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính xã một

cách hiệu quả giai đoạn 2020 - 2025 tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

- Đưa ra kiến nghị cần có với các cơ quan có liên quan để hoàn thiện cơ

chế tự chủ về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã và đảm bảo các giải pháp

của đề tài được thực hiện.

Theo đó luận án sẽ trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:

- Câu hỏi nghiên cứu 1: Cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính là gì?

Nội dung của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính?

- Câu hỏi nghiên cứu 2: Các tiêu chí cần thiết để đánh giá mức độ hoàn

thiện cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính?

- Câu hỏi nghiên cứu 3: Tại sao chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng

sông Hồng còn khó khăn khi triển khai cơ chế tự chủ KPQLHC?

- Câu hỏi nghiên cứu 4: Làm thế nào để chính quyền cấp xã thực hiện

được cơ chế tự chủ KPQLHC?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu lý luận và thực trạng cơ chế tự

chủ KPQLHC, quá trình triển khai cơ chế đối với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng

bằng sông Hồng.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu cơ chế tự chủ KPQLHC theo

Nghị định 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 và Nghị định

117/2013/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ đối với chính

quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

+ Phạm vi thời gian: Các số liệu được thu thập trong khoảng thời gian 5

năm gần nhất, từ 2014 – 2018 (năm 2014 là năm bắt buộc các xã phải thực

4

hiện tự chủ kinh phí quản lý hành chính theo Nghị định 117), định hướng

nghiên cứu đến năm 2025 và những năm tiếp theo.

+ Phạm vi nội dung: Làm rõ nội hàm của cơ chế tự chủ kinh phí quản lý

hành chính đối với chính quyền cấp xã: (i) kinh phí quản lý hành chính được

giao tự chủ; (ii)sử dụng kinh phí giao tự chủ.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà

nước và pháp luật; về tổ chức bộ máy và Nhà nước … Trên cơ sở tập hợp, hệ

thống hóa các công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề luận án, luận án

kế thừa có chọn lọc, phát triển các luận điểm nghiên cứu, đồng thời phát hiện

vấn đề nghiên cứu mới. Luận án tiếp cận giải quyết vấn đề nghiên cứu từ góc

độ của khoa học pháp lý, khoa học hành chính.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để phục vụ nghiên cứu luận án, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau:

- Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn: Phương pháp này được sử

dụng bao trùm cả luận án. Cụ thể, tác giả sử dụng lý luận về tổ chức và hoạt

động của bộ máy nhà nước để phân tích, đặc điểm tổ chức và hoạt động bộ máy

chính quyền cấp xã (chương 2, chương 3); kết hợp lý luận và thực tiễn làm cơ

sở đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính

quyền cấp xã (Chương 4).

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng để phân tích các

quy định của pháp luật cũng như đặc điểm tổ chức và hoạt động của chính

quyền cấp xã, cơ sở lý luận của cơ chế tự chủ KPQLHC (chương 2) và quá

trình triển khai cơ chế này đối với chính quyền cấp xã, từ đó, rút ra các đánh giá

kết quả, hạn chế và nguyên nhân (Chương 3); xây dựng các giải pháp hoàn

thiện phù hợp với lý luận và thực tiễn (Chương 4).

5

- Phương pháp hệ thống được sử dụng trong tổng thể luận án nhằm sâu

chuỗi các nội dung, có kế thừa và kết cấu hợp lý, chặt chẽ giúp luận án đạt

được mục đích, yêu cầu đề ra.

- Phương pháp thu thập số liệu, điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi

- Thu thập số liệu qua các báo cáo quyết toán NSX, Nghị quyết về định

mức phân bổ chi thường xuyên của 10 tỉnh đồng bằng sông Hồng, hướng dẫn

thực hiện cơ chế tự chủ về KPQLHC tại một số tỉnh, thành phố trong khu vực

từ năm 2014 đến 2018.

- Thu thập thông qua việc tham dự các hội thảo về đổi mới cơ chế tài chính,

tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.

- Để đánh giá thực trạng cơ chế tự chủ KPQLHC và quá trình triển khai

cơ chế này đối với chính quyền cấp xã các tỉnh ĐBSH, NCS xây dựng bảng hỏi

gồm 20 câu, khảo sát tại 500 xã, phường, thị trấn thuộc 04 tỉnh, thành phố (Hà

Nội, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam). Các tỉnh, huyện được chọn khảo sát có

tính đại diện những địa phương là thành phố trung tâm, đang đô thị hóa nhanh,

địa phương đang xây dựng nông thôn mới, địa phương còn nhiều khó khăn về

nguồn thu. Toàn bộ số liệu, được xử lý theo quy định, sử dụng để làm sáng tỏ

những vấn đề liên quan cơ chế tự chủ KPQLHC và quá trình triển khai cơ chế

này đối với chính quyền cấp xã các tỉnh ĐBSH để phân tích, chứng minh thực

trạng cũng như đề xuất các giải pháp (Chương 3, Chương 4).

6. Đóng góp của luận án

Về mặt lí luận: Luận án đã hệ thống hóa, làm rõ lý luận về của cơ chế tự chủ

về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã; (1) Xác định nội dung và các nhân tố ảnh

hưởng tới cơ chế tự chủ KPQLHC, (2) Xây dựng 03 các tiêu chí đánh giá mức độ

hoàn thiện cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã, trong trường hợp cụ

thể tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

6

Về mặt thực tiễn: (1) Luận án đã góp phần làm rõ thực trạng cơ chế tự

chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng. (2)

Đánh giá mức độ hiệu lực, hiệu quả, linh hoạt và công bằng của cơ chế tự chủ

về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng; tìm ra

kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. (3) Luận án đã có một số

đề xuất mới về: qui trình thực hiện cơ chế tự chủ, xây dựng qui chế chi tiêu nội

bộ, tiêu chí đánh giá mưc độ hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền cấp xã và

CBCC xã, (nhiều xã đã tham khảo và sử dụng); thay đổi chu trình NSX và kiểm

soát chi thường xuyên NSX hướng theo kết quả đầu ra.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, sơ đồ, bảng biểu, phụ lục và tài liệu tham

khảo, luận án kết cấu gồm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2: Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về cơ chế tự chủ kinh phí

quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã.

Chương 3: Thực trạng cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với

chính quyền cấp xã tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

Chương 4: Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành

chính đối với chính quyền cấp xã tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài.

Do thể chế chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia khác nhau,

dẫn đến sự phân cấp và cơ chế quản lý tài chính - ngân sách của chính quyền

địa phương là khác nhau. Tác giả chưa thấy công trình nghiên cứu của nước

ngoài về cơ chế tự chủ cho chính quyền cơ sở hay một đơn vị cụ thể. Các

nghiên cứu có đề cập đến phương thức quản lý mới, tự chủ tài chính tại các địa

phương; Đó là, quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra tiếp cận từ nghiên cứu mô

hình quản lý công mới. Những nghiên cứu này không trực tiếp liên quan đến đề

tài luận án của tác giả nhưng có giá trị trong nghiên cứu, thay đổi cơ chế quản

lý ngân sách theo kết quả đầu ra và cơ chế tự chủ về KPQLHC đối với chính

quyền cấp xã tại Việt Nam.

Nhóm thứ nhất: các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý

công mới.

Trong những thập niên gần đây, quản lý công là chủ đề được thảo luận

nhiều trong các nghiên cứu cả về lý thuyết và thực tiễn. Với quan điểm cho rằng

mô hình tổ chức và cung cấp dịch vụ công truyền thống với đặc điểm mang tính

độc quyền, tính tập trung cao, quan liêu máy móc với quá nhiều quy định chỉ

mang lại hiệu quả thấp, chi phí cao và không đáp ứng được yêu cầu phát triển,

thì mô hình quản lý công mới ra đời mang đến một nền hành chính gọn nhẹ

hơn, với cơ cấu tổ chức đơn giản hơn. Với mô hình này, các nhà quản lý sẽ

được trao thêm quyền chủ động, sáng tạo hơn, các tổ chức cung cấp dịch vụ

dưới áp lực cạnh tranh sẽ phải đảm bảo chất lượng.

Thuật ngữ “Quản lý công mới” được tác giả Christopher Hood sử dụng

lần đầu tiên vào năm 1991 trong hàng loạt bài viết của ông. Cụ thể, dựa trên các nội

dung về quản lý công, C. Hood chỉ ra quản lý công mới có 7 đặc điểm như sau:

8

(1) Giảm chi phí trực tiếp trong khu vực công và tăng cường kỷ luật lao

động nhằm cải thiện việc sử dụng nguồn lực;

(2) Áp dụng thực tiễn quản lý của khu vực tư nhằm tăng cường sự linh

hoạt trong việc ra quyết định;

(3) Cạnh tranh trong khu vực công (thông qua hợp đồng ngắn hạn và

thông qua đấu thầu). Đây chính là yếu tố cơ bản để giảm chi phí và cải thiện

chất lượng hoạt động;

(4) Phân quyền quản lý, trao quyền cho các tổ chức để quản lý hiệu quả

hơn và tăng tính cạnh tranh giữa chúng;

(5) Chuyển từ kiểm soát đầu vào sang kiểm soát đầu ra, nhấn mạnh đến

kết quả hơn là quá trình;

(6) Các chuẩn mực trong thực thi công vụ rất rõ ràng, đánh giá thực thi

công vụ được thực hiện, vì trách nhiệm trong công vụ đòi hỏi phải xác định rõ

ràng mục tiêu hay kết quả cần phải đạt được của cá nhân và tổ chức và hiệu quả

đòi hỏi phải quan tâm đến mục tiêu và quản lý theo định hướng kết quả hoặc

theo mục;

(7) Nhà quản lý được trao quyền để quản lý các công việc của tổ chức, vì

trách nhiệm đòi hỏi nhiệm vụ rõ ràng và không lạm dụng quyền lực. Mối quan

tâm lớn nhất là thực thi công vụ và minh bạch;

- Ở một góc độ khác, M.Holemes và D. Shand (1995) lại cho rằng với tư

cách là phương pháp quản lý, quản lý công mới có các đặc điểm: (i) Là phương

pháp quyết sách nhấn mạnh tới hiệu quả, kết quả và chất lượng phục vụ; (ii)

Thực hiện phân quyền để tăng cường sự thích ứng thay thế cho cơ cấu tổ chức

mang nặng tính đẳng cấp và sự tập trung cao độ về quyền lực; (iii) Có thể tìm

sự linh hoạt về phương pháp cung ứng các sản phẩm công để thay thế cho sự

cung ứng mang tính trực tiếp, từ đó giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả

chính sách; (iv) Quan tâm tới sự tương ứng giữa quyền lực và trách nhiệm, coi

đây là mắt khâu then chốt để nâng cao hiệu suất; (v) Tạo môi trường cạnh tranh

9

trong nội bộ khu vực công và giữa các đơn vị trong khu vực công; (vi) Tăng

cường năng lực quyết sách chiến lược của trung ương, đảm bảo tính nhanh

chóng và linh hoạt trong việc ứng phó với sự thay đổi của môi trường với chi

phí thấp nhất; (vii) Thông qua việc thực hiện chế độ báo về kết quả và chi phí

để nâng cao tinh thần trách nhiệm và độ minh bạch.

- Có thể nói, mô hình quản lý công mới mang đến một bộ máy hành

chính gọn nhẹ, đơn giản hơn, các nhà quản lý công mới được trao quyền nhiều

hơn, tự chủ hơn. Các đặc trưng chủ yếu của quản lý công mới thể hiện trên các

phương diện: (i) Sự điều tiết vĩ mô của chính phủ thay thế cho việc chính phủ

trực tiếp cung cấp sự phục vụ công; (ii) Sự linh hoạt và đơn giản hóa trình tự

của các quyết sách công; (iii) Tiết kiệm chi tiêu công để phục vụ cho thực tiễn

đổi mới; (iv) Phi tập trung hóa quyền lực công, thực hiện tách rời giữa việc

hoạch định chính sách với việc thực hiện chính sách; (v) Thực hiện tư hữu hóa

để tăng cường tính cạnh tranh; (vi) Đề cao phong cách lãnh đạo linh hoạt và coi

trọng quy trình quản lý nhân sự; (vii) Đi liền với việc mở rộng quyền quyết

sách, quyền quản lý cần phải tăng cường chế độ trách nhiệm công của đội ngũ

cán bộ công chức (Cary Aobai Si Panu, 1998).

- Về cơ bản, điểm mấu chốt của mô hình quản lý công mới, cho dù được

thực hiện ở quốc gia nào đều tập trung vào vấn đề cốt lõi là coi trọng hiệu suất

trong một môi trường phi tập trung hóa khu vực công (David; Mathiasen và

ZhangQingdong, 2011); Tập trung quản lý, đánh giá kết quả thông qua các chỉ số

đo lường kết quả. Theo đó các cách thức và thời điểm đo lường kết quả, thông

tin và giải thích về các kết quả, các hành vi sai lầm,cách thức cải thiện quản lý

kết quả thực thi được trình bày rõ ràng (Karen Fryer, Jiju Antony, Susan Ogden,

2009); đặc biệt quan tâm tới tính hiệu quả trong cung cấp, sự phục vụ trực tiếp

của các đơn vị khu vực công, bao gồm việc hình thành môi trường cạnh tranh

trong nội bộ khu vực công và giữa các đơn vị trong khu vực công; sử dụng mô

thức phân quyền để tăng tính thích ứng, thay thế cho cơ cấu cấp bậc có sự tập

10

quyền cao độ, đồng thời tìm kiếm một phương án linh hoạt và khả thi để có thể

mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chính sách; Để tăng cường năng lực chỉ

đạo phát triển, chính phủ cần phải nâng cao năng lực chiến lược trong ứng phó

với sự thay đổi của hoàn cảnh, cũng như năng lực kịp thời hành động để đáp ứng

tốt nhu cầu và lợi ích của công chúng với chi phí thấp nhất (David; Mathiasen;

Zhang Qingdong, 2011).

Nhóm thứ hai: các công trình nghiên cứu về quản lý ngân sách theo

kết quả đầu ra.

Ngân sách là công cụ kết nối giữa kết quả công việc thực hiện với các

nguồn lực đã phân bổ cho chúng. Trong khu vực công, ngân sách là sự kết nối

chặt chẽ giữa người dân - người nộp thuế với các tổ chức công - người sử dụng

công quĩ. Cùng với tiến trình cải cách về nội dung, phương thức của quản lý

công, quản lý ngân sách trong khu vực công cũng có nhiều thay đổi tương ứng

.Hiện nay, các cách thức quản lý ngân sách trong khu vực công bao gồm: (i)

ngân sách truyền thống hay ngân sách theo dòng, mục - (Line- Item budgeting)

được sử dụng phổ biến ở các nước đang phát triển; (ii) quản lý ngân sách theo

kế hoạch và chương trình - (Planning and Programming Budgeting System)

được phát triển vào những năm 1960; (iii) quản lý ngân sách dựa trên cơ sở 0 -

(Zero - Based Budgeting) được phát triển vào những năm 1970; và (iv) quản lý

ngân sách theo kết quả đầu ra - (Performance Based Budgeting) được phát triển

từ những năm 1990.

Đặc điểm nổi bật của ngân sách truyền thống là thiết lập một hệ thống

các định mức (các giới hạn) cho việc phân bổ và chi tiêu ngân sách, đồng thời

đảm bảo các đơn vị sử dụng ngân sách không được vượt quá định mức hay giới

hạn chi tiêu nêu trên. Giả định cơ bản của mô hình ngân sách truyền thống là

việc kiểm soát mức phân bổ và mức chi tiêu sẽ có thể tăng hiệu quả. Do đó, sức

mạnh của ngân sách truyền thống là kiểm soát chặt chẽ chi tiêu thông qua các

chi tiết đặc điểm kỹ thuật đầu vào. Một đặc điểm khác của ngân sách truyền

11

thống là cơ chế "gia tăng": các khoản mục ngân sách của năm tiếp theo được

xác định bằng cách thêm hoặc bớtvới một biên độ nhất định so với ngân sách

của năm trước (Shah và Shen, 2007).

De Wallvà cộng sự (2011) đã tóm tắt một số hạn chế của việc quản lý

ngân sách truyền thống như sau:

- Tạo ra tính không kiểm soát và không đoán trước được của ngân sách;

- Gia tăng ngân sách mà không có sự liên kết với chiến lược của tổ chức;

- Tập trung vào đầu vào mà không tập trung vào đầu ra và kết quả;

- Tầm nhìn ngân sách ngắn hạn

- Thường gây lãng phí do không có động cơ về hiệu quả

- Hạch toán dựa trên tiền mặt nên dẫn đến quản lý tài sản kém

- Hạn chế về thông tin chi phí, đầu ra và kết quả;

Nói một cách vắn tắt, cách thức quản lý ngân sách truyền thống sẽ không

đáp ứng được yêu cầu về hiệu suất và hiệu quả của khu vực công

- Mô hình ngân sách theo kế hoạch và chương trình ra đời đã khắc phục

sự thiếu kết nối hợp lý giữa số tiền ngân sách với kết quả hay mục tiêu cần thực

hiện - nhược điểm nổi bật của ngân sách truyền thống. Trong ngân sách theo kế

hoạch và chương trình, sự thay đổi chủ yếu ở khâu chuẩn bị các kế hoạch và

chương trình, trong đó lợi ích của việc chi tiêu ngân sách được xem xét từ tác

động của nó đến môi trường, trong cả ngắn hạn và dài hạn (Diamond, 2003)

- Mô hình phát triển tiếp theo là mô hình ngân sách dựa trên cơ sở 0 - là

hệ thống ngân sách được ước tính trực tiếp theo các hoạt động trong năm,

không dựa trên những gì đã được thực hiện trong quá khứ. Quản lý ngân sách

dựa trên cơ sở 0 đòi hỏi phải đánh giá các khoản chi tiêu và tất cả các hoạt động

bắt đầu từ cơ sở 0, không có mức chi tiêu tối thiểu cụ thể. Quản lý ngân sách

dựa trên cơ sở 0 đã khắc phục những thiếu sót của mô hình ngân sách truyền

thống. Thay vì sử dụng phương pháp gia tăng để soạn lập ngân sách, ngân sách

dựa trên cơ sở 0 không bắt đầu từ ngân sách của năm trước, các hoạt động phải

12

được biện minh dựa trên khả năng và nhu cầu của tổ chức. Trong hệ thống này,

hiệu quả của ngân sách được nhấn mạnh, trong đó nhấn mạnh việc kiểm soát sự

gia tăng chi tiêu.

- Tiếp theo, từ những năm 1990, mô hình được ưa thích là mô hình quản

lý ngân sách dựa trên kết quả đầu ra. Mô hình này được phát triển dựa trên các

ý tưởng chính của quản lý công mới, như Chan (2002) đề cập, là tập trung vào

việc đạt được kết quả; tạo ra các tổ chức, nhân sự và yêu cầu linh hoạt hơn;

thiết lập mục tiêu với các chỉ số để đo lường kết quả. Mặc dù, ngân sách dựa

trên kết quả đầu ra được coi là phương tiện giúp cải thiện hiệu quả của các tổ

chức công và được áp dụng phổ biến nhưng việc áp dụng không đồng nhất giữa

các tổ chức. Mức độ áp dụng phụ thuộc vào tổ chức đó là đơn vị chi tiêu hay

đơn vị tạo thu nhập. Trong trường hợp tổ chức đó là đơn vị chi tiêu, các chỉ tiêu

kỹ thuật được áp dụng đo lường cả đầu vào và đầu ra của tổ chức; đối với đơn

vị tạo thu nhập, các chỉ tiêu tài chính kỹ thuật sẽ được áp dụng đo lường cho

các đầu ra (Jordan and Hackbart, 1999).

Về bản chất ngân sách dựa trên kết quả đầu ra được coi là sự kết hợp

giữa quản lý ngân sách với mô hình quản lý theo kết quả đầu ra. Theo đó,

quá trình quản lý kết quả đầu ra gồm 4 giai đoạn: (i) lập kết quả đầu ra; (ii)

huấn luyện và phản hồi hàng ngày; (iii) kiểm tra kết quả quý; (iv) xem xét lại

kết quả chính thức. Trong đó, nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của các

bên liên quan trong quản lý kết quả đầu ra; phân tích các bên liên quan;

chiến lược và định hướng các bên liên quan; hợp nhất phiếu ghi điểm các

bên liên quan vào kết quả đầu ra (Rodney McAdam, Shirley-Ann Hazlett,

Christine Casey, 2005).

Các yếu tố cấu thành ngân sách dựa trên kết quả đầu ra và áp dụng ngân

sách dựa trên kết quả đầu ra trên thực tiễn:

+ Các yếu tố của mô hình quản lý theo đầu ra gồm:

- Đầu vào (input) là những nguồn lực được các tổ chức sử dụng để tạo

13

nên đầu ra. Những thông tin về đầu vào sẽ cho biết bản chất, trạng thái và giá

trị của những nguồn lực được sử dụng. Chi phí là số tiền được chi ra để trang

trải cho đầu vào. Chi phí bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.

- Hoạt động (activities) hay quy trình là quá trình chuyển hoá các yếu tố

đầu vào thành đầu ra.

- Đầu ra (output) là những loại hàng hóa và dịch vụ do các tổ chức sản

xuất ra, góp phần nhằm đạt được các mục tiêu chính sách của chính phủ. Hiện

nay, báo cáo các thông tin về đầu ra là yêu cầu chuẩn mực của tất cả các cơ

quan, tổ chức trên khắp thế giới. Theo dõi mức độ đạt được đầu ra là một cách

quản lý tốt.

- Kết quả (Outcome) là tác động, ảnh hưởng (chủ ý hoặc không chủ ý)

của hàng hoá dịch vụ (đầu ra) đến xã hội. Kết quả được hiểu là những thay đổi

về mức độ phúc lợi của cộng đồng dân cư mà chính phủ muốn đạt được (hoặc ít

ra là muốn theo đuổi) thông qua các chính sách.

+ Các nội dung quản lý theo đầu ra bao gồm:

- Gắn kết giữa chiến lược với mục tiêu và lập kế hoạch cho các đầu ra/kết

quả dự kiến và các hành động.

- Gắn việc phân bổ nguồn lực với việc lập kế hoạch đạt được đầu ra và

kết quả - các ưu tiên.

- Xác định mục tiêu, đo lường chỉ số và báo cáo kết quả đạt được.

- Chú trọng đến việc quản lý và rút kinh nghiệm từ các kết quả hoạt động

đã được cải thiện.

- Tăng cường tính trách nhiệm và tính minh bạch.

Để áp dụng, triển khai phương thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu

ra trên thực tế, nhiều quốc gia và tổ chức đã đưa ra các hướng dẫn khá cụ thể, ví

dụ như tài liệu hướng dẫn áp dụng quản lý theo kết quả đầu ra trong khu vực

công miền Tây nước Úc, nội dung áp dụng gồm: các thành tố của quản lý theo

kết quả; quá trình quản lý theo kết quả; phương pháp tiếp cận quản lý theo kết

14

quả; xác định các dịch vụ và kết quả đầu ra mong muốn; xác định các chỉ số kết

quả; theo dỗi và báo cáo kết quả, quản lý theo kết quả, xây dựng và trình bày

ngân sách. Hoặc trong cuốn Ten Steps to a Results- Based Monitoring and

Evaluation System (Mười bước cho hệ thống theo dõi và đánh giá theo kết quả)

của Jody Zall Kusek and Ray C.Rits (2004), The World Bank (Ngân hàng thế

giới), hướng dẫn 10 bước thực hiện trong hệ thống theo dõi và đánh giá, gồm

đánh giá về sự sẵn sàng; nhất trí về các kết quả đầu ra để theo dõi và đánh giá;

lựa chọn các chỉ số kết quả thực hiện chính để theo dõi và đánh giá; thiết lập

các ranh giới và thu thập dữ liệu về các chỉ số; lập kế hoạch cải thiện – lựa chọn

các chỉ tiêu kết quả. Có thể nói, việc áp dụng phương thức quản lý ngân sách

theo kết quả đầu ra là khá đa dạng và phong phú, được cụ thể hóa khác nhau

tùy thuộc vào bối cảnh của từng quốc gia và từ tổ chức công được áp dụng.

Nhóm thứ ba: Các nghiên cứu về tài chính của chính quyền địa phương.

- Bài viết “Tự chủ tài chính của chính quyền địa phương tại Nigeria”

đăng trên Commonwealth Tạp chí Quản trị địa phương, tháng 7 năm 2010. Bài

viết này đề cập đến các mối quan hệ theo luật định tài chính và tự chủ tài chính

của chính quyền địa phương ở Nigeria, và sự tự do của chính quyền địa

phương để tạo ra doanh thu từ các nguồn được giao mà không có sự can thiệp

từ bên ngoài. Nó tập trung đặc biệt vào một công cụ tài chính được gọi là tài

khoản Nhà nước phân cho chính quyền địa phương và cách hoạt động của nó

đã có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến quyền tự chủ tài chính của hội đồng

chính quyền địa phương và các liên hệ giữa nhà nước và chính quyền địa

phương ở Nigeria.

- Hội nghị lần thứ ba về "Phân cấp và Tài chính địa phương " tại Viện

Nghiên cứu Chính sách, Tokyo, Nhật Bản vào ngày 10 tháng 3 năm 2009. Bài

viết "Phân cấp, cải cách tài chính địa phương và các thách thức mới tại

Philippines" của giáo sư, tiến sĩ Gilberto M. Llanto, giảng viên Viện Nghiên

cứu Phát triển Philippine (PID) - Đại học Hành chính Quốc gia và Quản trị

15

Philippines đã thảo luận về cải cách tài chính địa phương ở Philippines. Với nội

dung chính là việc kiểm tra các tiến bộ đạt được trong cải cách tài chính địa

phương và chỉ ra con đường để tiến tới những cải cách đó. Nó được tổ chức

thành bốn phần. Phần 1, giới thiệu tóm tắt những thành tựu hay tác dụng của

phân cấp như một nền tảng cho các cuộc thảo luận về cải cách tài chính địa

phương. Phân cấp đã được các đơn vị chính quyền địa phương ở Philippines có

trách nhiệm lớn trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cho người dân

địa phương. Điều này đã được thuyết phục, được hoạch định chính sách về tầm

quan trọng của việc các đơn vị chính quyền địa phương nâng cao doanh thu cần

thiết. Phần 2, thảo luận về cách phân bổ thuế không hiệu quả đã tạo ra vấn đề ở

cấp địa phương. Nó cũng trình bày tình hình việc chuyển giao tài chính liên

chính phủ, gọi là "giao doanh thu nội bộ", là một nguồn doanh thu đáng kể cho

các đơn vị chính quyền địa phương, góp phần làm tăng tầm quan trọng của việc

xem xét lại các công thức doanh thu giao nội bộ. Phần 3, đưa ra những cải cách

tài chính địa phương hiện đang được thực hiện trong lĩnh vực thuế địa phương

và báo cáo quá trình đang được thực hiện ở cấp địa phương và quốc gia. Phần

cuối cùng bình luận về các vấn đề nổi bật trong cải cách tài chính địa phương

và đưa ra một số khuyến nghị.

- Trong nghiên cứu của Odd - Helge Fjeldstad , Lucas Katera , Jamal

Msami và Erasto Ngalewa về “Tài chính Chính quyền địa phương và quản lý

tài chính ở Tanzania - Bằng chứng thực nghiệm về xu hướng 2000 – 2010” với

sự tài trợ của Đại sứ quán Hoàng gia Na Uy, Dar es Salaam. Nghiên cứu này

được tổ chức trên cơ sở của sự hợp tác giữa các thể chế REPOA và Chr.

Michelsen Viện (CMI). Các mục tiêu của chương trình nghiên cứu cung cấp

cho các bên liên quan dữ liệu hoạt động và phân tích các bài học kinh nghiệm

trong quá trình thực hiện. Nghiên cứu này nhằm mục đích thúc đẩy đối thoại,

thông báo các bên liên quan để đảm bảo chính sách đó là một quá trình tư vấn

16

thông tin. Nội dung nghiên cứu cơ bản tập trung vào quá trình dẫn đến sự thay

đổi trong cung cấp dịch vụ ở địa phương.

Báo cáo này xem xét năng lực của các cơ quan chính quyền địa phương ở

Tanzania trong quản lý tài chính và nâng cao doanh thu với việc phân tích các

xu hướng trong trách nhiệm tài chính và hiệu quả cho giai đoạn 2000-2010.

Nghiên cứu này bao gồm sáu hội đồng ở Tanzania: Hội đồng huyện Bagamoyo,

Hội đồng thành phố Ilala, Iringa DC, Kilosa DC, Moshi DC, và Hội đồng thành

phố Mwanza. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng kết hợp các phương

pháp định lượng và định tính, bao gồm hai vòng của một cuộc khảo sát về nhận

thức của công dân trong Hội đồng năm 2003 và 2006. Các chủ đề sau được

nhấn mạnh: (a) mức độ tự chủ tài chính; (b) Phương pháp thu thuế; (c) Quản lý

tài chính, bao gồm cả ngân sách, kế toán, kiểm toán; (d) tính minh bạch trong

các vấn đề tài chính và tài chính; (e) tuân thủ thuế và tham nhũng tài chính.

Dựa trên các bằng chứng thu thập, nghiên cứu kết luận rằng quá trình phân cấp

bằng cách chuyển giao quyền lực theo Chương trình cải cách chính quyền địa

phương đã góp phần nâng cao năng lực cho chính quyền địa phương để quản lý

tài chính.

- Bài viết “Ảnh hưởng của tự chủ tài chính và tăng trưởng kinh tế trên

kết quả quản lý tài chính của địa phương” - Nghiên cứu về tự quản của Chính

quyền địa phương Tỉnh Papua, Indonesia của nhóm tác giả James Paul Alfred

Renyaan, Salim Ubud, M.S. Idrus, Djumahir, Khoa Kinh doanh của Đại học

Brawijaya Malang Indonesia, đăng trên Tạp chí Kinh doanh Quốc tế và Quản lý

Phát minh ISSN (trực tuyến): 2319-8028, ISSN 2319 - 801Xwww.ijbmi.org tập

1 Số 1, 2012 (tr16- tr 21). Mục đích của nghiên cứu này là để điều tra tác động

của quyền tự chủ tài chính và tăng trưởng kinh tế về hoạt động tài chính địa

phương ở tỉnh Papua. Nghiên cứu này sử dụng phân tích, mô tả để xác định đặc

điểm cho mỗi biến, chỉ số về quyền tự chủ tài chính, tăng trưởng kinh tế và hiệu

quả tài chính của địa phương. Kết quả từ nghiên cứu này chỉ ra rằng quyền tự

chủ tài chính khi được quản lý và tăng trưởng kinh tế có thể cải thiện hiệu suất

17

tài chính khu vực bằng cách xem xét các yếu tố như hiệu quả tài chính trong

khu vực. Trong khi tăng trưởng kinh tế không được quản lý đúng cách có thể

làm giảm hiệu lực và hiệu quả của tài chính địa phương.

1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước.

Theo hiểu biết của tác giả, hiện nay chưa có luận án tiến sĩ nào nghiên

cứu về việc thực hiện cơ chế tự chủ tại chính quyền cấp xã nói chung, và cơ chế

tự chủ KPQLHC nói riêng. Các nghiên cứu mới chỉ dừng ở một số nghiên cứu

của các dự án nước ngoài tài trợ cho Việt Nam trong tiến trình cải cách hành

chính; hoặc việc triển khai cơ chế tự chủ tại các cơ quan hành chính nhà nước

cấp tỉnh, cấp huyện và các đơn vị sự nghiệp công, hoặc nghiên cứu trên từng

góc độ riêng biệt về quản lý chi tiêu công, hay quản lý NSX. Cụ thể như sau:

Nhóm thứ nhất: các công trình nghiên cứu việc thực hiện cơ chế tự

chủ kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước theo qui định tại

Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005. Cho đến nay đã có một số đề

tài, bài viết, nghiên cứu liên quan đến cơ chế tự chủ tài chính như:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, nghiên cứu về: Thực trạng và giải

pháp tài chính nhằm thực hiện khoán chi đối với cơ quan hành chính và cơ chế

tự trang trải ở đơn vị sự nghiệp có thu (TS. Bạch Thị Minh Huyền - Chủ nhiệm

đề tài - Năm 2001). Trong đề tài này, tác giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ về

cơ chế, bản chất của việc giao tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với các

CQHC và cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp. Luận giải kỹ về

lý thuyết quản lý theo kết quả đầu ra; tổng kết, đánh giá được kinh nghiệm của

Thụy Điển, Canada, Công hòa Pháp, Hàn Quốc, Côlômbia, và rút ra những bài

học trong việc vận dụng vào việc thực hiện quản lý kinh phí trọn gói (khoán chi).

- Đề tài nghiên cứu khoa học: “Đánh giá cơ chế tự chủ tài chính trong

một số cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh Bình” năm 2008, của nhóm tác

giả Khoa Quản lý Tài chính công - Học viện Tài chính (TS. Đặng Văn Du –

làm trưởng nhóm). Nhóm tác giả đã khái quát được nội dung cơ bản của Nghị

định 130; Phản ánh được thực trạng triển khai cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý

18

hành chính tại tỉnh Ninh Bình; nghiên cứu đã chỉ ra được những tác động của

cơ chế tự chủ như: (i) Tạo ra được sự chủ động và ý thức tiết kiệm, chống lãng

phí của các cơ quan trong việc sử dụng kinh phí được giao;(ii) Giúp hình thành

và phát triển cách quản lý kinh phí công khai, minh bạch dân chủ trong các cơ

quan nhà nước;(iii) tạo điều kiện để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng

thời, đã chỉ ra được những nguy cơ tiềm ẩn qua cách thức giao và kiểm soát quá

trình tự chủ tại các cơ quan nhà nước tỉnh Ninh Bình. Từ đó, nhóm tác giả đưa

ra một số kiến nghị giúp cho quá trình thực hiện cơ chế tự về KPQLHC tại tỉnh

Ninh Bình đạt hiệu quả hơn. Đồng thời góp thêm tiếng nói cho quá trình hoàn

thiện cơ chế tự chủ trong các CQHC nhà nước ở nước ta những năm tiếp theo.

- Dưới sự tài trợ của SDC (Cơ quan hợp tác và phát triển Thụy Sĩ), dự án

SPAR - Cao Bằng – Nam Định đã nghiên cứu việc triển khai thực hiện chế độ

tự chủ theo Nghị địnhsố 130/2005/NĐ-CP qua “Báo cáo đánh giá việc áp dụng

cơ chế tự chủ tại Cao Bằng và Nam Định” của nhóm tác giả - Học viện Tài

chính và Học viện Hành chính Quốc gia (PGS.TS Lê Chi Mai – Học viện

HCQG làm trưởng nhóm) vào tháng 3 năm 2007. Những nghiên cứu của dự án

được thực hiện tại hai địa phương cấp tỉnh của Việt Nam là tỉnh Cao Bằng và

Nam Định nhưng đã cố gắng xây dựng quy trình thực hiện chế độ chung cho cả

nước. Đây có thể coi là một đóng góp hết sức có ý nghĩa của Dự án đối với tiến

trình cải cách hành chính nói chung và cải cách tài chính nói riêng ở Việt Nam.

- Tại Hội nghị tổng kết Nghị định 130/CP ngày 30/3/2012, Bộ Tài chính

cùng với Bộ Nội vụ đã có “Báo cáo Tổng kết đánh giá 6 năm (2006-2011) triển

khai thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ

quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí

quản lý hành chính đối với cơ quan Nhà nước và một số kiến nghị, giải pháp

thực hiện trong giai đoạn 2013-2020”. Báo cáo đã nêu tình hình triển khai thực

hiện Nghị định số 130/CP ở các Bộ ban ngành và các địa phương cũng như kết

quả đạt được, đưa ra những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất định hướng sửa đổi

19

cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý

hành chính đối với cơ quan nhà nước trong thời gian tới. Tuy nhiên báo cáo này

tổng kết các số liệu còn mang tính tổng thể, chưa đi vào cụ thể các nguyên nhân

từ phía địa phương cũng như cụ thể cho các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh.

Nhóm thứ hai: các công trình nghiên cứu về cải cách tài chính công ở

Việt Nam.

- Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước: “Nghiên cứu các giải pháp chủ

yếu để đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta hiện nay ” - ( Mã số: ĐTĐL –

2003/09 do TS. Nguyễn Ngọc Hiến - Học viện Hành chính Quốc gia chủ nhiệm

đề tài năm 2005). Đề tài đã đánh giá việc thực hiện giải pháp cải cách tài chính

công trong các cơ quan nhà nước. Trong đó, đề tài chỉ rõ các động thái và xu

hướng vận động lớn về cải cách tài chính công ở nước ta; cơ chế lập dự toán và

cấp phát kinh phí từ NSNN đối với CQHCNN; tình hình quản lý, sử dụng các

nguồn lực tài chính công trong CQHCNN thực hiện cơ chế khoán biên chế và

kinh phí quản lý hành chính. Từ đó, đề tài đã tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả

sử dụng các nguồn tài chính công trong các CQHCNN.

- Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Trần Trí Trinh, năm 2007: “Nghiên

cứu các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh cải cách hành chính ở Việt Nam”. Tác giả

đã nghiên cứu có hệ thống về quá trình cải cách hành chính ở nước ta trong

những năm qua; phân tích thực trạng triển khai các giải pháp cải cách hành

chính ở nước ta từ khi bắt đầu công cuộc cải cách hành chính và đề ra các giải

pháp để tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn 2006 – 2010 với 4 nội

dung trọng điểm (trong đó có nội dung quan trọng là cải cách tài chính công

theo hướng giao tự chủ cho các CQHC và ĐVSN) theo tinh thần của Quyết

định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ Chính Phủ về

chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010.

Những kết quả đạt được của luận án sẽ là cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo

về cải cách quản lý chi tiêu công theo kết quả đầu ra ở Việt Nam.

20

- Đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị dự toán

trong tiến trình cải cách tài chính công ở Việt Nam” của tiến sĩ Nguyễn Hồng

Hà – 2013- Học viện Tài chính. Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về

cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị dự toán, xác định những nhân tố ảnh

hưởng đến cơ chế quản lý tài chính, từ đó tác giả luận án đãnh giá thực trạng

quản lý tài chính tại các đơn vị dự toán ở Việt Nam; một số giải pháp đổi mới

quy trình dự toán cũng như thay đổi phương thức cấp phát ngân sách được tác

giả đưa ra khá cụ thể và rõ nét. Tuy nhiên, để áp dụng cơ chế tự chủ tài chính

đối với chính quyền cấp xã sẽ có đặc thù riêng cần được tiếp cận và nghiên cứu

cụ thể.

Nhóm thứ ba: Một số cuốn sách, đề tài, bài viết nghiên cứu về quản lý

theo kết quả đầu ra

Một số nghiên cứu về quản lý theo kết quả đầu ra trong tiến trình thực

hiện cải cách hành chính ở Việt Nam sẽ có giá trị nghiên cứu liên quan trực tiếp

đến đề tài:

- Việc nghiên cứu và vận dụng quản lý theo kết quả đầu ra vào Việt Nam

đã được một số nhà khoa học trình bày, có thể kể đến các ấn phẩm của Sử Đình

Thành (2004), Phạm Ngọc Dũng và Hoàng Thị Thúy Nguyệt (2008), Nguyễn

Hồng Hà (2013), Lê Chi Mai (2013),... theo đó các nội dung có liên quan đến

quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra được đề cập chủ yếu bao gồm: đặc điểm

của mô hình quản lý theo kết quả đầu ra, tầm quan trọng của việc áp dụng quản

lý theo kết quả đầu ra vào quản lý ngân sách ở Việt Nam, lập kế hoạch ngân

sách theo kết quả đầu ra, các giải pháp định hướng để áp dụng quản lý theo kết

quả đầu ra vào Việt Nam. Tuy nhiên, các tài liệu này vẫn chưa đề xuất được các

yếu tố cụ thể cần thiết để áp dụng quản lý theo kết quả đầu ra vào những trường

hợp cụ thể. Nhưng kết quả của các nghiên cứu đã thúc đẩy tiến trình cải cách tài

công ở Việt Nam, cụ thể là việc triển khai cơ chế tự chủ tại các tổ chức công.

- Đề tài khoa học cấp cơ sở do Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Hải làm chủ

21

nhiệm (12/2011): “Mô hình quản lý thực thi công vụ theo định hướng kết quả:

Lý luận và thực tiễn”. Liên quan đến quản lý theo kết quả, đề tài cung cấp một số

vấn đề lý luận về mô hình quản lý thực thi công vụ theo định hướng kết quả như:

một số khía niệm liên quan đến quản lý thực thi công vụ theo kết quả; các cấp độ

quản lý thực thi công vụ theo kết quả; Quy trình quản lý thực thi công vụ theo

kết quả. Đề tài này cũng cung cấp một số thực tiễn áp dụng mô hình quản lý thực

thi công vụ theo định hướng kết quả ở một số nước trên thế giới như: Anh, Mỹ,

Pháp, Thái Lan, Úc, Niu Di Lân và đề xuất một số giải pháp để áp dụng mô hình

quản lý thực thi công vụ theo định hướng kết quả ở Việt Nam.Với phương thức

này, việc xây dựng và phân bổ dự toán ngân sách phải có mối liên hệ chặt chẽ

giữa mức dự toán ngân sách dự kiến sẽ cấp với việc thực hiện mục tiêu, qua đó

sẽ đạt được một kết quả đầu ra. Phương thức quản lý này cũng đòi hỏi những

thay đổi trong khuôn khổ luật pháp, thể chế, cách thức xây dựng và điều hành kế

hoạch ngân sách cũng như văn hóa quản lý theo hướng đảm bảo trách nhiệm giải

trình về kết quả hoạt động.

- Bài viết trên tạp san số 2/2007: “Hệ thống quản lý theo kết quả - Một

công cụ quản lý cần được tiếp cận và áp dụng” của tác giả Nguyễn Văn Khoa,

Trung tâm Thông tin tư liệu KH&CN. Trong bài viết này tác giả đã phân tích

bản chất của quản lý theo kết quả, quy trình quản lý theo kết quả, lợi ích do

quản lý theo kết quả mang lại.

- Bài viết: “Quản lý theo kết quả” của Tiến sĩ Nguyễn Công Phú và Thạc

sĩ Trần Nam Trung, Công ty Apave Việt Nam và Đông Á đăng trên trang web

htt///www.Apave.com.vn. Bài viết bàn về lợi ích của quản lý theo kết quả và

những điểm cần lưu ý khi vận dụng hệ thống này vào các tổ chức công và tư.

- Bài viết kinh nghiệm quản lý ngân sách một số nước của tác giả Trần Thị

Lan Hương (2015)- tạp chí tài chính đã trình bày về việc áp dụng điều hành ngân

sách theo kết quả đầu ra ở Cộng hòa Liên bang Đức vào những năm 2000. Trong đó

việc điều hành ngân sách theo định hướng kết quả đầu ra được xây dựng trên các

22

điều luật nguyên tắc cơ bản, điều luật ngân sách Liên bang, quy định điều hành

ngân sách thông qua kết quả được định nghĩa cả về số lượng và chất lượng. Các đơn

vị thực hiện theo phương thức điều hành mới với cơ chế khoán chi dựa trên kết quả,

trong đó bao gồm: Phân cấp và gắn trách nhiệm chuyên môn với trách nhiệm tài

chính, định hướng theo mục tiêu và hoạt động của cơ quan hành chính, cải cách

ngân sách và kế toán…Các đơn vị được giao nhiệm vụ xác định rõ ràng về trách

nhiệm, kinh phí và thẩm quyền để thực hiện theo một hệ thống phân cấp trách

nhiệm cho đơn vị đó trong khuôn khổ tài chính của mình và với khối lượng kết quả

quy định trước tự quyết định việc sử dụng kinh phí phù hợp nhu cầu về thời gian,

bản chất và về nguyên tắc không vượt quá khuôn khổ tài chính cho phép. Khi lập kế

hoạch gắn với đầu ra, kế hoạch ngân sách bao gồm kế hoạch công việc, kế hoạch

kết quả và kế hoạch tài chính. Quyết toán ngân sách được thực hiện trên cơ sở chế

độ kế toán kép có tính toán chi phí và hiệu quả thông qua quyết toán kết quả, tài sản

và tài chính được bổ sung trên báo cáo về công việc.

1.3. “Khoảng trống” trong nghiên cứu về cơ chế tự chủ đối với chính

quyền cấp xã.

Từ tổng quan các nghiên cứu nêu trên, có thể nói rằng, đã có rất nhiều

nhà khoa học trong nước và nước ngoài nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn về tài chính địa phương và quản lý theo kết quả ở một số quốc gia trên

thế giới. Một số nghiên cứu đã chỉ rõ tầm quan trọng của việc tự chủ tài chính

đối với chính quyền địa phương, lập kế hoạch ngân sách theo kết quả đầu ra,

các giải pháp định hướng để áp dụng quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra.

Đối với việc nghiên cứu cách thức quản lý ngân sách trong tổ chức công

ở Việt Nam, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào cơ chế tự chủ tài chính của

các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập. Các nghiên

cứu này dành phần lớn khối lượng nghiên cứu đánh giá thực trạng và đưa ra các

giải pháp để hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính cho cấp tỉnh, cấp huyện và tại

các cơ quan, đơn vị. Vì vậy, có thể nói rằng, khoảng trống nghiên cứu cần được

23

lấp đầy là vấn đề: (1) Xây dựng khái niệm, làm rõ nội hàm và tìm ra các nhân

tố ảnh hưởng của cơ chế tự chủ về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã. (2)

Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cơ chế tự chủ về về KPQLHC đối với

chính quyền cấp xã. (3) Xây dựng một qui trình cụ thể để triển khai cơ chế tự

chủ về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã. Hướng dẫn chi tiết việc xây dựng

qui chế chi tiêu nội bộ cho chính quyền cấp xã. (4) Xây dựng tiêu chí đánh giá

mức độ hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền cấp xã và CBCC xã.

Có thể thấy, dưới góc độ lý luận, việc làm rõ khái niệm và nội hàm về cơ

chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã ở Việt Nam sẽ góp phần bổ

sung cho lý thuyết về cơ chế tự chủ tài chính hướng tới quản lý ngân sách theo

kết quả đầu ra trong bối cảnh chuyển đổi nền hành chính Việt Nam từ nền hành

chính tập trung sang nền hành chính có sự phân cấp, phân quyền nhiều hơn.

Về phương diện thực tiễn, việc triển khai áp dụng cơ chế tự chủ tại chính

quyền cấp xã là bắt buộc, đồng thời Luật ngân sách nhà nước số 83 (2015) đã

giao cho Chính phủ quy định việc thực hiện quản lý ngân sách theo kết quả

thực hiện nhiệm vụ (Khoản 15 -Điều 25) và vai trò trách nhiệm của thủ trưởng

đơn vị sử dụng NS (khoản 1- Điều 61). Theo đó, việc triển khai cơ chế tự chủ ở

chính quyền cấp xã kết hợp với mô hình quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra

là điều tất yếu trong thời gian tới. Vì vậy, việc đánh giá mức độ hoàn thiện của

cơ chế tự chủ về KPQLHC, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên

nhân của hạn chế sẽ là cơ sở cần thiết để xây dựng các giải pháp chi tiết nhằm

hoàn thiện cơ chế tự chủ KPQLHC tại chính quyền cấp xã, có cơ sở khoa học

cho việc chuyển đổi mô hình quản lý ngân sách xã trên thực tiễn trong thời gian tới.

24

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1, tập trung tổng quan các nghiên cứu về quản lý ngân sách theo

kết quả đầu ra trong mô hình quản lý công mới; các nghiên cứu về tự chủ tài

chính địa phương của chính quyền địa phương một số nước; quá trình triển khai

cơ chế tự chủ tài chính đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức nói chung và cơ chế

tự chủ KPQLHC đối với các cơ quan nhà nước nói riêng trong tiến trình cải

cách tài chính công ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Các phát hiện trong chương

1 sẽ là cơ sở nghiên cứu lí thuyết tại chương 2 và cơ sở nghiên cứu thực trạng

tại chương 3.

Tổng quan các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy các nghiên cứu này

thường tập trung phân tích thực trạng triển khai cơ chế tự chủ tại các cơ quan

hành chính nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện và trong các đơn vị sự nghiệp công

lập. Các báo cáo, bài viết về cơ chế tự chủ mang tính khái quát chung, trên cơ

sở các khuyến nghị tăng cường tính tự chủ là phù hợp với từng thời kỳ nhất

định. Việc vận dụng mô hình quản lý quản lý công mới và quản lý ngân sách

theo kết quả đầu ra sẽ có tác động tích cực đến việc nghiên cứu thay đổi

phương thức quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính (trong đó cơ chế tự

chủ KPQLHC là một phần) và việc triển khai thực hiện quản lý ngân sách theo

kết quả đầu ra tại Việt Nam.

Đối với các nghiên cứu về cơ chế tự chủ KPQLHC tại chính quyền

cấp xã ở Việt Nam hầu như chưa có. Vì vậy, việc nghiên cứu đầy đủ và toàn

diện luận án này sẽ tiếp tục góp phần hoàn thiện cơ chế tự chủ KPQLHC – một

giải pháp có tính hiện thực và khả thi trong số các giải pháp để cải cách tài

chính công, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính bộ máy nhà

nước.

25

Chương 2

LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ KINH

PHÍ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

2.1. Khái quát về chính quyền cấp xã và quản lý ngân sách xã.

2.1.1. Chính quyền cấp xã trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước

Nhà nước của một quốc gia là một tổ chức có số lượng người tham gia

làm việc lớn nhất và có quy mô hoạt động rộng lớn trên nhiều phương diện khác

nhau, trên mọi vùng của lãnh thổ quốc gia. Đó là một tổ chức có quyền lực đặc

biệt mà không một tổ chức nào có được - quyền lực nhà nước. Nhà nước là một

tổ chức lớn, chặt chẽ, do đó xét trên phương diện tổ chức thường được gọi là bộ

máy nhà nước.

Đó là một hệ thống bao gồm nhiều cơ quan nhà nước có tính chất, vị trí,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức khác nhau, có quan hệ mật

thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất, hoạt động theo những nguyên tắc

chung do hệ thống pháp luật quy định mà đứng đầu là Hiến pháp của quốc gia đó.

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là tổ chức quyền lực

chính trị của nhân dân Việt Nam, đại diện cho nhân dân thực hiện quản lý

thống nhất mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế,

chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Để thực hiện nhiệm vụ trên, hệ thống

các cơ quan nhà nước được lập ra. Mỗi cơ quan nhà nước là một bộ phận cấu

thành của bộ máy nhà nước, đảm nhận những chức năng, nhiệm vụ nhất định

của nhà nước, có cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với tính

chất, chức năng, nhiệm vụ được trao. Cùng với chức năng, nhiệm vụ, nhà nước

còn trao cho các cơ quan những thẩm quyền tương ứng. Các cơ quan nhà nước

sử dụng thẩm quyền vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy

định của pháp luật

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, “Chính quyền địa phương được tổ

chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

26

Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành

chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Như vậy, chính quyền cấp xã bao gồm:

Hội đồng nhân dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp xã. Đây là cấp chính quyền

có số lượng lớn nhất và có đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội đa dạng nhất

trong các loại hình đơn vị hành chính. Chính quyền cấp xã (xã, phường, thị

trấn) là một cấp chính quyền địa phương bao gồm HĐND và UBND. Trong đó,

UBND cấp xã có hai tư cách trong một thể thống nhất:

- Thứ nhất, UBND xã là cơ quan chấp hành của HĐND xã. Tính chất

chấp hành của UBND xã thể hiện ở chỗ nó chịu trách nhiệm chấp hành các

nghị quyết của HĐND xã, báo cáo công việc trước HĐND cùng cấp và UBND

cấp trên. HĐND xã có quyền bãi miễn các thành viên của UBND xã, giám sát

các hoạt động và bãi bỏ những quyết định không thích đáng của UBND xã.

UBND xã chịu sự giám sát của HĐND xã và đôn đốc của thường trực HĐND xã.

- Thứ hai, UBND xã là cơ quan HCNN ở cơ sở. UBND xã không chỉ

chấp hành các Nghị quyết của HĐND cùng cấp mà còn chấp hành các quyết

định của cơ quan chính quyền cấp trên, thi hành luật thống nhất trên cả nước; tổ

chức quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở, đảm bảo bộ máy hành chính đó hoạt

động thông suốt. UBND cấp xã là cơ quan HCNN có thẩm quyền chung, vừa

chấp hành cơ quan quyền lực nhà nước tại xã, vừa chịu trách nhiệm thi hành

mệnh lệnh, chỉ thị của cơ quan hành chính cấp trên, thực thi các hoạt động quản

lý HCNN trên địa bàn xã theo đúng qui định của pháp luật.

Như vậy, chính quyền cấp xã là một khái niệm hành chính ở cơ sở, ổn

định. Cơ sở nhìn theo chiều từ trên xuống, xét về quy mô và cấp độ tổ chức là

cấp thấp nhất, cấp cuối cùng.

Từ những phân tích trên tác giả cho rằng: “Chính quyền cấp xã là thiết

chế nhà nước ở địa phương, một bộ phận cấu thành của bộ máy hành chính

27

nhà nước thống nhất, nhằm bảo đảm việc thực thi Hiến pháp và pháp luật, tổ

chức quản lý các mặt của đời sống xã hội ở xã theo quy định của pháp luật”.

2.1.2. Vai trò, nhiệm vụ, đặc điểm, cách phân loại chính quyền cấp xã

* Vai trò của chính quyền cấp xã

Chính quyền cấp xã là nơi chứng thực đường lối, chính sách, luật pháp

của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Để cấp xã “làm được việc”, bên cạnh

sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, sự tham gia của các tổ chức chính trị

- xã hội, sự tận tụy, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức và những người

hoạt động không chuyên trách,… thì việc xác định minh bạch, rõ ràng vai trò,

nhiệm vụ và tổ chức của chính quyền cấp xã giữ một vai trò rất quan trọng.

Vai trò của chính quyền xã thể hiện tính chất đặc thù của hệ thống chính

quyền ở cơ sở; đồng thời, phản ánh tính chất tự quản khá cao của nó, nhất là

trong bối cảnh xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với

sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập

quốc tế hiện nay. Chính quyền cấp xã có các vai trò là:

- Cầu nối giữa Nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã;

- Đại diện cho Nhà nước và nhân danh Nhà nước để thực thi quyền lực

nhà nước;

- Trực tiếp triển khai, tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương, chính

sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ở xã;

- Điều tiết sự tự quản của các thôn/làng trên địa bàn xã về phát triển nông

thôn. Vì thế, hiện nay yêu cầu đặt ra đối với chính quyền xã là:

- Phải đủ mạnh, thể hiện đầy đủ quyền lực của mình trong thực hiện chức

năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó;

- Đồng thời, phải mềm dẻo, linh hoạt trong tiếp xúc, làm việc với người

dân - những người luôn luôn bị các mối quan hệ cộng đồng truyền thống chi

phối, nhằm đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi đa dạng của mỗi người dân, mỗi dòng họ,

28

mỗi thôn làng, sao cho vừa đúng pháp luật, vừa phù hợp với truyền thống và

điều kiện của mỗi địa phương, mỗi tộc người.

* Nhiệm vụ của chính quyền cấp xã

Chính quyền cấp xã có nhiệm vụ quản lý nhà nước ở địa phương trong

các lĩnh vực:

- Tuyên truyền giáo dục pháp luật, chấp hành theo Nghị quyết của

HĐND xã và các văn bản của CQNN cấp trên.

- Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quản lý hộ tịch, hộ khẩu, việc

cư trú của người dân tại địa phương

- Phòng chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ tài sản của nhà nước và người

dân trên địa bàn xã.

- Quản lý đội ngũ CBCC xã.

- Tổ chức chỉ đạo việc thu, chi ngân sách xã. Phối hợp với các cơ quan

hữu quan đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các nguồn thu trên đại bàn.

CHấp hành chi theo đúng các điều kiện đảm bảo tiết kiệ, hiệu quả.

- Tiếp công dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo xảy ra trên địa bàn và

tiếp thu kiến nghị của nhân dân…

* Đặc điểm của chính quyền cấp xã

Chính quyền cấp xã là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước. Nó

có đầy đủ đặc điểm của một cơ quan HCNN, đồng thời lại có những đặc thù so

với các cơ quan HCNN khác. Những đặc điểm chung thể hiện ở những điểm sau:

- Thứ nhất, cơ quan HCNN nhân danh nhà nước khi tham gia vào các

quan hệ pháp luật.

- Thứ hai, cơ quan HCNN được sử dụng quyền lực nhà nước. Biểu hiện ở

quyền ban hành các văn bản pháp luật …có hiệu lực thi hành bắt buộc với các

đối tượng có liên quan. Cơ quan HCNN có thể áp dụng các biện pháp cưỡng

chế hành chính khi cần thiêt.

29

- Thứ ba, tổ chức và hoạt động của cơ quan HCNN được thực hiện dựa

trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ngoài ra, chính quyền cấp xã có những đặc điểm, đặc thù phân biệt với

các cơ quan HCNN khác:

Thứ nhất, xã là một cấp chính quyền trong tổ chức của CQĐP, trong tổng

thể một quốc gia đơn nhất, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,

phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó bộ máy nhà nước gồm: bộ máy nhà

nước ở trung ương và chính quyền địa phương. Trong quan hệ quyền lực theo

chiều dọc, quyền lực nhà nước phải xác định theo các cấp đơn vị hành chính –

lãnh thổ theo các mục tiêu, mức độ phân cấp, phân quyền, giữa các cấp hành

chính – lãnh thổ. Đối với chính quyền cấp xã là cấp chính quyền chịu trách

nhiệm quản lý ở vùng lãnh thổ được xác định ở phạm vi nhỏ, tuân thủ sự lãnh

đạo của cấp tỉnh, cấp huyện và triển khai trực tiếp các chính sách xuống đời

sống của nhân dân; bên cạnh đó tính chất kép đảm bảo chính quyền cấp xã

được giao quyền ở một địa bàn, là tổ chức của cộng đồng dân cư để thực hiện

quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ hai, tính chất kép của chính quyền cấp xã xác định hai vai trò trong

mối quan hệ giữa nhà nước và các cộng đồng dân cư, giữa tập trung và dân chủ

trong đời sống. Vai trò thứ nhất là đại diện cho quyền lực nhà nước, chính

quyền cấp xã là công cụ nhà nước nhằm thực thi quyền lực, luật pháp ở xã,

trong mối quan hệ này chính quyền cấp xã tồn tại trong mối quan hệ quyền uy

và phục tùng cấp trên. Vai trò thứ hai, chính quyền cấp xã có nhiệm vụ giải

quyết các công việc của xã, đại diện cấp hành chính trong mối quan hệ với cấp

trên, đồng thời có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của xã không

chỉ trong mối quan hệ với cơ quan nhà nước cấp trên mà còn trong mối quan hệ

với các địa phương khác, đảm bảo vị trí vừa phụ thuộc, vừa có vị trí độc lập

[49, tr.52].

30

Thứ ba, các dịch vụ do chính quyền cấp xã cung cấp thể hiện tính chất

của hàng hoá công cộng, đó là:(i) không cạnh tranh và không loại trừ; (ii) Khó

đo lường kết quả); (iii) Gắn trực tiếp với nhu cầu, lợi ích hàng ngày và chịu sự

giám sát trực tiếp của người dân .

(i) Tính không cạnh tranh và không loại trừ: Dịch vụ hành chính công

được cung cấp bởi chính quyền cấp xã, vừa đáp ứng nhu cầu của người dân và

các tổ chức trong xã hội, vừa thể hiện chức năng quản lý xã hội của nhà nước

tại cơ sở, do vậy nó được cung cấp cho người dân mà không thu tiền hoặc chỉ

thu một khoản lệ phí tượng trưng. Thực chất dịch vụ hành chính công mà chính

quyền các xã cung cấp là hàng hóa không thu tiền trực tiếp, hoặc chỉ thu trực

tiếp một phần, nghĩa là những người thụ hưởng không phải trả tiền trực tiếp

hoặc trả thấp hơn so với giá trị dịch vụ họ được hưởng. Việc trả tiền thực sự

cho các dịch vụ này được thực hiện thông qua các khoản thuế nộp vào NSNN,

từ nguồn ngân sách đó nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng của mình,

trong đó có một phần chi cho bộ máy chính quyền cấp xã hoạt động để cung

cấp dịch vụ trở lại cho người dân trên địa bàn xã. Mọi người dân và tổ chức

trên địa bàn xã đều có quyền được cung cấp đầy đủ các dịch vụ hành chính

công, chính quyền xã phải có nghĩa vụ đảm bảo điều đó, vì thế dịch vụ hành

chính công không có sự cạnh tranh trong tiêu dùng.

(ii) Khó đo lường kết quả: Dịch vụ hành chính công là các công việc mà

chính quyền cấp xã cung cấp cho người dân và các tổ chức, các công việc này

thể hiện một phần tính công quyền của nhà nước ở trong đó. Vì vậy, dịch vụ

hành chính công không có sự cạnh tranh trong việc cung cấp sản phẩm, do đó

không có căn cứ chính xác để so sánh, đánh giá kết quả của dịch cụ được cung

cấp. Mặt khác, dịch vụ hành chính công được cung cấp cho các đối tượng

người dân và tổ chức trong xã hội một cách rất đa dạng, chất lượng của dịch vụ

tuỳ theo sự đánh giá của từng đối tượng tiếp nhận, chưa có một căn cứ theo dõi

để đánh giá kết quả của dịch vụ hành chính công. Dịch vụ hành chính công có

31

thể phải trải qua nhiều công đoạn mới đến được với người dân, trong quá trình

đó, nó chịu nhiều tác động của cả yếu tố khách quan và chủ quan, do vậy việc

đánh giá, đo lường kết quả là không đơn giản.

Chính quyền cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước để thực hiện

cung cấp dịch vụ hành chính công đáp ứng cho nhu cầu của các chủ thể trong

xã hội, và thông qua đó khẳng định vai trò quản lý xã hội của mình. Trong khi

đó, các đối tượng có nhu cầu về dịch vụ hành chính công mà việc trả tiền cho

nó không được tiến hành theo phương pháp ngang giá. Các khách hàng sử dụng

dịch vụ hành chính công có thể phải trả giá cao hơn giá thành của nó, hoặc thấp

hơn (tuỳ vào số thuế họ đã phải đóng cho nhà nước) và họ cũng không có cơ sở

để so sánh giá trị của dịch vụ hành chính công với giá trị sử dụng của nó. Chính

vì đặc điểm đó mà các hoạt động đảm bảo cho việc cung cấp dịch vụ hành

chính công cần được quản lý chặt chẽ, cần được nhà nước cam kết về chất

lượng của dịch vụ. Nhà nước cần có cơ chế tài chính phù hợp khuyến khích

việc cung cấp dịch vụ hành chính công tại chính chính quyền cấp xã. Một cách

tương đối, nhà nước đảm bảo quyền tự chủ về KPQLHC để chính quyền cấp xã

chủ động bố trí, sắp xếp tổ chức bộ máy, cũng như các hoạt động nhằm cung

cấp cho người dân trên địa bàn những dịch vụ hành chính công tương ứng với

chi phí họ đã bỏ ra đóng góp một phần vào NSNN.

Bộ máy chính quyền cấp xã cồng kềnh, hoạt động không hiệu quả là

nguyên nhân dẫn đến các hệ quả như: tham nhũng, lãng phí, đói nghèo, kém

phát triển… Một bộ máy hành chính tinh gọn, hoạt động có hiệu quả cao sẽ tạo

ra những tác động to lớn như: sử dụng tiết kiệm nguồn NSNN, cung cấp các

dịch vụ công có chất lượng tạo động lực khuyến khích phát triển toàn diện kinh

tế - xã hội ở địa phương. Điều đó cho thấy cải cách hành chính, xây dựng bộ

máy chính quyền cấp xã tinh gọn, chất lượng là điều kiện quan trọng để thúc

đẩy phát triển toàn diện kinh tế - xã hội tại địa phương.

32

(iii) Gắn trực tiếp với nhu cầu, lợi ích hàng ngày và chịu sự giám sát

trực tiếp của người dân. Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp liên hệ với dân giải

quyết công việc của dân, gắn bó với đời sống nhân dân, do dân, vì dân, hướng

dẫn và giám sát các hoạt động tự quản của nhân dân, tạo điều kiện trực tiếp để

nhân dân phát huy mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội. Chính quyền xã

phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình

mục tiêu quốc gia nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp, xóa đói, giảm nghèo,

nâng cao đời sống người nông dân, cung cấp dịch vụ gắn với bình đẳng giới

đầu tư chăm lo lợi ích công cộng, hệ thống đê điều thủy lợi; hỗ trợ hình thành

các mô hình kinh tế mới, như trang trại, làng sinh thái, làng nghề, làng nông

nghiệp công nghệ cao..., liên kết xã hội ở nông thôn, thúc đẩy quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn trong giai đoạn hiện nay.

Thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò giám sát của người

dân, chính quyền cấp xã đã thực hiện việc công khai kịp thời các nội dung theo

quy định, như tình hình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; lấy

ý kiến của nhân dân về việc nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công tại

xã; triển khai các chương trình, quy hoạch sử dụng đất đai, chương trình, dự án

xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Công tác tiếp dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo của công dân tiếp tục được cấp ủy, chính quyền các xã thực

hiện theo luật định. Một số địa phương chú trọng phát huy sáng kiến và tinh

thần làm chủ của nhân dân trong việc quản lý xã hội và cộng đồng. ghi nhận

các ý kiến, kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Ban TTND

và Ban GSĐTCĐ. Ban Công tác Mặt trận khu phố để nắm bắt tình hình thực

địa tại công trình, kịp thời tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân; thực

hiện quy chế dân chủ cơ sở thông qua việc công khai, minh bạch dự án, công

trình đầu tư thực hiện chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”

gắn với phản biện của nhân dân nhằm khắc phục hạn chế, khuyết điểm của

chính quyền cấp xã và tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

33

* Phân loại đơn vị hành chính xã

Các đơn vị hành chính xã hiện nay được phân loại theo các tiêu chí: (i)

Dân số; (ii) Diện tích; (iii) Các yếu tố đặc thù. Ở mỗi khu vực, vùng miền khác

nhau thì các tiêu chí đó được xác định và tính điểm khác nhau.

* Về dân số: Tính theo số dân trên địa bàn xã, tối thiểu 1000 nhân khẩu ở

xã miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa; 2000 nhân khẩu đối với xã đồng

bằng; 3000 nhân khẩu đối với phường, thị trấn thì được 45 điểm. Sau đó, theo

số nhân khẩu tăng thêm được tính thêm số điểm, nhưng không vượt quá số

điểm tối đa là 200 điểm.

* Về diện tích: Xã miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa có diện tích tự

nhiên dưới 1.000 ha được tính 30 điểm; xã và phường ở đồng bằng có diện tích

tự nhiên dưới 500 ha được tính 30. Theo đó cứ 1000 ha được tăng 10 điểm

nhưng không vượt quá số điểm tối đa là 100 điểm.

* Về yếu tố đặc thù: Các xã đặc biệt khó khăn vùng ven biển, xã, phường,

thị trấn an toàn khu có đông người dân tộc thiểu số, tỷ lệ tín đồ tôn giáo cao

trên 50% được 15 điểm, có số lao động nông – lâm – ngư - diêm nghiệp thấp

được tính 10 điểm. Ngoài ra, còn tính đên yếu tố đặc thù khác như: xã, phường

thị trấn có tỷ lệ thu ngân sách đạt và vượt kế hoạch đều được tính thêm 2 điểm

nhưng không vượt quá 15 điểm.

Căn cứ vào số điểm được tính các xã, phường, thị trấn được phân thành 03

loại như sau:

- Xã, phường, thị trấn loại 1 có từ 221 điểm trở lên;

- Xã, phường, thị trấn loại 2 có từ 141 đến 220 điểm;

- Xã, phường, thị trấn loại 3 có từ 140 điểm trở xuống.

Ngày 22/10/2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, về

chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,

phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị

34

định số 29/2013/NĐ-CP, ngày 8/4/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 92/2009/NĐ-CP; theo đó quy định số lượng người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã theo phân loại đơn vị hành chính tại Nghị định số

159/ NĐ – CP. Xã, phường, thị trấn loại 1: 25 cán bộ; xã, phường, thị trấn loại

2: 23 cán bộ; xã, phường, thị trấn loại 3: 21 cán bộ.

Tuy số lượng CBCC xã khác nhau, nhưng nhìn chung UBND các xã đều

tuân thủ theo mô hình tổ chức sau:

Hình 2.1. Sơ đồ mô hình tổ chức bộ máy UBND xã

2.1.3. Quản lý ngân sách xã

2.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm và mục tiêu quản lý ngân sách xã:

* Khái niệm ngân sách xã

Tài chính xã có lịch sử từ lâu đời, gắn liền với sự hình thành và phát triển

của các làng xã Việt Nam. Tiền thân của tài chính xã đó là sự xuất hiện “quỹ

35

làng”, “quỹ xã”, để hình thành quỹ tài chính đảm bảo cho hoạt động của bộ

máy quản lý làng, xã và một số nhu cầu chung của làng, xã.

Ở mỗi thời điểm lịch sử khác nhau, quan niệm về quản lý, sử dụng các

quỹ tài chính của xã được sử dụng và quy định khác nhau, phù hợp với đặc

điểm và trình độ phát triển của chính quyền nhà nước cấp cơ sở, phù hợp với sự

phát triển của nền kinh tế, xã hội của đất nước.

Trong phạm vi tiếp cận của luận án, khái niệm tài chính xã có thể được

hiểu như sau: Tài chính xã phản ánh các mối quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền

với quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước

cấp xã khi nhà nước cấp xã tham gia phân phối các nguồn tài chính trong nề

kinh tế, nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước cấp xã trên cơ sở luật định.

Có thể thấy, tài chính xã là tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính quốc

gia. Tài chính xã bao gồm: ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của

xã. Trong phạm vi nội dung này của luận án, tác giả tập trung nghiên cứu ngân

sách xã, quản lý ngân sách xã. Theo đó: Ngân sách xã là toàn bộ các khoản

thu, chi của chính quyền cấp xã được dự toán và được cơ quan có thẩm

quyền quyết định, được thực hiện trong một năm nhằm thực hiện các chức

năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã.

Xét về hình thức biểu hiện bên ngoài có thể nhận thấy ngân sách xã là

toàn bộ các khoản thu, chi được dự toán, được HĐND xã quyết định và được

thực hiện trong một năm nhằm đảm bảo nguồn tài chính cho chính quyền cấp

xã trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ về quản lý kinh tế - xã hội trên

địa bàn.

Xét về bản chất, ngân sách xã là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa chính

quyền cấp xã với các chủ thể khác phát sinh trong quá trình phân phối các

nguồn tài chính nhằm tạo lập quỹ ngân sách xã; trên cơ sở đó đáp ứng các nhu

cầu chi gắn với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp

xã. Quản lý ngân sách xã, là việc các nhà quản lý sử dụng các phương pháp,

công cụ quản lý tài chính tác động lên hoạt động thu, chi phát sinh tại xã để

36

thực hiện các chức năng cơ bản từ việc lập kế hoạch ngân sách xã, tổ chức

tạo nguồn và sử dụng nguồn ngân sách xã nhằm đạt mục tiêu đề ra của

chính quyền cấp xã.

* Đặc điểm quản lý ngân sách xã

Quản lý ngân sách nhà nước tại chính quyền cấp xã là sự tác động của bộ

máy nhà nước cấp xã vào quá trình hoạt động của ngân sách cấp xã. Tuy nhiên

đời sống kinh tế xã hội trên địa bàn xã luôn biến động theo thời gian vì vậy

trong thực tế không thể áp dụng được một mô hình quản lý khuôn mẫu, cứng

nhắc mà cần có sự thay đổi linh hoạt thích ứng với mọi biến động của đời sống

xã hội. Quản lý ngân sách tại chính quyền cấp xã có thể khái quát lên thành

những đặc điểm chung như sau:

- Quản lý ngân sách nhà nước tại chính quyền cấp xã là sự quản lý kết

hợp giữa 2 yếu tố: yếu tố con người và yếu tố tài chính. Có thể nói rằng hoạt

động của ngân sách cấp xã luôn gắn liền với các đơn vị, bộ phận thụ hưởng

nguồn ngân sách ở cấp xã; họ vừa điều hành hoạt động ngân sách xã vừa thụ

hưởng nguồn ngân sách này. Chính vì thế yếu tố đầu tiên khi đề cập đến quản

lý ngân sách xã là việc quản lý con người tại chính quyền cấp xã, hoạt động của

những người này chi phối đến hoạt động ngân sách xã. Chính quyền cấp xã tổ

chức thực hiện và thụ hưởng nguồn ngân sách luôn lấy yếu tố hoạt động của

ngân sách làm mục tiêu để soi rọi vào động cơ, biện pháp cách thức điều hành

của xã mình, đây chính là đặc điểm quan trọng nhất của quản lý ngân sách xã.

Kinh nghiệm thực tế cho ta thấy, quản lý ngân sách xã không phải chỉ đơn

thuần tác động vào hoạt động ngân sách xã, mà quan trọng hơn là tác động vào

yếu tố con người, chỉ có như vậy hoạt động quản lý mới đạt hiệu quả như mong

muốn. Vì thế, nếu xã nào coi nhẹ yếu tố con người không chú trọng, cân nhắc

trong việc lựa chọn người quản lý ngân sách xã thì có thể dẫn đến tình trạng

lãng phí, thất thoát tài sản của nhà nước tại chính quyền cấp xã.

- Quản lý Ngân sách nhà nước tại chính quyền cấp xã là sự kết hợp chặt

chẽ tổng hòa các biện pháp hành chính, tổ chức, kinh tế và luật pháp. Mỗi biện

37

pháp quản lý luôn có những ưu và nhược điểm riêng khác nhau vì vậy trong

hoạt động quản lý luôn phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các biện pháp trên, tùy

thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà nhấn mạnh đến biện pháp này hoặc biện

pháp khác, quản lý ngân sách xã cũng không ngoại lệ. Nhìn một cách tổng quát

có thể nói rằng: quản lý ngân sách xã là quản lý các hoạt động và các cơ quan

thụ hưởng các nguồn lực tài chính vì vậy để hoạt động quản lý đạt hiệu quả cao

không thể áp dụng riêng một biện pháp cụ thể mà cần có sự phối hợp giữa các

biện pháp trên. Tuy nhiên, hoạt động quản lý ngân sách xã là hoạt động đặc thù

khác với các cơ quan HCNN nói chung. Xã vừa là một cấp ngân sách, vừa là

đơn vị sử dụng ngân sách. Vì vậy các biện pháp như: biện pháp hành chính và

luật pháp phải luôn được nhấn mạnh thực hiện trong mọi trường hợp để thể

hiện tính uy quyền của ngân sách xã.

* Mục tiêu quản lý ngân sách xã

Thứ nhất là tăng thu bền vững, đảm bảo tự cân đối ngân sách xã

Tự cân đối ngân sách được hiểu là các xã hạn chế tối đa việc bổ sung từ

ngân sách cấp trên, tăng cường các nguồn thu tại chỗ, không thực hiện chi khi

chưa có nguồn đảm bảo.

Với mục tiêu này, một mặt cần tăng cường phân cấp về nguồn thu nhiều

hơn nữa cho ngân sách xã. Mặt khác, các xã cần tính toán bao quát hết các

nguồn thu, phát huy hết khả năng của xã, không tận thu, đảm bảo nuôi dưỡng,

phát triển nguồn thu.

Hiện nay, các nguồn ngân sách của chính quyền cấp xã chủ yếu tập trung

vào nguồn NSNN cấp và nguồn thu tại xã ( phí, lệ phí, thu khác...). Trong bối

cảnh nguồn NSNN ngày càng hạn hẹp, chi phí quản lý ngày càng gia tăng, áp

lực tài chính cho các xã để duy trì các hoạt động thường xuyên ngày càng lớn,

đòi hỏi các xã phải tìm cách gia tăng nguồn thu. Một trong những nguồn thu

chủ yếu hiện nay của các xã là nguồn ngân sách trên cấp bổ sung cho ngân sách

xã. Điều này thể hiện sự kém bền vững, kém phát triển của nguồn ngân sách xã.

Để phát triển các nguồn thu ngân sách xã theo hướng bền vững, các xã cần thực

38

hiện công tác thu theo đúng quy định của Nhà nước; đồng thời tăng cường khai

thác, đa dạng hóa các nguồn tài chính ngoài NSNN, tăng dần tỷ trọng các

nguồn thu ngoài ngân sách trong điều kiện và khả năng của xã, khai thác những

tiềm năng sẵn có tạo ra ngày càng nhiều nguồn thu hợp pháp đáp ứng kịp thời

nhu cầu nguồn tài chính cho hoạt động của xã. Không phải vì mục tiêu tăng thu

mà các xã tự đặt ra các khoản thu trái với quy định của Nhà nước. Chính vì vậy,

các xã phải tính toán, xác định đúng đắn khoản thu, mức thu phù hợp với thực

tế của địa phương và đảm bảo đúng quy định của Nhà nước. Với mục tiêu thu

đúng, ngoài việc xác định đúng mức thu thì việc xác định đúng đối tượng thu,

tổ chức thu đúng quy trình cũng vô cùng quan trọng. Các xã cần đảm bảo xác

định đúng đắn đối tượng nộp, tính đúng các khoản thu nộp, thủ tục nộp, thanh

tra, quyết toán các khoản thu nộp; xây dựng hệ thống chính sách thu hợp lý,

phù hợp với thực tế quản lý của chính quyền cấp xã; xây dựng kế hoạch thu sát

đúng, phù hợp với thực tế của từng năm, quý, tháng; lựa chọn quy trình thu

NSX khoa học hợp lý, gọn nhẹ, hiệu quả, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp

thời, tránh thất thoát; công khai, minh bạch mức thu, quy trình thu, số thu được

vào NSX.

Thứ hai, là phân bổ nguồn lực hiệu quả theo các ưu tiên phù hợp với

chiến lược và kế hoạch phát triển KT – XH của chính quyền xã; Chú trọng kiểm

soát chất lượng kết quả thực hiện nhiệm vụ và mở rộng sự công khai, tăng

cường minh bạch trong quản lý ngân sách xã.

Quản lý, cấp phát và sử dụng kinh phí ngân sách theo kết quả thực hiện

nhiệm vụ (gắn với đầu ra) là một phương thức ưu việt trong phân bổ nguồn

kinh phí của ngân sách cấp xã trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn. Áp dụng phương thức này sẽ góp phần khắc phục các bất

cập của cách thức quản lý, lập và phân bổ ngân sách kiểu truyền thống, đặc biệt

là góp phần tăng quyền tự chủ cho chính quyền cấp xã, tăng hiệu lực quản lý và

sử dụng nguồn lực ngân sách xã.

39

Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý ngân sách xã là phải

đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi hiệu quả. Khi nguồn lực luôn có giới hạn và nhu

cầu chi không có giới hạn thì việc chi tiết kiệm, hiệu quả là một trong những

nguyên tắc hàng đầu của quản lý ngân sách xã. Trong quá trình phân bổ và sử

dụng các nguồn lực khan hiếm đó phải tính toán sao cho với chi phí thấp nhất

nhưng vẫn đạt hiệu quả cao nhất. Các xã xây dựng kế hoạch chi sát với thực tế

hàng năm, quý, tháng; xác lập định mức chi khoa học và phù hợp với thực tế;

xác định và phân loại đúng đắn các khoản chi phí; xác lập thứ tự ưu tiên các

khoản chi trong từng thời kỳ nhất định; xây dựng một chính sách, cơ cấu chi

tiêu hợp lý, phù hợp; xây dựng quy trình giao nhận, kiểm soát, thanh toán các

khoản chi một cách chặt chẽ, hợp lý; xây dựng được ý thức thường xuyên tiết

kiệm chi; công khai, minh bạch quy chế chi tiêu nội bộ; thực hiện kiểm tra,

giám sát đảm bảo chi tiêu tiết kiệm và hiệu quả; xây dựng các chỉ tiêu đánh giá

kết quả hoạt động của chính quyền cấp xã

Để đảm bảo thực hiện được mục tiêu đó, phương thức quản lý mới đối

với chính quyền cấp xã đã được nghiên cứu và đã đưa ra những gợi ý hữu ích

cho việc áp dụng, đó chính là: phương thức quản lý theo kết quả. Hệ thống

quản lý theo kết quả (viết tắt là PMS) tạo ra một sự chuyển biến trong phương

thức lên kế hoạch và thực hiện công việc của chính quyền cấp xã, từ cách tiếp

cận theo hướng “hoạt động” sang tiếp cận theo “kết quả đầu ra”. Hệ thống PMS

không quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện, các bước thực hiện mà chỉ quan

tâm đến kết quả cuối cùng cần đạt được, điều này tạo điều kiện cho quá trình

thực hiện có thể được tiến hành một cách linh hoạt, sáng tạo nhưng vẫn đảm

bảo đạt được các kết quả cuối cùng. Thực hiện hệ thống PMS sẽ giúp chính

quyền cấp xã nâng cao việc thực thi trong việc ra quyết định và cải tiến cung

cấp dịch vụ công tại địa phương. Chính vì thế, hệ thống PMS là một gợi ý tốt

cho tiến trình cải cách phương thức quản lý HCNN đối với chính quyền cấp xã

ở Việt Nam hiện nay. Áp dụng hệ thống này có khả năng đạt được các mục tiêu

40

cải cách phương thức quản lý ngân sách đối với chính quyền cấp xã. Những

yếu tố chính của hệ thống PMS tại chính quyền cấp xã được miêu tả khá rõ ràng:

i. Một danh sách các mục tiêu của chính quyền cấp xã;

ii. Một nguồn ngân sách để thực hiện những mục tiêu đó;

iii. Kết quả đầu ra cần có để đạt được mục tiêu

iv. Phân bổ nguồn ngân sách để đạt được từng kết quả đầu ra;

v. Một số hoạt động đầu ra đã được tính toán về chi phí thời gian để đạt

được kết quả đầu ra;

vi. Chỉ số đánh giá kết quả mỗi hoạt động sau khi đã thực hiện;

vii. Một bản phân công trách nhiệm để xác định rõ ai phụ trách việc đạt

được kết quả đầu ra nào.

Như vậy khi áp dụng hệ thống PMS sẽ tạo ra cơ sở để chính quyền cấp

xã quản lý tốt hơn các nguồn lực cũng như cơ sở để đánh giá việc sử dụng các

nguồn lực, đạt được mục tiêu của nhà quản lý. Hệ thống PMS sẽ giúp minh

bạch hoá các hoạt động trong xã, tạo ra căn cứ để đánh giá hiệu quả hoạt động

của các bộ phận, cụ thể là:

- Đối với các cán bộ quản lý tại xã: tạo ra một khung quản lý rõ ràng; đặt

ra mục tiêu rõ ràng; tạo cơ sở cho việc quản lý các ban ngành tại xã và cán bộ

xã ;liên kết với việc lập ngân sách và quản lý tài chính; tạo cơ sở cho việc đấu

thầu và phân bố các nguồn lực; tạo khả năng cung cấp kết quả.

- Đối với những đối tượng hưởng dịch vụ công: hướng sự tập trung vào

việc cung cấp dịch vụ; tạo cơ sở cho việc đánh giá kết quả.

Thứ ba là mua sắm, sử dụng tài sản hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích.

Phần lớn tài sản của các xã được Nhà nước giao cho để trực tiếp quản lý

và sử dụng hoặc cấp kinh phí đầu tư mua sắm cho các xã nhằm thực hiện các

chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã. Khi đó, các xã phải sử dụng tài

sản sao cho hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích thông qua việc đầu tư, mua sắm

đúng mức, đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí, cũng như quản lý và sử dụng có

41

hiệu quả tài sản. Bên cạnh đó, phải nắm chắc và kiểm soát chặt chẽ nguồn lực

tài sản hiện có để kịp thời đưa ra các giải pháp quản lý, sử dụng tài sản phù hợp

ở tất cả các khâu: mua sắm, bảo dưỡng, sửa chữa nâng cấp, thanh lý, tiêu

hủy…; tổ chức quản lý, sử dụng tài sản của xã đúng quy định của Nhà nước

nhằm phát huy công suất và hiệu quả sử dụng tài sản. Hàng năm, tính hao mòn

tài sản cố định tại xã, hạch toán đầy đủ về hiện vật và giá trị theo quy định của

pháp luật.

2.1.3.2. Nội dung quản lý ngân sách xã

* Quản lý thu ngân sách xã

Nguồn thu của NSX bao gồm các khoản thu của NSNN phân cấp cho

ngân sách xã, các khoản huy động đóng góp của các tổ chức và cá nhân trực

tiếp cho NSX và các khoản thu khác theo qui định của pháp luật.

Nội dung nguồn thu của NSX bao gồm:

- Các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí do các tổ chức, cá nhân nộp theo

quy định của pháp luật phân cấp cho NSX;

- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của chính quyền cấp xã;

- Thu từ đóng góp của các tổ chức, cá nhân trực tiếp cho NSX;

- Thu kết dư ngân sách năm trước;

- Thu chuyển nguồn

- Các khoản thu hợp pháp khác.

Theo qui định của Luật NSNN hiện hành, việc phân cấp nguồn thu và tỷ

lệ % phân chia nguồn thu cho NSX thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND

cấp tỉnh trong phạm vi nguồn thu được phân cấp cho địa phương.

Trường hợp nguồn thu của NSNN phân cấp cho NSX không đủ để cân

đối với nhiệm vụ chi đã phân cấp cho xã, thì được ngân sách cấp trên cấp bổ

sung để cân đối, giúp chính quyền xã thực hiện nhiệm vụ được giao.

Ngoài ra, NSX còn được cấp trên cấp bổ sung kinh phí để thực hiện

những nhiệm vụ do cấp trên giao dưới hình thức bổ sung có mục tiêu.

42

Quản lý thu NSX chính là việc quản lý các hình thức động viên nguồn

thu vào NSX đối với các nội dung thu và đối tượng thu, bắt đầu từ khâu lập dự

toán, tổ chức thực hiện và quyết toán thu NSX đối với từng nội dung thu, từng

bộ phận tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu NSX.

* Quản lý chi ngân sách xã

Chi NSX là quá trình chính quyền cấp xã sử dụng quỹ NSX nhằm đảm

bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo chế độ qui định. Nội dung

chi NSX bao gồm:

- Chi đầu tư phát triển: các khoản chi được phân cấp cho NSX theo Nghị

quyết HĐND từng tỉnh;

- Chi thường xuyên phục vụ hoạt động thường xuyên của chính quyền

cấp xã như: chi cho các hoạt động sự nghiệp tại xã (sự nghiệp y tế, giáo dục,

phát thanh, an ninh quốc phòng, giao thông…); chi quản lý hành chính tại xã,

chi hoạt động của Đảng…

Trong quá trình lập dự toán chi NSX, chính quyền cấp xã còn được bố

trí một khoản dự phòng theo tỷ lệ nhất định trong tổng chi thường xuyên (hiện

nay các xã thường trích tỷ lệ dự phòng 2%) NSX để khắc phục hậu quả thiên

tai, dịch bệnh và các khoản chi cần thiết khác tại xã phát sinh ngoài dự toán.

Nhiệm vụ chi cụ thể của NSX theo qui định của Luật NSNN là do

HĐND tỉnh quyết định trên cơ sở nhiệm vụ chi được phân cấp cho địa phương.

Quản lý chi NSX là quá trình sử dụng quỹ NSX của chính quyền cấp xã đối với

việc thực hiện từng nhiệm vụ chi cụ thể từ khâu lập dự toán, chấp hành và

quyết toán chi NSX.

Qua phân tích trên có thể thấy, việc quản lý NSX khác hẳn với quản lý

ngân sách của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung. Vì chính quyền cấp

xã vừa là một cấp ngân sách, được phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi lại vừa là

một đơn vị sử dụng ngân sách. Vậy nếu xét trên góc độ là một đơn vị sử dụng

ngân sách thì quá trình quản lý NSX giống như quản lý tài chính tại CQHC nhà

nước. Nhưng xét trên góc độ một cấp ngân sách thì việc quản lý NSX lại có yếu

43

tố đặc thù. Vì vậy cơ chế quản lý NSX có điểm khác biệt so với cơ chế quản lý

tài chính tại CQHC nhà nước. Cơ chế quản lý ngân sách xã được hiểu là hệ

thống các phương pháp, các hình thức và công cụ được vận hành để quản lý

ngân sách cấp xã nhằm giúp cho hoạt động của chính quyền cấp xã đảm bảo

tuân thủ đúng theo pháp luật của nhà nước. Cơ chế quản lý NSX ngày càng

cần được hoàn thiện góp phần tích cực vào việc tăng cường và nâng cao chất

lượng quản lý ngân sách cấp xã trong từng thời kỳ. Cơ chế này phải đảm bảo

cho việc quản lý các khoản chi NSX tiết kiệm và hiệu quả. Đây là yếu tố sống

còn trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội tại chính quyền cấp xã. Có thể nói rằng

các khoản chi của NSX luôn thể hiện tính phức tạp với qui mô rộng, không gắn

trực tiếp giữa chi phí với lợi ích cụ thể. Trong đó, các khoản chi thường xuyên

của NSX thường có tỷ trọng lớn và ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của bộ

máy chính quyền cấp xã và các vấn đề kinh tế, xã hội của xã. Vì vậy, nếu cơ

chế quản lý NSX không phù hợp sẽ dẫn đến chính quyền xã quản lý chi không

đúng mục đích, không tiết kiệm gây lãng phí cho nguồn NSX. Việc ban hành

cơ chế quản lý ngân sách phù hợp cho chính quyền cấp xã là vô cùng quan

trọng và cần thiết trong tiến trình cải cách hành chính nói chung và cải cách tài

chính công nói riêng.

2.2. Cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền

cấp xã

2.2.1. Khái niệm về cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối

với chính quyền cấp xã

Theo từ điển Le Petit Larousse năm 1999 giải nghĩa “cơ chế” là “cách

thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau”. Tại từ điển

tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học biên soạn năm 2000: “cơ chế là cách thức mà

theo đó một quá trình được thực hiện”. Như vậy, “cơ chế” là cách thức hoạt động

của một sự vật hiện tượng trong quá trình tồn tại và phát triển, là khuôn khổ hoạt

động và cách thức tác động, thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và

khách thể quản lý.

44

Theo từ điển tiếng Anh Oxford năm 2004, “tự chủ” là nói đến trạng thái

chất lượng của một đối tượng hoặc một đơn vị như nhà nước, một cơ quan, tổ

chức, hay chính quyền địa phương. Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam năm

2005 về quản lý lại cho rằng “tự chủ” là mức độ tự quyền và độc lập mà một

công việc cho phép người làm xác định xem sẽ thực hiện công việc đó như thế

nào. Tại từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2010 giải

nghĩa “tự chủ” là tự điều hành, quản lý một công việc của mình mà không bị ai

chi phối.

Cơ chế tự chủ tài chính đối với chính quyền cấp xã thực chất là cơ chế

quản lý tài chính mà ở đó quyền định đoạt các vấn đề tài chính của chính quyền

cấp xã gắn với tránh nhiệm thực thi quyền định đoạt đó được đề cao. Chính

quyền cấp xã vừa là một cấp ngân sách, vừa là một đơn vị sử dụng ngân sách,

có nhiệm vụ quản lý mọi lĩnh vực tại địa phương, cung cấp dịch vụ hành chính

công cho người dân trên địa bàn, và đặt dưới sự quản lý của CQNN cấp trên.

Khi nghiên cứu quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về KPQLHC đối với chính

quyền cấp xã là nghiên cứu về chính quyền cấp xã với vai trò là một đơn vị sử

dụng ngân sách, nhưng lại mang những đặc điểm riêng cụ thể; có thể cụ thể

hóa sự độc lập của chính quyền cấp xã như sau:

Một là, khía cạnh tổ chức, tài chính, mối quan hệ của chính quyền cấp xã

với cấp trên, với các xã khác, và với người dân trên địa bàn xã quản lý.

Hai là, liên quan tới quyền tự chủ điều hành các hoạt động của chính

quyền cấp xã. Có nghĩa là xã được thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà

không bị phụ thuộc vào qui định ràng buộc của cấp trên.

Tự chủ ở chính quyền cấp xã có sự khác biệt xuất phát từ chức năng

nhiệm vụ của chính quyền cấp xã là cung cấp các dịch vụ hành chính công, nên

cơ chế tài chính là “cứng”, chỉ tự chủ về phần kinh phí quản lý hành chính được

giao. Kinh phí quản lý hành chính là kinh phí nhằm đảm bảo hoạt động của các

cơ quan Nhà nước, từ trung ương đến chính quyền cấp xã, gồm các khoản chi

45

sau đây: Chi thanh toán cho cá nhân gồm lương và các khoản phụ cấp…; Chi

dịch vụ công cộng cho hoạt động hành chính; Chi mua sắm, sửa chữa thường

xuyên; Chi nghiệp vụ chuyên môn; Chi các hoạt động khác.

Như vậy theo tác giả: Cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính

của chính quyền cấp xã là việc cơ quan có thẩm quyền giao cho xã nhận

mức kinh phí ổn định trong một thời kỳ (có thể là một năm hoặc một số năm

theo thời kỳ ổn định ngân sách), để chính quyền cấp xã chủ động sử dụng

hiệu quả kinh phí được cấp phát trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Với đặc điểm chính quyền cấp xã chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm

quyền của mình, chủ động và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Nếu

một đối tượng, cụ thể là một xã nào đó có được tính tự chủ cao hơn thì xã đó sẽ

có những quyết định có tính trách nhiệm cao hơn và đạt kết quả cao hơn trong

các hoạt động. Ngược lại, khi tính trách nhiệm của các xã đó không đảm bảo

xứng tầm với tính tự chủ thì các xã có thẩm quyền và các bên liên đới sẽ giảm

bớt hay thu hồi các quyền hạn, do vậy năng lực làm chủ các hoạt động của xã

sẽ bị thu hẹp tương ứng với mức độ trách nhiệm. Rõ ràng, sẽ không có một

mức độ như nhau về tính trách nhiệm và tự chủ cho các xã khác nhau mà sẽ có

những mức độ khác nhau cho các xã, tùy thuộc vào năng lực, đặc điểm, tính

chất và sự tin cậy của xã hội, người dân với từng xã.

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, tự chủ và tự chịu trách nhiệm

luôn song hành với nhau. Tính tự chủ càng cao thì trách nhiệm càng lớn, các

hoạt động sẽ không phải theo những khuôn khổ nhất định trong quá trình thực

hiện mà thay vào đó là kết quả của hoạt động đó ra sao. Từ những lý luận cơ

bản như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có nhận thức sâu sắc trong việc trao

quyền tự chủ cho chính quyền cấp xã. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, bên

cạnh sự kiểm tra giám sát là ý thức trách nhiệm của chính quyền cấp xã và của

chính các cán bộ, công chức xã. Hơn nữa, cơ chế thị trường hiện nay cũng

mang tính hai mặt. Ngoài những ưu điểm vượt trội thì cơ chế thị trường còn

46

bộc lộ nhiều hạn chế. Do vậy, để hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong các hoạt

động kinh tế, xã hội, cũng như trong quản lý Nhà nước, cần đặc biệt nhấn mạnh

đến vai trò giám sát của xã hội. Việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm giúp

lành mạnh hóa các hoạt động tài chính xã thông qua sự kiểm tra, giám sát của

chính các CBCC xã.

Mặt khác, cơ chế thị trường đòi hỏi hoạt động của bộ máy chính quyền

cấp xã cũng phải vận hành theo cơ chế thị trường. Bởi vậy, giao quyền tự chủ,

tự chịu trách nhiệm là yếu tố cốt lõi nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của bộ máy chính quyền cấp xã

Cơ chế tự chủ về KPQLHC là chính sách, quy định quản lý nhằm tăng

cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho chính quyền cấp xã về các mặt hoạt

động, tài chính, tổ chức bộ máy và sắp xếp lao động, qua đó làm tăng chất lượng

hoạt động và cung cấp dịch vụ của chính quyền cấp xã. Bên cạnh đó, các xã

cũng được chủ động sử dụng kinh phí theo nhu cầu nhiệm vụ của xã mình trong

phạm vi nguồn kinh phí được giao tự chủ. Nếu các xã sử dụng kinh phí tiết kiệm,

phần còn lại được quyết định sử dụng tăng thu nhập và phúc lợi, khen thưởng cho

cán bộ công chức xã.

2.2.2. Vai trò cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với

chính quyền cấp xã

Trước khi cơ chế tự chủ ra đời, việc chi tiêu của các xã phụ thuộc

nhiều vào sự kiểm soát của cơ quan tài chính, KBNN cấp trên, chưa huy

động đầy đủ nguồn lực xã hội để thực hiện mục tiêu quản lý nhà nước tại

chính quyền cấp xã. Việc triển khai cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính

quyền cấp xã là một tất yếu do yêu cầu cải cách tài chính công trong giai

đoạn hiện nay. Nếu cơ chế tự chủ KPQLHC được xây dựng theo hướng đề

cao, tăng quyền tự chủ, những qui định trong nó phù hợp với quy luật vận

động của các phạm trù kinh tế, tài chính, xã hội thì có vai trò tích cực tới sự

phát triển của chính quyền cấp xã:

47

Một là, nâng cao chất lượng và hiệu quả khi cung cấp dịch vụ hành

chính công cho người dân. Bởi vì, các xã muốn nâng cao uy tín và được

đánh giá chất lượng phục vụ tốt thì phải chú trọng đến các hoạt động của

mình, giảm được thời gian và những chi phí vô ích, chỉ quan tâm đến số

lượng dịch vụ cung cấp mà không quan tâm đến chất lượng.

Muốn tạo ra nguồn thu, chính quyền cấp xã phải tích cực chủ động đa

dạng hóa, nâng cấp chất lượng các dịch vụ như: rút ngắn thời gian giải quyết

công việc, áp dụng giao dịch trực tuyến, phục vụ nhiệt tình, chu đáo, thái độ

niềm nở…đáp ứng mọi nhu cầu của người dân. Cơ chế tự chủ về KPQLHC còn

làm tăng tính chủ động sáng tạo, ý thức tự giác, tự chịu trách nhiệm trong mọi

hoạt động của xã, làm tăng tính cạnh tranh giữa các bộ phận, cá nhân CBCC xã,

tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao.

Hai là, giao quyền tự chủ cho chính quyền cấp xã giúp các xã năng

động, sáng tạo và chủ động trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. Nếu mọi

việc đều do cấp trên quyết định thì gây ra tâm lý ỷ lại, thiếu trách nhiệm của

người thực hiện, không quan tâm tới việc tiết kiệm, hiệu quả của nguồn lực

được cấp không cao, bởi khi có vấn đề thì cấp trên đứng ra giải quyết. Giao

quyền tự chủ KPQLHC và mọi hoạt động đều gắn với trách nhiệm thì chính

quyền cấp xã sẽ làm việc có hiệu quả, có năng suất hơn, như vậy sẽ làm giảm

chi phí kiểm tra, kiểm soát của quá trình thực hiện.

Ba là, Cơ chế tự chủ tạo điều kiện cho các xã chủ động sử dụng phần

kinh phí được giao tự chủ, quản lý việc chi tiêu trên tinh thần tiết kiệm, thiết

thực, hiệu quả, tiết kiệm, thu nhập của CBCC xã từng bước được cải thiện,

phân phối thu nhập tăng thêm của xã đã bước đầu gắn với hiệu quả chất lượng

công việc thông qua qui chế chi tiêu nội bộ. Điều này góp phần tạo động lực để

CBCC xã yên tâm tập trung vào công việc phục vụ cho người dân, nâng cao

chất lượng dịch vụ…sẽ củng cố được lòng tin, uy tín cho CBCC xã, củng cố sự

vững mạnh cho bộ máy chính quyền cấp xã. Thông qua cơ chế tự chủ, tất cả

các khoản thu – chi NSX được công khai góp phần kiểm soát chi tiêu một cách

48

hợp lý, thúc đẩy thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý điều hành

ngân sách xã.

2.2.3. Nguyên tắc cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối

với chính quyền cấp xã

Xuất phát từ yêu cầu của công tác quản lý, cơ chế tự chủ kinh phí quản lý

hành chính cần đảm bảo những nguyên tắc sau đây:

* Bảo đảm cân đối giữa trách nhiệm và quyền tự chủ

Quyền đi đôi với trách nhiệm: Chính quyền cấp xã được giao quyền

quyết định trong việc sử dụng KPQLHC được giao tự chủ, song phải chịu trách

nhiệm về các vấn đề của mình trước pháp luật, trước nhà nước và trước yêu cầu

của người thụ hưởng dịch vụ mà mình cung cấp.

Quyền tự chủ KPQLHC luôn song hành với các quyền tự chủ trong các

hoạt động khác của chính quyền cấp xã. Quyền tự chủ KPQLHC chỉ thực sự

phát huy hiệu quả khi chính quyền cấp xã được tự chủ về việc giao nhận và sử

dụng biên chế. Lãnh đạo chính quyền cấp xã sẽ phải chịu trách nhiệm trước

việc sử dụng biên chế và kinh phí của mình.

Quyền tự chủ KPQLHC của chính quyền cấp xã là tự chủ có giới hạn.

Do đó mọi hoạt động của chính quyền cấp xã đều phải đặt dưới sự giám sát của

HĐND cùng cấp và sự kiểm tra của cơ quan cấp trên, cho dù hoạt động này

được giao tự chủ và tự chịu trách nhiệm.

Nếu chỉ giao kinh phí mà không quy định rõ trách nhiệm của lãnh đạo

các xã đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thì không có cơ sở

để buộc các xã phải tự chịu trách nhiệm. Kết quả là các xã có thể sử dụng tiết

kiệm kinh phí được giao, tiết kiệm biên chế nhưng bằng cách giảm bớt khối

lượng công việc mà mình đáng lẽ phải làm. Để khắc phục điều này, cần xây

dựng rõ ràng chức năng, nhiệm vụ cho từng xã, tiến tới xây dựng các bản giao

việc cụ thể cho từng cán bộ, công chức xã. Cái gì giao cụ thể thì mới có thể

quản lý và quy trách nhiệm được.

49

Ngược lại, nếu chỉ giao kinh phí và quy định trách nhiệm đối với các

chính quyền các xã, nhưng lãnh đạo các xã đó không có được sự chủ động, linh

hoạt tương ứng để sử dụng có hiệu quả nhất kinh phí được giao và thực hiện tốt

chức năng, nhiệm vụ của mình thì lãnh đạo các xã sẽ không có thực quyền. Để

khắc phục điều này, lãnh đạo các xã thực hiện cơ chế tự chủ cần được thực sự

tự chủ về cả mặt tài chính và nhân sự. Trong sử dụng, chính quyền cấp xã phải

được quyền chủ động sử dụng hết hay không hết số biên chế được giao mà

không ảnh hưởng đến kinh phí quản lý hành chính được nhận. Đối với cơ quan

Nội vụ, để đảm bảo giao biên chế tự chủ cho các xã phù hợp với tính chất, khối

lượng và chất lượng công việc của từng xã, cần tiến hành điều tra, đánh giá việc

thực hiện kết quả công việc của từng xã, đối chiếu so sánh với chức năng,

nhiệm vụ đã được giao để xác định mức biên chế hợp lý giao cho các xã.

Cuối cùng, nếu chỉ quy định quyền hạn và trách nhiệm đối với các cơ quan,

nhưng không giao đủ kinh phí đi kèm thì chính quyền cấp xã sẽ không có phương

tiện thực tế để thực hiện quyền tự chủ của mình. Kết quả, việc giao tự chủ sẽ chỉ

còn là hình thức, và khi chính quyền cấp xã thực hiện xong chế độ tự chủ mà

không thấy có chuyển biến gì thực chất trong việc quản lý tại xã mình thì họ sẽ

không còn ủng hộ cải cách nữa. Điều này rất nguy hiểm, vì cải cách đã đề xướng

mà không thực hiện được đến nơi đến chốn, “đánh trống bỏ dùi” thì sẽ rất khó

phát động lại cải cách đó một lần thứ hai. Để khắc phục điều này, cần lưu ý khi

xác định mức kinh phí giao tự chủ, không nên giao quá thấp đến mức các xã chỉ

đủ chi trả lương hoặc một phần tối thiểu kinh phí hoạt động của mình, còn không

có hoặc có không đáng kể khả năng tiết kiệm. Trước mắt, khả năng tiết kiệm để

tăng thu nhập là một động lực lớn đối với các xã được giao tự chủ. Nếu động lực

này mất đi thì cải cách sẽ thất bại.

Như vậy, cốt lõi của việc thực hiện thành công cơ chế tự chủ KPQLHC

tại chính quyền cấp xã là phải đảm bảo mối quan hệ ba chiều như đã mô tả tóm

tắt trong hình 2.2.

50

Hình 2.2: Mối quan hệ ba chiều cần đảm bảo khi thực hiện cơ chế tự chủ

KPQLHC tại chính quyền cấp xã

Tài chính (Ngân sách)

Cơ chế tự chủ KPQLHC tại xã

Trách nhiệm

Quyền hạn

* Không tăng biên chế và kinh phí quản lý hành chính được giao

trong thời gian thực hiện tự chủ

Xương sống của việc thực hiện cơ chế tự chủ là phải xác định được biên

chế hợp lý làm cơ sở định biên giao cho chính quyền các xã (chức năng của cơ

quan nội vụ). Từ đó, xác định mức giao kinh phí hợp lý trên một biên chế (chức

năng của cơ quan Tài chính). Trên cơ sở kinh phí và biên chế được giao, các xã

tiến hành xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ (chức năng của xã được giao tự

chủ). Vì thế, nếu thiếu sự phối hợp giữa ba cơ quan này thì một khâu công việc

sẽ bị gián đoạn hoặc thực hiện với chất lượng không cao, dẫn đến thực hiện cơ

chế tự chủ mang tính hình thức...

* Thực hiện công khai, dân chủ và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của

cán bộ công chức xã

Việc công khai minh bạch trong việc xác định biên chế và kinh phí giao tự

chủ giữa ba cơ quan nói trên để đảm bảo tính hợp lý thống nhất giữa ba chủ thể

chủ yếu có liên quan đến quá trình thực hiện tự chủ. Hàng năm, cần tổ chức đánh

giá định kỳ việc triển khai cơ chế tự chủ, trong đó chú trọng đến việc thu thập

các ý kiến phản hồi về những bất hợp lý trong cơ chế tự chủ từ các xã đã được

51

giao tự chủ. Công việc này đảm bảo tính bền vững và lâu dài cho thực hiện cơ

chế tự chủ, tạo cơ sở cho việc phát huy tác dụng lâu dài và có ý nghĩa cải cách

sâu sắc của cơ chế tự chủ tại chính quyền cấp xã.

2.2.4. Nội dung của cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính đối

Cơ chế tự chủ về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã là sự cải cách trong

với chính quyền cấp xã

phương thức quản lý NSX đối với chính quyền cấp xã, dựa trên ý tưởng trao

quyền tự chủ nhiều hơn cho chính quyền cấp xã trong việc sử dụng các nguồn

lực cũng như bố trí, sắp xếp công việc, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ;

giảm sự can thiệp trực tiếp của chính quyền cấp trên vào quá trình tổ chức, hoạt

động của chính quyền cấp dưới; hướng tới quản lý theo kết quả đầu ra của

chính quyền cấp xã.

Về cơ bản nội dung của cơ chế là trao quyền chủ động trong việc sử

dụng biên chế, kinh phí và sắp xếp công việc cho chính quyền cấp xã; đảm bảo

thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Như vậy, nội dung chính sách đã

thể hiện việc trao quyền tự chủ mạnh mẽ cho chính quyền cấp xã, vấn đề ở đây

là sự trao quyền đó có thực sự theo đúng cam kết hay không và việc thực hiện

của chính quyền cấp xã được đến đâu. Nội dung chính cơ chế tự chủ KPQLHC

đối với chính quyền cấp xã được thể hiện ở 2 khía cạnh đó là: Kinh phí được

giao thực hiện tự chủ; Sử dụng kinh phí thực hiện tự chủ.

2.2.4.1. Kinh phí quản lý hành chính được giao thực hiện tự chủ

Thứ nhất, xác định nguồn kinh phí quản lý hành chính giao tự chủ cho

chính quyền cấp xã gồm:

- Ngân sách nhà nước cấp.

- Các khoản phí, được để lại xã theo chế độ quy định.

- Các khoản thu hợp pháp tại xã khác theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, kinh phí quản lý hành chính của chính quyền cấp xã được xác định trên cơ sở số biên chế của xã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao.

52

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao chỉ tiêu biên chế hành chính đối Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. UBND huyện sẽ xem xét giao biên chế cho các xã trên địa bàn theo các chức danh công chức và số lượng cán bộ công chức xã; Theo đó, các xã thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC được quyền chủ động trong việc sử dụng biên chế như sau:

- Được quyết định việc sắp xếp, phân công cán bộ, công chức theo vị trí

công việc để bảo đảm hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của bộ máy chính quyền cấp xã;

- Được điều động cán bộ, công chức giữa các bộ phận trong nội bộ xã;

- Được quyền tiếp nhận số lao động trong biên chế bằng hoặc thấp hơn

chỉ tiêu biên chế được cấp có thẩm quyền giao. Trường hợp xã có số biên chế

thực tế thấp hơn chỉ tiêu biên chế được giao vẫn được cơ quan có thẩm quyền

giao kinh phí quản lý hành chính theo chỉ tiêu biên chế được giao.

Thứ ba, căn cứ vào định mức phân bổ kinh phí quản lý hành chính

cho chính quyền cấp xã (theo định mức phân bổ chi thường xuyên ngân sách xã

do HĐND các tỉnh qui định), bao gồm:

- Quỹ tiền lương được giao căn cứ vào số lượng cán bộ, công chức và

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được cơ quan có thẩm

quyền phê duyệt theo thực tế. Trong đó: tổng quỹ lương và phụ cấp được tính

theo hệ số ngạch, bậc hoặc mức lương chức vụ của CBCC cấp xã trên cơ sở

mức lương cơ sở do nhà nước qui định.

- Định mức giao tự chủ cho chi hoạt động thường xuyên (ngoài quỹ

lương) gồm toàn bộ chi phí hoạt động quản lý hành chính nhà nước phục vụ

công tác chuyên môn của các xã .

Trong thời gian thực hiện tự chủ kinh phí QLHC được điều chỉnh định mức

trong các trường hợp sau đây:

- Nhà nước bổ sung, sửa đổi chính sách tiền lương;

- Nhà nước bổ sung, sửa đổi các định mức, tiêu chuẩn, chế độ trong việc

sử dụng các khoản chi thường xuyên của ngân sách nhà nước;

- Sáp nhập, chia, tách đơn vị hành chính xã do cơ quan có thẩm quyền

quyết định.

Chính quyền cấp xã thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC hàng năm phải

53

xác định số kinh phí được giao thực hiện cơ chế tự chủ, trên cơ sở đó tổ chức

thực hiện sử dụng kinh phí được giao trên nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, đúng

mục đích để nhằm tiết kiệm kinh phí, từ đó tự chủ trong việc sử dụng kinh phí

tiết kiệm được.

2.2.4.2. Sử dụng kinh phí thực hiện cơ chế tự chủ

Thứ nhất, chính quyền cấp xã chủ động sử dụng kinh phí giao thực hiện

cơ chế tự chủ để chi cho các nội dung sau:

- Chi thanh toán cho cá nhân: Tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, các

khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản thanh

toán khác cho cá nhân theo quy định;

- Chi thanh toán dịch vụ công cộng, chi phí thuê mướn, chi vật tư văn

phòng, thông tin, tuyên truyền, liên lạc, hội nghị, công tác phí…

- Chi mua sắm tài sản, trang thiết bị phương tiện làm việc, sữa chữa

thường xuyên tài sản sản cố định (ngoài kinh phí mua sắm và sửa chữa lớn tài

sản cố định được cấp cho chi đầu tư phát triển);

- Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn;

- Các khoản chi có tính chất thường xuyên khác;

Trong phạm vi kinh phí được giao tự chủ, chủ tịch các xã thực hiện cơ

chế tự chủ có quyền hạn và trách nhiệm:

- Chủ động bố trí, quản lý, sử dụng kinh phí theo các nội dung, yêu cầu

công việc được giao cho phù hợp để hoàn thành nhiệm vụ, bảo đảm tiết kiệm

và có hiệu quả;

- Được quyết định mức chi cho từng nội dung công việc phù hợp với đặc

thù của xã nhưng không được vượt quá chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện

hành do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định (trong trường hợp quy định

khung mức chi thì không được vượt quá mức chi cụ thể do HĐND tỉnh quy

định). Việc quyết định các mức chi được quy định tại Quy chế chi tiêu nội bộ

và thực hiện quản lý, giám sát chi tiêu theo Quy chế đã ban hành;

54

Căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao, trong phạm vi kinh phí

được giao tự chủ của các xã, UBND cấp xã có quyền:

- Quyết định bố trí kinh phí được giao vào các mục chi cho phù hợp, được

quyền điều chuyển giữa các mục chi nếu xét thấy cần thiết để hoàn thành nhiệm

vụ, bảo đảm tiết kiệm và có hiệu quả.

- Quyết định mức chi cho từng nội dung công việc phù hợp với đặc thù

của các xã, nhưng không vượt quá tiêu chuẩn, định mức hiện hành do nhà nước

và cơ quan có thẩm quyền qui định. Trường hợp các hoạt động đặc thù chưa

được qui định thì Chủ tịch UBND xã được vận dụng quyết định mức tương ứng

với các công việc của các lĩnh vực tương tự đã được qui định tại các văn bản

pháp luật và phải được qui định trong QCCTNB của chính quyền cấp xã, hoặc

được Chủ tịch UBND xã quyết định bằng văn bản khi chưa xây dựng được

QCCTNB.

- UBND cấp xã quyết định phân bổ chi hoạt động theo định mức biên

chế hoặc có thể giao khoán lại toàn bộ hoặc một phần kinh phí được giao tự chủ

của xã cho các bộ phận trong xã để các bộ phận chủ động thực hiện nhiệm vụ.

Việc giao khoán này phải đảm bảo đầy đủ hóa đơn, chứng từ theo qui định của

pháp luật. Trong đó có một số khoản không yêu cầu hóa đơn chứng từ như: Chi

xây dựng văn bản qui phạm pháp luật; khoán công tác phí; khoán văn phòng

phẩm (căn cứ vào số thực hiện của năm trước liền kề).

- Được chuyển kinh phí giao tự chủ cuối năm chưa sử dụng hết sang năm

sau tiếp tục sử dụng (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác);

- Được quyết định sử dụng toàn bộ kinh phí tiết kiệm;

Thứ hai, chủ động sử dụng kinh phí tự chủ tiết kiệm được

Sau khi đã hoàn thành các nhiệm vụ công việc được giao, chính quyền

cấp xã thực hiện cơ chế tự chủ có số chi thực tế thấp hơn dự toán kinh phí quản

lý hành chính được giao thực hiện tự chủ thì phần chênh lệch này được xác

định là kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được. Khoản kinh phí đã được

55

giao nhưng chưa hoàn thành công việc trong năm phải được chuyển sang năm

sau để hoàn thành công việc đó, không được xác định là kinh phí quản lý hành

chính tiết kiệm được.

Chủ tịch xã thực hiện cơ chế tự chủ quyết định phương án sử dụng kinh

phí tiết kiệm được trong QCCTNB của xã sau khi đã thống nhất bằng văn bản

(công văn, biên bản họp) với tổ chức công đoàn xã, hội nghị CBCC và cán bộ

chủ chốt các bộ phận của xã. Sử dụng kinh phí tiết kiệm theo các nội dung: (i)

bổ sung thu nhập tăng thêm; (ii) chi khen thưởng; (iii) chi cho các hoạt động

phúc lợi tại xã và một số nội dung chi khác;sau khi thống nhất với tổ chức công

đoàn và được công khai trong toàn xã.

(i) Bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức xã theo hệ số tăng thêm quỹ

tiền lương nhưng tối đa không quá 1,0 (một) lần so với mức tiền lương cấp bậc,

chức vụ do nhà nước quy định. Việc trả thu nhập tăng thêm cho từng CBCC xã

bảo đảm theo nguyên tắc gắn với chất lượng và hiệu quả công việc; người nào,

bộ phận nào có thành tích đóng góp để tiết kiệm chi, có hiệu suất công tác cao

thì được trả thu nhập tăng thêm cao hơn. Mức chi trả cụ thể do Chủ tịch xã

quyết định sau khi thống nhất ý kiến với tổ chức công đoàn xã.

(ii) Chi khen thưởng cho tập thể và cá nhân có hoàn thành suất sắc nhiệm

vụ ngoài luật thi đua khen thưởng;

(iii) Chi cho các hoạt động phúc lợi trong xã: thăm hỏi ốm đau, hiếu hỉ…;

(iv) Chi trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động kể cả những

trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức;

(v) Chi thêm cho người lao động khi thực hiện tinh giản biên chế;

(vi) Trường hợp xét thấy khả năng kinh phí tiết kiệm không ổn định,

chính quyền cấp xã thực hiện cơ chế tự chủ có thể trích một phần số tiết kiệm

được để lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập.

* Không giao tự chủ đối với các khoản chi sau đây:

56

- Chi sửa chữa theo chu kỳ; sửa chữa lớn trang thiết bị, phương tiện làm

việc và trụ sở UBND xã;

- Chi mua sắm tài sản cố định, cải tạo, xây dựng trụ sở UBND xã

- Chi đào tạo cán bộ công chức xã

Chính quyền cấp xã chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng các khoản không

được giao tự chủ nêu trên trong hạn mức được cấp, đúng mục đích, có hiệu quả

và tiết kiệm theo qui định của pháp luật.

2.2.5. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế tự chủ về

kinh phí quản lý hành chính.

Theo từ điển Tiếng Việt, “tiêu chí” là "tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để

nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm". Các tiêu chí đánh giá là yếu tố

quan trọng để đánh giá tính khoa học và mức độ khách quan của cơ chế, chính

sách. Tiêu chí đánh giá có ý nghĩa như bộ lọc thông tin, tạo ra những phán đoán

giá trị cho mục tiêu đánh giá. Tùy thuộc vào đối tượng, mục tiêu, chủ thể đánh

giá, mỗi cơ chế, chính sách có thể xây dựng, lựa chọn và sử dụng các tiêu chí

khác nhau.

Các tiêu chí đánh giá có tác dụng đo lường những giá trị, khả năng mà

một chính sách hay chương trình có thể đem lại trong tương lai. Đối với cơ chế,

chính sách công, các tiêu chí đo lường phải phản ánh được giá trị mà mục tiêu

công theo đuổi. Việc sử dụng các tiêu chí đánh giá công khai cho phép thiết lập

các tiêu chuẩn rõ ràng, giữ cho việc phân tích chính sách được khách quan và

trọng tâm. Căn cứ vào mỗi cơ chế, chính sách riêng biệt, với các tiêu chí rõ

ràng, người sử dụng chính sách hoàn toàn có thể xếp hạng các lựa chọn thay thế

theo thứ tự ưu tiên. Tính hợp lý của các tiêu chí được lựa chọn để đánh giá phụ

thuộc vào tính chất, nội dung của những vấn đề cụ thể mà chủ thể cần giải quyết.

Việc xây dựng tiêu chí đánh giá cơ chế, chính sách cần phải đáp ứng yêu

cầu vừa là thước đo cụ thể của vấn đề được đề cập, vừa phản ánh được lợi ích

57

của đa số thành viên xã hội và được họ chấp nhận. Các tiêu chí đánh giá phải

đáp ứng được yêu cầu chung về:

- Độ tin cậy: Chỉ tiêu đánh giá có khả năng tạo ra sự chính xác trong đo lường;

- Có thể hiểu được: Chỉ tiêu đánh giá cần rõ ràng, không phát sinh hiểu lầm;

- Kịp thời: Thời điểm xác định giá trị tính toán của chỉ tiêu đánh giá hợp lý;

- Phù hợp với mục đích: Chỉ tiêu đánh giá phải phản ánh mục đích hoặc

thành quả của việc thực hiện cơ chế, chính sách một cách phù hợp;

- Mức độ ảnh hưởng của cơ chế, chính sách: Độ lớn của mức độ ảnh

hưởng của chính sách đối với sự việc mà chỉ tiêu đánh giá đo lường;

- Độ bao quát: Không để sót mặt trọng yếu nào của biện pháp chính sách

và được bao quát bởi các tiêu chí đánh giá;

- Không trùng lắp, thừa các chỉ tiêu đánh giá, các chỉ tiêu đo lường các

mặt khác nhau;

Trên thực tế, cơ chế, chính sách công nhằm mục đích giải quyết các vấn

đề cụ thể trong cái tổng thể, mỗi một cơ chế, chính sách đều có mối liên hệ với

nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Vì thế, mục tiêu và các thước đo của những

mục tiêu cơ chế, chính sách rất đa dạng. Gắn với mục tiêu công có thể liệt kê ra

nhiều tiêu chí như: tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính khả thi, , tính công bằng,

tính hiệu suất, tính hợp hiến, tính thống nhất, tính tính minh bạch, tính thuận

lợi, tính dân chủ,... Tùy thuộc vào từng cơ chế, chính sách khác nhau chủ thể

đánh giá cần phải xác định đúng tiêu chí cần thiết để đánh giá cho phù hợp. Mặt

khác, trong các tiêu chí cũng cần xác định tiêu chí chính và các yếu tố thuộc về

chỉ tiêu phục vụ cho tiêu chí chính. Về phương pháp, có thể liệt kê ra các tiêu

chí, sau đó xác định mục tiêu chính và các mục tiêu bộ phận (chỉ tiêu) để xác

định được tiêu chí cơ bản và các chỉ tiêu đánh giá. Cũng có thể gom các tiêu chí

(chỉ tiêu) phục vụ cho mục tiêu mà cơ chế, chính sách đó theo đuổi vào một

58

tiêu chí mang tính khái quát. Xuất phát từ vai trò và nội dung của cơ chế tự chủ

về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã, tác giả đã lựa chọn 03 tiêu chí để

đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính.

2.2.5.1. Tính hiệu lực

“Hiệu lực” được hiểu là sự đem lại “công dụng, tác dụng tốt và kết quả

mĩ mãn trong thực tiễn”- theo từ điển Tiếng Việt. Theo cách hiểu này thì tính

hiệu lực của cơ chế tự chủ KPQLHC phải có “giá trị thi hành” trên thực tiễn, có

nghĩa là nó phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ (không xảy ra

hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản pháp luật hiện hành khác),

tính toàn diện (có đầy đủ các qui định cần thiết), tính phù hợp (nó được thể hiện

là sự tương thích với trình độ phát triển KT –XH, văn hóa truyền thống, tập

quán của các địa phương). Suy cho cùng, hiệu lực của cơ chế tự chủ KPQLHC

được thể hiện khi nó đạt được tính khả thi. Đây là thước đo thực tế về tính hiệu

lực của cơ chế tự chủ KPQLHC.

Như vậy, những qui trình, thủ tục liên quan đến việc triển khai thực hiện

quyền tự chủ của các xã trong cơ chế tự chủ phải đảm bảo công khai, minh bạch,

rõ ràng, logic, thống nhất tạo thành một chỉnh thể. Các điều kiện áp dụng cơ chế tự

chủ vào thực tế phải dễ dàng, không tạo cơ chế “xin - cho”.

Nói cách khác, cơ chế tự chủ về KPQLHC phải tạo ra một khung pháp lý

hoàn chỉnh cho chính quyền cấp xã dựa vào đó chủ động tổ chức các hoạt động tài

chính của mình một cách hiệu quả, đáp ứng nhiệm vụ của chính quyền cấp xã một

cách tốt nhất. Vì vậy, khi đánh giá tính hiệu lực của cơ chế tự chủ về KPQLHC

chỉ có thể dựa trên các chỉ tiêu về mặt định tính.

Chẳng hạn:

- Tính đồng bộ của cơ chế tự chủ KPQLHC với các cơ chế chính sách khác;

- Tính phù hợp với mục tiêu của cơ chế;

59

- Mức độ cụ thể và tính rõ ràng của cơ chế qui định qui trình giao nhận tự chủ;

2.4.2. Tính hiệu quả

Trong Tiếng Anh, từ “effect” có nghĩa là tác dụng, hiệu quả. Theo từ

điển Tiếng Việt, hiệu quả là “kết quả đích thực”. Hiệu quả của một cơ chế có

thể được “đo lường” dưới hai khía cạnh cơ bản là lợi ích và chi phí. Một cơ chế

được xem là hiệu quả khi nó đáp ứng được mong muốn của người ban hành và

đạt được mục tiêu đặt ra là “tác động” tới các quan hệ liên quan để điều chỉnh

theo hướng tích cực, với một chi phí thấp nhất. Hiệu quả của cơ chế trước tiên

được thể hiện về chất lượng nội dung đưa ra trong cơ chế, kết quả đạt được trên

thực tế. Hơn nữa, nó phải được xem xét ở trạng thái sau khi cơ chế tác động lên

các quan hệ xã hội, tức là kết quả đạt được trên thực tế.

Tính hiệu quả là một tiêu chí rất quan trọng để phản ánh kết quả

của cơ chế tự chủ KPQLHC đem lại so với thời kỳ chưa áp dụng cơ chế tự chủ

KPQLHC cho chính quyền cấp xã. Luận án sử dụng phương pháp so sánh,

phân tích để đánh giá tính hiệu quả của cơ chế KPQLHC. Từ đó phản ánh

đúng, rõ ràng, và sâu sắc hơn về tình hình thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC tại

chính quyền cấp xã. Đánh giá hiệu quả của cơ chế tự chủ KPQLHC sẽ là cơ sở

đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế trong tương lai. Nội dung chính

của việc đánh giá tính hiệu quả của cơ chế tự chủ KPQLHC dựa trên:

- Mức độ hoàn thành nhiệm vụ với KPQLHC được giao tự chủ: các chỉ

tiêu cụ thể đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền cấp xã và

CBCC xã giúp CBCC xã có tích cực làm việc và gắn bó với tổ chức của mình;

nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ CBCC xã.

- Số kinh phí tiết kiệm được: kinh phí tiết kiệm được và việc sử dụng

kinh phí tiết kiệm

2.2.5.3. Tính linh hoạt và tính công bằng

60

Tính linh hoạt của cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính là những

qui định trong nó phải có khả năng thích nghi với sự thay đổi của môi trường

kinh tế - xã hội, yếu tố đặc thù của mỗi vùng, miền trên phạm vi cả nước.

Chẳng hạn mức độ linh hoạt của cơ chế phân cấp ngân sách (theo nhiệm vụ cụ

thể và yếu tố đặc thù của địa phương). Các xã phải được chủ động trong phân

bổ nguồn kinh phí được cấp theo thực tế của xã. Các chỉ tiêu cụ thể đánh giá

tính linh hoạt:

- Linh hoạt trong việc tiếp nhận, sử dụng và điều động CBCC xã trong

nội bộ khi thực hiện nhiệm vụ;

- Linh hoạt trong phân bổ dự toán kinh phí giao tự chủ;

- Linh hoạt trong việc xác định mức chi

- Mức độ chủ động trong việc xây dựng QCCTNB và sửa đổi, bổ sung

qui chế khi cần thiết

Những qui định trong cơ chế tự chủ phải tạo ra sự công bằng giữa quyền

tự chủ và trách nhiệm đi kèm. Trong đó trách nhiệm của chính quyền xã là

trách nhiệm cung cấp dịch vụ hành chính công cho người dân một cách tốt

nhất, đem lại sự hài lòng cho người dân và cộng đồng, sử dụng hiệu quả các

nguồn lực, các thông tin tài chính xã phải đảm bảo tính minh bạch và giải trình

công khai với cộng đồng.

Tuy nhiên, những qui định trong cơ chế cần đảm bảo sự hài hòa giữa

quyền hạn và trách nhiệm, phải cân bằng giữa chi phí và lợi ích đem lại.

- Công bằng giữa trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu chính

quyền cấp xã;

- Công bằng trong việc trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ công chức xã;

- Công bằng trong cung ứng dịch vụ công, tất cả mọi người dân đều được

hưởng lợi như nhau và được cung cấp dịch vụ tốt nhất (tránh tình trạng tiết

kiệm chi phí, cắt giảm các điều kiện phục vụ người dân)

61

2.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện cơ chế tự chủ về

kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã

2.2.6.1. Nhân tố khách quan

* Cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực tài chính, ngân

sách, chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức cấp xã

Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô, cho nên

mọi đường lối, chính sách của Nhà nước về lĩnh vực tài chính, ngân sách, chế độ

tiền lương đều ảnh hưởng tới tiến trình quản lý của chính quyền cấp xã. Bởi vì:

Thứ nhất, Nhà nước là người xây dựng hệ thống pháp luật, định hướng

phát triển các xã và kiểm tra, giám sát những việc gì được làm trong khuôn khổ

pháp luật.

Thứ hai, hệ thống chính sách và các công cụ như chính sách tài chính, chính

sách tiền lương, thu nhập và chi tiêu của Nhà nước có tác động rất lớn đến cơ chế

tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã. Hệ thống chính

sách này phải phù hợp và đảm bảo tính đồng bộ thì mới tăng cường tính chủ động

cho các xã. Các chính sách quy định đó tạo khuôn khổ cho hoạt động tài chính của

chính quyền cấp xã để thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ấy, các chính sách, quy

định của chính quyền Trung ương về tài chính, ngân sách phải hợp lý, phù hợp với

trình độ phát triển của chính quyền cấp xã và điều kiện môi trường hoạt động của

chính quyền cấp xã.

Các chế độ, tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước là căn cứ để các xã xây dựng

quy chế chi tiêu nội bộ đảm bảo tính độc lập và tự chủ. Khi các văn bản này thay

đổi có tác động làm thay đổi cơ chế tài chính của các xã thực hiện tự chủ.

Thứ ba, cơ chế tự chủ KPQLHC là chính sách, quy định quản lý nhằm tăng

cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các xã về các mặt hoạt động tài

chính, tổ chức bộ máy và sắp xếp lao động, qua đó làm tăng chất lượng hoạt

động và cung cấp dịch vụ công của chính quyền cấp xã.

* Các qui định về phân cấp ngân sách

62

Ngân sách nhà nước được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp

chính quyền địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống ngân sách

nhà nước gồm nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà

còn từ cơ chế phân cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có

nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ

đó mỗi cấp đề xuất và bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên

xuống. Mặt khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và

Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa phương, cục bộ … vẫn cần có chính sách

và biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc

lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa phương mình trong quá trình phát

triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số khoản thu như: tiền cho thuê mặt

đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu

Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài,…giao cho địa phương quản lý sẽ hiệu

quả hơn.

- Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là cách tốt nhất để gắn các hoạt

động của ngân sách nhà nước với cac hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể

và thực sự nhằm tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các

nguồn tài chính quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết

kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã

hội của đất nước. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lý

không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt

động của các cấp chính quyền ngân sách từ trung ương đến điah phương mà

còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa

phương trong cả nước.

Tuy nhiên, cho đến nay, quá trình đổi mới, phân cấp quản lý TC - NS xét

về tổng thể vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn và còn

nhiều hạn chế, bất hợp lý. Theo đó, sự phân cấp nhưng chưa bảo đảm quản

lý thống nhất, còn có biểu hiện phân tán. Thẩm quyền quyết định NS còn

63

chồng chéo, chưa tạo điều kiện cho chính quyền địa phương thực sự làm

chủ NS của mình.

Hai là, chúng ta chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ thẩm quyền

trách nhiệm của mỗi cấp trong ban hành chế độ chính sách, tiêu chuẩn, định

mức chi NSNN. Theo quy định, việc ban hành các chế độ, tiêu chuẩn, định mức

chi do các cơ quan có thẩm quyền thuộc cấp Trung ương ban hành. Nhưng

trong thực tế, quy định của các cơ quan Trung ương lại không đầy đủ về nội

dung, nhiều quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn chưa bao quát được tất cả

các lĩnh vực, không thật sát thực tế, tính khả thi không cao, địa phương khó

thực hiện; có quy định phù hợp với địa phương này nhưng lại không phù hợp

với địa phương khác.

Ba là, phân cấp về nguồn thu, nhiệm vụ chi còn nhiều hạn chế. Giữa các

cấp NS ở địa phương hiện có trên 10 khoản thu phân chia. Nhìn chung, nguồn

thu của phần lớn các địa phương nhỏ và thấp so với nhiệm vụ chi, nên chưa

phát huy được quyền chủ động, tính sáng tạo của các địa phương. Bên cạnh đó,

nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương (NSĐP) được xác định và

giao ổn định từ 3 - 5 năm, song thực tế chưa đạt được sự ổn định này.

Về nhiệm vụ chi, trong điều kiện nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn

chế, việc tập trung nguồn lực về ngân sách Trung ương (NSTW) là cần thiết,

song vẫn thể hiện sự ôm đồm, bao biện, gây hạn chế sự năng động, tích cực của

địa phương. Nhiều địa phương có điều kiện khó khăn, chưa phát huy mạnh nội

lực, các tiềm năng phát triển kinh tế, phát triển nguồn thu nhưng chưa tập trung

vào những nhiệm vụ quan trọng, chưa chủ động bố trí NS, còn trông chờ sự hỗ

trợ từ NS cấp trên. Tình trạng sử dụng ngân sách vượt quá khả năng, lãng phí

còn lớn.

Bốn là, thẩm quyền quyết định tỷ lệ phân chia và số bổ sung NSNN chưa

rõ ràng, rành mạch. Có nhiều tiêu chí và tiêu thức phân bổ nguồn vốn đầu tư

phát triển cho địa phương chưa thật sự hợp lý. Hơn nữa tình trạng chạy dự án từ

64

các nguồn vốn, nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước dẫn đến những bất

bình đẳng và sự thiếu công bằng minh bạch trong đầu tư.

Các nhân tố nêu trên sẽ gián tiếp ảnh hưởng tới quá trình thực hiện cơ chế

tự chủ KPQLHC và quá trình triển khai cơ này đối với chính quyền cấp xã.

* Cam kết của người đứng đầu địa phương

Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính là một chính sách cải cách mạnh mẽ

của nhà nước đối với chính quyền cấp xã, do đó đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ

đạo và giám sát thực hiện từ trung ương tới cơ sở. Chính phủ chỉ đạo các ngành

và các địa phương tổ chức thực hiện chế độ trên góc độ thực hiện một chính

sách, các Bộ chỉ đạo việc thực hiện theo ngành dọc tới các cơ quan của mình ở

địa phương, các tỉnh trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở cấp mình và cấp

dưới mình là cấp huyện, cấp xã. Sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện của cấp tỉnh là

trực tiếp và toàn diện, do đó cấp tỉnh sẽ gặp rất nhiều khó khăn phải giải quyết

trong quá trình triển khai thực hiện ở cấp mình và cấp dưới. Những khó khăn

đó đòi hỏi phải linh hoạt đồng thời quyết tâm cao mới có thể khắc phục được

trong thời gian sớm nhất, đảm bảo duy trì tốc độ và chất lượng thực hiện chính

sách. Do vậy, sự cam kết của người đứng đầu địa phương cụ thể là Chủ tịch

UBND tỉnh là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của chính sách.

Mặt khác, thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC cũng như thực hiện cải cách

hành chính nói chung không thể tiến hành một cách riêng lẻ ở từng xã mà cần

có sự phối hợp giữa chính quyền các cấp và các phòng ban chuyên môn của

huyện trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau giữa chức năng, nhiệm vụ của các

ngành và nhiệm vụ tổng thể của địa phương. Sự phối hợp giữa các cơ quan cần

được điều hành, chỉ đạo, giám sát bởi một người có trách nhiệm và quyền hạn

cao nhất, đó là người đứng đầu địa phương, để đảm bảo sự phối hợp là thông

suốt và hiệu quả. Cam kết của người đứng đầu địa phương thể hiện sự quyết

tâm và khẳng định sự đảm bảo cho việc tổ chức phối hợp giữa cá cơ quan có

liên quan trong việc triển khai cơ chế tự chủ được thực hiện tốt.

65

* Sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan

- Cơ quan Nội vụ: Có trách nhiệm hướng dẫn, giám sát và kiểm tra các

xã trong việc xác định lại chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp tổ chức bộ máy và xác

định biên chế hợp lý. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền

cấp xã, Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ hướng dẫn các xã rà soát lại chức năng, nhiệm

vụ, loại bỏ những phần chức năng, nhiệm vụ không thuộc thẩm quyền của

mình, tổ chức lại bộ máy hợp lý để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao,

căn cứ trên chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy đó tiến hành xác định và

phân bổ số biên chế hợp lý cho các xã.

Thực hiện cơ chế tự chủ rất cần phải có sự phối hợp giữa cơ quan nội vụ

với chính các xã thực hiện tự chủ. Cơ quan nội vụ theo dõi và hướng dẫn các xã

thực hiện tự chủ xác định đúng số biên chế sẽ đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm

vụ, xác định đúng chức năng, nhiệm vụ sẽ hoàn thành nhiệm vụ được giao và

thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước ở tại cơ sở, cung cấp các dịch vụ

hành chính công tốt nhất cho người dân trên đại bàn. Sự giám sát của cơ quan

nội vụ là quan trọng, đảm bảo cho một phần sự thành công của chính sách.

Chính quyền các xã khi thực hiện tự chủ luôn có xu hướng xác định số biên chế

nhiều lên để mong muốn được cấp nhiều kinh phí hơn, mặt khác các xã tự chủ

cũng ôm đồm nhiều việc hơn để có nhiều quyền lực và kinh phí hơn. Đứng

trước thực tế đó, cơ quan nội vụ phải làm tốt việc xác định chức năng, nhiệm vụ

cho cơ quan thực hiện tự chủ và mức biên chế hợp lý làm cơ sở để xác định

mức kinh phí giao tự chủ hợp lý. Làm được như vậy mới thực hiện được mục

tiêu cải cách hành chính là tinh gọn bộ máy, phân rõ chức năng, nhiệm vụ, thực

hành tiết kiệm trong chi ngân sách.

- Cơ quan Tài chính: là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh và huyện,

thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính và tham mưu giúp cho UBND

tỉnh và UBND huyện trong công tác tài chính trên địa bàn tỉnh, huyện. Trách

nhiệm của Sở Tài chính tham mưu cho UBND tỉnh ban hành văn bản hướng

dẫn thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC cho chính quyền cấp xã. Phòng Tài

66

chính trực tiếp hướng dẫn các xã thực hiện cơ chế tự chủ xác định mức kinh phí

hợp lý, phân bổ dự toán chi quản lý hành chính, xây dựng tốt quy chế chi tiêu

nội bộ và quy chế quản lý và sử dụng tài sản công. Cơ quan tài chính kiểm tra

các nội dung trên, đảm bảo mức kinh phí nhận tự chủ là hợp lý, đủ để hoàn

thành nhiệm vụ chuyên môn được giao, thực hiện tiết kiệm NSNN chi cho quản

lý hành chính đồng thời vẫn phải đảm bảo để có thể tiết kiệm tăng thu nhập cho

công chức cơ quan nhà nước, tạo động lực vật chất khuyến khích các xã thực

hiện cải cách.

Trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ cũng cần có sự hướng dẫn

của Phòng Tài chính để đảm bảo các định mức chi tiêu là đúng quy định, hợp

lý, đảm bảo khả năng tiết kiệm. Sự phối hợp của Phòng Tài chính là hết sức

quan trọng, đảm bảo sự hỗ trợ về chuyên môn trong lĩnh vực tài chính đối với

chính quyền cấp xã trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, sử dụng kinh phí

tiết kiệm và sử dụng tài sản công. Phòng Tài chính sẽ tham mưu cho UBND

huyện trong việc quyết định mức kinh phí giao tự chủ cho đơn vị trên cơ sở

Nghị quyết của HĐND tỉnh và cơ quan tài chính cấp trên, đảm bảo mức kinh

phí đó là hợp lý, giúp cho chính quyền cấp xã hoàn thành tốt các nhiệm vụ

chuyên môn được giao.

- Kho bạc nhà nước: Trách nhiệm của Kho bạc nhà nước ( KBNN) cấp

huyện là tạo điều kiện cho các xã thực hiện cơ chế tự chủ rút dự toán kinh phí

được nhanh chóng và thuận tiện, kiểm soát chi theo quy định hiện hành, được

quyền từ chối chấp nhận thanh toán các khoản chi vượt định mức do cơ quan có

thẩm quyền ban hành hoặc trái với quy chế chi tiêu nội bộ đã được xây dựng; cuối

năm thực hiện chuyển số kinh phí thực hiện cơ chế tự chủ, kinh phí tiết kiệm được

của các cơ quan chưa sử dụng hết sang năm sau tiếp tục sử dụng.

Kho bạc nhà nước huyện là cơ quan quản lý quỹ NSNN ở cấp huyện,

thực hiện chức năng quản lý và cấp ngân sách từ quỹ ngân sách nhà nước ở cấp

huyện cho các đối tượng thụ hưởng, sự phối hợp của KBNN sẽ đảm bảo ngân

sách kịp thời cho chính quyền cấp xẫ khi có nhu cầu sử dụng. Cơ chế tự chủ đã

67

trao quyền chủ động cho các Chủ tịch xã trong việc bố trí và sử dụng ngân sách

trong phạm vi được giao, tuy nhiên để sử dụng ngân sách đó phải thông qua

kho bạc với chức năng là người giám sát và cấp phát ngân sách. Sự phối hợp

giám sát của kho bạc cũng đảm bảo cho việc thực hiện chi của chính quyền cấp

xã đúng quy định, định mức, việc sử dụng các quỹ và kinh phí tiết kiệm đúng

mục đích, phục vụ tăng thu nhập và nâng cao đời sống công chức xã. Sự giám

sát của kho bạc đảm bảo ngân sách của nhà nước được sử dụng đúng mục đích,

tiết kiệm và hiệu quả.

2.2.6.2. Nhân tố chủ quan

Để thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính, các nhân tố chủ quan thuộc về

chính quyền cấp xã thực hiện tự chủ là yếu tố đầu tiên và rất quan trọng bao gồm

cam kết, năng lực nhận tự chủ của người đứng đầu chính quyền cấp xã khi thực

hiện cơ chế tự chủ KPQLHC, thực hiện công khai dân chủ trong toàn xã.

* Cam kết của người đứng đầu chính quyền cấp xã khi triển khai cơ

chế tự chủ

Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, người đứng đầu chính quyền cấp xã sẽ

được giao nhiều quyền hơn trong việc chủ động sắp xếp con người, chủ động

sử dụng kinh phí và chủ động trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao.

Cơ chế tự chủ trao cho người đứng đầu chính quyền cấp xã trách nhiệm cao

nhất trong việc tổ chức bố trí các nguồn lực để thực hiện tốt công việc, tạo ra

các sản phẩm dịch vụ hành chính công có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của

người dân sinh sống trên địa bàn.

Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính là bước cải cách mạnh mẽ trong quản

lý hoạt động của chính quyền cấp xã, có tác động lớn đến việc tổ chức và hoạt

động của chính quyền cấp xã, vừa trao quyền cho người đứng đầu nhưng cũng

yêu cầu cải thiện môi trường dân chủ trong xã. Do vậy, vai trò của người đứng

đầu chính quyền cấp xã là hết sức quan trọng và lợi ích của người đứng đầu

chính quyền cấp xã ít nhiều bị ảnh hưởng so với trước đó, vì thế đòi hỏi người

68

đứng đầu phải biết hy sinh lợi ích cá nhân trước mắt để đạt được lợi ích chung

và lợi ích cá nhân trong lâu dài.

Những lợi ích của cơ chế tự chủ đối với Chủ tịch xã, cán bộ công chức

xã cộng với một số hạn chế về lợi ích của người đứng đầu đặt ra vấn đề để thực

hiện tốt cơ chế cần có sự cam kết thực hiện của người đứng đầu và người đứng

đầu phải hiểu rõ, chủ động và tích cực trong việc tổ chức thực hiện cơ chế,

bằng cách thể hiện sự quyết tâm, chỉ đạo tích cực, tuyên truyền rộng rãi về ý

nghĩa và lợi ích to lớn của việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với từng cá nhân và

toàn thể bộ máy chính quyền cấp xã. Có như thế việc thực hiện cơ chế tự chủ

mới phát huy được tác dụng tích cực của nó, các quy trình của cơ chế tự chủ có

được thực hiện đầy đủ, chính xác thì cơ chế mới đạt được mục tiêu, tạo ra hiệu

quả như mong muốn.

* Năng lực tổ chức thực thi cơ chế tự chủ đối với chính quyền cấp xã

Trước tiên, năng lực nhận tự chủ của chính quyền cấp xã thể hiện ở năng

lực của Chủ tịch xã trong việc thực hiện cơ chế tự chủ. Thực hiện cơ chế tự

chủ, Chủ tịch xã được trao nhiều quyền tự chủ hơn trong việc sử dụng ngân

sách, sắp xếp biên chế, tổ chức bộ máy, bố trí công việc. Do vậy, đòi hỏi năng

lực tổ chức điều hành phải được nâng lên, quyền hạn luôn đi đôi với trách

nhiệm. Cải cách hành chính nói chung và thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC nói

riêng là một quá trình hết sức phức tạp và tương đối khó khăn, đòi hỏi người

lãnh đạo tổ chức thực hiện phải có năng lực giải quyết công việc và kỹ năng

lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt, phải linh hoạt trong giải quyết các công việc

liên quan đến cải cách, đồng thời cũng phải quyết đoán đưa ra các quyết định

cải cách. Người lãnh đạo ở xã phải có tầm nhìn bao quát về bộ máy chính

quyền cấp xã, cũng như chức năng nhiệm vụ mà xã mình quản lý, nắm chắc

những nhiệm vụ trong phạm vi trách nhiệm của mình phụ trách, đánh giá đúng

năng lực của các bộ phận cấp dưới, từ đó phân công, phân nhiệm hợp lý, phân

bổ kinh phí tiết kiệm, điều hành công việc khoa học, thực hiện tốt mục tiêu cải

69

cách tinh giảm bộ máy, tiết kiệm kinh phí trên cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ

được giao, tăng thu nhập cho CBCC xã tạo động lực kinh tế kinh thích CBCC

xã hoàn thành tốt nhiệm vụ và tham gia tích cực vào cải cách hành chính tại xã.

Sau đó, năng lực nhận tự chủ còn thể hiện ở năng lực của CBCC xã. Cơ

chế tự chủ tài chính có mục đích tạo ra sự tiết kiệm trong sử dụng kinh phí

NSNN thông qua tiết kiệm các khoản chi thường xuyên và tiết kiệm do tinh

giảm biên chế. Nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính, cơ chế tự

chủ tài chính cũng hướng tới mục tiêu thực hiện tinh giản biên chế, tinh giảm

bộ may chính quyền cấp xã trên cơ sở nâng cao năng lực giải quyết công việc

của CBCC xã. Qua phân tích cơ chế tự chủ KPQLHC dưới góc độ mục đích

kinh tế, cơ chế tự chủ muốn sử dụng động lực kinh tế để kích thích CBCC xã

hoàn thành tốt công việc thông qua sử dụng tiết kiệm nguồn ngân sách được

cấp. Tuy nhiên, nguồn kinh phí chi thường xuyên đã được xác định theo các

định mức cụ thể và tương đối chặt chẽ, nếu chỉ trông đợi vào sự tiết kiệm của

nguồn đó thì chẳng mấy chốc động lực kinh tế sẽ bị bão hoà, một nguồn kinh

phí khác có thể tiết kiệm và là mục đích ngầm định của cơ chế tự chủ đó là tiết

kiệm từ việc thực hiện không hết số tiền biên chế được giao, muốn như vậy chỉ

có cách là mỗi CBCC xã phải nâng cao năng lực của mình, hoàn thành nhiều

nhiệm vụ hơn mức hiện tại để có thể tiết kiệm được biên chế so với được giao.

Và theo vòng logic, đó là chu kỳ của cải cách, giải quyết việc này sẽ tạo ra

động lực để thực hiện việc tiếp theo, và cứ thế, vòng xoáy cải cách hành chính

sẽ đi lên đỉnh hình tháp của chất lượng cải cách. Như vậy năng lực và khả năng

nâng cao năng lực của CBCC xã có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng và

tiến độ của cơ chế tự chủ nói riêng và cải cách hành chính nói chung.

* Thực hiện công khai dân chủ của chính quyền cấp xã

Trong quá trình triển khai thực hiện cơ chế tự chủ của chính quyền cấp

xã, quy trình thực hiện yêu cầu phải làm tốt việc công khai dân chủ, bàn bạc tập

thể trong CBCC xã, đi đến thống nhất những vấn đề liên quan. Từ đó, xây dựng

70

quy chế làm việc, quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế quản lý tài sản công, là

những cơ sở để thực hiện cơ chế tự chủ đạt kết quả cao.

Thực hiện công khai dân chủ cần được tiến hành trong việc phổ biến chủ

trương thực hiện tự chủ, tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của cơ chế

tự chủ để mọi CBCC xã đều nhận thức đúng về cơ chế tự chủ, tích cực ủng hộ

và tham gia thực hiện cơ chế tự chủ; công khai dân chủ trong thảo luận các quy

định, định mức, chỉ tiêu để xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ nhằm thu thập ý

kiến rộng rãi, tạo sự đồng thuận tối đa của CBCC xã đối với bản quy định chi

tiêu và sử dụng tài sản công của xã; công khai dân chủ quá trình thực hiện cũng

như kết quả thực hiện để toàn thể CBCC xã thấy được thành quả thực hiện tự

chủ của mình, đồng thời tham gia giám sát, đánh giá quá trình thực hiện của xã

nói chung. Có thể nói, công khai dân chủ là một bước quan trọng để đạt tới

thành công của cơ chế tự chủ và cũng là kết quả mong muốn khi thực hiện cơ

chế tự chủ.

Một vấn đề có tính ý tưởng được nảy sinh ra ở đây cho sự phát triển của

cơ chế tự chủ tài chính ở những năm tiếp theo là: hàng năm khi tổng kết việc

thực hiện cơ chế tự chủ trong năm qua, cần tiếp tục thực hiện một bước nữa là

quy trình thực hiện cơ chế tự chủ để xây dựng một cơ chế mới cho năm tiếp

theo, nghĩa là, để cho công chức xã thảo luận lại xem trong một năm thực hiện

như thế, có công đoạn nào có thể rút ngắn được nữa không, nhờ áp dụng công

nghệ thông tin, có công việc nào có thể giải quyết được nhanh hơn, có ý tưởng

nào cải tiến được quy trình công việc để có thể chỉ cần ít người hơn vẫn hoàn

thành được khối lượng công việc như thế, làm được điều ấy sẽ giảm được biên

chế, tăng tiết kiệm ngân sách để tăng thêm thu nhập. Mặt khác, qua thực hiện

quy chế chi tiêu nội bộ trong một năm, tiếp tục thảo luận xem có mục chi nào

còn chưa tiết kiệm, còn có khả năng tiết kiệm được nữa, có sáng kiến nào thực

hiện tiết kiệm để tăng cường tiết kiệm chi ngân sách, góp phần nâng cao thu

nhập cá nhân, thực hiện nguyên tắc thứ 3 trong xây dựng quy trình tự chủ tài

71

chính, đó là: cơ chế tự chủ tài chính là một quy trình liên tục. Như vậy, đó

chính là hướng phát triển của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính trong

những năm tiếp theo.

2.3. Kinh nghiệm về chế độ tự quản địa phương của một số quốc gia

trên thế giới.

2.3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới

* Tự quản địa phương ở Mỹ

Theo Hiến pháp Mỹ năm 1787, hệ thống các cơ quan tự quản địa phương

ở Mỹ được thành lập trên cơ sở phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ. Việc

phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức các cơ quan tự quản địa

phương là những vẫn đề thuộc thẩm quyền của các Bang. Theo đó, Hiến pháp

của 50 Bang ở Mỹ đã xác định cơ cấu tổ chức hành chính đa dạng và tương ứng

là những mô hình tự quản địa phương khác nhau. Các Bang đều chia thành lãnh

địa và dân cư của các lãnh địa đó bầu ra Hội đồng lãnh địa, cơ quan quản lý và

một số chức vụ quản lý.

Theo Hiến pháp và các luật của Bang, hoạt động của các cơ quan tự quản

địa phương bao gồm:

- Về thuế và ngân sách: Cơ quan tự quản địa phương tự quyết định

các khoản thuế và các khoản thu khác của địa phương, thông qua ngân sách

địa phương.

- Về cung ứng dịch vụ công: Cơ quan tự quản địa phương có nhiệm vụ

tổ chức cung cấp các dịch vụ xã hội như: quản lý trường học, bảo trợ xã hội,

chăm sóc sức khoẻ, xây dựng nhà ở, xây dựng, sửa chữa, bảo trì các con

đường ở địa phương.

- Về quản lý tài sản địa phương: Cơ quan tự quản địa phương có quyền

sở hữu, quản lý xí nghiệp và một vài cơ sở kinh tế của địa phương.

- Về an ninh, trật tự xã hội: Thực hiện hoạt động tuyên truyền, phổ biến

các văn bản luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước liên bang và của Bang

72

đến người dân; Lãnh đạo hoạt động của cảnh sát và các cơ quan tư pháp địa

phương; Báo cáo tình hình của địa phương lên cơ quan giám sát cấp trên.

* Tự quản địa phương ở Pháp

Hệ thống các cơ quan địa phương ở Pháp được xây dựng trên cơ sở phân

chia đơn vị hành chính – lãnh thổ. Đơn vị hành chính của Pháp bao gồm: xã,

tỉnh và vùng; mỗi đơn vị hành chính – lãnh thổ đều có thực hiện chế độ tự quản

ở các mức độ khác nhau.

- Đối với đơn vị hành chính xã: Hiện nay, ở Pháp có khoảng 37 nghìn xã.

Chịu trách nhiệm tổ chức, điều hành các công việc ở xã như: Quyết định những

vấn đề liên quan đến lợi ích của xã, định đoạt tài sản của xã, chỉ đạo cung ứng

các dịch vụ cần thiết như: bệnh viện; chợ; xây dựng, sửa chữa đường sá, cầu

cống; trường học; bảo tàng là Hội đồng và xã trưởng. Cụ thể, chính quyền địa

phương chủ động đảm nhận thẩm quyền trong một lĩnh vực mới, nếu thẩm

quyền đó chưa có địa phương nào thực hiện (theo điều khoản chung về thẩm

quyền của địa phương); trong khi đó ở Việt Nam, địa phương phải xin và được

sự chấp thuận về chủ trương của trung ương trước khi hành động trong lĩnh vực

mới. Điều này khuyến khích thúc đẩy quá trình cải tiến dịch vụ công và cung

cấp dịch vụ công mới, góp phần tạo khả năng tự chủ tài chính của chính quyền

địa phương

Tại Pháp thực hiện liên kết xã nhằm nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ

công và phát triển tổng thể trong một khu vực địa lý. Có hai hình thức liên kết

xã là liên minh xã và cộng đồng xã. Liên minh xã là tập hợp nhiều xã lại với

nhau nhằm thực hiện các công việc và dịch vụ vì lợi ích chung của các xã thành

viên. Cộng đồng xã là kết hợp nhiều xã lại với nhau nhằm xây dựng dự án

chung để phát triển. Sự khác nhau giữa hai hình thức liên kết xã này là phương

thức hoạt động: Liên mình xã thuộc thuộc vào các xã thành viên, còn cộng

đồng xã được độc lập về thuế. Chính phủ khuyến khích việc liên kết xã vì ở

Pháp có rất nhiều xã nhỏ. Tuy nhiên, liên minh xã và cộng đồng xã không phải

là một đơn vị hành chính lãnh thổ mà là đơn vị sự nghiệp công lập được hình

73

thành để thực hiện một số chức năng của chính quyền xã thay vì để các xã thực

hiện một cách độc lập. Các chức năng phổ biến của liên kết xã gồm có cung cấp

các dịch vụ công như y tế, phúc lợi xã hội, cấp giấy phép xây dựng, triển khai

các dự án chung về xử lý rác thải, phát triển du lịch, nước sạch,… Như vậy

hình thức liên kết xã giúp đổi mới tư duy quản lý: từ quản lý theo địa bàn (theo

địa lý) sang quản lý theo mục tiêu (phối hợp thực hiện một số chức năng, nhiệm

vụ và dự án lớn mang tính liên xã). Trong số 37.000 xã tại Pháp, đã hình thành

2.600 liên kết xã (bao gồm liên minh xã và cộng đồng xã). Quá trình liên minh

giúp không chỉ giảm được chi công mà còn tăng cường tính chuyên nghiệp của

cung cấp dịch vụ công. Nhân lực, nguồn thu và ngân sách của các chính quyền

địa phương do được phân cấp trách nhiệm từ trung ương nên các chính quyền

địa phương được trung ương cấp nhân lực (công chức) và được hưởng quy chế

tự chủ về tài chính. Mức độ cấp nhân lực công chức và ngân sách tùy theo mức

độ chuyển giao thẩm quyền và trách nhiệm mới từ trung ương xuống địa

phương. Về nhân lực, các chính quyền địa phương được cấp số lượng lớn công

chức. Năm 2012, tổng số công chức làm việc tại các chính quyền địa phương là

1,8 triệu, chiếm 35% tổng số công chức của nước Pháp. Riêng số công chức

làm việc tại chính quyền địa phương cấp xã là 1,4 triệu, chiếm khoảng 77%

tổng số công chức làm việc tại các chính quyền địa phương. Về nguồn thu và

ngân sách, các địa phương có quyền tự chủ cao về tài chính (theo Luật tổ chức

do Quốc hội ban hành ngày 29/7/2004). Các nguồn thu của địa phương bao

gồm: các nguồn thuế trực thu và gián thu (các địa phương được giữ lại 51.7%

tổng thu từ thuế); các nguồn thu do Nhà nước chuyển giao hoặc tài trợ; các

khoản vay, bán tài sản và dịch vụ công (cho doanh nghiệp và người dân). Cũng

giống như Việt Nam, Chính phủ Pháp tổ chức thu thuế và sau đó phân chia cho

các địa phương theo tỉ lệ được luật quy định. Địa phương không có quyền ban

hành luật thu thuế. Năm 2014, tổng chi thường xuyên cho các chính quyền địa

phương chiếm 20% tổng chi hành chính công của Pháp. Kế hoạch ngân sách

được lập, biểu quyết và quản lý bởi mỗi cấp địa phương (vùng, tỉnh, xã). Tuy

74

vậy, một thực tế là các địa phương luôn gặp khó khăn trong tạo nguồn tài chính

nên bắt buộc phải thi hành nhiều biện pháp giảm chi để giảm gánh nặng ngân

sách nhà nước. Các biện pháp giảm chi phổ biến được áp dụng gồm: (1) Đẩy

mạnh liên kết vùng, liên kết tỉnh và liên kết xã nhằm giải quyết hiệu quả các

vấn đề lớn mang tính liên địa phương, giảm số lượng vị trí việc làm và thay đổi

tư duy quản lý (một số chức năng được quản lý theo địa bàn, một số chức năng

khác được phối hợp quản lý theo mục tiêu). Trao nhiều quyền cho xã trưởng

(bao gồm cả thẩm quyền như cảnh sát) để giải quyết các vấn đề tại địa bàn, bao

gồm cả các vấn đề an ninh, xã hội. (2) Phân định, phân công rõ về nhiệm vụ,

trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương (vùng, tỉnh, xã) trong từng

lĩnh vực nhằm giảm thiểu sự trùng lặp về nhiệm vụ, trách nhiệm giữa các cấp

và các đầu mối hành chính, qua đó giảm chi. (3) Xóa bỏ các chế độ phụ cấp

không cấp thiết và tốn kém (ví dụ hỗ trợ nhà ở, xe cộ cho công chức) cũng như

các chính sách kém hiệu quả (bao gồm cả chính sách đào tạo, bồi dưỡng công

chức). (4) Thực hiện tinh giảm biên chế thông qua 2 cách thức là tăng số giờ

làm việc từ 35h lên 39h/tuần và áp dụng tỉ lệ tuyển dụng thay thế công chức

nghỉ hưu là 2/3 (tức là cứ có 3 công chức nghỉ hưu thì tuyển bổ sung 2 công

chức). (5) Nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính – ngân sách

của chính quyền địa phương.

* Tự quản địa phương ở cộng hòa liên bang Đức

Cơ sở pháp lý hình thành chế độ tự quản địa phương ở CHLB Đức là

Hiến pháp Liên bang và Luật của các bang.

Đơn vị hành chính tự quản địa phương ở CHLB Đức là xã và liên xã. Hai

loại đơn vị hành chính này với tư cách là cấp tự quản ở địa phương có quyền

quyết định và tự chịu trách nhiệm về tất cả các công việc của cộng đồng địa

phương trong khuôn khổ pháp luật.

Xã ở CHLB Đức là khái niệm chỉ một đơn vị hành chính cơ sở, kể cả

thành phố lớn, vừa và nhỏ (chỉ trừ 3 thành phố được hưởng quy chế đặc biệt là:

Berlin, Bermen, Hamburg). Hiện nay CHLB Đức có khoảng 14.619 xã. Liên xã

75

ở CHLB Đức là khái niệm chỉ hình thức liên kết giữa một số xã có quy mô nhỏ

thành một đơn vị hành chính cơ sở.

- Tổ chức, hoạt động của chính quyền xã, liên xã ở CHLB Đức:

Trong khuôn khổ pháp luật, xã có nghĩa vụ và quyền điều hành công việc

của mình theo tinh thần tự chịu trách nhiệm. Xã có quyền khiếu kiện trước các

toà án có thẩm quyền về những sự can thiệp trái pháp luật và những cản trở đối

với quyền tự quản của mình. Các xã, liên xã có biểu tượng riêng, có cờ và con

dấu công vụ của mình.

Cơ cấu tổ chức chính quyền tự quản xã, liên xã ở CHLB Đức bao gồm:

Hội đồng, Xã trưởng và các phòng ban chuyên môn.

+ Hội đồng xã, liên xã (sau đây gọi là Hội đồng xã) được nhân dân địa

phương bầu ra thông qua bỏ phiếu. Số lượng thành viên của Hội đồng xã phụ

thuộc vào số dân của xã, có nhiệm kỳ 5 năm. Nhiệm vụ của Hội đồng xã là:

Quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao

phúc lợi cho nhân dân địa phương; Quyết định ngân sách và quyết toán hằng

năm, quy định về thuế và đảm bảo nguồn tài chính cho địa phương; Ban hành

điều lệ, quy chế pháp lý của xã; Bầu xã trưởng, sa thải cán bộ, công chức; Quy

định việc thành lập các cơ quan công quyền và Ban hành quy chế hoạt động

cho Hội đồng xã. Quyền hạn của Hội đồng xã là giám sát đối với hoạt động của xã.

+ Xã trưởng được Hội đồng xã bầu ngoại trừ một số xã dân bầu trực tiếp

xã trưởng với nhiệm kỳ từ 6 đến 12 năm, tuỳ thuộc vào quy chế của từng xã. Xã

trưởng là người lãnh đạo bộ máy hành chính xã, có quyền trực tiếp quyết định

những vấn đề có tính chất cấp bách của xã; Chuẩn bị và thực hiện các Nghị quyết

của Hội đồng xã; Đại diện pháp lý cho xã về đối ngoại; Điều hành các công việc

của các phòng ban chuyên môn thuộc cơ quan hành chính xã.

+ Các phòng ban chuyên môn có số lượng khác nhau tuỳ thuộc vào quy

chế của từng xã. Cơ cấu thành phần các phòng ban chuyên môn do Hội đồng xã

quyết định. Trưởng phòng và nhân viên các phòng ban chuyên môn do Xã

trưởng bổ nhiệm. Hoạt động của các phòng ban chuyên môn khá đa dạng về

76

nhiều lĩnh vực như: Xây dựng, nhà đất, an ninh trật tự, giáo dục, thuế, thống kê,

pháp luật, an sinh xã hội…

2.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với việt Nam khi giao tự chủ kinh phí

quản lý hành chính cho chính quyền cấp xã

Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm về chế độ tự quản địa phương của một

số quốc gia trên thế giới, tác giả đề xuất một số bài học kinh nghiệm có thể vận

dụng tại Việt Nam khi thực hiện giao quyền tự chủ về KPQLHC đối với chính

quyền cấp xã như sau:

Thứ nhất: Xác định rõ vị trí độc lập tương đối của chính quyền xã,

phường, thị trấn với chính quyền cấp huyện trong việc quyết định các công việc

của địa phương trong phạm vi quyền tự chủ theo luật định và nhu cầu của tự

quản cộng đồng dân cư trên địa bàn. Tạo cơ chế tự chủ về tài chính ngân sách

và các nguồn lực ở mức độ cao hơn để chính quyền cấp xã thực hiện tốt việc

cung cấp dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của người dân. Kinh nghiệm tại Mỹ

cho thấy việc tự quyết định các khoản thuế và các khoản thu khác của địa

phương sẽ giúp cho chính quyền cấp xã chủ động hơn trong cung ứng dịch vụ

công, quản lý tài sản và an ninh trật tự trên địa bàn.

Thứ hai, có thể thực hiện việc liên kết giữa các xã nhằm hạn chế việc

mua sắm mới, tận dụng lợi thế về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài sản… tại các

xã đã được nhà nước cung cấp; việc liên kết giữa các xã sẽ tạo điều kiện cho

việc cung cấp các dịch vụ công ở chính quyền địa phương được hiệu quả, có

thể giảm chi phí, cắt giảm được số biên chế cần thiết đối với đội ngũ CBCC cấp

xã, tiết kiệm được KPQLHC. Kinh nghiệm tại Pháp và Đức cho thấy việc liên

xã giúp đổi mới tư duy quản lý: từ quản lý theo địa bàn (theo địa lý) sang quản

lý theo mục tiêu (phối hợp thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ mang tính

phổ biến), tăng tính chuyên nghiệp của việc cung cấp dịch vụ công tại chính

quyền cấp xã.

77

Thứ ba: Tạo cơ chế pháp lý để nhân dân địa phương trực tiếp bầu, bãi

miễn người đứng đầu chính quyền cấp xã và người đó phải chịu trách nhiệm

trực tiếp trước nhân dân về tính hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành, tại

xã. Điều này sẽ làm gia tăng tính trách nhiệm của người đứng đầu và đội ngũ

CBCC chính quyền cấp xã.

Bài học kinh nghiệm này được coi là một biện pháp tích cực để thúc đẩy

tiến trình giao tự chủ tài chính cho chính quyền cấp xã ở mức độ cao hơn và là

xu thế tất yếu khách quan. Bảo đảm quyền tự chủ của chính quyền cấp xã về tài

chính, ngân sách; gắn trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền cấp xã gắn

với kết quả đầu ra trong quá trình quản lý điều hành, từ đó làm tăng trách

nhiệm giải trình, tăng tính minh bạch trong quản lý ngân sách xã.

78

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Qua việc phân tích làm rõ các khái niệm về: ngân sách xã; quản lý ngân

sách xã; nội dung quản lý ngân sách xã; cơ chế tự chế tự chủ KPQLHC; nội

dung cơ chế này... đối với chính quyền cấp xã. Việc xây dựng các tiêu chí đánh

giá và tìm ra các nhân tố ảnh hưởng tới cơ chế tự chủ KPQLHC; cũng như việc

nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và các bài học rút ra

có thể khẳng định rằng: Việc thực hiện giao quyền tự chủ về KPQLHC đối với

chính quyền cấp xã ở nước ta là đúng hướng, hợp quy luật, phù hợp với bối

cảnh cải cách hành chính nói chung và cải cách tài chính công nói riêng. Cơ chế

tự chủ KPQLHC sẽ đem lại một luồng sinh khí mới, giúp chính quyền cấp xã,

đội ngũ CBCC cấp xã, phát huy mọi khả năng vốn có của mình về trí tuệ,

nguồn nhân lực, cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công

tại xã. Đặc biệt, là người đứng đầu thay đổi tư duy quản lý theo hướng đổi mới,

hiện đại.

79

Chương 3

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TỰ CHỦ VỀ KINH PHÍ QUẢN LÝ

HÀNH CHÍNH TẠI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ CÁC TỈNH

ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

3.1. Khái quát chung về chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.

Đồng bằng sông Hồng (hay châu thổ sông Hồng) là một vùng đất rộng lớn

nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng thuộc miền Bắc Việt Nam, vùng đất bao

gồm 10 tỉnh và thành phố như: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng

Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Đồng nghĩa với

đồng bằng sông Hồng là vùng trung châu, khác với vùng chân núi trung du và núi

cao thượng du. Không giống như vùng đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh trong

vùng đồng bằng sông Hồng chỉ có 2 tỉnh Thái Bình và Hưng Yên là không có núi,

do đó khu vực này thường được gọi là châu thổ sông Hồng. Toàn vùng có diện

tích: 23.336 km², chiếm 7,1 % diện tích của cả nước.

Đồng bằng sông Hồng trải rộng từ vĩ độ 21°34´B (huyện Lập Thạch) tới

vùng bãi bồi khoảng 19°5´B (huyện Kim Sơn), từ 105°17´Đ (huyện Ba Vì) đến

107°7´Đ (trên đảo Cát Bà). Phía bắc và đông bắc là Vùng Đông Bắc (Việt

Nam), phía tây và tây nam là vùng Tây Bắc, phía đông là vịnh Bắc Bộ và phía

nam vùng Bắc Trung Bộ. Đồng bằng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ

các thềm phù sa cổ 10 - 15m xuống đến các bãi bồi 2 - 4m ở trung tâm rồi các

bãi triều hàng ngày còn ngập nước triều.

Số lượng các xã, phường, thị trấn các tỉnh đồng bằng sông Hồng chiếm

khoảng 22 % tổng số các xã, phường, thị trấn trong cả nước (2.272 xã/11.165

xã) – tính đến tháng 11 năm 2018.

80

Bảng 3.1. Số lượng các xã, phường, thị trấn các tỉnh đồng bằng sông Hồng

STT

XÃ- PHƯỜNG - THỊ TRẤN

TỈNH, THÀNH PHỐ

QUẬN - HUYỆN - THỊ XÃ

1 Hà Nội 12 Quận, 17 Huyện, 1 Thị Xã 584 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 386 xã, 177 phường, 21 thị trấn

thành phố, 7 2 Vĩnh Phúc 1 Huyện, 1 Thị Xã 137 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 112 xã , 13 phường, 12 thị trấn

3 Nam Định 1 thành phố, 9 huyện

4 Hà Nam 1 thành phố, 5 huyện

5 Hưng Yên

1 thành phố Hưng Yên , 1 thị xã Mỹ Hào và 8 huyện

thành phố, 10 6 Hải Dương 1 huyện, 1 thị Xã 229 đợn vị hành chính cấp xã, gồm 20 phường, 194 xã cùng 15 thị trấn 116 đơn vị hành chính cấp xã, trấn, 7 thị có gồm 11 phường và 98 xã. 161 đơn vị hành chính cấp xã gồm 145 xã, 7 phường, 9 thị trấn 265 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 25 phường, 227 xã và 13 thị trấn

thành phố, 6 7 Bắc Ninh 1 huyện, 1 thị xã 126 đơn vị hành chính cấp xã trong đó có 23 phường, 6 thị trấn và 97 xã.

8 Hải Phòng

7 quận nội thành, 6 huyện ngoại thành, 2 huyện đảo

9 Thái Bình 1 thành phố, 7 huyện

10 Ninh Bình 2 thành phố và 6 huyện 223 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 70 phường, 10 thị trấn và 143 xã. 286 đơn vị hành chính cấp xã gồm 10 phường, 9 thị trấn và 267 xã. 145 đơn vị hành chính cấp xã gồm 121 xã, 17 phường và 7 thị trấn

Nguồn: Tác giả tổng hợp

81

Các tỉnh đồng bằng sông Hồng có nguồn lao động dồi dào, nguồn lao

động này có nhiều kinh nghiệm và truyền thống trong sản xuất, chất lượng lao

động cao, tạo ra thị trường có sức mua lớn, được sự đầu tư nhiều của Nhà nước

và nước ngoài. Có lịch sử khai phá lâu đời, là nơi tập trung nhiều di tích, lễ hội,

làng nghề truyền thống với 2 trung tâm KT-XH là Hà Nội và Hải Phòng. Đồng

bằng sông Hồng là vùng có hạ tầng giao thông đồng bộ và thuận lợi, hoạt động

vận tải sôi nổi nhất. Có nhiều đường sắt nhất đi qua các nơi khác nhau trong

vùng. Vùng đồng bằng sông Hồng có vị trí chiến lược về kinh tế - xã hội, an

ninh - quốc phòng.

Bảng 3.2. Quy mô dân số và diện tích các tỉnh đồng bằng sông Hồng

STT Tỉnh Dân số Diện tích(km²)

Mật độ dân số (người/ km²)

1 Hà Nội 7.328.400 3.358,9 2.182

2 Vĩnh Phúc 1.066.000 1.253,3 863

3 Bắc Ninh 1.178.600 822,8 1.432

4 Hải Dương 2.463.890 1.656 1.488

5 Hải Phòng 2.352.000 1.561,7 1.506

6 Hưng Yên 1.480.000 926 1.600

7 Thái Bình 1.790.500 1.570,5 1.139

8 Hà Nam 811.126 860,5 943

9 Nam Định 1.839.900 1.652,6 1.113

10 Ninh Bình 927.000 1.378.1 673

Nguồn: Tác giả tổng hợp

82

3.1.2. Đặc điểm về đội ngũ cán bộ và hoạt động của bộ máy chính

quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

Đội ngũ cán bộ cấp xã vừa là người đại diện cho nhân dân địa phương, vừa là người đ ại diện cho chính quyền địa phương. Do đó, họ luôn

phải giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân địa ph ương. Đội ngũ

cán bộ này, có quyền quyết định trong việc huy động, khai thác và sử dụng

các nguồn lực của địa phương theo sự phân cấp của Nhà nước. Do đó, t r ì n h

đ ộ , năng lực của họ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu qu ả và sự phát triển kinh

tế, xã hội của địa phương.

Hiện nay, cùng với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ ở các tỉnh ĐBSH, trong

tổ chức và hoạt động luôn đòi hỏi bộ máy chính quyền cấp xã phải có những

tính chất đặc thù nhất định. Mỗi địa phương khác nhau tùy thuộc vào các đặc

điểm về văn hóa, xã hội và đặc điểm của đội ngũ CBCC có thể tổ chức bộ máy

quản lý phù hợp với những đặc thù của địa phương, nhưng vẫn phải bảo đảm

những nguyên tắc chung về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của một cấp chính

quyền cơ sở (theo Luật tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH 13

ngày 19/6/2015). Nhiệm vụ và chức năng của chính quyền cấp xã các tỉnh đồng

bằng sông Hồng cũng giống như chính quyền cấp xã các địa phương khác trong

cả nước. Trên thực tế, việc tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã,

phường và thị trấn các tỉnh ĐBSH không có sự phân biệt giữa những vùng lãnh

thổ khác nhau, giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng đồng bằng và miền núi;

không có một văn bản pháp luật nào phân biệt cụ thể cơ cấu tổ chức bộ máy

chính quyền cấp xã, phường, thị trấn. Nhưng, các bộ phận chuyên môn thuộc

UBND cấp xã và phường có điểm khác biệt, gồm: Địa chính - xây dựng - đô thị

và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - nông nghiệp - xây

dựng và môi trường (đối với xã); Ban Công an (đối với xã), Ban Bảo vệ dân

phố (đối với phường, thị trấn).

Về trình độ học vấn, nếu tính mặt bằng chung toàn quốc, trình độ học vấn

của cán bộ cơ sở các tỉnh ĐBSH không phải là thấp. Tuy nhiên, còn tồn tại thực

trạng không đồng đều giữa các địa phương, giữa các thành phố lớn và các tỉnh

83

trong cùng khu vực. Kết quả thống kê của Bộ Nội vụ cho thấy, các tỉnh ĐBSH

có 88% cán bộ cơ sở có trình độ từ trung học phổ thông trở lên. Đối với trình

độ từ đại học trở lên, có hơn 48% cán bộ cơ sở đạt được trình độ này. Trình độ

học vấn của cán bộ cơ sở thành phố lớn và các thành phố trực thuộc tỉnh

thường đồng đều và cao hơn so với các tỉnh, các huyện vùng sâu, vùng xa. Hà

Nội là một thành phố đáng chú ý với gần 100% cán bộ cơ sở có trình độ từ

trung học phổ thông trở lên, 69% cán bộ có trình độ từ đại học trở lên. Các địa

phương khác có tỉ lệ cán bộ cơ sở có trình độ từ đại học trở lên đạt khoảng

50%. Trình độ học vấn không phải là yếu tố duy nhất hay yếu tố mang tính

quyết định, nhưng không phủ nhận việc có được trình độ học vấn cao sẽ giúp

cán bộ có được sự hiểu biết toàn diện và có khả năng phân tích, nhìn nhận vấn

đề đa chiều cạnh hơn, đồng thời có thể vận dụng tốt hơn trong quá trình quản

lý, điều hành và làm việc trực tiếp với người dân địa phương, tạo được uy tín

trong đội ngũ cán bộ cũng như tại địa phương.

Trình độ lý luận và quản lý nhà nước: Thống kê của Bộ Nội vụ vào

tháng 12- 2017 cho thấy tại các tỉnh ĐBSH, hơn 50% cán bộ có trình độ trung

cấp chính trị và đây cũng là trình độ lý luận phổ biến nhất của cán bộ cơ sở.

Trình độ cao cấp hoặc cử nhân chính trị chiếm tỉ lệ không đáng kể (4%). Ngoài

ra, có 20% cán bộ đạt trình độ sơ cấp và 22% cán bộ chưa qua đào tạo/chưa có

các xác nhận về các trình độ lý luận chính trị.

Về trình độ quản lý, tính chung cả khu vực chỉ có 17% cán bộ cơ sở đã

qua đào tạo và được cấp chứng chỉ chuyên viên/chuyên viên chính hoặc tương

đương, trong đó trình độ chuyên viên chính là rất thấp (dưới 0,5%) còn lại là

chuyên viên hoặc tương đương. Điều này cũng đồng nghĩa với việc một tỉ lệ

đáng kể, hơn 80% cán bộ, công chức cơ sở chưa qua đào tạo chuyên viên/

chuyên viên chính.

Về cơ cấu tuổi: Cơ cấu tuổi của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã

các tỉnh ĐBSH nếu đạt được sự cân bằng giữa các khoảng tuổi thì đó là một

trong những yếu tố tích cực hướng tới vận hành bộ máy chính quyền cơ sở đạt

được hiệu quả cao và có tính bền vững. Độ tuổi trung niên và sung sức nhất (30

tuổi - 40 tuổi) cũng chính là độ tuổi có tỉ lệ cán bộ cao nhất trong khu vực:

84

chiếm 35%; độ tuổi từ 41 - 50 chiếm 27%; độ tuổi cao nhất - từ 50 tuổi trở lên

chỉ chiếm 19% và ngang bằng với tỉ lệ cán bộ ở độ tuổi dưới 30 tuổi. Mặc dù cơ

cấu độ tuổi cán bộ trung bình các tỉnh ĐBSH là lý tưởng, nhưng vẫn tồn tại sự

mất cân bằng, hay nói cách khác là “già hóa” cán bộ ở một số địa phương. Một

số tỉnh, thành phố có trên 25% cán bộ, công chức có độ tuổi từ 50 tuổi trở lên

như: Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nam.

Như vậy, về số lượng, đội ngũ cán bộ cơ sở của 10 tỉnh, thành trong khu

vực ĐBSH chiếm một lực lượng đông đảo và đáng kể trong bộ máy chính

quyền cơ sở. Bên cạnh đó, họ đã đạt được những tiêu chí nhất định về chất

lượng nguồn lực, bao gồm trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, quản lý

nhà nước. Tuy nhiên cũng tồn tại thực trạng chênh lệch về cả 3 tiêu chí nói trên

trong đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, đặc biệt là trình độ học vấn, lý luận chính trị và

quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế ở khu vực nông thôn hay ở một số tỉnh có

số lượng cán bộ cao tuổi chiếm một tỉ lệ đáng kể, dễ dẫn đến mất cân bằng và

thiếu hụt đội ngũ cán bộ kế cận trong tương lai. Điều này sẽ có ảnh hưởng trực

tiếp đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của bộ máy chính quyền cấp xã các

tỉnh ĐBSH trong tương lai.

Đội ngũ CBCC xã là những người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi truyền

thống văn hóa, lịch sử với các phong tục tập quán lâu đời và luôn bị chi phối

bởi mối quan hệ huyết thống, họ hàng. Kế thừa và phát huy truyền thống của

nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở đây

về cơ bản luôn có tinh thần yêu nước, tin tưởng vào đường lối của Đảng, tuân

thủ pháp luật, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Tuy nhiên, do ảnh

hưởng của kinh tế thị trường và sự biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội, trong

những năm gần đây, một số cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng

cũng có tư tưởng quan liêu, cục bộ địa phương, có những biểu biện vi phạm kỷ

luật Đảng và quy định của tổ chức…

Trong những năm qua, mặc dù Đảng và chính quyền các tỉnh đồng

bằng sông Hồng đã quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã nói

85

chung và cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng nhưng hầu như chưa có địa

phương nào ở đồng bằng sông Hồng quán triệt đầy đủ quan điểm của Đảng

trong việc đưa ra các tiêu chuẩn cụ th ể cho các ch ức danh CBCC xã. Tiêu

chuẩn về các chức danh còn khá chung chung, ch ưa có sự thống nhất, chưa

được lượng hóa một cách cụ thể. Điều này tạo ra nhiều khó khăn trong việc

kiểm tra, đánh giá cán bộ hàng năm. Hầu hết việc kiểm tra, đánh giá còn

khá chung chung, chưa dựa trên những tiêu chuẩn cụ thể. Việc đánh giá cán

bộ nhiều khi còn nặng về tỷ lệ %, theo cơ cấu đã định sẵn nên kết quả chưa

thật sự chính xác và khách quan. Đây cũng là một trong nh ững hạn chế

không nh ỏ ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ, sử dụng nguồn lực đối

với chính quyền cấp xã ở đồng bằng sông Hồng hiện nay.

3.2. Thực trạng cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính đối với

chính quyền cấp xã tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng

3.2.1. Khái quát quá trình triển khai cơ chế

Như đã đề cập ở chương 2, tự chủ về KPQLHC là một nội dung quan

trọng trong cải cách tài chính công. Việc làm thế nào để có thể sử dụng kinh phí

quản lý hành chính một cách hợp lý nhất, sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn,

tăng thu nhập cho cán bộ công chức xã, nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả

sử dụng kinh phí quản lý hành chính và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là

những mục tiêu mà chính quyền cấp xã các tỉnh ĐBSH đang hướng tới.

Tính đến hết tháng 12 năm 2018, các tỉnh đồng bằng sông Hồng đã triển

khai giao quyền tự chủ về kinh phí quản lý hành chính đối với cấp xã nhưng chưa

triệt để. Hầu hết các tỉnh đều thực hiện giao tự chủ chung theo định mức phân bổ

chi thường xuyên cho cấp xã theo Nghị quyết của HĐND tỉnh. Việc nghiên cứu,

phân tích thực trạng cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã trong khu

vực là cơ sở cho việc đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế tự chủ KPQLHC tại

các tỉnh ĐBSH. Do đó, nhằm thuận lợi cho việc nghiên cứu, NCS tập trung phạm

vi nghiên cứu tại các tỉnh, thành phố trong khu vực đã và đang triển khai thực hiện

cơ chế tự chủ theo Nghị định 130/NĐ – CP/2015 và Nghị định 117/NĐ – CP/2013

86

trong khoảng thời gian từ 2014 đến 2018.

Số lượng chức danh CBCC xã theo Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày

08 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức

danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,

phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã . Trên

cơ sở đó UBND các huyện quyết định giao chỉ tiêu biên chế cho từng xã: xã

loại 1 được giao 25 người, xã loại 2 là 23 người và xã loại 3 là 21 người. Hiện

nay, các tỉnh đồng bằng sông Hồng có 2.272 xã (49.984 người, bình quân 22

người/xã) /11.165 xã (cả nước 234.217 người bình quân 21 người/ xã) trong

toàn quốc. Nhìn chung việc giao biên chế của UBND huyện cho các xã không

có nhiều biến động và với việc phân bổ chỉ tiêu biên chế trên thì cơ bản đáp

ứng nhu hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã.

3.2.2. Thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành

chính tại chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Năm 2014, là năm đầu tiên chính quyền cấp xã phải thực hiện cơ chế

tự chủ KPQLHC theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 và

Nghị định số 117/NĐ - CP ngày 7/10/2013. Tuy nhiên, từ năm 2014 đến năm

2016 chưa có tỉnh nào trong khu vực đồng bằng sông Hồng giao cho chính

quyền cấp xã thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC, vì đây là giai đoạn chính

quyền cấp xã vẫn thực hiện theo định mức phân bổ chi thường xuyên ngân

sách các tỉnh, thành phố thời kỳ 2011- 2015, do năm đầu của thời kỳ ổn định

này chưa ban hành Nghị đinh 117/NĐ-CP, các xã chưa phải là đối tượng bắt

buộc phải thực hiện. Điều này được thể hiện trong Nghị quyết phân bổ định

mức chi thường xuyên của một số tỉnh, thành phố qua các bảng sau:

87

Bảng 3.3: Định mức chi ngân sách xã, phường, thị trấn trên

địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015

Đơn vị tính

Định mức

Phân loại xã theo dân số

- Xã - Phường, thị trấn

- Xã - Phường, thị trấn

- Xã - Phường, thị trấn

- Xã - Phường, thị trấn

- Xã - Phường, thị trấn

- Xã - Phường, thị trấn

- Xã - Phường, thị trấn

- Xã - Phường, thị trấn

- Xã

đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã

1.315.000.000 1.680.000.000 1.347.000.000 1.713.000.000 1.379.000.000 1.741.000.000 1.453.000.000 1.812.000.000 1.488.000.000 1.874.000.000 1.542.000.000 1.955.000.000 1.597.000.000 2.007.000.000 1.652.000.000 2.074.000.000

S TT 1 Số dân dưới 5.000 người 2 Số dân từ 5.000 tới dưới 8.000 người 3 Số dân từ 8.000 tới dưới 10.000 người 4 Số dân từ 10.000 - dưới 12.000 người 5 Số dân từ 12.000 - dưới 14.000 6 Số dân từ 14.000 - dưới 16.000 7 Số dân từ 16.000 - dưới 18.000 8 Số dân từ 18.000 - dưới 20.000 9 Số dân từ 20.000 - dưới 22.000

- Phường, thị trấn

- Xã - Phường, thị trấn

đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn đồng/xã đồng/phường, thị trấn

10 Số dân từ 22.000 - dưới 24.000 11 Số dân từ 24.000 - dưới 26.000

1.706.000.000 ` 2.142.000.000 1.727.000.000 2.172.000.000 - Xã 1.749.000.000 - Phường, thị trấn 2.202.000.000 Nguồn: Nghị quyết số 15/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của Thành phố Hà Nội

88

Đối với các xã thuộc diện chương trình 135, xã miền núi và xã thuộc bãi

giữa Sông Hồng được tính tăng thêm 15% so với định mức phân bổ nêu trên.

Ngoài định mức chi khác ngân sách cấp xã, phường, thị trấn nêu trên, bổ

sung hỗ trợ thêm 30 triệu đồng/xã, phường, thị trấn để hỗ trợ thêm hoạt động

các hội, đoàn thể ở cơ sở.

Tại Nghị quyết số 33/NQ-HĐND ngày 09/12/2010 của tỉnh Hà Nam về

định mức phân bổ chi thường xuyên cho các xã giai đoạn 2011- 2015 chi theo

tiêu chí số lượng CBCC xã: tỉnh Hà Nam tính đủ các khoản lương, phụ cấp và

các chế độ khác theo mức lương tối thiểu 730.000 đồng đối với cán bộ, công

chức xã, phường, thị trấn theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10

năm 2009 của Chính phủ.

Mức kinh phí chi quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể, an ninh

quốc phòng cho các xã trên địa bàn tỉnh Hải Dương được thực hiện theo Nghị

quyết số 151/NQ-HĐND ngày 08/12/2010 của tỉnh Hải Dương về định mức

phân bổ chi thường xuyên cho các xã giai đọan 2011- 2015: 48 triệu đồng

/người. Định mức trên bao gồm: tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế và các khoản chi khác theo chế độ hiện hành.

Nghị quyết HĐND các tỉnh thành khác trong khu vực phân bổ chi

thường xuyên tương tự như các tỉnh thành nêu trên. Như vậy, có thể thấy

định mức phân bổ cho các xã trên địa bàn các tỉnh rất chung chung, chưa

thực hiện cơ chế tự chủ về KPQLHC cho chính quyền cấp xã. Cách thức

phân bổ chi hoạt động cho chính quyền cấp xã phụ thuộc vào định mức phân

bổ chi thường xuyên do HĐND từng tỉnh quyết định, nội dung chi lại được

qui định chi tiết cụ thể theo dự toán được giao, các xã phải thực hiện chi theo

qui định chi tiết ấy.

Từ năm 2017, năm đầu tiên của thời kỳ ổn định ngân sách mới theo Luật

NSNN năm 2015, các tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng sông Hồng đã triển

khai thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC cho chính quyền cấp xã theo Nghị định

số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 và Nghị định số 117/NĐ - CP ngày

7/10/2013. Theo đó các tỉnh, thành phố các tỉnh đồng bằng sông Hồng đã triển

89

khai thực hiện theo nội dung của cơ chế tự chủ KPQLHC là: Xác định kinh phí

giao thực hiện tự chủ và sử dụng kinh phí thực hiện tự chủ.

3.2.2.1. Kinh phí giao thực hiện cơ chế tự chủ

* Nguồn kinh phí giao tự chủ cho chính quyền cấp xã

Kinh phí quản lý hành chính giao cho UBND xã, phường, thị trấn các

tỉnh đồng bằng sông Hồng thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC từ các nguồn sau:

- Ngân sách các tỉnh, thành phố trong khu vực đồng bằng sông Hồng giao

dự toán hàng năm cho ngân sách các quận, huyện, thị xã theo định mức phân bổ

chi thường xuyên giai đoạn 2017 -2020 (nội dung phần định mức giao tự chủ);

- Các khoản thu phí, thu khác của các đơn vị xã trực tiếp quản lý thu và

được để lại theo chế độ qui định (các khoản thu xã hưởng 100% và các khoản

thu xã hưởng theo tỷ lệ điều tiết được qui định trong Nghị quyết về phân cấp về

nguồn thu, nhiệm vụ chi của HĐND các tỉnh, thành phố ĐBSH ).

- Các khoản thu hợp pháp khác.

* Số biên chế được cấp có thẩm quyền phê duyệt

Xây dựng định mức KPQLHC giao tự chủ cho chính quyền cấp xã do

NSNN cấp được xác định trên cơ sở biên chế của các xã được phân loại theo

đơn vị hành chính xã tại Nghị định 159/2005/NĐ – CP ngày 27/12/ 2005 và số

lượng chức danh CBCC xã theo Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 08 tháng 4

năm 2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số

lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị

trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Trên thực tế, các

xã trong khu vực đồng bằng sông Hồng chỉ được giao quỹ tiền lương theo đúng

số biên chế có mặt tại xã vào thời điểm giao tự chủ. Các xã không được chủ

động trong việc sử dụng biên chế. Trường hợp xã có số biên chế thấp hơn số

biên chế được giao thì chính quyền cấp xã không được nhận đủ quỹ tiền lương

theo số được giao, mà cơ quan tài chính chỉ cấp theo số biên chế hiện có, đồng

90

nghĩa với việc các tỉnh trong khu vực không được tự chủ về biên chế, mà chỉ

được tự chủ trong phần chi hoạt động quản lý hành chính.

Số liệu về biên chế của 500 xã được khảo sát tại 4 tỉnh, thành phố chỉ ra

rằng: số lượng biên chế của cả 500 xã đều tương đối ổn định qua các năm, năm

2017 và 2018 đều không thay đổi. Như vậy, ở các xã này, việc tự chủ về biên

chế chưa được thực hiện, chưa có sự sắp xếp và bố trí công việc hợp lý, chức

năng nhiệm vụ của các xã vẫn giữ nguyên. Cụ thể với câu hỏi: “Số biên chế

của xã khi chưa thực hiện tự chủ so với số biên chế được giao để thực hiện

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về KPQLHC có thay đổi không?, tác giả đã

thu được kết quả sau:

Bảng 3.4. Kết quả điều tra về biến động biên chế khi thực hiện tự chủ

Đơn vị

Hà Nội

Tỷ lệ

Hà Nam

Vĩnh Phúc

Hải Dương

Tổng cộng

(%)

Số người

trả lời theo nội

dung điều tra

tham gia

Tổng số người phỏng vấn

Số người trả lời theo câu hỏi

200 100 100 100 500 100

+ Lớn hơn

200 100 100 100 500 100

+ Ít hơn

2 1 2 2 7 1,4

+ Bằng

82 0 0 0 82 16,6

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả tại Hà Nội, Hải Dương, Hà Nam, Vĩnh Phúc

116 99 98 98 493 82,2

Qua kết quả trên cho thấy đa số số người được phỏng vấn (82,2%) đều

trả lời số biên chế của đơn vị bằng số được giao. Vì các xã khi thực hiện tự chủ

không có cơ sở khách quan để xác định số biên chế cần thiết để thực hiện

nhiệm vụ được giao và không được tự chủ về biên chế, nên không có động lực

thực hiện tinh giảm. 1,4% số người được hỏi lại cho rằng biên chế của đơn vị

tăng, do các đơn vị chưa làm tốt công tác định biên cán bộ dựa trên cơ sở phân

tích công việc, nhiệm vụ cần phải thực hiện. 16,6% (chủ yếu là Hà Nội) cho

91

rằng tại xã số biên chế ít hơn khi được giao quyền tự chủ, nhưng cũng không

phải là do tiết kiệm được biên chế mà ở những xã này là do người đến tuổi nghỉ

hưu, hoặc do xã chưa được giao đủ số biên chế theo qui định, chờ kết quả tuyển

dụng công chức năm 2019 của Thành phố Hà Nội.

* Định mức phân bổ kinh phí quản lý hành chính

Cùng với quá trình xác định và giao biên chế cho từng xã, HĐND các

tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng đã ban hành định mức phân bổ dự

toán chi thường xuyên cho các xã giai đoạn 2017 – 2020. Bước đầu, các tỉnh

triển khai thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC theo Nghị định số 130/NĐ- CP

ngày 17/10/2005 và Nghị định số 117/NĐ – CP ngày 7/10/2013. Định mức

phân bổ dự toán chi thường xuyên để giao kinh phí quản lý hành chính cho

các xã trên địa bàn mỗi tỉnh là hoàn toàn khác nhau. Tuỳ thuộc vào tình hình

thực tế tại địa phương, HĐND từng tỉnh ban hành định mức chi quản lý

hành chính dựa trên các tiêu chí khác nhau. Cụ thể:

Tại mục III, Nghị quyết số 13/NQ-HĐND ngày 25/12/2016 của Thành

phố Hà Nội về định mức phân bổ chi thường xuyên cho các xã, phần định mức

giao tự chủ cho các xã bao gồm cán bộ, công chức và những người hoạt động

không chuyên trách cấp xã thuộc: (i)Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban

nhân dân cấp xã; (ii) Các bộ phận chuyên môn thuộc Ủ ban nhân dân cấp xã;

(iii) Đảng ủy cấp xã: Văn phòng Đảng ủy cấp xã và các Chi Bộ trực thuộc; (iv)

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó, tại văn bản

hướng dẫn số 1837 của STC Hà Nội ngày 29/3/2017 đã qui định mức khoán cụ

thể như sau:

92

Bảng 3.5: Định mức phân bổ KPQLHC theo biên chế cho các xã tại

Thành phố Hà Nội năm 2017

Cán bộ công chức xã

Cán bộ không chuyên trách

Định mức khoán chung (triệu đồng)

Kinh phí

Xã, phường, thị trấn

Người

Người

Kinh phí khoán (triệu đồng)

25

khoán (triệu đồng)

1.400 Loại 1 22

40 23 20 1.320 Loại 2 20

21 1.220 Loại 3 19

Nguồn: Hướng dẫn số 1837 của STC Hà Nội ngày 29/3/2017

Bảng 3.6: Định mức phân bổ KPQLHC theo biên chế cho các xã tại tỉnh

Vĩnh Phúc (giai đoạn 2017 - 2020)

Chi quản lý hành chính Đơn vị Số tiền

Triệu đồng/biên

Định mức phân bổ chi QLHC chế/năm 20

- Đảm bảo cơ cấu quỹ tiền lương, phụ Tỷ lệ (%) cấp/chi hoạt động 75/25

(Theo mức lương cơ sở) đồng/tháng 1.210.000

Định mức bổ sung:

Kinh phí hoạt động đặc thù Triệu đồng/xã/năm 140

Triệu đồng/đại

Kinh phí hoạt động HĐND biểu/năm 12

Triệu đồng/biên

Hỗ trợ Hội đặc thù chế/năm 12

Nguồn: NQ số 54 ngày 12/12/2016/ HĐND tỉnh Vĩnh Phúc

93

Theo Nghị quyết số 25/NQ-HĐND ngày 08/12/2016 của tỉnh Hải Dương về

định mức phân bổ chi thường xuyên cho các xã. Định mức phân bổ chi quản lý

hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể khối xã được phân bổ như sau:

Bảng 3.7: Định mức phân bổ KPQLHC cho các xã tại tỉnh Hải Dương

(giai đoạn 2017 - 2020)

Chi quản lý hành chính Đơn vị Số tiền

Đảm bảo cơ cấu quỹ tiền lương, phụ cấp Triệu đồng/biên chế/năm 62

Định mức chi nghiệp vụ thường xuyên

- Xã thị trấn loại I Triệu đồng/năm 650

- Phường loại I có hội nông dân Triệu đồng/năm 625

- Xã, thị trấn loại II; phường loại I Triệu đồng/năm không có hội nông dân 600

- Phường loại II có hội nông dân Triệu đồng/năm 580

- Xã, thị trấn, phường loại III;

phường loại II không có hội nông Triệu đồng/năm

dân 555

Nguồn: NQ số 25 ngày 8/12/2016/ HĐND tỉnh Hải Dương

Ngoài ra, bổ sung đặc thù: đối với phường mức 30 triệu đồng/năm; đối

với thị trấn và xã miền núi loại 3 mức 20 triệu đồng/năm.

Căn cứ vào Nghị quyết số 34/NQ-HĐND ngày 08/12/2016, tỉnh Hà Nam

phân bổ phần quỹ lương và chi hoạt động được phân bổ như sau: Tính đủ các

khoản lương, phụ cấp và các chế độ khác theo mức lương tối thiểu 1.210.000 đồng

đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP

ngày 22 tháng 10 năm 2009 và Quyết định số 11/2010/QĐ-UBND ngày

10/5/2010 của UBND tỉnh Hà Nam về việc quy định số lượng, chức danh cán bộ

công chức xã, phường, thị trấn thuộc tỉnh Hà Nam. Cụ thể:

94

Bảng 3.8: Định mức phân bổ KPQLHC cho các xã tại tỉnh Hà Nam

(giai đoạn 2017 - 2020)

Cán bộ công chức xã

Chi hoạt động (triệu đồng/ người)

Người

Kinh phí khoán quỹ lương (đồng/người)

Xã, phường, thị trấn

Loại 1 24

Loại 2 23 1.210 x hệ số đang hưởng 8,7

Loại 3 21

Nguồn: NQ số 34 ngày 8/12/2016/ HĐND tỉnh Hà Nam

Ngoài các quy định trên bổ sung nhiệm vụ cho hoạt động quản lý nhà

nước, đảng, đoàn thể tuyên truyền, tổ chức triển khai thực hiện cơ chế, chính

sách...cho xã, phường, thị trấn. Bổ sung hoạt động cho hoạt động của Ủy ban

nhân dân một xã: 55 triệu đồng; hoạt động của Hội đồng nhân dân: 55 triệu

đồng; hoạt động của 5 đoàn thể chính trị, trong đó hoạt động của Mặt trận tổ

quốc 14 triệu đồng, hoạt động của 4 đoàn thể còn lại mỗi đoàn thể 9 triệu đồng;

hỗ trợ hoạt động tiếp dân: 10 triệu đồng; Ban thanh tra nhân dân và ban giám

sát cộng đồng: 5 triệu đồng; Hoạt động của Ban công tác mặt trận thôn, tổ dân

phố 5 triệu đồng trên thôn, tổ dân phố.

Bắt đầu vào thời kỳ ổn định ngân sách mới 2017 -2020, trong 10 tỉnh,

thành phố đồng bằng sông Hồng có 6 tỉnh, thành phố tự đảm bảo cân đối thu,

chi và điều tiết về ngân sách trung ương, 04 tỉnh phải nhận trợ cấp bổ sung từ

ngân sách trung ương. Tuy nhiên, điều này không tác động trực tiếp tới việc

quyết định định mức phân bổ chi thường xuyên của các tỉnh, thành phố trong

khu vực đối với việc giao kinh phí thực hiện tự chủ đối với chính quyền cấp xã.

Vì định mức phân bổ KPQLHC dựa trên chỉ tiêu biên chế được qui định theo

95

cách phân loại hành chính xã tại Nghị định 159/2005/NĐ-CP và các văn bản

qui định chi tiết số lượng CBCC xã theo cách phân loại này. Quỹ lương được

tính trên cơ sở mức lương cơ bản do nhà nước qui định, mà không căn cứ vào

nhiệm vụ cụ thể và nguồn thu của từng địa phương, các xã lại không được tự

chủ nguồn thu mà chỉ được tự chủ phần kinh phí hoạt động trong quản lý hành

chính, nên việc có nguồn thu cao không ảnh hưởng và không có tác động đến

việc thực hiện cơ chế tự chủ về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã.

Hình 3.1. Tỷ lệ nguồn thu 6 tỉnh đồng bằng sông Hồng

tự đảm bảo cân đối năm 2018

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo quyết toán thu NSNN năm 2018

3.2.2.2. Sử dụng kinh phí thực hiện tự chủ

Theo qui định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 và

Nghị định số 117/NĐ - CP ngày 7/10/2013 về việc sử dụng KPQLHC thực hiện

cơ chế tự chủ, các xã ĐBSH phân loại chi phí theo 04 loại chi như sau:

- Chi thanh toán các nhân: bao gồm những khoản chi như tiền lương, phụ

cấp lương, các khoản đóng góp theo lương...

96

- Chi nghiệp vụ chuyên môn tại xã: bao gồm những khoản chi như thanh

toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng phẩm, thông tin, truyền thông, hội

nghị, công tác phí, chi phí nghiệp vụ chuyên môn.

- Chi mua sắm sửa chữa thường xuyên tài sản cố định, công cụ dụng cụ

tại xã.

- Chi thường xuyên khác tại xã như: chi kỷ niệm các ngày lễ lớn, hỗ trợ

công tác công đoàn của xã, tiếp khách…

Thực tế, các xã ĐBSH thực hiện tự chủ KPQLHC chỉ thực hiện phân loại

và hạch toán chi phí chủ yếu phục vụ cho việc trình bày báo cáo tài chính theo

yêu cầu của báo cáo tài chính ngân sách xã theo yêu cầu của kế toán tài chính,

còn các tiêu chí phân loại theo chức năng và theo mức độ hoạt động chưa được

các xã áp dụng.

Như vậy, tại các xã đây là tiêu thức phân loại duy nhất để kiểm soát chi phí

QLHC. Việc phân loại chi QLHC theo mối quan hệ với mức độ hoạt động là

cần thiết, song hiện tại các xã chưa thực hiện triệt để được vì nguồn kinh phí

này khi thực hiện vẫn phải tuân thủ theo định mức qui định của Nhà nước và sự

kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước.

Bảng 3.9. Bình quân chi quản lý hành chính của 1 xã các tỉnh ĐBSH

giai đoạn 2014 đến 2018

Đơn vị: Triệu đồng

Bình quân 2014 2015 2016 2017 2018

01 xã

Chi quản lý 4.623 5.435 5.556 6.014 7.004

hành chính

Nguồn: Tác giả tính toán từ báo cáo quyết toán chi NSX các tỉnh ĐBSH

97

Bảng 3.10. Cơ cấu chi quản lý hành chính ngân sách cấp xã

tại các tỉnh ĐBSH giai đoạn 2014 - 2018

Đơn vị: Triệu đồng

Năm

2014 2015 2016 2017 2018

Nội dung

Chi quản lý 9.505.216 11.356.358 11.614.594 12.665.886 13.785.968 hành chính

Chi thanh 6.653.651 8.068.690 8.374.122 9.246.097 10.187.830 toán cá nhân

Tỷ trọng (%) 70,00 71,50 72,10 73,00 73,90

Chi mua sắm 525.261 605.462 604.239 614.965 623.126 sửa chữa

Tỷ trọng (%) 5,00 4,9 4,79 4,50 4,52

Chi chuyên

môn nghiệp 2.625.253 2.909.922 2.732.321,1 2.887.602 2.783.387

vụ

Tỷ trọng (%) 24,99 23,55 21,66 21,13 20,19

Chi khác 1.051 6.179 182.912 196.223 191.625

Tỷ trọng (%) 0,01 0,05 1,45 1,37 1,39

Nguồn: Tác giả tính toán từ báo cáo quyết toán chi NSX các tỉnh ĐBSH

98

Hình 3.2. Cơ cấu chi quản lý hành chính ngân sách cấp xã

các tỉnh ĐBSH giai đoạn 2014 - 2018

Bảng 3.11: Cơ cấu chi QLHC của các xã trên địa bàn 4 tỉnh, thành phố Hà Nội, Hà Nam, Hải Dương, Vĩnh Phúc, giai đoạn 2014 – 2018.

Đơn vị tính: Triệu đồng

Nội dung chi Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

3.089.769 3.634.223 3.710.175 4.019.378 5.001.924

Chi quản lý hành chính

2.199.916 2.602.104 2.675.036 3.030.611 3.771.450

Chi thanh toán cá nhân

Tỷ trọng % 71,20 71,60 72,10 75,4 75,4

154.489 174.443 177.717 179.666 220.084

Chi mua sắm sửa chữa

Tỷ trọng % 5,00 4,80 4,79 4,47 4,40

733.511 855.860 803.624 759.258 942.863

Chi chuyên môn nghiệp vụ

Tỷ trọng % 23,74 23,55 21,66 18,75 18,85

Chi khác 1.854 1.827 53.798 55.467 55.467,4

Tỷ trọng % 0,06 0,05 1,45 1,38 1,35

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ QT chi NSNN các xã tại 04 tỉnh 2014 – 2018

99

Hình 3.3: Cơ cấu chi QLHC của các xã trên địa bàn 4 tỉnh, thành phố

Hà Nội, Hà Nam, Hải Dương, Vĩnh Phúc, giai đoạn 2014 – 2018

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ quyết toán chi NSNN các xã tại tỉnh ĐBSH từ 2014 – 2018.

Nhìn chung, chi quản lý hành chính của các xã chiếm tỷ trọng rất lớn

(khoảng 70% trong tổng chi thường xuyên), trong đó lớn nhất là dành cho chi

thanh toán cá nhân (khoảng trên 70%), đây là khoản chi các xã không được tự

chủ. Trên thực tế tỷ lệ chi cho hoạt động quản lý hành chính là rất thấp chỉ

khoảng 25%, trong đó dành cho chi chuyên môn (khoảng trên 20%), còn lại

dành cho chi mua sắm, sửa chữa và chi khác (Bảng 3.9 và bảng 3.10). Chi

thanh toán cho cá nhân đều tăng qua các năm, do chính sách tiền lương của Nhà

nước thay đổi. Trong khi đó chi chuyên môn, nghiệp vụ và chi mua sắm sữa

chữa lại có xu hướng giảm qua các năm. Nếu năm 2014 chi chuyên môn nghiệp

vụ là 24,99% thì đến năm 2018 chỉ còn là 20,19%, chi mua sắm giảm từ 5%

vào năm 2014 xuống 4,52 % vào năm 2018 và đều có xu hướng giảm qua các

năm, (đặc biệt năm 2017 và năm 2018), vì đây là thời kỳ các xã mới bắt đầu

thực hiện tự chủ KPQLHC theo qui định. Mặc dù, hiện nay cơ sở vật chất của

100

nhiều xã còn thiếu so với tiêu chuẩn định mức quy định tại Quyết định số

50/2017/QĐ-TTg ngày 31/12/2017 của TTCP về việc ban hành Quy định tiêu

chuẩn, định mức, chế độ quản lý, sử dụng máy móc thiết bị, nhưng các xã chưa

dành tỷ trọng đáng kể cho, mua sắm, sữa chữa TSCĐ do tiết kiệm chi.

Từ định mức phân bổ được giao tự chủ, UBND các xã đã chủ động xây

dựng và quyết định mức chi phù hợp với thực tế các xã. Cũng theo nội dung

của cơ chế tự chủ thì UBND cấp xã có thể giao khoán toàn bộ, hoặc một phần

kinh phí tự chủ cho các bộ phận tại xã, để các bộ phận chủ động trong sử dụng

kinh phí và thực hiện nhiệm vụ. Trên thực tế, chưa có xã phường nào trong khu

vực thực hiện được việc này vì rất nhiều lí do khác nhau.

Nghiên cứu tổng chi quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã các

tỉnh ĐBSH những năm qua cho thấy:

Phần lớn các xã, đã nhận thức được các nguyên tắc, chế độ sử dụng ngân

sách, chi theo dự toán, có mục đích và đảm bảo hợp lý có hiệu quả. Bước đầu

đi vào nề nếp, kỷ cương theo chế độ quản lý tài chính, tuân thủ chế độ kế toán

NSX. Mọi khoản thu chi được phân cấp phản ánh qua KBNN, có sự hướng dẫn

của cơ quan tài chính và KBNN, do đó đã hạn chế rất nhiều các hiện tượng tiêu

cực trong chi ngân sách. Như vậy, ngân sách xã đã và đang thực hiện đúng vai

trò là phương tiện, công cụ của chính quyền nhà nước cấp xã để thực hiện chức

năng, nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở nông thôn

hiện nay.

*Xây dựng định mức chi:

Xây dựng định mức chi là một công việc cần thiết, quan trọng và bắt

buộc đối với các xã. Hiện nay, các xã của một số tỉnh, thành phố trong khu vực

đã xây dựng được định mức chi tiêu và được cụ thể hóa trong qui chế tiêu nội

bộ của xã.

Các căn cứ để xây dựng định mức chi của các xã theo các văn bản qui

định của Nhà nước như Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 và

Nghị định số 117/NĐ - CP ngày 7/10/2013, Thông tư số 71/2014/TTLT – BTC

101

- BNV ngày 30/4/2014 và các văn bản liên quan. Hệ thống định mức chi

QLHC bao gồm định mức về lượng và định mức về tiền. Chính quyền các xã

đã xây dựng Qui chế chi tiêu nội bộ để công khai các định mức cho toàn thể

cán bộ công chức xã và gửi cho các cơ quan chức năng của Nhà nước, lấy đó

làm cơ sở cho việc kiểm soát chi. Qui chế chi tiêu nội bộ được cán bộ tài chính,

kế toán xã dự thảo, trình Chủ tịch UBND xã, hoàn thiện qui chế.

Nội dung các định mức chi cụ thể và cơ sở xây dựng Qui chế chi tiêu nội

bộ tại các xã là định mức về tiền, về lượng còn hạn chế; vì đối với CBCC xã do

không lượng hóa được công việc bằng định mức quy chuẩn nên phần lớn các xã

kiểm soát khối lượng công việc bằng thời gian làm việc và khối lượng công

việc chuẩn theo từng chức danh đối với CBCC xã.

Định mức về tiền: Định mức chi của các xã trong cùng khu vực là không

giống nhau căn cứ vào nguồn kinh phí quản lý hành chính được giao khoán,

phân bổ theo Nghị quyết HĐND các tỉnh về phân bổ định mức chi thường

xuyên. Có thể khái quát qua các mẫu nghiên cứu của tác giả bao gồm: Nhóm

định mức chi thanh toán cho cá nhân (như định mức lương và các khoản phụ

cấp, thu nhập tăng thêm cho cá nhân...); Nhóm định mức chi QLHC (như định

mức chi hội nghị, công tác phí, tiền thuê phòng nghỉ, khoán văn phòng

phẩm...); Nhóm chi cho nghiệp vụ chuyên môn (như chi cho hoạt động soạn

thảo và ban hành văn bản, chi đào tạo bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho

CBCC xã...); Nhóm định mức chi cho các hoạt động khác tại xã (như hỗ trợ

kinh phí hoạt động của công đoàn xã, chi cho các quan hệ phối hợp với các cơ

quan, đơn vị trên địa bàn xã...).

* Xây dựng kế hoạch chi:

Hàng năm, khi lập dự toán NSX theo yêu cầu các xã phải thực hiện theo

qui trình qui định tại Điều 11, Thông tư số 344/2016/TT – BTC ngày

30/12/2016 về quản lý tài chính ngân sách xã, cụ thể:

102

- Kế toán xã phối hợp với cơ quan thuế hoặc đội thu thuế xã (nếu có) tính

toán các khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn

- Các đơn vị, tổ chức thuộc Ủy ban nhân dân xã lập dự toán chi của đơn

vị, tổ chức mình;

- Kế toán xã lập dự toán thu, chi và cân đối ngân sách xã trình UBND xã

báo cáo Thường trực HĐND xã xem xét, gửi Phòng Tài chính - Kế hoạch

huyện tổng hợp.

- Tài chính huyện xem xét dự toán NSX trình UBND huyện giao dự toán

- UBND xã hoàn chỉnh dự toán NSNN và phương án phân bổ NSX báo

cáo Ban KT - XH xã thẩm tra, Thường trực HĐND xã xem xét, cho ý kiến,

trình HĐND xã quyết định

- Phòng TC - KH huyện thẩm định dự toán ngân sách xã, có sai sót phải

báo cáo UBND cấp huyện yêu cầu HĐND xã điều chỉnh dự toán

- HĐND xã quyết định dự toán và phương án phân bổ NSX.

Trên thực tế, các xã khu vục các tỉnh ĐBSH không tuân thủ theo qui trình

trên, bỏ qua các bước lập dự toán ở cơ sở, các tổ chức đoàn thể, bộ phận trong

xã không xây dựng kế hoạch chi của đơn vị mình, từ đó xã cũng không lập chi

tiết kế hoạch chi chung cho toàn xã theo nhiệm vụ của thể của từng năm để bảo

vệ nhiệm vụ chi của xã mình với cơ quan tài chính cấp trên. Kế toán các xã chỉ

lập theo hình thức, chủ yếu là nhận số giao từ cơ quan tài chính huyện. Vì vậy, về

cơ bản kế hoạch chi của các xã khu vực ĐBSH chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp

lập kế hoạch dựa vào quá khứ. Kế hoạch chi quản lý hành chính được xây dựng

chi tiết hàng năm trên sở phần kinh phí được giao tự chủ. Các nội dung chi và

định mức chi dự kiến hoặc trên cơ sở số liệu năm trước, ước đoán tỷ lệ phát

triển của từng khoản chi (căn cứ vào số liệu thực tế từ các năm trước tính trên

tỷ lệ phát triển trung bình), chưa căn cứ vào hoạt động thực tế của các xã. Đây

103

là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính

tại xã kém hiệu quả khi việc xây dựng dự toán không sát thực tế.

3.3. Đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế tự chủ về kinh phí quản

lý hành chính tại chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng

3.3.1. Tính hiệu lực của cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính

Nghị định số 130/2005/NĐ - CP ngày 17/10/2005 là văn bản qui phạm

pháp pháp luật, có giá trị thi hành trong thực tế. Mục tiêu, nội dung và những qui

định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Nghị định là khá rõ, hợp hiến, hợp

pháp. Phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa của nước ta hiện nay trong

xu thế hội nhập. Nghị định đã tạo khung pháp lý để chính quyền cấp xã tổ chức,

quản lý các hoạt động tài chính một cách hiệu quả hơn, đáp ứng thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của mình tại địa phương tốt hơn. Việc giao tự chủ KPQLHC cho

chính quyền cấp xã đã rõ ràng cụ thể hơn trong Nghị định số 117/NĐ-CP ngày

7/10/2013, phần nào đảm bảo sự công khai, minh bạch, thừa nhận các xã là chủ

thể, có trách nhiệm đưa ra các quyết định để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực

của mình trên cơ sở nguồn KPQLHC được giao tự chủ.

Nhìn chung, chi quản lý hành chính đã đảm bảo được yêu cầu cơ bản cho

hoạt động thường xuyên của chính quyền xã. Hiệu lực quản lý nhà nước ở cấp

xã được giữ vững từng bước tăng cường. Các mặt kinh tế, giáo dục, y tế văn

hoá - xã hội từng bước được phát triển. An ninh trật tự an toàn xã hội được giữ

vững, công tác quốc phòng tại chỗ được tăng cường. Nhân dân phấn khởi tin

tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, tạo được động lực để phát triển

thay đổi bộ mặt của nông thôn, phát huy được vai trò và hiệu quả của công tác

quản lý tài chính ngân sách tại cơ sở.

Tuy nhiên, hiệu lực triển khai của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày

17/10/2005 và Nghị định số 117/NĐ - CP ngày 7/10/2013 đối với chính quyền

cấp xã các tỉnh ĐBSH còn những bất cập nhất định, bao gồm:

104

Một là, tính đồng bộ với các cơ chế, chính sách khác chưa cao, các qui

định chưa cụ thể. Thời gian hiệu lực văn bản thấp, chưa có hướng dẫn kịp thời.

Ví dụ, các Bộ, ngành chủ quản còn chậm, chưa ban hành hướng dẫn thực hiện

quyền tự chủ về biên chế kinh phí quản lý hành chính riêng cho chính quyền

cấp xã. Tại Điểm b, Khoản 4, Điều 1 Nghị định số 117/NĐ - CP ngày

7/10/2013 chỉ qui định: “Đối với cấp xã, phường, thị trấn: Ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ cách thức xác định kinh phí giao

để thực hiện chế độ tự chủ quy định tại điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị định này

và căn cứ Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2013 của Chính

phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22

tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ,

chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy

định cụ thể về phương thức xác định kinh phí giao để thực hiện chế độ tự chủ,

tổng mức khoán quỹ phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã và mức khoán kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị - xã

hội ở cấp xã, thôn, tổ dân phố bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế của địa

phương”. Từ đó, các tỉnh ĐBSH chưa ban hành được văn bản hướng dẫn thống

nhất về việc triển khai cơ chế tự chủ, làm cho các xã lúng túng trong việc tổ

chức thực hiện. Trong Nghị quyết HĐND các tỉnh ĐBSH mới chỉ dừng lại ở

mức độ giao khoán chung theo số biên chế hiện có và phần kinh phí hoạt động

thường xuyên của các xã mà chưa căn cứ vào thực tế việc cung cấp dịch hành

chính đối với mỗi xã trên địa bàn.

Về việc mua sắm thường xuyên tài sản cố định, các xã chưa được chủ

động thực hiện trong phạm vi nguồn kinh phí tự chủ của mình. Qui mô, giá trị

được phân cấp mua sắm thấp, có sự khác nhau giữa các địa phương. Ví dụ: Hà

Nội, Bắc Ninh, Hải Dương cho phép các chủ tịch xã, phường, thị trấn được phê

duyệt dự án mua sắm, sửa chữa thường xuyên có giá trị từ 500 triệu đồng trở

105

xuống. Trong khi đó, tại Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Hải Phòng chỉ phân

cấp cho Chủ tịch UBND xã quyết định mua sắm tài sản có giá trị dưới 100 triệu

đồng trên 01 đơn vị tài sản; Vĩnh Phúc lại phân cấp cho Chủ tịch xã được

quyền quyết định phê duyệt dự toán mua sắm có giá trị 300 triệu đồng trên 01

đơn vị tài sản và 400 triệu đồng trên một gói tài sản... Qui trình, thủ tục các

bước thực hiện mua sắm, sữa chữa thường xuyên tài sản cố định còn phức tạp,

qua nhiều cấp kiểm soát là cơ quan chủ quản và kho bạc nhà nước cấp trên.

Nhiều dụng cụ, tài sản có giá dưới 20 triệu đồng vẫn yêu cầu các xã phải sử

dụng 03 báo giá, làm các thủ tục đề nghị, biên bản chọn giá, ra quyết định chọn

đơn vị cung cấp hàng hóa, làm hợp đồng, thanh lý...

Hai là, chưa phản ánh hết bản chất, Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày

17/10/2005 và Nghị định số 117/NĐ - CP ngày 7/10/2013. Vì qui định tại hai

Nghị định này là chính quyền cấp xã phải được tự chủ cả biên chế và

KPQLHC, nhưng thực tế tại các tỉnh ĐBSH mới chỉ giao một phần quyền tự

chủ về KPQLHC cho các xã, chưa được tự chủ về biên chế.

Ba là, chưa có các văn bản, thông tư hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ

KPQLHC cho chính quyền cấp xã. Ngay trong cơ chế cũng chưa qui định cụ

thể về qui trình giao nhận tự chủ cho chính quyền cấp xã. Việc phân bổ dự toán

và cơ chế kiểm soát chi thiếu nhất quán, vẫn tạo ra cơ chế “xin - cho” và đi

ngược với mục tiêu giao quyền tự chủ các xã. Chẳng hạn, việc phân bổ quỹ

lương theo số biên chế thực có, văn bản hướng dẫn quản lý ngân sách xã lại qui

định chi tiết từng nội dung chi thường xuyên trong nội dung kinh phí được giao

tự chủ, nên KBNN lại kiểm soát đúng theo nội dung chi đó...; qui định thời

điểm chi và mức chi thu nhập tăng thêm cho CBCC xã chưa hợp lý; tại Điểm a,

Khoản 7, Điều 3, Thông tư 71/2014/TTLT – BTC – BNV ngày 30/4/2014

hướng dẫn thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 và Nghị

định số 117/NĐ - CP ngày 7/10/2013 qui định: “Kết thúc năm ngân sách, sau

khi hoàn thành các nhiệm vụ được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có số

chi thực tế thấp hơn số dự toán được giao về kinh phí thực hiện chế độ tự chủ

106

thì phần chênh lệch này được xác định là kinh phí tiết kiệm”. Như vậy, các xã

thực hiện tự chủ phải đợi cuối năm mới xác định được KPQLHC tiết kiệm và

chi thu nhập tăng thêm. Kết quả, hàng tháng, hàng quý, các xã không được chi

bổ sung thu nhập tăng thêm, dẫn đến không động viên kịp thời CBCC xã.

3.3.2. Tính hiệu quả của cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính

Thứ nhất, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao

Việc giao quyền tự chủ cho các xã đã nâng cao hiệu quả hoạt động của

chính quyền cấp xã, chuyển dần từ cơ chế quản lý theo đầu vào sang cơ chế

quản lý theo kết quả đầu ra hoạt động đối với chính quyền cấp xã. Các xã đã

chủ động xây dựng qui chế chi tiêu nội bộ, quyết định mức chi phù hợp với đặc

thù của từng xã, góp phần cải thiện thu nhập cho CBCC xã với cơ chế phân

phối theo hiệu quả công việc của từng bộ phận, CBCC xã.

Nhìn chung, kết quả thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC cho chính quyền

cấp xã trong các năm đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đảm bảo chất

lượng, hiệu quả công việc, giải quyết công việc và quy trình xử lý công việc

được chủ động, thuận lợi.

Với năng lực thực tế của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã tại các tỉnh

ĐBSH trong giai đoạn vừa qua, có thể thấy, việc “qui trình hóa” giải quyết thủ

tục hành chính của chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng đã xác

định rõ các bước, nội dung công việc của từng bước, trình tự, thời gian và trách

nhiệm, thẩm quyền của từng thành viên trong mỗi loại thủ tục hành chính; mối

quan hệ phối hợp giữa các thành viên.

Từ việc cải tiến các hoạt động theo yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả,

tuân thủ thời hạn giải quyết công việc, chịu trách nhiệm về kết quả giải quyết

công việc…các xã đã tiến hành sắp xếp, phân công, phân nhiệm công việc rõ

ràng, cụ thể; đưa khoa học công nghệ thông tin vào quá trình cung cấp dịch vụ

công, tạo điều kiện cho sự phối hợp chính xác, khoa học, đồng bộ; tăng cường

107

kiểm tra, giám sát của lãnh đạo xã. Đến nay, các xã đều thành lập bộ phận tiếp

nhận và trả hồ sơ cho công dân để thực hiện cơ chế hành chính “một cửa”, với

địa điểm làm việc và trang thiết bị tương đối thuận lợi, đồng bộ.

Hình 3.4. Sơ đồ khái quát cơ chế một cửa tại chính quyền cấp xã ĐBSH

TỔ CHỨC, CÔNG DÂN

6

1

BỘ PHẬN TIẾP NHẬN

2

VÀ TRẢ KẾT QUẢ/

VĂN PHÒNG UBND XÃ)

CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH

3

4

5

LÃNH ĐẠO XÃ

(Đối với những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các xã)

Chú thích: 4. Văn phòng trình ký

1. Nộp hồ sơ cho bộ phận tiếp nhận 5. Trả hồ sơ vào sổ đóng dấu

2. Chuyển cán bộ chuyên trách giải quyết 6. Trả kết quả cho tổ chức, công

3. Chuyển văn phòng trình ký dân, thu phí, lệ phí theo quy định

Theo số liệu điều tra về việc cá nhân và tập thể xã đã hoàn thành nhiệm

vụ được giao như thế nào đối với một số xã, kết quả trả lời có tới 86,7% cho

rằng đã hoàn thành hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Thậm chí tại Hà Nội, 100% các báo cáo đánh giá của chính quyền cấp xã và các

cá nhân đã hoàn thành xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Điều đó một mặt cho

108

thấy việc giao tự chủ bước đầu đã phát huy tác dụng, tăng cường trách nhiệm

và nâng cao tính tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo của chính quyền các

xã thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, cho thấy sự cấp thiết phải ban hành các tiêu

chí đánh giá kết quả hoạt động và theo dõi, đánh giá hoạt động dựa trên các tiêu

chí này để tránh tình trạng “khen thưởng cho những gì thất bại”.

Phiếu khảo sát đã đặt câu hỏi với 500 CBCC xã: Khi thực hiện tự chủ,

theo ông (bà), xã đã hoàn thành kế hoạch được giao ở mức độ nào? Các

phương án trả lời mà tác giả đã nhận được như sau:

Bảng 3.12: Nhận biết mức độ hoàn thành kế hoạch của xã năm 2016 - 2018

Đơn vị

Hà Nội

Hà Nam

Hải Dương

Vĩnh Phúc

Tổng cộng

Tỷ lệ (%)

200 100 100 100 500 100%

Số người trả lời theo nội dung điều tra Tổng số người tham gia phỏng vấn

Số người trả lời theo câu hỏi: 200 100 100 100 500 100%

0 0 8 8 16 3,2 + Hoàn thành nhiệm vụ

115 45 40 60 275 55 + Hoàn thành tốt nhiệm vụ

85 55 52 22 209 41,8 + Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả tại Hà Nội, Hà Nam, Hải Dương, Vĩnh Phúc

Như vậy, có 100% số người đươc hỏi đều nhận xét, trong hai năm 2017 và

2018 xã đã hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao khi thực hiện cơ chế tự chủ trong

đó có 41,8% số người được hỏi khẳng định đơn vị họ đã hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ nhà nước giao. 55% hoàn thành tốt nhiệm vụ và chỉ có 3,2% hoàn thành

nhiệm vụ. Kết quả đánh giá không dựa trên tiêu chí cụ thể, chủ yếu dựa vào việc

các xã tự nhận trên sở hoàn thành hoặc vượt dự toán thu, chi NSX, thực hiện các

nhiệm vụ KT-XH hàng năm, kết quả báo cáo trước HĐND xã.

Tuy chưa có được các thước đo cụ thể, để đánh giá hiệu quả giải quyết

công việc và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ CBCC cấp xã. Nhưng

109

theo các đánh giá khách quan, qua khảo sát thì hiệu quả giải quyết công việc

của công chức trong các xã đã được nâng lên, công chức phấn khởi hơn với

những động lực vật chất mới. Các xã chủ động trong việc sử dụng biên chế và

kinh phí QLHC một cách hợp lý nhất; thúc đẩy việc sắp xếp, thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng nguồn kinh phí được giao, nâng cao

hiệu suất lao động. Đồng thời thể hiện quyền tự chủ gắn với trách nhiệm của

lãnh đạo xã và CBCC trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định

của pháp luật.

Hình 3.5: Kết quả đánh giá cán bộ công chức xã tại 500 xã

thuộc vi khảo sát từ năm 2016 -2018

Theo kết quả khảo sát, từ năm 2017, khi các xã đồng bằng sông Hồng bắt

đầu thực hiện tự chủ KPQLHC thì đội ngũ CBCC xã có ý thức hơn trong việc

thực hiện nhiệm vụ được giao. Tỷ lệ CBCC xã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

tăng từ 13,11% năm 2016 lên 14,71% vào năm 2018. Tỷ lệ CBCC xã không

hoàn thành nhiệm vụ giảm từ 2,36% xuống còn 1,33% năm 2018.

110

Cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính đã tạo động lực cho các xã

phải liên tục phấn đấu vươn lên về mọi mặt bằng cách tiết kiệm, sử dụng nguồn

lực một cách hiệu quả, đúng mục tiêu, mục đích đã xác định. Tạo ra sự đoàn

kết, nhất trí của tập thể cán bộ công chức xã, để cùng nhau xây dựng uy tín,

thương hiệu của chính quyền cấp xã khi cung ứng dịch vụ công và đạt sự hài

lòng nhất của người dân trên địa bàn.

Kết quả khảo sát ở 500 xã thì 100% các xã đều đồng thuận việc triển khai

thực hiện cơ chế tự chủ về KPQLHC, trong đó 8,4% số xã đề nghị tiếp tục thực

hiện cơ chế tự chủ như Nghị định 130/ 2005/NĐ – CP và Nghị định

117/2013/NĐ-CP, 91,6% số xã đề nghị tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ về

KPQLHC nhưng cần điều chỉnh, bổ sung. Điểm số bình quân về việc lựa chọn

cơ chế tự chủ KPQLHC của các xã là 1,92 (bảng 3.13)

Bảng 3.13. Lựa chọn phương án thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC

Phương án lựa chọn STT Nội dung Phương án 1 Phương án 2 Phương án 3

1 Số xã lựa chọn 42 0 458

2 Điểm số bình quân 1,92

Nguồn: tác giả tính toán từ phiếu điều tra tại 500 xã. Trong đó, phương

án 1 (1 điểm): tiếp tục thực hiện Nghị định 130/NĐ – CP; phương án 2 (2

điểm): Cần điều chỉnh, bổ sung Nghị định 130/NĐ – CP; phương án 3 (3

điểm): không thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC, nhà nước tiếp tục cân đối NS

và tăng cường quản lý giám sát.

111

Thứ hai, kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được

Bảng 3.14: Kinh phí tiết kiệm được qua các năm tại 500 xã thuộc địa bàn

Hà Nội, Hà Nam, Hải Dương, Vĩnh Phúc, giai đoạn 2014 – 2018

Năm 2014 2015 2016 2017 2018

* * * 1.035.139 1.088.767

* * * 12.093 15.632

* * * 1,16 1,44

Kinh phí giao thực hiện tự chủ (triệu đồng) Kinh phí tiết kiệm được (triệu đồng) Tỉ lệ kinh phí tiết kiệm/ Tổng kinh phí giao tự chủ (%)

Đơn vị: Triệu đồng

Nguồn: Kết quả khảo sát tại 500 xã tại 04 tỉnh ĐBSH (2014 -2018).

(Trong đó * là chưa thực hiện tự chủ)

Như vậy, từ năm 2014 đến năm 2016 các xã trong khu vực ĐBSH chưa

thực hiện tự chủ. Từ năm 2017, năm đầu tiên thời kỳ ổn định ngân sách mới

2017 -2010, trong phạm vi kinh phí được giao, Chủ tịch các xã thực hiện cơ chế

tự chủ KPQLHC đã chủ động bố trí, sử dụng kinh phí theo các nội dung, yêu

cầu công việc được giao cho phù hợp để hoàn thành nhiệm vụ, bảo đảm tiết

kiệm và có hiệu quả. Chủ tịch các xã thực hiện tự chủ KPQLHC đã được quyết

định mức chi cho từng nội dung công việc phù hợp với đặc thù của xã nhưng

không vượt quá chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành do cơ quan nhà

nước có thẩm quyền quy định. Việc quyết định các mức chi được quy định tại

Quy chế chi tiêu nội bộ và thực hiện quản lý, giám sát chi tiêu theo Quy chế đã

ban hành.

Kết quả cho thấy, kinh phí quản lý hành chính được giao thực hiện tự

chủ hàng năm được giao dựa trên cơ sở định mức phân bổ dự toán chi quản lý

hành chính của HĐND các tỉnh. Định mức này mới chỉ đảm bảo cho các xã

hoàn thành nhiệm vụ được giao. Một số ít các xã có kinh phí tiết kiệm được

112

hàng năm , đó là nhờ các xã đã thực hiện tiết kiệm và hợp lý các khoản chi

trong khi thực hiện tự chủ.

Hầu hết các xã tự chủ đã xác định rõ phần kinh phí tiết kiệm được là do

hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, nhưng vẫn còn dư kinh phí. Để làm

được điều này trong Quy chế chi tiêu nội bộ, xã đã ban hành mức chi thấp hơn

mức chi do trung ương hoặc địa phương ban hành; chủ động bố trí linh hoạt

nhân sự, cải cách hành chính, áp dụng khoa học công nghệ trong cung cấp dịch

vụ hành chính công, tăng năng suất lao động, thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí, khoán chi cụ thể cho các bộ phận trong xã.

Ưu tiên sử dụng kinh phí tiết kiệm chi thu nhập tăng thêm cho CBCC xã.

Cách xác định chi thu nhập tăng thêm:

Trong phạm vi nguồn kinh phí tiết kiệm được, xã được áp dụng hệ số

tăng thêm quỹ tiền lương tối đa không quá 1,0 (một) lần so với tiền lương

ngạch, bậc, chức vụ do nhà nước quy định để trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ

công chức và cán bộ không chuyên trách của xã. Quỹ tiền lương để trả thu nhập

tăng thêm một năm được xác định theo công thức:

QTL = Lmin x K1 x K2 x L x 12 tháng

Trong đó:

QTL: Là Quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ của xã được phép trả tăng

thêm tối đa trong năm;

Lmin: Là mức lương cơ sở (đồng/tháng) hiện hành do nhà nước quy định;

K1: Là hệ số điều chỉnh tăng thêm thu nhập (tối đa không quá 1, 0 lần);

K2: Là hệ số lương ngạch, bậc, chức vụ bình quân của xã;

L: Là số biên chế được giao và số lao động hợp đồng không xác định

thời hạn đối với một số chức danh theo quy định của pháp luật và được cấp có

thẩm quyền phê duyệt.

Trả thu nhập tăng thêm:

113

Trên cơ sở tổng nguồn kinh phí được phép chi, xã quyết định phương án chi

trả thu nhập tăng thêm cho từng cán bộ, công chức và cán bộ không chuyên trách

của xã theo nguyên tắc phải gắn với hiệu quả, kết quả công việc của từng người.

Người nào có thành tích đóng góp để tiết kiệm chi, có hiệu suất công tác cao thì

được trả thu nhập tăng thêm cao hơn; không thực hiện việc chia thu nhập tăng

thêm cào bằng bình quân hoặc chia theo hệ số lương. Mức chi trả cụ thể do Chủ

tịch xã quyết định sau khi thống nhất ý kiến với các tổ chức đoàn thể và toàn bộ

công chức xã. Cụ thể:

* Đối tượng thuộc diện xét: Là cán bộ, công chức xã và cán bộ không

chuyên trách cấp xã

* Đối tượng không thuộc diện xét:

+ Vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vi

phạm pháp luật công chức bị hội đồng kỷ luật xét từ khiển trách trở lên

+ Vi phạm các quy định của xã, có hệ thống, vi phạm tệ nạn xã hội.

+ Cán bộ công chức và cán bộ không chuyên trách cấp xã trong thời gian

nghỉ thai sản (6 tháng tính từ ngày được nghỉ).

+ Cán bộ, công chức và cán bộ không chuyên trách cấp xã nghỉ ốm,

việc riêng có số ngày vượt hơn qui định của luật lao động.

+ Người lao động hợp đồng có thời gian công tác chưa đủ 12 tháng tính

từ ngày hợp đồng (Không tính thời gian thử việc).

Điều kiện xét: Mọi cán bộ công chức và cán bộ không chuyên trách cấp

xã thuộc đối tượng xét phải hoàn thành nhiệm vụ được xếp loại

- Căn cứ kết quả tài chính, số kinh phí tiết kiệm được, xã xác định tổng

mức chi trả thu nhập trong năm của xã như sau:

Nhằm đảm bảo thống nhất trong chi tiêu kinh phí hoạt động, đồng thời

đáp ứng tốt yêu cầu công việc của xã, thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, góp

phần tăng thu nhập cải thiện đời sống cho cán bộ công chức xã. Phương án chi

trả thu nhập tăng them cho cá nhân theo nguyên tắc nào có hiệu quả công tác

114

cao, có đóng góp nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi được hưởng cao hơn, trả

thu nhập tăng them dựa trên mức lương cấp bậc chức vụ, hiệu suất công tác của

từng cán bộ, công chức xã và được phân loại theo bình bầu A, B, C và chi tối

đa không quá 1,0 lần so với mức tiền lương ngạch, bậc, chức vụ do nhà nước

quy định để chi trả thu nhập tăng them cho cán bộ, công chức.

Kinh phí tiết kiệm không những giúp nâng cao đời sống còn khó khăn

trong đa số cán bộ, công chức; mà còn tháo gỡ “nút thắt” cho các hoạt động của

chính quyền cấp xã như: chi các hoạt động khác mà nhà nước không đài thọ

kinh phí nhưng lại rất thiết thực với xã như: bổ sung thu nhập tăng thêm, hoạt

động thăm quan, thăm hỏi, hiếu, hỷ.

Bảng 3.15. Chi thu nhập tăng thêm bình quân 01 tháng của chính

quyền cấp xã các tỉnh ĐBSH

Đơn vị: đồng

STT Tên tỉnh

1 Bắc Ninh Năm 2014 * Năm 2015 * Năm 2016 * Năm 2017 * Năm 2018 *

3 Hà Nam * * * * *

4 Hà Nội 500.000 560.000 * * *

5 Hải Phòng * * * * *

6 Hưng Yên * * * * *

7 Nam Định * * * * *

8 Ninh Bình * * * * *

9 Thái Bình * * * * *

10 Vĩnh Phúc * * * * *

Nguồn: Kết quả khảo sát tại các tỉnh tháng 2/2019

(Trong đó * là không có TNTT)

Như vậy, có thể thấy từ năm 2014 – 2016 một số tỉnh thành chưa thực

hiện tự chủ một cách triệt để và chưa có kinh phí tiết kiệm, không có bổ sung

115

TNTT (mặc dù năm 2014 là năm đầu tiên cơ chế tự chủ KPQLHC có hiệu lực

đối với chính quyền cấp xã). Sang năm 2017 tại các xã một số tỉnh trong khu

vực ĐBSH đã thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC nhưng mới chỉ có Thành phố

Hà Nội có thu nhập tăng thêm (do đây là năm đầu tiên trong thời kỳ ổn định

ngân sách mới và các tỉnh đã đồng bộ triển khai Nghị định 130/NĐ – CP và

Nghị định 117/NĐ - CP). Ngay từ ngày 29/3/2017, Sở Tài chính Hà Nội căn cứ

vào mục III của Nghị quyết số 13/NQ-HĐND ngày 25/12/2016 của Thành phố

Hà Nội về định mức phân bổ chi thường xuyên cho các xã, đã ban hành văn

bản số 1837 hướng dẫn chi tiết việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về sử dụng KPQLHC đối với UBND xã, phường, thị trấn trên địa bàn

Thành phố. Đồng thời, ngày 02/7/2018 UBND Thành phố Hà Nội ban hành

quyết định 3024/QĐ- UB về đánh giá xếp loại cán bộ công chức, viên chức

trong các cơ quan đơnvị trên địa bàn Thành phố theo từng tháng. Theo đó, xã

nào cuối năm không có TNTT cho CBCC xã thì Chủ tịch xã đó bị hạ một bậc

thi đua. Đây là cơ sở, căn cứ để các xã trên địa bàn thành phố Hà Nội có động

lực thực hiện cơ chế tự chủ về KPQLHC và thực hiện một cách triệt để. Từ đó,

các xã có thu nhập tăng thêm theo xu hướng tăng lên qua các năm, đời sống của

CBCC xã ngày được cải thiện. Đây chính là động lực giúp đội ngũ CBCC xã

phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cung cấp dịch vụ cho người dân tại địa

phương tốt hơn.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì thực tiễn cũng cho thấy hiệu quả của

cơ chế tự chủ về KPQLHC còn một số hạn chế:

- Về kinh phí giao tự chủ: Thực tế, mức KPQLHC giao tự chủ đối với

chính quyền cấp xã theo Nghị quyết về định mức phân bổ chi thường xuyên của

HĐND các tỉnh, thành phố là quá thấp, chủ yếu chỉ đủ trang trải kinh phí hoạt

động thường xuyên, nếu có dư thì phần còn lại cũng rất ít. Vì vậy, khoản trích

lại tăng thu nhập cho CBCC xã hầu như không đáng kể, điều này chưa kích

thích được tinh thần làm việc ở CBCC xã khi mà khoảng cách chênh lệch về

116

mặt bằng lương giữa nhà nước với khu vực bên ngoài ngày càng lớn. Do đó,

không thu hút được người tài, người có năng lực vào làm việc tại chính quyền

cấp xã.

- Về tự chủ sử dụng kinh phí quản lý hành chính

Kinh phí tiết kiệm được hầu hết chỉ dùng để tăng lương, không có xã nào

dùng để mua sắm thêm trang thiết bị phục vụ công việc và cũng không xã nào

chi thêm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Mặc dù việc tăng thu nhập có

tác dụng trực tiếp là động viên CBCC xã, làm cho họ thấy ngay tác động tích

cực của việc tự chủ, nhưng về lâu dài, việc quá chú trọng đến tăng lương mà

coi nhẹ các yêu cầu khác có thể ảnh hưởng đến chất lượng công việc của bộ

máy chính quyền cấp xã.

- Quyền tự chủ của Chủ tịch xã còn hạn chế, do xã được tự xây dựng quy

chế chi tiêu nội bộ nhưng mức chi không được vượt các tiêu chuẩn, định mức

chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Kinh phí giao thực hiện

tự chủ nhưng vẫn phải đảm bảo có chứng từ, hoá đơn hợp pháp, hợp lệ theo

quy định; vì vậy nhiều khoản chi (khoán văn phòng phẩm, khoán sử dụng điện

thoại tại công sở...) các xã thực hiện tự chủ đã thực hiện khoán cho (từng bộ

phận, cán bộ) nhưng vẫn phải có hoá đơn để hợp thức hoá chứng từ quyết toán.

- Cơ chế tự chủ về KPQLHC chưa qui định các xã phải tự xây dựng mức

phấn đấu, tiêu chí đánh giá CBCC xã lấy đó làm căn cứ phân loại công chức xã;

chưa có cam kết với cơ quan quản lý cấp trên về đảm bảo tổ chức bộ máy (đảm

bảo số biên chế tiết kiệm nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ được giao, bảo đảm

vai trò kiểm tra, giám sát của tập thể, của cộng đồng), về các chỉ tiêu tài chính

của từng năm, từng thời kỳ ổn định ngân sách xã. Vì thế, cơ chế chưa tạo ra sự

ràng buộc, thúc ép các xã phải huy động cả trí lực, vật lực cho việc tăng cường

đưa ra các giải pháp có tính thực tiễn gắn việc cung ứng dịch vụ công tại xã với

thực tế nhu cầu của người dân sinh sống trên địa bàn và vùng phụ cận. Chính

quyền các xã chưa thực sự coi việc khai thác nguồn tài chính theo hướng tăng

117

qui mô nhưng được sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất.

3.3.3. Tính linh hoạt và công bằng của cơ chế tự chủ kinh phí quản

lý hành chính

* Linh hoạt trong phân bổ dự toán kinh phí tự chủ: Việc thực hiện cơ

chế tự chủ đã dần hướng tới đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho chính quyền

cấp xã, tiến dần xoá bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế

bằng cách tính kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào

kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu của chính quyền cấp xã, đổi

mới hệ thống định mức chi tiêu đơn giản, tăng quyền chủ động của chính quyền

cấp xã sử dụng ngân sách, xoá bỏ cơ chế cấp phát tài chính theo kiểu “xin-cho”. Chủ tịch các xã đã chủ động bố trí, sắp xếp công việc cho từng bộ phận và cán

bộ công chức xã hợp lý. Kế hoạch phát triển kinh tế của xã sẽ được thực hiện

có hiệu quả hơn khi người lãnh đạo được quyền chủ động và biết cách phân

công, sắp xếp công việc cho mỗi CBCC xã, mỗi bộ phận, một cách hợp lý nhất.

Chính vì vậy, người lãnh đạo cần phải nắm được cụ thể thời gian làm việc,

năng lực, trình độ của mỗi CBCC xã và khối lượng công việc mà họ đang đảm

nhiệm. Từ đó, phân bổ nguồn lực phù hợp, đảm bảo hiệu quả hoạt động quản

lý,cụ thể : hội nghị, công tác phí, điện, nước, văn phòng phẩm….

* Linh hoạt trong việc xác định mức chi: Mức chi cho một nội dung chi

được dựa vào mức chi do trung ương, địa phương ban hành, và theo số lượng,

chất lượng của công việc cần phải thực hiện. Bên cạnh đó, mức chi của chính

quyền cấp xã thực hiện tự chủ còn phải tuân theo nguyên tắc: Chỉ được xây

dựng thấp hơn hoặc bằng các mức chi tương ứng do HĐND các tỉnh ban hành

về định mức chi thường xuyên và chi công tác phí, hội nghị (trên cơ sở Thông

tư 40/2017/TT – BTC qui định về chế độ hội nghị công tác phí ban hành ngày

28/4/2017). Để làm việc này hầu hết các xã đã xây dựng được định mức chi cho

các nội dung công việc mà xã mình thường phải thực hiện.

118

Để đảm bảo số lượng, chất lượng công việc và tiết kiệm được chi tiêu mang lại

hiệu quả cao trong các hoạt động tự chủ, các xã đã ban hành đa dạng mức chi

phù hợp với các nội dung chi, như: các mức chi cụ thể như chi hội nghị được

quy định tại Quyết định số 114/2006/QĐ-TTg ngày 25/5/2006 của Thủ tướng

Chính phủ ban hành quy định chế độ họp trong hoạt động của các cơ quan hành

chính nhà nước và Quyết định số 45/2018/QĐ - TTg ban hành ngày 19/11/2018

quy định chế độ họp trong hoạt động quản lý, điều hành của cơ quan thuộc hệ

thống hành chính nhà nước ; các mức chi được giao khoán như văn phòng

phẩm, điện, nước, điện thoại; các mức chi theo khung (quy định mức tối thiểu

và tối đa). Mức chi thể hiện tính tự chủ, năng động cao ở hầu hết các xã, khẳng

định ý thức tiết kiệm, tự chủ, phấn đấu nâng cao chất lượng công việc, giảm chi

tiêu và tăng cường cơ sở vật chất cũng như nâng cao đời sống cho cán bộ, công

chức của chính quyền cấp xã trên địa bàn qua việc chi trả thu nhập tăng thêm.

Ở những nội dung chưa có văn bản nào quy định về mức chi thì lãnh đạo xã đã

chủ động thống nhất với công đoàn để ban hành. Những nội dung chi có mức

chi thấp hơn mức chi mà trung ương hoặc địa phương ban hành thường là: chi

văn phòng phẩm, chi hành chính, chi thông tin liên lạc.

* Các xã chủ động xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ: phân bổ nguồn tài

chính của đơn vị, thực hiện kiểm soát đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị

theo kết quả "đầu ra", giảm dần việc quản lý theo các yếu tố "đầu vào", giảm sự

can thiệp trực tiếp của cơ quan tài chính. Rõ ràng, cơ chế tự chủ đã góp phần rất

lớn trong việc tiết kiệm chi tiêu nhưng hiệu quả hoạt động không giảm đi mà

còn tăng lên; tạo ra sự thay đổi trong suy nghĩ, ý thức trách nhiệm của đội ngũ

cán bộ, công chức xã, nhất là lãnh đạo xã chủ động khai thác tốt được nguồn

kinh phí để bố trí công việc, con người hợp lý. Các xã đã tổ chức sắp xếp tinh

giản bộ máy nhân sự; chất lượng công tác chuyên môn được nâng cao, phát huy

tiềm năng về cơ sở vật chất, tính lao động sáng tạo của cán bộ công chức; chi

119

tiêu ngân sách đúng mục đích, tiết kiệm. Tạo ra sự đoàn kết, nhất trí của tập thể

CBCC xã, để cùng nhau xây dựng uy tín, thương hiệu của chính quyền cấp xã

khi cung ứng dịch vụ công và đạt sự hài lòng nhất của người dân trên địa bàn.

Bên cạnh những thuận lợi thì cơ chế tự chủ về KPQLHC vẫn có những

điểm chưa linh hoạt. Cơ chế tự chủ về KPQLHC chưa qui định các xã phải tự

xây dựng mức phấn đấu, tiêu chí đánh giá CBCC xã lấy đó làm căn cứ phân

loại công chức xã; chưa có cam kết với cơ quan quản lý cấp trên về đảm bảo tổ

chức bộ máy (đảm bảo số biên chế tiết kiệm nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ

được giao, bảo đảm vai trò kiểm tra, giám sát của tập thể, của cộng đồng), về

các chỉ tiêu tài chính của từng năm, từng thời kỳ ổn định ngân sách xã. Vì thế,

cơ chế chưa tạo ra sự ràng buộc, thúc ép các xã phải huy động cả trí lực, vật lực

cho việc tăng cường đưa ra các giải pháp có tính thực tiễn gắn việc cung ứng

dịch vụ công tại xã với thực tế nhu cầu của người dân sinh sống trên đại bàn và

vùng phụ cận. Chính quyền các xã chưa thực sự coi việc khai thác nguồn tài

chính theo hướng tăng qui mô nhưng được sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu

quả nhất.

Hầu như các xã không được quyền chủ động trong việc tuyển dụng, linh

hoạt trong sử dụng biên chế tại xã mình dù trên danh nghĩa họ có toàn quyền

quyết định. Việc tuyển dụng, luân chuyển, đề bạt, xử lý cán bộ đều của UBND

các huyện. Do đó, tình trạng tiếp nhận cán bộ năng lực hạn chế, không đúng

chuyên môn theo yêu cầu của công việc, bộ máy không vận hành tốt do tình

trạng “bằng mặt không bằng lòng” vẫn còn phổ biến.

3.4. Đánh giá chung về cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính tại

chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng

3.4.1. Kết quả đạt được:

* Về chuẩn bị căn cứ cho thực hiện tự chủ KPQLHC: Các xã đã chủ

động sắp xếp lại tổ chức bộ máy trên cơ sở xác định lại rõ chức năng nhiệm vụ

của từng bộ phận chuyên môn, khắc phục tình trạng chồng chéo đã kéo dài

120

nhiều năm; có sự củng cố, sàng lọc và sắp xếp lại đội ngũ CBCC xã và đã có sự

thay đổi về chất, góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu lực, hiệu

quả trong quản lý nhà nước tại chính quyền cấp xã, bước đầu xác lập được sự

tự chủ và tạo sự thông thoáng trong cơ chế tài chính, đồng thời là cơ sở giúp

UBND các tỉnh, thành phố có cách nhìn mới hơn về quản lý biên chế hành

chính tại xã. Đại đa số đều ý thức rằng việc thực hiện cơ chế tự chủ là chủ

trương đúng đắn trong tình hình hiện nay, là một trong những giải pháp cải

cách lớn của nhà nước về cơ chế quản lý tài chính công, cơ chế tự chủ này là

thiết thực, góp phần cải thiện thu nhập, tạo sự chủ động trong sử dụng biên chế

và tài chính để phát huy vai trò, trách nhiệm và quyền làm chủ tập thể của

CBCC xã nên phần đông đều đồng tình hưởng ứng chủ trương này.

* Về phân bổ định mức kinh phí quản lý hành chính giao tự chủ: Việc

thực hiện cơ chế tự chủ đã dần hướng tới đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho

chính quyền cấp xã, tiến dần xoá bỏ chế độ cấp kinh phí hoạt động theo số

lượng biên chế hiện có, theo đó định mức tính kinh phí quản lý hành chính căn

cứ vào loại xã, phường theo qui định, dần hướng vào kiểm soát đầu ra, chất

lượng chi tiêu theo mục tiêu của chính quyền cấp xã, tăng quyền chủ động của

các xã sử dụng ngân sách, xoá bỏ cơ chế cấp phát tài chính theo kiểu “xin-cho”.

* Về sử dụng kinh phí giao tự chủ: Các xã chủ động xây dựng Quy chế

chi tiêu nội bộ, phân bổ phần kinh phí được giao tự chủ linh hoạt, được chủ

động điều chuyển kinh phí giữa các nhóm, mục chi cụ thể trong quản lý hoạt

động hành chính của xã, thực hiện kiểm soát đánh giá hiệu quả hoạt động của

xã theo kết quả "đầu ra", giảm dần việc quản lý theo các yếu tố "đầu vào", giảm

sự can thiệp trực tiếp của chính quyền cấp trên và cơ quan tài chính, kho bạc

các nội dung chi phần kinh phí giao tự chủ. Rõ ràng, cơ chế tự chủ đã góp phần

rất lớn trong việc tiết kiệm chi tiêu nhưng hiệu quả hoạt động không giảm; tạo

ra sự thay đổi trong suy nghĩ, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức

xã, nhất là lãnh đạo xã chủ động khai thác tốt được nguồn kinh phí để bố trí

121

công việc, con người hợp lý. Ngoài ra, các xã đều đề ra biện pháp thực hành tiết

kiệm, tiết giảm những khoản chi không cần thiết như xây dựng và điều hành

theo Quy chế chi tiêu nội bộ. Nhờ vậy, nguồn kinh phí tiết kiệm được các xã sử

dụng chi tăng thu nhập cho người lao động trong xã, góp phần tăng thu nhập,

từng bước cải thiện và nâng dần chất lượng cuộc sống cho CBCC xã.

3.4.2. Một số hạn chế của cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính

Thực hiện cơ chế tự chủ về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã tại các

tỉnh ĐBSH đã tạo điều kiện cho các xã chủ động sử dụng nguồn lực tài chính,

cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được giao, chủ động phân bổ nguồn tài

chính của xã theo nhu cầu chi tiêu đối với từng lĩnh vực trên tinh thần tiết kiệm,

thiết thực hiệu quả. Cơ chế tự chủ tạo điều kiện cho các xã thực hiện việc kiểm

soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính dân chủ, chủ động, sáng tạo, của người

CBCC xã; nâng cao kỹ năng quản lý; bước đầu rà soát lại chức năng nhiệm vụ

của chính quyền cấp xã, từng bước giảm sự can thiệp của cơ quan quản lý cấp

trên; yêu cầu về công khai, minh bạch trong tổ chức sắp xếp công việc, biên

chế, chi tiêu tài chính được thực hiện, tạo không khí đoàn kết, phấn khởi trong

nội bộ chính quyền cấp xã.

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, cũng đã xuất hiện những khó khăn,

vướng mắc, do thiếu tính đồng bộ, chưa cụ thể. Việc thực hiện quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp

xã bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định, có bước chuyển biến, nhưng

chưa mạnh và còn một số hạn chế vướng mắc như sau:

* Về nguồn kinh phí quản lý hành chính giao cho cơ quan thực hiện

cơ chế tự chủ: Nghị số 117/2013/NĐ - CP quy định nguồn kinh phí quản lý

hành chính giao cho chính quyền cấp xã thực hiện cơ chế tự chủ từ các nguồn:

(1) Ngân sách nhà nước cấp; (2) Các khoản phí được để lại theo chế độ quy

định; (3) Các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên,

do không quy định cụ thể khoản thu nào được gọi là khoản thu hợp pháp khác

122

chính quyền cấp xã; vì vậy trên thực tế một số xã có phát sinh các khoản tận

thu, nhưng không hạch toán khoản thu này vào nguồn thu của xã. Không phân

định rõ nguồn thu nào của cấp xã được để lại chi cho hoạt động quản lý hành

chính. Mà trên cơ sở phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi, với thực tế số thu được

và nhiệm vụ chi tương ứng, phần chênh lệch được cấp trên cấp bổ sung để cân

đối cho chính quyền cấp xã thực chiện nhiệm vụ (riêng đối với nguồn thu từ đất

không được sử dụng cho mục đích chi thường xuyên ).

* Về xác định và sử dụng kinh phí giao tự chủ: Việc xác định định mức

KPQLHC giao thực hiện cơ chế tự chủ chủ yếu căn cứ vào biên chế, và mức

lương cơ sở theo ngạch, bậc nên chưa gắn với vị trí việc làm, kết quả công việc,

chất lượng công việc.

* Kinh phí tự chủ đối với các nội dung chi nghiệp vụ đặc thù, nhưng do

chưa xác định rõ khối lượng công việc đặc thù, vì vậy việc thẩm định giao dự

toán kinh phí tự chủ chưa chính xác, dẫn đến cuối năm không thực hiện hết

nhiệm vụ (thực chất là kinh phí thừa) nhưng có đơn vị lại vận dụng là kinh phí

tiết kiệm để chi tăng thu nhập.

* Về sử dụng kinh phí tiết kiệm: Phạm vi sử dụng kinh phí tiết kiệm ưu

tiên chi bổ sung TNTT, chi cho các hoạt động phúc lợi chưa được quy định rõ,

nên thực hiện chưa thống nhất giữa các xã trên cùng địa bàn một huyện, một

tỉnh, nhiều địa phương KBNN khi kiểm soát chi vẫn không cho chính quyền

cấp xã áp dụng.

* Về xây dựng và ban hành tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ:

Hiện nay các tỉnh chưa ban hành các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ đánh giá kết

quả thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp xã khi thực hiện cơ chế tự chủ,

trong đó phải có các tiêu chí đánh giá về khối lượng, chất lượng công việc thực

hiện; thời gian giải quyết công việc; tình hình chấp hành chính sách, chế độ và

quy định về tài chính. Tuy nhiên hầu hết các Bộ, địa phương chưa ban hành

được các tiêu chí làm căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Nguyên

123

nhân một mặt do khó xác định quy mô, khối lượng công việc chính quyền cấp

xã; do chưa có tiêu chí xác định chất lượng phục vụ của chính quyền cấp xã;

mặt khác do công việc của chính quyền cấp xã rất rộng và luôn có những công

việc đột xuất nên khó lượng hoá để xây dựng và ban hành tiêu chí cụ thể. Việc

thiếu cơ chế đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ đối với các xã thực hiện cơ

chế tự chủ là nguyên nhân khiến cho việc quản lý và thực hiện cơ chế tự chủ tài

chính còn chưa chặt chẽ.

* Sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan chưa đồng bộ

Mục tiêu đầu tiên của cơ chế giao quyền tự chủ cho chính quyền cấp xã

là tạo điều kiện cho các xã chủ động trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành

chính một cách hợp lý nhất để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.

Để đạt được điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan Nội

vụ và Tài chính trong hướng dẫn, theo dõi và đánh giá kết quả hoạt động của

các xã. Trên thực tế sự phối hợp giữa Phòng Nội vụ và PhòngTài chính còn

chưa rõ nét. Qui trình giao tự chủ còn đơn giản, chủ yếu chỉ dựa vào duy nhất

thông tư 71/2014/BTC rất chung chung cho chính quyền cấp xã, chưa có một

văn bản cụ thể nào của Bộ Tài chính hoặc các văn bản hướng dẫn của cấp tỉnh

(Hà Nội có văn bản hướng dẫn chi tiết). Chưa có một qui trình chuẩn, trong đó

có sự kết hợp được giữa việc xây dựng cơ chế tự chủ với việc xem xét lại chức

năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã, cũng như tổ chức sắp xếp lại qui trình

làm việc và xây dựng tiêu chuẩn đánh giá cán bộ công chức. Việc hình thành

một qui trình chuẩn về giao tự chủ thực sự là một nhu cầu bức thiết. Song thực

tế cơ quan Tài chính còn khá đơn độc trong việc triển khai hướng dẫn thực hiện

cơ chế tự chủ cho chính quyền cấp xã. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy qua

việc ban hành các văn bản, mở lớp đào tạo, hay theo dõi, đánh giá quá trình

thực hiện Nghị đinh 130/CP và Nghị định 117/2013 tại các tỉnh đồng bằng sông

Hồng thời gian. Bản thân cơ quan Tài chính cũng không có văn bản hướng dẫn

cụ thể hoá những văn bản do trung ương ban hành để chỉ đạo hoạt động tại địa

124

phương. Việc đánh giá kết quả hoạt động của chính quyền cấp xã này hiện đang

dựa vào sự tự đánh giá; có nghĩa là mỗi cơ quan tự đánh giá kết quả hoạt động

của mình và gửi báo cáo. Và do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do các tiêu chí

thi đua, khen thưởng cuối năm nên không có xã nào lại báo cáo rằng xã mình

có khó khăn nên không hoàn thành các mục tiêu đề ra.

Một số vấn đề nảy sinh trong tự chủ quản lý, sử dụng biên chế của chính

quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng:

Một là, chính quyền cấp xã còn lúng túng khi thực hiện cơ chế tự chủ

KPQLHC.

Hai là, chính quyền cấp xã vẫn chưa làm tốt công tác định biên cán bộ

dựa trên cơ sở phân tích công việc, nhiệm vụ cần phải thực hiện. Số biên chế và

nhiệm vụ được giao hầu như không thay đổi theo các năm. công tác định biên

tại các chính quyền cấp xã cũng gặp không ít khó khăn vì hầu như không xã

nào được thực hiện tự chủ biên chế trong khi đơn vị có thể tiết kiệm được kinh

phí từ việc tinh giảm biên chế và sắp xếp, phân công công việc một cách hợp lý

cho cán bộ. Việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, nhân sự và biên chế chưa gắn liền

với việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kính phí quản lý hành chính

nên không chỉ hạn chế đến hiệu quả thực hiện cơ chế mà còn làm cho các xã

khó khăn, lúng túng trong việc triển khai thực hiện cơ chế.

Ba là, tại chính quyền cấp xã việc phân tích, đánh giá và định lượng khối

lượng công việc của từng cá nhân trong mỗi bộ phận, phòng, ban cũng như số

lượng thời gian cần thiết để giải quyết một công việc gặp nhiều khó khăn. Các xã

đều chưa có tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ, công chức (tiêu chuẩn về năng lực,

tiêu chuẩn về thời gian trung bình cần thiết để thực hiện công việc). Vì vậy, các

cơ quan cấp trên cũng không có cơ sở khách quan để xác định số biên chế cần

thiết để xã có thể thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ được giao. Và hệ quả là trên

thực tế sẽ có tình trạng thiếu hụt hoặc dư thừa biên chế tại chính quyền cấp xã.

Tại chính quyền cấp xã luôn xảy ra tình trạng nhận người theo áp lực mà

không thể, hoặc khó bố trí công việc thích hợp dẫn đến tình trạng thừa người

125

làm việc, nhưng thiếu người làm được việc. Vì hiện nay biên chế được giao theo các tiêu

chí phân loại đơn vị hành chính xã mà không dựa trên chức năng và nhiệm vụ cụ thể.

Bốn là, mặc dù đã xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng công việc, nhưng

việc chi thưởng đến nay ở hầu hết các đơn vị nhận tự chủ chủ yếu mang tính bình

quân. Tất cả các đơn vị đều có bình bầu A, B, C nhưng đại bộ phận CBCC xã đều

đạt loại A; Việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy định tiêu chí cụ thể để

đánh giá mức độ hoàn thành công việc của từng xã khi được giao quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm chưa được các tỉnh, thành phố ban hành, chưa có hệ thống đánh

giá kết quả hoạt động thích hợp nên đã hạn chế việc chi trả thu nhập theo mức độ

hoàn thành công việc. Ở một số xã việc chi trả thu nhập vẫn mang tính chất bình

quân, chưa gắn chất lượng hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của từng cán bộ công

chức trong đơn vị. Ví dụ: chưa có chính sách trả lương cao cho các cán bộ trẻ có

trình độ cao (trên đại học), các quy định cụ thể về tuyển dụng, ký hợp đồng, thang

bảng lương còn chưa được thay đổi phù hợp với cơ chế mới. Ngoài ra, một số

khoản chi quản lý hành chính, chi chuyên môn, nghiệp vụ... còn bất cập, gây khó

khăn khi thực hiện, giảm tính tự chủ.

Về lâu dài, hình thức thưởng cào bằng này sẽ mất dần tác dụng động

viên, khuyến khich CBCC xã hoàn thành tốt công việc. Việc sử dụng kinh phí

tiết kiệm để chi cho các hoạt động phúc lợi chưa được quy định rõ nên chưa có

sự đồng nhất giữa các xã thực hiện tự chủ.

Nguyên nhân những hạn chế trên: - Các văn bản chưa có qui định cụ thể, rõ ràng. Chưa có Thông tư

hướng dẫn riêng việc thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC cho chính quyền cấp

xã, đảm bảo phù hợp đặc thù của chính quyền cấp xã .

- Tự chủ là một nhiệm vụ phức tạp, nhạy cảm liên quan đến cả hai vấn

đề: Con người và kinh phí, bộ máy hành chính cấp tỉnh và huyện lại đang trong

quá trình thực hiện cải cách nên có sự thay đổi về cơ cấu, biên chế và chức

năng, nhiệm vụ. Do đó, điều kiện cơ bản đầu tiên để nhận tự chủ đã không

được đảm bảo. Thực tế thực hiện những năm qua cho thấy việc tinh giảm biên

chế để thu gọn bộ máy là điều chính quyền cấp xã chưa thể làm được; do chưa

xác định đúng, đủ, chính xác về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của chính

126

quyền cấp xã, theo đó chưa xác định được vị trí việc làm để làm cơ sở xác định

biên chế công chức xã cho phù hợp, nên việc giao chỉ tiêu biên chế hàng năm

của UBND huyện cho các xã còn mang tính chủ quan, chưa có cơ sở khoa học.

- Do cơ chế xác lập nguồn kinh phí được giao tự chủ lại gắn liền với số

biên chế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền duyệt nên chính quyền các xã

vẫn muốn có nhiều biên chế hơn. Và để có được nhiều biên chế hơn, họ tìm

mọi cách để khuyếch trương các nhiệm vụ mà mình phải đảm nhiệm. Tất yếu

dẫn đến sự trùng chéo nhiệm vụ giữa nhiệm vụ của bộ máy chính quyền cấp xã

với các đơn vị sự nghiêp công lập trong cùng một lĩnh vực hoạt động. Trong

khi đó các cơ quan có thẩm quyền về xác lập biên chế lại cũng chưa có được

những căn cứ xác đáng để thẩm định, nên dễ dàng chấp nhận đề nghị của chính

quyền cấp xã trong phạm vi quản lý.

- Do chưa có sự rõ ràng trong việc phân định chức năng, nhiệm vụ của

chính quyền cấp xã về các hoạt động quản lý nhà nước với việc cung ứng các

dịch vụ mang tính sự nghiệp nên trong hoạt động của chính quyền cấp xã hiện

nay, vừa có các hoạt động thuộc chức năng quản lý hành chính; lại vừa có các

hoạt động thuộc chức năng của các đơn vị sự nghiệp. Khi chưa thể tách bạch rõ

2 chức năng này, thì chính quyền cấp xã sẽ khó khăn trong việc phân công công

việc hợp lý cũng như xác định số lượng biên chế cần thiết để đảm bảo hoạt

động của mình.

- Chưa có tiêu chí cụ thể đánh giá mức độ hoàn nhiệm vụ của chính

quyền cấp xã và CBCC xã, không có căn cứ phân loại CBCC xã đẫn đến sự cào

bằng và thiếu động lực thúc đẩy đội ngũ CBCC xã hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ được giao.

- Định mức giao tự chủ kinh phí quản lý hành chính do HĐND tỉnh quy định chưa phù

hợp, phần kinh phí hoạt động quá thấp, các xã khó có thể tiết kiệm được.

- Chưa có qui trình hướng dẫn cụ thể việc thực hiện cơ chế tự chủ

KPQLHC và cách xây dựng QCCTNB phù hơp.

- Việc thực hiện quản lý chu trình ngân sách xã vẫn theo lối truyền

thống, lập kế hoạch NSX trên cơ sở các yếu tố đầu vào, chưa chú trọng xây

dựng kế hoach và quản lý NSX theo kết quả đầu ra.

127

- Năng lực của người đứng đầu chính quyền cấp xã và những người tổ

chức thực thi cơ chế còn hạn chế.

- Việc giám sát, kiểm tra quản lý tài chính, ngân sách xã mang tính hình

thức. Chưa thực hiện theo đúng các qui định về công khai ngân sách nhà nước

các cấp theo đúng qui định hiện hành...

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Với kết quả ở trên, có thể nói rằng Nghị định 130/2005/NĐ – CP và Nghị

định 117/2013/NĐ – CP đã tạo ra sự đổi mới về cơ chế chính sách tài chính của

Nhà nước. Cơ chế tự chủ là chủ trương đúng đắn trong tình hình hiện nay, là

một trong những giải pháp cải cách lớn của nhà nước về cơ chế quản lý tài

chính công, cơ chế tự chủ này là thiết thực, góp phần cải thiện thu nhập, tạo sự

chủ động trong sử dụng KPQLHC để phát huy vai trò, trách nhiệm và quyền

làm chủ tập thể của CBCC xã.

Bên cạnh những kết quả tích cực, Nghị định 130/NĐ – CP và Nghị định

117/NĐ – CP cũng còn một số mặt hạn chế như vẫn còn nặng tính bình quân,

định mức phân bổ KPQLHC chủ yếu dựa vào chỉ tiêu biên chế được giao (quỹ

lương lại dựa trên mức lương cơ sở, không theo vị trí việc làm), việc chi tiêu tại

các xã vẫn kiểm oát theo định mức qui định, mang nặng tính quản lý theo đầu

vào, làm giảm tính hiệu quả, linh hoạt. Việc sử dụng kinh phí tiết kiệm chủ yếu

chỉ đảm bảo tăng thu nhập cho CBCC xã, chưa chú trọng vào việc đào tạo bồi

dưỡng năng cao năng cho CBCC xã và cơ sở vật chất tại địa phương; qui trình

cụ thể hướng dẫn việc thực hiện tự chủ KPQLHC, cũng như việc xây dựng

QCCTNB cho các xã trong khu vực đồng bằng sông Hồng …Về bản chất chưa

giao đầy đủ quyền tự chủ đầy đủ cho các xã cả về biên chế và KPQLHC.

Vấn đề đặt ra là Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế tự chủ KPQLHC theo

hướng giao quyền tự chủ ở mức độ cao cả về biên chế và KPQLHC để các xã

chủ động khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho việc tăng cường

xây dựng thương hiệu, uy tín của mình khi thực hiện QLNN ở chính quyền địa

phương, cung ứng dịch vụ công cho người dân một cách tốt nhất.

128

CHƯƠNG 4

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ VỀ KINH PHÍ

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

TẠI CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

4.1. Định hướng hoàn thiện bộ máy và cơ chế tự chủ tài chính đối với

chính quyền cấp xã

4.1.1. Xác định rõ vai trò của chính quyền xã trong quản lý

Cho đến nay, nhiều vấn đề quan trọng đang đặt ra trong phương thức

quản lý của chính quyền xã, như: thể chế quản lý một cách dân chủ và hiệu lực,

hiệu quả phù hợp với đặc điểm vùng miền, tộc người và phát huy đúng mức

được truyền thống tự quản của thôn/làng; nội dung, cấu trúc, chức năng quản lý

của chính quyền xã đối với phát triển xã hội; năng lực, kỹ năng thực hành, các

phương thức, điều kiện, thủ tục, quy trình quản lý một cách dân chủ và hiệu

quả; mối quan hệ giữa cơ chế quản lý với ý thức dân chủ, văn hóa pháp luật,

tính minh bạch và trách nhiệm giải trình,... của chính quyền xã.

Một số nội dung về công tác quản lý trong hoạt động của chính quyền xã,

tuy đã được thể chế hóa và thực hiện trên thực tế, nhưng do việc nhận thức

chưa thống nhất, các thiết kế cụ thể của mô hình chính quyền xã chưa hoàn

chỉnh và đồng bộ, nên sau khi thể chế hóa đã không vận hành được. Trong công

tác quản lý của chính quyền địa phương nói chung, chính quyền xã nói riêng,

chưa làm rõ được mối quan hệ giữa sự lãnh đạo/chỉ đạo của tổ chức Đảng với

thực hành quản lý của chính quyền và sự giám sát, phản biện của hội đồng nhân

dân và các tổ chức xã hội ở xã; chưa giải quyết được mối quan hệ giữa quyền,

lợi ích, nghĩa vụ của các chủ thể phát triển kinh tế - xã hội và chủ thể quản lý

phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã; nhất là giữa quản lý của chính quyền

xã với việc bảo đảm truyền thống tự quản của các thôn/làng.

Đây là những nguyên nhân căn bản dẫn tới những bất cập trong công tác

quản lý của chính quyền xã thời gian qua, đề ra yêu cầu đổi mới, hoàn thiện tổ

chức hoạt động của chính quyền xã trong điều kiện triển khai thực hiện Hiến

pháp năm 2013.

129

Tất cả các hoạt động, các lĩnh vực trên địa bàn xã đều liên quan và ảnh

hưởng đến tài chính. Vì vậy để quản lý ngân sách cấp xã tốt cần phải quản lý tốt

các hoạt động, các lĩnh vực. Để phù hợp trong điều kiện phát triển hiện nay của

đất nước, trong đó công tác quản lý tài chính cấp xã, phường, thị trấn cần:

+ Đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính xã,

phường, thị trấn. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể ủy ban

nhân dân, của chủ tịch UBND.

+ Phân cấp rành mạch cả nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm và phương

tiện thực hiện cho chính quyền cấp cơ sở trong việc thu – chi ngân sách, sắp

xếp và quản lý cán bộ, quản lý đất đai, bảo vệ hệ thống thủ lợi, quản lý hộ tịch,

quản lý các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách và vốn huy động trong dân, quản

lý cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hóa phục vụ nhân dân trong xã, phường,

thị trấn.

+ Đối với phường không quản lý toàn diện các hoạt động sản xuất, đời

sống dân cư trên địa bàn như chính quyền xã, thị trấn, song có một số nhiệm vụ

đặt ra trong quản lý đô thị. Do đó, cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm để

chính quyền phường thực hiện quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, vệ sinh môi

trường, trật tự đô thị,…

+ Tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã chủ động về ngân sách, mở rộng

các khoản thu, bảo đảm cho những xã ở trình độ phát triển trung bình có thể

cân đối được chi thường xuyên. Thực hiện công khai thu, chi cho dân biết.

Trang bị các phương tiện làm việc cần thiết và từng bước hiện đại hóa theo yêu

cầu tin học hóa hệ thống quản lý hành chính nhà nước.

+ Nâng cao trình độ quản lý tài chính, ngân sách nhà nước cho cán bộ xã.

Thường xuyên phân loại trình độ quản lý tài chính của cán bộ xã và lập kế

hoạch đào tạo bồi dưỡng nhằm đảm bảo tiêu chuẩn, yêu cầu quản lý và thay thế

những cán bộ yếu kém về trách nhiệm và chuên môn bằng những cán bộ có

năng lực, có trách nhiệm hơn. Để cán bộ phụ trách ở các ban ngành, đoàn thể,

130

các trưởng ấp, khóm trong xã biết giám sát, kiểm tra và tham gia quản lý ngân

sách có hiêu quả thì cũng phải cần bồi dưỡng kiến thức về tài chính – ngân sách

cho các cán bộ này.

4.1.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, chuẩn hóa đội ngũ cán

bộ chính quyền xã

Khoản 2, Điều 111 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Cấp chính quyền địa

phương gồm có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân được tổ chức phù hợp

với nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật

định”. Việc thể chế hóa quy định này của Hiến pháp đặt ra các yêu cầu đổi mới

cách thức tổ chức, hoạt động của chính quyền xã theo hướng tổng hợp đa

ngành, liên ngành và không đơn thuần chỉ là “cánh tay nối dài” của cơ quan nhà

nước cấp trên. Nhìn chung, ở cấp cao hơn, các cơ quan nhà nước cần phải được

tổ chức thành một hệ thống các cơ quan có tính chuyên môn hóa cao, để có

điều kiện chuyên sâu nghiên cứu, chỉ đạo, quản lý hoặc giải quyết về một lĩnh

vực cụ thể nhất định trong hoạt động của nhà nước, còn ở cấp cơ sở như xã,

thường mang tính đa ngành, liên ngành. Chẳng hạn, khi giải quyết các công

việc quan trọng có liên quan đến cơ sở, như tài chính, giáo dục, xây dựng, trật

tự - an ninh thì UBND xã bắt buộc vừa phải tuân theo các quy định của cơ quan

nhà nước cấp trên, vừa phải tuân theo quyết nghị của HĐND xã. Như vậy, nếu

các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước ở cấp cao hơn do nhiều loại cơ quan

khác nhau cùng thực hiện thì ở cấp xã chỉ do một cơ quan là UBND xã, thực

hiện theo cách tổng hợp đa ngành và liên ngành.

Bởi lẽ, một đặc trưng nổi bật ở cấp cơ sở, trong đó có cấp xã, là sự thống

nhất, đôi khi đến mức nhất thể hóa, quá trình lãnh đạo, quản lý với quá trình

trực tiếp triển khai thực hiện trên thực tế các đường lối, chủ trương, chính sách

và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Do phải quản lý một địa bàn lãnh thổ nhất

định với một số thôn/làng có truyền thống tự quản khá cao và chịu sự chế ước

của một số đặc điểm vùng miền, có khi của cả đặc điểm tộc người và tôn giáo,

131

nên chính quyền xã có vai trò độc lập tương đối. Vì thế, xét về nguyên tắc,

trong tổ chức và hoạt động của chính quyền xã, luôn đòi hỏi tính chất đa ngành,

liên ngành với một số nét đặc thù và tính độc lập nhất định tùy từng loại hình

xã (xã đồng bằng, xã vùng ven đô, xã vùng núi, xã vùng đông dân tộc ít người,

xã có nhiều tín đồ các tôn giáo,...).

Thực tế hiện nay cho thấy chính quyền cơ sở không thể làm tất cả mọi

việc giống như một nhà nước thu nhỏ trên địa bàn. Theo quy định của pháp luật

cũng như trên thực tế, chính quyền địa phương các cấp đã có sự xác định lại vai

trò, chức năng của mình. Trong quá trình tách bạch chức năng quản lý nhà

nước với chức năng quản lý kinh doanh, chính quyền địa phương và cơ sở

không còn là chủ thể trực tiếp tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Điều này

phù hợp với quá trình chuyển đổi vai trò nhà nước nói chung, từ một nhà nước

quản lý là chủ yếu sang một nhà nước phục vụ. Theo đó, chính quyền cơ sở

cũng đã có sự giảm bớt các lĩnh vực quản lý, đồng thời đẩy mạnh việc phát

triển xã hội - văn hóa, như phát triển mạng lưới y tế, giáo dục, bảo đảm cung

cấp các dịch vụ công cho cộng đồng và người dân, hỗ trợ và mở rộng quyền tự

quản của các thôn/làng trong việc phát triển và giải quyết các vấn đề văn hóa -

xã hội trên cơ sở kế thừa và phát huy hương ước hay luật tục.

Chính quyền địa phương và cơ sở còn có vai trò điều phối, khắc phục các

khiếm khuyết do sự phát triển của kinh tế thị trường gây ra, bảo vệ môi trường,

thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện bảo trợ xã hội đối với các đối tượng

chính sách và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, nhằm thực hiện dân chủ

và công bằng trong phát triển. Tuy vậy, ngay cả trong lĩnh vực này chính quyền

địa phương và cơ sở cũng không hoàn toàn tự mình làm tất cả, mà chỉ là chủ thể

chính, đứng ra thu hút và huy động toàn thể xã hội cùng tham gia thực hiện.

Cán bộ xã hiện nay chủ yếu xuất thân từ nông dân, lớn lên và trưởng

thành trong môi trường nông thôn, nên năng lực và trình độ còn nhiều hạn chế.

132

Công tác đào tạo cán bộ xã, đặc biệt kỹ năng thực hành có tính nghề nghiệp lại

chưa được chú ý đúng mức.

Trong điều kiện trình độ dân trí của nhân dân đã được nâng cao, tính chất

quản lý ngày càng phức tạp, đòi hỏi việc quản lý nhà nước cần phải khoa học,

bài bản, nên cán bộ cấp xã cần phải có trình độ, nhất là kỹ năng thực hành tổng

hợp. Nếu cán bộ cấp trên cần phải chuyên sâu, thì cán bộ cấp xã lại phải có tri

thức ở diện rộng, đa năng, có thể giải quyết được hoặc ít ra cũng biết được thủ

tục và cách giải quyết nhiều vấn đề rất khác nhau trực tiếp nảy sinh ở cơ sở, để

hướng dẫn cho người dân thực hiện.

Hiện nay, chúng ta mới có nhiều trường đào tạo chuyên sâu, nên về cơ

bản chỉ đáp ứng được việc đào tạo cán bộ cho các cơ quan trung ương hoặc địa

phương, mà hầu như chưa đáp ứng được nhu cầu của cơ quan chính quyền cấp

xã, đặc biệt tại các địa phương vùng núi, vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo, hay

vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

Do vậy, cần nghiên cứu đổi mới tiêu chuẩn các chức danh cán bộ xã, kể

cả cơ chế điều chuyển cán bộ cấp huyện cho các cơ quan cấp xã và nghiên cứu

đổi mới tại các cơ sở đào tạo cán bộ cấp cơ sở theo hướng đa chức năng hơn,

coi trọng kỹ năng thực hành hơn.

4.1.3. Giao quyền tự chủ tài chính ở mức độ cao cho chính quyền cấp xã.

Hiến pháp nước Việt Nam đã khẳng định: Chính quyền cấp xã là nơi trực

tiếp liên hệ với dân giải quyết công việc của dân, gắn bó với đời sống nhân dân,

do dân vì dân. Chính vì vậy nhiệm vụ của chính quyền cấp xã rất rộng giải

quyết toàn bộ mối quan hệ và lợi ích giữa Nhà nước với nhân dân bằng pháp

luật. Chính quyền cấp xã sử dụng ngân sách để thực hiện các chức năng, nhiệm

vụ được giao có thể kể đến như đảm bảo chi phí thường xuyên của bộ máy

quản lý Nhà nước ở xã, đầu tư chăm lo lợi ích công cộng, cung cấp dịch vụ

phục vụ nhu cầu của người dân địa phương.

133

Ngân sách xã là một bộ phận của NSNN vì vậy hoạt động của ngân sách

xã có liên quan đến chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước,

liên quan đến lợi ích giữa ngân sách các cấp, liên quan đến các biện pháp

nghiệp vụ hành chính, kinh tế, tài chính, kế toán và đồng thời cũng liên quan

đến việc tổ chức hướng dẫn chỉ đạo đôn đốc công tác kiểm tra thanh tra của các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền vì vậy quản lý ngân sách xã là nhiệm vụ của

nhiều cơ quan khác nhau.

Ngân sách xã là nguồn tài chính chủ yếu để đảm bảo cho chính quyền

Nhà nước cấp xã thực thi các nhiêm vụ kinh tế, xã hội trên địa bàn. Để thực

hiện các chức năng, nhiệm vụ về quản lý kinh tế xã hội trên địa bàn theo sự

phân cấp trong hệ thống chính quyền nhà nước, chính quyền xã phải có nguồn

tài chính đủ lớn. Có thể nói ngân sách cấp xã là quỹ tiền tệ có quy mô lớn nhất

trong số quỹ tiền mà chính quyền cấp xã được quản lý và sử dụng, nguồn tiền

trong ngân sách xã chỉ được phép thực hiện các nhiệm vụ mà chính quyền xã

phải đảm nhận. Vì vậy khả năng đảm bảo nguồn tài chính từ ngân sách cấp xã

như thế nào sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ thực hiện các nhiệm vụ kinh

tế, xã hội của chính quyền nhà nước cấp xã.

Trước vai trò vô cùng quan trọng của chính quyền cấp xã, đòi hỏi Nhà

nước ta cần đổi mới cơ chế quản lý, giao quyền tự chủ KPQLHC một cách toàn

diện hơn. Có như vậy, lãnh đạo các xã mới nâng cao quyền tự chủ một cách

đầy đủ để quản lý chính quyền cấp xã tốt hơn. Các khoản thu, chi trong xã sẽ

được công khai hơn, dân chủ hóa hơn, thực hành tiết kiệm chi tiêu, chống lãng

phí, nâng cao đời sống vật chất cho độ ngũ CBCC xã, thúc đẩy nâng cao chất

lượng dịch vụ công cho người dân.

Ở góc độ trách nhiệm của chính quyền cấp xã là phải chủ động tìm kiếm,

sử dụng nguồn tài chính hợp lý; sắp xếp lại biện chế, rà soát các dịch vụ công

do xã cung cấp từ đó bố trí tổ chức lao động một cách hợp lý cho phù hợp với

khả năng, năng lực của CBCC xã. Những điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn

134

trong lộ trình cải cách hành chính công của nước ta đến năm 2020 và giai đoạn

tiếp theo.

- Triển khai các nhiệm vụ cơ cấu lại thu ngân sách xã theo hướng bảo

đảm tổng nguồn thu và cơ cấu thu bền vững. Tăng cường quản lý khai thác

nguồn thu trên địa bàn xã, tạo chuyển biến căn bản trong việc chống thất thu.

Thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách xã.

- Hằng năm, dành khoảng 50% tăng thu so với dự toán và 70% tăng thu

thực hiện của ngân sách xã, khoảng 40% tăng thu ngân sách Trung ương cho

cải cách chính sách tiền lương.

- Tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả chi ngân sách xã; tiếp tục thực

hiện tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên ngân sách xã hằng năm cho đến

khi thực hiện khoán quỹ tiền lương trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền giao.

- Bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của CBCC xã có nguồn gốc từ ngân

sách nhà nước như: Tiền bồi dưỡng họp; tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy

phạm pháp luật,... Thực hiện tự chủ quỹ tiền lương gắn với mục tiêu tinh giản

biên chế cho các xã. Mở rộng cơ chế tự chủ gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ

tại chính quyền cấp xã. Không gắn mức lương của cán bộ công chức xã với

việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về chính sách, chế độ

không có tính chất lương.

Về tự chủ trong nguồn thu của chính quyền cấp xã, để bảo đảm chính

quyền cấp xã có quyền tự chủ trong việc thu và chi ngân sách, độc lập với

chính quyền trung ương, tỉnh, huyện, cần cho phép chính quyền địa

phương thu thuế địa phương để ngân sách địa phương có thể độc lập với ngân

sách trung ương, có thể tính tới việc trao cho địa phương quyền tự chủ cao hơn

trong quyết định và quản lý nguồn thu, bao gồm quyền thay đổi thuế suất một

số sắc thuế [53, tr.149]. Hiện nay, theo Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, có

khoảng 80% số phí, lệ phí là do Bọ Tài chính qui định mức thu, HĐND tỉnh

được quyền quyết định rất ít. Cũng có ý kiến cho rằng cần tăng cường phân cấp

135

cho các địa phương trong việc quyết định các khoản thu phí, lệ phí gắn với

chức năng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương. Tác giả cho rằng đây

là điểm phù hợp vì đó là cách áp dụng ở nhiều nước có chế độ tự quản địa

phương hiện nay.

Trước mắt, cần tăng tỷ lệ để lại cho chính quyền cấp xã một số sắc thuế

được huy động từ hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm khuyến khích tăng

cường công tác quản lý cũng như khai thác ngày càng cao hơn về nguồn thu

đảm bảo tính ổn định và bền vững về nguồn thu cho địa phương. Một số sắc

thuế cần được phân chia lại giữa trung ương và địa phương (và phải phân chia

cho từng cấp chính quyền địa phương) cho hợp lý để tăng nguồn thu cho địa

phương. Ví dụ như thuế thu nhập doanh nghiệp của những doanh nghiệp nếu

hoạt động ở nhiều địa phương thì cần được phân chia giữa trung ương và địa

phương, chứ không nên dành cho trung ương 100% như hiện nay, như vậy mới

tăng cường được nguồn thu cho ngân sách địa phương, từ đó tăng nguồn thu cho

NSX. Về lâu dài, nên trao quyền tự chủ, quyền tự quyết, quyền kiểm soát quản lý

các nguồn thu của chính quyền địa phương như chính quyền địa phương có

quyền hạn định ra tỷ lệ thuế; trao cho chính quyền cấp xã về thuế tương đối độc

lập; khuyến khích các xã khai thác lợi thế của mình và chủ động nuôi dưỡng,

phát triển các nguồn thu tiềm năng ở địa phương; các loại thuế công dân và pháp

nhân đóng cho Nhà nước nên chia làm hai loại là thuế trung ương và thuế địa

phương; thuế địa phương nên trao quyền cho nhân dân địa phương quyết định

thông qua cơ quan đại diện của họ là Hội đồng nhân dân. Thuế địa phương phải

là nguồn chủ yếu tạo ra ngân sách địa phương.

Về tự chủ trong nhiệm vụ chi của chính quyền cấp xã, cần mở rộng

quyền tự chủ của địa phương trong quyết định chi tiêu; cho phép chính quyền

địa phương tự chủ ở một mức độ thích hợp trong việc ra các quyết định chi tiêu

theo ưu tiên của địa phương [53, tr.150]. Theo đó, tác giả cho rằng, địa phương

cần được chủ động quy định các nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách của địa

136

phương phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng ngân sách của các cấp ngân

sách thuộc địa phương. Để bảo đảm cao hơn về quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của chính quyền địa phương thì về lâu dài, cần có những giải pháp

như: trung ương cần phân bổ số bổ sung có mục tiêu cho các địa phương trên

cơ sở định rõ tiêu chí, nguyên tắc về bổ sung có mục tiêu gắn với các định

hướng và chiến lược phát triển ưu tiên của từng vùng, miền và kế hoạch trung

và dài hạn của địa phương. Đồng thời, trong điều hành chi ngân sách, hình

thành cơ chế để chính quyền cấp xã có thêm tự chủ trong các quyết định phân

bổ nguồn lực, sử dụng nguồn lực theo các ưu tiên của xã và có được sự chủ

động về cách thức thực hiện trên cơ sở nguồn thu ngân sách để lại của xã và

cân đối bổ sung của ngân sách huyện.

4.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành

chính đối với chính quyền cấp xã tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Quá trình thực hiện cải cách hành chính nói chung và thực hiện cơ chế tự

chủ về KPQLHC nói riêng đối với chính quyền cấp xã các tỉnh ĐBSH, trong

thời gian qua đã thu được những kết quả nhất định, những kết quả đó đã có tác

dụng cho thấy rõ ý nghĩa và tác dụng của cải cách hành chính đối với quá trình

phát triển kinh tế - xã hội nói chung của mỗi tỉnh. Qua xem xét quá trình thực

hiện cơ chế tự chủ về KPQLHC đối với chính quyền cấp xã thời gian qua đã

cho thấy những ưu điểm và hạn chế cũng như khó khăn, vướng mắc cản trở quá

trình thực hiện đạt được hiệu quả tốt nhất. Kết quả đó là cơ sở để đề ra các giải

pháp nhằm tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ về KPQLHC.

4.2.1. Giải pháp nâng cao tính hiệu lực của cơ chế tự chủ kinh phí

quản lý hành chính.

Chính phủ phải yêu cầu các cơ quan chức năng (Bộ Tài chính – Bộ Nội

vụ) rà soát, xây dựng ban hành các văn bản pháp lý cụ thể giao quyền tự chủ

KPQLHC cho chính quyền cấp xã. Văn bản ban hành của các bộ, ngành, cơ

quan cần đảm bảo nguyên tắc tăng thời gian hiệu lực, rõ ràng, chi tiết, đơn giản

137

hóa thủ tục hành chính, chế độ chứng từ kế toán và công tác kiểm soát chi theo

đúng hướng tự chủ, hướng theo kết quả đầu ra. Cụ thể:

Một là, thông tư hướng dẫn việc thực hiện tự chủ tại chính quyền cấp

xã phải cụ thể, rõ ràng, đảm bảo sự thống nhất giữa các địa phương. Cải

cách hành chính nói chung là một quá trình đổi mới triệt để những cái cũ, đã

tồn tại từ nhiều năm qua và thể hiện sự trì trệ, đó là một quá trình phức tạp, diễn

ra ở nhiều khâu, nhiều công đoạn, cải cách tài chính công và thực hiện cơ chế

tự chủ cũng vậy. Thực hiện cơ chế tự chủ liên quan đến việc cải cách cả bộ

máy, con người và kinh phí, ảnh hưởng trực tiếp lợi ích của đội ngũ CBCC

cũng như lãnh đạo các xã. Quy trình thực hiện cơ chế tự chủ phải trải qua nhiều

bước mà chất lượng của việc thực hiện mỗi bước ảnh hưởng rất lớn tới kết quả

cuối cùng với việc thực hiện cơ chế tự chủ. Cơ chế tự chủ là một chính sách cải

cách mới do vậy đối với các đơn vị thực hiện đều rất mới mẻ và gặp không ít

khó khăn, vương mắc. Để hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ, Bộ Tài chính đã

ban hành Thông tư 71 hướng dẫn thực hiện NĐ 130 và một số văn bản hướng

dẫn về các chế độ liên quan. Tuy nhiên, Thông tư này còn rất nhiều vấn đề

vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện, chưa được hướng dẫn trong các

văn bản pháp quy, bên cạnh đó có những vấn đề mang tính kinh nghiệm được

đúc rút triển khai ở các địa phương cũng có tác dụng hỗ trợ cho các xã thực

hiện cơ chế tự chủ nhưng chưa được phổ biến.

Hai là, xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn cho các địa phương thực hiện

tự chủ gắn với quản lý theo kết quả đầu ra.

Với những lý do đó, các bộ, các tỉnh cần tăng cường tổ chức sơ kết, tổng

kết, đánh giá rút ra kinh nghiệm, bài học để phổ biến cho các xã khác: Bộ Tài

chính, Sở Tài chính các tỉnh tập hợp, biên soạn bộ tài liệu hướng dẫn chi tiết, cụ

thể quy trình và việc thực hiện các công đoạn của quy trình thực hiện cơ chế tự

chủ cũng như kinh nghiệm thực hiện của các đơn vị khác. Làm như vậy sẽ giúp

138

các xã có thể dễ dàng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nâng cao hiệu quả

thực hiện cơ chế tự chủ

Ba là, xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn cho các địa phương thực hiện tự

chủ gắn với quản lý theo kết quả đầu ra.

Cải cách hành chính vốn là một chương trình tổng thể, bao gồm nhiều

chương trình nhỏ, trong đó có cải cách tài chính công, và thực hiện cơ chế tự

chủ là một nội dung. Như vậy thực hiện cơ chế tự chủ là thực hiện một nội

dung của cải cách tài chính công. Để thực hiện tốt cơ chế tự chủ phải gắn liền

với việc thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách khác như cải cách về bộ máy,

về chế độ công chức, về quy trình làm việc, từng bước cải cách về chế độ

lương, thưởng…

Cải cách về bộ máy là cơ sở để tinh giảm bộ máy, xác định rõ CNNV để

tính toán công việc cụ thể, nhu cầu kinh phí cho việc hoàn thành công việc đó,

đồng thời xây dựng được khung đánh giá cán bộ công chức từ đó đưa ra được

chế độ thưởng, phạt phù hợp tạo động lực khuyến khích công chức làm việc.

Cải cách về chế độ công chức nhằm để tuyển chọn đội ngũ công chức có

trình độ, năng lực, được đào tạo cơ bản, chuyên môn sâu, có khả năng giải

quyết công việc với chất lượng, hiệu quả cao, tạo cơ sở để tinh giảm biên chế,

giảm bớt gánh nặng lương và tiến tới có thể trả lương và tiến tới có thể trả

lương theo năng lực công tác để tạo động lực vật chất khuyến khích những

người tài làm việc và đóng góp cho bộ máy chính quyền cấp xã. Cải cách chế

độ công chức để có thể loại bỏ bớt những người có năng lực thấp, không đủ đáp

ứng yêu cầu giải quyết công việc ở một cường độ cao, tinh giảm và nâng cao

chất lượng đội ngũ công chức.

Cải tiến quy trình làm việc để rút ngắn thời gian giải quyết một công

việc, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho người dân, từ đó tiết kiệm thời

gian, con người và chi phí. Cải tiến quy trình làm việc theo hướng xác định

những quy trình giải quyết công việc chuẩn, làm co sở để tổng kết, đánh giá và

139

tiếp tục cải tiến trong những năm tiếp theo. Quy trình giải quyết công việc

chuẩn là cơ sở để đánh giá công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao,

từ đó có chế độ thưởng, phạt hợp lý.

Bốn là, thay đổi đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật để có thể áp dụng

quy trình quản lý theo kết quả đầu ra

Luật NSNN, các văn bản pháp luật khác có liên quan phải xây dựng theo

hướng việc lập ngân sách theo kết quả đầu ra. Trong đó, nêu rõ tiêu chí về đầu

ra, cách lập, quy trình, chức năng nhiệm vụ của các bên liên quan.

Các thông tư hướng dẫn của trung ương nên giảm bớt quy định mức chi

cụ thể, vì mức chi của trung ương là hướng dẫn chung cho toàn quốc, đôi khi

không phù hợp, gây khó khăn cho địa phương và các xã. Trung ương nên quy

định khung mức chi cho các nội dung chi cụ thể, hoặc để cho HĐND địa

phương quyết định, từ đó tạo điều kiện tự chủ cao hơn cho địa phương cũng

như xã cụ thể.

4.2.2. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của cơ chế tự chủ kinh phí

quản lý hành chính

4.2.2.1. Đổi mới cách phân loại hành chính xã và số lượng cán bộ xã

đảm bảo phù hợp với cơ chế tự chủ

Thực hiện Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Nghị định số 10/2015/NĐ-

CP ngày 29 tháng 10 năm 2015 sử đổi bổ sung một số điều Nghị định

21/2010/NĐ – CP ngày 8 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về quản lý biên chế

công chức và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Cán bộ,

công chức; Nghị định 36/2013/NĐ-CP ngày 22/4/2013 về vị trí việc làm và cơ

cấu ngạch công chức. Theo đó, số lượng công chức trong các cơ quan được xác

định trên cơ sở vị trí việc làm gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu công chức

theo ngạch; mỗi cơ quan cần xác định rõ vị trí việc làm thì mới xác định được

biên chế công chức để tuyển dụng. Đó chính là cơ sở và giải pháp có tính liên

thông góp phần xác định biên chế đúng, biên chế đủ nhằm nâng cao chất lượng

cán bộ, công chức, giúp bộ máy chính quyền cấp xã gọn nhẹ, tiết kiệm được

140

kinh phí quản lý.

Nghị định 34/NĐ – CP ngày 24/4/2019 sửa đổi bổ bổ sung một số qui

định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã, thôn, tổ dân phố có hiệu lực từ ngày 26 tháng 6 năm 2019 đã từng bước xác

định số lượng CBCC xã theo hướng gọn nhẹ hơn. Cụ thể:

“Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP

ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế

độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

1. Sửa đổi, bổ sung Điều 4 như sau:

“Điều 4. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã

1. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo Quyết định phân

loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Cụ thể như sau:

a) Loại 1: tối đa 23 người;

b) Loại 2: tối đa 21 người;

c) Loại 3: tối đa 19 người.”

Như vậy so với Nghị định 92/2009/NĐ – CP thì số lượng cán bộ của mỗi

loại xã giảm đi 2 người so với hiện tại. Đồng thời tại Nghị định 34/2019 cũng

khuyến khích các xã có thể nhận ít hơn số biên chế theo qui định. Đây sẽ là cơ

sở các xã thực hiện triệt để hơn cơ chế tự chủ KPQLHC với tinh thần tiết kiệm,

hiệu quả và chất lượng cung ứng dịch vụ công được tốt nhất. Tuy nhiên cách

phân loại xã như nào để đảm bảo phù hợp thì lại chưa có hướng dẫn cụ thể. Vì

Nghị định 159/2005/NĐ – CP ngày 27/12/2005 về phân loại đơn vị hành xã cho

đến thời điểm này đã không còn phù hợp, nhưng chưa có văn bản nào được ban

hành thay Nghị định 159. Chính phủ cần nhanh chóng ban hành văn bản mới

hướng dẫn cho các tỉnh thành phố trong khu vực ĐBSH nói riêng và cả nước

nói chung thực hiện phân loại xã dựa trên nhiệm vụ cụ thể, của chính quyền xã

từng địa phương, từng khu vực, đảm bảo điều kiện tốt nhất cho các xã khi thực

hiện tự chủ KPQLHC.

141

Theo NCS hiện nay, chính quyền cấp xã vẫn đang thực hiện tiết kiệm

10% chi thường xuyên làm nguồn cải cách tiền lương; tiền lương vẫn là nguồn

thu nhập chính của CBCC cấp xã nhưng mới chỉ đạt mức trung bình khá trên

thị trường lao động. Vì vậy trong giai đoạn quá độ Nhà nước đang thực hiện

điều chỉnh chính sách tiền lương theo Nghị quyết 27 ban hành ngày 21/5/2018

đã chỉ rõ: “Chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ

thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến các cân đối lớn của

nền kinh tế, thị trường lao động và đời sống người hưởng lương, góp phần xây

dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,

phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Chính sách tiền lương đối với đội ngũ

CBCC cấp xã còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị

trí việc làm, chức danh của từng CBCC xã; còn mang nặng tính bình quân. Có

nhiều loại phụ cấp, nhiều cấp quyết định bằng các văn bản quy định khác nhau

làm phát sinh những bất hợp lý, không thể hiện rõ thứ bậc hành chính trong

hoạt động công vụ tại xã. Chưa phát huy được quyền, trách nhiệm của chủ tịch

xã trong việc đánh giá và trả lương, thưởng, gắn với năng suất lao động, chất

lượng, hiệu quả công tác của CBCC và người lao động trong xã. Quỹ lương

tính theo vị trí việc làm của cán bộ công chức xã, trên cơ sở chức năng nhiệm

vụ mà chính quyền xã phải thực hiện.

* Cải cách cơ chế quản lý tài chính đối với chính quyền cấp xã là yêu

cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng, thúc đẩy cải cách tài chính công; đổi

mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của chính quyền cấp xã tinh gọn, hoạt động hiệu

lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công cho người

dân trên địa bàn xã.

* Người đứng đầu chính quyền cấp xã phải xây dựng quy chế để

thưởng định kỳ cho các đối tượng thuộc quyền quản lý, gắn với kết quả đánh

giá, xếp loại mức độ hoàn thành công việc của từng người. Xác định được

chính xác số biên chế hợp lý là điều kiện tiên quyết để thực hiện tốt cơ chế tự

142

chủ, do vậy có thể coi đây là giải pháp quan trọng để tăng cường thực hiện cơ

chế tự chủ. Bởi vì, muốn xác định được số biên chế hợp lý phải trên cơ sở xác

định được cơ cấu tổ chức bộ máy và qui trình làm việc hợp lý. Đó chính là vấn

đề cốt lõi của cải cách hành chính, thực hiện được công việc này là đã thực hiện

được một bước quan trọng trong cải cách hành chính. Mặt khác, để xác định

được số biên chế hợp lý cần phải xây dựng được khung chỉ tiêu đánh giá công

chức xã về khả năng hoàn thành nhiệm vụ, mức độ hoàn thành nhiệm vụ, xác

định rõ ràng nhiệm vụ cần phải hoàn thành của công chức xã, dựa vào đó để

tổng hợp xác định biên chế hợp lý đồng thời cũng dựa vào đó để đánh giá mức

độ hoàn thành công việc được giao của mỗi công chức xã làm cơ sở để khen

thưởng và xử phạt thích hợp, làm căn cứ để đánh giá cải cách và tiếp tục cải

tiến quy trình, nâng cao chất lượng cải cách, đồng thời đó cũng là cơ sở tạo ra

động lực vật chất cho cải cách hành chính ở ác cấp cơ sở trực tiếp. Trong quá

trình triển khai thực hiện cơ chế tự chủ đối với chính quyền cấp xã các tỉnh

ĐBSH đã có sự rà soát lại bộ máy, xác định lại chức năng nhiệm vụ. Tuy nhiên

việc làm này chưa được thực hiện tốt (chỉ giảm được một số chức danh bán

chuyên trách và thực hiện chức danh kiêm nhiệm). Việc đánh giá, xác định

chức năng, nhiệm vụ chưa được tiến hành dựa trên phương pháp khoa học và

quy trình chặt chẽ, chủ yếu được tiến hành theo những phương pháp mang tính

định tính, chứa nhiều yếu tố chủ quan của lãnh đạo các xã. Do vậy, UBND các

tỉnh cần phải triển khai một quy trình thống nhất, có căn cứ khoa học chặt chẽ

trong việc xác định số biên chế hợp lý cho các xã, đảm bảo số biên chế đó là

phù hợp, khoa học và cũng là căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành công việc

của công chức xã, từ đó có chế độ khen thưởng hợp lý, tạo động lực khuyến

khích công chức xã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

4.2.2.2. Thay đổi định mức giao tự chủ kinh phí quản lý hành chính

Khi đã xác định được chính xác số biên chế hợp lý thì việc xác định mức

kinh phí hợp lý trở nên đơn giản, dễ dàng hơn. Căn cứ vào số biên chế đó và

143

định mức phân bổ kinh phí trên một biên chế do HĐND tỉnh giao sẽ xác định

được số kinh phí quản lý hành chính mà xã được nhận. Tuy nhiên, UBND các tỉnh

tính toán số kinh phí chi quản lý hành chính trên cơ sở định mức phân bổ một cách

hợp lý, trình HĐND tỉnh thông qua định mức giao ngân sách trên cơ sở chức năng

nhiệm vụ của chính quyền cấp xã và vị trí việc làm của CBCC xã ở mức phù hợp,

đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ. Có như vậy, chính quyền cấp xã mới có động lực

và có được khả năng tiết kiệm trong chi ngân sách. Tính toán giảm thiểu các chi

phí trung gian để tăng số kinh phí phân bổ cho các xã trực tiếp thụ hưởng, nâng

cao định mức phân bổ, tạo cơ hội cho các xã tăng số kinh phí tiết kiệm được để có

thể tăng đáng kể thu nhập cho công chức xã. Nếu vẫn giao biên chế ở định mức

trên đầu biên chế và dựa trên mức lương cơ sở như hiện nay thì thực tế khả năng

có thể tiết kiệm được là không cao, không để cho công chức xã thấy được lợi ích

thực sự rõ ràng và có thể tạo được động lực mạnh mẽ trong thực hiện nhiệm vụ.

Nếu UBND tỉnh chú trọng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của các xã

theo tinh thần cải cách hành chính nói trên, thì cần thay đổi lại cách tính kinh phí

giao tự chủ, đánh giá lại tác động của cách tính toán hiện hành về kinh phí giao

tự chủ.

Về lâu dài, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã tương

đối ổn định và giao quyền chủ động về biên chế nhiều hơn cho Chủ tịch xã thì

việc giao kinh phí cần dựa trên cơ sở xem xét các nhiệm vụ cụ thể hàng năm và

trong trung hạn để giao kinh phí dựa trên các kết quả đầu ra theo mong đợi, có

tính toán đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng như: lạm phát, chế độ chính sách thay

đổi. Xác định nội dung chi nên theo hướng “mở” và không nên quy định chi tiết

mức chi ở nội dung chi cụ thể gây khó khăn cho thực hiện và vô hình chung tạo

điều kiện nảy sinh mâu thuẫn giữa nhà quản lý và người thực hiện. Xác định

giao dự toán theo gói nội dung chi, khi thực thi có quyền đề xuất những nội

dung chi tiết và mức chi cụ thể, cần cam kết số lượng và chất lượng công việc

144

rõ ràng hơn trong khâu lập dự toán. Chuyển dần sang cơ chế lập dự toán theo

kết quả đầu ra, lúc đó cơ chế tự chủ có nhiều “đất” hơn để sống và phát triển.

Các thông tư hướng dẫn của Trung ương giảm bớt quy định mức chi cụ

thể, vì mức chi của trung ương là hướng dẫn chung cho toàn quốc, đôi khi

không phù hợp, gây khó khăn cho các địa phương. Trung ương nên quy định

khung mức chi cho các nội dung chi cụ thể, hoặc để cho HĐND địa phương

quyết định, từ đó tạo điều kiện tự chủ cao hơn cho địa phương.

Về xác định kinh phí để giao tự chủ: Để khắc phục tình trạng cuối năm

các xã sử dụng khoản kinh phí đã bố trí cho các hoạt động nghiệp vụ đặc thì

còn thừa (do lập dự toán không đúng hoặc do đơn vị không triển khai nhiệm

vụ) xác định là kinh phí tiết kiệm để chi tăng thu nhập, kinh phí quản lý hành

chính giao cho các xã thực hiện cơ chế tự chủ được xác định và giao hàng năm

trên cơ sở: Quỹ lương và các khoản đóng góp theo lương của số biên chế được

cấp có thẩm quyền giao (số biên chế theo vị trí việc làm tại xã), tại thời điểm

lập dự toán theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước; chi hoạt động thường

xuyên được xác định căn cứ số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và định

mức phân bổ ngân sách nhà nước tính trên biên chế, dự toán tăng (hoặc giảm)

theo tốc độ trượt giá năm sau so với năm trước. Các khoản chi hoạt động

nghiệp vụ đặc thù phát sinh thường xuyên ổn định hàng năm theo chức năng,

nhiệm vụ của từng xã. Khoản chi nghiệp vụ đặc thù phải được lập dự toán chi

tiết theo từng nhiệm vụ trên cơ sở tính toán xác định rõ khối lượng công việc,

theo tiêu chuẩn, chế độ định mức quy định của cơ quan có thẩm quyền làm căn

cứ xác định giao kinh phí tự chủ.

Hiện nay, cơ quan quản lý cấp trên thường đánh giá kết quả hoạt động của

chính quyền cấp xã dựa vào sự tự đánh giá theo các báo cáo định kỳ của xã.

UBND các tỉnh cần nhanh chóng ban hành một hệ thống tiêu chí đánh

giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp xã theo yêu cầu của Luật

145

NSNN năm 2015. Đây là một điều kiện quan trọng để tiếp tục tạo ra động lực

của cơ chế tự chủ. Nếu sự cố gắng của mỗi cơ quan và cá nhân không được

đánh giá công bằng thì sẽ dần dần bào mòn động lực của họ. Hệ thống đánh giá

hiện tại theo hướng cào bằng kết quả hoạt động của mỗi cá nhân sẽ không

khuyến khích người làm tốt cũng như xử phạt những người làm việc tồi. Xây

dựng biểu mẫu chuẩn để đánh giá các đầu ra và chất lượng của chúng căn cứ

vào các mục tiêu rõ ràng cho tất cả các xã. Ý kiến phản hồi của các tổ chức và

người dân sử dụng dịch vụ hành chính công trên địa bàn nên được xem là một

căn cứ để đánh giá chất lượng dịch vụ hành chính công tại xã. Ngoài ra, ứng

dụng các yếu tố của ISO 9001:2000 (hệ thống giám sát chất lượng) cũng sẽ hữu

ích đối với việc đánh giá kết quả hoạt động của xã.

4.2.2.3. Hoàn thiện qui trình thực hiện, phương pháp xây dựng quy

chế chi tiêu nội bộ, đối với chính quyền cấp xã

Dựa trên những phân tích cùng với thực tế triển khai cơ chế tự chủ tại

chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng thời gian qua. Trên cơ sở

giải pháp xác định số lượng và cơ cấu biên chế của chính quyền các xã, phân

tích khối lượng công việc được giao và xem xét thay đổi định mức giao tự chủ

kinh phí quản lý hành chính. Tác giả đề xuất qui trình thực hiện giao nhận tự

chủ cho chính quyền cấp xã như hình 4.1.

146

Hình 4.1. Quy trình thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC cấp xã

Bước 1: Xác định mức biên chế hợp lý cho các xã

Bước 2: Xác định mức kinh phí QLHC tự chủ giao cho các xã

2.1. Đánh giá tình hình chi tiêu 3 năm liền kề

1.1. Xây dựng CNNV cụ thể cho từng xã

2.2. Đánh giá nguồn thu và khả năng bố trí NS cho kinh phí

1.2. Đo lường khối lượng công việc của CBCC và cả xã

1.3. So sánh kết quả bước (1.1) và (1.2) để xác định biên chế

2.3. So sánh KQ bước (2.1), (2.2) & (1.3) để XĐ kinh phí giao trên đầu biên chế & tổng kinh phí giao tự chủ

Bước 3: Xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ và quản lý tài sản công

3.1. Rà soát các văn bản pháp lý, chế độ, định mức, tiêu chuẩn liên quan đến quản lý ngân sách xã 3.2. Xây dựng Quy chế theo mẫu đã hướng dẫn

3.3. Thảo luận công khai, nhất trí trong nội bộ xã

3.4. Gửi cơ quan tài chính thẩm định

3.5. Lãnh đạo đơn vị phê duyệt, ban hành, gửi Kho bạc, Tài chính theo dõi

Hợp lý hoá quy trình công việc tại các xã

Bước 4: Hoàn chỉnh quy trình giao tự chủ

Xây dựng tiêu chí xếp loại KQ công việc trong từng xã

Xây dựng tiêu chí đánh giá KQ công việc giữa các xã

147

* Xác định số biên chế hợp lý

Có thể thấy, cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính theo Nghị định

130/ 2005/ND – CP và Nghị định 117/2013/NĐ – CP không đề cập đến cơ sở

để xác định số biên chế giao tự chủ mà chỉ nói đến nguồn gốc số biên chế giao

tự chủ là do các cơ quan có thẩm quyền giao. Điều này đã gây khó khăn cho

các cơ quan hành chính trong việc xác định số biên chế hợp lý, đồng thời chưa

tạo được sự thống nhất chung giữa các cơ quan hành chính trong việc xác định

số biên chế hợp lý, chưa chỉ rõ được căn cứ khoa học của số biên chế hợp lý

được giao tự chủ đối với mỗi cơ quan. Tuy nhiên, có thể ngầm hiểu rằng, để

xác định được số biên chế hợp lý trong mỗi cơ quan cần phải dựa trên việc xác

định rõ chức năng, nhiệm vụ và tính toán chính xác nhu cầu thời gian cũng như

con người để hoàn thành công việc đó với một chất lượng nhất định trước bằng

các tiêu chí xác định.

Theo qui trình trên, để đảm bảo việc xác định số biên chế cần thiết một

cách thực sự hợp lý, công việc này nên được tiến hành như sau:

Bước 1. Xác định mức biên chế hợp lý cho các xã

➢ Xác định chức năng, nhiệm vụ hợp lý

➢ Kê khai đo lường công việc của mỗi công chức

➢ Tổng hợp, phân tích và xác định biên chế hợp lý

➢ Thống nhất định mức biên chế hợp lý

Bước 2: Xác định mức kinh phí nhận giao tự chủ hợp lý

Việc xác định mức kinh phí nhận giao tự chủ hợp lý là một công đoạn

hết sức quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới sự thành công của chính sách, để thực

hiện tốt việc này cần tiến hành theo trình tự các bước như sau:

➢ Đánh giá chi tiêu năm trước của mỗi đơn vị.

148

➢ Đánh giá khả năng bố trí ngân sách cho KPQLHC

➢ Xác định kinh phí để giao thực hiện chế độ tự chủ.

➢ Thống nhất phương án phân bổ.

Cơ chế tự chủ được tiến hành liên quan đến nhiều công việc, nhiều bước

khác nhau mà chất lượng của việc thực hiện bước này có ảnh hưởng quan trọng

tới bước khác và tới kết quả cuối cùng của việc thực hiện cơ chế tự chủ. Quy

trình chuẩn chỉ rõ cho các xã cần phải bắt đầu từ đâu, và các bước tiếp theo

tuần tự như thế nào và kết quả đạt được là gì?

Bước 3: Xây dựng qui chế chi tiêu nội bộ.

Có xã xây dựng xong quy chế chi tiêu nội bộ rồi cất đi; do không có căn

cứ đánh giá công việc của công chức xã nên không có cơ sở chính xác và

thuyết phục để đánh giá phân loại mức độ hoàn thành công việc của công chức

làm cơ sở khen thưởng và xử phạt. Mặt khác, mỗi bước thực hiện lại liên quan

đến việc phải thực hiện hoặc hoàn thành những công việc khác nhau theo một

trình tự nhất định. Nếu không thực hiện theo quy trình sẽ có khả năng xảy ra

tình trạng, cái phải làm sau lại làm trước và đến khi làm thì gặp vướng mắc khó

khăn, vừa mất thời gian khắc phục lại làm chậm tiến trình cải cách, làm giảm

hiệu quả của cải cách.

Quy trình giao tự chủ đã xác định nội dung và thời gian phối hợp giữa

các bộ phận liên quan trong quá trình thực hiện cải cách đảm bảo sự phối kết

hợp tốt nhất và hiệu quả nhất giữa các cơ quan khi thực hiện cải cách hành

chính, kịp thời khắc phục các vướng mắc, khó khăn nảy sinh khi triển khai thực

hiện cơ chế tự chủ tại xã. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người chịu trách

nhiệm chính trong việc tổ chức triển khai thực hiện ở mỗi xã. Đảm bảo bước

được thực hiện nghiêm túc tuần tự, chất lượng.

Quy chế chi tiêu nội bộ được coi là xương sống, linh hồn của cơ chế tự

chủ, quá trình thực hiện cơ chế tự chủ có thực sự tốt hay không phụ thuộc phần

149

lớn vào quy chế chi tiêu nội bộ. Có thể coi quy chế chi tiêu nội bộ là bản hiến

pháp đối với chính quyền cấp xã khi thực hiện cơ chế tự chủ, căn cứ vào đó

CBCC xã thực hiện việc chi tiêu ngân sách xã và quản lý tài sản công tại xã

một cách hiệu quả để phục vụ cho lợi ích chung và cũng là lợi ích của chính

bản thân mình. Trước tầm quan trọng đó của quy chế chi tiêu nội bộ đòi hỏi

việc xây dựng nó phải được thực hiện tốt, đảm bảo các nguyên tác, yêu cầu và

nội dung của một bản quy chế chuẩn, đồng thời có tính khả thi và được toàn thể

CBCC xã đồng tình, ủng hộ.

Việc phân chia kinh phí tiết kiệm được cần dựa vào kết quả hoạt động

của từng cá nhân công chức xã, dựa trên tiêu chí rõ ràng và có đánh giá cụ thể

trong nội bộ xã. Trên cơ sở đó xây dựng hệ thống đánh giá kết quả hoạt động

của mỗi cá nhân, trong đó các công việc đã thực hiện được đánh giá trên cơ sở

so sánh với bản mô tả công việc và kế hoạch hoạt động của mỗi công chức xã.

Tăng cường thực hiện dân chủ trong xã thông qua bàn bạc và thảo luận công

khai các định mức chi tiêu, các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Quy chế chi tiêu nội bộ phải thực sự thể hiện được ý chí, nguyện vọng của toàn

thể CBCC xã.

Một bản quy chế chi tiêu nội bộ tốt sẽ là cơ sở để quá trình thực hiện chế

độ tự chủ thu được các kết quả tốt, tuy nhiên, để thực hiện tốt bản quy chế chi tiêu

nội bộ đó cần thiết phải có sự phối hợp tích cực của KBNN trong việc giám sát,

theo dõi quá trình thực hiện chi ngân sách theo quy định của pháp luật và định

mức trong quy chế. Tuy nhiên, KBNN cấp huyện cũng hết sức lưu ý tránh gây

phiền nhiễu cho các xã, kiểm soát chi theo đúng tinh thần tự chủ, tạo điều kiện

thuận lợi nhất trong phạm vi quy định cho các xã thực hiện nhiệm vụ.

Bước 4: Hoàn chỉnh qui trình giao tự chủ: các xã tiến hành thực hiện, báo

cáo, đánh giá.

Trong quá trình nghiên cứu, NCS đã xây dựng qui chế chi tiêu nội bộ đối

với chính quyền cấp xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh thành khác

150

trên phạm vi cả nước, thực tế đã có rất nhiều xã tham khảo và đã vận dụng đạt

kết quả tốt. (Phụ lục 01).

4.2.2.4. Xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của

chính quyền cấp xã và CBCC xã

Việc đánh giá, xếp loại chính quyền địa phương ở cấp xã nhằm nâng cao

hiệu quả hoạt động và tăng cường công tác quản lý nhà nước của chính quyền

cơ sở; chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật công vụ; đánh giá đúng thực chất hoạt

động của Chính quyền cơ sở trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn được giao.

Kết quả đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền địa

phương ở cấp xã là tiêu chí quan trọng để bình xét thi đua - khen thưởng và

đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức cấp xã. Kết quả đánh giá, xếp loại mức độ

hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền địa phương ở cấp xã bao gồm các tiêu

chí: Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; thi hành pháp luật, quốc phòng, an ninh;

tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương; kết quả thực hiện nhiệm vụ cải

cách hành chính. Thông qua đánh giá, xếp loại khẳng định những mặt ưu điểm,

những mặt còn hạn chế, yếu kém, qua đó phát huy những mặt tích cực và khắc

phục những mặt còn hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý để nâng cao hiệu

lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương, góp phần phát triển kinh

tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh ở xã, phường, thị trấn. Đồng thời làm

cơ sở để giúp cho các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng hoạch định cơ chế,

chính sách góp phần xây dựng, củng cố chính quyền địa phương trong sạch,

vững mạnh (phụ lục 02)

Đánh giá là một khâu quan trọng, căn bản trong quá trình quản lý và sử

dụng cán bộ, công chức (CBCC), được tiến hành thường xuyên hàng tháng, hàng

quý, hàng năm hoặc trước khi xem xét đề bạt, chuyển công tác đối với CBCC.

Mục đích của hoạt động đánh giá nhằm cung cấp thông tin cho công tác quản lý,

151

làm cơ sở cho các quyết định quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng, tuyển chọn, đề

bạt, lương, thưởng đối với CBCC. Đánh giá đúng, chính xác kết quả làm việc của

CBCC xã là căn cứ để lựa chọn, sắp xếp, sử dụng đúng với năng lực, sở trường, từ

đó chủ động trong việc bồi dưỡng, rèn luyện và bổ nhiệm cán bộ. Đồng thời, hoạt

động đánh giá CBCC sẽ cung cấp thông tin phản hồi để CBCC xã biết rõ về năng

lực và việc thực hiện công việc của họ hiện tại đang ở mức độ nào, giúp họ phấn

đấu tự hoàn thiện bản thân và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, tránh mất

đoàn kết nội bộ, xây dựng tổ chức vững mạnh, đảm bảo cho quá trình thực hiện tự

chủ tại xã được minh bạch.

Các quy định liên quan đến đánh giá cán bộ phải rõ ràng, gắn với vị trí việc

làm và bản mô tả công việc của CBCC xã, ghi nhận được kết quả, thành tích của

từng cá nhân. Đánh giá một cách thường xuyên, liên tục, không chỉ đánh giá một

lần vào cuối năm.

Mỗi mục tiêu đánh giá có phương pháp đánh giá riêng, có quy trình và tiêu

chí cụ thể để làm tham chiếu khi đánh giá.

Kết quả đánh giá của mọi người trong đơn vị phải gắn kết với kết quả hoạt

động của đơn vị. Xây dựng thước đo để đo lường kết quả thực hiện công việc

hàng tháng thông qua việc xác định, lưu trữ và ghi chép những công việc và đánh

giá kết quả thực hiện công việc của từng người hàng tháng Xây dựng phiếu thống

kê kết quả thực hiện công việc để đánh giá CBCC xã theo nội dung sau dây:

* Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của

Nhà nước;

* Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc;

* Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ;

* Tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ;

* Tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ;

* Thái độ phục vụ nhân dân.

152

Việc đánh giá, xếp loại phải căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ được giao

và kết quả thực hiện nhiệm vụ. Việc đánh giá cần làm rõ ưu điểm, khuyết điểm,

tồn tại, hạn chế về phẩm chất, năng lực, trình độ của CBCC xã, bảo đảm dân

chủ, khách quan, chính xác, công khai, minh bạch.

Việc đánh giá, xếp loại CB, CC, VC lãnh đạo, quản lý phải dựa vào kết

quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý.

Trường hợp CBCC xã không hoàn thành nhiệm vụ do yếu tố khách quan, bất

khả kháng thì được xem xét trong quá trình đánh giá, xếp loại.

Tác giả đề xuất tiêu chí quy định thang điểm 100 làm căn cứ đánh giá,

xếp loại CBCC xã hàng tháng, bao gồm: 20 điểm về ý thức tổ chức kỷ luật,

phẩm chất đạo đức; 70 điểm về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được

giao và 10 điểm thưởng.

Bảng 4.1. Tiêu chí đánh giá CBCC xã

STT Mức độ hoàn thành Điểm Xếp loại Tỷ lệ

1 Hoàn thành suất xắc nhiệm vụ 90 - 100 A < = 30%

(CBCC xã)

2 Hoàn thành tốt nhiêm vụ 70 - < 90 B

3 Hoàn thành nhiệm vụ 50 - < 70 C

4 Không hoàn thành nhiệm vụ < 50 D

Nguồn: Tác giả đề xuất

Trường hợp bộ phận, đoàn thể có thành tích đặc biệt xuất sắc, nổi trội thì

tỷ lệ cá nhân được đánh giá, xếp loại A cũng không nên vượt quá 40% tổng số

người bộ phận đó.

Kết quả đánh giá, xếp loại hàng tháng của CBCC xã là căn cứ để bình

xét khen thưởng hàng tháng; là căn cứ chính để đánh giá, xếp loại thi đua đối

153

với CBCC xã hàng năm. Đây còn là cơ sở để bố trí, sử dụng, quy hoạch, đề bạt,

đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chính sách đối với CBCC xã theo quy định và

theo yêu cầu nhiệm vụ của chính quyền cấp xã, có tác động tới việc sử dụng

kinh phí tiết kiệm khi thực hiện tự chủ một cách hiệu quả.

4.2.3. Giải pháp hoàn thiện tính linh hoạt và công bằng của cơ chế tự

chủ kinh phí quản lý hành chính

4.2.3.1. Giảm bớt sự kiểm soát của KBNN. KBNN cần kiểm soát chi thường

xuyên ngân sách xã theo phương thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra,

tăng cường cơ chế hậu kiểm.

Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, trình độ quản lý kinh tế chưa cao; ý

thức chấp hành của các xã sử dụng ngân sách thường xuyên còn có những hạn

chế; hồ sơ, chứng từ chi ngân sách thường xuyên qua KBNN còn có nhiều bất

cập... việc thực hiện kiểm soát chi ngân sách thường xuyên của chính quyền các

xã theo phương thức quản lý theo nguồn lực đầu vào kết hợp với quản lý theo kết

quả đầu ra là việc làm cần thiết.

Tuy nhiên, để quá trình thực hiện cơ chế tự chủ tại chính quyền cấp xã được

tốt hơn; việc kiểm soát chi ngân sách thường xuyên của chính quyền cấp xã qua

KBNN cần thay đổi linh hoạt theo phương thức quản lý ngân sách chương trình,

ngân sách dự án, trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn. Đó là việc kết hợp giữa hai

phương thức quản lý ngân sách theo kiểu hành chính, truyền thống kết hợp với

kiểm soát chi theo kết quả đầu ra trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn, nhằm tăng

quyền chủ động sử dụng nguồn lực và hiệu quả sử dụng ngân sách cho các xã.

Kiểm soát chi ngân sách thường xuyên của chính quyền cấp xã qua

KBNN theo Phương thứcquản lý ngân sách chương trình, ngân sách dự án trong

khuôn khổ chi tiêu trung hạn đặt ra một số yêu cầu cụ thể sau:

- Việc kiểm soát dự toán ngân sách thường xuyên hàng năm được thay thế

bằng dự toán ngân sách thường xuyên trung hạn 3 năm, từng năm một, dự toán

154

ngân sách thường xuyên được đưa vào nhằm đảm bảo tính liên tục của ngân sách

thường xuyên trung hạn.

- Việc kiểm soát các điều kiện chi ngân sách thường xuyên đối với từng

khoản chi phải được tiến hành đồng thời với kiểm soát kết quả của các khoản chi,

nhằm đảm bảo việc tuân thủ các quy định quản lý tài chính - ngân sách tại từng xã

sử dụng ngân sách thường xuyên.

- Đối với từng khoản chi phải được tiến hành đồng thời với kiểm soát kết

quả của các khoản chi, nhằm đảm bảo việc tuân thủ các quy định quản lý tài chính

- ngân sách tại từng xã sử dụng ngân sách thường xuyên. Hàng quý các xã được

chi thu nhập tăng thêm, phúc lợi và khen thưởng theo qui chế chi tiêu nội bộ,

nhằm tăng tính chủ động, linh hoạt đáp ứng nhu cầu thực tế của CBCC xã trong

quản lý điều hành của lãnh đạo xã.

4.2.3.2. Các văn bản ban hành đảm bảo công bằng cho các xã, giữa các

vùng miền khác nhau. Không giới hạn việc cung cấp dịch vụ công chỉ bó hẹp

trong khuôn khổ một xã, điều này đễ rất đến mất cân đối và chất lượng dịch vụ

không tốt ở những xã đông dân cư. Phân bổ ngân sách nên căn cứ vào nhiệm vụ

cụ thể của các xã theo hướng công khai, minh bạch hóa qui trình tiếp nhận và

giải quyết các dịch vụ trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh. Phân biệt tổ chức

bộ máy và cơ chế hoạt động của chính quyền ở khu vực đô thị, nông thôn và

hải đảo với những quy định mang tính đặc thù. Tránh xu hướng “phình” bộ

máy, phát sinh thêm chế độ, chính sách đối với chức danh trưởng ban, phó

trưởng ban của hai ban hoạt động kiêm nhiệm (Ban pháp chế và Ban kinh tế -

xã hội) của HĐND cấp xã. Xác định rõ nhiệm vụ của trưởng thôn, tổ trưởng tổ

dân phố theo hướng chỉ tổ chức thực hiện và quản lý các vấn đề mang tính tự

quản của cộng đồng dân cư ở thôn, tổ dân phố.

4.2.3.3. Thay đổi chu trình quản lý ngân sách xã

- Về lập và phân bổ dự toán NSX hàng năm:

155

Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng dự báo nguồn thu ở cấp

xã nhằm nâng cao chất lượng lập và chấp hành dự toán ngân sách xã. Cụ thể:

Coi việc xây dựng dự toán NSX như việc soạn thảo một hợp đồng kinh tế

giữa hai bên: Chính quyền cấp xã cam kết cung cấp các đầu ra xác định, còn

nhà nước sẽ cam kết “mua” các đầu ra đó với tổng giá thanh toán định trước (số

kinh phí ngân sách sẽ được phân bổ cho xã).

Lập dự toán ngân sách theo kết quả thực hiện nhiệm vụ cần đảm bảo các

bước: Xây dựng kế hoạch, mục tiêu hoạt động của chính quyền cấp xã, xác định

các kết quả đầu ra dự kiến và các chỉ số đo lường kết quả thực hiện nhiệm vụ.

Xây dựng kế hoạch hoạt động của chính quyền cấp xã nhằm lựa chọn

đúng đắn thứ tự ưu tiên. Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của xã để

xác định kế hoạch hoạt động của xã.

Xác định các kết quả thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp xã. Vấn đề

quan trọng của phương thức quản lý NSX theo kết quả thực hiện nhiệm vụ là

phải xác định được kết quả đầu ra của từng hoạt động cụ thể. Vì vậy yêu cầu

khi lập dự toán phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau:

+ Tập trung vào yếu tố cung ứng DVC, gắn với tính chất của kết quả đầu

ra cuối cùng.

+ Phân biệt giữa hoạt động và kết quả đầu ra.

+ Có thể kiểm soát được bởi chính đội ngũ CBCC xã.

+ Phải bao hàm được toàn bộ các loại dịch vụ do chính quyền cấp xã

cung cấp cho người dân.

+ Có thể đo lường được hoặc ít nhất có thể thẩm định được.

+ Công khai đầy đủ cho người dân về các tiêu chuẩn của kết quả đầu ra,

nhất là đối với các thành viên ban kinh tế tài chính xã và đại biểu HĐND xã.

+ Xác định các chỉ số đo lường đánh giá kết quả đầu ra.

Cuối cùng, thảo luận, tổng hợp và phê chuẩn dự toán NSX.

156

Đối với thành viên của Hội đồng nhân dân cần nâng cao năng lực của họ

để nâng cao chất lượng xem xét và quyết định dự toán, quyết toán ngân sách

địa phương. Giảm bớt tỉ lệ thành viên ủy ban nhân dân trong Hội đồng nhân

dân để tăng tính khách quan trong quyết định dự toán, quyết toán ngân sách. Bồi

dưỡng nâng cao trình độ Hội đồng nhân dân về lĩnh vực tài chính – ngân sách.

- Về công tác điều hành ngân sách:

Hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo trong lĩnh vực tài chính – ngân

sách, bảo đảm cung cấp kịp thời các thông tin về chấp hành ngân sách, giúp cho

ủy ban nhân dân nắm được tình hình và quyết sách kịp thời, chính xác, có hiệu

lực và hiệu quả để kịp thời ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, thất thoát, tham

nhũng trong quản lý tài chính của xã. Để hỗ trợ thông tin, cần trang bị cho cấp

xã, đặc biệt là bộ phận tài chính các phương tiện thông tin hiện đại và máy vi

tính để đảm bảo làm tốt công việc này. Cán bộ tài chính kế toán xã tham mưu

cho Chủ tịch xã lập dự toán chi thường xuyên (phần kinh phí quản lý hành

chính được giao tự chủ), lấy đó làm cơ sở cho quá trình quản lý, điều hành chi

ngân sách tại xã (phụ lục 03).

- Về công tác quyết toán ngân sách:

Chính quyền cấp xã chú trọng nhiều hơn đến khâu phân tích quyết toán

ngân sách, thực hiện được việc xem xét để kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của

từng nghiệp vụ thu, chi ngân sách thể hiện trên chứng từ để đảm bảo chất lượng

báo cáo quyết toán và gắn kết giữa ngân sách xã với kết quả và hiệu quả quản

lý nhà nước trên các lĩnh vực tại địa phương. Ủy ban nhân dân xã phải có giải

pháp nâng cao chất lượng báo cáo quyết toán và rút ngắn thời gian nộp báo cáo

quyết toán cho Hội đồng nhân dân và cấp trên để cơ quan này có điều kiện xem

xét, phê chuẩn quyết toán đầy đủ, bảo đảm tính chính xác và độ tin cậy của báo

cáo quyết toán.

Ngoài việc lập báo cáo quyết toán năm theo biểu mẫu quy định, Bộ phận

Tài chính kế toán cấp xã còn phải có lập bảng thuyết minh bằng lời những

157

khoản thu, chi tăng, giảm đột biến trong năm để còn có cơ sở trong quá trình

thẩm tra quyết toán ngân sách hàng năm của Phòng TC – KH và dự kiến dự

toán ngân sách cấp xã năm sau, đồng thời việc thuyết minh đặc biệt mang ý

nghĩa quan trọng đối với năm cuối của thời kỳ đầu ổn định ngân sách để chuẩn

bị cho quá trình xây dựng và phân bổ dự toán ngân sách cho năm đầu của thời

kỳ ổn định ngân sách tiếp theo.

4.2.3.4. Thông tin đầy đủ và nâng cao năng lực cho đội ngũ CBCC các

xã thực hiện cơ chế tự chủ.

Thực hiện tốt giải pháp này có thể cung cấp thông tin một cách đầy đủ

nhất cho tất cả các đối tượng liên quan đến cải cách hành chính, từ người lãnh

đạo đến người thực thi và các đối tượng thụ hưởng kết quả, dịch vụ từ cải cách.

Mặt khác, do đặc điểm của cơ chế tự chủ đòi hỏi muốn thực hiện tốt nó cần có

sự tham gia của tất cả các đối tượng liên quan do vậy việc cung cấp đầy đủ

thông tin cho các đối tượng, yêu có ảnh hưởng hết sức quan trọng tới kết quả

của thực hiện cơ chế tự chủ.

- Nâng cao năng lực nhận tự chủ, kỹ năng quản lý tài chính, kỹ năng

lãnh đạo ở xã được giao tự chủ.

Sự ra đời của NĐ 130 được xem như một sự “cởi trói” phần nào cho

chính quyền cấp xã về tài chính và nhân sự. Ngoài việc tập trung điều hành

chuyên môn, giờ đây họ có trách nhiệm lớn hơn về quản lý tài sản, kinh phí nhà

nước giao cũng như phân phối thu nhập nhằm đảm bảo hoạt động của xã được

suôn sẻ, hiệu quả. Bộ máy tài chính – kế toán cũng đòi hỏi phải năng động để

có thể tham mưu cho lãnh đạo quản lý tốt nhất tiền và tài sản của nhà nước

đồng thời đảm bảo quyền lợi của người lao động. Để đưa cơ chế mới thực sự đi

vào cuộc sống đòi hỏi người đứng đầu chính quyền cấp xã phải có những kiến

thức và kỹ năng quản trị mới.

Xác định và phân biệt rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể UBND cấp

xã với thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã trong việc thực

158

hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Thống nhất thực hiện nguyên tắc “tuân thủ pháp luật

và việc ai nấy làm”, chính quyền cấp xã chỉ giải quyết nhu cầu và phục vụ

người dân theo đúng các nhiệm vụ đã được pháp luật quy định. Không chuyển

việc hoặc đẩy việc thuộc trách nhiệm của cấp huyện xuống cấp xã thực hiện;

không chuyển việc thuộc trách nhiệm của cấp xã cho thôn, tổ dân phố thực

hiện. Khắc phục xu hướng hành chính hóa hoạt động của thôn, tổ dân phố, hạn

chế tính tự quản của cộng đồng dân cư.

- Thực hiện tốt công khai dân chủ tại chính quyền cấp xã

Đây cũng là một giải pháp quan trọng trong việc tăng cường thực hiện cơ

chế tự chủ, công khai dân chủ vừa là điều kiện để thực hiện vừa là một phần

mục tiêu kết quả của cơ chế tự chủ. Có thực hiện tốt công khai dân chủ mới

thực hiện cơ chế tự chủ một cách hiệu quả, đồng thời thực hiện tốt cơ chế tự

chủ là phải tạo ra được một môi trường thực sự dân chủ trong các xã.

Công khai dân chủ trong các xã là một vấn đề hết sức tế nhị, không có

định mức để kiểm tra, đánh giá mức độ công khai dân chủ trong các xã, khi

được khảo sát, ý kiến của cán bộ công chức taị các xã về mức độ công khai dân

chủ cũng khác nhau. Đây là một vấn đề khá quan trọng trong thực hiện cải cách

ở chính quyền cấp xã, và cũng là một mục tiêu cần đạt tới của cải cách hành

chính. Xây dựng môi trường hành chính công khai, minh bạch và dân chủ tiến

tới hình thành một nền hành chính hiện đại, đó là mục tiêu của cải cách hành

chính nói chung, những thông qua thực hiện điều đó sẽ ra cá cơ sở cho việc

thực hiện tốt các chính sách cải cách trong giai đoạn hiện nay, trong đó có cơ

chế tự chủ.

- Nâng cao năng lực của HĐND xã và Ban Kinh tế tài chính xã.

HĐND cấp xã có vai trò,vị trí rất quan trọngtrong cơ chế quản lý NSX

theo kết quả đầu ra. Đây là cơ quan có tiếng nói về mục tiêu phát triển kinh tế -

xã hội; về ngân sách xã; đồng thời luôn giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ

159

của chính quyền xã; phản ánh tiếng nói của cử tri đối với hoạt động của chính

quyền.

Nâng cao trình độ chuyên môn cho các thành viên ban kinh tế xã hội

xã. Có chế độ phụ cấp tương xứng với yêu cầu công tác, nghiêm túc thực

hiện phân bổ nguồn ngân sách xã cho phù hợp tránh hiện tượng bình quân,

cào bằng.

+ Bộ phận tài chính kế toán cấp xã tham mưu cho UBND cấp xã phải

thực hiện xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ (xây dựng cụ thể quy chế chi tiêu

nội bộ ở các nội dung thực hiện chế độ tự chủ của từng bộ phận Đảng, chính

quyền, đoàn thể), xây dựng các giải pháp thực hiện quyền tự chủ trong quản lý

biên chế, kinh phí; đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ của UBND cấp xã trong

phạm vi biên chế và kinh phí được giao;

+ Đảm bảo quyền lơi hợp pháp của cán bộ, công chức cấp xã theo chế độ

tiêu chuẩn của Nhà nước và Pháp luật; sử dụng hợp lý biên chế và tiết kiệm

kinh phí được giao, xây dựng được phương án trả thu nhập tăng thêm cho cán

bộ công chức và cán bộ không chuyên trách cấp xã;

+ Tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn và cán bộ, công chức cấp xã được

tham gia thực hiện và giám sát thực hiện các giải pháp về thực hiện quyền tự

chủ;

+ Thực hiện báo cáo kết quả triển khai phương án tự chủ về quản lý biên

chế và kinh phí quản lý hành chính về UBND và Phòng TC – KH cấp huyện theo

đúng qui định.

160

4.3. Một số kiến nghị

Bên cạnh những giải pháp kể trên, một số kiến nghị cũng được đưa ra để

hỗ trợ tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính đối với

chính quyền cấp xã trong thời gian tới là:

4.3.1. Kiến nghị đối với trung ương

* Với Bộ Nội vụ: Xác định lại chỉ tiêu biên chế đối với chính quyền cấp

xã theo vị trí việc làm, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của

chính quyền cấp xã. Quy định hiện hành mới chỉ giao khoán quỹ lương trên cơ

sở biên chế được giao dựa vào cách phân loại hành chính xã và mức lương cơ

sở do nhà nước qui định. Để Chủ tịch các xã được thực hiện tự chủ trong việc

sắp sếp, bố trí vị trí việc làm cho phù hợp đối với CBCC xã. Hiện nay, đã có

quy định về mặt bằng thi tuyển chung và từng chức danh công chức xã có quy

định tiêu chuẩn riêng. Vì vậy trên cơ sở chỉ tiêu biên chế được giao và tiêu

chuẩn, quy trình tuyển dụng CBCC xã được pháp luật quy định nên giao quyền

cho Chủ tịch xã thực hiện cơ chế tự chủ được tham gia tổ chức tuyển dụng công

chức để chọn được công chức cho phù hợp với đặc thù công việc của xã mình.

* Với Bộ Tài chính: tham mưu cho Chính Phủ ban hành các văn bản

hướng dẫn cụ thể cho chính quyền cấp xã thưc hiện tự chủ.

- Về sử dụng kinh phí được giao tự chủ: Để tăng quyền tự chủ hơn nữa cho

Chủ tịch xã trong việc sử dụng kinh phí được giao tự chủ, nên quy định cụ thể

như sau: Trong phạm vi kinh phí giao tự chủ, các xã thực hiện tự chủ có thể

quyết định giao (một phần hoặc toàn bộ) kinh phí thực hiện nhiệm vụ cho từng

bộ phận (các ban ngành đoàn thể của xã) để chủ động thực hiện nhiệm vụ. Thực

hiện kinh phí tự chủ phải đảm bảo có chứng từ, hoá đơn hợp pháp, hợp lệ theo

quy định; Bộ Tài chính quy định cụ thể những khoản chi thực hiện tự chủ

không cần hoá đơn.

- Về sử dụng kinh phí tiết kiệm: Để khắc phục tình trạng cuối năm không

thực hiện hết nhiệm vụ được giao (kinh phí thừa) nhưng xác định là kinh phí

161

tiết kiệm, nên quy định cụ thể như sau: Kết thúc năm ngân sách, sau khi được

cơ quan quản lý cấp trên đánh giá đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao, các

xã thực hiện cơ chế tự chủ có số chi thực tế thấp hơn dự toán kinh phí quản lý

hành chính được giao để thực hiện cơ chế tự chủ thì phần chênh lệch này được

xác định là kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được. Xã nào còn tình trạng

phải bổ sung kinh phí, thu không đạt dự toán được giao, phải giảm chi tương

ứng thì không được xác định kinh phí tiết kiệm. Kinh phí giao thực hiện cơ chế

tự chủ để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ đặc thù cuối năm nếu không thực

hiện nhiệm vụ thì phải nộp trả ngân sách Nhà nước, không được xác định là

kinh phí tiết kiệm.

- Về phạm vi sử dụng kinh phí tiết kiệm: Để khắc phục việc chi thu nhập tăng

thêm mang tính bình quân, không gắn với hiệu quả kết quả công việc, nên quy

định cụ thể như sau: Bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức: các xã thực hiện cơ

chế tự chủ được áp dụng hệ số tăng thêm quỹ tiền lương tối đa không quá 1,0 lần

so với mức tiền lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định để chi trả thu nhập

tăng thêm cho cán bộ, công chức. Trên cơ sở tổng nguồn kinh phí được phép chi,

các xã thực hiện cơ chế tự chủ quyết định phương án chi trả thu nhập tăng thêm

cho từng cán bộ, công chức (hoặc cho từng bộ phận trực thuộc) theo nguyên tắc

phải gắn với hiệu quả, kết quả công việc của từng người (hoặc của từng bộ phận

trực thuộc);

- Đối với khoản chi cho các hoạt động phúc lợi nên quy định theo hướng

cụ thể hơn như sau: Chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể như hỗ trợ các hoạt

động Đảng, đoàn thể; hỗ trợ các ngày kỷ niệm (kỷ niệm ngày phụ nữ, ngày

thương binh liệt sỹ, ngày quân đội nhân dân...); trợ cấp khó khăn thường xuyên,

đột xuất; trợ cấp nghỉ hưu, nghỉ mất sức; chi thêm cho người lao động trong

biên chế khi thực hiện tinh giản biên chế; chi cho xây dựng, sửa chữa các công

trình phúc lợi...

- Đối với phần kinh phí tiết kiệm cần quy định cụ thể nội dung chi như: Bổ

sung chi phí phục vụ các hoạt động nghiệp vụ (Hỗ trợ thêm tiền công tác phí

162

ngoài chế độ công tác phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành; hỗ trợ tiền cước

điện thoại cho cán bộ); chi hỗ trợ động viên, khuyến khích phối hợp công tác

cho cán bộ, cơ quan ngoài đơn vị ....

Để khắc phục tồn tại do cơ quan chủ quản không ban hành tiêu chí, không

thực hiện đánh giá hoàn thành nhiệm vụ cho cơ quan trực thuộc, dẫn đến việc

quản lý, sử dụng kinh phí giao tự chủ chưa chặt chẽ, cần quy định cụ thể trách

nhiệm của Bộ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ

ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải ban hành các tiêu

chí cơ bản phù hợp với đặc thù chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã để

làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ. Hàng năm phải đánh giá bằng

văn bản về kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan trực thuộc làm căn cứ

xác định kinh phí tiết kiệm, chi bổ sung thu nhập.

- Hướng dẫn về thực hiện cơ chế tự chủ trong việc sắp xếp bộ máy, sử

dụng biên chế công chức

- Các Bộ, ngành, địa phương theo chức năng nhiệm vụ nghiên cứu ban

hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về tự chủ. Sớm ban hành các tiêu chí cơ bản

để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp xã khi

thực hiện cơ chế tự chủ, trong đó phải có các tiêu chí đánh giá về khối lượng,

chất lượng công việc thực hiện; thời gian giải quyết công việc; tình hình chấp

hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính.

4.3.2. Kiến nghị đối với chính quyền địa phương

* Đảm bảo sự cam kết của các cấp lãnh đạo

Vai trò của lãnh đạo các cấp đối với triển khai thực hiện cơ chế tự chủ đối

với chính quyền các xã là khác nhau nhưng đều có ảnh hưởng quan trọng đến kết

quả thực hiện cơ chế tự chủ. Sự cam kết quả lãnh đạo các cáp là một trong các

điều kiện cần để thực hiện cơ chế tự chủ, trong đó vai trò của lãnh đạo tỉnh là chỉ

đạo, giám sát việc thực hiện để đảm bảo đúng kế hoạch và mục tiêu đề ra. Qua

khả sát thì tại tất cả các tỉnh, lãnh đạo đều ủng hộ thực hiện cơ chế tự chủ. Tuy

163

nhiên, từ cam kết đến các hành động cụ thể thì vẫn còn rất xa nhau, điều này thể

hiện ở kết quả thực hiện cơ chế tự chủ đối với chính quyền cấp xã, mà rõ nhất là

ở cấc tỉnh dường như chỉ dừng lại ở việc triển khai cơ chế tự chủ đến các cơ quan

chuyên môn cấp tỉnh và huyện. Tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ cho chính

quyền cấp xã trong thời gian tới cần có sự cam kết thực chất, mạnh mẽ từ lãnh

đạo tỉnh cùng với lãnh đạo các huyện và Chủ tịch UBND xã. Để làm được điều

đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò chỉ đạo, giám sát của lãnh đạo tỉnh.

* Thiết lập cơ chế phối hợp tốt giữa các cơ quan có liên quan: Quá trình

thực hiện cơ chế tự chủ của cơ quan hành chính có liên quan đến các cơ quan

Nội vụ, Tài chính và Kho bạc nhà nước các cấp. Sự phối hợp tích cực của các cơ

quan này có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng thực hiện cơ chế tự chủ cũng

như kết quả thực hiện. Triển khai thực hiện cơ chế tự chủ đối với chính quền cấp

xã rất cần sự phối hợp, hỗ trợ của cơ quan Nội vụ trong việc xác định số biên chế

hợp lý, cơ quan Tài chính trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và xác

định mức kinh phí giao tự chủ, Kho bạc nhà nước trong việc đảm bảo nguồn

kinh phí cho chính quyền cấp xã thực hiện cơ chế tự chủ. Nếu một trong các cơ

quan đó phối hợp không tốt với chính quyền cấp xã trong việc thực hiện cải cách

thì việc thực hiện cơ chế tự chủ sẽ gặp khó khăn. Do đó rất cần thiết phải thiết

lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đó để đảm bảo trách nhiệm

cao của các cơ quan trong hỗ trợ chính quyền cấp xã thực hiện tự chủ, cơ chế này

có thể thiết lập bằng cách đưa người đứng đầu các cơ quan này cũng với chuyên

viên được phân công phụ trách chính vào là thành viên Ban Chỉ đạo cải cách

hành chính của tỉnh, của huyện. Thông qua hoạt động của Ban Chỉ đạo cải cách

hành chính để thông tin đến thủ trưởng các cơ quan này những vấn đề mà chính

quyền cấp xã gặp vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.Từ đó kịp thời

chỉ đạo các cơ quan này cần có sự phối hợp tốt hơn để tăng cường thực hiện cơ

chế tự chủ tại chính quyền cấp xã.

* Thực hiện đồng bộ, có chất lượng các chính sách cải cách

Uỷ ban nhân dân tỉnh cần có những biện pháp mạnh mẽ thúc đẩy tiến trình

164

cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước. Quy định rõ

việc phân cấp quản lý đối với các cấp chính quyền thuộc tỉnh trong công tác quản

lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức, viên chức theo hướng tăng thêm trách

nhiệm, quyền hạn cho thủ trưởng các sở, ban, ngành trong công tác quản lý tổ

chức bộ máy, biên chế, tiền lương, cán bộ, công chức của chính quyền cấp xã.

Cải cách về bộ máy là cơ sở để tinh giảm bộ máy, xác định rõ chức năng

nhiệm vụ để tính toán công việc cụ thể, nhu cầu kinh phí cho việc hoàn thành

công việc đó, đồng thời xây dựng được khung đánh giá cán bộ công chức xã.

Từ đó đưa ra được chế độ thưởng, phạt phù hợp tạo động lực khuyến khích

công chức xã làm việc.

Cải cách về chế độ công chức xã nhằm để tuyển chọn đội ngũ công chức

xã có trình độ, năng lực, được đào tạo cơ bản, chuyên môn sâu, có khả năng

giải quyết công việc với chất lượng, hiệu quả cao, tạo cơ sở để tinh giảm biên

chế, giảm bớt gánh nặng lương và tiến tới có thể trả lương theo năng lực công

tác để tạo động lực vật chất khuyến khích những người tài làm việc và đóng

góp cho bộ máy chính quyền cấp xã.

Cải tiến quy trình làm việc để rút ngắn thời gian giải quyết một công việc,

nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính cung cấp cho người dânTtừ đó, tiết kiệm

thời gian, con người và chi phí. Cải tiến quy trình làm việc theo hướng xác định

những quy trình giải quyết công việc chuẩn, làm cơ sở để tổng kết, đánh giá và

tiếp tục cải tiến trong những năm tiếp theo. Quy trình giải quyết công việc chuẩn

là cơ sở để đánh giá công chức xã trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, từ đó

có chế độ thưởng, phạt hợp lý.

Với những lý do đó, nghiên cứu sinh kiến nghị các cấp lãnh đạo địa

phương cần tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện đồng bộ các chính sách cải

cách với tinh thần trách nhiệm và mục tiêu chất lượng cao nhất. Xây dựng quy

chế tuyển dụng công chức; triển khai thực hiện tốt cơ chế “một cửa”; làm tốt

việc quyết định chức năng, nhiệm vụ của các xã. Cơ chế tự chủ sẽ phát huy tác

dụng tốt nhất trong điều kiện các chính sách cải cách khác đuợc thực hiện đồng

165

bộ, kịp thời.

Cải cách hành chính nói chung là một quá trình đổi mới triệt để những

cái cũ, đã tồn tại từ nhiều năm qua và thể hiện sự trì trệ, đó là một quá trình

phức tạp, diễn ra ở nhiều khâu, nhiều công đoạn, cải cách tài chính công và

thực hiện chế độ tự chủ cũng vậy. Thực hiện cơ chế tự chủ liên quan đến việc

cải cách cả bộ máy, con người và kinh phí, ảnh hưởng trực tiếp lợi ích của đội

ngũ CBCC cũng như lãnh đạo các xã. Quy trình thực hiện cơ chế tự chủ phải

trải qua nhiều bước mà chất lượng của việc thực hiện mỗi bước ảnh hưởng rất

lớn tới kết quả cuối cùng với việc thực hiện cơ chế tự chủ.

Có thể thấy rằng việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về

kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyề cấp xã là hướng đi phù hợp với

yêu cầu và tiến độ của chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với

các cơ quan hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Đây chính là việc

mở rộng quyền tự chủ trong quản lý sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành

chính đối với tất cả các cơ quan hành chính nhà nước, đẩy mạnh việc thực hiện

chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010.

Nhưng đến năm 2017, nhiều tỉnh thành trong khu vực ĐBSH chưa có văn bản

cụ thể vẫn chưa triển khai thực hiện Nghị định số 130/NĐ-CP và Nghị định

117/NĐ-CP cho xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Đề nghị từ năm 2019 các

tỉnh nhanh chóng triển khai thực hiện Nghị định số 130/NĐ-CP và Nghị định

117/NĐ-CP đối với các đơn vị cấp xã trên địa bàn. Trong công tác tổ chức triển

khai, nhiệm vụ của chính quyền cấp huyện và cấp xã đòi hỏi phải làm tốt các

nội dung sau:

* Ban hành các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ đánh giá kết quả thực

hiện nhiệm vụ được giao của UBND cấp xã dựa trên một số nội dung sau:

- Khối lượng, chất lượng làm việc của từng xã cụ thể trong thực hiện các

nghiệp vụ tài chính, thuế, tài vụ và quản lý quỹ ngân sách, quản lý quỹ tiền mặt,

quản lý quỹ vật tư – tài sản và các hoạt động kinh tế dịch vụ.

166

- Thời gian giải quyết công việc về công tác điều hành ngân sách, công

tác kế hoạch và quyết toán ngân sách cấp xã.

- Tình hình chấp hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính được

đánh giá qua việc chấp hành chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp

xã theo quy định; việc thực hiện các chế độ của địa phương về định mức chi

hiện hành của cấp xã.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Trong điều kiện tồn tại và hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường đòi

hỏi cơ chế quản lý tài chính áp dụng đối với bất kỳ một lĩnh vực nào đó của khu

vực công đều phải có tính linh hoạt. Điều đó càng đúng hơn trong hoàn cảnh

nước ta- khi các điều kiện về kinh tế, xã hội chưa có độ ổn định; kéo theo đó là

sự lạc hậu của các chính sách chế độ rất dễ và rất nhanh bị lộ diện. Mặt khác,

giữa các yêu cầu của chính sách với những gì diễn ra trong đời sống xã hội

cũng luôn có một khoảng cách nhất định. Vì vậy, đánh giá chính sách và tìm

các biện pháp hoàn thiện cho các chính sách phù hợp hơn với hoạt động thực

tiễn luôn là vấn đề đòi hỏi chính phủ phải quan tâm.

Các giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ KPQLHC theo hướng quản lý

theo kết quả đầu ra nhằm tạo hành lang pháp lý, để các xã sẽ tự điều chỉnh, thay

đổi phương thức quản lý. Việc thay đổi cơ chế phân bổ định mức chi QLHC sẽ

làm tăng chất lượng, hiệu quả sử dụng ngân sách. Trên bình diện xã hội, giải

pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ KPQLHC sẽ làm cho nguồn lực tài chính công

được phân bổ công khai, minh bạch hướng tới quản lý xã hội của chính quyền

cấp xã được tốt hơn. Điều đó sẽ tạo ra sự công bằng trong tiếp cận dịch vụ công

của người dân một cách tốt hơn.

167

KẾT LUẬN

Cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính (KPQLHC) đối với chính

quyền cấp xã đã được đề cập đến tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày

17/10/2005 và được khẳng định rõ hơn trong Nghị định số 117/2013/NĐ – CP

ngày 7/10/2013 của Chính phủ. Thực tế, năm 2014 các tỉnh ĐBSH chưa triển

khai cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã. Năm 2017, bắt đầu

thời kỳ ổn định ngân sách mới theo luật NSNN năm 2015, theo đó, các tỉnh

ĐBSH đã triển khai cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã, nhưng

kết quả của cơ chế này chưa thực sự rõ nét, việc áp dụng cơ chế này tại mỗi

tỉnh ở nhiều mức độ khác nhau và chưa thực sự hiệu quả. Do vậy, việc tiếp tục

triển khai cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã có thực sự cải

thiện, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý tài chính - ngân sách xã, đảm bảo

tính minh bạch và hiệu suất của bộ máy chính quyền cấp xã hay không vẫn còn

là vấn đề cần nghiên cứu. Bằng việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu, tác

giả đã tập trung giải quyết các vấn đề sau:

1. Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về chính quyền cấp xã trong hệ

thống bộ máy cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam; ngân sách xã, quản lý

ngân sách xã.

2. Xây dựng khái niệm, cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp

xã. Phân tích từng nội dung cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã.

3. Đưa ra được 03 tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế tự chủ

KPQLHC đối với chính quyền cấp xã.

4. Xác định được 02 nhóm nhân tố ảnh hưởng tới cơ chế tự chủ

5. Phân tích thực trạng nội dung cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính

quyền cấp xã tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng; qua đó đánh giá mức độ hoàn

thiện của cơ chế, kết quả đạt được, một số hạn chế và nguyên nhân hạn chế của

cơ chế tự chủ .

168

6. Trên cơ sở những phân tích về hạn chế và nguyên nhân hạn chế NCS

đã đưa ra định hướng hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã và cơ chế tự chủ

tài chính đối với chính quyền cấp xã. Luận án đề xuất 03 nhóm giải pháp hoàn

thiện cơ chế tự chủ KPQLHC trong thời gian tới; tiếp tục triển khai cơ chế tự

chủ nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý tài chính - ngân sách xã, hướng việc

thực hiện quản lý ngân sách xã theo kết quả đầu ra.

Mặc dù đã hết sức cố gắng, song do các yếu tố khách quan về số liệu rất

khó tổng hợp và chủ quan về kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn của NCS còn

hạn chế, NCS mong nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các

thầy, cô giáo và những người có kinh nghiệm quan tâm đến đề tài này để công

trình được hoàn thiện hơn.

169

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA NCS

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

I. Bài báo khoa học

1. Nguyễn Thị Thu Hương (2017), “Áp dụng hệ thống quản lý ngân sách theo kết quả trong quản lý ngân sách cấp xã”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 260- tháng 9 năm 2017.

2. Nguyễn Thị Thu Hương (2016), “Về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 250- tháng 11 năm 2016.

3. Nguyễn Thị Thu Hương (2019), “Về cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 285 - tháng 10 năm 2019.

II. Đề tài khoa học

1. “Cơ chế khoán kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp

xã” (2018) – Đã nghiệm thu, Chủ nhiệm đề tài.

170

TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu Tiếng Việt

1. Huy Anh, “Sửa đổi luật ngân sách nhà nước: Xóa tâm lý ỷ lại ngân sách

nhà nước”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp,truy cập ngày 1/11/2014

tại địa chỉ: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/thong-tin-

aspx?ItemID=5557.

2. Nguyễn Hoàng Anh (2012), “Nghiên cứu chế định chính quyền địa

phương và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”, Kỷ yếu Hội

thảo do Bộ Tư pháp và UNDP tổ chức, Hải Phòng.

3. Lê Văn Ái (2011), “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp

công lập”, Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán, số 11.

4. Bộ Tài chính (2012), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị định 130/2005/NĐ-

CP của Bộ Tài chính tại Hội nghị Tổng kết tháng 4/2012.

5. Báo cáo chung của Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới, Việt

Nam quản lý chi tiêu công để tăng trưởng và giảm nghèo – đánh giá tổng

hợp chi tiêu công, đấu thầu mua sắm công và trách nhiệm tài chính

2004, tập 1: các vấn về liên ngành (2005) NXB Tài chính.

6. Báo cáo Phát triển thế giới 2004, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Bộ Tài chính (2014), Báo cáo tổng kết thi hành Luật ngân sách nhà nước.

8. Báo cáo của 10 tỉnh thành phố về tình hình thu chi NSNN xã và tình

hình thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị định 130 và Nghị định 117.

9. Chế độ kế toán ngân sách và tài chính xã, 2008- Nhà xuất bản Tài chính.

10. Chính phủ (2001) Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9

năm 2001 của Thủ Chính Phủ về Chương trình Tổng thể cải cách hành

chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010.

11. Chính phủ (2005), Nghị định 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm

2005 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh

phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước.

171

12. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30C/NQ-CP của Chính Phủ ngày

08/11/2011 về việc ban hành tổng thể chương trình cải cách hành chính

Nhà nước giai đoạn 2011 – 2020.

13. Chính phủ (2013), Nghị định 117/2013/NĐ-CP bổ sung một số điều của

Nghị định 130 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế

và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước.

14. Chương trình hành động của ngành Tài chính thực hiện Nghị quyết Đại

hội Đảng lần thứ XVI (2010), Ban cán sự Đảng bộ Tài chính.

15. Chính phủ (2013), Báo cáo số 352/BC-CP ngày 18/9/2013 của Chính

phủ đề xuất về Chương “Chính quyền địa phương” trong Dự thảo sửa

đổi Hiến pháp năm 1992.

16. Vũ Sỹ Cường (2012), “Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt

Nam và định hướng đổi mới”, Tạp chí quản lý nhà nước (6).

17. Dự án SPAR_CB (2006), “Tài liệu tập huấn triển khai thực hiện chế độ

tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành

chính”, Cao Bằng.

18. Đặng Văn Du, Bùi Tiến Hanh (2010), Giáo trình quản lý chi ngân sách

nhà nước, Học viện Tài chính, Nhà xuất bản Tài chính

19. Nguyễn Đăng Dung (1997), Tổ chức Chính quyền nhà nước địa phương,

lịch sử và hiện tại, Nhà xuất bản Đồng Nai.

20. Đặng Đức Đạm (2006), “Dịch vụ công và yêu cầu đổi mới”, Tạp chí

Quản lý kinh tế số 6 (tháng 1+2/2006).Học viện Hành chính (2011),

21. Phạm Ngọc Dũng, Hoàng Thị Thúy Nguyệt (2008), Quản lý ngân sách

nhà nước theo kết quả đầu ra và khả năng ứng dụng ở Việt Nam, NXB

Lao động – Xã hội, Hà Nội.

22. Đàm Bích Hiên (2005), “Bàn về phân cấp quản lý giữa các cấp chính

quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (9).

23. Nguyễn Thị Hải Hà (2013), "Nhận diện một số bất cập trong phân cấp

quản lý ngân sách nhà nước", Tạp chí Tài chính, số 5.

172

24. Nguyễn Hồng Hà (2013), Đổi mới phương thức cấp phát ngân sách gắn

với kết quả đầu ra, Tạp chí Tài chính, số 10 – 2013.

25. Trần Thị Lan Hương (2015), Kinh nghiệm quản lý ngân sách của một số

nước, tạp chí tài chính, số 11, kỳ 1, 2015.

26. Harold Koontz, Cyric O’Donnell, Heinz Weihrich (1994), Những vấn đề

cốt yếu của quản lý, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

27. PGS.TS. Lê Chi Mai (2006), Phân cấp ngân sách cho chính quyền địa

phương thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia.

28. PGS.TS. Lê Chi Mai (2011), Quản lý chi tiêu công, NXB Chính Trị

Quốc Gia, 2011.

29. Dương Thị Bình Minh (2005), Quản lý chi tiêu công ở Việt Nam- Thực

trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Tài chính.

30. Phong Lan, “Cầu thị xem xét “xé rào” đầu tư”, Việt báo, truy cập ngày

14/11/2014 tại địa chỉ http://vietbao.vn/Kinh-te/Cau-thi-xem-xet-xe-rao-

dau-tu/10912242/87.

31. Quốc hội (2013), Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí số

44/2013/QH13

32. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính quyền Địa phương số 77/2015/QH 13.

33. Quốc hội (2002), Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002

34. Quốc hội (2015), Luật NSNN số 83/2015/QH 13 được Quốc hội thông

qua ngày 25/6/2015.

35. Hoàng Thị Ngân (2009), “Đẩy mạnh công tác phân cấp trung ương và

địa phương”,Tạp chí nghiên cứu lập pháp (2+3).

36. Ngân hàng thế giới (2003), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị định

130/2005/NĐ-CP của Bộ Tài chính tại Hội nghị Tổng kết tháng 4/2012.

37. Ngân hàng Thế giới (2005), Mười bước tiến tới hệ thống giám sát và

đánh giá dựa trên kết quả, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

38. Ngân hàng phát triển Châu Á (2004), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

173

39. Ngân hàng thế giới, Quản trị nhà nước ở Việt Nam, địa chỉ websites:

http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/TOPICS/EXTPUBLIC

SECTORANDGOVERNANCE/0,,contentMDK:23374138~pagePK:148

956~piPK:216618~theSitePK:286305,00.html

40. Nghị quyết của HĐND của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về

phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp CQĐP trong

giai đoạn 2011 -2015.

41. Nghị quyết của HĐND của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về

phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp CQĐP trong

giai đoạn 2017 -2020.

42. Nguyễn Xuân Thu, Tăng cường quản lý chi ngân sách theo kết quả đầu

ra ở Việt Nam, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, 2010.

43. Nguyễn Xuân Thu (2014), "Phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách ở Việt

Nam", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 226.

44. Sử Đình Thành (2004), Vận Dụng Phương Thức Lập Ngân Sách Theo

Kết Quả Đầu Ra Trong Quản Lý Chi Tiêu Công Của Việt Nam, NXB tài

chính, 2004.

45. Nguyễn Thị Thanh Nhàn (2012), Cơ sở lí luận và thực tiễn xây dựng mô

hình tổ chức chính quyền nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến

sĩ Luật học

46. Vũ Như Thăng, các cộng sự (2011), Báo cáo chuyên đề nghiên cứu đổi

mới tài chính công ở Việt Nam: thực trạng và định hướng đến năm 2020,

Dự án Tăng cường năng lực quyết định và giám sát ngân sách của các cơ

quan dân cử Việt Nam của Uỷ ban tài chính và ngân sách của Quốc hội.

47. Vũ Như Thăng, các cộng sự (2012), Báo cáo chuyên đề nghiên cứu phân

cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam: thực trạng và định hướng

đổi mới, Dự án Tăng cường năng lực quyết định và giám sát ngân sách

của các cơ quan dân cử Việt Nam của UB tài chính và ngân sách của

Quốc hội.

174

48. Thái Xuân Sang, “So sánh mô hình quản lý công mới (hành chính phát

triển) với mô hình hành chính truyền thống”,

http://www.truongchinhtrina.gov.vn/ArticleDetail.aspx.

49. Trường Đại học Kinh tế quốc dân hà Nội (2010), Giáo trình Chính sách

kinh tế, NXB khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

50. Trần Thị Diệu Oanh (2012), Phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của

chính quyền địa phương trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học.

51. UNDP (2009), Cải cách nền hành chính Việt Nam: thực trạng và giải

pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Viện ngôn ngữ học (2010) ‘ Từ điển Tiếng Việt’, NXB Phương Đông,

Tháng 01/2010.

53. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2014), Đề tài NCKH cấp bộ

“ Phân công quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa

phương tại Việt Nam – Lịch sử, lý luận và thực tiễn, Hà Nội.

54. Văn bản quy định hiện hành về cơ chế, chính sách đối với ngân sách cấp

xã đang còn hiệu lực

55. www.caicachhanhchinh.gov.vn.

56. www.vietnamnet.vn.

* Tài liệu nước ngoài

57. Arikan, Gulsun (2004), "Fiscal Decentralization: A Remedy for

Corruption?" International Tax and Public Finance, Vol. 11, Issue 2,

Pages 175-195

58. Adam, A., Delis, M. D., and Kammas, P. (2008), Fiscal

decentralization and public sector efficiency: Evidence from OECD

countries, CESifo Working Paper No 2364.

https://ideas.repec.org/p/ces/ceswps/_2364.html

59. Bjornestad, Liv (2009), Fiscal Decentralization, Fiscal Incentives, and

Pro-Poor Outcomes: Evidence from Viet Nam, ADB Economics

Working Paper Series No. 168

175

60. Elhiraika, Adam B. (2007), Fiscal Decentralization and Public Service

Delivery in South Africa, ATPC (African Trade Policy Centre –

Economic Commission for Africa) Work in Progress No. 58

61. Fisman, R. and R. Gatti. (2002a),"Decentralization and Corruption:

Evidence across Countries", Journal of Public Economics, Vol. 83, Issue 3,

Pages 325–345.

62. Fisman, R. and R. Gatti (2002b), "Decentraliation and Corruption:

Evidence from US Federal Transfer Programs". Public Choice, Vol 113,

No1/2, pp 25-35.

63. Greco, Luciano G. (2003), Oates’ decentralization theorem and public

governance.

http://www.siepweb.it/siep/images/joomd/1399112053236.pdf

64. Gurgur, T. and A. Shah (2005), Localization and corruption: panacea

or pandora’s box? World Bank Policy Research Working Paper Series,

No. 3486.

65. Inman, Robert. P and Rubinfeld, Daniel L (1997), "Rethinking

Federalism", Journal Economic Perpectives, Volume 11 (4), page 43-64.

66. Ivanyna, M. and A. Shah (2010), Citizen-Centric Governance

Indicators: Measuring and Monitoring Governance by Listening to the

People and not the Interest Groups, Policy Research Working Paper

Series, No. 5181. Washington, DC: World Bank.

67. Martinez-Vazquez, J. and M. Yao. (2009), Fiscal Decentralization and

Public Sector Employment, International Studies Program Working

Paper 09-03, Andrew Young School of Policy Studies, Georgia State

University.

68. Mello, L. (2011), Does Fiscal Decentralization Strengthen Social

Capital? Cross-Country Evidence and the Experience of Brazil and

Indonesia. Environment & Planning C: Government & Policy.

176

69. Zhang, Zhihua and Jorge Martinez-Vazquez (2006), The System of

Equalization Transfers in China, International Studies Program, Georgia

State University, Working Paper 03-12, July.

70. Chen, Yang and Shiau (2006), “The application of balanced scorecard in

the performance evaluation of higher education”, The TMQ magazine,

Vol.18, Iss:2, pp.190-205.

71. Christopher Hood (1991), “A public management for all seasons”, Journal

of Public Administration, Volume 69, Issue 1, March, pp. 3-19.

177

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

(Qui chế chi tiêu nội bộ cho các xã do tác giả đề xuất, xây dựng)

CHƯƠNG 1

NHỮNG QUI ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Mục đích, nguyên tắc và căn cứ để xây dựng quy chế

1. Mục đích

- Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Quản lý, sử dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả; thực hiện công khai, dân chủ

và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cán bộ, công chức và người lao động tại xã.

- Là căn cứ để quản lý, thanh toán các khoản chi tiêu trong xã, thực hiện

kiểm soát của Kho bạc Nhà nước, cơ quan tài chính và các cơ quan thanh tra,

kiểm toán theo quy định;

- Sử dụng tài sản công tại xã đúng mục đích, có hiệu quả;

2. Nguyên tắc xây dựng quy chế

- Không vượt quá phần kinh phí quản lý hành chính của các xã thực hiện

chế độ tự chủ được xác định và giao hàng năm;

- Không được vượt quá chế độ chi hiện hành do cơ quan có thầm quyền

quy định;

- Phù hợp với hoạt động đặc thù của xã;

- Phải đảm bảo cho chính quyền cấp xã và cán bộ, công chức xã và cán

bộ không chuyên trách cấp xã hoàn thành nhiệm vụ được giao;

- Phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho cán bộ công chức xã theo qui

định của pháp luật;

- Mọi việc chi tiêu phải đảm bảo có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp, hợp lệ;

- Phải được thảo luận rộng rãi, dân chủ, công khai trong toàn xã;

- Phải có ý kiến tham gia của các tổ chức đoàn thể trong xã bằng văn bản.

3. Căn cứ để xây dựng quy chế

- Nghị định 130 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên

chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước ngày 17

tháng 10 năm 2005 của Chính phủ.

178

- Nghị định 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 bổ sung một số điều của

Nghị định 130/2005/NĐ

- Thông tư 71 ngày 30/5/2014 quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước.

- Thông tư 344/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 Quy định về qlý NSX và

các hoạt động tài chính khác của xã

- NQ ………..HĐND tỉnh ……… quy định phân cấp về nguồn thu,

nhiệm vụ chi, tỷ lệ % phân chia giữa các cấp ngân sách.

- NQ …………HĐND về hệ thống định mức phân bổ dự toán chi thường

xuyên NSĐP năm 2017 (2017 - 2020)

- NQ …….. ban hành một số chế độ tiêu chuẩn định mức trong chi tiêu,

quản lý sử dụng tài sản công đối với các cơ quan nhà nước, đoàn thể, các đơn vị

sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh ……….

- Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tài chính hiện hành của nhà nước .

- Căn cứ tình hình thực hiện qua các năm về chi tiêu và sử dụng tài sản

tại xã;

- Căn cứ vào chương trình, kế hoạch các nhiệm vụ được giao trong năm

của xã

- Dự toán chi ngân sách xã được giao thực hiện chế độ tự chủ.

Điều 2. Đối tượng thực hiện: là toàn thể cán bộ công chức và cán bộ

không chuyên trách trong toàn xã

CHƯƠNG II

CÁC ĐIỀU KHOẢN QUY ĐỊNH CỤ THỂ

A. Nội dung thu

Điều 3: Khai thác và quản lý nguồn thu theo qui định:

- Các khoản xã được hưởng 100% theo qui định

- Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % theo qui định

- Thu bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên

- Viện trợ hoàn lại trực tiếp cho xã (nếu có)

179

- Thu khác

Các khoản thu nói trên được giao cho cán bộ thu, ủy nhiệm thu và cán bộ

văn phòng trực tiếp thu. Được kế toán theo dõi và hạch toán theo qui định của

luật NSNN, qui định về nguồn kinh phí thực hiện cơ chế khoán.

Điều 4: Nguồn kinh phí quản lý hành chính giao để thực hiện chế độ

tự chủ:

Kinh phí quản lý hành chính giao cho cơ quan thực hiện chế độ tự chủ từ

các nguồn sau:

a) Ngân sách nhà nước cấp.

b) Các khoản phí, được để lại theo chế độ quy định.

c) Các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

B. Nội dung chi kinh phí giao thực hiện chế độ tự chủ

- Thanh toán cá nhân: lư¬ng, BHXH, BHYT..và các khoản phụ cấp

- Chi hàng hóa dịch vụ công cộng phục vụ công tác chuyên môn: Thanh

toán dịch vụ công cộng, chi phí thuê mướn; Chi vật tư văn phòng, thông tin

tuyên truyền liên lạc,hội nghị, tiếp khách. Mua s¾m trang thiÕt bÞ, söa ch÷a

thường xuyên TSCĐ...

- Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn đặc thù phát sinh hàng năm theo

chức năng nhiệm vụ được cơ quan có thẩm quyền phân bổ giao dự toán: Hàng vật

tư kỹ thuật thiết bị chuyên dùng, tài liệu chế độ dùng cho công tác chuyên môn....

- Sử dụng kinh phí tiết kiệm

Điều 5: Chi thanh toán cá nhân

5.1- Chi tiền lương:

Căn cứ vào số biên được giao thực hiện khoán theo quyết định của cơ

quan có thẩm quuyền theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của

Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ,

công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã và Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 8/4/2013 của Chính phủ về sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92

180

Tiền lương, tiền công của cán bộ công chức xã được hưởng theo tiền

lương ngạch bậc do nhà nước qui định (không nên đưa mức lương cụ thể để khi

có thay đổi không phải chỉnh sửa QCCTNB)

Tiền lương Mức lương Hệ số lương đang cơ bản = cơ sở do x được hưởng được hưởng nhà nước quy định

- Thời gian trả lương đối với CBVC, Lao động hợp đồng trả vào ngày ....

đến ngày .......hàng tháng qua thẻ ATM của Ngân hàng ........... Chi nhánh huyện

.............

Lưu ý: Cán bộ nữ khi mang thai phải làm đơn nghỉ thai sản trước thời điểm dự

kiến sinh là 1 tháng nộp cho kế toán xã để làm thủ tục cắt lương hưởng BHXH.

5.2. Tiền công đối với lao động theo vụ việc hoặc hợp đồng khoán

chuyên môn

Xã sẽ thanh toán theo hợp đồng cụ thể tùy theo tính chất công việc, trình

độ chuyên môn

5.3. Chi các khoản phụ cấp

+ Phụ cấp chức vụ: Theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày

22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách

đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã Cán bộ cấp xã quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5

Nghị định này được hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo so với mức lương tối

thiểu chung như sau:

a) Bí thư đảng ủy: 0,30;

b) Phó Bí thư đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban

nhân dân: 0,25;

c) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân,

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân: 0,20;

d) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên

hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh: 0,15.

181

+ Phụ cấp thâm niên vượt khung

Cán bộ cấp xã quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Nghị định 92 và công

chức cấp xã quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 Nghị định 92 được thực hiện

chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị

định số 204/2004/NĐ-CP.

Nguyên tắc thực hiện

- Phụ cấp thâm niên được dùng để tính đóng, hưởng chế độ bảo hiểm

+ Phụ cấp theo loại xã

1. Cán bộ cấp xã quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định 92 được hưởng

phụ cấp theo loại đơn vị hành chính cấp xã tính theo % trên mức lương hiện

hưởng, cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung và hệ số

chênh lệch bảo lưu (nếu có); cụ thể như sau:

a) Cán bộ cấp xã loại 1 hưởng mức phụ cấp 10%;

b) Cán bộ cấp xã loại 2 hưởng mức phụ cấp 5%;

2. Phụ cấp theo loại đơn vị hành chính cấp xã nêu tại khoản 1 Điều này

không dùng để tính đóng, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

+ Phụ cấp kiêm nhiệm chức danh

a. Cán bộ, công chức cấp xã kiêm nhiệm chức danh mà giảm được 01

người trong số lượng quy định tối đa tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 92, kể từ

ngày được cấp có thẩm quyền quyết định việc kiêm nhiệm thì được hưởng phụ

cấp kiêm nhiệm bằng 20% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh

đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung và hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có).

Trường hợp kiêm nhiệm nhiều chức danh (kể cả trường hợp Bí thư cấp ủy đồng

thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân), cũng chỉ được hưởng một mức phụ cấp kiêm

nhiệm bằng 20%.

b. Phụ cấp kiêm nhiệm chức danh không dùng để tính đóng, hưởng chế

độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

182

+Phụ cấp trách nhiệm:

Căn cứ Luật kế toán số 88/2016; Thông tư liên tịch số 163/2013/TTLT-

BTC-BNV ngày 15 tháng 11 năm 2013 quy định về việc xếp phụ cấp trách

nhiệm công việc kế toán trưởng, phụ trách kế toán trong các đơn vị kế toán

thuộc lĩnh vực kế toán nhà nước.

Hệ số phụ cấp trách nhiệm cho một số công vệc cụ thể:

- Kế toán : 0.1

- Thủ quỹ: 0.1

Phụ cấp trách nhiệm được chi trả cùng kỳ lương hàng tháng và không

dùng để tính đóng, hưởng chế độ Bảo hiểm. Khi không làm công việc có quy

định hưởng phụ cấp trách nhiệm từ 01 tháng trở lên thì không được hưởng phụ

cấp trách nhiệm công việc.

+ Phụ cấp thêm giờ :

* Thời gian làm thêm giờ:

Thực hiện theo quy định tại nghị định số 109/2002/NĐ-CP ngày

27/12/2002 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số

195/NĐ-CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của Bộ Luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.

Thời gian làm thêm giờ không vượt quá 50% số giờ làm việc theo quy

định trong mỗi ngày đối với từng loại công việc. Trong trường hợp quy định

thời giờ làm việc theo tuần, ngoài thời giờ làm việc bình thường thì thời giờ làm

thêm trong một ngày làm việc không vượt quá 04 giờ, ngày nghỉ làm thêm

không quá 08 giờ. Tổng số thời gian làm thêm trong một năm không vượt quá

200 giờ, trừ các trường hợp đặc biệt được quy định tại khoản 3 điều 1 thông tư

109/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002.

* Chế độ trả tiền làm thêm giờ:

Mức chi theo thông tư liên tịch số 08/2005/TTLT/BNV-BTC ngày

5/1/2005:

183

Tiền làm thêm giờ được tính theo công thức sau:

150% Tiền Số giờ hoặc Tiền lương thực tế = x 200% x làm thêm lương giờ làm hoặc giờ thêm 300%

+ Mức 150% áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày thường

+ Mức 200% áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày nghỉ hàng tuần

+ Mức 300% áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày lễ, tết

Chú ý:- Không thanh toán làm thêm ngoài giờ với những thời gian làm

thêm các công việc thường xuyên để hoàn thành nhiệm vụ được giao,

5.4. Chi tiền thưởng:

Thực hiện theo Nghị Định 91/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/7/2017

(khi văn bản thay đổi phải cập nhật) cụ thể như sau: (1,0% (1,5%) chi thường xuyên)

- Cách tính tiền thưởng

+ Tiền thưởng cho tập thể, cá nhân được khen thưởng được tính trên cơ

sở mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định đang có hiệu lực vào thời

điểm ban hành quyết định công nhận các danh hiệu thi đua, danh hiệu vinh dự

Nhà nước hoặc quyết định khen thưởng.

+ Tiền thưởng sau khi nhân với hệ số mức lương tối thiểu chung được

làm tròn số lên hàng chục ngàn đồng tiền Việt Nam.

- Đối với cá nhân:

+ Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” được thưởng 1,0 lần mức lương tối

thiểu chung;

+ Danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” được thưởng 0,3

lần mức lương tối thiểu chung.

- Đối với tập thể:

+ Danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị quyết thắng” được

tặng Giấy chứng nhận và được thưởng 1,5 lần mức lương tối thiểu chung;

184

+ Danh hiệu “Tập thể Lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến” được tặng

Giấy chứng nhận và được thưởng 0,8 lần mức lương tối thiểu chung;

+ Danh hiệu “Gia đình văn hóa” được cấp giấy chứng nhận (trường hợp

tiêu biểu được kèm theo tiền thưởng 0,1 lần mức lương tối thiểu chung);

+ Danh hiệu “Thôn văn hoá”, “Làng văn hoá”, “Ấp văn hoá”, “Bản văn

hoá”, “Tổ dân phố văn hoá” được tặng giấy chứng nhận và được thưởng 1,5 lần

mức lương tối thiểu chung;

+ Danh hiệu “Cờ thi đua cấp Bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương” được

tặng cờ và được thưởng 8,0 lần mức lương tối thiểu chung.

5.5. Chi chế độ nghỉ phép hàng năm và thanh toán tiền tàu xe nghỉ

phép năm (nếu có)

a. Thời gian nghỉ phép

Căn cứ Điều 74 Bộ luật lao động quy định về thời gian nghỉ hàng năm

như sau:

- 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường

b. Thanh toán tiền nghỉ phép

- Xã chi trả tiền tàu xe nghỉ phép theo thông tư 141/2011/TT-BTC ngày

20/10/2011 quy định về chế độ thanh toán tiền nghỉ phép hàng năm; Thông tư

số 57/2014/TT-BTC ngày 6/5/2014 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung mốt số

điều của Thông tư 141/2011/TT-BTC quy định về chế độ thanh toán tiền nghỉ

phép hàng năm. (có hiệu lực từ ngày 1/7/2014)

- CBCC xã có đủ điều kiện được nghỉ phép hàng năm theo Luật lao động

quy định, được CTX đồng ý cấp giấy cho đi nghỉ phép để đi thăm người thân,

bao gồm: Cha, mẹ bên chồng bên vợ, chồng, vợ và con.

- Các bộ phận phải bố trí cho CBCC xã được nghỉ phép nhưng vẫn đảm

bảo việc hoàn thành nhiệm vụ. Nếu do yêu cầu công việc, xã không bố trí được

thời gian cho CBCC xã nghỉ phép; nghỉ phép không đủ số ngày mà được thoả

thuận giữa CTX và người lao động thì được thanh toán tiền bồi dưỡng. Mức bồi

dưỡng do CTX quyết định

185

- Người đi nghỉ phép được thanh toán tiền phụ cấp đi đường (tương

đương với mức phụ cấp lưu trú theo chế độ công tác phí hiện hành) mức thanh

toán theo giá ghi trên vé, hóa đơn (không bao gồm các chi phí dịch vụ khác)

- Điều kiện và tiêu chuẩn được chi tiền tàu xe nghỉ phép một lần/ năm

phải có đủ các điều kiện sau:

+ Nghỉ phép năm nào chỉ được thanh toán trong năm đó

+ Có giấy nghỉ phép năm do CTX cấp

+ Có giấy phép được cơ quan chính quyền nơi đến nghỉ phép xác nhận.

+ Có vé tàu xe hợp lệ (được thanh toán vé tàu hoả theo mức ghế ngồi, vé

ô tô theo mức vận tải hành khách Nhà nước)

- Cán bộ, công chức xã nếu đã được xã bố trí sắp xếp thời gian cho đi

nghỉ phép theo quy định nhưng không có nhu cầu nghỉ phép thì không được chi

trả tiền bồi dưỡng đối với những ngày chưa nghỉ phép.

- Theo Thông tư số 57, cán bộ, công chức có thể thỏa thuận với CTX để

nghỉ gộp tối đa ba năm một lần và chỉ được thanh toán một lần tiền nghỉ phép

năm thay vì nghỉ phép của năm nào chỉ được thanh toán trong năm đó như đã

quy định tại Thông tư 141.

5.6. Chi các khoản đóng góp:

Chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các khoản đóng góp của cán bộ công

chức và cán bộ không chuyên trách xã, thực hiện theo qui định hiện hành của

nhà nước

Điều 6. Chi hàng hóa dịch vụ công cộng phục vụ công tác chuyên môn

6.1. Chế độ công tác phí

Thực hiện theo Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28 tháng 4 năm

2017 của Bộ Tài chính quy định về chế độ hội nghị, công tác phí đối với cơ

quan Nhà nước và sự nghiệp công lập. QĐ riêng của từng tỉnh nếu có

a. Thanh toán tiền phương tiện công tác

- Trường hợp đi công tác phải tự túc phương tiện thì được thanh toán tiền

tự túc phương tiện. Cụ thể như sau:

186

+ Đi công tác ngoài tỉnh: Được thanh toán theo giá cước vận chuyển

hành khách thực tế.

+ Đi công tác trong tỉnh (chỉ áp dụng đối với trường hợp không khoán

công tác phí):

b. Phụ cấp lưu trú

- Mức phụ cấp lưu trú để trả cho người đi công tác ngoài tỉnh tối đa ….

- Trường hợp đi công tác trong tỉnh (chỉ áp dụng đối với trường hợp

không khoán công tác phí), CTX quyết định mức chi cụ thể cho phù hợp nhưng

tối đa …….. đồng/ngày/người.

- Chứng từ làm căn cứ thanh toán phụ cấp lưu trú: Đ10- Thực hiện theo

quy định tại Thông tư 40/2017 của Bộ Tài chính.

c. Thuê phòng nghỉ

Người được CTX cử đi công tác ngoài tỉnh mà phải thuê phòng nghỉ (đi

công tác hai ngày trở lên) được thanh toán tiền thuê phòng nghỉ theo một trong

hai hình thức như sau:

- Thanh toán theo hình thức khoán:

- Thanh toán theo hóa đơn thực tế

Trong trường hợp người đi công tác không nhận thanh toán theo hình

thức khoán nêu trên thì được thanh toán theo giá thuê phòng thực tế CTX duyệt

theo tiêu chuẩn thuê phòng như sau:

(Chứng từ để làm căn cứ thanh toán tiền thuê phòng nghỉ: Thực hiện

theo quy định tại Thông tư 40/2017 ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính).

d. Thanh toán khoán tiền công tác phí theo tháng

Cán bộ, công chức xã phải thường xuyên đi công tác lưu động trên 10

ngày/tháng thì tuỳ theo đối tượng, đặc điểm công tác và khả năng nguồn kinh

phí, CTX quy định mức khoán tiền công tác phí theo tháng cho người đi công

tác lưu động, theo mức sau:

- Đối với cán bộ, công chức cấp xã: Tối đa ……… đồng/người/tháng.

187

Các đối tượng nêu trên nếu được cấp có thẩm quyền cử đi công tác ngoài

tỉnh thì vẫn được hưởng chế độ khoán công tác phí và được thanh toán thêm

chế độ công tác phí quy định tại ………...(Mức khoán trên được quy định trong

quy chế chi tiêu nội bộ của xã).

e. Chứng từ thanh toán công tác phí: (Điêu 10- TT 40/2017)

6.2. Chi tiêu hội nghị và tiếp khách

- Chi hội nghị: Căn cứ vào chế độ quy định tại Thông tư số …..BTC ,

QĐ …..của UBND Tỉnh quy định về chế độ công tác phí, hội nghị phí đối với

các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp.

+ Mức chi hỗ trợ tiền ăn cho các đại biểu và khách mời không thuộc diện

huởng lương từ ngân sách nhà nước: Hội nghị do cấp xã tổ chức: Mức chi hỗ

trợ tiền ăn tối đa ………. đồng/ngày/người (chỉ thực hiện đối với hội nghị triển

khai công tác đầu năm, tổng kết cuối năm của Đảng uỷ, chính quyền, đoàn thể,

đại hội theo nhiệm kỳ của các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã

hội của cấp xã).

+ Chi giải khát giữa giờ: Tối đa ……… đồng/ngày/đại biểu.

+ Chi hỗ trợ kinh phí đi lại của đại biểu khách mời không hưởng lương từ

ngân sách nhà nước: Trường hợp được cơ quan tổ chức hội nghị bố trí phương

tiện đưa đón thì không được hỗ trợ kinh phí đi lại, trường hợp tự túc phương

tiện thì được hỗ trợ kinh phí (mức hỗ trợ áp dụng theo quy định tại ……… quy

định ban hành kèm theo QĐ …..).

+ Mức chi thanh toán thù lao báo cáo viên hội nghị, tiền thuê Giảng viên

các hội nghị tập huấn chuyên môn: Thực hiện theo mức chi quy định tại Thông

tư số 139/2010/TT - BTC ngày 21/9/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc

quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước.

- Chứng từ chi hội nghị: TT 40/2017

- Chi tiếp khách

Nguyên tắc chung: Các ban ngành đoàn thể của xã đón tiếp khách đến

làm việc tại xã, phải thực hiện tiết kiệm. Không phô trương, hình thức, thành

188

phần tham dự chỉ là những người trực tiếp có liên quan. Không được sử dụng

các loại rượu ngoại để chiêu đãi khách, không sử dụng kinh phí ngân sách nhà

nước để mua quà tặng đối với các đoàn khách đến làm việc (trừ các đối tượng

được phép chi tặng phẩm theo quy định). Tận dụng cơ sở vật chất sẵn có để

phục vụ và đón tiếp khách, trường hợp phải thuê dịch vụ bên ngoài thì phải thực

hiện theo mức chi quy định. Mọi khoản chi tiêu tiếp khách phải thực hiện đúng

chế độ, tiêu chuẩn, đối tượng quy định, đảm bảo công khai, minh bạch và phải

được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của xã. CTX và trưởng các ban ngành

đoàn thể phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra chi tiêu sai chế độ quy định.

- Việc tổ chức mời cơm khách do CTX, trưởng các đoàn thể quyết định

theo thẩm quyền trong phạm vi dự toán ngân sách được giao và được quy định

cụ thể trong quy chế chi tiêu nội bộ của xã đảm bảo công khai, minh bạch.

- Mức chi tiếp khách (được áp dụng cho cả người tiếp khách) tối đa:

……. đồng/1suất.

- Mức chi tiền nước uống đối với khách đến làm việc tại xã tối đa ………

đồng/người/ngày.

6.3. Văn phòng phẩm

- Căn cứ mức sử dụng văn phòng phẩm (bút viết, bút phủ, giấy phô tô,

mực in, mực máy photocoppy, cặp đựng tài liệu...) của từng chức danh công

chức hoặc của từng Phòng, ban.... chuyên môn để xác định mức khoán bằng

hiện vật cho phù hợp.

- Xã có thể xây dựng mức khoán sử dụng văn phòng phẩm cho từng ban

ngành đoàn thể trong xã, quy định thời gian sử dụng, cấp mới đối với một số

loại văn phòng phẩm.

6.4. Sử dụng điện thoại, internet trong xã

- Về sử dụng điện thoại tại xã:

Kế toán căn cứ thực tế cước phí sử dụng điện thoại tại xã trong 1-2 năm

trước để xây dựng mức khoán kinh phí thanh toán cước sử dụng điện thoại tại

xã cho phù hợp với từng đầu máy điện thoại hoặc theo từng bộ phận.

189

- Sử dụng Internet:

+ Định mức hợp đồng trọn gói tại xã …..đồng/tháng, thanh toán theo

hoá đơn Bưu chính viễn thông huyện.

+ Các ban ngành đoàn thể sử dụng mạng chung thanh toán thực tế theo

hợp đồng với công ty viễn thông ……. nhưng yêu cầu sử dụng mạng hiệu quả,

đúng mục đích.

+ Các chi phí sửa chữa, thay thế, bảo dưỡng theo hợp đồng, hoặc phát

sinh khác theo đề xuất.

Lưu ý: Các bộ phận trong xã có trách nhiệm quản lý chặt chẽ việc sử

dụng phương tiện thông tin liên lạc ở bộ phận mình, mọi cán bộ, nhân viên

không được sử dụng điện của xã vào việc riêng. Bộ phận nào sử dụng vượt

quá mức quy định, bộ phận đó phải nộp tiền vào quỹ của xã để bù đắp thanh

toán. Bộ phận Tài chính – Kế toán có trách nhiệm theo dõi thực hiện.

Trường hợp đặc biệt theo yêu cầu công việc bộ phận nào phải sử dụng điện

thoại quá mức quy định phục vụ cho công việc của xã có đơn đề nghị trình

CTX xem xét, quyết định.

6.5. Sử dụng điện, nước.

- Đối với việc sử dụng điện: Thực hiện Thông tư liên tịch

111/2009/BTC-BCT ngày 01/6/2009 hướng dẫn thực hiện tiết kiệm điện trong

các cơ quan Nhà nước. ĐV tăng cường biện pháp quản lý nhằm tiết kiệm điện

sử dụng. Xã xây dựng quy chế quy định việc sử dụng điều hòa nhiệt độ, điện

thắp sáng trong cơ quan, không được sử dụng điện cho nhu cầu cá nhân. Quy

định về quản lý, sử dụng điện của từng bộ phận; chế độ bảo quản, sử dụng đồ

điện của xã (có thể khoán)

- Đối với việc sử dụng nước: Xã xây dựng quy chế quy định về việc sử

dụng nước trong xã trên tinh thần tiết kiệm. (tùy theo xã)

6.6. Mua và sử dụng sách, báo, tạp chí (tùy theo xã)

Trong quy chế cần quy định cụ thể về mua và sử dụng sách, báo, tạp chí

phục vụ công tác chuyên môn cho chủ tịch xã và các bộ phận với tinh thần tiết

kiệm, chống lãng phí.

190

6.7. Chi tiền chè, nước

Chi tiền chè, nước uống khoán cho CBCC trong giờ làm việc tối đa

không quá ......../người/tháng.

Điều 7. Quản lý, mua sắm và sửa chữa tài sản công

1. Quản lý, sử dụng máy vi tính, máy photocopy và máy fax (các xã qui

định cụ thể tùy theo thực tế của xã)

- Đối với máy vi tính:…..

- Đối với máy photocopy, máy fax:…………

2. Việc mua sắm và sửa chữa tài sản nhà nước của xã

- Về nguyên tắc chỉ mua những tài sản phục vụ cho hoạt động của xã và

nhu cầu công tác chuyên môn đã có trong dự toán được duyệt. Thủ tục và trình

tự mua sắm thực hiện theo đúng quy định hiện hành.

- Về sửa chữa tài sản cố định: theo thực tế phát sinh. Dù sửa chữa thường

xuyên hay sửa chữa lớn đều phải tuân thủ đúng trình tự và thủ tục quy định:

+ Bộ phận sử dụng trực tiếp lập phiếu báo gửi kế toán xã, văn phòng để

xin sửa chữa

+ Kế toán xã hoặc CB văn phòng cùng cán bộ kỹ thuật kiểm tra và trình

CTX phê duyệt.

3. Kiểm kê, điều động, nhượng bán, thanh lý tài sản cố định của xã

thực hiện đúng theo quy định hiện hành của nhà nước.

Điều 8. Sử dụng kinh phí tiết kiệm

8.1. Bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức và người lao động.(nếu có)

Mức xác định thu nhập tăng thêm thực hiện theo quy định tại thông tư số

71/2014/TTLT-BTC-BNV, ngày 30/5/2014 qui định chế độ tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước .

- Cách xác định:

Trong phạm vi nguồn kinh phí tiết kiệm được, xã được áp dụng hệ số

tăng thêm quỹ tiền lương tối đa không quá 1,0 (một) lần so với tiền lương

191

ngạch, bậc, chức vụ do nhà nước quy định để trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ

công chức và cán bộ không chuyên trách của xã. Quỹ tiền lương để trả thu nhập

tăng thêm một năm được xác định theo công thức:

QTL = Lmin x K1 x K2 x L x 12 tháng

Trong đó:

QTL: Là Quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ của xã được phép trả tăng

thêm tối đa trong năm;

Lmin: Là mức lương cơ sở (đồng/tháng) hiện hành do nhà nước quy định;

K1: Là hệ số điều chỉnh tăng thêm thu nhập (tối đa không quá 1, 0 lần);

K2: Là hệ số lương ngạch, bậc, chức vụ bình quân của xã;

L: Là số biên chế được giao và số lao động hợp đồng không xác định thời

hạn đối với một số chức danh theo quy định của pháp luật và được cấp có thẩm

quyền phê duyệt.

-Trả thu nhập tăng thêm:

Trên cơ sở tổng nguồn kinh phí được phép chi, xã quyết định phương án chi

trả thu nhập tăng thêm cho từng cán bộ, công chức và cán bộ không chuyên trách

của xã theo nguyên tắc phải gắn với hiệu quả, kết quả công việc của từng người.

Người nào có thành tích đóng góp để tiết kiệm chi, có hiệu suất công tác cao thì

được trả thu nhập tăng thêm cao hơn; không thực hiện việc chia thu nhập tăng

thêm cào bằng bình quân hoặc chia theo hệ số lương. Mức chi trả cụ thể do Chủ

tịch xã quyết định sau khi thống nhất ý kiến với các tổ chức đoàn thể và toàn bộ

công chức xã. Cụ thể:

* Đối tượng thuộc diện xét

- Là cán bộ, công chức xã và cán bộ không chuyên trách cấp xã

* Đối tượng không thuộc diện xét:

+ Vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vi

phạm pháp luật công chức bị hội đồng kỷ luật xét từ khiển trách trở lên

+ Vi phạm các quy định của xã, có hệ thống, vi phạm tệ nạn xã hội.

192

+ Cán bộ công chức và cán bộ không chuyên trách cấp xã trong thời gian

nghỉ thai sản (6 thámg tính từ ngày nghỉ)

+ Cán bộ, công chức và cán bộ không chuyên trách cấp xã nghỉ ốm, việc

riêng có số ngày vượt hơn qui định của luật lao động

+ Người lao động hợp đồng có thời gian công tác chưa đủ 12 tháng tính

từ ngày hợp đồng (Không tính thời gian thử việc).

Điều kiện xét: Mọi cán bộ công chức và cán bộ không chuyên trách cấp

xã thuộc đối tượng xét phải hoàn thành nhiệm vụ được xếp loại.

- Căn cứ kết quả tài chính, số kinh phí tiết kiệm được, xã xác định tổng

mức chi trả thu nhập trong năm của xã như sau:

Nhằm đảm bảo thống nhất trong chi tiêu kinh phí hoạt động, đồng thời

đáp ứng tốt yêu cầu công việc của xã, thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu góp

phần tăng thu nhập cải thiện đời sống cho cán bộ công chức xã.

Phương án chi trả thu nhập tăng thêm cho cánhân theo nguyên tắc người

nào có hiệu quả công tác cao, có đóng góp nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi

được hưởng cao hơn, trả thu nhập tăng thêm dựa trên mức lương cấp bậc chức

vụ, hiệu suất công tác của từng cán bộ, công chức xã và được phân loại theo

bình bầu A,B,C và chi tối đa không quá 1,0 lần so với mức tiền lương ngạch,

bậc, chức vụ do nhà nước quy định để chi trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ,

công chức.(Xếp cụ thể: A hệ số bao nhiêu, B,C hệ số bao nhiêu ….)

8.2. Chi khen thưởng: Chi khen thưởng định kỳ hoặc đột xuất cho tập

thể, cá nhân theo kết quả công việc và thành tích đóng góp ngoài chế độ khen

thưởng theo quy định hiện hành của Luật Thi đua khen thưởng; (kế toán xây

dựng cụ thể tùy theo từng xã – nếu có)

8.3. Chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể:

- Chi ngày lễ tết trong năm cho cá nhân (nếu có)

+ Đối tượng áp dụng

- CBCC cấp xã hết thời gian tập sự

193

- Những đối tượng không đủ điều kiện trên, căn cứ vào tình hình thực tế

thủ trưởng quyết định.

+ Mức chi: Mức chi có thể thay đổi vào từng thời điểm, cụ thể như sau:

STT Nội dung chi Số tiền/người (đồng)

1 Tết dương lịch

2 Tết âm lịch

3 Ngày giỗ tổ Hùng Vương

4 Ngày 30/4 - 1/5

5 Ngày 2/9

- Các ngày lễ khác (nếu có)

STT Nội dung chi Số tiền tối thiểu/người (đồng)

1 Ngày 8/3 đối với CBCC xã nữ

2

4

5

6

7

8

Ngày 20/10 đối với CBCC xã nữ Ngày 27/7 đối với thương binh và gia đình liệt sĩ Ngày 22/12 (dành cho CBCC xã là cựu quân nhân) Ngày Quốc tế thiêu nhi 1/6, chi quà cho các cháu thiếu niên nhi đồng Rằm trung thu cho các cháu dưới 16 tuổi Chi phần thưởng cho các cháu là con của CBCC xã đạt thành tích cao trong học tập, cháu nào đạt nhiều danh hiệu trong mục này được hưởng ở mức cao nhất: + Học sinh giỏi được tặng giấy khen + Học sinh giỏi cấp huyện, quận + Học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố + Học sinh giỏi Quốc gia

1 Thi đỗ Đại học

194

- Chi tham quan, nghỉ mát, du xuân (tùy theo kinh phí của xã)

Tham quan, du xuân hỗ trợ tiền xe, lệ phí tham quan…..

- Chi hiếu, hỷ

Chi việc hỷ đối với:

+ CBCC xã:……

+ Con CBCC xã: …………………….

(Trường hợp CBCC xã là con của cán bộ xã chỉ được một tiêu chuẩn cao nhất)

- Chi việc hiếu đối với CBCC xã, bố mẹ đẻ, bố mẹ chồng (vợ),

chồng(vợ), con của CBCC xã 01 vòng hoa (theo giá thực tế) và …… đồng.

- Chi việc hiếu đối với CBVC đã nghỉ hưu, cán bộ lãnh đạo có quan hệ

công tác: 01 vòng hoa (theo giá thực tế) và ……….. đồng

- Chi chia tay cán bộ hưu

+ Phần quà hưu trí (quà kỷ niệm): ……… đồng

+ Tổ chức liên hoan chia tay: ………. đồng

- Chi cho hoạt động văn hoá, văn nghệ, phong trào TDTT của xã tuỳ

theo quy mô, khả năng tài chính của xã nhưng không quá ....... đ/đợt.

- Trợ cấp khó khăn, đột xuất: Chế độ trợ cấp khó khăn, đột xuất đựơc áp

dụng cho những trường hợp CBCC xã gặp khó khăn đặc biệt. Mức chi

........đ/lần và không quá 2 lần/năm.

- Chi mua bánh, kẹo, đào quất ... phục vụ cho dịp tết nguyên đán: Do

CTX quyết đinh phù hợp với nguồn kinh phí thực có.

- Hỗ trợ trực ngày lễ/ tết: .....đồng /ca.

- Các trường hợp đặc biệt khác do CTX quyết định.

8.4. Trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập cho cán bộ, công

chức xã: Số kinh phí tiết kiệm được, cuối năm chưa sử dụng hết được chuyển

vào quỹ dự phòng ổn định thu nhập.

8. 5. CTX quyết định phương án sử dụng kinh phí tiết kiệm nêu trên

trong quy chế chi tiêu nội bộ của xã sau khi đã thống nhất ý kiến bằng văn bản

với ban ngành đoàn thể của xã

195

Điều 9. Quy định việc xử lý vi phạm và giải quyết các trường hợp

đặc biệt khi sử dụng vượt mức khoán

Căn cứ vào các mức khoán chi trong quy chế chi tiêu nội bộ đã khoán

cho cá nhân hoặc ban ngành đoàn thể vào cuối quý, trên cơ sở kết quả thực hiện:

- Nếu vi phạm quy chế chi tiêu nội bộ có liên quan đến các lĩnh vực đã

có quy định của nhà nước thì xử lý theo quy định hiện hành.

- Nếu vi phạm vượt định mức quy định tại quy chế chi tiêu nội bộ đối

với những lĩnh vực chưa có quy định của nhà nước thì xã phải chịu trách

nhiệm xử lý hoặc phải trừ vào kinh phí tiết kiệm năm sau.

CHƯƠNG 3

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 10. Tất cả cán bộ, công chức và cán bộ không chuyên trách cấp

xã có trách nhiệm thực hiện quy chế này, các bộ phận chuyên môn đưa nội

dung quy chế này vào sinh hoạt định kỳ, thường xuyên nhắc nhở để cán bộ,

công chức xã thực hiện tốt.

Giao cho đồng chí phụ trách KTX phối hợp với các ban ngành đoàn

thể (Ban thanh tra nhân dân) theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy

chế. Việc chấp hành tốt quy chế này là một trong những tiêu chí để xét thi

đua, khen thưởng của các tập thể và cá nhân hàng năm.

CTX xã và kế toán xã đơn vị có trách nhiệm thực hiện tốt kế hoạch chi

tiêu được duyệt, hàng tháng kế toán phải lập báo cáo sử dụng kinh phí gửi

CTX để điều hành; hàng năm lập báo cáo công khai tài chính và kinh phí tiết

kiệm được trước hội nghị cán bộ, công chức xã và theo qui định tại TT 343

về công khai NSNN các cấp.

Điều 11. Trong quá trình tổ chức thực hiện quy chế nếu có những vấn

đề nào chưa phù hợp với tình hình thực tế hoặc do chế độ, chính sách của nhà

nước có điều chỉnh bổ sung thì giao cho kế toán xã tập hợp ý kiến của cán bộ

công chức xã tham mưu cho CTX xem xét và thông qua hội nghị cán bộ,

công chức xã hàng năm./.

196

PHỤ LỤC 02

TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ, CHẤM ĐIỂM VÀ XẾP LOẠI MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

Ghi chú STT Tiêu chí Điểm tối đa

40 I Phát triển kinh tế - xã hội tại xã

20 1 Lĩnh vực kinh tế

10/3 1.1 Sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn: ứng phó thiên tai

6/1 a

Thực hiện các chỉ tiêu phát triển nông - lâm - ngư nghiệp đạt các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra (không được thấp hơn so với chỉ tiêu của cấp huyện giao), có nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả 01 điểm đối với phường, thị trấn

2 b Xã đạt chuẩn nông thôn mới hoặc đạt các tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo đúng lộ trình, kế hoạch Chỉ tính đối với xã

2 c Chủ động ứng phó kịp thời, có hiệu quả đối với diễn biến bất lợi về thiên tai, bão lũ

1.2 5/12 Hạ tầng, đô thị, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ, du lịch

1/4 a

Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt và vượt kế hoạch (không được thấp hơn so với chỉ tiêu của cấp huyện giao) 4 điểm đối với phường, thị trấn

1/4 b

Giá trị thương mại - dịch vụ-du lịch đạt và vượt kế hoạch (không được thấp hơn so với chỉ tiêu của cấp huyện giao) 4 điểm đối với phường, thị trấn

c 2 Khai thác sử dụng và bảo vệ tốt các công trình đường giao thông, điện, nước sinh hoạt, thủy lợi... trên địa bàn Công trình công cộng

197

d 1/2 Quản lý hành chính đối với các hoạt động xây dựng, nhà đất trong phạm vi quản lý đảm bảo đúng quy định 2 điểm đối với phường, thị trấn

1.3 Tài chính - kế hoạch 10

4 a Thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách Nhà nước, các loại thuế, phí và lệ phí trên địa bàn

4 b

Thu, chi, quyết toán ngân sách theo đúng quy định; quản lý thu, chi tài chính rõ ràng, minh bạch đúng quy định của Nhà nước

2 c Quản lý tốt công trình, dự án được cấp trên giao thực hiện trên địa bàn

1.4 Về tài nguyên và môi trường 5

2 a

Quản lý chặt chẽ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thẩm quyền; tham gia hòa giải, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực tài nguyên và môi trường theo quy định.

1 b

Thực hiện tốt việc đăng ký, quản lý hồ sơ địa chính; theo dõi biến động đất đai và chỉnh lý hồ sơ địa chính; thống kê, kiểm kê đất đai; phối hợp thực hiện tốt công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng tại địa phương

1 c

Đảm bảo công tác quản lý nhà nước về khoáng sản trên địa bàn; các hoạt động bảo vệ môi trường và vệ sinh môi trường khu dân cư được thực hiện tốt

1 d

Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch hợp vệ sinh ở thành thị đạt 95%, ở nông thôn tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90% trở lên, nước sạch đạt 50% trở lên; tỷ lệ thu gom rác thải ở khu vực nông thôn đạt 80%, các khu vực dân cư tập trung có hệ thống thu gom, tiêu thoát nước

198

2 Lĩnh vực văn hóa - xã hội tại xã 20

2.1 Giáo dục và đào tạo 5

1 a Đảm bảo chỉ tiêu, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở các cấp học tiểu học, trung học cơ sở

1 b

Duy trì, thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ ở các cấp học mầm non, tiểu học và trung học cơ sở

2 c Trường học đạt chuẩn quốc gia theo kế hoạch; mạng lưới trường, lớp đạt so với kế hoạch

1 d Có ít nhất 80% thanh niên đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương

2.2 Y tế và công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân 5

1 a

Thực hiện tốt các chương trình quốc gia về y tế; phòng, chống có hiệu quả dịch bệnh; chỉ đạo thực hiện tốt chuẩn quốc gia về y tế xã

b Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% 1

c Tỷ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%. 1

1 d Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi dưới 20%

1 e Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng đạt tối thiểu 95% với từ 12 loại vắc xin trở lên

2.3 Văn hóa, thể dục, thể thao 5

1 a Thực hiện tốt các quy định về xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội

1,5 b

85% xóm, bản, tổ dân phố được công nhận danh hiệu “khu dân cư văn hóa”; 90% hộ gia đình trở lên được công nhận gia đình văn hóa

199

c 1,5

Phối hợp và thực hiện tốt công tác bảo tồn các di tích, loại hình văn hóa dân gian; duy trì phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ và thể dục thể thao ở địa phương

d 1 90% làng, bản, khu phố có nhà văn hóa kiên cố - khu thể thao.

2.4 Lĩnh vực xã hội 5

a 1

Công tác bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ người dễ bị tổn thương trong các lĩnh vực đời sống gia đình và xã hội được thực hiện tốt

b 1

Thực hiện kịp thời, đầy đủ các chính sách, quy định của Nhà nước đối với gia đình chính sách, đối tượng xã hội; huy động các nguồn lực chăm sóc gia đình chính sách, đối tượng xã hội gặp khó khăn; tổ chức tốt các hoạt động từ thiện, nhân đạo tại địa phương

c 1 Tạo việc làm mới cho người lao động đạt chỉ tiêu huyện, thành phố giao

d 2

Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân theo kế hoạch của cấp huyện giao hằng năm; 100% hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ các chế độ, chính sách của Nhà nước theo quy định

II Thi hành pháp luật, Quốc phòng - An ninh 20

1 Thi hành pháp luật 10

1.1 3

Triển khai tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; pháp luật của nhà nước, của cấp trên và của địa phương

a 1

Ban hành kế hoạch và tổ chức hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân trên địa bàn bằng các hình thức phù hợp

b Cung cấp đầy đủ thông tin pháp luật thuộc trách 1 nhiệm phải cung cấp của Ủy ban nhân dân cấp xã cho

200

nhân dân địa phương theo quy định (văn bản, chính sách, pháp luật mới, ...)

c 1

Tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định và lấy ý kiến nhân dân theo sự chỉ đạo và hướng dẫn của cấp trên

1.2 1

Thực hiện tốt việc thi hành án tại địa phương; phát hiện, xử lý vi phạm hành chính kịp thời, đúng thẩm quyền

1.3 2 Thực hiện đúng quy định về đăng ký và quản lý hộ tịch; chứng thực; công tác đăng ký, quản lý cư trú

1.4 3

Thực hiện nghiêm túc quy định việc tổ chức tiếp công dân, giải quyết kịp thời, có hiệu quả đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân, không để xảy ra khiếu kiện đông người, tồn đọng, kéo dài

a 1 Duy trì, thực hiện tốt công tác tiếp công dân tại trụ sở UBND cấp xã theo quy định của Luật tiếp công dân

b 1

Thực hiện niêm yết công khai các thủ tục hành chính, giải quyết các thủ tục hành chính đúng trình tự, thủ tục và thời hạn quy định

c 1

Tổ chức ít nhất 01 hội nghị trao đổi, đối thoại chính sách, pháp luật cho nhân dân và thanh niên địa phương

1.5 1

Ban hành và thực hiện tốt các quy định về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

2 Quốc phòng - An ninh 10

2.1 Quốc phòng 4

a 1

Hoàn thành kế hoạch diễn tập; tổ chức xây dựng, huấn luyện, hoạt động, bảo đảm chế độ chính sách dân quân tự vệ, quản lý lực lượng dự bị động viên theo quy định của pháp luật; làm tốt chính sách hậu phương quân đội

201

b 1 Thực hiện tốt chỉ tiêu tuyển quân, không có trường hợp loại trả, đào bỏ ngũ

1 c

Tổ chức thực hiện kế hoạch công tác quốc phòng, quân sự địa phương; kế hoạch phòng thủ dân sự và các kế hoạch có liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; xây dựng làng, xã chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu

1 d

Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân; hoàn thành chỉ tiêu bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng theo quy định của pháp luật.

2.2 An ninh 6

2 a

Xây dựng kế hoạch và thực hiện các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, các tệ nạn xã hội và hành vi vi phạm pháp luật khác có hiệu quả, không để xảy ra các vụ trọng án

2 b

Xử lý dứt điểm các vụ việc liên quan đến lĩnh vực ANTT, các tệ nạn xã hội, xây dựng địa bàn xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn "An toàn về an ninh trật tự"

2 c

Quản lý tốt các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, không để xảy ra tình trạng lợi dụng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo gây chia rẽ, mất đoàn kết dân tộc, kích động, gây rối, bạo loạn về an ninh trật tự tại địa bàn quản lý

III Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương 15

1 1

HĐND, UBND được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương; đảm bảo mỗi nhiệm vụ chuyên môn có cán bộ, công chức phụ trách tham mưu, thực hiện; đảm bảo tỷ lệ nữ theo quy định

1 2

Ban hành Quy chế làm việc và hoạt động đúng Quy định; có chương trình công tác trọng tâm, có lịch công tác tuần; thực hiện đảm bảo chế độ hội họp, giải

202

quyết công việc

3 1

Chuẩn bị và tổ chức các kỳ họp của HĐND đúng Luật, đại biểu tham dự đầy đủ các kỳ họp hoặc không tham dự nhưng có lý do chính đáng

4 1

Các Nghị quyết của HĐND, Quyết định của UBND đảm bảo quy định của pháp luật, sát với tình hình phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương; quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng theo quy định

5 1

Có xây dựng chương trình giám sát và thực hiện tốt chức năng giám sát của HĐND trong mọi lĩnh vực của địa phương. Đại biểu HĐND thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tham gia tiếp xúc cử tri theo quy định

6 Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo đầy đủ, kịp thời 2

7 1 Bố trí, phân công nhiệm vụ cho cán bộ, công chức phù hợp với trình độ, năng lực

8 2 Tác phong, lề lối và thời gian làm việc của cán bộ, công chức, được thực hiện nghiêm túc

9 2

Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở. Công khai, minh bạch các khoản đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng có hiệu quả các khoản đóng góp

10 1 Các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức được thực hiện đảm bảo, không có khiếu kiện khiếu nại

11 1

Tổ chức quản lý tốt mốc giới, bản đồ địa giới hành chính; không để các tranh chấp địa giới hành chính xảy ra; kịp thời báo cáo, phối hợp khôi phục đúng nguyên trạng các mốc địa giới hành chính bị hư hỏng, mất mát

12 1 100% cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn về trình độ chuyên môn theo quy định.

203

Kết quả thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính:

IV 15

(Căn cứ kết quả đánh giá chấm điểm chỉ số cải cách hành chính từ năm trước liền kề đã được UBND cấp huyện quyết định xếp loại để tính điểm)

1 Chỉ số cải cách hành chính đạt từ 90 - 100 điểm 15

2 10 Chỉ số cải cách hành chính đạt từ 80 đến dưới 90 điểm

3 Chỉ số cải cách hành chính đạt từ 70 - dưới 80 điểm 3

4 Chỉ số cải cách hành chính đạt dưới 70 điểm 0

V 5

Điểm thưởng: Nhiều tiêu chí về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh... vượt so với kế hoạch; đạt được một số thành tích xuất sắc trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ mang tính đột phá

Tổng cộng điểm 100

Tác giả xây dựng

Cách chấm điểm

1. Tùy theo mức độ hoàn thành của từng tiêu chí để chấm từ 0 đến điểm tối đa theo điểm chuẩn quy định. Điểm được làm tròn 02 số sau dấu phẩy. Điểm tổng cộng là tổng điểm của từng tiêu chí và điểm thưởng nhưng tối đa không quá 100 điểm.

2. Đối với các tiêu chí có định lượng: Nếu hoàn thành từ 100% so với kế hoạch trở lên thì chấm điểm tối đa; nếu hoàn thành từ 80% đến dưới 100% so với kế hoạch thì trừ đi 1/3 số điểm của tiêu chí đó; nếu hoàn thành từ 50% đến dưới 80% so với kế hoạch thì trừ đi 2/3 điểm của tiêu chí đó; nếu hoàn thành dưới 50% so với kế hoạch thì chấm không điểm.

3. Đối với các tiêu chí không định lượng được: Nếu thực hiện đầy đủ, đảm bảo chất lượng và đúng thời gian thì chấm điểm tối đa; nếu thực hiện không đầy đủ hoặc đầy đủ nhưng không đúng thời gian thì trừ đi 1/3 số điểm; nếu thực hiện không đầy đủ và không đúng thời gian thì trừ đi 2/3 số điểm; nếu không thực hiện thì chấm 0 điểm.

204

PHỤ LỤC 03 DỰ TOÁN CHI THƯỜNG XUYÊN XÃ A (KINH PHÍ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH) Thành tiền Ghi chú

Nội dung Nhu cầu Khả năng

STT 1 2

3

4 Tiền lương Phụ cấp chức vụ Các khoản đóng góp BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN Dịch vụ công cộng (điện, nước, vệ sinh môi trường)

4.1 Điện

4.2 Nước

4.3 Vệ sinh môi trường 5 Vật tư, văn phòng 5.1 Vật tư 5.2 Văn phòng phẩm sử dụng chung Khoán văn phòng phẩm cho CBCC xã Thông tin liên lạc

5.3 6 6.1 Điện thoại 6.2 Mạng wifi 6.3 Máy fax Hội nghị 7 Công tác phí 8 Sửa chữa thường xuyên tài sản 9 Nghiệp vụ chuyên môn (in ấn, phô tô tài liệu chuyên môn

10 11 Chi khác 12 Mua sắm tài sản

TỔNG

Tác giả đề xuất

205

PHỤ LỤC 4

MẪU PHIẾU CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU

(Về việc thực hiện cơ chế tự chủ KPQLHC đối với chính quyền cấp xã theo NĐ130/2005/NĐ-CP và NĐ 117/ 2013/NĐ-CP).

Đối tượng được phỏng vấn: - Chủ tịch UBND xã

- Kế toán xã

Giới thiệu:

- Tên tôi là:

- Nơi công tác:

Tôi xin chân thành cảm ơn anh/chị đã dành thời gian tham gia cuộc phỏng vấn của tôi. Hiện nay tôi đang nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ “Hoàn thiện cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính đối với chính quyền cấp xã tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng”. Mục đích của cuộc phỏng vấn này nhằm tìm hiểu thực trạng quá trình thực hiện cơ chế tự chủ kinh phí quản lý hành chính (định mức được giao tự chủ, sử dụng kinh phí tự chủ, sử dụng kinh phí tiết kiệm) phục vụ cho luận án tiến sĩ. Mọi ý kiến của anh/chị đều có ý nghĩa với nghiên cứu của tôi. Cuộc nói chuyện này sẽ được sử dụng với nguyên tắc khuyết danh và chỉ phục vụ cho nghiên cứu. Các câu hỏi được thiết kế theo cách không làm ảnh hưởng tới anh/chị nhằm khuyến khích anh/chị đưa ra thực trạng giúp cho việc nghiên cứu của tôi được thành công hơn.

Xin anh/chị vui lòng cho biết các thông tin sau:

1. Xã anh (chị) đã thực hiện cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành

chính từ năm nào?

2. Trong quá trình triển khai thực hiện cơ chế tự chủ:

- Anh (chị) được tập huấn:

Không

206

- Anh (chị) được trang bị tài liệu hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ:

Có Không

- Thái độ của công chức trong xã anh (chị) khi thực hiện cơ chế tự chủ:

Ủng hộ

Chưa ủng hộ

- Quan điểm của lãnh đạo xã anh (chị) khi thực hiện cơ chế tự chủ (kế toán):

Ủng hộ

Chưa ủng hộ

3. Theo anh (chị) cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí quản lý hành chính tại xã nhằm đạt được các mục tiêu nào dưới đây?

Sử dụng kinh phí một cách hợp lý Thực hành tiết kiệm chống lãng phí

Tăng thu nhập cho cán bộ công chức Tinh giảm biên chế

4. Số biên chế hiện nay của xã so với số biên chế được giao để thực hiện chức năng, nhiệm vụ khi thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính?

Lớn hơn

Bằng

Ít hơn

5. Tại xã có xây dựng định mức chi tiêu để làm cơ sở cho quản lý tài

chính không?

Không

Không rõ

6. Trình tự lập kế hoạch chi (quản lý hành chính) như thế nào? (xin

hãy miêu tả cụ thể)

7. Khi lập kế hoạch chi (quản lý hành chính) thường dựa vào phương

pháp nào:  Phương pháp dựa vào quá khứ.  Phương pháp không dựa vào quá khứ

207

8. Đối với khoản kinh phí quản lý hành chính được giao tự chủ, hàng

năm xã thực hiện theo trình tự như thế nào?

9. Hàng năm xã có đánh giá xếp loại công chức xã không? Dựa trên

tiêu chí nào? (xin liệt kê cụ thể các tiêu chí đánh giá)

10. Khi thực hiện tự chủ, theo anh (chị), xã đã hoàn thành kế hoạch

được giao ở mức độ nào?

+ Hoàn thành nhiệm vụ:  + Hoàn thành tốt nhiệm vụ:  + Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ:  11. HĐND xã và Ban Kinh tế xã hội xã có giám sát chặt chẽ quá trình

thực hiện chi ngân sách không?

12. Xã phân loại chi phí quản lý hành chính theo tiêu thức nào, có

những loại chi phí gì?

13. Có những loại dự toán chi nào được xây dựng ở xã? 14. Xã anh (chị) có xây dựng qui chế chi tiêu nội bộ không? 15. Xã có sử dụng tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động của CBCC

xã không?

16. Anh (chị) cho biết thu nhập tăng thêm hàng tháng của anh (chị) từ

kinh phí tiết kiệm được là bao nhiêu?

Thu nhập tăng thêm Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

Không có

Dưới 200.000đồng

Từ 200.000đồng đến 500.000 đồng

Trên 500.000đồng

17. Hàng năm, xã thực hiện cơ chế tự chủ về kinh phí quản lý hành chính

phải báo cáo kết quả thực hiện cơ chế tự chủ của mình với cơ quan nào?

18. Việc công khai tài chính tại xã anh (chị) được thực hiện bằng hình

thức nào, đã rõ ràng, đầy đủ chưa?

208

19. Anh (chị) lựa chọn phương án thực hiện cơ chế tự chủ kinh phí

quản lý hành chính

Tiếp tục thực hiện

Cần điều chỉnh, bổ sung

Không thực hiện, nhà nước tiếp tục cân đối ngân sách và tăng cường giám sát

20. Anh (chị) có đề xuất gì giúp cho việc thực hiện giao quyền tự chủ

kinh phí quản lý hành chính tại xã đạt kết quả tốt?

- Về chức năng, nhiệm vụ và công tác tổ chức bộ máy của xã;

- Về tăng cường năng lực cho các xã;

- Về tăng cường phương tiện và điều kiện làm việc;

- Về dân chủ trong xã;

- Ý kiến khác.

Cảm ơn sự hợp tác của anh/chị!