intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Huc Ninh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:173

45
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận án là nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, luận án luận giải, xác định các quan điểm và giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ THU HÀ THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN CHÝNH TRÞ §èI VíI PHô N÷ ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật HÀ NỘI - 2018
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ THU HÀ THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN CHÝNH TRÞ §èI VíI PHô N÷ ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 62 38 01 01 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO 2. TS. LÊ ĐINH MÙI HÀ NỘI - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Nguyễn Thị Thu Hà
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6 1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 26 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 29 2.1. Khái niệm quyền chính trị, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ, thực hiện pháp luật vể quyền chính trị đối với phụ nữ 29 2.2. Chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò và các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ 44 2.3. Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở một số nước trên thế giới và những giá trị tham khảo đối với Việt Nam 67 Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỂ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 79 3.1. Thực trạng pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay 79 3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay 94 Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 124 4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay 124 4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay 135 KẾT LUẬN 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 154 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCH : Ban Chấp hành CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội HĐND : Hội đồng nhân dân HTCT : Hệ thống chính trị LHPN : Liên hiệp phụ nữ LHQ : Liên Hợp quốc PBGDPL : Phổ biến giáo dục pháp luật THPL : Thực hiện pháp luật UBND : Uỷ ban nhân dân VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Trang Bảng 3.1: Đại biểu Quốc hội theo chức vụ 103 Bảng 3.2: Cơ cấu lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan của Quốc hội 104 Bảng 3.3: Tỷ lệ nữ đại biểu tham gia các Ủy ban Quốc hội 105 Bảng 3.4: Phụ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương 106 Bảng 3.5: Tỉ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng 106 Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ cử tri đi bầu cử Quốc hội các khóa từ năm 1946 đến nay 99 Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội các khóa từ năm 1946 đến nay 100 Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân ba cấp (giai đoạn 1989-2016) 101
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam, quan tâm đến công tác nữ là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình cách mạng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã viết: Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ [89, tr.30]. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Ðảng về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ được thể hiện xuyên suốt trong các Nghị quyết Ðại hội Ðảng, các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ. Từ chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó quan trọng nhất là bảo đảm và tạo điều kiện để phụ nữ Việt Nam thực hiện quyền chính trị. Quyền bình đẳng nam nữ đã được xác định ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Vấn đề này tiếp tục được kế thừa trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 và cụ thể hóa trong các văn bản luật và dưới luật. Hàng loạt các văn bản pháp luật của Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội và thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... Có thể thấy hệ thống luật pháp, chính sách về phụ nữ ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt, với việc ban hành Hiến pháp 2013, quyền con người trong đó có quyền của phụ nữ được khẳng định là động lực quan trọng để phát triển xã hội. Cùng với việc ban hành pháp luật, Việt Nam đã phê chuẩn và gia nhập Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 và hầu hết các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, trong đó có các công ước liên quan đến các quyền của phụ nữ như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (1979, CEDAW); Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật...
  8. 2 Pháp luật Việt Nam về cơ bản đã nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong đó có quyền chính trị của phụ nữ, phù hợp cùng với xu thế phát triển chung của nhân loại và đặc thù của Việt Nam nên đã tạo động lực giúp người phụ nữ vươn lên, khắc phục khó khăn, trở ngại đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, khẳng định vị thế của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV, phụ nữ chiếm 26,6% trong tổng số đại biểu. Đây là tỷ lệ cao qua các kỳ bầu cử Quốc hội và đã đưa Việt Nam thuộc hàng nước có tỷ lệ nữ đại biểu trong cơ quan lập pháp cao nhất châu Á cũng như trên thế giới (trên 25%). Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực. Theo Liên minh các Nghị viện, Việt Nam đứng thứ 37 trong tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp (số liệu tính đến ngày 31/1/2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan lập pháp các nước) [31]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc đảm bảo cho phụ nữ được thực hiện các quyền do pháp luật quy định, cần phải thừa nhận rằng công tác THPL về các quyền của phụ nữ trong đó có quyền chính trị vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù, Việt Nam xếp thứ hạng cao trên thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ (73,4% và 26,6%); đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt (cấp trưởng). Vẫn còn những rào cản từ phía gia đình, xã hội đối với phụ nữ khi tham gia công tác xã hội, chính trị. Tỉ lệ phụ nữ tham chính vẫn còn chưa đạt được yêu cầu đề ra; sự phân biệt đối xử về cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp của phụ nữ dẫn đến hẫng hụt đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ vẫn là thách thức lớn; pháp luật về quyền chính trị và THPL về quyền chính trị của phụ nữ ở nước ta còn chưa được nhận thức đầy đủ như là một công cụ để quản lý xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho phụ nữ. Tình trạng vi phạm pháp luật đối với phụ nữ, nhất là vi phạm quy định pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ vẫn còn diễn ra ở một số nơi là cản trở quá trình phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), đi ngược lại bản chất tốt đẹp của xã hội chúng ta đang xây dựng. Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do các nguyên nhân như: Hệ thống pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ còn thiếu đồng bộ và tính khả thi chưa cao; nhận thức về chính sách pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ của các chủ thể còn chưa đầy đủ; năng lực THPL của các chủ thể còn hạn chế; công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc THPL còn chậm, thiếu kiên quyết trong xử lý dẫn đến việc thực hiện không đúng, đủ.
  9. 3 Vấn đề đặt ra là tại sao Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có hệ thống pháp luật tốt nhìn từ góc độ bình đẳng giới, nhưng tỉ lệ phụ nữ tham chính có chiều hướng giảm, sự hẫng hụt về nguồn cán bộ nữ tham gia cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020, kể cả nhiệm kỳ 2020-2025 đang là thực tế ở tất cả các cấp; tiếng nói của phụ nữ trong các lĩnh vực quan trọng của đất nước chưa được chú trọng... Điều này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu để tìm ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân kết quả, hạn chế trong THPL để kiến nghị giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay là cần thiết. Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu trong phạm vi luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, luận án luận giải, xác định các quan điểm và giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau: Một là, phân tích, làm rõ khái niệm quyền chính trị, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ; Chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò, các yếu tố bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ; rút ra những gợi mở đối với Việt Nam từ nghiên cứu kinh nghiệm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ một số nước thế giới. Hai là, phân tích chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của kết quả, hạn chế của pháp luật và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. Ba là, luận giải, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm thực THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. Từ đó, luận án luận chứng những cơ sở khoa học và đề xuất các quan điểm, giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
  10. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Nghiên cứu việc THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam. - Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam. - Phạm vi thời gian: Nghiên cứu pháp luật và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ từ năm 1945 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về quyền con người, quyền công dân; chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bình đẳng giới và quyền chính trị của phụ nữ, về giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát huy nhân tố con người; bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong đó có quyền chính trị của phụ nữ trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay; lý luận về thực hiện pháp luật nói chung và lý luận về thực hiện pháp luật về quyền con người, quyền của phụ nữ nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tư liệu thứ cấp, phân tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay. Trong Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá để xây dựng các khái niệm; phương pháp phân tích, tổng hợp dùng để nghiên cứu chủ thể, nội dung, hình thức và các yếu tố bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay; phương pháp luật học so sánh được sử dụng để tham chiếu giữa các chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm về THPL về quyền chính trị của đối với phụ nữ ở một số nước trên thế giới và những giá trị có thể tham khảo đối với Việt Nam. Trong Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, nhằm đánh giá việc THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay, đồng thời đánh giá, phân tích những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những kết quả, hạn chế, từ đó tác giả làm sáng tỏ nội dung của Luận án. Trong Chương 4, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học góp phần bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay.
  11. 5 5. Những điểm mới của luận án 5.1. Về phương diện lý luận Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên một cách toàn diện về THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay nên có những đóng góp mới về mặt lý luận sau: - Luận án đã xây dựng được khái niệm, làm rõ chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò và các yếu tố đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. - Từ nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế về quyền chính trị của phụ nữ, kinh nghiệm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ của một số nước trên thế giới, rút ra những gợi mở đối với Việt Nam. 5.1. Về phương diện thực tiễn - Luận án là công trình đầu tiên đánh giá rõ thực trạng pháp luật và THPL về quyền chính trị của phụ nữ, phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế trong THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Luận án luận chứng các quan điểm, đề xuất các giải pháp bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam, luận án là tài liệu tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam. - Luận án cung cấp luận cứ khoa học và tài liệu cho các cơ quan trong hệ thống chính trị (HTCT), các tổ chức xã hội thực hiện giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, tổ chức THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam. - Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy, học tập về pháp luật về quyền con người nói chung, pháp luật về quyền của phụ nữ nói riêng trong các cơ sở đạo tạo chuyên luật và không chuyên luật. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 04 chương, 09 tiết.
  12. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước * Một số công trình khoa học nghiên cứu về quyền chính trị, pháp luật về quyền chính trị và thực hiện pháp luật về quyền chính trị Thứ nhất, các công trình khoa học nghiên cứu về quyền chính trị và pháp luật về quyền chính trị Đề tài khoa học cấp Bộ: "Sự phát triển quyền dân sự và chính trị trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (1986 - 2001)" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [61]. Đề tài chia các nhóm vấn đề để nghiên cứu như: Vị trí, đặc điểm quyền dân sự và chính trị trong Công ước quốc tế về quyền con người; nội dung cơ bản của quyền dân sự và chính trị trong Công ước quốc tế về quyền con người; quá trình phát triển của quyền dân sự và chính trị ở nước ta trong một số lĩnh vực, đối tượng cụ thể. Sách: - "Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị" của Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh [56] đã nêu lên một số nội dung cơ bản về quyền dân sự và chính trị: Một số vấn đề về lịch sử và lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân sự chính trị, vị trí của quyền dân sự và chính trị trong hệ thống nhân quyền. Quyền dân sự chính trị ở Việt Nam hiện nay. - "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị" của Võ Khánh Vinh [157] đã trình bày những vấn đề liên quan đến quyền dân sự và quyền chính trị, quyền con người, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bí mật đời tư... ở Việt Nam; - "ABC về các quyền dân sự, chính trị cơ bản" của tác giả Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng [51], cuốn sách chứa đựng những thông tin cơ bản về các chuẩn mực quốc tế và pháp luật Việt Nam về các quyền tự do biểu đạt, thông tin, hội họp, hiệp hội, biểu tình và dân chủ trực tiếp. Cuốn sách được cấu trúc theo hình thức các câu
  13. 7 hỏi - đáp nhằm giúp bạn đọc dễ tiếp cận, qua đó góp phần vào việc soạn thảo các đạo luật đã nêu mà đang được tiến hành ở nước ta. - "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam" của tác giả Phạm Văn Ba, Nguyễn Thị Báo và Vũ Công Giao là đồng chủ biên [5]. Cuốn sách đã nêu và phân tích quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp đặc biệt là Hiến pháp năm 2013, trong đó, có nội dung quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền của phụ nữ Việt Nam. Luận án: "Pháp luật bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xã hội ở Việt Nam: những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Lê Hoài Trung [130]: Nội dung Luận án đã phân tích, đánh giá về pháp luật về bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xã hội ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến quyền của phụ nữ Việt Nam. Tạp chí: - "Quyền dân sự, chính trị trong xã hội ta" của tác giả Vĩnh An [1], tác giả đã giải thích ngắn gọn về các nhóm quyền dân sự, chính trị; việc thực hiện các quyền này trong quan điểm, hành động của Đảng và Nhà nước ta. Cuối bài viết, tác giả khẳng định: Nhận thức một cách đúng đắn về quyền dân sự, chính trị trong bối cảnh khó khăn, phức tạp của tình hình đất nước hiện nay; bình tĩnh, tỉnh táo trước những ý kiến gọi là "thực tâm" hay "tâm huyết" của những người khởi xướng "Tuyên bố…" để không rơi vào cạm bẫy của mưu đồ nhằm xóa bỏ chế độ chính trị hiện nay - thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã đổ biết bao mồ hôi, xương máu mới có được. - "Quyền dân sự và chính trị trong Hiến pháp 1992 - Sự kế thừa và phát triển" của tác giả Nguyễn Thị Báo [8], bài viết phân tích những vấn đề cốt lõi về Hiến định các quyền dân sự và chính trị trong Hiến pháp 1992 có sự kế thừa, phát triển trong quá trình lập hiến từ năm 1946 đến năm 1992; chỉ rõ những điểm mới, những điểm cần bàn thêm về quyền dân sự và chính trị được ghi nhận trong quá trình lập hiến ở Việt Nam. Các công trình nêu trên cho cái nhìn khái quát nhưng toàn diện các nội dung liên quan đến quyền con người nói chung và quyền chính trị nói riêng như: Đặc điểm, nội dung, các quy định của pháp luật liên quan đến quyền con người trong đó có quyền chính trị của phụ nữ trong các lĩnh vực cụ thể của xã hội.
  14. 8 Thứ hai, các công trình khoa học nghiên cứu về THPL và THPL về quyền chính trị gồm có: Đề tài khoa học cấp Bộ: - "Điều tra việc thực hiện pháp luật" của Viện Khoa học xã hội [150] nhằm đạt được những mục tiêu trước mắt và lâu dài. Trước mắt, đề tài làm rõ mức độ vi phạm pháp luật, tình hình THPL ở các địa phương, các ngành, phát hiện ra những vi phạm pháp luật ở các cấp độ khác nhau, tìm ra những kẽ hở, sự chồng chéo trong pháp luật dẫn tới việc vi phạm pháp luật. Mục tiêu lâu dài của đề tài là trên cơ sở những thông tin thu thập được, qua phân tích, xử lý thông tin sẽ đưa ra những kiến nghị có cơ sở khoa học về xây dựng và áp dụng pháp luật về phòng ngừa các vi phạm pháp luật kiến nghị về hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả pháp luật để thực hiện nguyên tắc Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật để Nhà nước thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, văn minh. Nhìn chung, THPL được nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lê nin về Nhà nước và pháp luật; kế thừa, phát triển thành tựu của lý luận về Nhà nước và pháp luật; lý luận về THPL từ khoa học pháp lý Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây. - Trong 02 công trình khoa học: "Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật" của Đào Trí Úc [141]; "Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới" của Đào Trí Úc [142] đã nêu rõ lý luận về THPL và đặt nó trong quan hệ với các yếu tố cấu thành của điều chỉnh pháp luật; với xây dựng, bảo vệ pháp luật và thực thi quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của Đổi mới. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới cả về nhận thức lý luận và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế tổ chức THPL. THPL được nghiên cứu dưới góc độ áp dụng pháp luật để hiện thực hóa pháp luật trong thực tế, trong cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội - quá trình pháp luật phát huy hiệu quả điều chỉnh trong thực tiễn. Ngoài ra, cũng trong một nghiên cứu khác, đó là: "Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Đào Trí Úc [144] lại nghiên cứu về cơ chế giám sát và kiểm tra nói chung và trong THPL nói riêng. Sách: - Trong cuốn sách: "Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam" của Nguyễn Minh Đoan [45] đã làm rõ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, hình thức, quy
  15. 9 trình, các bảo đảm và tiêu chí đánh giá hiệu quả THPL ở Việt Nam, thực trạng và đề xuất các giải pháp; làm rõ về áp dụng pháp luật (khái niệm, đặc điểm, các trường hợp, nguyên tắc, quá trình và quyết định áp dụng); áp dụng pháp luật tương tự, giải thích pháp luật… Luận án: Luận án: "Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Văn Mạnh [87]; "Những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tự do cá nhân" của Trần Thanh Hương [74]; "Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Báo [9]; "Thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Đỗ Xuân Lân [79]; "Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam" của Nguyễn Đỗ Kiên [77]; "Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam" của Đỗ Thị Thơm [121]; "Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tực hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Văn Linh [80]; "Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam" của Lê Thúy Bình [14]... Những luận án nêu trên đã nêu được cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác hoàn thiện và thực hiện pháp luật trong một số lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội và quyền con người. Tạp chí: - Bài viết: "Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật của công dân ở nước ta hiện nay" của Hoàng Thị Kim Quế trong [107] đã phân tích nhận thức toàn diện về THPL của công dân gồm hai phương diện chủ yếu: Không thực hiện hành vi trái pháp luật và thực hiện hành vi hợp pháp. Bài viết nhấn mạnh ý nghĩa của việc nghiên cứu, nhận diện đầy đủ những yếu tố tác động đến THPL, coi đó như là cơ sở để xây dựng các giải pháp bảo đảm hiệu quả THPL của công dân ở nước ta hiện nay. - Bài viết "Đảm bảo thực thi quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013" của Lưu Ngọc Tố Tâm [113] đã phản ánh những quy định mới về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp và chỉ ra những điều kiện, giải pháp đảm bảo thực thi có hiệu quả những quyền này.
  16. 10 Những luận án nêu trên là tài liệu tham khảo về cơ sở lý luận và thực tiễn các vấn đề liên quan đến quyền con người, THPL và thực tiễn THPL trên một số lĩnh vực cụ thể. * Một số công trình khoa học nghiên cứu về phụ nữ và thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ Đề tài khoa học cấp Bộ: - Nghiên cứu: "Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị" của Ban Tổ chức Trung ương [7], nghiên cứu này chủ yếu tập trung đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ nhằm đưa ra các giải pháp thích hợp để tăng cường năng lực lãnh đạo chính trị của nhóm đối tượng này. Cuộc khảo sát của nghiên cứu này được thực hiện với mẫu khá lớn (1.218 phiếu), với đối tượng là các quan chức làm việc trong các cơ quan của bộ máy chính trị (Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội) từ Trung ương đến địa phương. Mục tiêu của nghiên cứu là đưa ra bức tranh toàn cảnh về sự tham gia chính trường của phụ nữ Việt Nam, nhưng thực trạng mà nghiên cứu này mô tả chỉ chủ yếu là ở giai đoạn đầu những năm 2000. Nghiên cứu này chủ yếu xem xét quan niệm của cán bộ công chức về năng lực làm việc của phụ nữ, trong sự so sánh với năng lực của nam giới, và mô tả hiện tượng bất bình đẳng giới trong đời sống chính trị của đất nước, mà không chú trọng phân tích các lý do hoặc so sánh các nhóm lý do dẫn đến thực trạng đó. Những vấn đề bất bình đẳng giới trong cấu trúc thang bậc quyền lực giữa nam và nữ cũng được công trình đề cập và mô tả tuy nhiên vẫn có thiếu vắng những lý thuyết và trọng tâm phân tích các lý do hoặc so sánh các nhóm rào cản dẫn đến thực trạng đó. Báo cáo nghiên cứu đã liệt kê một số nguyên nhân khiến phụ nữ Việt Nam ít tham gia lãnh đạo chính trị, nhưng điều đáng chú ý là những nguyên nhân này phần lớn được rút ra từ báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37-CT/TW của các bộ, ban ngành (1994 - 2004). - Đề tài khoa học cấp bộ: "Điều tra cơ bản về sự tiến bộ nghề nghiệp của cán bộ nữ trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước" của Trương Thị Thông [122], đề tài tập trung phân tích cơ sở lý luận, Nghị quyết, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và căn cứ số liệu điều tra để đánh giá những kết quả, thành tựu và thách thức trong quá trình tiến bộ nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đưa ra một
  17. 11 số dự báo xu hướng vận động, quan điểm, giải pháp thúc đẩy sự tiến bộ nghề nghiệp của cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước trong những năm sắp tới. - Đề tài khoa học cấp Bộ: "Phụ nữ Việt Nam trong lãnh đạo, quản lý công hiện nay" của Đặng Thị Ánh Tuyết [139], từ hướng tiếp cận chuyên ngành xã hội học và các lý thuyết liên ngành, đề tài nghiên cứu, mô tả và phân tích thực trạng phụ nữ Việt Nam trong lãnh đạo, quản lý công, chỉ ra các nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ thông qua đó đề xuất các giải pháp phát huy và tăng cường sự tham gia của phụ nữ Việt Nam trong lãnh đạo, quản lý công hiện nay. Đề tài cung cấp và phát triển các ý tưởng nghiên cứu chuyên sâu lý luận về sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong bối cảnh hội nhập và phát triển ở Việt Nam. Việc vận dụng cách tiếp cận lý thuyết xã hội học trong phân tích thực trạng, các yếu tố tác động và hàm ý các chính sách tăng cường vai trò phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý công thể hiện sự phù hợp và kết nối được giữa lý luận và thực tiễn của chủ đề nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cho việc hoàn hiện hệ thống khung pháp lý đảm bảo thực hiện quyền phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý và chính sách cán bộ nữ trong bối cảnh hội nhập; đồng thời là tài liệu tham khảo hữu ích cho học viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành xã hội học, sử học, văn hóa học... và những tác giả quan tâm đến lĩnh vực phụ nữ, giới trong quản lý. Sách: - "Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý" của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về lao động nữ [131], cuốn sách có chủ đề phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý nhưng mới phân tích và bàn luận sơ lược về địa vị của phụ nữ Việt Nam trong bộ máy chính trị hiện tại. - "Vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Võ Thị Mai [85] đã phần nào làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi vai trò nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, ở góc độ tiếp cận xã hội học, cuốn sách là kết quả nghiên cứu về giới trong phạm vi khảo sát, điều tra tại tỉnh Quảng Ngãi thuộc vùng Duyên hải miền Trung. - Cuốn sách: "Công ước của Liên Hợp quốc và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ" của Dương Thanh Mai [84], đây là sách chuyên khảo
  18. 12 gồm 412 trang có nội dung gồm những bình luận khoa học đối với từng điều (16 điều) của CEDAW, gắn với việc đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Cuốn sách cung cấp nhiều thông tin quý giá về cơ sở lý luận của vấn đề bình đẳng giới, phân tích sâu sắc, toàn diện từng chính sách, pháp luật Việt Nam hiện nay trên cơ sở quá trình nội luật hóa từng điều của CEDAW. Ngoài giá trị về khoa học pháp lý, cuốn sách có thể được coi là một bản Báo cáo quốc gia về pháp luật Việt Nam thực hiện CEDAW, tập trung giai đoạn 1992 đến năm 2004. Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích trong quá trình nghiên cứu luận án này, giúp cho việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng THPL về bình đẳng giới ở Việt Nam từ năm 1992 đến nay có căn cứ lý luận và thực tiễn. - "Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị" do Nguyễn Đức Hạt chủ biên [57], là kết quả nghiên cứu của Đề tài độc lập cấp Nhà nước của Ban Tổ chức Trung ương. Các tác giả đã góp phần làm sáng tỏ những luận cứ khoa học, thực tiễn về việc nâng cao vị trí, vai trò, năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể ở nước ta, đồng thời, nhấn mạnh việc giải quyết các vấn đề liên quan tới nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong HTCT; đa dạng hóa giá trị, tăng quyền và mở rộng cơ hội lựa chọn cho nam - nữ một cách hợp lý nhằm phát huy mọi tiềm năng, sức lực của cả hai giới đối với sự phát triển bền vững của đất nước. - "Suy nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp luật" của Trịnh Đình Thể [120], sách giới thiệu các vấn đề: Chủ trương bình đẳng giới của Đảng, Nhà nước ta; bình đẳng giới dưới góc nhìn của pháp luật; thực tiễn tư pháp đã áp dụng để góp phần bảo đảm quyền bình đẳng giới; một số vấn đề thực hiện chính sách bình đẳng giới rút ra từ thực tiễn. Trong bối cảnh việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề giới còn khá mới mẻ đối với nhiều người ở Việt Nam hiện nay (nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác lập pháp, thực thi pháp luật) thì việc xuất bản, giới thiệu cuốn sách này giúp cho mọi người nói chung, việc nghiên cứu đề tài của Luận án nói riêng có thêm nhiều thông tin về bình đẳng giới từ thực tiễn và góc nhìn pháp luật. - "25 năm thực hiện Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) thực tiễn tại Việt Nam" của Quỹ phát triển phụ nữ của Liên Hợp quốc (LHQ) (UNIFEM), Viện Nghiên cứu quyền con người và Cơ
  19. 13 quan phát triển quốc tế Canada (CIDA) [110], sách gồm 30 bài viết, báo cáo chuyên đề của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý trong các lĩnh vực đánh giá thực hiện CEDAW của Việt Nam trong 25 năm qua. - "Năng lực cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền phụ nữ - Thực trạng và giải pháp" của tác giả Nguyễn Đình Tấn, Lê Tiêu La và Trần Thị Bích Hằng [114], sách được dựa trên kết quả của dự án điều tra về năng lực thực hiện quyền phụ nữ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở được thực hiện từ năm 2005 đến 2009. Đây là một dự án huy động được nhiều nhà khoa học cũng như thu hút được một đội ngũ khá đông đảo cán bộ trong và ngoài Viện Xã hội học, của Trung ương và địa phương làm công tác chuyên môn và thực tiễn xã hội tham gia điều tra, nghiên cứu, phân tích, đánh giá. Thông qua việc mô tả và phân tích thực trạng năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền phụ nữ, cuốn sách giúp bạn đọc tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng năng lực của họ trong việc thực hiện quyền phụ nữ. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền phụ nữ phù hợp với giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. - "Bảo đảm quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Báo [12], nội dung cuốn sách góp phần luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của phụ nữ, từ đó kiến nghị các biện pháp đồng bộ và có tính khả thi giúp phụ nữ vượt qua rào cản và thách thức để tiếp cận và thụ hưởng quyền. Tạp chí: - "Sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị - thể hiện qua bầu cử tại Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thúy Anh [3], tác giả đã trình bày một số nội dung cơ bản như: khuôn khổ pháp lý về bình đẳng giới trong bầu cử, ứng cử (thể hiện qua hệ thống các văn bản như Hiến pháp, các điều ước quốc tế, luật và các văn bản hướng dẫn); sự tham gia của phụ nữ trong Nghị viện trên thế giới và ở Việt Nam. Tác giả đã đưa ra số liệu về sự tham gia của phụ nữ trong nghị viện trên thế giới, tính đến thời điểm 31/10/2011 thì "trong tổng số nghị sĩ trên thế giới là 44.657 người, phụ nữ là 8547 người chiếm 19,4%". Về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII so với thế giới thì Việt Nam đứng thứ 39 trên tổng số 189 nước; so với các nước trong khu vực Đông Nam Châu Á thì Việt Nam đứng thứ 3; so với các
  20. 14 nước trong khu vực Châu Á cũng như Châu Á Thái Bình Dương thì Việt Nam đứng thứ 6. Đó là dẫn chứng cho thấy tỷ lệ phụ nữ tại các nghị viện trên thế giới và Việt Nam không cân xứng với tỷ lệ dân số nữ trong tổng dân số trên toàn thế giới. Tuy nhiên, tác giả chưa nêu ra những giải pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế về sự tham gia của phụ nữ trong Quốc hội trên thế giới và ở Việt Nam. - "Phụ nữ Việt Nam và sự tham gia chính trị" của Vương Thị Hanh [52] đã chỉ ra một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đang làm cản trở quá trình thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam có liên quan đến vai trò của cán bộ trong HTCT: Đó là sự thiếu quyết tâm và cam kết có trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành. Lãnh đạo các ngành, các cấp thiếu sự chỉ đạo sát sao việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nữ như tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt phụ nữ; chưa mạnh dạn sử dụng, đề bạt cán bộ nữ trẻ. Thiếu quan tâm trong việc thực hiện biện pháp đặc biệt về chỉ tiêu phụ nữ tham gia lãnh đạo, ra quyết định, dẫn đến các chỉ tiêu đưa ra không đạt hoặc thực hiện chỉ tiêu theo cơ cấu hình thức mà không quan tâm đến chất lượng cán bộ nữ. Thiếu kiểm tra, đôn đốc và định kỳ đánh giá việc thực hiện chính sách cán bộ nữ, thiếu biện pháp thưởng, phạt cần thiết đối với các đơn vị, ban, ngành trong việc xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ nữ. - "Định kiến giới đối với nữ trong lãnh đạo, quản lý" của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà [53], tác giả làm rõ khái niệm định kiến giới, biểu hiện định kiến giới đối với phụ nữ: tiềm năng lãnh đạo, đặc điểm tính cách, hành vi lãnh đạo thực tế. Bài viết nhấn mạnh, đó chính là một trong những yếu tố trực tiếp cản trở phụ nữ tham gia bình đẳng vào các vị trí lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Tuy nhiên, những luận giải về tác động của định kiến giới đối với phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam chưa đủ sức thuyết phục về các vấn đề liên quan của luận án nghiên cứu. - "Một số yếu tố tác động đến tỷ lệ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XII" của Nguyễn Thị Phương [103] đã phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XII và chỉ ra những yếu tố khách quan có sự tác động đến kết quả tăng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội như sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, công tác quy hoạch tạo nguồn cán bộ nữ, việc sắp xếp danh sách bầu cử, công tác tuyên truyền và việc nâng cao nhận thức giới của cử tri. Bên cạnh đó, bài viết còn cho rằng, các yếu tố khách quan như học vấn, nghề nghiệp, lĩnh vực, vị
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2