Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động giáo dục
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu của Luận án này nhằm phân tích để làm sáng rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của hoạt động rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non để đề xuất một quy trình với những chỉ dẫn cụ thể trong việc tổ chức rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ trong hoạt động khám phá môi trường xung quanh và làm quen với tác phẩm văn học (thơ ca). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động giáo dục
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2020
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy họcBộ môn Văn - Tiếng Việt Mã số: 9140111 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN QUANG NINH HÀ NỘI - 2020
- i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các ngữ liệu và trích dẫn trong luận án là hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2020 Tác giả Nguyễn Thị Minh Phương
- ii LỜI CÁM ƠN Tôi xin được dành sự kính trọng và lời cám ơn hết sức sâu sắc của mình tới PGS.TS Nguyễn Quang Ninh, người thầy đã hướng dẫn tận tình, đã giúp đỡ, động viên và khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong Tổ bộ môn Lí luận và phương pháp dạy học Ngữ văn, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn cũng như các thầy cô công tác tại Phòng Sau Đại học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành đến gia đình, người thân, bạn bè, Ban Giám hiệu và các bạn đồng nghiệp trong trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương - nơi tôi đang công tác - đã luôn luôn động viên, khích lệ, ủng hộ tôi trong suốt quá trình tôi triển khai luận án. Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2020 Tác giả Nguyễn Thị Minh Phương
- iii MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................4 4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................4 5. Giả thuyết khoa học ............................................................................................6 6. Đóng góp của luận án .........................................................................................6 7. Kết cấu của luận án .............................................................................................7 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................9 1.1. SO SÁNH NHƯ MỘT THAO TÁC TƯ DUY....................................................9 1.1.1.Thao tác so sánh ........................................................................................9 1.1.2. Tác dụng của thao tác so sánh đối với nhận thức ...................................12 1.2. SO SÁNH NHƯ MỘT BIỆN PHÁP TU TỪ ....................................................15 1.2.1. Biện pháp so sánh ...................................................................................15 1.2.2. Phân loại so sánh ....................................................................................17 1.2.3. Giá trị của so sánh tu từ đối với diễn đạt ................................................19 1.3. SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY VÀ NGÔN NGỮ CỦA TRẺ...............................23 1.3.1. Sự phát triển tư duy ................................................................................23 1.3.2. Sự phát triển ngôn ngữ ...........................................................................30 1.4. VỀ NĂNG LỰC SO SÁNH CỦA TRẺ.............................................................35 1.4.1. Trẻ có đủ khả năng nhận thức về so sánh...............................................35 1.4.2. Trẻ có khả năng so sánh cùng lúc ba đối tượng .....................................38 Tiểu kết chương1 .....................................................................................................41 CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ...............................................................................................................42 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ...............................................................................................42 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản được sử dụng trong luận án ...........................42 2.1.2. Lí luận về so sánh ...................................................................................47 2.1.3. Đặc điểm và những yếu tố chi phối sự lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ..........57
- iv 2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ..........................................................................................61 2.2.1. Mục đích, nội dung và phương pháp khảo sát thực trạng ......................61 2.2.2. Tiến hành khảo sát ..................................................................................63 Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................80 CHƯƠNG 3. TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH VÀ LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC .......................................81 3.1. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC RÈN LUYỆN ..........................................................81 3.1.1. Phải bám sát nội dung Chương trình Giáo dục mầm non ......................81 3.1.2. Phải đảm bảo tinh thần “học mà chơi, chơi mà học” .............................83 3.1.3. Phải rèn luyện một cách hệ thống và liên tục .........................................84 3.1.4. Phải rèn luyện từ dễ đến khó, từ “vừa sức” đến “tạo sức” .....................85 3.2. MỘT SỐ YÊU CẦU RÈN LUYỆN .................................................................87 3.2.1. Luôn tương tác với trẻ trong quan sát sự vật, hiện tượng ......................87 3.2.2. Luôn tham gia cùng trẻ trong các trò chơi so sánh ................................89 3.2.3. Luôn tạo tình huống giao tiếp giúp trẻ nói lời so sánh ...........................91 3.3. QUY TRÌNH RÈN LUYỆN ................................................................................93 3.3.1. Rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ trong hoạt động KHÁM PHÁ MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH .......................................................................94 3.3.2. Rèn luyện kĩ năng so sánh trong hoạt động LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC ...........................................................................................110 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................128 CHƯƠNG 4 - THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ......................................................129 4.1. MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM .........................................................................129 4.2. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA BÀN VÀ THỜI GIAN THỰC NGHIỆM .......................130 4.2.1. Đối tượng thực nghiệm:.......................................................................130 4.2.2. Địa bàn thực nghiệm: ..........................................................................131 4.2.3. Thời gian thực nghiệm.........................................................................133 4.3. THIẾT KẾ GIÁO ÁNTHỰC NGHIỆM ..........................................................133 4.4. CÁC BƯỚC THỰC NGHIỆM ........................................................................134 4.4.1. Liên hệ thực nghiệm: ............................................................................134 4.4.2. Lựa chọn giáo viên thực nghiệm: .........................................................134 4.4.3. Thiết kế hoạt động thực nghiệm và trao đổi với giáo viên ...................136
- v 4.4.4.Tiến hành thực nghiệm trên lớp ............................................................137 4.4.5. Phân tích, xử lí và đánh giá kết quả thực nghiệm ................................138 4.5. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ...........................................................................138 4.5.1. Tiêu chí đánh giá: .................................................................................138 4.5.2. Kết quả..................................................................................................140 4.6. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM .....................................................144 Tiểu kết chương 4 ..................................................................................................147 KẾT LUẬN ............................................................................................................148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..........................................................................151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................152 PHỤ LỤC
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. So sánh vừa giúp trẻ phát triển tư duy, vừa giúp trẻ phát triển ngôn ngữ So sánh là một trong những thao tác trí tuệ được dùng để nhận thức thế giới và cũng là một cách suy luận chiếm ưu thế ở giai đoạn đầu trong quá trình nhận thức của con người. Con người tìm hiểu, khám phá sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh bắt đầu từ việc quan sát rồi sau đó so sánh chính những hiện tượng ấy với nhau để cụ thể hóa nhận thức và suy ra cái chưa biết từ cái đã biết ấy. Chỉ cần thế giới xung quanh ta có một chút liên hệ nhất định nào đó, đặc biệt là mối quan hệ tương đồng hoặc tương phản, thì con người đều có thể đem ra so sánh chúng với nhau. Người ta có thể so sánh cái hữu hình với cái hữu hình, cái vô hình với cái vô hình, và cũng có thể so sánh cả cái hữu hình với cái vô hình và ngược lại. Rõ ràng là, muốn nhận biết thế giới, nhận biết chính mình, con người đều cần đến so sánh. So sánh giúp con người lựa chọn, đối chiếu các sự vật hiện tượng với nhau để từ đó khám phá, nhận thức cái mới và tìm ra chân lí. Bởi vậy, hoạt động so sánh được sử dụng thường xuyên, liên tục trong mọi lĩnh vực trong đời sống. Nhưng tác dụng của hoạt động so sánh không dừng lại ở việc nhận thức. Khi đi vào ngôn ngữ, so sánh không đơn thuần chỉ là một thao tác của tư duy mà đã trở thành một phương tiện, một phép tu từ giúp lời ăn, tiếng nói của con người trở nên bóng bẩy, có hình ảnh và sinh động hơn. Con người, một mặt vừa có thể bộc lộ nhận thức, mặt khác vừa có thể bày tỏ tình cảm, thái độ của mình đối với chính sự vật, hiện tượng được nhận thức ấy thông qua so sánh. Nhờ so sánh, con người nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn được bản chất của đối tượng, nhưng một mặt khác, nhờ so sánh mà lời ăn tiếng nói của con người cũng trở nên giầu hình ảnh hơn. Việc trẻ lớn lên và biết dùng so sánh trong lời nói của mình, điều đó một mặt vừa phản ánh được năng lực nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc, mặt khác vừa bộc lộ được khả năng diễn đạt của trẻ ngày càng cao hơn. Nói cách khác, so sánh là một trong những phương tiện vừa góp phần phát triển tư duy, vừa phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Qua so sánh, trẻ không chỉ có những hiểu biết đúng đắn bản chất của đối tượng, mà còn góp phần tạo ra được sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cũng như cách diễn đạt sinh động, có hình ảnh hơn trong lời nói của mình. Bởi thế, rèn luyện cho trẻ biết sử dụng và sử dụng có hiệu quả so sánh trong lời nói của mình, không phải chỉ đơn thuần là việc cung cấp kiến thức mà còn là hoạt động vừa góp phần phát triển năng lực tư duy vừa góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì so sánh có tác dụng
- 2 trong việc rèn luyện tư duy và phát triển ngôn ngữ như vậy nên việc tìm hiểu về so sánh, đặc biệt là việc rèn luyện cho trẻ cách sử dụng so sánh để khắc sâu nhận thức, để tăng cường tính sinh động trong lời nói giúp trẻ tham gia hoạt động giao tiếp có hiệu quả hơn là điều hết sức cần thiết đối với giáo viên và những người làm công tác nghiên cứu giáo dục. 1.2. So sánh giúp trẻ làm giầu trí tưởng tượng So sánh được sử dụng thường xuyên trong mọi hoạt động thuộc tất cả những lĩnh vực khác nhau của đời sống thường ngày. Trong đôi mắt trẻ thơ, thế giới thật rộng mở, sống động và chứa đựng biết bao những điều mới lạ, bí ẩn nhưng đầy thú vị cần phải tìm hiểu, khám phá. Không phải là cái nhìn quá tinh tế, sắc sảo; cũng không phải là sự phát hiện độc đáo, sâu sắc đối tượng; ở trẻ, cái nhìn cuộc đời thật ngây thơ, gần gũi và trong sáng. Trẻ đã dùng trí tưởng tượng, sự so sánh của mình một cách hết sức hồn nhiên để nắm bắt và nhận thức sự việc, hiện tượng diễn ra xung quanh. Trẻ thấy:“Trăng tròn như mắt cá”, rồi thì “Vầng trăng như lưỡi kiếm”, hoặc “Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh”. Có thể nói, thế giới trẻ thơ là thế giới của sự tưởng tượng và so sánh. Sự tưởng tượng ấy của trẻ luôn luôn đa dạng và bất ngờ. Và như Paxcan đã nói “trí tưởng tượng là ông thầy tuyệt diệu”; còn Gớt thì cho rằng trí tưởng tượng “là người mở đường cho lí trí” của trẻ [27,tr 67]. Trẻ luôn muốn được đắm mình trong thế giới của tưởng tượng. Các nhà giáo dục học và các nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra rằng, có nhiều cách để làm giầu, làm phong phú trí tưởng tượng cho trẻ, nhưng một trong những cách có hiệu quả nhất, chính là so sánh. Qua so sánh, trẻ vừa có thể khám phá, nhận thức chính xác, sâu sắc về thế giới, vừa có được cách diễn đạt lời nói của mình thêm đa dạng, giầu hình ảnh. Vì thế có thể khẳng định, rèn luyện cho trẻ nâng cao kĩ năng so sánh trong hoạt động ở trường mầm non chính là cách để giáo viên vừa phát triển được trí tưởng tượng vừa phát triển được năng lực sử dụng ngôn ngữ cho trẻ. 1.3. Hoạt động giáo dục là lĩnh vực rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ thuận lợi nhất Theo Chương trình giáo dục mầm non - 2017, trong trường mầm non có nhiều loại hoạt động khác nhau như: hoạt động giáo dục phát triển thể chất, hoạt động giáo dục phát triển nhận thức, hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ, hoạt động giáo dục phát triển thẩm mĩ… Nhưng dù có nhiều hoạt động thế nào đi chăng nữa thì hoạt động vui chơi vẫn là hoạt động chính của trẻ mầm non. “Học mà chơi, chơi mà học” là phương pháp giáo dục phù hợp nhất cho trẻ, là sự kết hợp hài hòa giữa học tập và vui chơi. Bởi lẽ ở lứa tuổi này, sự phát triển tâm sinh lí của trẻ đang chìm trong thế giới của các trò chơi, đồ chơi.
- 3 Đối với người lớn, việc tạo ra phép so sánh không quá phức tạp và việc cảm nhận được cái hay, cái đẹp của so sánh trong lời nói không phải là quá khó. Nhưng đối với trẻ, việc này chẳng đơn giản chút nào. Nếu không được hướng dẫn cụ thể, không có sự rèn luyện từng bước chắc chắn, trẻ không thể hình thành được kĩ năng so sánh. Cái khó là hiện nay, mặc dù trong tổ chức hoạt động giáo dục như vừa nêu trên, giáo viên đã phần nào chú ý hướng dẫn trẻ so sánh, nhưng hoạt động này chưa thật bài bản, chưa mang tính hệ thống nên kết quả không cao. Ai cũng có thể hiểu được rằng, khả năng tư duy của con người là vô hạn và khả năng liên tưởng, so sánh của trẻ cũng tương tự như vậy. Chỉ khi nào giáo viên ý thức được tầm quan trọng của so sánh đối với nhận thức và sự diễn đạt của trẻ, thì việc rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ mẫu giáo mới đạt được những điều chúng ta mong muốn. Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu về việc sử dụng so sánh đối với học sinh tiểu học, trung học, nhưng chưa có một công trình chuyên sâu nào nghiên cứu về việc rèn luyện cho trẻ mẫu giáo kĩ năng so sánh. Đã đến lúc chúng ta cần tìm ra một quy trình hợp lí, khoa học để có thể giúp trẻ tích cực rèn luyện kĩ năng so sánh, sớm trao cho trẻ một phương tiện sắc bén trong nhận thức và ngôn ngữ của mình. Đề tài luận án:“Rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động giáo dục” mà chúng tôi hướng đến là một sự thể hiện của tâm nguyện này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Với vấn đề đặt ra là “Rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động giáo dục” nên mục đích của luận án được xác định là: Phân tích để làm sáng rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của hoạt động rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non để đề xuất một quy trình với những chỉ dẫn cụ thể trong việc tổ chức rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ trong hoạt động khám phá môi trường xung quanh và làm quen với tác phẩm văn học (thơ ca). 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được những mục đích trên, luận án phải giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu lí luận về những vấn đề có liên quan tới hoạt động so sánh, thao tác so sánh, phép tu từ so sánh và cơ sở tiếp nhận cũng như việc sử dụng và phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 5-6 tuổi. - Khảo sát và thống kê thực trạng kĩ năng so sánh của trẻ; qua đó phân tích, đánh giá hiệu quả của những hoạt động ấy.
- 4 - Tìm hiểu nội dung và phương pháp rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi đã được sử dụng từ trước đến nay trong trường mầm non. - Thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của quy trình rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi và những đề xuất khác được nêu ra trong luận án. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Luận án “Rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động giáo dục” xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tất cả những hoạt động của cô và trẻ xoay quanh những nội dung rèn luyện, những quy trình rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non trong hoạt động giáo dục, cụ thể là trong hoạt động: Khám phá môi trường xung quanh và Làm quen với tác phẩm văn học. 3.2. Phạm vi - Là những trẻ mẫu giáo học tại các trường Việt Nam, thuộc loại hình trường công lập, dân lập. Loại hình trường quốc tế tại Việt Nam không nằm trong đối tượng nghiên cứu của luận án này vì loại hình trường này có nhiều điểm khác biệt so với đa số các trường Việt Nam, đặc biệt là cơ sở vật chất và điều kiện vượt trội về phương tiện dạy học. - Là những trẻ mẫu giáo từ 5-6 tuổi. Trẻ ở lứa tuổi ít hơn, mặc dù có thể vẫn nhận thức được so sánh nhưng do sự phát triển ngôn ngữ chưa đầy đủ và chưa có khả năng thể hiện tư tưởng, suy nghĩ của mình ra bằng ngôn từ, nên không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này. - Hoạt động giáo dục trong trường mầm non bao gồm nhiều nội dung: hoạt động phát triển thể chất, hoạt động phát triển nhận thức, hoạt động phát triển ngôn ngữ, hoạt động phát triển thẩm mĩ … Nhưng trong số những nội dung ấy, hoạt động Khám phá môi trường xung quanh và hoạt động Làm quen với tác phẩm văn học là hai hoạt động có hiệu quả nhất trong rèn luyện giúp trẻ nâng cao kĩ năng so sánh. Bởi vậy, luận án xác định việc rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi sẽ được tập trung vào hai nội dung: khám phá môi trường xung quanh và làm quen với tác phẩm văn học (thơ ca) trong chương trình hoạt động giáo dục ở trường mầm non. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp Phân tích là chia nhỏ một chỉnh thể ra thành từng mặt, từng khía cạnh, từng đặc tính khác nhau để xem xét. Trong luận án, khi tiến hành phân tích, chúng tôi chủ yếu dùng phương pháp phân tích lưỡng phân, một phương pháp được sử dụng có hiệu
- 5 quả trong việc nghiên cứu lí luận dạy tiếng. Bắt đầu, một hiện tượng ngôn ngữ nào đó được xem như một chỉnh thể, chúng tôi dùng phương pháp phân tích lưỡng phân để chia thành các mặt, các yếu tố, các bình diện, các tính chất nhỏ hơn; sau đó lại tiếp tục chia từng mặt, từng yếu tố, hoặc bình diện, tính chất nhỏ hơn đó thành những mặt, những bình diện hoặc yếu tố nhỏ hơn nữa,... và cứ tiếp tục như vậy cho tới khi kết thúc. Bất kì một sự phân tích nào cũng được chúng tôi vận dụng theo tinh thần này. Sau đó Tổng hợp nhằm mục đích xâu chuỗi và khái quát những điều có được sau phân tích. Chính việc sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp như vậy đã giúp chúng tôi nhận thức rõ hơn được những vấn đề cốt lõi được đặt ra trong luận án cũng như trong việc tìm hiểu cấu trúc so sánh, những biến thể của so sánh và sự vận dụng so sánh trong hoạt động của trẻ. 4.2. Phương pháp thống kê Đây là phương pháp dùng các phép tính toán để có những con số phản ánh một cách tường minh mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong một phạm vi nhất định nào đó, nhằm tìm ra thuộc tính chung, bản chất của sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy, trong luận án, chúng tôi đã sử dụng phương pháp thống kê khi khảo sát thực tiễn, khi tiến hành thực nghiệm và cả trong một số trường hợp khác nữa để có thể đưa ra được “những con số biết nói” nhằm minh hoạ cho một quan niệm, hoặc làm chỗ dựa cho một đề xuất hay kết luận nào đó. 4.3. Phương pháp so sánh Đó là việc đem các đối tượng ra đặt cạnh nhau để đối chiếu, so sánh đối tượng này với đối tượng khác trong những điều kiện, hoàn cảnh xác định chi phối chúng; trong những thời gian và không gian khác nhau... Điều này cho phép chúng tôi nhìn rõ nét hơn những điểm tương đồng và sự khác biệt, nhận rõ những cái riêng có trong cùng một cái chung bản chất hoặc những dấu hiệu phân biệt cái riêng này với cái riêng khác của những đối tượng khác nhau được đưa ra xem xét. So sánh để rút ra được các nhận thức chính xác về đối tượng sẽ là cơ sở rất quan trọng để chúng tôi có thể tiến hành khái quát hóa và tiến hành suy luận khoa học nhằm rút ra được những nhận xét chính xác về các đối tượng được chúng tôi tiến hành nghiên cứu trong luận án này. 4.4. Phương pháp điều tra - khảo sát Phương pháp điều tra khảo sát được chúng tôi dùng để tìm hiểu, đánh giá thực trạng hoạt động rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường mầm non. Cách thức điều tra, khảo sát được sử dụng là hoạt động quan sát, phát phiếu trưng cầu ý kiến giáo viên xoay quanh hoạt động so sánh của trẻ, trực tiếp dự một số giờ lên lớp để nắm nội dung thông tin và lấy các số liệu cần thiết theo định hướng của đề tài luận án sau đó, trao
- 6 đổi trò chuyện với các vị phụ huynh, trò chuyện với trẻ. Các số liệu và thông tin thu được trong quá trình điều tra, khảo sát này được ghi chép lại, lập bảng biểu và tiến hành phân tích cụ thể. Việc điều tra, khảo sát như vậy sẽ giúp luận án có được cơ sở thực tiễn vững chắc và tạo được niềm tin cho chúng tôi trong quá trình đề xuất và triển khai những nội dung quan trọng của công trình này. 4.5. Phương pháp thực nghiệm Việc thực nghiệm thường được sử dụng khi chúng ta cần khẳng định tính chân thực của một giả thuyết hay một sự phỏng định nào đó. Thực nghiệm cũng có thể được tiến hành như một tiêu chí để kiểm tra giả thuyết, kiểm tra một hoặc một số đề xuất. Kết quả thực nghiệm sẽ làm tăng thêm chất lượng quá trình nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học giáo dục và xác nhận một cách chính xác khả năng thực thi những đề xuất trong luận án. Trong lí luận dạy học, các nhà khoa học luôn đặt ra câu hỏi: Dạy cái gì? Dạy thế nào? Và, tại sao lại dạy như thế? [2, tr 34]. Luận án này thuộc chuyên ngành giáo dục học, vì thế những nội dung rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi mà chúng tôi đề xuất chính là sự trả lời cho câu hỏi “Dạy cái gì?”. Còn việc luận án đưa ra những bước rèn luyện cho hoạt động này chính là sự trả lời cho câu hỏi “Dạy thế nào?”. Và cuối cùng, phần mà luận án tiến hành thực nghiệm sẽ là lời giải đáp cho câu hỏi “Vì sao lại dạy như thế?. Bởi vậy, việc thực nghiệm trong luận án này không phải chỉ như một phương pháp nghiên cứu và còn là một nội dung buộc phải có. Thực nghiệm giúp kiểm tra, đánh giá được hiệu quả của các bước đi trong quy trình được luận án đưa ra, mặt khác còn giúp chúng tôi làm sáng rõ kết quả và xác định được mức độ khả thi của những đề xuất đó khi đưa vào thực tiễn hoạt động giáo dục. 5. Giả thuyết khoa học So sánh là một hoạt động thường gặp ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, vì so sánh vừa là một thao tác tư duy giúp trẻ khám phá và nhận thức về thế giới, vừa là một phương tiện ngôn ngữ, góp phần nâng cao hiệu quả diễn đạt; bởi vậy nếu giáo viên đưa ra được một quy trình rèn luyện kĩ năng so sánh phù hợp đối với trẻ, theo tinh thần “học mà chơi, chơi mà học” thì chắc chắn việc rèn luyện đó sẽ không chỉ giúp trẻ phát triển tư duy mà còn giúp trẻ hình thành được cả kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, tạo ra sự sinh động cho lời nói. 6. Đóng góp của luận án - Luận án đã hệ thống hóa được những vấn đề về lí luận ngôn ngữ học, giáo dục học và tâm lí học cũng như khảo sát một cách khách quan thực trạng có liên quan tới việc rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
- 7 - Đề xuất quy trình rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi với những bước đi rõ ràng, những chỉ dẫn cụ thể cho từng bước đi ấy trong hoạt động giáo dục Khám phá môi trường xung quanh và Làm quen với tác phẩm văn học. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm những nội dung sau đây: Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Trong chương này luận án dành để tập hợp lại những công trình nghiên cứu có nhiều đóng góp nhất về so sánh đã được công bố cả trong lô gic học cũng như trong lĩnh vực ngôn ngữ học, vì đây chính là điểm nhìn của chúng tôi trong luận án. Không dừng lại ở đấy, trong quá trình điểm như vậy, luận án cũng cố gắng chỉ ra những vấn đề lí luận đã được bàn bạc, những bình diện đã được phân tích kĩ lưỡng hoặc những nội dung, những vấn đề đang còn bỏ ngỏ... trong các công trình ấy. Việc tổng quan này giúp cho luận án có được những nhận thức ban đầu hết sức quan trọng để xác định phương hướng triển khai của mình. Chương 2. Cơ sở lí luận và thực tiễn Trong chương 2, luận án tập trung giới thiệu về cơ sở lí luận và thực tiễn đã được đề tài lựa chọn. Về mặt lí luận, luận án cố gắng làm rõ những khái niệm chính, một số nội dung cơ bản của thao tác so sánh, phép tu từ so sánh, những đặc trưng tâm lí lứa tuổi và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Đây là những vấn đề lí luận mà luận án buộc phải tìm hiểu để có những đề xuất chính xác, khoa học trong việc rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ. Về mặt thực tiễn, luận án đã phân tích chương trình mẫu giáo nói chung và phần chương trình dành cho hoạt động Khám phá môi trường xung quanh, Làm quen với tác phẩm văn học nói riêng. Bên cạnh đó, luận án còn tiến hành khảo sát, phân tích thực trạng của việc rèn luyện kĩ năng so sánh của trẻ trong những giờ học, trong lúc trò chuyện. Chỉ dựa vào những khảo sát và phân tích cơ sở thực tiễn này, luận án mới có khả năng đề xuất được một quy trình rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5-6 tuổi một cách khả thi. Chương 3. Đề xuất quy trình rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục Đây là chương trọng tâm, trình bày những đề xuất của tác giả luận án trong việc rèn luyện cho trẻ có kĩ năng sử dụng so sánh trong hoạt động Khám phá môi trường xung quanh và Làm quen với tác phẩm văn học. Bởi vậy, trước khi đưa ra một quy trình rèn luyện, luận án đã nêu lên một số nguyên tắc nhất định. Có thể coi đây là những quan điểm, những tư tưởng buộc phải tuân thủ khi rèn luyện. Sau đó, luận án
- 8 đưa ra một quy trình với những bước đi cụ thể trong việc rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ. Những bước đi và quy trình này được luận án phân tích cụ thể, có dẫn chứng minh họa để tiện cho việc vận dụng. Chương 4. Thực nghiệm sư phạm Chương này tập trung mô tả quá trình tiến hành thực nghiệm từ đối tượng, nội dung, phương pháp... cho đến kết quả và việc xử lí kết quả thực nghiệm để có được những kết luận cần thiết về nội dung nghiên cứu và qua đó bước đầu đánh giá được tính khả thi của những đề xuất mà luận án đã nêu ra. Khép lại nội dung chính của luận án là phần Kết luận chung. Trong phần này luận án nhìn lại những điểm đáng chú ý nhất và đưa ra những khuyến nghị cần thiết trong việc tổ chức hướng dẫn trẻ 5-6 tuổi rèn luyện kĩ năng so sánh trong trường mầm non.
- 9 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Khi điểm lại lịch sử của việc nghiên cứu so sánh và những vấn đề rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ, chúng tôi thấy số lượng những bài viết mang tính lí luận về so sánh tương đối nhiều. Điều đáng tiếc là những bài viết về rèn luyện kĩ năng so sánh trong hoạt động của trẻ, đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi - như vấn đề được đặt ra trong đề tài luận án này - lại dường như thiếu vắng. Bởi vậy, đối với chúng tôi, để điểm lại được một cách đầy đủ, hệ thống lịch sử vấn đề về lí luận so sánh cũng như việc sử dụng so sánh trong hoạt động nhận thức và giao tiếp của trẻ dường như là một thách thức rất lớn. Chúng tôi đã tìm đọc nhiều tài liệu lí luận ngôn ngữ, tài liệu về sự vận dụng ngôn ngữ và một số luận án tiến sĩ chuyên ngành Lí luận và phương pháp dạy học Tiếng Việt cũng như luận văn chuyên ngành Lí luận ngôn ngữ hiện có trong Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thư viện Quốc gia cũng như các bài viết trên mạng Internet... nhưng số lượng những bài có liên quan đến vấn đề mà chúng tôi đặt ra trong luận án dường như không nhiều. Chính vì lí do đó, trong phần Tổng quan, luận án xin điểm lại một số công trình, một số bài viết đã có ấy, dù những bài viết đó có thể còn chưa thật gần với đề tài luận án. Nhưng, dù ít hay nhiều, tất cả những tài liệu do những người đi trước biên soạn đó đều là những gợi ý tích cực cho chúng tôi về mặt lí luận cũng như thực tiễn của hoạt động rèn luyện cho trẻ 5-6 tuổi kĩ năng sử dụng so sánh, góp phần giúp luận án có cơ sở lí luận và thực tiễn vững chắc hơn. 1.1. SO SÁNH NHƯ MỘT THAO TÁC TƯ DUY 1.1.1. Thao tác so sánh Khi bàn về so sánh như một thao tác tư duy, dường như các tài liệu nước ngoài đều đặt ra vấn đề làm rõ khái niệm này, dù sự bàn luận đó có thể nông hay sâu, lời lẽ có thể ngắn hay dài, hoặc có thể khái quát hay cụ thể. Nhưng nhìn một cách chung nhất, các công trình này đều coi so sánh là một hoạt động trí tuệ và xếp so sánh vào loại suy luận tương tự thuộc nhóm các suy luận quy nạp. Trong Bút kí triết học của mình, khi vạch rõ tính không đầy đủ, không hoàn chỉnh trong tri thức thu được của con người, V.I. Lênin đã cho rằng “tương tự là một suy luận không cho ta những kết luận tất yếu được suy ra từ các tiền đề chân thực, mà chỉ cho ta những tri thức giả thuyết, cho ta những dự đoán dựa trên cơ sở so sánh sự tương đồng giữa hai đối tượng. Nhưng những hiểu biết, những dự đoán ban đầu
- 10 đó là hết sức cần thiết đối với nhận thức của con người trên con đường đi tìm chân lí để nhận thức chính xác về sự vật, hiện tượng” [dẫn theo 90, tr 166]. Để có thể biết được những suy luận nào đó là chân thực hay giả dối, khoa học cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện, để biến những tri thức vốn mang tính giả thuyết thành kết luận tất yếu và chân thực. Ví dụ, con người đã nhận ra Mặt trời và Trái đất có nhiều dấu hiệu tương tự: đều chuyển động, là thiên thể của cùng một hành tinh, có chung cấu tạo hóa học… Trên Mặt trời đã tìm thấy nguyên tố mới: Hêli. Suy luận: Trên Trái đất cũng có thể có Hêli. Và suy luận“Trên Trái đất cũng có thể có Hêli” hiện nay đã được khẳng định bằng những kết quả nghiên cứu chuyên sâu của các nhà khoa học và dẫn đến kết luận: Trái đất có nguyên tố Hêli. Như vậy, tương tự mới là nhận thức ban đầu, là dự đoán bằng suy luận, là cái mới chỉ ở dạng “có thể”, nên muốn khẳng định được cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu để có kết luận chính xác. Theo V.I. Lênin và nhiều nhà nghiên cứu khác thì so sánh là cái cốt lõi để tạo ra phép suy luận tương tự. Trong Từ điển Triết học của Liên xô (cũ), so sánh được xem là:“Đối chiếu các đối tượng nhằm phát hiện ra những nét giống nhau hay khác nhau giữa chúng (hoặc cả hai cái cùng một lúc). Là tiền đề quan trọng nhất của khái quát hóa. Đóng một vai trò to lớn trong suy lí theo phép tương tự. Những phán đoán thể hiện kết quả so sánh là mục tiêu phát hiện nội dung các khái niệm về các đối tượng được so sánh; về mặt này thì so sánh được dùng làm một phương pháp bổ sung - và đôi khi cả thay thế - cho định nghĩa” [90, tr 506]. So sánh ở đây đã trở thành một tiền đề quan trọng nhất để khái quát hóa, để phát hiện nội dung các khái niệm. Trong cuốn Lô gic học của D.P Gorki, dựa trên quan điểm của Lênin, tác giả cho rằng so sánh tương tự thuộc về suy luận quy nạp và cho rằng, đấy là “suy luận trong đó từ chỗ hai đối tượng giống nhau ở một số dấu hiệu, ta rút ra kết luận rằng các đối tượng này giống nhau ở các dấu hiệu khác” [66, tr 166]. Ông đưa ra ví dụ: A có các dấu hiệu a,b,c,d; và B có các dấu hiệu a,b,c → Suy ra: B có thể có dấu hiệu d. Tất nhiên ta hiểu rằng kết luận trong các suy luận tương tự không được rút ra một cách tất yếu từ các tiền đề vì các đối tượng được so sánh, dù cho chúng giống nhau thế nào đi nữa, bao giờ cũng có những dấu hiệu khác nhau (nếu không thì các đối tượng này không còn là hai đối tượng khác nhau mà là một) [66, tr 167]. Trong tác phẩm “Phương pháp biện luận – Thuật hùng biện” nhà nghiên cứu Triệu Truyền Đống của Trung Quốc cho rằng“So sánh là cách đối chiếu giữa những vật mà bản chất khác nhau nhưng có những điểm giống nhau” [65, tr 187],“So sánh
- 11 là so sánh giữa hai sự vật phải trái, cũng có thể là so sánh giữa hai loại sự vật trương quan, tương tự” [65, tr 205]. Điều này có nghĩa là khi đã nói đến so sánh là phải có hai đối tượng và đem hai đối tượng đó đặt cạnh nhau để xem xét nhằm rút ra được cái gì giống nhau và khác nhau giữa chúng. Như vậy, trong hoạt động nhận thức, so sánh đều được các nhà khoa học thống nhất coi là một thao tác. Đó là việc“xác định sự giống nhau trong một số mặt, tính chất và quan hệ giữa những đối tượng không đồng nhất; suy lí theo tương tự là những kết luận được rút ra căn cứ vào sự giống nhau ấy...” [90, tr 650]. Điều này cho thấy, so sánh là một thao tác trí tuệ giúp con người dùng để nhận thức hiện thực khách quan, để suy luận và khám phá thế giới. Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình đề cập đến khái niệm so sánh và thao tác so sánh. Tuy vậy, khái niệm so sánh của các tác giả này cũng không có khác biệt gì đáng kể so với các tác giả nước ngoài. Nếu có điểm gì đó cần phải nói thêm thì đó chính là việc có những tác giả không chỉ nêu khái niệm so sánh mà còn đi sâu hơn vào việc phân tích khái niệm“phương pháp so sánh”. Tác giả Vương Tất Đạt cho rằng: so sánh“được coi như phương pháp lĩnh hội tri thức mới, là suy luận trong đó kết luận về sự giống nhau của các dấu hiệu được rút ra trên cơ sở giống nhau của các dấu hiệu khác của các đối tượng”. Tuy vậy, theo tác giả, để nâng cao giá trị của so sánh “Cần phải chú ý đến một số điều kiện: Các đối tượng so sánh càng có nhiều dấu hiệu chung bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu vì như vậy kết luận rút ra được càng có độ tin cậy cao; Các dấu hiệu chung không được cùng loại hoặc là hệ quả của nhau vì như vậy thông tin sẽ trở nên nghèo nàn và kết luận rút ra sẽ có độ chính xác không cao; Các dấu hiệu càng phản ánh đúng bản chất bao nhiêu thì mức độ chính xác của kết luận cũng sẽ càng cao bấy nhiêu, vì sự giống nhau về bản chất sẽ làm cho tính tương đồng giữa các đối tượng sẽ càng tăng cao hơn” [10,tr 140]. Trong một công trình khác viết về Lô gic học, các tác giả cũng đã phân tích thêm cơ sở khoa học của phép suy luận so sánh tương tự. Các tác giả cho rằng “Mỗi sự vật hiện tượng có hàng loạt các thuộc tính gắn liền với bản chất của nó. Các thuộc tính đó bộc lộ ra ngoài thành tập hợp các dấu hiệu. Vì thế nếu hai đối tượng có hàng loạt dấu hiệu đồng nhất, nếu các dấu hiệu đó thực sự là dấu hiệu bản chất, thì rất có thể hai đối tượng là đồng loại, do đó nếu đối tượng này có thêm dấu hiệu gì thì đối tượng kia cũng có thể có” [16, tr 265]. Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể thấy thao tác so sánh được sử dụng thường xuyên và có giá trị to lớn trong hoạt động tư duy của con người. Nó là một trong những cách suy luận chiếm ưu thế ở giai đoạn đầu của quá trình nhận thức của
- 12 xã hội. Nhờ quan sát rồi so sánh, con người có thể nhanh chóng đưa ra được những nhận định ban đầu để định hướng hành động khi mà chưa có điều kiện để kiểm tra, xác minh một cách chính xác nhận thức đó. 1.1.2. Tác dụng của thao tác so sánh đối với nhận thức 1.1.2.1. Là cơ sở nâng cao khả năng nhận thức chân lí Trong tác phẩm “Phương pháp biện luận – Thuật hùng biện”, nhà nghiên cứu Triệu Truyền Đống đã dành nhiều trang viết không chỉ để phân tích khái niệm so sánh mà còn để chỉ ra tác dụng của so sánh đối với nhận thức của con người. Không có so sánh, không có sự đối chiếu giữa các sự vật, sự việc với nhau, tư duy của con người thiếu cơ sở chắc chắn để nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực khách quan. Vì vậy, ông cho rằng “Qua việc so sánh hai loại sự vật tương quan, tương tự càng có thể nâng cao khả năng nhận thức của con người đối với một sự vật nào đó, nâng cao khả năng phân biệt đúng sai, có lí và vô lí, từ đó mà đạt đến mục đích chiến thắng trong tranh luận” [65, tr 205]. Không dừng lại ở đó, ông còn cho rằng một so sánh hay “Một so sánh có hình ảnh sinh động có thể làm cho cái khó hiểu trở nên rõ ràng, cái trừu tượng trở nên cụ thể, cái lạ lẫm trở nên quen biết. Đồng thời có thể gợi liên tưởng làm cho luận chứng của mình như hổ chắp cánh, hiệu quả bội phần”. Để minh chứng cho ý kiến trên của mình, ông đã đưa ra một dẫn chứng cụ thể để bạn đọc hiểu rõ hơn về giá trị này của so sánh. Ông kể, có một lần Ka-li-nin - nhà tuyên truyền Nga - giảng giải về tầm quan trọng của liên minh công nông cho nông dân nghe. Và dù đã giảng giải cũng như chứng minh hết sức tường tận nhưng người nghe vẫn “ù ù cạc cạc”. Một người nông dân đã đứng lên hỏi ông: “Với chính quyền Xô viết thì cái gì quý hơn, công nhân hay nông dân?”. Nhân cơ hội đó, Ka-li-nin hỏi lại bằng cách nói so sánh: “Vâng, thế thì với một người, cái gì quý hơn, chân phải hay chân trái?”. Cả hội trường nổ tung một tràng pháo tay. Ai cũng cười hả hê” [65, tr 187]. Với những người nông dân Nga vào thời điểm Nhà nước Xô viết mới được thành lập, việc trả lời những câu hỏi mà họ đặt ra đâu phải dễ dàng và chắc gì đã thuyết phục được họ. Và rất có thể việc giải thích, việc trả lời trực tiếp những câu hỏi ấy có khi lại dẫn đến chỗ khiến họ hiểu sai lạc ý của người trả lời. Vì vậy cách tốt nhất là đẩy câu trả lời về phía người hỏi. Cách làm của Ka-li-nin là hết sức không ngoan. Ở đây, chỉ cần một sự so sánh đơn giản nhưng hết sức sát hợp, Ka-li-nin đã làm rõ được mọi điều và giúp những người nông dân Nga có khả năng nhận thức đúng đắn vấn đề được nói đến. Tác dụng ở đây của so sánh là như vậy. Sức mạnh của so sánh càng phát huy hiệu quả hơn nữa, khi mà giữa hai sự vật,
- 13 hiện tượng cho dù giảng giải, phân tích dài dòng đến mấy cũng chưa chắc đã nói được hết ý. Trong những trường hợp ấy, người ta chỉ cần dùng so sánh là có thể tất cả những điều cần giải thích, cần phân tích đã được gửi gắm đủ ở trong đó. Qua so sánh, con người có thể tự nâng cao được khả năng nhận thức đối với một sự vật nào đó và phân biệt được đúng sai, cái có lí và cái vô lí một cách rõ ràng. Và cũng chính vì việc bản thân tự nhận thức, tự lí giải thông qua cách so sánh như vậy mà nhiều khi tính thuyết phục cũng theo đó tăng lên. Vẫn trong tác phẩm “Phương pháp biện luận - Thuật hùng biện”, Triệu Truyền Đống đã dẫn ra câu chuyện Tiền Ích Khiêm - viên thượng thư bộ Lễ triều đình nhà Minh nhưng lại quy hàng nhà Thanh - có người cháu gái sau khi mãn tang chồng đã tái giá. Theo tục lệ địa phương, trong lễ tái giá, đám cưới sẽ không có trống nhạc. Gặp cháu, ông ta khích bác:“Lần cưới trước trống nhạc vang trời, sao lần này im ắng vậy? Hai lần đều là cưới mà sao khác nhau thế!”. Người cháu biết người cậu có ý mỉa mai thân phận tái giá của mình và theo đúng cách của người cậu, cô cũng đã hỏi lại ông bằng một so sánh tương đồng. Cô biết rằng y phục của quan lại nhà Minh là áo cổ tròn, còn y phục nhà Thanh mặc áo đính móc, nay vì bỏ nhà Minh, đầu hàng nhà Thanh mà ông cậu buộc phải mặc y phục đính móc. Cô nói:“Hai lần cậu đến mừng đám cưới cháu, lần trước cậu mặc áo cổ tròn, còn lần này sao cậu lại mặc áo đính móc?”. Người cậu đứng lặng người và cúi gằm mặt [65, tr 78]. Cách so sánh tương đồng mà cô cháu gái sử dụng ở đây đã có hiệu quả. Cô không to tiếng hay nặng lời với cậu mình mà chỉ cần đưa ra một so sánh là ông cậu cũng có thể hiểu cô cháu gái giận mình biết chừng nào! 1.1.2.2. Giúp khái niệm trừu tượng trở nên cụ thể, dễ hiểu hơn Tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” của X.Y.Z là một trong những cuốn sách đã chỉ ra rất rõ tác dụng của so sánh đối với cuộc sống [63]. Trong chương V “Cách lãnh đạo”, tác giả đã cho rằng dân chúng thường rất hay so sánh và họ nhận thức được nhiều điều thông qua so sánh. Tác giả viết:“Họ so sánh bây giờ và họ so sánh thời kỳ đã qua. Họ so sánh từng việc và họ so sánh toàn bộ. Do sự so sánh, họ thấy chỗ khác nhau, họ thấy mối mâu thuẫn. Rồi lại do đó, họ kết luận, họ đề ra cách giải quyết”. Và cũng do so sánh mà người lao động“biết rõ ràng” về cán bộ, về việc cán bộ làm. Bởi thấy rõ tác dụng của so sánh như vậy, tác giả kết luận:“So đi sánh lại, phân tích rõ ràng là cách làm việc có khoa học”. Việc gì cũng cần phải so sánh thật kĩ lưỡng, khoa học. So sánh dường như đã trở thành một thao tác rất quan trọng đối với nhận thức của con người. Trong bài “Học tập cách viết dễ hiểu của bác Hồ” in trong tập “Một số bài
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Xây dựng và sử dụng E-learning vào dạy học các kiến thức Hạt nhân nguyên tử Vật lí 12 THPT theo mô hình lớp học đảo ngược
204 p | 348 | 79
-
Luận án tiến sĩ khoa học vật liệu: Nghiên cứu chế tạo tính chất quang của các chấm lượng tử CdSe với cấu trúc lõi/vỏ và định hướng ứng dụng
186 p | 306 | 57
-
Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục: Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học một số khái niệm hóa học cơ bản ở trường Trung học Cơ sở nhằm phát triển năng lực thực nghiệm cho học sinh
260 p | 262 | 54
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học nông nghiệp: Nghiên cứu sử dụng một số phụ phế phẩm và xây dựng khẩu phần ăn cho bò sữa dựa trên nguồn thức ăn sẵn có ở một số tỉnh phía Nam
149 p | 221 | 50
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học máy tính: Khai phá dữ liệu chuỗi thời gian dựa vào rút trích đặc trưng bằng phương pháp điểm giữa và kỹ thuật xén
32 p | 277 | 41
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: “Công nghệ dạy học trực tuyến dựa trên phong cách học tập
172 p | 220 | 39
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục: Quản lý hoạt động tự học của lưu học sinh Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tại Việt Nam
224 p | 166 | 31
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Quản lí hoạt động thực hành - thực tập của sinh viên ngành Quản lí giáo dục theo tiếp cận chuẩn đầu ra
222 p | 167 | 28
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục: Quản lý đội ngũ giáo viên trường THPT tỉnh Lâm Đồng trong bối cảnh đổi mới giáo dục
216 p | 148 | 28
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Rèn luyện NL GQVĐ cho HS trong dạy học phần DTH ở trường THPT chuyên
121 p | 168 | 28
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục học: Điều chỉnh hành vi ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ 3 – 6 tuổi dựa vào bài tập chức năng
0 p | 177 | 25
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Vận dụng quan điểm sư phạm tương tác vào dạy học Sinh học 9 trường THCS
165 p | 156 | 23
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Nghiên cứu đặc điểm và giá trị xã hội của thể thao giải trí ở Hà Nội
40 p | 239 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục: Hình thành cho sinh viên kĩ năng đánh giá năng lực khoa học của học sinh theo quan điểm PISA trong dạy học Sinh học ở trường phổ thông
167 p | 162 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Xây dựng mô hình tổ chức xêmina định hướng phát triển năng lực trong đào tạo giáo viên Địa lí bậc đại học
170 p | 130 | 15
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng Web Atlas quản lý hành chính thành phố Hà Nội
28 p | 145 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Tổ chức hoạt động khám phá khoa học nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
203 p | 69 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học trên cơ sở vấn đề bài học STEM chủ đề các thể của chất môn Khoa học tự nhiên 6
275 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn