BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GIỌNG ĐIỆU THƠ CHẾ LAN VIÊN
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 5.04.33
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : PHÓ GIÁO SƯ TIẾN SĨ TRẦN HỮU TÁ
NGƯỜI THỰC HIỆN : NGUYỄN HOÀNG MINH HÀ
KHÓA 8
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2000
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GIỌNG ĐIỆU THƠ CHẾ LAN VIÊN
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 5.04.33
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : PHÓ GIÁO SƯ TIẾN SĨ TRẦN HỮU TÁ
NGƯỜI THỰC HIỆN : NGUYỄN HOÀNG MINH HÀ
KHÓA 8
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2000
MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................................3
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................4
DẪN LUẬN...............................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài: .............................................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề:...................................................................................................................6
3. Phạm vi nghiên cứu: ..........................................................................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................................10
4.1. Phương pháp lịch sử: ................................................................................................10
4.2. Phương pháp hệ thống: .............................................................................................10
4.3. Phương pháp so sánh: ...............................................................................................10
4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp: ............................................................................10
5. Phương pháp triển khai đề tài và cấu trúc luận án: ..........................................................10
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ GIỌNG ĐIỆU VĂN CHƯƠNG VÀ GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH...............................................................................................................................10
1.1. Khái niệm về giọng điệu văn chương: ..........................................................................10
1.1.1. Giọng và giọng điệu:..............................................................................................10
1.1.2. Giọng điệu văn chương:.........................................................................................12
1.2. Giọng điệu thơ trữ tình: ................................................................................................19
1.2.1. Khái niệm trữ tình và thơ trữ tình: .........................................................................19
1.2.2. Giọng điệu thơ trữ tình: .........................................................................................23
CHƯƠNG 2: GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH SỬ THI CỦA CHẾ LAN VIÊN ..................38
2.1. Trữ tình sử thi: ..............................................................................................................38
2.2. Cảm hứng sử thi:...........................................................................................................39
2.2.1. Cảm hứng về Cách Mạng: .....................................................................................41
2.2.2. Cảm hứng về Tổ Quốc:..........................................................................................44
2.2.3. Cảm hứng về Đảng: ...............................................................................................46
2.2.4. Cảm hứng lịch sử: ..................................................................................................48
2.2.5. Cảm hứng về lãnh tụ:.............................................................................................49
2.2.6. Cảm hứng đời thường: ...........................................................................................52
2.2.7. Cảm hứng về thơ:...................................................................................................54
2.3. Nhân vật trữ tình: ..........................................................................................................56
2.4. Những nghệ thuật đặc sắc:............................................................................................59
2.4.1. Các hình ảnh thơ đối lập về thời gian và không gian: ...........................................62
2.4.2. Hình ảnh đối lập giữa hiện tượng và bản chất: ......................................................63
2.4.3. Hình ảnh đối lập giữa nguyên nhân và kết quả:.....................................................64
2.4.4. Hình ảnh đối lập về các trạng thái cảm xúc:..........................................................65
2.4.5. Hình ảnh đối lập về ý thức hệ: ...............................................................................66
2.4.6. Hình ảnh đối lập giữa các tính chất, trạng thái của đối tượng: ..............................67
CHƯƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH THẾ SỰ CỦA CHẾ LAN VIÊN .................69
3.1. Trữ tình thế sự:..............................................................................................................69
3.2. Cảm hứng thế sự: ..........................................................................................................72
3.2.1. Cảm hứng về số phận con người: ..........................................................................72
3.2.2. Cảm hứng về nỗi đau: ............................................................................................76
3.2.3. Cảm hứng thương cảm con người sáng tạo: ..........................................................79
3.2.4. Cảm hứng tình yêu:................................................................................................82
3.2.5. Cảm hứng về thơ và nghề thơ:...............................................................................85
3.2.6. Cảm hứng về chữ vô: .............................................................................................89
3.3. Nhân vật trữ tình: ..........................................................................................................91
3.4. Những hình ảnh nghệ thuật đặc sắc: .............................................................................94
3.4.1. Những hình ảnh biểu tượng cố ý nghĩa mới: .........................................................94
3.4.2. Những hình ảnh tưởng tượng có tính giả thiết:......................................................97
3.4.3. Những hình ảnh lý luận về thơ và nhà thơ bằng thư:...........................................100
KẾT LUẬN............................................................................................................................104
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................................107
TÁC PHẨM CỦA CHẾ LAN VIÊN TỬ 1945 .....................................................................111
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi nơi đây lòng biết ơn sâu sắc đối với phó giáo sư, phó tiến sĩ Trần Hữu
Tá, người trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các giáo sư đã giảng dạy, Ban Giám Hiệu,
phòng Đào Tạo sau Đại Học cùng Ban Chủ Nhiệm khoa Ngữ Văn trường Đại Học Sư
Phạm Thành Phố Hồ Chí
Minh, Ban Giám Hiệu trường Trung Học Phổ Thông Phan Đăng Lưu đã tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tôi trong thơi gian học tập và làm luận án đúng thời hạn.
Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 1/4/2000
4
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài:
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14/1/1920, mất ngày
19/6/1989. Quê ông ở Cam Lộ, Quảng Trị. Song ông lớn lên, học hành và làm thơ ở Bình
Định, cùng thời với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Xuân Diệu ... Ông đã từng tham gia Ban lãnh đạo
Hội nhà văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội khóa IV, V, VI, nhiều lần là sứ giả của vãn hóa
Việt Nam tham dự các diễn đàn văn hóa quốc tế ở Liên Xô, Pháp, Nam Tư, An Độ, Na uy,
Thụy Điên ...
Năm 16 tuổi, lần đầu tiên xuất hiện trên thi đàn với tập Điêu Tàn, Chế Lan Viên đã gây
một niềm kinh dị bởi giọng thơ rất riêng không lẫn với một ai và bởi niềm ám ảnh không
nguôi về thời gian và sự tồn tại. với những đau thương tựa hồ vô lý nhưng thành thực vô
cùng. Ngay từ tập thơ đầu tay ấy, chất suy nghĩ của Chế Lan Viên đã khác hẳn các thanh niên
cùng lứa và cũng chẳng giống bất kỳ một nhà thơ nào.
Sau Cách mạng tháng tám năm 1945, đi theo Cách Mạng, Chế Lan Viên thực sự có một
sự chuyển hướng sang quan niệm nghệ thuật cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân tộc và
thời đại. Sự chuyển hướne này đạt đến đỉnh cao vào những năm 60, mở đầu là tập Anh Sáng
và Phù Sa, sau đó là một loạt các tập thơ khác mà giới nghiên cứu văn học đều thống nhất
chung một sự đánh giá là thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng đã vượt lên tầm của chính mình
trước Cách mạng. Trên con đường thơ của mình, Chế Lan Viên thực sự đã hình thành phong
cách thơ mang đậm chất trí tuệ mà phong cách này có ảnh hưởng đến một số nhà thơ lớp sau
như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt...
Sau khi Chế Lan Viên mất, nhà văn Vũ Thị Thường (vợ ông) đã rút từ trong những bản
thảo còn lại của ông những bài thơ chưa từng công bố: ba tập "Di cảo thơ Chế Lan Viên" đã
ra đời lại là một hiện tượng văn học. Năm 1993, Di cảo thơ tập II được trao giải thưởng duy
nhất về thơ của Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1996, Chế Lan Viên là một trong bốn nhà thơ
lớn của Việt Nam được nhận giải thưởng cao quý - giải thưởng Hồ Chí Minh.
Chế Lan Viên vẫn được xem là một trong những cây đại thụ thơ tỏa bóng mát xum xuê
trong khu rừng lớn văn học Việt Nam hiện đại. Thơ ông là những gì tinh túy nhất, thơm thảo
nhất của cuộc đời ông, của tâm linh ông, của hồn thơ ông mà chúng ta có thể học ở đó rất
nhiều điều.
Từ lúc sinh thời cũng như cho đến tận ngày hôm nay, năm cuối cùng của thế kỷ 20, các
tác phẩm của Chế Lan Viên đều được người đọc đón nhận, yêu mến và được bạn bè đồng
5
nghiệp đánh giá cao. Đã có hàng trăm bài viết, tuyển tập hoặc công trình nghiên cứu, phê
bình, tiểu luận, luận án về con người và sự nghiệp thơ ca của ông với tất cả niềm trân trọng,
quí mến.
Là một trong những người ngưỡng mộ thơ ông, tôi chọn một vấn đề "giọng điệu nghệ
thuật" để làm đề tài cho mình. Đây cũng là một trong những vấn đề chưa được nghiên cứu
kỹ. Đây đó trong các bài nghiên cứu về Chế Lan Viên, cũng có bàn về giọng điệu thơ Chế
Lan Viên nhưng các ý kiến đều chỉ là bàn qua, bàn về. Mỗi người có một nhận định chủ quan
của mình. Chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu riêng về giọng điệu nghệ thuật
thơ của ông.
Với niềm mong muốn được đóng góp vào việc nghiên cứu một chân dung văn học độc
đáo ở một nét tiêu biểu, chúng tôi mong được nhận nhiều đóng góp để có thể đi đến quan
điểm thống nhất về "giọng điệu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên".
2. Lịch sử vấn đề:
Từ trước đến nay các nhà nghiến cứu đã dùng nhiều phương pháp khác nhau để đánh
giá, phân tích, tìm tòi thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. Lịch sử nghiên cứu về Chế Lan
Viên bắt đầu có từ khi Điêu tàn ra đời và cho đến nay vẫn chưa thể có một công trình nào bao
quát nổi một hiện tượng thơ lớn như vậy. Trong 50 năm sáng tác, Chế Lan Viên để lại 1035
bài thơ đã xuất bản, 7 tập văn xuôi, 8 tập phê bình tiểu luận.
Cũng giống như bất kỳ nhà văn, nhà thơ lớn hiện đại nào khác, việc đánh giá từng tác
phẩm nói riêng hay toàn bộ sự nghiệp của Chế Lan Viên nói chung không thể tránh khỏi cách
đánh giá khác biệt nhau, thậm chí trái ngược nhau, tùy theo quan điểm thẩm định riêng của
mỗi thời và mỗi người. Người nghệ sĩ càng lớn, các tác phẩm càng đa diện, đa thanh, đa sắc.
đa tầng thì sự đánh giá càng phong phú và phức tạp. Nhất là về ba tập Di cảo thơ. Có người
cho rằng "giọng trầm" trong Di cảo thơ là bước lùi, yếu đuối. Giáo sư Lê Đình Kỵ lại gọi đó là "trí tuệ, tài năng, tâm hồn" (1). Giáo sư Trần Thanh Đạm tìm thấy ở giọng thơ Chế Lan Viên một tín hiệu của kiểu thơ trí tuệ (2).
Tính chất đa thanh có thể thấy rõ ở Chế Lan Viên. Trong 14 tập thơ, ta có thể thấy cả
giọng trữ tình sử thi, cả giọng trữ tình thế sự, giọng chính luận bình luận, giọng trầm tĩnh triết
lý, giọng tiêu tao, hiện thực pha màu huyền ảo, giọng trào lộng pha chút mùi vị chua cay,
giọng trầm tư suy ngẫm, giọng nghi vấn, giọng khẳng định, thơ trữ tình điệu nói ...
(1) Lê Đình Kỵ - Trên đường văn học - NXB văn học, 1995, tập 2 trang 265. (2) Trần Thanh Đạm - những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua những trang Di cảo - Báo văn nghệ số 36. Ra ngày 4/9/ 1993.
6
Nhưng chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu kỹ về giọng điệu nghệ thuật
thơ Chế Lan Viên một cách hoàn chỉnh cả về hình thức biểu hiện lẫn nội dung.
Có một điểm thống nhất chung ở các nhà nghiên cứu phê bình là Chế Lan Viên có một
giọng điệu thơ riêng, không thể lẫn với một ai, giọng điệu thơ riêng đó là "điệu hồn" riêng
của nhà thơ, tạo nên một phong cách thơ riêng, trong đó đậm đặc chất tư duy suy ngẫm, suy
ngẫm về lý tưởng, về quan niệm sống, về hoạt động, trong đó có hoạt động nghệ thuật cao
quý, được nâng lên thành triết lý.
Giọng tư duy suy ngẫm của Chế Lan Viên giai đoạn 1945 - 1975 đặt cơ sở trên cái ta
trữ tình nên nó mang âm hưởng chung của thời đại là trữ tình sử thi, tráng lệ, hào hùng. Nó ca
ngợi đất nước, nhân dân, dân tộc. Đó là "giọng cao" như Chế Lan Viên tự nhận xét về thơ
mình.
Từ sau năm 1975, cái tôi trong thơ trữ tình đã đổi khác, hầu như có một sự thức tỉnh cá
nhân mới. Đúng ra là sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân trong cái tôi trữ tình. Đó
là sự đòi hỏi khẳng định cá tính cùng với cá tính sáng tạo, là nhu cầu giãi bày về muôn mặt
đời thường, về tình yêu trần thế. Trong thơ, con người riêng tư đích thực ngày càng được xác
nhận. Con người có nhu cầu xác định chỗ đứns của mình trước thế giới, trong các quan hệ xã
hội và cá nhân mà trước kia, trong chiến tranh, chỗ đứng ấy là chỗ đứng trong hàng ngũ,
trong tập thể, trong nhân dân, trong cái "ta" chung cửa dân tộc. Cái "tôi" nhiều khi phải tạm
thời nhường chỗ cho cái "ta". Nhưng bây giờ là hòa bình, con người phải trở về với các giá trị
nhân bản. Con người trước kia là đối tượng để ngợi ca hay phê phán, Giờ đây nó còn thêm
tính chất là đối tượng để nghiên cứu, phân tích.
Cho nên giọng tư duy suy ngẫm của Chế Lan Viên ở giai đoạn cuối đời là tư duy suy
ngẫm về bản thể của con người, nhân cách, cái có hạn. cái bất cập, cái không may ... Nhà thơ
nghĩ suy về sự hữu hạn của thời gian, về tài năng và sự sáng tạo ... có cả những bất lực, bất
mãn của một nghệ sĩ đặt cho mình những yêu cầu rất cao về sáng tạo nghệ thuật.
Thơ Chế Lan Viên trong giai đoạn này chủ yếu là thơ trải nghiệm, kết hợp óc tư duy
phân tích tỉnh táo nên giọng thơ triết lý bình thản đến sắc lạnh. Đó là nguyên nhân khiến
người ta nhận xét Chế Lan Viên đổi giọng thơ. Nếu xét như vậy thì cả một nền thơ Việt Nam
sau 1975 đều chuyển theo xu thế có một sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân trong
cái tôi trữ tình. Ở đây, không phải là Chế Lan Viên chủ động đổi giọng thơ mà hoàn cảnh đã
thay đổi : giọng trữ tình sử thi phải nhạt dần và chuyển sang trữ tình thế sự, trữ tình nhân bản.
7
Giọng tư duy suy ngẫm ở giai đoạn cuối đời của Chế Lan Viên, đặc biệt là ở ba tập Di
cảo thơ giúp chúng ta hiểu cái tâm của nhà thơ, cái tâm luôn trăn trở những nghĩ suy sâu sắc
về tình thế, về đất nước, về cuộc đời không hề đơn giản, cũng như cả những lo toan, xao
xuyến, vui buồn, mong nhớ chân thật được trải nghiệm trong những năm tháng cuối đời và
nhà thơ cũng tự nhận xét giọng của mình lúc này là "giọng trầm'' [(Xưa giọng cao giờ anh hát
giọng trầm - (giọng trầm)].
Dù là giọng cao hay giọng trầm thì sắc thái của nó vẫn là giọng tư duy suy ngẫm. Trước
kia Chế Lan Viên tư duy suy ngẫm với cả dân tộc, với những tráng ca, những khúc bi hùng,
với tâm tư tình cảm của cả cộng đồng, tạo nên chất sử thi anh hùng trong thơ, Giai đoạn sau
1975, Chế Lan Viên tư duy suy ngẫm với những vấn đề sâu lắng trầm tĩnh của con người, của cuộc sống, của nhà thơ, của sự tồn tại, của sự ra đi ... Đoàn Trọng Huy(1) trong bài "Khuynh
hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau 1975" có viết : "Lúc này, cần thiết một "định lý
đảo" phải đổi "ngôn ngữ thời chiến" qua "ngôn ngữ thời bình"". Giong thơ giai đoạn sau sâu
sắc. trầm tĩnh, như chắt lọc tất cả tâm huyết, tất cả kinh lịch, tất cả trải nghiệm một đời. Tâm
niệm và tâm sự, độc thoại và đối thoại, răn mình và nhắn đời ... đó chính là điệu hồn của nghệ
sĩ.
Nguyễn Bá Thành trong bài "Đọc hai tập Di cảo thơ" (2) có nhận xét giọng thơ trong Di
cảo : ""là giọng thơ đơn lẻ, não nùng và có phần chua chát". Một cung bậc rất trầm, rất thấp
như một thứ âm thanh thì thào, có khi đứt quãng. Nhà thơ cố tình xuống giọng. Thế là, tính
đến thời điểm ấy (1987 - 1988), nhà thơ đã hai lần đổi giọng. Lần thứ nhất là từ "than" thành
"hỏi", từ "hát" thành "nói" :
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời"
Nguyễn Bá Thành tiếp "thơ Chế Lan Viên giờ đây là lời độc thoại để tự trấn an".
Theo tôi, những lời nhận xét của Nguyễn Bá Thành có những điểm bi quan hơn chính
những vấn đề Chế Lan Viên thể hiện trong Di cảo thơ. Võ Tấn Cường khi nói về Di cảo thơ
Chế Lan Viên thì nhận xét : "Ý thức nghệ thuật của ông không còn song hành, đồng nhất với
ý thức công dân mà đã vượt lên, hướng về những triết lý nhân sinh sâu thẳm và sự sinh tồn của nhân loại" (1).
(1) Đoàn Trọng Huy - khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên ... in trong sách Chế Lan Viên - người làm vườn vĩnh cửu - Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội 1995. (2) Nguyễn Bá Thành - Đọc hai tập Di cảo thơ - in ương sách Chế Lan Viên -người làm vườn vĩnh cửu - Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội 1995. (1) (2)(3)(4)(5) Các bài này đều in trong sách Chế Lan Viên - Người làm vườn vĩnh cửu - Sách đã dẫn.
8
Phạm Xuân Nguyên trong bài "Chế Lan Viên - Người đi tìm mặt" thì cho rằng : "Thành
thực giãi bày và thừa nhận những góc khuất đời thật của mình, đó là điểm khá thú của Di cảo thơ Chế Lan Viên". (2)
Huỳnh Văn Hoa trong bài "Chế Lan Viên với cái nhìn nghệ thuật trong thơ'' (3) lại
không đồng ý với Nguyễn Bá Thành cho là "ở Di cảo Chế Lan Viên rơi vào cái trận đồ siêu
hình ... hạ thấp thơ mình" mà cho là "vấn đề sống chết, ý nghĩa thời gian, về công nghiệp một
đời người, về cõi quên là những vấn đề triết học muôn đời của con người",
Trong bài "Con đường và tầm vóc thơ Chế Lan Viên" (4) Phạm Hổ nhận xét : "Chế Lan
Viên nhiều giọng nói, lúc như có lửa bốc lên rừng rực, lúc như dòng nước mát chảy êm —
nhưng cái chất Chế Lan Viên chì một".
Hoài Anh ở bài "Chế Lan Viên - một bản lĩnh một tâm hồn thơ phong phú, đa dạng và
bí ẩn" (5) lại nhận xét Di cảo thơ "mang giọng tiêu tao, hiện thực pha màu huyền ảo".
Còn rất nhiều nhận định khác nhau về thơ Chế Lan Viên. Nhưng chỉ là bàn qua, bàn về,
chưa làm rõ một sự thống nhất trước sau như một ở thơ ông. Sự thay đổi do hoàn cảnh tuyệt
đối không phải là bước lùi mà chỉ là một tiếng nói phù hợp với thời đại.
Trên cơ sở lịch sử vấn đề đã nêu ở trên, chúng tôi sẽ cố gắng tìm tòi phát hiện vấn đề
giọng điệu thơ Chế Lan Viên một cách toàn diện hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu thơ của Chế Lan Viên từ sau cách mạng tháng 8 cho
đến ba tập Di cảo thơ. Và cũng chỉ tập trung vào một vấn đề "giọng điệu nghệ thuật" - một
phương diện của cá tính sáng tạo.
Một số bài thơ trong Di cảo thơ nhưng năm ra đời từ trước năm 1945 cũng không nằm
trong diện khảo sát cua chúng tôi, vì chúng chịu ảnh hưởng quá trình phát triển chung của
phong trào Thơ Mới cũng như khuynh hướng thần bí, siêu hình của riêng nhà thơ giai đoạn
trước cách mạng tháng 8.
Giọng điệu nghệ thuật thuộc về cả nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện. Nó là "điệu
hồn" của nhà thơ, cái "rám" của nhà thơ và được biểu hiệu qua cảm hứng, ngôn ngữ, hình
ảnh, nhịp điệu, kết cấu và cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ, qua nhân vật trữ tình ... Tim hiểu
giọng điệu có nhiều hướng tiếp cận, song trong luận án này, chúng tôi tìm hiểu giọng điệu
thông qua một số phương diện : cảm hứng, nhân vật và hệ thống hình ảnh. Đi theo hướng
này, chúng tồi muốn tìm tính nội dung của giọng điệu. Còn các yếu tố ngôn ngữ, nhịp điệu,
kết cấu, điểm nhìn nghệ thuật ... xin được tiếp tục bàn đến trong một thời gian khác.
9
Một điều đáng lưu ý là ba tập Di cảo thơ không phải ra đời dưới bàn tay sắp xếp có chủ
đích của chính nhà thơ Chế Lan Viên. Mà nó là nhiều bản thảo chưa hoàn chỉnh, ở dạng phác
thảo, do vợ nhà văn tuyển chọn, sắp xếp. Cũng có một số bài đã hoàn chỉnh, nhưng cũng
không phải do chính Chế Lan Viên tuyển chọn, sắp xếp theo ý đồ nghệ thuật của mình. Nên
theo tôi, đưa ra những nhận xét quyết đoán, thậm chí nặng nề về một công trình không phải
do chính nhà thơ đem đến nhà xuất bản là không nên. Chắc gì nếu còn sống nhà thơ sẽ cho in
những phác thảo đó bởi vì có thể có bài còn yếu về nội dung hoặc yếu về nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
4.1. Phương pháp lịch sử:
Đọc toàn bộ tác phẩm thơ Chế Lan Viên, luôn luôn đặt tác phẩm vào hoàn cảnh lịch sử
cụ thể để hiểu mối quan hệ tác động qua lại giữa hoàn cảnh và tác phẩm.
4.2. Phương pháp hệ thống:
Hệ thống lại những yếu tố gần nhau, tương đồng hoặc những yếu tố khác nhau, đối lập
để làm nổi bật vấn đề chính. Việc rút ra những kết luận về giọng điệu thơ Chế Lan Viên phải
dựa trên cơ sở phân tích cụ thổ từng yếu tố nghệ thuật của thơ ông : Hệ thống cảm hứng chủ
đạo. hệ thống hình ảnh, nhân vật trung tâm ...
4.3. Phương pháp so sánh:
- So sánh thơ Chế Lan Viên với một số nhà thơ lớn cùng thời Xuân Diệu, Tố Hữu ... để
tìm ra những điểm khu biệt.
- So sánh thơ Chế Lan Viên giai đoạn 1945 - 1975 và dai đoạn sau của đời ông : từ
1975 - 1989 để làm rõ các luận điểm khác nhau về thơ ông ở hai thời kỳ này. Từ đó toát lên
cái độc đáo và sự đóng góp của Chế Lan Viên cho thơ Việt Nam hiện đại.
4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung. Chúng tôi
sẽ vận dụng phương pháp này để phân tích, tổng hợp từ cấp độ câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, bài
thơ có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận điểm của luận án.
5. Phương pháp triển khai đề tài và cấu trúc luận án:
Chúng tôi đi sâu tìm hiểu giọng điệu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên nhằm khẳng định
những nét đặc trưng làm nên phong cách riêng của Chế Lan Viên. Qua đó, tìm hiểu những
10
đóng góp cho nền thơ hiện đại của Chế Lan Viên : một giọng thơ tư duy chính luận, tư duy
suy ngẫm độc đáo và sáng tạo.
Cấu trúc của luận văn :
Ngoài phần dẫn luận (9 trang) và phần kết luận (4 trang), nội dung của luận án được
triển khai trong ba chương :
Chương 1 : Khái niệm về giọng điệu văn chương và giọng điệu thơ trữ tình (35 trang).
Chương 2 : Giọng điệu nghệ thuật trong thơ trữ tình sử thi của Chế Lan Viên (35
trang).
Chương 3 : Giọng điệu nghệ thuật trong thơ trữ tình thế sự của Chế Lan Viên (39
trang).
* * *
11
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ GIỌNG ĐIỆU VĂN CHƯƠNG VÀ GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH
1.1. Khái niệm về giọng điệu văn chương:
1.1.1. Giọng và giọng điệu:
Một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nét đặc trưng riêng cho mỗi loại hình lời
văn nghệ thuật là giọng và giọng điệu. Không những thế giọng và giọng điệu còn góp phần
khu biệt đặc trưng phong cách của mỗi một nhà văn, mỗi một khuynh hướng sáng tác. Trong
bất kỳ hình thức văn học nào cũng đều có sự lựa chọn chung một giọng điệu : giọng của tiểu
thuyết khác giọng của thơ trữ tình. M. Bakhtin đã đưa ra khái
niệm "đa thanh" nhàm ghi nhận sự phát triển của giọng và giọng điệu. Ở Việt Nam, các
công trình nghiên cứu của phó giáo sư Đặng Anh Đào (Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết
phương Tây hiện đại, 1995), giáo sư Trần Bình Sử (Lý luận và phê bình văn học, 1996) cũng
đều có quan tâm đến giọng và giọng điệu.
Trong nghiên cứu văn học, khi đề cập đến vấn đề âm thanh (sound) của tác phẩm, giới
nghiên cứu thường sử dụng hai khái niệm voice và tone. Ta có thể dịch là voice = giọng ;
tone = giọng điệu.
Bách khoa toàn thư Mỹ định nghĩa :(1) : "Voice là âm thanh được sinh vật phát ra",
"Tone là âm thanh được xét trong sự can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc và âm lượng
của nó". Như thế, ở đây người ta dựa trên cơ chế xác định âm thanh để phân biệt, và giọng
điệu (tone) thì cụ thể hơn giọng (voice).
Các nhà phê bình văn học đã xác định "voỉce" và "tone" theo nhiều kiểu khác nhau.
Năm 1961, trong Nhập môn phê bình văn học, K. Danzger và S. Johnson (2) không đề
cập đến giọng (voice) mà chỉ ghi nhận giọng điệu (tone) : "Là một phạm trù có liên quan đến
tất cả các yếu tố tạo nên văn phong (style) bao gồm : cách diễn đạt, hình tượng, cú pháp, âm
thanh và nhịp điệu, là biểu hiện của một thái độ về phía đối tượng (object) được nêu rõ hay
ngụ ý".
Nhưng trong Từ điển thuật ngữ văn học (1971) M. H. Abrams (1) đã phân biệt giọng và
giọng điệu. Theo ông, giọng điệu : "Là thái độ của người phát ngôn văn học đối với người
nghe của anh tà". Bên cạnh đó, ông còn chỉ rõ : "Một số người sử dụng giọng điệu với nghĩa
rộng hơn, trùng với phạm vi mà những nhà phê bình khác gọi là giọng, giọng được xác định :
(1) (2) theo Lê Huy Bắc - "Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại" Tạp chí văn học số 9- 1998. (1) (2) (3) theo Lê Huy Bắc - Sách đã dẫn.
10
có một giọng bao trùm lên tất cả các giọng hư cấu trong một tác phẩm và có một người ở
đằng sau tất cả những nhân vật văn học, thậm chí kể cả người kể chuyện ở ngôi thứ nhất".
Đến đây ta thấy về cơ bản giọng điệu của Abrams và Danziger là giống nhau nhưng
Abrams, ngoài việc phân biệt giọng và giọng điệu, chỉ ra các cấp độ giọng, ông còn nêu thêm
quan niệm khác với Danziger, ở chỗ "thái độ đối với người nghe" chứ không phải với "đối
tượng" như Danziger đã viết.
X.LKennedy (2) thì lại không đề cập đến giọng mà ông cho rằng "Bất cứ cái gì giúp ta
luận ra thái độ của tác giả thì thường được gọi là giọng điệu".
Cũng đề cập đến giọng và giọng điệu, Katie Wales (3) trong Từ điển phong cách học
(1989) quan niệm : "Giọng được dùng để miêu tả ai là người nói". "Giọng điệu được dùng
với nghĩa một phẩm chất âm thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những xúc cảm hoặc
tình cảm đặc biệt nào đó". Nhưng ông còn nói thêm: "đôi lúc giọng điệu được dùng để chỉ
một chất giọng phổ quát được điều hành bởi một tác giả ẩn".
Theo Từ điển tiếng Việt của các soạn giả Việt Nam, giọng được xác định như sau :
1/ Độ cao thấp mạnh yếu của lời nói, tiếng hát.
2/ Cách phát âm riêng của một địa phương.
3/ Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị tình cảm thái độ nhất định.
4/ Gam đã xác định âm chủ.
Và giọng điệu được xác định như sau :
1/ Giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ nhất định.
2/ Như ngữ điệu.
Như thể điểm chung giữa hai khái niệm là : "Biểu thị một thái độ nhất định".
Đến đây ta thấy, do bản chất của giọng và giọng điệu là âm thanh nên trường giao thoa
giữa chúng là khó tránh. Nhưng trong lãnh vực phê bình văn học, dựa vào các định nghĩa đã
nêu, chúng ta có thể phân biệt chúng như sau :
1/ Giọng : là âm thanh được xét ở góc độ vật lý như cường độ, trường độ, cách phối âm,
âm lượng.
Giọng điệu : là âm thanh được xét ở góc độ tâm lý, biểu hiện các thái độ : buồn, vui,
giận, hờ hững...
11
2/ Các cơ sở để tạo nên giọng và giọng điệu : cách diễn đạt, hình ảnh, ngôn ngữ, cú
pháp, âm thanh , nhịp điệu, thể loại.
3/ Đối tượng của giọng và giọng điệu : là các sự kiện, tình huống, tâm trạng. Còn đối
tượng để nhận biết giọng và giọng điệu ấy chính là độc giả.
Giọng và giọng điệu là một bộ phận của phong cách (Style) và góp phần tạo nên phong
cách cho mỗi tác phẩm, tác giả.
Giọng và giọng điệu cũng chịu sự chi phối của điểm nhìn (point of view) nhưng lại góp
phần thể hiện điểm nhìn.
Như vậy đường biên giới giữa các phạm vi điểm nhìn, giọng, giọng ? điệu và phong
cách luôn có những điểm giao nhau : nhìn từ góc độ này, chúng là giọng điệu, nhưng ở khía
cạnh kia, chúng lại là điểm nhìn hay phong cách... Tuy nhiên, các phạm vi ấy vẫn có những
nội hàm nhất định để tồn tại như một đơn vị nghệ thuật mang nghĩa trong tổng thể các đơn vị
nghệ thuật khác của tác giả.
1.1.2. Giọng điệu văn chương:
1.1.2.1. Quan niệm giọng điệu trong văn chương cổ:
Vấn đề giọng điệu văn chương đã được bàn đến từ lâu trong lý luận văn học cổ. Những
khái niệm "hơi văn", "điệu văn", "văn khí", "thần văn", "âm hưởng" trong mỹ học phương
Đông đều là những khái niệm gần gũi với khái niệm giọng điệu. Bởi nó hàm chứa cái "điệu
hồn", cái "tình", cái "mạch", cái "khúc ca bên trong" của người viết. Nó là cái cốt lõi làm nên
giọng điệu văn chương.
Cách đây năm thế kỷ, người xưa đã nhắc đến giọng. Khi đề tựa cho cuốn "Việt Nam thi
tập" do Phan Phu Tiên và Chu Xa biên soạn, Lý Tử Tấn có viết : "Lời ý phải giản dị đầy đủ,
mạch lạc thông suốt, chất phác mà vẫn nhã, mới lạ mà không trúc trắc, trung hậu mà không thô kệch, cao siêu mà vẫn giọng ôn hòa" (1)
Để nói về mối quan hệ giữa cảm xúc và cái "điệu hồn" của nhà thơ, Ngô Thời Nhậm
trong Cúc hoa thi trận viết : "Hãy xúc động hồn thơ để cho ngòi bút có thần'' (2)
Người xưa làm thơ cót biêu hiện cái chí. Phùng Khác Khoan nói : "Nếu chí mà ở đạo
đức thì tất phát ra lời lẽ hồn hậu, chí mà ở sự nghiệp tất nhả ra khí phách hào hùng, chí ở
(1) Thơ văn Lý Trần tập I NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1989. (2) Tác phẩm mới số 57 (1976) trang 88.
12
rừng núi gò hoang thì thích giọng thơ liêu tịch, chí ở gió mây trăng tuyết thì thích vẻ thơ thanh cao, chí ở niềm thương cảm thì làm ra điệu thơ ai oán" (3)
Người xưa thường bình thơ, bình văn. Bình thơ văn là phải đọc lớn tiếng, lên bổng
xuống trầm, ngân nga không theo tùy hứng mà phải theo qui luật, nhấn mạnh vào một số
tiếng, giọng khoan thai, nhẹ nhàng, kéo dài. Bình văn thơ như vậy sẽ thấm được, hiểu được
cái hay của giọng văn, hơi văn, "khí văn", "thần văn". Giọng thơ làm cho con người xúc
động, đồng cảm, thương cảm với số phận con người, hiểu và cảm được cái bí mật cùng cái
đẹp của vũ trụ.
Như vậy, kể cả ở quan niệm, kể cả ở sinh hoạt bình văn thơ, người xưa đều thấy tầm
quan trọng của giọng điệu trong tác phẩm.
Theo cổ nhân, "thần" và "khí" là những vấn đề cốt yếu của văn chương. Cái "thần" là
độ sâu thẳm của tâm hồn, phút thăng hoa của tâm hồn, và cái "khí" lại là tầm cao của tri thức.
Trong Thạch Nông toàn tập, Nguyễn Tư Giản viêt: "Bàn về văn của văn nhân có văn nghĩa
lý, có văn chính sự, có văn từ chương mà cốt yếu là ở thần, ở khí... Tình nghĩa nhập thần thì cái thần văn sẽ đầy đặn. Nuôi tầm nhìn rộng, trông xa thì hơi văn sẽ thăng bằng" (1).
Trong lời tựa tập Thập Anh đường thi tập, nhà giáo Bùi Dương Lịch cho rằng : "Thơ
xuất phát từ tình, nhưng cái thần vận lành ở trong đó. Cái đúng ở tình thì ai chẳng có nhưng cái tột cùng của tình lại là cái thần" (2) . Theo đó, ta hiểu cái tình là nơi vận hành của cái
chần, nhưng không phải cái tình nào cũng là thần. Chỉ có cái tình ở mức độ cao mới tạo nên
cái thần, tức giây phút làm nên "điệu hồn" của người nghệ sĩ, phút thăng hoa của tâm hồn,
sáng tạo.
Theo quan niệm văn chương cổ, giọng điệu còn là một tiêu chí quan trọng để xác định
tư cách và chí khí của người cầm bút. Văn như người vậy. Trong "Lịch triều hiến chương loại
chí, Phan Huy Chú nhận xét về thơ Trần Quang Khải : "Lời thơ thanh thoát, nhàn nhã, xem
thơ có thể thấy tướng mạo, phong thái của người". Khi đọc truyện Kiều, cái giọng xé ruột xé
gan của Nguyễn Du làm ta đau đến tận bây giờ :
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(3) Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam - Lê Trí Viễn - trang 165. (1) (2) Từ trong di sản trang 189 và trang 155 Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1988.
13
Không chỉ có ta đau mà các thế hệ mai sau cũng sẽ đau cùng Nguyễn Du. Giọng xé ruột
xé gan ấy là cơ sở để xác định Nguyễn Du có tư tưởng nhân đạo và nhân bản. Qua giọng
điệu, ta biết được tư chất người cầm bút.
Trong Nam Sơn Tùng Thoại, Nguyễn Đức Đạt viết : "Văn thâm hậu thì con người của
nó trầm mà tĩnh. Vãn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa. Văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản. Văn hùng hồn thì con người cửa nó thuần tuy mà đứng đắn" (1)
Đúng như vậy, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã thể hiện giọng hùng văn,
truyền cảm và lôi cuốn miêu tả cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc.
Trận Bồ đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
Cơn gió to trút mạnh lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đó là giọng hùng tráng, mạnh mẽ, sảng khoái, hào hùng như những đợt sóng dồn dập
liên tiếp nhau, gối đầu nhau cho đến cuối bài. Giọng hùng văn đó làm Bình Ngô đại cáo có
giá trị như một tuyên ngôn độc lập và tên tuổi Nguyễn Trãi mãi sáng rực trên thi đàn dân tộc.
Giọng điệu là khúc nhạc tự bên trong lòng người. Những khúc nhạc tấu lên từ đáy sâu
lòng người ấy có tác dụng diệu kỳ. Nó có sức lay động, cả non sông trời đất, nó biến cải
những thế lực hắc ám, như trường hợp bài thơ "Thần" của Lý Thường Kiệt.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhừ hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại thư
Cái thần của bài thơ là giọng sang sảng khẳng định chủ quyền đất nước, sự mềm dẻo
trong cái cứng rắn là ở giọng hỏi và giọng trả lời cuối bài. Hỏi thì cứng rắn, giọng chính
nghĩa, bề trên còn trả lời giọng lại mềm mỏng : mình đánh nó thất bại mà cứ nói là tự chúng
chuốc lấy thất bại vì làm việc phi nghĩa. Cái giọng nói lên cái cứng và mềm chính trị, ngoại
giao. Đó là giọng của một ý chí lớn, một sự nghiệp lớn của một dân tộc mang nhiều tình cảm
lớn và cao thượng. Chẳng thế mà theo truyền thuyết, Lý Thường Kiệt cho người nấp vào
trong điện thờ hai anh em Trương Hướng, Trương Hát bên bờ sông Như Nguyệt, đọc to lên
(1) Từ trong di sản - Sách đã dẫn trang 189.
14
và truyền lan ra, 10 vạn quân Tống đóng bên kia sông nghe thấy đã hồn bay phách lạc ngay
cả trước khi quân ta tiến công tiêu diệt chúng. Quân phi nghĩa bao giờ cũng sợ giọng chính
nghĩa.
Người xưa cũng rất ghét thói rập khuôn, bắt chước, xóa nhòa bản thân mình. Trong
"Phương trì Đông dương tiên sinh văn lập", Cao Xuân Dục viết: "Nếu chỉ biết rập khuôn,
chắp nhặt thì dù câu đẹp lời hay, vẽ trăng, tả gió, nhưng ý hướng không ký thác được vào, thì
rốt cuộc cũng là bắt chước giọng điệu của người khác, chẳng nói lên được giọng thực mình"(1)
Như vậy ta thấy người xưa đã đánh giá đúng về tầm quan trọng của giọng điệu nghệ
thuật và còn sử dụng đắc lực giọng điệu trong tác phẩm của mình để thể hiện tư tưởng tình
cảm của người viết.
1.1.2.2. Quan niệm giọng điệu văn chương hiện đại:
Nếu quan niệm tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật thì đề tài, chủ đề, hình
tượng nghệ thuật, ngôn ngữ, kết cấu, thể loại, cảm hứng và giọng điệu... là những yếu tố làm
nên chỉnh thể đó.
Việc phát huy từng yếu tố trong hệ thống tùy thuộc vào khả năng, sở trường và cái
"tạng" của từng nhà văn. Nhưng nhất thiết nó không được tách rời những yếu tố khác trong
hệ thống.
Yếu tố giọng điệu gắn với tình điệu có ý nghĩa phong cách là một khái niệm nằm trong
thi pháp nói chung chứ không phải chỉ riêng ở trong thơ.
Trong văn học, khái niệm giọng điệu vừa được biểu hiện ở phương diện ngữ âm : trầm,
bổng, trong, đục, nhanh, chậm, dài, ngấn... vừa được biểu hiện ở phương diện phong cách :
nóng, lạnh, nhu, cương, khoan thai hay dồn dập sôi nổi : trân trọng hay mỉa mai khinh bỉ, phế
phán hay ngợi ca, yêu thương hay căm giận, mềm mại dịu dàng hay cứng cỏi kiên quyết, tha
thiết gắn bó hay thờ ơ lãnh đạm... Có những giọng điệu huênh hoang khoác lác nhưng bộc lộ
một sự rỗng tuêch ở bên trong như giạ nạ, của Mã Giám Sinh :
Lặng ngồi, lẩm nhẩm giật đầu
"Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng
Nàng đã biết đến ta chăng
Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi !"
(1) Văn học số 3/1979-trang 151.
15
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Giọng điệu là âm hưởng chung toát lên từ toàn bộ tác phẩm nghệ thuật. Nó là hình thức
bộc lộ rõ rệt nhất chủ quan người nghệ sĩ. Toàn bộ cách cảm, cách nhìn, phương pháp tư duy,
kiểu nhận thức thế giới, tình cảm, thái độ, lập trường, quan điểm, đạo đức của nhà văn được
thể hiện đậm nét qua giọng điệu, tạo nên giọng nói riêng, phong cách riêng, mang dấu ấn của
cá tính sáng tạo, không thể bắt chước hoặc thay thế. Vì vậy mà giọng điệu văn chương còn có
ý nghĩa như một tiêu chí để xác định chân tài của nhà văn.
Như thế đứng ở bình diện thi pháp, chủ yếu chúng ta tìm hiểu các giọng điệu gắn với
tình điệu, với văn khí, với hơi văn, mạch văn, giọng văn, cái giai điệu, cái "hồn" chi phối toàn
tác phẩm và đây chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất để phân biệt nhà văn này so
với nhà văn khác. Chính cái giọng rời rạc, nhát gừng kiểu "ông bảo", "cô bảo", "tôi bảo",
"cha tôi bảo", " ông Bảo bảo", " ổng Chương bảo" được lặp đi lặp lại nhiều lần trong truyện
ngắn "Tướng về hưu" đã góp phần đắc lực làm cho Nguyễn Huy Thiệp trở thành độc đáo, tất
nhiên là độc đáo có nghệ thuật. Chính cái giọng rời rạc cộc lốc này đã góp phần diễn tả khá
đậm nét thực chất của mối quan hệ tình cảm đã trở nên hết sức lỏng lẻo rời rạc của những con
người trong gia đình "Tướng về hưu". Từng con người ở đây đã trở thành một thế giới cô độc,
dường như không có mối. giao cảm gì với xung quanh, ngay cả đối với những người thân
thiết nhất. Tác phẩm trở thành tiếng chuông cảnh tỉnh về sự rạn vỡ không tránh khỏi của đạo
lý truyền thống khi có sự xâm nhập của yếu tố thực dụng theo mọi kiểu. Lẽ đương nhiên, chủ
đề này được hình thành bởi nhiều yếu tố nghệ thuật khác nữa, trong đó giọng điệu giữ một
vai trò quan trọng.
Nhưng làm thế nào để có tiếng nói riêng, giọng điệu riêng là một điều không dễ dàng.
Nó luôn luôn là nỗi băn khoăn trăn trở, niềm day dứt không nguôi của biết bao thế hệ nhà
văn.
"Giọng điệu riêng là mục tiêu và kết quả được tạo nên bởi cả quá trình phấn đấu toàn
diện, đồng bộ mọi mặt tích lũy, lao động sáng tác trên công cụ chữ nghĩa của nhà văn". "Đó là sự huy động tổng lực mọi thứ vốn của người viết, trong đó dứt khoát phải có tài năng".(1)
(1) Phong Lê - Trên hành trình của 40 năm văn xuôi, ngôn ngữ và giọng điệu -Tạp chí VH số 5-5/1985.
16
Ngay cả ở những nhà văn lớn thì việc tìm kiếm giọng điệu phù hợp với tác phẩm của
mình cũng không phải là việc dễ. Mỗi tác phẩm lại cần có một giọng điệu riêng, Ở "Chảy đi
sông ơi" của Nguyên Huy Thiệp là giọng trầm tư thế sự, ở "Con gái thủy thần", ở "Thung
lũng Hua tát" giọng kể lại đẫm màu sắc huyền thoại.
Giọng điệu không đợi đến lúc tác phẩm hoàn tất mới định hình mà ngay từ đầu nó đã
tham dự trực tiếp vào quá trình sáng tác.
Phân tích tác phẩm văn chương mà bỏ qua giọng điệu, tức là tước đi cái phần rất quan
trọng tạo nên bản sắc độc đáo của tác phẩm. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đã phân tích một cách
sâu sắc vai trò của giọng điện qua mấy từ "khéo la", "lạ gì", "quen thói" trong truyện Kiều.
Chính giọng điệu qua mấy từ trên đã biểu hiện rõ nét thái độ khinh bỉ, chì chiết, căm ghét của
tác giả Nguyễn Du đối với cái thói vô lý, nghiệt nsã, ngang trái của cuộc đời. Văn học là nghệ
thuật ngôn từ. Hoàng Ngọc Hiến quan niệm : "Câu văn phải có hồn. Câu văn có hồn là câu
văn có giọng, có ngữ điệu. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đù của bài văn trước hết là ở giọng".(1)
Không có giọng câu văn sẽ trở nên nhạt nhẽo vô vị. Ngôn ngữ tạo ra giọng điệu và
giọng điệu lại làm cho ngôn ngữ "có thần".
Nhà văn, nhà thơ trước khi bắt tay vào viết phải bắt đầu từ "khúc ca bên trong" như
cách nói của Larmartine, phải chọn được một giọng điệu từ một "tâm trạng mang màu sắc nhạc tính" như M. Amaudov quan niệm (2).
Về giọng điệu và sức mạnh của ngôn từ, Liliem Jimenes nói : "Mỗi từ có tiếng nói
riêng của nó, mỗi từ nôn nao một nổi xúc động riêng. Mỗi từ mang sẵn trong đó một tiếng
vang cực kỳ sâu sắc. Từ này chứa trong mình hơi thờ của gió, từ kia mang tiếng ồn ào của
con sông rộng hoặc cái dồn dập của cánh chim đang vỗ, còn trong một từ khác người ta lại
nghe cái nhịp câm lặng của đá. Nhưng lại có những từ cô đọng cả nước mắt, mồ hôi, hơi thở của con người... Ngôn từ xuyên qua thế kỷ"(3)
Không chỉ đóng vai trò chủ yếu trong sáng tạo ngôn ngữ, giọng điệu còn là hơi thở, là
sự sống của đề tài, tư tưởng, hình tượng. Cả 3 yếu tố này chỉ có thể được biểu hiện trong một
giọng điệu nhất định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định. Giọng điệu trong tác
phẩm chính là cái nhạc tính của tâm trạng, nó là chất keo gắn những liên tưởng, những cảm
xúc mà thiếu nó thì không thể có sáng tạo nghệ thuật. Giọng điệu là chất nghệ thuật đặc sắc
(1) Vãn học học văn - Trường CĐSP TP Hồ Chí Minh và Trường viết văn Nguyễn Du Hà Nội 1990, trang 64 (2) Theo Nguyễn thị Dư Khánh - Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp -Nhà xuất bản Giáo dục 1995. (3) Mười nhà thơ lớn của thế kỷ - Nhà xuất bản tác phẩm mới Hội nhà văn - 1982
17
toát ra từ toàn bộ âm hưởng của tác phẩm, là yếu tố để khẳng định, để nhận chân giá trị của
tác phẩm văn học. Giọng điệu có thể ví như chiếc đũa bé nhỏ mà màu nhiệm trong tay điều
khiển của người nhạc trưởng. Nó vừa có khả năng "liên kết các yếu tố hình thức khác nhau,
làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố của tác
phẩm quy tụ lại và định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu nhất định. Chỉ có trong giọng điệu, mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy đủ hơn, có khi mới mẽ hơn (1)
Vấn đề giọng điệu luôn luôn là vấn đề quan trọng, bức thiết đối với sáng tạo văn
chương. Nhưng không phải sách lý luận văn học nào cũng có chương viết về giọng điệu.
Có thể phân loại giọng điệu theo nhiều kiểu :
+ Phân loại theo sắc thái tình cảm : giọng trang trọng hay thân mật, giọng mến thương
hay gay gắt, dịu dàng hay dữ dội...
+ Phân loại theo nội dung tình cảm : bi, hài, anh hùng ca, lãng mạn hiện thực.
+ Phân loại theo khuynh hướng cảm hứng : thông cảm, phê phán, khẳng định, phủ định,
yêu thương, căm thù.
+ Phân loại theo cấu trúc giọng : giọng đơn, giọng chính, giọng phụ.
+ Phân loại theo cấu trúc thể loại : tự sự, trữ tình, chủ quan, khách quan...
Ngoài ra còn có thể phân chia giọng theo tính chất, đặc điểm của giọng : giọng tường
thuật, giọng nghi vấn, giọng mệnh lệnh, giọng hát., giọng ngâm...
Thế kỷ XX, đặc biệt từ những năm 30 trở lại đây, các nhà văn nhà thơ đã cố gắng tìm
tòi và ngày càng trở nên đa dạng hơn về giọng điệu. Ngay trong phong trào thơ mới ta đã
thấy không có nhà thơ nào có giọng trùng với nhà thơ nào.
Còn ở văn xuôi đặc điểm nổi bật là tính đa thanh. Các tác giả văn xuôi Việt Nam không
đông như các tác giả thơ nhưng mỗi người cũng có một giọng điệu riêng. Phó giáo sư tiến sĩ
Phùng Quý Nhâm có tổng kết: "Bức tranh văn xuôi nghệ thuật, theo tôi có thể nổi lên một số giọng điệu chủ yếu như: giọng trầm tư thế sự, giọng trần thuật hoạt kê, giọng phân tích..." (1)
Tóm lại, ta thấy giọng điệu là một thành tố quan trọng để làm nên "cấu trúc chỉnh thể"
của tác phẩm nghệ thuật, tạo nên phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ, là thước đo tài
năng của người nghệ sĩ và là "điệu hồn" của tác phẩm.
(1) Lê Ngọc Trà - Lý luận vãn học - Nhà xuất bản Trẻ TP Hồ Chí Minh 1990, trang 152. (1) Thẩm định văn học - Phùng Quý Nhâm - Nhà xuất bản văn nghệ TP Hồ Chí Minh 1991, trang 148.
18
1.2. Giọng điệu thơ trữ tình:
1.2.1. Khái niệm trữ tình và thơ trữ tình:
1.2.1.1. Khái niêm trữ tình:
"Trữ tình là những suy tư và miêu tả có màu sắc xúc cảm" (1)
Trong văn học, khái niệm trữ tình được hiểu là một trong ba loại hình của văn chương
(cùng với sử thi và kịch) phân biệt bởi sự tái hiện hiện thực qua biểu hiện của cuộc sống tinh
thần của con người. Trữ tình công nhiên tỏ rõ thái độ của tác giả đối với những hiện tượng
được biểu hiện : Trữ tình đưa người đọc thẳng vào thế giới lý tưởng thẩm mỹ của nghệ sĩ
bằng cách biểu hiện nó dưới một hình thức cảm xúc mạnh mẽ.
Do việc bộc lộ thái độ tình cảm xúc cảm công khai trong nghệ thuật biểu hiện mà loại
hình trữ tình bao giờ cũng in đậm dấu ấn chủ quan của người nghệ sĩ.
Đối tượng chính của nhận thức nghệ thuật trong trữ tình là tính cách của bản thân người
nghệ sĩ, trước hết là thế giới nội tâm của anh ta, tâm trạng và thái độ xúc cảm của anh ta trước
cuộc đời. Hêghen viết : ''Nhà thơ trữ tình có thể tìm kiếm sự kích thích sáng tạo và tìm kiếm
nội dung ở bên trong bản thân mình, tập trung vào những tình thế, trạng thái, xúc cảm và dục vọng nội tại của trái tim và tinh thần mình" (2). Nhà thơ Đức Johannes Becher khẳng định
rằng nhà trữ tình là "người tự biểu hiện mình. Bản thân anh ta là nhân vật trong thiên trữ tình
của mình".
Ở trữ tình, "chủ thể" và "khách thề'' của sự miêu tả nghệ thuật rất gần gũi nhau và trong
một số trường hợp thì xem như hòa lẫn vào nhau : Cả hai đều là thế giới nội tâm của tác giả.
Sự nhận thức đời sống trong sáng tác trữ tình hiện diện trước hết như là "tự nhận thức".
Sự "tự biểu hiện" trữ tình của nhà thơ có thể khác nhau. Thường thường tác giả thể hiện
những suy nghĩ và tình cảm mà anh ta vốn có, với tư cách là một cá thể, thì ở các tác phẩm
của anh ta hiện diện một cái "tôi" trữ tình nào đó. Nhưng đôi khi nhà thơ trữ tình còn xuất
hiện như là người diễn đạt trực tiếp những quan điểm, tâm trạng và xu hướng của một nhóm
người, đôi khi của cả một giai cấp, cả một dân tộc và thậm chí cả toàn nhân loại. Ở đây thay
cho cái "tôi" trữ tình là cái "ta" trữ tình.
Những tâm trạng được thể hiện một cách trữ tình không phải là sự sao chép y nguyên
những gì nhà thơ đã trãi qua. Không phải tất cả những gì từng nếm trải đều được nhà trữ tình
thể hiện bằng thơ. Lọt vào phạm vi sáng tác của anh ta thường chỉ có là những xúc cảm có ý
(1) G.N. Pôxpêlôp - Dẫn luận nghiên cứu văn học - Nhà xuất bản Giáo dục -1998, trang 323. (2) Hêghen - Mỹ học tập 3 trang 501. Viện Văn học Việt Nam Hà Nội - 1973.
19
nghĩa nhất. Trữ tình không chỉ tái tạo lại những tình cảm của nhà thơ mà ở một mức đáng kể
còn làm cho những tình cảm ấy trở nên năng động, giàu có, sáng tạo lại các tình cảm ấy.
Cảm xúc được thể hiện bằng trữ tình - là kết quả của khái quát hóa nghệ thuật. Johannes Becher (1)viết : "Khi thể hiện bản thân mình - nhói thơ trữ tình. biểu hiện vấn đề
của thời đại mình, thêm nữa... nhân cách nhà thơ cần phải lớn lên thành một tính cách đại
diện cho thời đại". Các cảm xúc được thể hiện bằng trữ tình mang một tính cách xã hội - lịch
sử Dấu ấn của các truyền thống văn hóa dân tộc và của các quan hệ xã hội đều in đậm ở chủ
thể của lời nói trữ tình.
Nội dung các tác phẩm trữ tình có một phẩm chất đặc biệt. Khi người đọc tiếp nhận đầy
đủ tác phẩm trữ tình - nghĩa là để cho tâm trạng của nhà thơ thấm vào mình, cảm thấy như
một lần nữa sống qua các tâm trạng ấy, như một cái gì của mình, một cái gì riêng tư, thân thiết của mình. Jonathan Becher viết (1): "Tinh cảm biểu hiện trong một bài thơ không nhất
thiết phải đồng nhất với tình cảm của chúng ta, nhưng tình cảm ấy bao giờ cũng phải khiến
chúng ta có thể đào sâu và mở rộng thêm tình cảm của mỗi chúng ta". Nói cách khác, lời thơ
trữ tình có sức mạnh khêu gợi, ám ảnh.
Do vậy, các hình tượng trữ tình dễ dàng vượt qua sự ngăn cách của thời đại và được
tiếp nhận như là những hình tượng trữ tình của con người nói chung. Các xúc cảm do trữ tình
ghi lại có một độ hàm chứa khác thường. Nó gần gũi và dễ đồng cảm với nhiều người. Người
đọc dễ dàng đồng nhất mình với nhân vật trữ tình và tiếp nhận những suy nghĩ và tình cảm do
nhà thơ biểu đạt như là những suy nghĩ và tình cảm của chính mình. Cái tình cảm của nhà thơ
trữ tình có uy lực "lây truyền" sang người đọc, trở thành tài sản tinh thần của người đọc.
1.2.1.2. Thơ trữ tình:
Người ta có thể nói rất nhiều, rất khác nhau về thơ trữ tình. Nhưng về phương diện lý
luận, có thể thống nhất một số điểm chung nhất như sau :
Thơ trữ tình xuất phát từ thế giới bên trong, thế giới tinh thần phong phú và bí ẩn của
tâm hồn, của "trạng thái nội cảm" (Hêghen). Nó là "một điệu hồn đi tìm những điệu hồn'"
(Tố Hữu), là "tiếng vang cảm xúc", "tiếng lòng"'... Tất cả những cách nói ấy đều nhằm khẳng
định đặc điểm căn bản đầu tiên của thơ trữ tình là thiên về tình cảm.
Quan niệm thơ là tiếng nói của tình cảm là quan điểm chung của cả phương Đông và
phương Tây. Thơ ca cổ Trung Quốc quan niệm : "thi dĩ ngôn chí " chữ "chí" ở đây bao hàm
(1) G.N. Pôxpêlôp - Dẫn luận nghiên cứu văn học - Nhà xuất bản giáo dục -1998 - trang 330. (1) G.N. Pôxpêlôp - Sách đã dẫn.
20
cái chủ quan - chủ thể, nghĩa là cả thế giới nội tâm của con người. Thơ ca cổ điển nước ta
cũng theo quan niệm đó nhưng được bổ sung, hoàn thiện dần. Phan Phù Tiên trong "Tựa Việt
âm thi tập tân san" đã gắn chữ "chí” liền với chữ "tâm" mà chữ "tâm" thì gần gũi với chữ
"tình". Theo Lê Quí Đôn thì cái "tình" là điểm tựa của thơ : "Thơ phát khởi trong lòng người
ta".
Ở phương Tây, Guy Ô cho rằng : "Thơ là một hình thức được tổ chức có tình cảm của
lời nói". Dubenlay cho rằng : "Thơ là người thư ký trung thành của trái tim" (1)
Ở Việt Nam, Sóng Hồng trong lời tựa tập thơ của mình có viết: "Thơ là một hình thức
nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm nồng nhiệt, nồng cháy ở trong lòng''' (2). Tố Hữu thì nói giản dị hơn : "Thơ không chỉ là chuyện văn chương mà chính là gan
ruột". "Bài thơ hay làm cho người ta không còn cảm thấy câu thơ mà chỉ còn cảm thấy tình
người".
Như vậy ở Đông Tây cổ kim, cả xưa và nay đều cho yếu tố tình cảm là yếu tố quan
trọng bậc nhất của thơ trữ tình. Nó chi phối mạnh mẽ đến các yếu tố khác như xây dựng hình
tượng, tổ chức câu thơ và chất nhạc của thơ.
Vấn đề cơ bản nhất giúp ta phân biệt thơ trữ tình với thơ tự sự là vấn đề "cái tôi trữ
tình".
Trong tác phẩm tự sự, cái tôi nghệ thuật bộc lộ gián tiếp qua những hình tượng khách
quan còn trong tác phẩm trữ tình, cái tôi bộc lộ một cách trực liếp, thành thực và đầy bản
lĩnh.
Cái tôi trữ tình là biểu hiện tập trung của tính chủ quan trong thơ trữ tình. Người đọc sẽ
lĩnh hội thế giới thông qua nhân cách của nguôi tình. Trong thơ trữ tình, cuộc sống được nhận
thức, lý giải, đánh giá không phải bằng những hệ thống quan niệm, nguyên tắc thông thường
quen thuộc mà chính bằng suy nghĩ, tình cảm, thái độ, nhân cách của người trữ tình. Khi
Nguyễn Du viết : "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Truyện Kiều) chính là đã nói lên
được bản chất của cái tôi trữ tình, viết về điều mà nhà thơ cảm thấy trong lòng.
Cái tôi trữ tình dù ở hoàn cảnh nào, cương vị nào, trạng thái nào nó cũng hoàn toàn
thành thực. Nhà thơ mượn lời thơ để nói với chính mình, để tự giải tỏa những xúc cảm, bức
xúc đang dồn dập trong lòng. Người ta không thể giả dối với chính mình, vì thế thơ trữ tình
thành thực đến tận cùng. Nó bộc lộ tất cả những gì trong sâu thẳm lòng người, những trạng
(1) Theo Lê Khánh Mai - giọng điệu nghệ thuật thơ trữ tình Xuân Quỳnh - Luận án thạc sĩ - Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh - 1996. (2) Sóng Hồng - Thơ - Nhà xuất bản Vãn học Hà Nội 1966.
21
thái thực của tâm hồn : niềm vui, nỗi buồn, tình yêu, niềm căm giận... nó không ngại nói đến
những thất bại, hẩm hiu, thua thiệt, mất mát, đau đớn, khát vọng... Chế Lan Viên thường
xuyên soi rọi tâm hồn mình :
Tâm hồn tôi khi Tổ Quốc soi vào
Thấy ngàn núi trăn sông diễm lệ
(Suy nghĩ 1966)
và
Đảng dạy ta không thể đưa lòng đi theo Đảng
Lại xa những gì dân tộc thương yêu
(Đọc Kiều)
Tất cả những nhà thơ thành thực đến tận cùng đều có thể viết được những tác phẩm có
tác dụng lay động lòng người.
Đi sâu vào chính tâm hồn mình, cái tôi trữ tình không cắt đứt mối dây liên hệ với cộng
đồng xã hội mà đó cũng là một cách để nhà thơ xích lại gần nhân loại, gần cuộc sống. Nhờ tự
ý thức bộc lộ cái phần tinh hoa nhất của tinh thần, nên cái tôi trữ tình bao giờ cũng tự khái
quát, nâng cao mình lên để hòa nhập với tinh thần chung của thời đại :
Tôi buộc hồn tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh cõi đời.
(Từ ấy - Tố Hữu)
Đấy là tinh thần của một người chiến sĩ cách mạng tự nguyện hiến dâng cuộc sống của
mình cho nhân dân, cho đất nước đúng vào lúc nhân dân và đất nước chờ mong.
Không có một cá nhân nào đứng ngoài thời đại. Những bi kịch cá nhân bao giờ cũng có
nguyên nhân xã hội của nó. Những tiếng nói sâu sắc về thân phận, tự nó đã mang ý nghĩa
khái quát về xã hội :
Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy
Tổ Quốc trong lòng ta mà có cũng như không !
Nhân dân ở quanh mà ta chẳng thấy
22
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng !
(Người thay đổi đời tôi - Người thay đổi thơ tôi)
Chế Lan Viên.
Đó là những câu thơ nhớ lại một thời nô lệ phải học "Tổ tiên ta là người Gô - Loa" nên
"Tổ Quốc trong lòng ta mà có cũng như không" và thơ phải xuôi tay, bất lực mà thôi.
Những nhà thơ có tâm hồn lớn, dũng khí lớn luôn luôn vươn lên, luôn luôn có ý thức tự
vượt mình để vươn tới tầm cao thời đại, là người phát ngôn của thời đại.
Trên đây là những đặc điểm bản chất của thơ trữ tình. Đó là những căn cứ quan trọng
để ta xác định các cung bậc giọng điệu thơ trữ tình.
1.2.2. Giọng điệu thơ trữ tình:
1.2.2.1. Giong điệu với nôi dung thơ trữ tình:
Giọng điệu nổi bật và bao trùm của thơ trữ tình là tự biểu hiện. Tự biểu hiện mình (và
thời đại mình) qua niềm vui, nỗi khổ, đớn đau, hạnh phúc, chua cay, ngọt bùi.
Giọng điệu chung để thể hiện nội dung thơ trữ tình là trình bày, giãi bày, tâm tình, thổ
lộ các nỗi niềm, suy tư, khát vọng để giải tỏa, giải thoát hoặc tìm sự đồng cảm, sẻ chia.
Ở thể thơ tự sự, có thể là "đa thanh" (đa giọng) (Bakhtin) còn ở thơ trữ tình, có thể là
tiếng nói "đơn giọng", ở đây tiếng nói của chủ thể trữ tình lấn át hoặc trùng khít với khách
thể. Theo Bakhtin "cả những cái xa lạ với mình nhà thơ cũng nói đến bằng tiếng nói của mình" (1). "Còn người viết văn xuôi thì ngay cả cái của mình cũng cố nói đến bằng tiếng người khác''' (2).
Nhà thơ trữ tình có thể viết về cái chung hay cái riêng, nhưng dù là chung hay riêng bao
giờ cũng phải gắn với một xúc cảm mãnh liệt, chân thành tạo nên giọng điệu riêng của mình.
Trường xúc cảm mãnh liệt ấy còn gọi là tâm trạng. Người ta còn gọi thơ trữ tình là "bản
tự thuật tâm trạng". Tâm trạng là trạng thái tâm hồn vừa cụ thể vừa trừu tượng không dễ gì
gọi tên ra được. Nó giống như một giai điệu đang vang lên trong tâm hồn. Giai điệu ấy buồn
hay vui, hạnh phúc hay đau khổ nó sẽ được biểu hiện ra bằng giọng điệu tương tự, bằng nội
dung tương tự.
Trong lịch sử thơ trữ tình có những bản tự thuật tâm trạng sống lâu hơn người viết ra
nó, sống lâu hơn thời đại của nó. Ví dụ câu thơ của Hồ Xuân Hương :
(1) (2) Bakhtin - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết - Trường viết văn Nguyễn Du -Hà Nội - 1992-trang 105.
23
Trơ cái hồng nhan với nước non.
(Tự tình II)
Đó chính là tâm trạng cô đơn của người phụ nữ tài sắc mà truân chuyên, tâm trạng ấy
còn được đồng cảm mãi, còn sống mãi trong lòng những người cùng cảnh ngộ với Xuân
Hương. Bởi thế gian đâu phải ai ai cũng đều có hạnh phúc. Còn nhiều tai ương, còn nhiều éo
le, nhiều tai quái của số phận vẫn xảy ra vô số trong cuộc đời.
Thơ hiện đại càng giàu tâm trạng. Bởi các nhà thơ hiện đại không chịu sự chi phối của
thời đại văn chương phi ngã. Chính sự giải phóng cá nhân đã dẫn đến sự giải phóng văn
chương. Trong phong trào thơ mới 1930 - 1945, ta thấy có vô vàn giọng nói riêng biệt biểu
hiện tâm trạng khác nhau. Mỗi một nghệ sĩ đều có ý thức sâu sắc về tính cá biệt trong giọng
điệu của mình : "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc hồn thơ rộng mở như
Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, đắm say như Xuân Diệu" (1)
Tâm trạng chung của các nhà thơ mới là nỗi buồn. Mà không buồn sao được, một đất
nước bị thực dân Pháp cai trị 100 năm, thân phận nô lệ biết đi đâu về đâu ? Nên các thi sĩ
biểu hiện tâm trạng chung là nỗi buồn, nhưng vẫn mỗi người một giọng điệu khác nhau :
Chế Lan Viên thì "nhuốm màu triết lý"
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
Xuân Diệu thì kêu lên :
Trời ơi hôm nay tôi chán hết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian.
Huy Cận :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
(Tràng Giang)
Khi Aimatôp được hỏi : "Vì sao tác phẩm của ông thường buồn ?", ông trả lời : "Là vì
chính bản thân tôi được "nhào nặn" trong nỗi buồn. Tuy nhiên, thực tình mà nói tôi tin rằng (1) Hoài Thanh - Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam - Nhà xuất bản Văn học Hà Nội 1988, trang 34.
24
chính thảm kịch của cuộc đời mới làm tâm tư con người biết suy nghĩ cao hơn về ý nghĩa
cuộc sống : trong văn học cổ đại chúng ta luôn tìm thấy cái bi đát, không phải là không có ý nghĩa gì đâu" (1), tác động của tâm trạng buồn nhiều khi lại mang ý nghĩa tích cực.
Thơ sau cách mạng diễn tả tâm trạng vui nhiều hơn tâm trạng buồn. Niềm vui quả là có
nhiều thật và giọng điệu chính của thơ nhiều tác giả là niềm vui thật vì con người với tư thế
chủ nhân xã hội, tư thế chiến thắng thì giọng điệu giống như bài ca bất tuyệt: "vui sao một
sáng tháng năm", "vui thế hôm nay, ta nhảy ta bay". "Ta hát suốt đêm nay vui bất tuyệt".
Nhưng không phải tâm trạng các nhà thơ cách mạng chỉ toàn niềm vui. Trong thơ cách
mạng cũng có những nỗi buồn, trăn trở, khắc khoải, lo âu, đớn đau, hoài nghi, giận dữ... Đủ
mọi sắc thái cung bậc tình cảm của con người. Ngay Tố Hữu, giọng điệu thơ chính là giọng
khẳng định, giọng mến thương mà cũng có khi giọng buồn đau đến nhức nhối như trong bài
"Nước non ngàn dặm". Hơn 300 câu trong đó có một âm chủ là giọng buồn, buồn nhưng
không bi lụy, nhưng rõ ràng là không thể là giọng vui như "Ta đi tới" hay "Vui bất tuyệt"
được :
Anh về Quảng Trị Gio Linh
Trèo lên Dốc Miễu, lặng nhìn quán Ngang
Bời bời cỏ hít dồng hoang
Chim kêu cành cụt, chang chang nắng cồn.
Rõ ràng là tư thế của "ngày về" vậy mà giọng vẫn buồn :
Xe lên đường 9 cheo leo
Hố bom đỏ mắt, trắng đèo bông lau
Cây khô chết chẳng nghiêng đầu
Nghìn tay than cháy sạch màu trời xanh.
Đó là những câu thơ trong "Nước non ngàn dặm". Và ta hiểu nguyên nhân giọng điệu
buồn đến nhức nhối tâm can của nhà thơ cách mạng khi ngày trở về thấy quê hương bị chiến
tranh tàn phá đến đau thương, đến "lặng" cả người : "Lặng nhìn quán Ngang"
Rõ ràng đấy là tình cảm rất thật nên nó chi phối toàn bộ giọng điệu của bài "Nước non
ngàn dặm'.
(1) - "Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca" - Nhiều tác giả - Nhà xuất bản Giáo dục 1997, trang 72.
25
Và những khắc khoải lo âu của Xuân Quỳnh cũng là tâm trạng thật :
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
(Thuyền và biển)
Thật ra niềm vui và nỗi buồn luôn thay nhau bước ngang đời chúng ta từ ngày này sang
tháng nọ, và ta phải biết chấp nhận nó :
Nỗi khổ đau của ta ơi.
Nếu không thể dừng thì ngươi cứ đến
(Nguyễn Nhật Anh - Thơ gửi khổ đau)
Trương Nam Hương cũng có cái ám ảnh của nỗi buồn :
Ôi sông Hương, hỡi sông Hồng
Giọng tôi lạc giữa mênh mông nỗi buồn !
(Tự bạch)
Những bài thơ đầy tâm trạng, đầy nỗi niềm thường được trình bày bằng giọng điệu trầm
tư thế sự. Còn những bài thơ xuất phát từ cảm hứng lịch sử, thời đại, dân tộc, chiến tranh,
cách mạng, hòa bình, xây dựng... thì thường có giọng điệu sử thi. Nhà thơ thường đứng trên
tư cách công dân để cảm nhận, suy ngẫm, tự hào, ngợi ca cuộc sống với ý thức trách nhiệm
cao trước lịch sử và xã hội. Cho nên ta thấy dường như cái chung được nói đến nhiều hơn cái
riêng. Cái riêng có được nói đến cũng phải phù hợp với lợi ích của cái chung. Con người trữ
tình ít nói đến cái "tôi trữ tình" mà thường nói đến cái "ta trữ tình". Con người trữ tình tạm
gác những vấn đề nhỏ bé cá nhân để gánh vác những nhiệm vụ lịch sử : "Vóc nhà thơ đứng
ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên)
Tương đương với cái "ta trữ tình" là các khái niệm : Tổ quốc, đất nước, quê hương,
làng mạc, sông núi:
- Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
(Nguyễn Đình Thi)
- Không nỗi đau nào của riêng ai
Của chung nhân loại chiến công này
26
Việt Nam ơi! Máu và hao ấy
Có đủ mai sau thắm những ngày ?
(Tố Hữu)
- Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?
(Chế Lan Viên)
- Đất nước bốn nghìn năm không nghỉ,
Những đạo quân song song cùng lịch sử
Đi suốt thời gian, đi suốt không gia
(Nam Hà)
Giọng điệu trữ tình sử thi thường rất mạnh mẽ, hào hùng, sảng khoái, đầy niềm vui,
niềm tin, có khi có không khí trang nghiêm của tính chính luận, của giọng khẳng định.
Tố Hữu thường hay có giọng quyền uy, tuyên bố các chân lý lớn quyết tâm lớn :
- Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát
- Hãy đứng dậy! Ta có quyền vui sống.
- Khóc là nhục, rên hèn, van yếu đuối
Giọng quyền uy thể hiện rõ nhất trong bài "Hoan hô chiến sĩ Diện Biên"
- Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt.
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Chỉ một đoạn mở đầu thôi mà thấy giọng, đầy khí thế lớn, quyết tâm lớn, đầy tính chính
luận, xã luận.
27
Trong thơ trữ tình sử thi, con người không phải là biểu hiện của cá nhân đơn lẻ mà
thường là biểu hiện của con người tập thể, cộng đồng, dân tộc, con người trong đội ngũ :
- Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi
Dài như sông
(Tố Hữu)
- Đội ngũ ta đi dài như tiếng hát
(Chính Hữu)
- Anh giải phóng quân ơi!
Tên Anh đã thành tên đất nước
(Lê Anh Xuân)
- Đất nước của những người con gái, con trai
Đẹp hơn hoa hồng, mạnh hơn sắt thép
(Nam Hà)
Trong cái "ta trữ tình" ấy, mọi tâm tư tình cảm, những quan niệm về hạnh phúc, tình
yêu cũng mang màu sắc chung, có tính chất lý tưởng :
- Hạnh phúc là gì ?
Bao lần ta lúng túng
Miền Nam gọi! Hai đứa mình có mặt
Và em gọi đó là hạnh phúc
(Bài thơ hạnh phúc - Dương Hương hy)
- Mà nói vậy trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành phần riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để em yêu
(Bài ca xuân 61 - Tố Hữu)
28
Trong giọng điệu sử thi, ngay cả vấn đề sống chết cũng được lý giải bằng lợi ích cộng
đồng, bằng lý tưởng cách mạng.
- Có cái chết hóa thành bất tử
(Tố Hữu)
- Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi
(Quê hương - Giang Nam)
- Sống đã vì cách mạng anh em ta
Chết cũng vì cách mạng chẳng phiền hà
(Tố Hữu)
Chính giọng điệu sử thi của thơ văn cách mạng đã châm thêm nhiệt huyết cho hàng vạn
hàng triệu chiến sĩ xốc tới chiến trường giành lại thắng lợi cho non sông Tổ quốc. Công lao
của các nhà thơ cách mạng không thể là nhỏ. Chiến tranh kết thúc, cuộc sống hòa bình trở lại
bình thường với những lo toan vất vả của một đất nước nghèo sau bao nhiêu năm bị chiến
tranh tàn phá. Giọng điệu sử thi không còn thích hợp thay thế vào đó là giọng trầm tư thế sự,
suy ngẫm về cuộc đời mà ta thấy giọng này là giọng chủ trong Di cảo thơ cửa Chế Lan Viên.
1.2.2.2. Giọng điệu thơ trữ tình với hình thức biểu hiện:
Giọng điệu chỉ là một yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật là tác phẩm thơ nhưng nó không
xuất hiện đơn lẻ, rời rạc mà nó chi phối toàn bộ các yếu tố khác của tác phẩm như ngôn ngữ,
thể loại, kết cấu, âm thanh nhip điệu, hình ảnh...
1.2.2.2.1. Giọng điệu với ngôn ngữ thơ:
Về giọng điệu và sức mạnh của ngôn từ, Liliem Jimenes nói : "Mỗi từ có tiếng nói
riêng của nó, mỗi từ nôn nao một nỗi xúc động riêng. Mỗi từ mang sẵn trong nó một tiếng vang cực kỳ sâu sắc Có những từ có đọng cả nước mắt, mồ hôi, hơi thở con người" (1). Như
vậy theo ông, mỗi từ đã có sắc thái biểu cảm riêng, có giọng riêng của nó. vấn đề ở chỗ là
làm sao tìm đúng từ ấy, ngôn ngữ ấy đặt đúng vào vị trí của nó trong câu thơ.
Ta thường nói thơ Tố Hữu có giọng thương mến, có tính dân tộc, là vì Tố Hữu đưa vào
thơ hệ thống xứng hô trữ tình phong phú : Bác ơi, đồng bào ơi, Việt Nam ơi, Xuân ơi, Huế ơi
... tạo ra mối quan hệ hết sức gần gũi trong xưng hô của tiếng thơ, tạo thành giọng thương
mến.
(1) Mười nhà thơ lớn của thế kỷ - Nhà xuất bản tác phẩm mới Hội nhà văn 1982.
29
Cũng như vậy thơ Tố Hữu được đánh giá có tính dân tộc vì ông sử dụng các từ địa
phương đúng lúc, đúng chỗ :
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi !
Ta thử đưa vào không phải "chi rứa" mà là "chi thế" "gì thế" ⟹ câu thơ trở nên vô
duyên và hỏng hẳn. Cho nên ngôn ngữ địa phương đặt đúng lúc đúng chỗ ở đây thật ngọt,
thật tình cảm thân thương. Đó là một yếu tố làm nên tính dân tộc ở Tố Hữu.
Những ví dụ trên cho ta thấy sức mạnh của ngôn ngữ đối với việc tạo nên giọng điệu
riêng cho tác giả. Còn Chế Lan Viên thì luôn thích dùng những từ to tát, những khái niệm lớn
: vũ trụ, nhân loại, thời đại, cứ muốn nói đến những quá trình : sinh nở, hồi sinh, tái sinh, cứ
muốn dùng những danh từ tôn giáo : Thích ca, Đức Phật, cà sa, Đức Chúa trời, quỷ dữ sa
tăng, xám hối ... những từ ngữ ấy làm cho thơ Chế Lan Viên có phần xa lạ với quần chúng
cần lao. Những từ ngữ ấy hợp với giọng triết lý của Chế Lan Viên "ưa những điều trọng đại".
Giọng thơ Phạm Tiến Duật đặc sắc không lẫn vào với ai ở khía cạnh lạc quan, khúc
khích, hóm hỉnh của ngôn ngữ :
- Em ở Thạch Kim sao lại nói lừa anh là Thạch Nhọn
- Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
chưa cần sửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
(Tiểu đội xe không kính)
Cái giọng hóm hỉnh, lạc quan, khúc khích này rõ ràng là Ưu thế của tuổi trẻ. Nó được
hình thành nhờ thái độ thản nhiên đi vào cuộc chiên tranh, coi thường mọi gian khó : "không
có kính, ừ thì có bụi". Thái độ "phì phèo" và cười "ha ha." Những từ "ừ, phì phèo, ha ha" rất
đời thường được đưa vào thơ làm nên chất trẻ, làm nên giọng hóm hỉnh, lạc quan yêu đời của
Phạm Tiến Duật.
Rõ ràng ta thấy mỗi nhà thơ có một ưu thế riêng trong việc sử dụng sức mạnh của ngôn
ngữ tạo nên giọng điệu thơ riêng cho mình.
Hô ứng cũng làm cho tiếng thơ âm vang, mà tiếng vang chính là hình thức của giọng
điệu. Tố Hữu chủ trương tiếng thơ phải có âm vang. Không chỉ tiếng vang của chữ a, chữ b,
mà "cả tiếng vang lên trong chữ", "của khoảng cách giữa những chữ, những dòng", "tiếng
30
vang dội rất đa dạng và tinh tế" trong "sự im lặng giữa các từ" (1). Yêu cầu đó đòi hỏi phải sử
dụng thủ pháp trùng điệp từ rộng rãi khắp bài thơ, bởi vì trùng điệp từ tạo nên một tiếng vang
vốn không có trong yếu tố cá biệt khi đứng riêng lẻ. Nếu điệp âm mới tạo ra tiếng vang trong
chữ, giữa chữ, thì điệp từ mới tạo thành âm vang của lời nói và giọng điệu :
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
(Từ ấy)
Điệp từ làm cho từ "là" vốn rất thông thường bỗng có âm vang khác lạ, làm cho giọng
thơ liền hơi, liền mạch và là giọng khẳng định sắt đá.
Chủ thể sáng tác thi ca là một cá nhân. Phút bùng cháy của tâm hồn là hành vi sáng tác
thi ca. Nhưng tôi nghĩ phút bùng cháy của tâm hồn chính là lúc nhà thơ tìm được giọng thích
hợp với tâm trạng mình và ngôn ngữ phù hợp để biểu hiện tâm trạng ấy. Giọng điệu và ngôn
ngữ luôn đi đôi với nhau tạo nên bản sắc riêng của nhà thơ.
1.2.2.2.2 Giọng điệu và hình ảnh thơ:
Thơ trữ tình luôn mã hóa những rung động, xúc cảm của nhà thơ để tạo nến một hệ
thống biểu tượng, hình ảnh. Hình ảnh trong thơ không chỉ có tính chất trực quan, mà nó còn
có giọng của nó. Ví dụ hình ảnh "mặt trời'" luôn luôn gợi cho ta âm hưởng của một cái gì
chói chang, bùng cháy, tỏa sáng, đúng đắn như chân lý. Nhưng hình ảnh "mặt trời đen" trong
văn chương thế giới lại mang giọng khủng khiếp, đe dọa, đen tối. Nhà thơ Lý Hạ đời Đường
có câu : "Hai mặt trời cùng mọc, ánh đen chiếu đầy trời". Vichto Huygô có câu : "Một mặt.
trời đen khủng khiếp chiếu tỏa ra một đêm âm u" (Tỉnh quan).
Xét các hình ảnh trong thơ Tố Hữu ta thấy đó là cả một thế giới bùng cháy, tỏa sáng,
nẩy nở tột cùng. Thơ Tố Hữu đầy nắng : nắng cháy, nắng lửa, nắng say ... Nhà thơ thích dùng
các hình ảnh về sức nóng và ánh sáng mặt trời, ngọn lửa ... Hệ thống hình ảnh ấy làm cho thơ
Tố Hữu thực sự là giọng thơ nóng bỏng, sáng ngời, bay bổng, nhiệt huyết.
Một trong những điều làm nên giọng thân thương giản dị ở Tố Hữu là Tố Hữu không
dùng các hình ảnh cầu kỳ, không biến đổi nghĩa của từ, ông vẫn dùng các từ, các hình ảnh
mang thuộc tính khách quan vốn có : tóc xanh, mắt đen, mây trắng, non cao, rừng xanh, cát
(1) Trần Đình Sử-Những thế giới nghệ thuật thơ-Nhà xuất bản Giáo dục 1997.
31
trắng ... Những hình ảnh quen thuộc, giản dị, gần gũi với quần chúng, và quần chúng. thấy
thơ Tố Hữu dễ hiểu, dễ truyền cảm, lôi cuốn. Quần chúng chấp nhận Tố Hữu là nhà thơ của
họ, và giọng kêu gọi đấu tranh của Tố Hữu được quần chúng hưởng ứng. Thực ra thơ Tố Hữu
chính là những nghĩ suy, những nỗi niềm của quần chúng mà Tố Hữu chỉ là người phát biểu
những nghĩ suy, những nỗi niềm ấy bằng thơ ca.
Điều đó cho chúng ta thấy việc lựa chọn hình ảnh để tổ chức nên câu thơ, bài thơ cũng
quan hệ gắn bó đến việc tạo nên giọng điệu riêng.
Hình ảnh trong thơ làm cho thế giới trữ tình vốn vô hình, vô ảnh được hữu hình hóa. Ví
như nỗi nhớ, nỗi buồn, nỗi cô đơn là những biểu hiện của tâm trạng con người. Nó không có
hình dạng, kích thước. Hình ảnh
thơ tạo ra được những hình ảnh, kích thước ấy cho người đọc hình dung được, cảm
được, hiểu được. Trong câu thơ của Xuân Diệu :
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
"Hồn" được hình tượng thành "chiếc đảo" "rợn bốn bề" là để miêu tả sự cô đơn tràn
ngập bốn bề nhung lại cũng có biên giới, có vùng đất riêng : "chiếc đảo", còn vùng trời lại là
cả "bốn bề". Hình ảnh diễn tả cô đơn ấy cũng xác lập một giọng điệu riêng : giọng tự khẳng
định cái "tôi" cá nhân, cái "tôi" cô đơn.
1.2.2.2.3. Giọng điệu với nhịp điệu thơ:
Cảm xúc trữ tình cũng được mã hóa ở âm thanh, nhịp điệu. Con người ở trạng thái tình
cảm nào, sẽ tự nhiên cất lên giọng điệu tương tự và nhíp điệu góp phần diễn tả cái giọng điệu
ấy. Trong tác phẩm, nhịp điệu xuất hiện trong hai tư thế :
a) Là xương cốt vận hành của giọng điệu.
b)Tiết chế để giọng điệu thể hiện một cách trung thực lập trường, thái độ, cảm xúc nhà
thơ. Nhịp điệu nhanh, gấp của "vội vàng" cho thấy cái mê đắm, rạo rực của hồn thơ Xuân
Diệu. Còn ở Huy Cận, nhịp thơ chậm rãi thể hiện "cái khắc khoải không gian", cái "ảo não"
mang '''thiên cổ sầu"'.
Nhịp điệu trong thơ xuất hiện trên cơ sở nhịp điệu của cuộc sống. Lời ru có nhịp êm
đềm, hành khúc có nhịp mạnh, hùng tráng, tình yêu có nhịp sâu lắng thiết tha, đau đớn có
nhịp chậm và nghẹn tắc. Chuyển đổi nhịp lập tức giọng điệu chuyển đổi theo :
Tôi lại về / quê mẹ nuôi xưa 3/4
Một buổi trưa/ nắng dài bãi cát 3/4
32
Gió lộng xôn xao/ sóng biển đu đưa 4/4
Mạt rượi lòng ta/ ngân nga tiếng hát 4/4
Nhịp của hai câu thơ đầu là nhịp kể và miêu tả bình thường. Hai câu thơ sau có âm
vang của gió và sóng, có âm vang của một tấm lòng. Hai câu sau không chỉ tả cảnh mà còn tả
tình trong cảnh. Nhịp điệu của hai câu thơ sau là nhịp điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu
náo nức, xôn xao và biết bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã nuôi
mình.
Nhịp điệu mang bản sắc riêng của từng nhà thơ. Trong quá trình chọn từ, tìm hình ảnh,
kiến tạo câu thơ, nhà thơ không thể tách rời năng lực rổ chức nhịp điệu.
Câu thơ : Vàng vàng bay đẹp quá sao sao ơi (Tố Hữu) có nhịp nó :
Vàng/ vàng bay/ đẹp quá/ sao/ sao ơi
Nhịp của câu thơ diễn tả trạng thái hạnh phúc đến dồn dập to lớn bất ngờ làm con người
sung sướng đến cực độ. Giọng thơ là giọng hồ hởi phấn khởi và nhịp thơ là nhịp náo nức dồn
dập. Giọng thơ và nhịp thơ hoàn toàn tỉ lệ thuận.
Trong thơ, ngắt nhịp hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất của ngôn ngữ thơ chứ không
phụ thuộc vào quãng cách như trong âm nhạc. Ví dụ câu thơ của Chế Lan Viên "Cái xào xạc
hồn anh chính là xào xạc lá" có nhịp điệu thơ là :
Cái xào xạc hồn anh/ chính là / xào xạc lá
Nhưng nếu ngắt theo "cảm tính về tính nhạc" thì người ta sẽ ngắt là :
Cái xào xạc / hồn anh / chính là / xào xạc lá.
Ta thấy cách ngắt nhịp sau có nhạc hơn là có hồn thơ. Điều đó đòi hỏi khi phân tích
nhịp điệu thơ trên phương diện ngôn ngữ đòi hỏi phải cảm thụ thơ tốt, hiểu được cái "điệu
hồn", cái giọng điệu của tác giả, cảm xúc của tác giả.
1.2.2.2.4. Giọng điệu với ngữ điệu thơ:
Ngữ điệu trong thơ là âm thanh biểu thị ở giọng lên cao hay xuống thấp, lời chậm và
nhanh, giọng mạnh và yếu, ngắt hơi nhiều ít. Ngữ điệu vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của
tính gợi cảm.
Tính gợi cảm tự nó không có ý nghĩa độc lập mà nó sống trong một văn cảnh nhất định.
Ngữ điệu có ở các loại văn thơ. Có ngữ điệu lôzic và ngữ điệu nghệ thuật tạo cho lời nói sự
thống nhất hữu cơ.
33
Ngữ điệu diễn cảm có chức năng riêng mà nếu mất chức năng diễn cảm đi thì nội dung
ấy cũng mất luôn. Ngữ điệu lôzic không góp gì thêm vào nội dung diễn cảm ngoài cái đã có
trong hệ thống ngữ điệu. Ngữ điệu lôzic tùy thuộc vào người đọc nhanh hay chậm, trầm hay
bổng. tùy thuộc vào chỗ ngừng. Chỗ ngừng nhiều hay ít tùy thuộc vào cách đọc có diễn cảm
hay không có diễn cảm.
Trong thơ trữ tình, ngữ điệu là một dấu hiệu mang tính chủ quan của người nghệ sĩ và
nó cũng là dấu hiệu của giọng điệu.
Trong tiếng Việt, các thanh bằng và thanh không thường kết thành ngữ điệu nhẹ nhàng,
bay cao, lan tỏa :
Em ơi Ba Lan mùa tuyết lan
Đường Bạch dương sương trắng nắng tràn :10 thanh bằng / 14 âm Còn các thanh trắc
thường kết thành ngữ điệu mạnh, khẳng định :
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố : 6 thanh trắc /10 âm
Nếu ta dùng giọng ta đọc diễn cảm hai câu thơ của Chế Lan Viên :
Ai không đau khi lửa cháy các ngôi nhà
Chỉ gỗ rách nát tươm đủ lòng ta đau buốt
Ta cũng thấy ở các thanh trắc, giọng phải lên cao và ở các thanh bằng giọng xuống
thấp, đó là ngữ điệu lôzic. Còn ngữ điệu nghệ thuật là cách đọc diễn cảm cả các thanh bằng
và thanh trắc ấy sao cho gợi cảm.
Ngữ điệu trong thơ chia thành hai nhóm cơ bản : thơ trữ tình điệu nói và trữ tình điệu
ngâm. Trữ tình điệu ngâm là sản phẩm của tư duy thơ truyền thống, biểu hiện cái phi ngã.
Trữ tình điệu nói lại hướng tới cái bản ngã, cái cá nhân. Phải đến trữ tình điệu nói, giọng điệu
cá nhân nghệ sĩ mới thực sự có đường nét.
Thơ trữ tình điệu ngâm có qui luật chặt chẽ về âm luật. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Tố
Hữu lại chọn thể lục bát để diễn tả nội dung bài Tiếng ru. Vì bản thân thể lục bát, cả câu 6,
câu 8, luật bằng trắc và vần của nó đã là ngữ điệu của giọng ru, giọng ngâm :
Con ong làm mật yêu hoa
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời
Con người muốn sống con ơi
34
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em
Cái sáng tạo của Tố Hữu là mở rộng thêm bên trong câu thơ lục bát (câu 8 thành câu
10) : Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời.
Thơ trữ tình điệu nói thì âm luật tự do hơn, câu thơ có thể mở rộng ra để diễn tả phần ý
muốn khai triển đến tận cùng của tác giả :
Ta biết ơn những giòng máu người xưa đã đổ
Càng yêu những người hôm nay cùng ta một tháng, một năm, một ngày lịch sử
(Chế Lan Viên)
Khi câu thơ mở rộng ra như vậy thì nó gần với văn xuôi, gần với lời nói và ngữ điệu
của nó cũng gần với ngữ điệu của văn xuôi, mở rộng chất thơ sang phạm vi tư duy.
1.2.2.2.5. Giọng điệu với thể thơ:
Mỗi thể loại thơ hàm chứa trong nó những sức mạnh nội tại riêng nên nó phát ra những
giọng điệu riêng : lục bát thường ngọt ngào, vỗ về, song thất lục bát ngâm nga và thống -
thiết,-giãi-bày, sâu lắng, thơ năm chữ nén chặt và bay bổng, thơ tự do chân thành phóng
khoáng ... Tùy sở trường, tùy chất giọng của mỗi nhà thơ mà các thể loại thơ khác nhau được
sử dụng. Chế Lan Viên hay viết theo thể thơ tự do nhưng ông cũng có khá nhiều bài tứ tuyệt.
Thơ Nguyễn Duy giàu tính dân tộc và Nguyễn Duy cũng ưa dùng thể loại thơ dân tộc, nhất là
thể lục bát:
Bốn tuần loáng thoáng hàng dâu
Em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi
Lối mòn đá cuội rong chơi
Lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ
Lan báo hỉ nở tình cờ
Bông ngô đồng rụng xuống bờ Hương Giang
Chợ chiều Bến Ngự chưa tan
Anh đi ngược dốc Phú Cam một mình.
Tố Hữu thường sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc vì bản thân nhà thơ gắn bó
cuộc đời làm thơ của mình với vận mệnh dân tộc. Nhưng Tố Hữu có kết hợp thơ điệu nói
35
trong hình thức truyền thống. Giáo sư Lê Đình Trọng có nói : "Tô Hữu đã tháo tung câu thơ
bảy chữ cổ truyền (thơ luật Đường) và làm một sự lắp ghép lại" :
Cả muôn triệu một lời đáp: có
Nhưng trường sơn say gió biển Đông
Vâng. Bác nói: chúng con nghe rõ
Mỗi tiếng Người mang nặng núi sông
Đó là câu thơ bảy chữ điệu nói hiện đại, không thể đọc theo nhịp cố hữu của thể thơ
bảy chữ mà phải theo nhịp của lời nói được đưa vào thơ.
Thế mạnh của Xuân Quỳnh lại ở thơ năm chứ. Những bài thơ năm chữ là sở trường của
Xuân Quỳnh và thường là những bài hay nhất, được phổ nhạc và được người đọc yêu thích.
Đó là các bài : Sóng, Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu ...
Sau khi xét giọng điệu với các hình thức biểu hiện như ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp thơ,
ngữ điệu, thể loại, ta thấy giọng điệu hiện ra như một yếu tố cơ bản thuộc phong cách nghệ
thuật, giọng điệu cho phép người đọc nhận ra vẻ riêng nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa như một tiêu
chí xác định chân tài nhà văn. Xét ở tầng sâu, giọng điệu còn chi phối cả kết cấu nghệ thuật.
Đây thực sự là mối liên hệ bên trong và sự chi phối, tươnp, liên này góp phần làm nên sự
thống nhất cơ bản của tác phẩm. Ngay bố cục văn bản (được hiểu như yếu tố lộ thiên của kết
cấu) cũng cho thấy sự luân chuyển giọng điệu. Không ít người phân tích "Đây thôn Vĩ Dạ"
của Hàn Mặc Tử tỏ ra rất khó xử lý khổ thứ nhất và khổ thứ hai được triển khai theo các
mạch khác nhau. Nhưng chính sự "lệch pha" này cho thấy trong cái : ''Gió theo lối gió mây
đường mây" là sự thống nhất của hệ thống cảm xúc phóng khoáng Hàn Mặc Tử.
Giọng điệu còn bộc lộ ở việc tổ chức, bài trí điểm nhìn nghệ thuật. Chính ở đây người
đọc nhận ra thái độ cảm thụ, cự ly soi ngắm hiện tượng, khoảng cách giữa cái đang nói và cái
sẽ nói, mức độ gần gũi, xa cách, thân sơ hay ngợi ca, châm biếm của giọng điệu. Trong thơ
mới, cái thi sĩ như Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Anh Thơ cùng viết về đồng nội, nhưng rốt
cuộc, chỉ mình Nguyễn Bính là đạt tới cái hồn quê dân tộc. Bởi vì Nguyễn Bính đã nhìn đồng
quê với "cái nhìn tâm tưởng"., sau cái nhìn có vẻ tĩnh lặng này là những rạn vỡ bên trong, đó
là lý do để giọng Nguyễn Bính thấm đầy "hồn đồng nội" hơn cả.
Cuối cùng giọng điệu bao giờ cũng in đậm dấu ấn cá tính nghệ sĩ. Dấu vết môi trường,
vùng miền văn hóa, các quan hệ có liên quan đến nhà thơ cũng góp phần tạo nên sự phong
phú và màu sắc độc đáo của giọng điệu. Ví như thơ Hoàng Cầm được coi là một "điệu thơ
quan họ'' với đầy chất dân gian vùng Kinh Bắc, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung lại
36
đậm chất Nghệ Tĩnh, Quang Dũng bảng lảng "xứ Đoài mây trắng" ... Lữ Hoàng Chương luôn
trong trạng thái "cung bậc ngã nghiêng" thành ra giọng điệu thơ say. Cá tính sáng tạo, với tư
cách là sự thể hiện một cách tập trung, rực rỡ của cái cá biệt, chủ quan thực sự là yếu tố nền
tảng làm nên giọng điệu thơ ca. Điều này cũng dễ hiểu vì cá tính sáng tạo là cơ sở hình thành
phong cách nghệ thuật. Do vậy, giọng điệu như là hợp lưu của hai yếu tố : tính trời phú, bẩm
sinh và sự khổ công tìm tòi, thể hiện. Dĩ nhiên, đi vào tác phẩm, mặt "thiền phú", cái khẩu
khí vốn có của thi nhân phải tuân thủ những nguyên tắc khái quái nghệ thuật. Thông qua
nghệ thuật, giọng điệu bộc lộ trung thực khí lực nhà thơ, tạo cầu nối cho sự giao tiếp, mở
rộng biên giới thơ ca.
Nhưng cũng có điều cần lưu ý : có những nhà thơ, ngoài đời có vẻ "gai góc" nhưng thơ
họ lại trong sáng lạ thường. Bởi vì thơ là sự tụ kết, thăng hoa của cái đẹp. Trong quá trình
sáng tạo, ngoài nhi: cầu thể hiện bản thể, nhà thơ còn phải biểu hiện được cả những vấn đề
lớn lao của thời đại. Trước yêu cầu ấy, nhân cách của nhà thơ phải được nhân lên ngang tầm
lịch sử. Giọng điệu thi nhân, vì vậy, vừa mang âm hưởng thời đại, vừa phải trở thành một sở
hữu cá nhân, cá biệt. Việc xây dựng giọng điệu cá nhân bao giờ cũng là một thử thách đối với
người viết.
Một nền văn học nhân bản phát triển phong phú đa dạng cũng có nghĩa là nền văn học
ấy chấp nhận đa phong cách, đa giọng điệu. Lẽ tất nhiên, giọng điệu văn chương chân thực
bao giờ cũng thể hiện khát vọng vươn tới cái cao cả, cái đẹp nhân văn. Đạt đến sự hài hòa ấy,
giọng điệu mới trở thành một nhân tố lôi cuốn, thuyết phục người đọc bằng sự truyền cảm
không cưỡng nổi của nó.
Ta có thể tiếp cận vấn đề giọng điệu theo nhiều hướng khác nhau nhưng trong khuôn
khổ luận án này chúng tôi triển khai nghiên cứu giọng thơ Chế Lan Viên theo ba hướng chính
là cảm hứng, nhân vật trữ tình và hệ thống hình ảnh.
37
CHƯƠNG 2: GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH SỬ THI CỦA CHẾ LAN VIÊN
Nói đến giọng điệu chính là nói đến cảm hứng chủ đạo của tác giả, thể hiện qua cái
giọng riêng của mình trước đối tượng thẩm mỹ. Đó là tư tưởng, là thái độ của nhà thơ trước
hiện thực với những dấu hiệu, sắc điệu riêng của nó : tự hào, vui sướng, giận dữ, đau khổ,
cảm thương biểu hiện cụ thể qua hình ảnh, nhịp điệu, âm điệu, đề tài, tư tưởng, hình tượng, ...
yếu tố giọng điệu là biểu hiện cụ thể của cảm hứng sáng tạo đối với hiện thực.
Thường thường giọng điệu được biểu biện một cách trực tiếp thông qua cảm xúc của
tác giả, nhưng bên cạnh đó, nó cũng còn được thể hiện trong cấu trúc, hình ảnh, màu sắc,
ngôn ngữ, nhân vật trữ tình ...
Mỗi thi sĩ đích thực bao giờ cúng có một điệu hồn riêng. Cái điệu hồn ấy cảm nhận thế
giới một cách tinh vi, da dạng, đa chiều với tất cả những mặt thống nhất và đối lập của sự vật
hiện tượng. Giọng điệu cần thiết cho việc sắp xếp, liên kết các yếu tố hình thức khác nhau,
làm cho tác phẩm có cùng âm hưởng, cùng một khuynh hướng nào đó. Giọng điệu thơ của
Chế Lan Viên ở giai đoạn 1945 - 1975 có những gam chủ đạo là. giọng trữ tình sử thi, trữ
tình nhân bản, trữ tình chính luận. Ở giai đoạn sau năm 1975, gam giọng chủ đạo của thơ Chế
Lan Viên là trữ tình thế sự. Thế nhưng có một gam giọng chính làm nên phong cách thơ Chế
Lan Viên xuyên suốt cả hai giai đoạn này, đó là giọng trữ tình triết học - đó là âm chủ của
Chế Lan Viên, tạo nên điệu hồn độc đáo của ông mà cho đến nay, chưa ai có khả năng thay
thế được.
2.1. Trữ tình sử thi:
Trữ tình sử thi lấy cảm hứng lịch sử, cảm hứng chính trị, cảm hứng công dân làm cơ sở.
Do đó, nó là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử, một thời đại nhất định.
Trong giai đoạn 1945 - '1975, đất nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và
chống Mỹ cực kỳ gay go và quyết liệt. Các nhà thơ cách mạng đã không hề đứng ngoài cuộc,
họ đã trở thành những chiến sì trên mặt trận đấu tranh tư tưởng. Thơ ca cách mạng giai đoạn
này thực sự là vũ khí đấu tranh tư tưởng sắc bén, là tiếng nói tình cảm trực tiếp hướng tới
đông đảo quần chúng. Thơ thực sự là tiếng hát tinh thần của thời đại, là bài ca chung của mọi
trái tim. Thơ ca trở thành phương tiện hành động, phương tiện tiến lên.
Thơ văn vốn là tiếng nói của tình cảm, nó vốn dĩ mang yếu tố trữ tình, nhưng cảm hứng
chính của các nhà thơ giai đoạn này là cảm hứng sử thi, cảm hứng chính trị, cảm hứng lịch
38
sử, cảm hứng công dân. Hai yếu tố này kết hợp thành giọng trữ tình sử thi là giọng thơ chung
của các nhà thơ thời kỳ này.
Cũng như tất cả các nhà thơ khác, Chế Lan Viên cũng hòa mình vào cuộc chiến đấu
chung của dân tộc và trong từng bước đi lên cùng với Cách Mạng, giọng trữ tình sử thi của
Chế Lan Viên phát triển ngày càng phù hợp với cảm hứng chung của nền thơ ca Cách Mạng.
Có một vấn đề chung của giọng điệu thơ ca thời kỳ này là trữ tình sử thi luôn luôn đi
đôi với trữ tình nhân bản, bởi vì thời đại hào hùng luôn làm nến chất sử thi nhưng những vấn
đề của thời đại dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ thì lại vô cùng nhân bản. Chế Lan Viên
có lần nói : "Diệt Mỹ là cao cả tình yêu". Chân lý ấy phù hợp với hoàn cảnh của dân tộc ta,
bởi vì nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến vì ta bị xâm lược, giặc buộc ta phải đánh để
bảo vệ non sông gấm vóc, bảo vệ "mây nước, cửa nhà, văn học, ngữ ngôn". Đó chính là
những vấn đề nhân bản, vì quyền sống và quyền hạnh phúc của con người. Chính vì vậy mà
hai yếu tố trữ tình sử thi và trữ tình nhân bản luôn hòa quyện gắn chặt với nhau, làm nên diện
mạo một thời của Chế Lan Viên : ông nói đến những vấn đề lịch sử, chính trị bằng một điệu
hồn rất tha thiết tin yêu, bằng một cảm xúc nồng nàn kết hợp với sự sâu sắc của trí tuệ. Điều
đó tạo nên giọng điệu trữ tình sử thi có sắc thái của riêng ông, không thể lẫn với ai khác trong
nền thơ ca Cách Mạng 1945 - 1975.
Giọng điệu trữ tình sử thi của Chế Lan Viên bộc lộ ở cảm hứng sử thi, ở nhân vật trung
tâm, ở hệ thống hình ảnh mang giá trị biểu trứng cao, ở cách cấu trúc và lý giải hình tượng
thơ trên tinh thần lý tưởng của thời đại.
2.2. Cảm hứng sử thi:
Cảm hứng sử thi của Chế Lan Viên có nguồn gốc giống như cảm hứng sử thi của các
nhà thơ cách mạng khác. Nó bắt nguồn từ cuộc sống và chiến đấu hào hùng của dân tộc ta.
Trước Cách mạng, Chế Lan Viên có một nguồn cảm hứng đặc biệt hơn các nhà thơ
lãng mạn khác. Nguồn cảm hứng không bắt nguồn từ sự sống mà từ sự chết, từ mất mát đau
thương vô vọng. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã làm hồi sinh một hồn thơ
Chế Lan Viên như chính ông đã nói trong bản tự thuật về đời mình : ''1945. Cách mạng. Vui
lại. Và tham gia vào cuộc sông dân tộc. Làm thơ lại. Chính nhờ chính trị mà làm thơ lại. Và
khi đã làm thơ thì không phải làm thơ chính trị mà cả thơ tình" (Chế Lan Viên - Người làm
vườn vĩnh cửu - trang 12).
Từ bãi tha ma đầy đầu lâu và xương người tới "Ánh sáng và phù sa'' là cả một chặng
đường dài. Từ lúc chỉ muốn "Trốn vào một tinh cầu giá lạnh. Một vì sao trơ trọi cuối trời xa"
39
(Điêu tàn) cho đến khi nhìn thay quanh mình : "Người thêm khôn đất mọc thêm hoa" (Bữa
cơm thường trong bản nhỏ) ; quả là Cách mạng đã làm cho Chế Lan Viên hồi sinh một cách
ngoạn mục về quan điểm nhân sinh và cảm hứng nghệ thuật. Trong cuộc hồi sinh ấy, Chế
Lan Viên đã tự vươn lên, đã tự vượt mình đẩy trí tuệ sắc sảo và cảm hứng nghệ thuật của
mình đến chỗ thăng, hoa mà "Ánh sáng và phù sa" là một điển hình.
Giọng trữ tình sử thi được phát huy cao độ ở "Ánh sáng và phù sa", cảm hứng nghệ
thuật ở đây được cách điệu từ tình cảm nồng nàn với đất nước, nhân dân, cách mạng, lãnh tụ.
'Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui". Cánh đồng thơ Chế Lan Viên từ đây đầy ắp
cảm xúc của thời đại : là những niềm vui, nỗi buồn của nhân dân, của đất nước, của Cách
mạng nhưng vẫn mang phong cách riêng của nhà thơ, mang cảm hứng có sắc thái độc đáo rất
riêng của nhà thơ về nỗi đau dân tộc, ân tình ân nghĩa của cách mạng. Cảm hứng tự hào, cảm
hứng anh hùng, chất lãng mạn, chất chính luận, chất văn hóa ngập tràn trong "Ánh sáng và
phù sa", đưa Chế Lan Viên lên vị trí là một trong những nhà thơ lớn của thời đại.
Đến các tập thơ sau : "Hoa ngày thường, chim báo bão" "Những bài thơ đánh giặc".
Cảm hứng sử thi của Chế Lan Viên còn gia tăng chát tâm tình, chất chính luận ; sự suy tưởng
ngày càng sắc sảo ; chất hùng, biện, chất phân tích luận lý ngày càng đậm nét. Bên cạnh đó,
ông vẫn có những bài thơ mang cảm hứng đời thường chắt lọc, sâu lắng, tài hoa và nhuần
nhụy. Cảm hứng sử thi ở các tập thơ sau tỉnh táo hơn nhờ chất khỏe khoắn, trần trụi của sự
kiện.
Ở '''Hoa trước lăng người" và "Hái theo mùa", "Hoa trên đá", "Ta gửi cho mình", cảm
xúc sử thi hơi bị yếu đi nhường chỗ cho cảm xúc đời thường : đặc biệt là lòng đau, cảm xúc
về nỗi đau mang đến cho thơ Chế Lan Viên một giọng trầm đặc biệt.
Ở ba tập Di cảo thơ, Chế Lan Viên chuyển hẳn sang cảm xúc đời thường. Ẩm hưởng
giọng điệu chung của ba tập thơ này là trữ tình thế sự. Trong ba tập thơ này, tiếng nói của
người công dân - chiến sĩ đã nhường chỗ cho tiếng nói của người nghệ sĩ với muôn vàn cảm
xúc đời thườn". Đây là xu thế chung của thơ ca Việt Nam khi chuyển sang giai đoạn hòa bình
như chính Chế Lan Viên có nói :
Xưa giọng cao giờ tôi hát giọng trầm
(Giọng trầm)
Dù là giọng cao hay giọng trầm, thơ Chế Lan Viên vẫn làm tròn nhiệm vụ đối với thời
cuộc.
40
Cách mạng là ngày hội lớn của dân tộc, nhờ có Cách mạng, thơ Chế Lan Viên ngày
càng vươn đến tầm cao tầm xa, thơ ông không chỉ làm rung động bạn đọc trong nước mà thơ
ông còn đến với khắp năm châu bốn bể, thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa Việt Nam với bạn
bè khắp năm châu.
Trần Mạnh Hảo có nhận xét : "Thơ Chế Lan Viên, những trước tác sau này còn đồ sộ, còn hay hơn nhiều những sáng tác thời tiền chiến" (1). Bởi vì Chế Lan Viên có một điểm tựa
vững chắc cho thơ, đó là niềm tin. Ở giai đoạn 1945 - 1975, niềm tin ấy có cơ sở vững chắc ở
Đảng, Cách mạng, đất nước, nhân dân và thơ. Giai đoạn sau 1975, niềm tin của Chế Lan
Viên là tin ở cuộc sống, cuộc đời và tin ở chính lòng người. Chính vì tin ở lòng người nên thơ
ông ở giai đoạn cuối đời có tính chất hướng nội rất sâu sắc.
2.2.1. Cảm hứng về Cách Mạng:
Cảm hứng thơ của Chế Lan Viên về Cách mạng có một giọng điệu chân thành và sâu
sắc. Chế Lan Viên vốn dĩ là con người thích những gì cao quý, siêu phàm. Ông tự nói về
mình : "Mở đầu tôi yêu chúa. Rồi tôi yêu Phật". Chế Lan Viên thấy ở Chúa, ở Phật đức hy
sinh cao cả cho các tín đồ, các sinh linh ; cho nên khi đến với Cách Mạng, ông càng yêu quí
Cách mạng, hòa nhập say sưa vào với giọng ca chung của Cách mạng bởi vì ông thấy không
có gì cao đẹp và đầy đức hy sinh hơn là chính những người chiến sĩ cách mạng, hy sinh cho
Tổ Quốc, cho dân tộc, cho nhân dân. Đi với Cách mạng, Chế Lan Viên không còn cái nỗi
buồn vay mượn siêu hình mà buồn vui thật, sướng khổ thật, được mất thật cùng với nhân dân,
cùng với đất nước. Và cảm hứng thơ của Chế Lan Viên về Cách mạng mang sắc thái thành
thật, thành thật đến tận cùng. Chế Lan Viên có nói trong tùy bút "Từ thung lũng đau thương
ra cánh đồng vui" "Xưa kia trong trói buộc, chúng tôi yêu con người trong những vực, trong
thung lũng đau thương. Giờ đây, trong tự do, chúng tôi yêu con người trẽn các đỉnh cao của
nó". Đó là những con người "rũ bùn đứng dậy sáng lòa".
Chính những con người Cách mạng "trên các đỉnh cao của nó" ấy là nguồn cảm hứng
sử thi mãnh liệt cho thơ Chế Lan Viên. Đó là những con người luôn khát khao vươn mình lập
những chiến cống hiển hách :
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thủy triền vẫy gọi những vầng trăng
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm
(1) Trần Mạnh Hảo - Chế Lan Viên - Người làm vườn vĩnh cửu - Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1995 - trang 229.
41
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng.
(Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Cảm hứng yêu những con người cách mạng khao khái chiến công này có phần giống
với cảm hứng của Tố Hữu :
Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên.
(Bài ca xuân 61 - Tố Hữu)
Cảm hứng say mê những con người biết "rũ bùn đứng dậy sáng lòa''' ấy khiến Chế Lan
Viên nhận ra phẩm chất cao quí của những con người Việt Nam yêu nước trong những ngày
Cách mạng gặp gian nan khốc liệt, những ngày mà mỗi con người Việt Nam phải lấy máu ra
mà gìn giữ từng lá cây, ngọn cỏ của Tổ Quốc :
Ôi Tổ Quốc ! Ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ Quốc ! Nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông.
(Sao chiến thắng)
Cảm hứng sử thi làm cho hình tượng con người Cách mạng Việt Nam hiện lên diễm lệ,
hùng tráng. Đó là hình tượng đẹp hào hùng, bay bổng và có sức lay động lòng người dữ dội,
khơi dậy sâu xa từ trái tim con người tình yêu quê hương đất nước và tinh thần sẵn sàng xả
thân "quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh".
Trong thơ Chế Lan Viên, con người Cách mạng không chỉ đẹp ở tư thế, ở hành động, ở
tầm vóc mà còn đẹp cả ở tâm hồn, lâm hồn người Việt Nam trong gian khổ không hề đơn
giản mà có chiều sâu của sự suy nghĩ ; có tầm cao của sự hy sinh, có tầm xa của lý tưởng
cách mạng. Đó là những con người chỉ thấy mình cao đẹp khi đứng trong hàng ngũ của nhân
dân, của đồng đội:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
42
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
(Tiếng hát con tàu)
Với giọng thơ chân thành cảm động, nhà thơ cho ta thấy một sự gặp gỡ đẹp đẽ như sự
gặp gỡ của qui luật, của đất trời, của lòng người. Đó là sự tìm được chỗ đứng của mình trong
lòng nhân dân, trong hàng ngũ cách mạng. Và chính ở trong chỗ đứng ấy, nhà thơ hiểu được
sức mạnh thật sự của nhân dân :
Nhân dân không có thanh gươm rung một cái đến trời mây
Nhưng họ gánh lịch sử đến nghìn lần lớn hơn đời họ
Những bà mẹ đêm đêm đào hầm nuôi cán bộ
Đào từ tuổi trung niên nay tóc bạc phơ đầu.
(Thơ bổ sung)
Sức mạnh của nhân dân là sức mạnh được tôi rèn bền bỉ theo năm tháng. Ngay trong
cảm hứng lãng mạn anh hùng của Chế Lan Viên ta đã thấy có một chiều sâu của suy nghĩ tỉnh
táo, không nhìn sự vật đơn giản một chiều - một giọng.anh hùng ca, mà vẫn.chất chứa sức
nặng của nghĩ suy hiện thực. Thế cho nên có người nói thơ Chế Lan Viên luôn "tỉnh táo
quá". Đó chính là một dấu ấn riêng của ông vì ở ông cảm xúc luôn song hành với trí tuệ. Thế
nhưng Chế Lan Viên vẫn luôn làm ta mê say sự kỳ vĩ của dân tộc, tư thế đàng hoàng chính
nghĩa của dân tộc, đường đi nước bước của cách mạng, chiến thắng hào hùng của nhân dân.
Khi nói về những chiến công, giọng thơ trở nên say sưa, sảng khoái, hào hùng :
Cha ông xưa có bao giờ bố trí các binh đoàn
Trên vạn đỉnh Trường Sơn, dọc bờ Đông Hải
Tên Tổ Quốc vang ngoài bờ cõi
Ta đợi triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng
Ta mọc dậy trước mắt nghìn nhân loại
Hai chữ Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng.
(Thời sự hè 72 - Bình luận)
43
2.2.2. Cảm hứng về Tổ Quốc:
Cảm hứng sử thi dào dạt bay bổng làm cho hình ảnh Tổ Quốc hiện lên trong thơ Chế
Lan Viên đẹp hùng tráng huy hoàng diễm lệ như chưa bao giờ đẹp đến vậy :
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?
Chưa đâu và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Bằng.
(Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Cảm hứng tự hào về Tổ Quốc đang trưởng thành trong cách mạng làm cho Chế Lan
Viên có giọng khẳng định chắc chắn như vậy. Nhà thơ thích nhất hình ảnh Tổ Quốc đang
sinh thành và tái tạo với tất cả những bi kịch và hùng ca của nó. Tổ Quốc trong thơ Chế Lan
Viên hiện lên cả hai mặt hùng tráng và xót xa :
Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ
Thịt xương ta giặc phơi ngoài bãi bắn
Lại tái sinh từ Pác - Bó, Ba Tơ
(T ổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Rõ ràng cảm hứng của Chế Lan Viên là có say mê bay bổng nhưng cũng có tỉnh táo để
soi Tổ Quốc từ nhiều phía, với nhiều cung bậc lình cảm : Tổ Quốc là quá khứ và hiện tại, là
thực trạng nghiệt ngã và ước mơ rộng lớn, là vinh quang và đau khổ, là vĩ đại và thân quen.
Không bao giờ vì quá say sưa mà Chế Lan Viên quên mất thực trạng của Tổ Quốc :
Tổ Quốc như bà mẹ nghèo thì thào cùng tôi qua nước mắt.
(Cành phong lan bể)
Và càng tự hào về "đất nước của Hùng Vương-có Đảng", giọng thơ Chế Lan Viên lại
càng xót xa cho bất lực của người xưa :
44
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây phương không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
(Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Chế Lan Viên không ca ngợi Tổ Quốc với cái nhìn hời hợt bên ngoài, thiên nhiên đất
nước trong thơ ông là một bức họa nhiều màu sắc mà mỗi đường nét đều thấm đượm "điệu
hồn" dạt dào thắm thiết của nhà thơ :
Thêm một ngày cho rừng biến thành than
Cho lớp đất phù sa thành sữa lúa
Cho lá dâu non dệt thành tơ lụa
Cho lưỡi liềm cong mặt nguyệt nên tròn
(Nhật ký một người chữa bệnh)
Có lúc nhà thơ như bay lượn trên Tổ Quốc để nhìn bao quát "vóc dáng Trường Sơn",
"dung mạo những đồng bằng", chứng kiến "buổi dònq sông ra gặp bể", hình ảnh Tổ Quốc
hiện lên trong thơ ông đẹp oai hùng và đầy trách nhiệm lịch sử :
Như Hồng Lĩnh tự mình xây núi lớn
Cửu Long dài đảm nhiệm lấy phù sa
( Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa)
Những tên người, tên đất của Tổ Quốc vang lên trong thơ Chế Lan Viên thiêng liêng
thắm thiết. Nhà thơ làm ta yêu quí từng gốc lúa ở Điện Biên, từng con tàu đến tàu đi trên
cảng, biết trân trọng từng nét hoa văn trên mái đình làng cong cong, từng bức tranh dân gian
làng Hồ, từng câu thơ "thấm giọt mưa rơi" của cha ông, biết nghiêng mình nhớ ơn những Bế
Văn Đàn, Nguyên Văn Trỗi ... Giọng thơ đầy chất nhân văn kết hợp hài hòa với giọng sử thi
làm cho câu thơ Chế Lan Viên ở giai đoạn này có sức vang và chất truyền cảm mãnh liệt.
Trong cả cuộc đời làm thơ của Chế Lan Viên thì đây chính là thời kỳ nhà thơ hát giọng cao,
giọng sử thi hào hùng vang động. Có được giọng thơ đó chính là nhờ Đảng, nhờ Cách mạng.
Cách Mạng như một cuộc tái sinh màu nhiệm, cuộc hồi sinh vĩ đại cho cả dân tộc Việt Nam
trong đó có Chế Lan Viên. Trong thơ trữ tình sử thi của ông, âm hưởng Cách mạng - ngày
hội rất đậm đà :
45
Cho tôi sinh buổi Đảng dựng xây đời
Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể
Ta với mẻ thép gang đầu là đứa trẻ sinh đôi
(Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
2.2.3. Cảm hứng về Đảng:
Càng được tắm trong bầu không khí cách mạng - ngày hội, Chế Lan Viên càng biết ơn
Đảng. Đảng trong thơ ông chính là sự nối tiếp hào khí cha ông để làm đất trời bừng sáng:
Rồi với đôi tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê, Đảng làm nên công nghiệp
Điện trời ta là sóng nước sông Hồng
An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép
Loa thành này có đẹp mắt Người chăng ?
(Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Hình ảnh "đôi tay trắng" của cha ông hiện lên thật là xúc động. Hỏi có dân tộc nào mà
lịch sử lại bi hùng và gian nan như dân tộc ta ? Vậy mà Đảng lại dám gánh cả non sông, gánh
cả lịch sử và làm nên chiến thắng làm nên chân lý cho cả thời đại.
Cầm nhành hoa Việt Nam
Chói ngời trong thế kỷ
Cầm cành đào chân lý Ta đi qua thời gian
(Tùy bút một mùa xuân đánh giặc)
Cảm hứng của Chế Lan Viên về Đảng là cảm hứng tự hào. Giọng thơ tự hào với âm
hưởng anh hùng ca khi nói về chiến thắng của dân tộc nhờ có Đảng :
Ôi Trường Sơn vĩ đại của ta ơi
Ta tựa vào Ngươi kéo pháo lên đồi
Ta tựa vào Đảng ta lên tiếng hát
Dưới chân ta đến đầu hàng Đờ cát
Rồng năm móng vua quan thành bụi đất
Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười
46
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Trong cảm hứng của Chế Lan Viên về Đảng, có một sự thiêng liêng, một sự chân
thành. Với Chế Lan Viên, Đảng luôn là ngôi. sao sáng, là, kim chỉ nam dẫn đường. Con
người chí tình chí nghĩa ấy sống ở đâu cũng tâm tâm niệm niệm công ơn của Đảng, của nhân
dân :
Đâu chẳng đất lành Tổ quốc
Chẳng tình Đảng dạy dân nuôi
(Ngoảnh lại mùa đông)
Câu thơ giản dị mà nói lên một chân lý của dân tộc ta trong thời đại có Đảng. Chế Lan
Viên cũng là người có ý thức cao về những phẩm chất đẹp đẽ của những người Đảng viên
Cộng sản từ những ngày còn trong gian khổ :
Khi đã có hướng rồi, gậy tầm vông trở thành giết giặc
Các anh tôi xưa lấy răng cắn nát thịt quan thù
Lá truyền đơn xốc dậy phong trào một huyện
Chân lấm tay bùn, ta đạp đổ cả triều vua
(Khi đã có hướng rồi)
Vì sự nghiệp của Đảng lớn lao, vì công ơn của Đảng vĩ đại cho nên khi vinh dự được
đứng vào hàng ngũ của Đảng, Chế Lan Viên đã viết với cảm xúc thiêng liêng :
Ngày vào Đảng, đất trời như đổi khác
Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt
Đá sỏi, cây cằn, sao bỗng thấy thiêng liêng?
(K ết nạp Đảng trên quê mẹ)
Cảm hứng về Đảng của Chế Lan Viên kết hợp với chiều sâu văn hóa nơi ông đã tạo nên
những hình tượng về Đảng thật độc đáo, có lẽ chỉ có Chế Lan Viên mới kết hợp được nhuần
nhuyễn tư tưởng trí tuệ của Đảng với truyền thống bất khuất của cha ông hay như thế :
Những năm Đảng ta có con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa
Nhìn thấu vận mệnh nghìn năm sau cho Tổ quốc
( Con m ắt Bạch Đằng - con mắt Đống Đa)
47
Chế Lan Viên yêu Đảng chân thành, thấm thía chân thành đường lối văn nghệ của
Đảng :
Đảng dạy ta không thể đưa lòng đi theo Đảng
Lại xa những gì dân tộc thương yêu
( Đọc Kiều)
Câu thơ đó như định hướng đi của cả nền văn nghệ dân tộc. Nó ngắn gọn mà giản dị
như chân lý. Nói đường lối của Đảng bằng giọng giản dị chân tình đầy yêu thương, vì thế thơ
Chế Lan Viên có sức mạnh ám ảnh người đọc, bắt người ta phải nhớ vì hình ảnh rất độc đáo
có sự kết hợp của trí tuệ tài hoa với cảm xúc chân thành. Đó là những hình ảnh tượng trưng
nhưng cũng có những hình ảnh thật như phim tư liệu của Chế Lan Viên cũng làm ta cảm
động, cảm động vì bản thân sự kiện chứ không phải vì tài hoa nghệ thuật:
Mưa tám trăm ly, Bác phải lội bùn
Hạn cháy lúa, Thủ tướng cùng dân đi lát nước
(Nghĩ về Đảng)
2.2.4. Cảm hứng lịch sử:
Cảm hứng lịch sử của Chế Lan Viên cũng để lại nhiều trang viết tài hoa. Chế Lan Viên
viết về lịch sử với rất nhiều cung bậc tình cảm : trân trọng, tự hào, yếu thương và cả xót xa
nữa. Trong "Cành phong lan bể" Ông xót xa cho người xưa :
Máu thịt cha ông theo gió tủi trăng buồn mà mất tích
Giọng thơ nghẹn đắng, xót xa vì những buồn bã, tủi hờn, mất mát, vô vọng. Có lúc thơ
ông thốt lên đầy cảm thương cho lịch sử :
Ôi ! Thương thay nhwuxng thế kỷ vắng anh hùng
Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm nghìn câu ra trận.
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Trong thơ Chế Lan Viên, lịch sử và hiện tại luôn hòa quyện với nhau. thống nhất biện
chứng để tạo thành sức mạnh tư tưởng lớn lao :
Phải chiến thắng lớn thì dân tộc mới chói ngời bản ngã
"Ta đã tìm ra ta" trong Rạch Gầm, Đống Đa, Hàm Tử, Chi Lăng
48
Và "nhân loại tìm ra ta" trong Cách mạng tháng Tám, Hà Nội, Điện Biên hay ở
Bạch Đằng
(Ngày vĩ đại)
Giọng thơ đầy tự hào về truyền thống dân tộc, về sự kết hợp giữa truyền thống và hiện
đại. Chế Lan Viên hay ca ngợi truyền thông, làm cho chúng ta yêu thương tự hào về lịch sử
dân tộc, nhưng chủ yếu là để hiểu hôm nay, thấy rõ những việc thời đại ta đang làm quả là kỳ
diệu., nghìn năm xưa chưa làm nổi :
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi cầm hỏa hổ, có thấy hồn Tổ quốc mênh mang như ta cưỡi
nghìn xe thiết giáp
Và những biên đội anh hùng giết giặc giữa trời mây ?
(Thời sự hè 72 - Bình luận)
Câu thơ mở dài ra, gần như văn xuôi, làm nên giọng chính luận - thời sự của Chế Lan
Viên là gam giọng chính của 2 tập "Những bài thơ đánh giặc" và "Đối thoại mới".
Cũng có khi cảm hứng sử thi đầy chất lãng mạn làm cho hình ảnh lịch sử trở nên huyền
ảo :
Cá hóa rồng và Bụt hiện thường xuyên
Ở đất nước thường sống bằng tiềm lực
Trong mỗi quả thị nghèo luôn có một nàng tiên
(Ngày vĩ đại)
Cảm hứng lịch sử của Chế Lan Viên không chỉ trân trọng, tự hào, yêu thương, xót xa
mà còn thấm đẫm chất nhân văn :
Ta đã yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu Kiều , bờ tre mái rạ
Mái đình cong cong như bàn tay em gái giữa đêm chèo,
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xấm xoan, cò lả
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo
(Thời sự hè 72 - Bình luận)
2.2.5. Cảm hứng về lãnh tụ:
Một trong những cảm hứng chủ đạo của Chế Lan Viên trong thơ giai đoạn 1945 - 1975
là viết về Bác Hồ. Nhà thơ viết về Bác như một nhu cầu, một thôi thúc tình cảm tự thân, hồn
49
nhiên và thiêng liêng. Nhà thơ như luôn có một khát khao lớn phản ánh được một cách tuyệt
vời nhái đối tượng thẩm mỹ cao cả là Bác Hồ. Nếu như Tố Hữu viết về Bác với tình cảm dạt
dào, giọng thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng, nêu được cả hai phương diện bình thường và vĩ đại ở
nhân cách Bác trong "Bác ơi", "Theo chân Bác'' ; thì Chế Lan Viên lại khắc họa Bác ở góc độ
khái quát, cái đau, cái nhớ, cái thương có màu sắc rắn rỏi hơn, giọng thơ tỉnh táo hơn. Chế
Lan Viên đã từ cuộc đời Bác phát hiện ra nhiều vấn đề mới : Bác và con đường cách mạng,
Bác và nhân dân, Bác và tình thương, Bác và bạo lực cách mạng. Và ông đã giúp người đọc
hiểu về Bác từ nhiều góc độ, nhiều quan hệ : Bác Hồ - người thủy thủ ; Bác Hồ - người cha ;
Bác Hổ - người ông ; Bác Hồ - nhà hiền triết ; Bác Hồ - người trồng cây ; Bác Hồ - người thợ
ảnh ... trong tập thơ Hoa trước lăng Người.
Thơ Chế Lan Viên viết về Bác có giọng chân thành, thấm thìa. Trong bài "Người đi tìm
Hình của Nước", cảm hứng sử thi kết hợp với cảm hứng lịch sử đã nêu bật hình ảnh đại dũng,
đại trí của Bác, đó là hai nét hội tụ, hài hòa trong hình tượng vĩ nhân - anh hùng dân tộc. Đấy
là "vĩ nhân đẻ ra đời" đồng thời cũng là "vĩ nhân đẻ ra thơ" (Chế Lan Viên - Tùy bút Sen của
loài người).
Hiểu sao hết Người đi tìm Hình của Nước ?
Không phải hình một bài thơ đá tạo nên người
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai.
(Người đi tìm Hình của Nước)
Bao giờ nói đến lãnh tụ, Chế Lan Viên cũng viết với cảm hứng chân thành và thấm
thía. Trong bài : "Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi", Chế Lan Viên nhìn lại
mình, xúc động đối chiếu với cuộc đời cao đẹp của Bác. Sự so sánh hai phạm trù đối lập : Đại
- Giác - Ngộ và Vô - Ý - Thức, cái vĩ đại cao cả và cái nhỏ bé làm bật lên được phẩm chất
cao cả của lãnh tụ. Nhà thơ thật chân thành khi nhận về mình tất cả những mê lầm, những
ngộ nhận, những phí hoài để càng cảm hết ơn sâu khi Bác đã làm thay đổi cuộc đời mình :
Ôi ! giữa lòng ta, Bác đến tự hồi nào ?
Bác vĩ đại mà chẳng làm ai kinh ngạc
Một buổi sáng, nhìn lòng ta, ta thấy Bác
Nước mắt giàn, ta cảm hết ơn sâu.
(Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi)
50
Cảm hứng về Bác ở Tố Hữu thường được bắt đầu bằng hình ảnh chân thật cao độ, rồi
trong âm hưởng trữ tình hùng tráng, kỳ vĩ mà hình ảnh ấy được nâng lên mức tượng trưng : lý
tưởng hóa, sử thi hóa. Ví dụ hình ảnh chiếc áo vải nâu của Bác là một hình ảnh thực đã được
nâng lên thành :
Mong mảnh áo rải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn
(Theo chân Bác)
Cảm hứng về Bác của Chế Lan Viên được tạo dựng bằng sự suy ngẫm về lãnh tụ. Nhà
thơ lật đi lật lại vấn đề ở nhiều góc độ: từ đời tư, từ cộng đồng, từ nhân loại, từ chính tâm
trạng của Bác để tạo dựng chân dung đa diện về lãnh tụ.
Hòa bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai
(Người đi tìm hình của Nước)
Rất nhiều, rất nhiều vấn đề được Chế Lan Viên chiêm nghiệm, phân tích để đi đến cùng
sự phát hiện những giá trị đa dạng phong phú của Bác. Chế Lan Viên từng viết : "Cứ mỗi
bước đi lên, dân tộc lại định nghĩa về Người từ bản chất" (Sen cua loài người). Bác Hồ trong
thơ Tố Hữu đơn sơ, giãn dị mà vĩ đại. Bác Hồ trong thơ Chế Lan Viên trang trọng và vĩ đại :
Bác nằm kia như một sự kết tinh
Trăm cuộc sống
Cuộc sống nào cũng đẹp
Bác nằm đất như cái gì nối tiếp
Giữa núi sống với núi sống, con người lại con người
(Ta nhận vào ta phẩm chất của Người)
Chế Lan Viên đã có những đúc kết khái quát về ảnh hưởng của lãnh tụ đối với tinh
thần, tư tưởng của dân tộc ta qua giọng thơ điềm đạm những nghĩ suy, chiêm nghiệm về sự
mất còn của lãnh tụ :
Bác mất rồi. Cái chết uổng công
Từ lâu Người hóa tinh thần, Người hóa non sông
Là chiến thắng huy hoàng trời Tổ Quốc
51
Người hóa dựng xây, Người hóa vun trồng
(Trong lăng và ở bên ngoài)
Chế Lan Viên luôn đi đến tận cùng của vấn đề và những kết luận của ông thường giống
như chân lý, như qui luật tâm lý không thể nào khác được. Điều đó làm nên giọng trữ tình
triết lý rất đặc trưng của ông.
2.2.6. Cảm hứng đời thường:
Trong hoàn cảnh sử thi bay bổng trầm hùng, cảm xúc của nhà thơ vẫn có xu hướng đi
tìm sự bình yên để lấy lại thăng bằng, thể hiện niềm tin vào chiến thắng, một sự điềm tĩnh, an
nhiên, ngạo nghễ trước bom rơi đạn nổ :
Triệu tấn bom không thể nào làm sổ
Một hạt cườm trên cổ chim tơ
(Vòng cườm trên cổ chim cu)
Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh đối lập, tương phản có tác dụng khẳng định sự tồn tại bất
khuất của con người Việt Nam trong bạo tàn.
Cảm hứng của nhà thơ về quê hương, về nơi ở, cũng làm nên những câu thơ có giọng
điệu sâu lắng :
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
Những giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng của Chế Lan Viên khi nói về cuộc sống bình
thường thể hiện trái tim tinh tế và nhân hậu của Chế Lan Viên. Ta cũng có thể gọi nó là giọng
trữ tình nhân bản nhưng đây là trữ tình nhân bản trong không khí sử thi. Nó không quá đắm
say vào những đề tài đời thường, nó chỉ ghi lại một thoáng cảm xúc, một chút rung động tinh
tế nhẹ nhàng, những khoảnh khắc tâm tình đằm thắm tình người và sâu xa triết lý. Đó là
những bài thơ nhỏ về tình yêu, tình vợ chồng, cha con, bè bạn, về mẹ, về thiên nhiên, về lãnh
tụ, về đất nước, về chuyện quốc gia đại sự.
Thơ tình của Chế Lan Viên không có cảm xúc khao khát cuồng nhiệt như Xuân Diệu,
không lo âu phấp phỏng như Xuân Quỳnh mà nó là thơ của một người chín chắn, sâu sắc
nghĩa tình :
Không em anh chẳng qua vườn
Sợ mùi hương, sợ mùi hương nhắc mình
52
Tình nghĩa vợ chồng trong thơ Chế Lan Viên thắm thiết và kiêu hãnh :
Sợ gì chim bay đi
Mang bóng chiều bay hết
Tình ta như lộc biếc
Gọi ban mai lại về
(Tình ca ban mai)
Tình cảm mẹ con trong thơ Chế Lan Viên đầy ân tình hiếu nghĩa :
Thắp đường Nam - Bắc con thăm mẹ
Hái một chùm ngon dâng mẹ ăn
(G ốc nhãn cao)
Hoa trong thơ Chế Lan Viên không chỉ thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu
tượng của hạnh phúc, là điểm tựa tinh thần, là sự sống bất diệt, là sự "bừng ngộ'''' của niềm
tin tôn giáo : "Hoa trên đá" "Hoa trên bê tông", "Hoa Thiền tông", "Sen tư tưởng".
Hạnh phúc trên đầu ta
Mọc sao vàng chi chít
Mai, hoa em lại về
(Tình ca ban mai)
Tôn giáo trong thơ Chế Lan Viên cũng xôn xao linh động vì cuộc đời:
Phật thức tỉnh hai hàng
Áo màu xao cửa động
Nhớ đời và nhớ mông
Phật ngồi mê trong hương
(Đi trong hương chùa Hương)
Khi cảm hứng của nhà thơ đi tìm sự bình yên trong hoàn cảnh sử thi, giọng thơ trở nên
nhẹ nhàng, sâu lắng, da diết, đầy nhân bản. Đó cũng là lý do người ta nói thơ Chế Lan Viên "lúc thì êm mát như dòng nước, lúc như lửa bốc lên rừng rực"(1)
(1) Phạm Hổ - "Chế Lan Viên - Người làm vườn vĩnh cửu" - Sách đã dẫn.
53
2.2.7. Cảm hứng về thơ:
Không chỉ ngồi một nơi tổng hợp, khái quát những vấn đề của thời đại, cảm hứng sử thi
cũng thôi thúc Chế Lan Viên đi đến mọi miền của Tổ quốc mà ông yêu quý. Ông "trở lại
giữa rừng sâu Việt Bắc", đến "bát ngát khắp nẻo Trường sơn" sang "những vùng mây trời
Miên, trời Việt nối biên thúy" rồi đến vùng than Quảng Ninh, lên Tây Bắc "là mẹ của hồn
thơ"... đi đến với cuộc sống đang sinh sôi nảy nở. Càng đi, cảm hứng về cuộc đời, về thơ
càng thêm dào dạt, "vị muối của đời" càng làm cho thơ ông thêm độ kết tinh. Hiện thực cuộc
sống là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng hồn thơ Chế Lan Viên. Song, không thể phản ánh thực tế một
cách đơn điệu. Chế Lan Viên có hẳn cả một hệ thống lý luận về quá trình sáng tác thơ ca, quá
trình thai nghén, ấp ủ, sáng tạo lại cuộc sống bằng vẻ đẹp của thơ ca :
Anh nghe cái mặn của đời đang độ kết tinh
Nó chưa thành hình, anh cho nó có hình
Chưa thành hạt, anh làm nên hạt
Rồi trả tận tay người cùng với máu anh
(Nghĩ về thơ)
Cảm hứng của nhà thơ về quá trình làm thơ, tác dụng của thơ, sự có ích của thơ ca là
một trong những cảm hứng lớn mà nhà thơ rất say sưa. Với Chế Lan Viên, thơ ca có nhiệm
vụ quan trọng :
Vực sự sống ba chiều
Lên trang thơ
Hai mặt phẳng
(Thơ bình phương - Đời lập phương)
Đối với Chế Lan Viên, làm thơ là một cách sống đẹp, suốt đời ông theo đuổi và sống
hết mình với thơ, có ỳ thức trách nhiệm rất cao về ngòi bút của mình. Bởi vậy ông luôn trăn
trở nghĩ suy về vấn đề cá tính sáng tạo của nhà thơ. vẫn biết trách nhiệm của thơ là vũ khí đấu
tranh tư tưởng nhưng ông lại có một quan niệm riêng về cá tính sáng tạo của mình :
Ta chung chế độ
Trên niềm riêng tôi
(Đi ra ngoại ô)
54
Với quan niệm đó, trong "dàn hợp xướng" của các nhà thơ Cách mạng, Chế Lan Viên
có một giọng thơ riêng không thể lẫn với một ai. Ông đã đứng trên nỗi niềm riêng của mình
mà ngợi ca đất nước, vì thế thơ ông thành thật, lay động, thấm thía lòng người.
Như ta đã nói, Chế Lan Viên vốn yêu những gì đẹp đẽ siêu phàm. Thơ cũng là một
trong những lĩnh vực mà Chế Lan Viên yêu hết mình vì vẻ đẹp cao quý của thơ :
Trái đất rộng thêm ra một phần bởi các trang thơ
Bởi diện tích tâm hồn các nhà thi sĩ
Họ chỉ trồng một hàng dương đã mở lối cho ta về bể
( Sổ tay thơ)
So với cuộc đời không ngừng, không nghỉ thì cái mà thơ níu giữ lại thật là ít ỏi. Thế
nhưng điều này dường như không đúng lắm với Chế Lan Viên. Trong hơn một nghìn bài thơ
của đời mình, Chế Lan Viên đã làm rộng thêm tâm hồn người đọc rất nhiều. Có lúc cảm hứng
của Chế Lan Viên về sức mạnh của thơ lại giống như phát triển một quy luật:
Thơ đong từng ngao những lát bể
Là cái cân nhỏ xíu lại cân đời
(Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ ...)
Trong những bài thơ lý luận về thơ của Chế Lan Viên, cảm hứng vươn đến những vấn
đề xã hội - triết học. Giọng thơ ung dung tự tại vì nó là kết quả của một quá trình chiêm nghiệm, trăn trở, nghĩ suy. Phạm Hổ có nhận xét :(1) "Thơ Chế Lan Viên có nhiều giọng, lúc
như có lửa bốc lên rừng rực, lúc như dòng nước mát chảy êm, những chất Chế Lan Viên chỉ
là một".
"Chất Chế Lan Viên" ở đây là nói chất trữ tình triết học - gam giọng chính của Chế Lan
Viên, trong đó yếu tố trí tuệ khi kết hợp hài hòa với cảm xúc đã để lại nhiều tứ thơ đặc sắc.
Tất nhiên thơ Chế Lan Viên cũng không tránh khỏi những nhược điểm : cảm hứng
thường xuất phát từ cái khái quát hơn là từ những cảnh, tình, từ những con người cụ thể, xác
định. Nó dễ rơi vào khái niệm chung chung. Ở những bài thơ chống Mỹ dài hơi sức nhất, cái
cảm hứng cụ thể độc đáo, cái diện mạo riêng của từng bài chưa thực rõ. Chế Lan Viên có
viết:
Máu thấm vào lòng đất đã sâu
(1) Phạm Hổ - "Con đường và tầm vóc thơ Chế Lan Viên" - in trong sách Người làm vườn vĩnh cửu - Sách đã dẫn.
55
Sao trên giấy lòng anh suy nghĩ cạn
Nhưng ở đây không phải là Chế Lan Viên suy nghĩ cạn, mà là cảm hứng không theo kịp
suy nghĩ. Ví dụ ở bài "Con hỏi cha", Chế Lan Viên có tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ nhưng
không có cái cảm hứng xót xa, xé ruột xé lòng, sự căm hờn, phẫn nộ của quần chúng. Câu kết
thúc bài quá nhẹ nhàng :
Đừng có hỏi , con ơi, đừng có hỏi
Để ngày mai cha ra trận cho con
"Để ngày mai" chỉ là một lời hứa nhẹ nhàng. Câu kết không để lại ấn tượng sâu sắc,
không gây được cảm hứng căm hờn. Chế Lan Viên đã không thét lên ở nơi cần phải thét.
Mặc dù có những hạn chế như vậy nhưng ta thấy trên con đường vươn lên cho đến tầm
cao thời đại "vóc nhà thơ ngang tầm chiến lũy", con đường vươn lên ấy đâu phải trải bằng
gấm vóc. Tiếng hát tâm hồn của Chế Lan Viên đã đạt đến sự chân thực trần trụi của tâm hồn,
phải tự giải quyết mọi vấn đề tâm hồn mình cùng với những vấn đề của xã hội. Nếu không
giải quyết được, tiếng hát sẽ không trong sáng vút cao. Cuộc phấn đấu trong tâm hồn nhà thơ
để giải quyết "niềm riêng tôi" là một cuộc phấn đấu cam go đầy chân thành. Mỗi lần giải
quyết được vấn đề tâm hồn, Chế Lan Viên lại đạt đến một trình độ cao hơn, chống lại tật
bệnh, chống lại những đau đớn riêng tư, những vật vã của trí tuệ. Chế Lan Viên đã luôn tự
đối mặt với tâm hồn mình và nhà thơ đã thắng, thắng cái trận tuyến gay go "trận tuyến màu
trắng của tâm hồn". Nhạc điệu tâm hồn của Chế Lan Viên càng ngày càng rung lên những
nốt đằm thắm, chân thành và đạt đến đích sảng khoái, hào hùng trong thơ trữ tình sử thi.
2.3. Nhân vật trữ tình:
Nhân vật trữ tình trong thơ Chế Lan Viên chính là nhà thơ, là cái "tôi" trữ tình. Đó là
cái tôi trong tư cách công dân, tư cách chiến sĩ. Cho nên "cái tôi" đó nhiều khi nó thống nhất
với cái "ta" trữ tình, cái "ta" Tổ quốc, "ta" nhân dân, "ta" Cách mạng.
Nhưng vì Chế Lan Viên là một nhà thơ có cá tính sáng tạo độc đáo nên cái "tôi" trữ tình
của Chế Lan Viên có một số phận riêng. Đó là vì ông đã "ca chung chế độ trên niềm riêng
tôi". Quả thật, ông đã phải phấn đấu hết sức để tự vượt lên nỗi đau của số phận mình, của cái
tôi bé nhỏ riêng tư để đến với niềm vui chung của nhân dân, của đất nước.
Cái "tôi" trữ tình sử thi của Chế Lan Viên luôn có điểm tựa là Tổ quốc trong mỗi bước
đi lên. Chính từ lòng yêu Tổ quốc mà Chế Lan Viên có giọng thơ tha thiết đặc biệt về tất cả
mọi đề tài : về sự hồi sinh, về mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa hạnh phúc và đau khổ.
56
Giọng tha thiết ấy gắn với sự chân thành : chân thành với Đời, với Đảng và với chính tâm
hồn mình.
Lấy Tổ quốc làm điểm tựa, Chế Lan Viên nhìn ra thế giới để phân biệt bạn thù, chĩa
mũi nhọn căm thù vào bọn cướp nước và bán nước.
Xích Xơn, mày không còn nhiên liệu nào khác ư mà phải đốt những giường trẻ sơ
sinh, gót đỏ thiên thần, tay non chới với
Mày không còn con sông nào ngắm ư, mà phải dùng đến máu người
Tiếng máu lang thang đi giữa đất trời
Dấu nghìn thi sĩ thiền không dỗ nổi
(Thời sự hè 72 - Bình luận)
Từ điểm tựa là Tổ quốc, Chế Lan Viên nhìn vào cuộc đời riêng mỗi người, phân tích
tâm hồn, suy nghĩ về bản thân. Thế mạnh của cái "tôi" trữ tình trong thơ Chế Lan Viên là tầm
nhìn bao quát và sức suy nghĩ sâu sắc có gốc rễ là những tình cảm lớn, thiết tha, đậm đà, dào
dạt. Cái "tôi" trữ tình Chế Lan Viên đã luôn vận động vươn lên hòa vào "cánh đồng vui" của
nhân dân, gần gũi với nhân dân, với cuộc sống.
"Ta là ai ?" như ngọn gió vô hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
"Ta vì ai" khẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh
(Hai câu hỏi)
Cái "tôi" trữ tình của Chế Lan Viên sở dĩ có được quan điểm rất chắc, rất khoe khoắn
đó vì sau bao trở trăn, ông đã làm chủ được ngòi bút, vận mệnh của cá nhân nhà thơ đã biết
gắn với vận mệnh đất nước và tìm được thế đứng mới cho người nghệ sĩ rất kiêu hùng :
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Xác định được chỗ đứng, được hướng đi đúng đắn cho đời thơ của mình, nhưng, không
phải con đường thơ của ông rải đầy hoa hồng. Vượt qua bao khó khăn trăn trở và đấu tranh
trong tâm hồn, vượt qua bao "trận gió mưa" trong tư tưởng, trong cuộc đời, Chế Lan Viên
57
mới đến được với "lúa vàng đất mật", mới thấm được vị ngọt của phù sa, mới hiểu lẽ được
mất của cuộc sống:
Xưa phù du mà nay đã phù sa
Xưa bay đi mà nay không trôi mất
Cho đến được ... lúa vàng đất mật
Phải trên lòng bao trận gió mưa qua
(Nay đã phù sa)
Còn có nhà thơ nào thành thật hơn ? Mà có lẽ cũng vì số phận cá nhân trải qua nhiều
"trận gió mưa" như vậy nên tiếng hát tâm hồn. Chế Lan Viên nó đặc biệt hơn. Nó không
thanh thản nhẹ nhàng say đắm như Tố Hữu, nó cũng không ồn ào mãnh liệt như Xuân Diệu,
không thiết tha cháy bỏng như Xuân Quỳnh. Điệu "tâm hồn" của cái "tôi" trữ tình Chế Lan
Viên đầy suy tư, chiêm nghiệm, triết lý, ưu tư, sâu lắng, chân thành.
Xác định được chỗ đứng của nhà thơ là đứng trong lòng cuộc sống, cái "tôi" trữ tình
của Chế Lan Viên đã hoạt động tích cực bằng chính tấm lòng mình, tâm hồn mình:
Ở đâu chưa đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về lòng ngậm những cành thơ
(Qua Hạ Long)
Phá bỏ được "tháp ngà" của cái tôi cá nhân nhỏ hẹp, Chế Lan Viên đã mở lòng mình ra
bốn phương tám hướng của cuộc đời và mở cả ở chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn để "xe vào
cái đa sắc của cuộc đời" cho thơ mình chói lọi.
Cái sức mạnh đã giúp cho cái "tôi" trữ tình Chế Lan Viên đạt đến những tầm cao là sức
mạnh tư tưởng của Đảng và Bác Hồ. Đảng và Bác đã mang lại cuộc sống mới cho dân tộc và
tư duy mới: cho hồn thơ Chế Lan Viên, mang lại dũng khí cho người công dân - chiến sĩ Chế
Lan Viên "có thể nhảy vào đồn mà không sợ lửa" (Người thay đổi đời tôi -Người thay đổi thơ
tôi). Nhà thơ đã biết mang thơ "đấu tranh cho chân lý" và thơ của ông thực sự đã làm tròn
nhiệm vụ của mình.
Cái "tôi" trữ tình Chế Lan Viên luôn trở trăn suy nghĩ để tìm đáp án đúng nhất, câu trả
lời đúng nhất cho mọi vấn đề đang ám ảnh nhà thơ. Bởi vì cuộc sống phong phú, đa dạng và
biến chuyển không ngừng. Cái "tôi" trữ tình tâm niệm phải có cái nhìn nhiều chiều và tỉnh táo
:
58
Phát giác sự việc ở cái bề chưa thấy
Ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa.
(Thời sự hè 72 - Bình luận)
Chính nhờ cái nhìn đa diện, nhiều chiều đó, người đọc đã hiểu sâu xa cuộc sống ở nhiều
mặt, nhiều phía đối lập. Người đọc hiểu được sức nặng của thơ, hiểu thơ đã mở rộng tâm hồn
người đến cỡ nào. Và thơ của Chế Lan Viên đã thực sự có ích, thực sự trả lời những vấn đề
của cuộc sống và tìm được vị trí vững chãi trong lòng người đọc.
Những suy nghĩ của cái "tôi" trữ tình Chế Lan Viên đã làm nổi bật tính chất hào hùng
kỳ vĩ của bộ mặt tinh thần thời đại của cả một dân tộc đã giải thích được sức mạnh của dân
tộc ta trong những ngày chống Mỹ và hướng con người về phía cao cả, phía của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Ông đã chỉ cho hàng triệu con người biết con đường phải theo và làm
sáng tỏ triển vọng tương lai.
Một điểm chung rất dễ nhận thấy trong thơ ca thời kỳ này là cái chung, cái ta suốt ba
chục năm cách mạng có phần lấn át cái riêng, cái "tôi". Đó là do cuộc sống, do thời đại đòi
hỏi theo cái lý của lịch sử. Trong cuộc chiến tranh khốc liệt, mọi người đã phải quên mình vì
nghĩa lớn, vì quyền sống chung của cả dân tộc. Chế Lan Viên cũng vậy, và thơ của ông cũng
đã thể hiện điều đó. Do đó, sau này ông có viết:
Thơ chỉ sống một phần cho mình
Còn ba phần cho nhiệm vụ
Nghĩ mà thương.
(Sử)
Ông chỉ thương cho thơ phải sống hết mình vì nhiệm vụ chứ ông không trách và oán
hận.
2.4. Những nghệ thuật đặc sắc:
Hình ảnh thơ chính là máu thịt của hình tượng, của ý, của tứ thơ. Hình ảnh thơ góp
phần tạo cho ý tưởng trở nên cụ thể, sinh động, sâu sắc và tràn đầy sức sống.
Mỗi nhà thơ có một thế giới hình ảnh riêng phù hợp với cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ
để nhằm diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình. Tùy tài hoa cá nhân mà thế giới hình ảnh ấy
có những vẻ đẹp độc đáo khác nhau.
59
Ở Chế Lan Viên, sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ thông minh sắc sảo đã tạo
nên vẻ đẹp phong phú đa dạng của hình ảnh thơ. Chế Lan Viên biết cách "lạ hóa" các sự vật
hiện tượng quen thuộc, hình ảnh nghệ thuật gây được ấn tượng và gợi nên sự suy nghĩ sâu
sắc.
Hình ảnh thơ của ông là kết quả của một quá trình "dùi mài kinh sử", học trong kho
tàng văn học của dân tộc, của thế giới những hình ảnh có tính chất văn hóa sâu xa kết hợp với
óc suy tưởng triết học của ông, tạo nên những hình ảnh có sức ám ảnh lớn. Ông nói: "Những
kiến thức khoa học giúp cho tôi hiểu được câu nói của nhà triết học Nga "đá và lá cùng một
chất", yêu câu thơ Pháp : "Đá và hoa là hai chặng của một tư duy" và đặt tên tập thơ của mình là "Hoa trên đá": Làm thơ với trái tim không đủ, phải có văn hóa nữa(1)
Bản thân hình ảnh "Hoa trên đa" có sức ám ảnh lớn, nó là hình ảnh của tư tưởng chứ
không phải là hình ảnh trực quan sinh động. Nó là hình ảnh ẩn dụ được chắt lọc sau một quá
trình liên tưởng dài trong thời gian, xa trong không gian mà thành. Vì vậy nó gây ấn tượng,
có sức ám ảnh, là hình ảnh mà nhà thơ phải gửi vào trong đó một nỗi niềm suy tưởng, một
chân lý phổ quát. Cho nên, người ta nói hình ảnh thơ của Chế Lan Viên. có tính chất đặc thù,
rất riêng của Chế Lan Viên cả về tình cảm, cả về trí tuệ.
Hình ảnh mà Chế Lan Viên sử dụng thường rất đẹp, nó đẹp vì cái tình của nhà thơ gửi
vào trong sự vật, nó đẹp vì ý nghĩa biểu tượng của nó mới, lạ và sâu sắc. Có khi nhà thơ sử
dụng loại hình ảnh vừa có ý nghĩa tự thân vừa có ý nghĩa ẩn dụ, vừa có tính chất hiện thực,
vừa có tính chất mở rộng :
Đêm mơ nước ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một cành hoa.
(Người đi tìm hình của nước )
Có khi Chế Lan Viên dùng toàn hình ảnh tượng trưng (không có ý nghĩa tự thân mà nó
tồn tại trong ý nghĩa ẩn dụ, ý nghĩa khái quát)
Hãy đến xứ này từ phía vầng trăng
Phía ngọn suối đến với người khát uống
Phía hạt giống đến tay người làm ruộng
(1) Chế Lan Viên - "Bước đầu của tôi" trong tập Ngoại vi thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế 1987, trang 78
60
(Tặng bạn gần gửi những bạn xa)
Trong đó "xứ này", "người khát uống", "người làm ruộng" là hình ảnh ấn dụ của đất
nước ta đang đánh giặc, đang dựng xây, đang cần sự ủng hộ chí tình chí nghĩa của bạn bè
quốc tế. Và "phía vầng trăng", "phía ngọn suối", "phía hạt giống" là phía của hòa bình, của-
những người bạn quốc tế đang ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Đó là
những hình ảnh có sức sống, sức thuyết phục bởi vì những hình ảnh tượng trưng ấy không cắt
đứt mối liên hệ với hiện thực mà nó góp phần nâng hiện thực lên cao.
Những hình ảnh tượng trưng thành công của Chế Lan Viên đã trở thành những hình
tượng đặc thù. Nó có chức năng tạo hình, làm hiện hình ý tưởng và tứ thơ và bản thân nó
cũng hàm chứa ý tưởng mới lạ, thú vị và bất ngờ. Ví dụ : không có con tàu lên Tây Bắc trong
hiện thực nhưng qua "Tiếng hát con tàu", con tàu mộng tưởng đó vẫn cứ làm say mê lòng
người. Cũng như con sông Bạch Đằng, con sông sử thi ấy, Chế Lan Viên thả vào đó một con
sông tình ca, có tình nhân soi mặt vào sông và ném những cành hoa lãng tử (Sông sử thi -
sông tình ca)
Ngay tên các tập thơ, tên các bài thơ của Chế Lan Viên cũng có chức năng tạo hình,
làm hiện hình ý tưởng, tứ thơ. Ví dụ các tập thơ : Hoa ngày thường - Chim báo bão, Ánh sáng
và phù sa, Hoa trên đá và nhan đề các bài thơ : Tiếng hát con tàu ; Chim lượn trăm vòng ;
Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa ; Người đi tìm hình của Nước ; Cành phong lan bể ...
. Đó là những hình ảnh đã thâu tóm được tứ thơ và có sức gợi suy nghĩ của người đọc.
Một đặc điểm nữa của những hình ảnh tượng trưng này là nó có tính chất khỏe khoắn,
có sức sống, màu sắc chói chang rực rỡ, có ngụ ý tư tưởng, hàm nghĩa triết học, góp phần tạo
nên giọng điệu thơ trữ tình - triết học.
Các hình ảnh thơ của Chế Lan Viên thường được đặt ở thế đối lập - tương phản. Biện
pháp này rất hay được sử dụng trong thơ Đường, cả thơ Đường và thơ tượng trưng Pháp đều
giống nhau ở chỗ ít lý luận, ít kể chuyện, ít tả chân, đều muốn đi tìm và diễn tả những gì thật
sâu xa có tính khái quát, triết lý thường vô hình ẩn sau những tương quan hữu hình của thế
giới. Hai lối thơ đều đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật thi ca nhờ ngôn ngữ tinh luyện, hàm súc,
có khả năng diễn tả được những biến hóa hết sức tinh vi của tạo vật và lòng người. Bởi vì bản
chất của thơ là cô đọng, hàm súc. Trong thơ Đường, muốn diễn tả cái bi đát của chiến tranh,
người ta chỉ cần nói "những tráng sĩ đã phơi xương trên bờ sông vô định ấy thế mà vẫn còn
61
làm người đi về trong giấc mộng của vợ mình nơi phòng khuê" (khả lân vô định hà biên cốt, do thị thâm khuê mộng lý nhân)(1)
Chế Lan Viên có kế thừa tư duy thơ truyền thống của phương Đông và có ảnh hưởng
của thơ tượng trứng Pháp kết hợp tư duy phân tích hiện đại của phương Tây. Đó chính là qui
luật kế thừa và phát triển, mọi đổi mới đều không thể cắt đứt với quá khứ. Bakhtin gọi nó là
"trí nhớ của thể loại". Trí nhớ ấy của Chế Lan Viên nằm ở những hình ảnh tượng trưng - liên
tưởng mang phong cách Đường thi : Sự vật hiện tượng thường được đặt ở thế đối lập - tương
phản.
Khi đặt các sự vật, các tư tưởng và cảm xúc vào các mối quan hệ đối lập, các hình ảnh
thơ Chế Lan Viên thường tạo ra sự bất ngờ và ngạo nhiên đến thú vị vì chiều sâu triết lý được
phát hiện ra trong mối quan hệ ây.
Ví dụ : Thơ bình phương - Đời lập phương, Vi mô và vĩ mô, Tro và lửa, Cây cay đắng
ra mùa quả ngọt ...
Những hình ảnh liên tưởng đặc sắc và những hình ảnh đối lập - tương, phản tài hoa góp
phần tạo nên giọng điệu thơ trữ tình - triết học của Chế Lan Viên, một phong cách rất độc đáo
khó có người vượt qua nổi.
2.4.1. Các hình ảnh thơ đối lập về thời gian và không gian:
Ở nhiều bài thơ của Chế Lan Viên, sự đối lập về thời gian đều chứa đựng chủ ý ca ngợi
chế độ mới : Xưa là quãng đời nô lệ cơ cực, nay là cuộc đời làm chủ vinh quang ; xưa bế tắc,
đau khổ, siêu hình, nay vui tươi tràn đầy hy vọng ; xưa là cái tôi cá nhân nhỏ bé tuyệt vọng,
nay là cuộc đời chan hòa với nhân dân, là cái "ta" rộng lớn ; xưa thơ than van vô ích, nay thơ
có ích, thơ giải đáp những vấn đề của xã hội, của con người.
Sự đối lập về thời gian chủ yếu được kết cấu theo trục xưa - nay, hôm nay - mai sau :
- Xưa phù du mà nay đã phù sa
- Xưa cha ông đi mà nay con cháu bắt đầu bay
- Hôm nay họ vô danh - ngày mai họ đã hóa phi thường
- Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Các đối lập về thời gian lại đan cài với các đối lập về không gian: Xưa là thế giới của u
sầu mù mịt, nay là thế giới của ánh sáng, của sức sống nảy nở, sinh sôi. Xưa là không gian cá
nhân bé nhỏ, chật chội, tù túng, nay là không gian xã hội rộng lớn, không gian cộng đồng. Sự (1) Mai Quốc Liên - Phê bình và tranh luận văn học. Nhà xuất bản văn học Hà Nội 1998, trang 235.
62
đối lập về không gian lại thường được Chế Lan Viên kết cấu theo trục : trên dưới, trước - sau,
trong - ngoài, xa - gần, đông - tây, nam - bắc, ngược xuôi, rộng - hẹp :
- Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi sao anh chửa ra đi
- Ngõ rất cụt mà lòng sâu thẳm
Ngõ bảy thước mà lòng muôn dặm
- Ngôi sao sáng đưa ta qua đêm trường thế kỷ
Đã thành mặt trời chói lọi bình minh
- Hỡi em rất xa
Sao nhớ rất gần ?
- Ai đi lên phía trước
Chớ quên sau lưng mình
Cái cửa hồng bình minh
Chốn hang sâu mở nước
Thông qua các đối lập về không gian, thời gian ấy, tư tưởng và tâm trạng của nhà thơ
được bộc lộ và nói qui định giọng thơ khẳng định, giọng thơ ca ngợi vui tươi, phấn khởi của
nhà thơ đối với hiện thực.
2.4.2. Hình ảnh đối lập giữa hiện tượng và bản chất:
Chế Lan Viên cũng thường xuyên khám phá và phát hiện được bản chất của sự vật
thông qua các tương quan đối lập giữa hiện tượng với bản chất, điều đó góp phần tạo nên
giọng điệu thơ trữ tình - triết học của ông.
Chế Lan Viên có tư duy nghệ thuật sắc sảo, ông biết xuyên qua các hiện tượng ở bên
ngoài để nhìn xoáy vào thực chất bên trong của đối tượng.
- Giặc Mỹ giết người rất đỗi văn minh
Bom đạn chúng làm theo hình chim bay, theo hình quả chín
Phi cơ Mỹ mang cánh những thiên thần bay liệng
Giặc Mỹ cầm dao bằng những dáng hòa bình
(Cái hầm chông giản dị)
63
- Chúng biểu diễn hoàn bình như diễn xiếc
Bọn giết người cũng tỏ tình và hát tình ca
(Tuyên bố của mỗi lòng người, khẩu súng, cành hoa)
Chính cái nhìn phát hiện được sự đối lập giữa hiện tượng bên ngoài và bản chất bên
trong này cũng góp phần tạo nên giọng điệu thơ trữ tình - chính tri đanh thép của Chế Lan
Viên trong những tập thơ "Đối thoại mới" và "Những bài thơ đánh giặc"
- Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất
- Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu
- Khẩu súng ta ơi ! khẩu súng rất nhân tình
- Một cái hôn cân vạn ngày lửa đạn
2.4.3. Hình ảnh đối lập giữa nguyên nhân và kết quả:
Quan hệ nhân quả cũng là một phạm trù triết học được Chế Lan Viên vận dụng tài tình
trong thơ, qui định giọng trữ tình - triết học rất uyên bác, minh triết của ông.
Khi khai thác mối quan hệ đối lập nhân - quả, nhà thơ đã làm nổi bật quá trình vận
động, chuyển hoa của sự vật hiện tượng mà các từ công cụ của nó là "hóa", "thành", "nên",
"cho":
- Đi hết lòng, tiếng hóa lời ca
(Nhật ký một người chữa bệnh)
- Việt Nam chịu vạn ngày đạn lửa
Cho nghìn năm nhân loại ngẩng cao đầu
(Thời sự hè 72 - Bình luận)
- Những kẻ quê mùa đã trở thành trí thức
(Người đi tìm hình của Nước)
- Cho lớp đất phù sa thành sữa lúa
Cho lá dâu non dệt thành tơ lụa
(Nhật ký một người chữa bệnh)
- Lòng ta thành con rối
Cho cuộc đời giật dây
64
(Người đi tìm hình cửa Nước)
- Anh đã biến đau thương thành sức mạnh
Biến cái cúi đầu thành trận đánh
Nỗi lặng im thành sóng vỗ muôn trùng
Biến cái rụng rơi thành sự vun trồng
(Giữa Tết trồng cây)
Hai vế nguyên nhân và kết quả luôn luôn có quan hệ biện chứng với nhau, nguyên nhân
này tất dẫn đến kết quả kia. về hình thức, mối quan hệ nhân quả gồm hai vế tương phản nhau
nhưng lại bể sung, lý giải cho nhau chuyển hoa từ nguyên nhân ra kết quả. Đại đa số các bài
thơ của Chế Lan Viên ở thời kỳ 1945 - 1975 đều xuất hiện mối quan hệ nhân quả này. Điều
đó chứng minh giọng điệu thơ trữ tình - triết học của Chế Lan Viên có cơ sở vững vàng từ
những cặp phạm trù triết học. Điều này cũng phừ hợp với cảm hứng thơ của Chế Lan Viên :
ông thích viết về các quá trình sinh sôi nảy nở, thai nghén, tái sinh, trưởng thành, và hay dùng
những hình tượng thơ ở thời kỳ sự vật hiện tượng mới bắt đầu, mới xuất hiện để so sánh với
quá trình mới bắt đầu dựng xây chủ nghĩa xã hội.
2.4.4. Hình ảnh đối lập về các trạng thái cảm xúc:
Trong thơ Chế Lan Viên, các trạng thái cảm xúc cũng hay được thể hiện ở dạng đối lập
giữa hai cực : yêu thương - căm thù, đau khổ - hạnh phúc, vui - buồn, khâm phục - khinh bỉ,
mơ và thực, cay đắng - ngọt ngào ...
Để miêu tả trạng thái bất lực của con người trước Cách mạng, Chế Lan Viên đã viết:
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
(Người đi tìm hình của Nước)
Diễn tả con đường đi của những con người lầm than khổ cực nay đã ra tới "cánh đồng
vui" của chủ nghĩa xã hội, Chế Lan Viên viết rất hay về trạng thái ngọt ngào hạnh phúc sau
khi đã trải qua bao đắng cay vất vả :
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
người cay đắng đã chia phần hạnh phúc.
Và đây là tư thế kiêu hùng của người chiến thắng trước vẻ nhục nhã của tướng Pháp :
Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát
65
Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ-cát
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Chế Lan Viên cũng hay so sánh một cách chân thành những hình ảnh đối lập về phẩm
chất giữa cái nhỏ bé và cái cao cả anh hùng :
Ta rách xé riêng tây, Người cao cả anh hùng
Người trong veo mà ta chưa giản dị được lòng
(Ta nhận vào ta phẩm chất của Người)
Chế Lan Viên - hay nhắc đến người xưa, thơ xưa để đối lập với trạng thái hạnh phúc
của người nay, thơ nay :
Xưa Nguyễn khóc thì nay ta hát
(Đọc Kiều)
Những hình ảnh đối lập về các trạng thái cảm xúc này qui định giọng trữ tình - sử thi có
sắc thái chân thành, thiết tha, sâu lắng. Các nhà thơ thường trải lòng mình chân thành với
cuộc sống, với bạn đọc nhưng ở Chế Lan Viên, sự chân thành có một màu sắc trang trọng,
sắc điệu trang trọng này có được nhờ các cặp phạm trù đối lập và nhờ ở chính vấn đề mà tác
giả đề cập là những vấn đề nhân bản, những vấn đề lớn lao của chính con người.
2.4.5. Hình ảnh đối lập về ý thức hệ:
Những hình ảnh đối lập về ý thức hệ : ta - địch, chính nghĩa - phi nghĩa, nhân đạo - vô
nhân đạo, thật - giả, bạn - thù, trắng - đen, ... được Chế Lan Viên sử dụng rất hiệu quả làm
nổi bật giọng chính luận đanh thép về các vấn đề thời sự - xã hội. Chế Lan Viên thường dùng
hình ảnh đối lập không cân sức để làm nổi bật phẩm chất của dân tộc Việt Nam là một dân
tộc còn nghèo nàn, nhỏ bé lại chiến thắng đế quốc Mỹ là kẻ thù mạnh nhất, giàu nhất. Đó là
bởi vì quân phi nghĩa bao giờ cũng thua trước chính nghĩa.
Vì sao những B.52 quỷ ma làm thế giới phải kiêng dè
Mà ta chấp nhận cùng mày cuộc đọ sức, đương đầu lịch sử.
Mang phẩm chất Hồ Chí Minh trong người, ta quyết diệt mày, ta bám trụ.
Mày không thể dành của ddaaast nước này một gốc lúa, một thân tre
(Thời Sự hè 72 - Bình luận)
Giọng điệu thơ ở đây rất hùng hồn đanh thép, nhà thơ sử dụng nhiều mệnh đề luận lý
như nguyên nhân - kết quả ; điều kiện - kết quả ; nghi vấn - khẳng định ... Tất cả đi đến thức
66
tỉnh người đọc hiểu lẽ minh triết sau những đối lập ý thức hệ, hiểu được cội nguồn sức mạnh
dân tộc, hiểu nguyên nhân cuộc chiến tranh, hiểu mặt thật của đế quốc Mỹ. Chính thời đại
chống Mỹ với bộn bề các sự kiện chính trị - xã hội đã là một nhu cầu khiến Chế Lan Viên kịp
thời chuyển hướng thơ sang chính luận - thời sự để biến thơ mình thành những bài thơ trực
tiếp đánh giặc. Chính yếu tố chính luận này làm cho hình thức câu thơ phải dãn rộng ra hết cỡ
để chuyển tải được nội dung phong phú của vấn đề thời sự - chính.trị:
Ních Xơn ! ta đứng lên đối chọi cùng mày !
Người chân đất ăn rau cùng lên cường quốc nghìn tỷ đô - la đối chọi.
Trái tim chọi với những tử ngoại, la de, chư hầu, thủy lôi, hạm đội.
(Thời sự hè 72 - Bình Luận)
Cầm mỗi trang giấy hòa bình của hắn, lật lại phía bên kia đều có máu
(Phác thảo cho một trận đánh)
2.4.6. Hình ảnh đối lập giữa các tính chất, trạng thái của đối tượng:
Ở các hình ảnh đối lập về tính chất, trạng thái của đối tượng như tốt -xấu, cũ - mới, cao
cả - thấp hèn, bên trong - bên ngoài, nội dung - hình thức, hết - còn, ngọt - đắng, buồn - vui....
Ta thấy Chế Lan Viên có giọng triết lý ung dung, sâu lắng. Nhất là khi đối chiếu với những
tính chất của cá nhân mình, sự sâu lắng đạt đến mức độ lay động lòng người:
- Cái phần nhân loại trong anh cay đắng
Thấy mình xa nhân loại ở bên ngoài.
(Thơ bình phương - Đời lập phương)
- Có thể mùa xuân đang còn mà lòng hái hoa của anh đã hết
Ngược lại có khi xuân đến rồi mà anh tụt lại sau
(Nghĩ về thơ)
Cũng có khi lại là giọng tự hào khi đối tượng ca ngợi là Cách mạng, là lý tưởng :
Nếp rêu con cũng chói lòa ánh sáng
Khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu
(Khi đã có hướng rồi)
Chế Lan Viên có một đặc điểm là nói về nỗi buồn thật đậm để chuyển sang nói nguồn
vui lớn :
67
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chi phần hạnh phúc
( Người đi tìm hình của Nước)
Những hình ảnh đối lập mang tính chất triết học không phải là không xuất hiện trong
thơ của các nhà thơ khác. Nhưng sử dụng thường xuyên và thành cả một hệ thống với mật độ
dày đặc, tầng tầng lớp lớp trong thơ thì chỉ có Chế Lan Viên thể hiện rõ nhất. Cho nên khi nói
đến thơ Chế Lan Viên người ta nghĩ ngay đến giọng điệu thơ trữ tình - triết học. Tác giả
Nguyễn Lộc có nhận xét : "Đọc thơ Chế Lan Viên, chúng ta thường gặp những câu thơ có
tính chất châm ngôn, tính chất triết lý, một châm ngôn độc đáo nhưng có tính xác thực, một
triết lý súc tích không xa lạ với mọi người, nhưng ở mọi người còn cảm thấy lờ mờ thì nhà thơ đã nói lên sắc sảo như một phát hiện" (1)
Nhưng khi dựa quá nhiều vào sự suy nghĩ, nhà thơ có lúc đã đi lan man, tác dụng thơ
không tập trung, kết cấu không chặt chẽ, tính chất quần chúng của thơ bị hạn chế. Ở một số
bài, kỹ thuật thiếu sự tiếp sức của chất sống trực tiếp, hoa ra trần trụi, cầu kỳ. Khuôn khổ
hoàn toàn không hạn định và quá sức mở rộng của câu thơ làm mất đi sức hàm súc, khơi gợi
như trong các bài "Tàu đến - tàu đi", "Nghĩ suy 1968"
Mặc dù có một số hạn chế như vậy nhưng về cơ bản, khi cảm xúc và lý trí của Chế Lan
Viên hòa hợp thì những khái quát triết lý về những quy luật phổ biến và các khái quát triết lý
từ các mặt đối lập mà thống nhất của sự vật hiện tượng mang lại điệu hồn ung dung thanh
thản trong thơ triết lý của Chế Lan Viên. Đó là kết quả của một quá trình suy tư chiêm
nghiệm thâu tóm được bản chất của đối tượng ở những điểm bất ngờ, mới lạ nhất. Nó là "sự
bừng sáng" của trí tuệ, để kết hợp với cảm xúc tha thiết sâu lắng của nhà thơ tạo nên những
bài thơ đặc sắc của nền thơ ca Cách mạng giai đoạn 1945 - 1975.
***
(1) Nguyễn Lộc - Chế Lan Viên và những tìm tòi nghệ thuật trong thơ - Tác phẩm mới 9/1990.
68
CHƯƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU THƠ TRỮ TÌNH THẾ SỰ CỦA CHẾ LAN VIÊN
3.1. Trữ tình thế sự:
Từ năm 1975, đất nước ở giai đoạn sau chiến tranh ngổn ngang trăm mối. Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội theo mô hình cũ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã bộc lộ nhiều
khuyết điểm trầm trọng làm ảnh hưởng sâu sắc đến thực trạng của đất nước. Con đường cách
mạng đang cần phải có một sự đổi mới về cơ bản. Chế Lan Viên không thể tự hát mê say
những khúc ca ca ngợi tổ quốc, nhân dân theo cảm hứng sử thi như trước. Nhà thơ đã chuyển
giọng, một sự chuyển giọng hoàn toàn phù hợp với tình hình, đó là giọng trữ tình thế sự. Cảm
hứng của nhà thơ bây giờ tỉnh táo hơn, nhìn thẳng vào thực trạng xã hội, nhìn thẳng vào
chính mình và thơ để nghiền ngẫm nghĩ suy những. Vấn đề xã hội trong một tinh thần trầm
tĩnh. Khi đã nghỉ hưu, để lại sau lưng cả một chặng đường dài, ông có thì giờ để nghĩ suy về
những thành công và thất bại, được mất, vinh quang và cay đắng, những buồn vui đời người...
Những năm cuối, khi lâm trọng bệnh, trong tâm thế của một người sắp đi xa, những tâm sự
của ông trở nên thiết tha, nhân bản lạ lùng. Ông như muốn gửi cả con tim, cả điệu hồn của
mình ở lại cùng cõi nhân gian, cùng cuộc đời mà ông hằng yêu quý. Dù cuộc đời đó đa đoan
và muôn mặt, có cả tốt xấu, phải trái, sang hèn, nhưng vẫn là cuộc đời mà mỗi chúng ta chỉ
có một mà thôi. Chế Lan Viên ý thức rất rõ về điều này, và từ giọng cao của những đỉnh cao
chất ngất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giờ đây ông đưa thơ về với giọng trầm của
muôn mặt đời sống đời thường :
Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm
(Giọng trầm).
Trong hòa bình, không thể sống, nghĩ suy và cảm xúc như thời chiến tranh. Giờ đây,
thơ ca cần phải thức tỉnh những nhu cầu mới và ý thức cá nhân mới. Điểm nhìn của nhà thơ
giờ đây gần gũi hơn, đa diện hớn, chân thực hơn. Cuộc đời giờ đây không phải toàn vinh
quang và chiến thắng, toàn hạnh phúc và lẽ phải : "Trái cây rơi vào áo người ngắm quả" như
cảm hứng lãng mạn hóa, lý tưởng hóa hiện thực thời thơ trữ tình sử thi; Giờ đây, nhà thơ cảm
nhận được tất cả các trạng thái tinh thần của xã hội đang có những chuyển biến dữ dội như
tinh thần Đại hội Đảng lần thứ 6 tháng 12 năm 1986 đã nêu : "Phải đổi mới toàn diện công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Thái độ nhìn thẳng vào sự thật để đổi mới khiến nhà thơ đã phát hiện những nỗi bất
hạnh, những tàn nhẫn sau chiến tranh : thưa thiệt, khổ sở, đói nghèo, bất công, thực dụng,
những ước mơ dường như lụi tàn, những tài năng dường như cạn kiệt:
69
Vì có bọn người thoái hóa
Khiến cho thắng trận rồi
Mà vẫn còn nhặt lá - kẻ làm thơ
(Hốt lá)
Giờ đây không còn là giọng thơ hùng tráng vang dội như tiếng kèn xung trận nữa, mà là
giọng tỉnh táo đến sắc lạnh, chấp nhận đớn đau trong cuộc đời, chấp nhận cả may rủi, rủi ro,
bất hạnh, tai ương :
Hạnh phúc đến thình lình và ở thế đơn côi
Còn tai ương thì dồn dập đánh vu hồi
Thuyền anh đi giữa hai bể, hai trời May - Rủi đó
Không sấp bên này thì ngửa phía kia thôi
(Hai chiều)
Rõ ràng là cuộc sống không còn là một chiều thẳng băng xốc tới ngạo nghễ đứng trên
đầu thù như trước, mà phải chấp nhận tất cả thử thách như cuộc sống vốn dĩ nó vẫn như thế.
Chỗ đứng của nhà thơ bây giờ cũng không phải là "ngang tầm chiến lũy" nữa. Mà chỗ đứng
bây giờ là đứng giữa cuộc đời sóng gió mà khẳng định lẽ sống, khẳng định bản thân :
Ta buồn vui., khóc cười đâu phải vì vở kịch kia mà vì góc độ
Ta đứng trong cuộc đời sóng gió để nhìn lên
(Kịch sao)
Chỗ đứng giờ đây thật khiêm tốn, có thể đứng chấp nhận mọi tai ương sóng gió của
cuộc đời. Để đứng vững được đòi hỏi nghị lực sắt đá và niềm tin tuyệt đối ở lòng người.
Với tư thế đứng ở tầm cao thời đại thời thơ trữ tình sử thi thì nhà thơ thường đưa tầm
mắt hướng ngoại : hướng về truyền thống, về nhân dân, Tổ quốc, nhân loại, về tương lai. Chỗ
đứng đó có điểm tựa vững chắc là Tố quốc đang chiên đâu, đang dựng xây.
Giờ đây với chỗ đứng "trong cuộc đời sóng gió để nhìn lên" này, điểm tựa của con
người chính là niềm tin vào cái tâm của mình. Cho nên lúc này thơ Chế Lan Viên chủ yếu là
hướng nội. Tuy nhiên cách phân định thơ hướng nội hay hướng ngoại chỉ có mức độ tương
đối. Bởi vì văn chương bao giờ cũng là sự tổng hợp, sự thẩm thấu lẫn nhau giữa cái khách
70
quan và chủ quan, giữa bên ngoài với bên trong. Nhưng ở đây ta xét trong thơ trữ tình thế sự
(mà chủ yếu là ba tập Di Cảo Thơ) tỉ lệ những vấn đề hướng ngoại rất ít. Rất ít lần nhà thơ
nhắc tới "những bà mẹ cắm chông bạc tóc", ""những nấm mộ vô danh", "những người lính
trẻ về quê hương sau chiến tranh đang vất vả, nghèo đói" ...
Bây giờ đây nhân vật trung tâm là hình ảnh của chính nhà thơ đang "tự vấn", đang xoáy
vào chiều sâu thăm thẳm của nội tâm để tìm điểm tựa cho thơ và cho con người. Càng xoáy
vào chiều sâu nhân bản, Chế Lan Viên càng phát hiện ra những chiều phong phú của con
người. Có những miền, những nẻo khuất tối, u uẩn của tiềm thức, vô thức cũng được Chế Lan
Viên mổ xẻ, phân tích. Tâm hồn giờ đây không phải là ở trạng thái say sưa tự hào với thực tại
: "Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả", mà là một tâm hồn lúc nào cũng
"bất ổn, xôn xao" đi tìm những câu trả lời mới ở thời đại mới, một tâm hồn có nhiều "vết
thương nội tâm", thậm chí có cả cuộc chiến tranh trong tâm hồn :
Cuộc chiến tranh màu trắng của tâm hồn
Tuyết nhắm tuyết chia phe mà đối chọi
Tuyết này đòi tan, tuyết kia tồn tại
Phía chấp nhận hóa bùn, phía kỳ vọng cỏ xanh non
(Cuộc chiến)
Tâm hồn nhà thơ giờ đây không chỉ là một mà phân thân ra thành nhiều hướng, nhiều
số phận để trải nghiệm, để thử thách, để cái tôi nghệ sĩ được hóa thân mà hiểu tận cùng nỗi
đau của đời, người đời nay và cả người đời xưa : Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Kiều, Prô-mê-tê
hay Hàn Mặc Tử... Và hiểu tận cùng nỗi đau của đời chẳng qua là để hoàn thành sứ mạng
sáng tạo của nhà nghệ sĩ. Làm sao cho tác phẩm mình được sống mãi với thời gian là những
ước mơ, những nguyện vọng tha thiết của Chế Lan Viên những năm cuối đời.
Không phải trước đây thơ Chế Lan Viên không có giọng trầm, nhưng nó không phải là
chủ yếu, không phải là thế mạnh. Thơ Chế Lan Viên gian đoạn 1945 - 1975 cũng có giọng
tâm tình nhỏ nhẹ khi nói về hoa, về trẻ nhỏ, người thân, về thơ, về thiên nhiên. Cũng có cả
giọng ngậm ngùi trầm lắng khi nói về quá khứ, về cuộc đấu tranh chống bệnh tật và nỗi
buồn... Nhưng nó chỉ là điểm xuyết, nó không át được giọng cao trong những bài thơ tự do
dài rộng ca ngợi Tổ quốc, nhân dân, cách mạng, Bác Hồ, ca ngợi lẽ sống và lý tưởng của
cách mạng.
Sự đổi mới về giọng điệu thơ sang giọng trầm tư thế sự khiến cho giọng điệu thơ của
Chế Lan Viên ở giai đoạn sau 1975 (nhất là trong 568 bài ở ba tập Di cảo thơ) trở nên phong
71
phú, đa dạng : vẫn còn có giọng cao (nhưng tỉ lệ ít), giọng trầm là chủ yếu, có giọng vui
nhưng cũng có giọng buồn đau, có giọng đối thoại, nhưng nhiều hơn là giọng độc thoại. Có
giọng nghiêm trang nhưng cũng có giọng tự trào, đùa tếu hóm hỉnh, thâm trầm... Và một
giọng đặc sắc riêng không lẫn với ai, trở thành phong cách, đó là giọng triết lý ung dung
thanh thản... Tất cả đều biểu hiện "điệu hồn" của nhà thơ những năm cuối đời: Trước sóng
gió ba đào của cuộc sống, điệu hồn của nhà thơ đã tìm được điểm tựa ở chính tâm mình, ở
chính thơ mình để vượt lên, cống hiến cho đời những bài thơ xuất sắc mà nội dung chính là
trữ tình nhân bản.
3.2. Cảm hứng thế sự:
3.2.1. Cảm hứng về số phận con người:
Cảm hứng của Chế Lan Viên giờ đây trở nên phong phú đa dạng, nhà thơ tìm về với sự
thật, với bản thể thơ, với nghề thơ, với nỗi đau, với sự hữu hạn của thời gian, sự bất lực của
tài năng, nỗi trống vắng tri âm ; cảm hứng về mối quan hệ giữa thơ và cuộc đời, thơ và bạn
đọc, sự tồn tại lâu bền của thơ với thời gian ; cảm hứng về cái chết, về sự quên lãng, về số
phận con người, về hư vô, về tuổi thơ, về những rủi may, bất trắc...
Cảm hứng lớn nhất của Chế Lan Viên ở giai đoạn sau 1975 (và chủ yếu trong ba tập Di
Cảo Thơ) là cảm hứng về số phận con người. Xu hướng trở về khai thác chính con người với
những diễn biến trong đời thường là một xu thế khách quan của thơ trữ tình lúc này. Chế Lan
Viên sống trong sự toàn vẹn của cuộc sống, luôn luôn nhạy cảm nắm bắt chất thơ của cuộc
sống đời thường con người, chất thơ đó có cả trong muôn mặt đời sống : trong may rủi, mất
mát, đau thương, trong những thăng trầm kiếp người, những tiên nghiệm về tương lai. Vì chỗ
đứng của nhà thơ lúc này là "đứng trong cuộc đời sóng gió để nhìn lên" nên số phận con
người không phải đi trên gấm hoa mà là câu hỏi muôn thuở về bản thể :
Ta là ai ? Về đâu ? Hạt móc
Là ta chăng ? Dòng sông là ta chăng ? Tiếng khóc
Là ta chăng ? Vì sao lạc phương trời
Là ta chăng ? ta chưa kịp trả lời
Thì sống đã cuốn ta vào bóng tối.
(Hỏi ? Đáp)
Cái câu hỏi "Ta là ai ?" đó cứ ám ảnh đeo đuổi nhà thơ đến tận cuối đời. Có lúc nhà thơ
tự nhận mình : "Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu", có lúc lại thấy mình là "nhà thơ - nhặt lá", có
72
khi lại ví mình như hạt ngọc được kết tinh lên từ bao bùn đất và nước mắt (Ngọc sau cùng),
có lúc lại ví nhà thơ như nhà Chiêm tinh đoán vận số của mình mà mãi chưa ra, có lúc lại ví
nhà thơ như ông vua Thục đang bị dồn đến đường cùng... Dù dưới góc độ nào thì sô phận của
con người, của nhà thơ cũng được nói bằng giọng điệu trầm lắng, đau buồn, xót xa vì thời
cuộc :
Giờ là thế giới của xe cúp, ti-vi, phim màu ngũ sắc
Của quyền lực tuổi tên đốp chát
Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng
(Thời thượng)
Số phận con người trong xã hội được nhà thơ cảm nhận bằng giọng điệu sắc lạnh, tỉnh
táo :
Cuộc đời là trò chơi
Cuộc sống là trò chơi
Mà không chơi khổ đau thì không ù được nụ cười".
(Hai chiều)
Cảm hứng về số phận con người của Chế Lan Viên có phần nào giống với câu nói :
"Cuộc đời là một tấn kịch vĩ đại'" của văn hào Shakespeare :
Mỗi ngày anh đạo diễn vở kịch đời anh không thứ lớp
Đoạn đằng sau có khi diễn trước
Đoạn đầu tiên lại để sau cùng
Trăm vai phản diện, chính diện ư, cho đến màn phông
Đều anh cả
Không màn phông, chỉ có trái tim nhức buốt
(Đạo diễn)
Dù kịch nào thì cái chính ta nhìn thấy vẫn là cái "tâm" nhức buốt của con người, mà nói
về "Tâm", "Trí" và "Tài" thì cả ba Chế Lan Viên đều có đủ. Giai đoạn cuối đời cái "Tâm" của
Chế Lan Viên còn nhức buốt vì nhận ra rằng đời người hữu hạn :
73
Giá ta được chết như người trong kịch
Bị giết vai này, liền sống dậy làm vai khác
... khốn nỗi ta chỉ có một ta thôi
Dù phía trước cười, phía sau đau thì cũng là nó
Nó không lần lượt thay vai mà cùng lúc đồng thời
(Kịch giả)
Có lúc cảm hứng về số phận con người trong Chế Lan Viên trở nên rất khắc khổ :
Rồi đùng một cái, anh từ giã cuộc đời
Người ta cho anh cái mặt nạ thiên thu vĩnh cửu
Nếu người ta yêu, họ sẽ cho anh thêm nét mày lá liêu
Hạt nốt ruồi son phúc hậu bên cằm
Nếu họ ghét anh, họ sẽ băm vằm
Nhiều nét hằn
Trên mặt anh xé rách
(Mặt nạ)
Vẫn giọng thơ bình thản đến sắc lạnh, mọi bi kịch về số phận con người diễn ra ; không
chỉ khắc khổ, không chỉ đau thương mà còn đầy những rủi may, bất trắc, đơn côi, mong manh
:
Hạnh phúc đến thình lình và ở thế đơn côi
Còn tai ương thì dồn dập đánh vu hồi
(Hai chiều)
Chế Lan Viên còn cảm nhận được sâu sắc khi đã được làm người rồi, con người còn
phải đối mặt với những đa sự, đa đoan, với những nỗi đau như cơn lũ của kiếp sống :
Người ta đau gì đây ? Đau cái kiếp người
Không phải kiếp đá, kiếp mây, kiếp chó
(Thuốc)
74
Và không chỉ có nỗi đau, con người còn phải sống với cảm nhận về nỗi bất lực của
mình :
Phật tram tay anh gửi mình vào cánh tay thứ mấy ?
Nhiều tay chi thêm bối rối trước cuộc đời
(Tay thứ mây ?)
Khắc khổ là thế, đau thương đến thế, đa đoan đến vậy nhưng con người vẫn sống với
niềm hy vọng dù là mong manh, dù là vô vọng :
Vọng ư ? ai cũng có một chân trời
Và mất một cái gì sau đó phía chân mây
(Vọng phu)
Và con người không chỉ sống trong hy vọng mà còn sống để mang thương tích bởi
những cú va đập của cuộc đời, những cú va đập bầm dập, đớn đau :
Chúng ta ở trên đời không phải để ra lộc ra hoa mà còn để mang thương tích. Cũng
không phải chỉ nỗi đau thương cao sang mà là hủi cùi ghẻ lở đục hình hài
( Nhiệm vụ)
Thời chống Mỹ, Chế Lan Viên thấy con người là nhân, là cốt lõi, là động lực của sự
sống : "Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh". Còn bây giờ Chế Lan Viên lại nhìn con
người trong số phận toàn cục của nó.
Toàn bộ cảm hứng về số phận con người của Chế Lan-Viên là sự chiêm nghiệm về
những điều con người đã trải qua chứ không phải những điều họ đạt được (như ở trong thơ
trữ tình sử thi : cái đạt được là vinh quang, là chân lý, la chiến thắng, là cao cả, là anh hùng
).- Còn cảm hứng về số phận con người ở Di Cảo Thơ là toàn bộ những điều con người phải
trải qua trong cuộc sống : những mất mát, được thua, những tai ương, đớn đau, hy vọng và
bất lực, những lãng quên... nguồn cảm hứng trở nên rất thật và nó.qui dịnh giọng thơ trầm
buồn, tỉnh táo, sắc lạnh và chấp nhận. Thái độ chấp nhận ở đây là một sự dũng cảm, dám
chấp nhận được thua, rủi may, tai ương, lãng quên, bất lực... Những mặt thật của cuộc sống
mà ở thời chiến tranh phải tạm quên đi vì nghĩa lớn của toàn dân tộc.
75
3.2.2. Cảm hứng về nỗi đau:
Cảm hứng về nỗi. đau. cũng là một trong những cảm hứng chính của Chế Lan Viên ở
giai đoạn sau 1975 (và chủ yếu trong ba tập Di cảo thơ), Ở thơ trữ tình sử thi, nỗi đau mà Chế
Lan Viên hay nhắc đến là nỗi đau công dân, nỗi đau "lột xác" chuyển mình, nỗi đau dân tộc,
nỗi đau nhớ Bác, đau vì hy sinh, đau vì bệnh tật:
Đẻ cái sống đau gần như cái chết
(Cách mạng)
Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu
Ta đẻ ra đời sao khỏi những cơn đau.
Nhưng dù sao nỗi đau trong thơ trữ tình sử thi cũng gần với những nỗi đau sinh thể hơn
là nỗi đau nội tâm. Còn nỗi đau dày vò thường trực Chế Lan Viên trong Di Cảo Thơ là nỗi
đau nội tâm, nỗi đau của con người thơ, con người sáng tạo :
Những kẻ sống thật
Đem đời mình thật
Ra mà chơi trong chữ
Đầu chơi, sau thật
Vờ khóc cho thiên hạ khóc
Hóa ra mình là người đau nhất.
(Ch ơi)
Giờ đây, Chế Lan Viên đã quan niệm một cách toàn diện hơn về cuộc đời về nhà thơ :
cuộc đời không chỉ có niềm vui mà còn có đau buồn ; có mặt sáng, mặt tối; mặt thuận, mặt
nghịch. Con người không chỉ có hạnh phúc mà còn có đau khổ, bi quan, chán nản, bất lực.
Chế Lan Viên đã nhìn thẳng vào cuộc sống và phát hiện ra sự đa chiều đa dạng của nó. Với
thơ trữ tình thế sự, nỗi đau hiện diện đúng mặt mình, trở thành cảm hứng chính của nhà nghệ
sĩ. Không nhận thức mơ hồ về nỗi đau của con người, định dạng nỗi đau và trách nhiệm làm
người của người nghệ sĩ trong thời chuyển mình : "Người nghệ sĩ lại là người đau nhất".
Khát vọng sáng tạo của người nghệ sĩ là vô cùng và họ rất có ý thức về điều đó. Ở thơ
trữ tình sử thi, Chế Lan Viên lam thơ để "làm mặn lòng những kẻ muốn vô tư. Nhưng giờ đây
ông thấy không phải sáng tạo nào cũng hoàn tất, cũng thành công. Còn có cả thất bại, có cả
nỗi đau, nỗi oan khuất, không phải ngẫu nhiên mà hình tượng viên ngọc "kết tinh một đời
76
sóng gió", và hình tượng cô Tấm, "bống bang" oan khuất hay trở đi trở lại trong cảm hứng
thơ Chế Lan Viên :
Không phải nàng Mỵ Châu nộp máu nào cũng thu về viên ngọc
Nhiều giọt máu oan khiên vào bể rồi tan
Khốn nỗi thành ngọc rồi, máu lại không còn đau nữa
Những viên ngọc trong veo quên hết cội nguồn
(Máu Mỵ Châu)
Tại sao hình tượng "Mỵ Châu", "Cô Tấm", "giọt máu oan khuất", "ngọc trai"... cứ trở
đi trở lại trong cảm hứng thơ của Chế Lan Viên ? Cô Tấm - người con gái Việt Nam nết na,
hiền thảo là biểu tượng muôn đời cho cái thiện. Nhưng không phải lúc nào điều thiện cũng
mau chóng thắng cái ác, phải hóa thân đến lần thứ tư, Tấm mới được trở về làm hoàng hậu.
Từ xưa đến nay : chân lý không phải lúc nào cũng vằng vặc giữa trời.
Hình tượng Mỵ Châu và "giọt máu oan khuất" là biểu hiện cho nạn nhân của cái ác.
Hình tượng cô Tấm, "ngọc trai" biểu hiện cho lòng hướng thiện của Chế Lan Viên trong giai
đoạn đổi mới. Ở giai đoạn này, trong truyện ngắn Nguyễn Huy Hiệp, cái ác có tiếng nói của
nó, khuôn mặt của nó, hành động của nó. Và trong tiểu thuyết "Cái đêm hôm ấy đêm gì ?"
của nhà văn Phùng Khắc Bắc, tội ác đã đến từ mọi phía.
Đó là thời buổi mà ta mới bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, những giá trị cũ
không còn có tính tuyệt đối, những giá trị mới chưa thành hình. Những giá trị của buổi giao-
thời rất lòe nhòe. Còn phải gạn đục khơi trong mãi mới tìm được những giá trị chân chính. Cô
Tấm cũng phải bốn lần hóa kiếp đau đớn mới trở lại được làm người.
Cho nên hình ảnh cô Tấm, Mỵ Châu, giọt máu oan khuất, viên ngọc... cũng là những
hình ảnh của nỗi đau cứ trở đi trở lại trong cảm hứng thơ Chế Lan Viên. Đối với Chế Lan
viên, sự hờ hững vô lương tâm trước nỗi đau đớn của người khác là một trong những tội ác,
một biểu hiện phi nhân tính của con người. Thái độ chai sạn, mất cảm giác, "lỳ" đi trước nỗi
đau của kẻ khác là sự bệnh hoạn của tâm hồn, sự chai cứng của trái tim, sự khiếm khuyết của
lương tri con người. Có một hình ảnh về nỗi đau cũng rất ám ảnh và là sáng tạo riêng của Chế
Lan Viên : đó là hình ảnh "Lông nga máu" : tội ác điểm trên màu trắng tuyết của lông nga :
một biểu tượng của sự chưa hoàn thiện của con người.
Chế Lan Viên cũng phản đối thói lạc quan tếu, quan liêu trước nỗi đau của con người.
Ông vạch ra cái phi lý của chủ nghĩa nhân đạo chung chung :
77
Muốn mỗi bài thơ có ích cho nỗi đau người
Mà lại nghĩ ra người đời đều mạnh khỏe
Không có gì đau thương hay sứt mẻ
(Thuốc)
Nhà thơ cộng sản đòi hỏi những trái tim cộng sản, trái tim thơ cần biện chứng và cụ thể
cho tình yêu con người:
Người đau - dù nỗi đau về mình hay đau trong sử
Cũng chỉ vì mình là người Thơ nói cho ra điều đó
(Thuốc)
Và nếu như nỗi đau của sáng tạo có thành công, có trở thành viên ngọc thơ đi chăng
nữa thì sự sáng tạo vẫn không thể đừng, không thể kết thúc ; lại bắt đầu một quá trình sáng
tạo mới : đó là nghiệp chướng, là hạnh phúc, là nỗi đau, là vinh dự của người nghệ sĩ:
Mỗi con trai nhả ngọc một lần thôi
Viên ngọc đầu tiên cũng là viên sau chót
Không như ta sau viên ngọc sau cùng rồi lại làm viên thứ nhất
Đấy là nỗi đau và hạnh phúc của con người
(Ngọc sau cùng)
Không chỉ có cảm hứng về nỗi đau sáng tạo, Chế Lan Viên còn có cảm hứng về nỗi đau
của chính cuộc sống, chính sự tồn tại của con người:
Ngày mai anh chết thế là sớm hay muộn ?
Anh còn sống thế là tai ương hay là hạnh phúc ?
(Câu hỏi Sỗ sàng)
Nỗi đau nằm trong chính bản thân câu hỏi. Con người thơ băn khoăn về chính khả năng
của mình, năng lực của mình, sự tồn tại của mình. Sự băn khoăn đó, câu hỏi đó lại chính là
một nỗi đau về sự tồn tại của con người, giống như Hamlet hỏi: "Tơ be or not to be".
Nỗi đau của nhà thơ trong Di cảo thơ là nỗi đau của con người tư tưởng. Cảm xúc đau
thương khiến thơ ông có một sức nặng, sức ám ảnh lớn. Nỗi đau của ông có trong thời gian,
nằm sâu trong thời gian, lớn lên và trường tồn cùng thời gian. Đó là nỗi đau của nhà nghệ sĩ -
chiến sĩ khi cái đẹp chưa được hoàn thiện. Nỗi đau ấy thuộc về sự chiêm nghiệm cuộc sống,
78
chiêm nghiệm những điều mà con người phải gặp, phải hứng chịu. Nó có lúc là nỗi đau thời
cuộc :
Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu
( Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh)
Nó có thể là nỗi đau vì cái đẹp bị cô đơn, bị chà đạp :
Tâm hồn ế rồi ! nhất là cái loại cô đơn
(Đổi nghề)
Có khi lại là nỗi đau cho những giá trị cũ bị lãng quên :
Anh đến sau đừng nhỏ vào đấy giọt buồn cho nó bầm đen
(Giọt buồn)
Nỗi đau gắn liền với đời thơ Chế Lan Viên đến mức ông có cảm thức rất lạ về hình ảnh
của chính mình mai sau. Ông hình dung mai sau ông cũng là một nỗi đau, không chỉ đau ở
kiếp này, mà là một khối đau ở kiếp sau và hình ảnh điển hình của nó là hạt lệ :
Ta muốn ta mai sau là hạt lệ
Khóc trong lòng hậu thế cũng đau thương
(Khi cây chết)
Cảm hứng của Chế Lan Viên về nỗi đau là thông điệp kêu gọi điều thiện, như một lời
kêu gọi bảo toàn nhân tính, cố không cho sự băng hoại đạo đức đáng báo động của xã hội len
lỏi vào thơ, sự nghèo đói, mất mát, túng thiếu không làm mất đi những giá trị làm người chân
chính.
Cảm hứng về nỗi đau chính là cảm hứng nhân văn hiện đại, nó mang giọng buồn đau và
đây là nỗi đau cao quý, đau vì những điều phi nhân tính, nỗi đau xuất phát từ tấm lòng xót xa
yêu mến con người, muốn cho cuộc sống của con người được hoàn thiện.
3.2.3. Cảm hứng thương cảm con người sáng tạo:
Bên cạnh cảm hứng về nỗi đau, ta còn thấy Chế Lan Viên có cảm hứng thương cảm
thương tiếc con người sáng tạo khi ở tư thế sắp "từ thế". Chính ở tư thế này, khi cảm nhận
thời gian hữu hạn của đời người sắp hết, lời thơ nào cũng dường như là lời nói cuối cùng với
cuộc đời. Giọng thơ trở nến tha thiết và day dứt lạ thường.
79
Từ nhỏ Chế Lan Viên đã quen với đạo Phật, hai thân ông lập bàn thờ Phật trong nhà,
cho nên tinh thần "sắc sắc không không" hư vô của đạo Phật không xa lạ gì với ông. Khi cảm
thấy mình sắp phải lên "chuyến xe không có khứ hồi", Chế Lan Viên không hốt hoảng mà
giọng thơ vẫn bình tĩnh, trầm lắng nhưng không kém xót xa day dứt:
Giữa ba vạn sáu ngàn ngày chóng mặt
Anh ở đây chốc lát
Vui buồn khoảnh khắc
Rồi anh ra đi.
( Cây và người)
Giọng thơ xót xa day dứt ở chỗ nhà thơ đã đồng nhất "ba vạn sáu ngàn ngày chóng
mặt" bằng "chốc lát", bằng "khoảnh khắc". Thu gọn cái đa số vào cái tối thiểu để làm nổi bật
sự ngắn ngủi, quá ngắn ngủi của đời người. Chính hình ảnh đó làm người đọc xót xa day dứt,
chứ còn âm điệu bài thơ vẫn có vẻ ung dung bình tĩnh, nhẹ nhàng. Nhưng hình ảnh của nó thì
thật đáng sợ. Về mặt khoa học thu gọn như vậy không ổn, nhưng về mặt qui luật tâm lý thì
điều đó lại đúng với tất cả những con người đã đi qua cuộc đời và đang ở đoạn cuối con
đường đời. Điều đó rất ám ảnh, day dứt người đọc. Chế Lan Viên nắm bắt rất giỏi các qui
luật tâm lý của đời người. Chính vì vậy mà giọng thơ nhẹ nhàng nhưng sức nặng câu thơ vẫn
là ngàn cân. vẫn là những qui luật tâm lý mang lại giọng thơ triết lý ung dung sâu lắng cho
Chế Lan Viên.
Cảm xúc của Chế Lan Viên ở Di cảo thơ là như vậy, cảm xúc nó không đến ồn ào từ
vinh quang, từ chiến thắng, mà nó đến từ những trải nghiệm đường đời của chính bản thân,
nó lặng lẽ mà day dứt, nó không nguôi biến động giày vò trong tâm người sáng tạo và truyền
sang cho người cảm thụ các biến động giày vò ấy bằng các âm - thanh trắc (mặt -lát - khắc)
→ âm thanh chói lên tạo nên một nỗi niềm như một vết cắt vô hình vào tâm trí người đọc.
Về cái chết của chính bản thân nhà thơ, Chế Lan Viên viết:
Anh chỉ là ngọn đèn cỏn con
Bỗng dưng phụt tắt
Thế là tối om
(Số phận)
80
Cảm hứng thương cảm đến từ cái "bỗng dưng", "thế là" ấy. Cuộc đời thật là chông
chênh, mỏng manh, vô thường quá. Chính hình ảnh tượng trứng khiêm tốn "ngọn đèn cỏn
con" ấy đã gợi nên sự mong manh, nhỏ nhoi của số phận. Lại còn thêm sự bất ngờ "bỗng
dưng phụt tắt". Và thế là vô thường, "thế là tối om", kết quả một số phận sao mà chua chát ?
Sao mà hẩm hiu và chông chênh đến vậy ? Giọng thơ đầy thương cảm xót xa, nghẹn ngào.
Vậy khi đã ở đằng sau cái "tối om" ấy, Chế Lan Viên có thái độ như thế nào đối với
cuộc đời:
Đến ngày anh ở trong vô hình - bóng tối
Bên kia, bên kia anh quay đầu nhìn lại
Ngũ sắc cuộc đời chói lọi
Mà anh trở về thì đã vô phương
(Đến ngày)
Chỉ một cái nhìn từ thế giới bên kia "quay đầu nhìn lại", ta thấy Chế Lan Viên yêu cuộc
sống biết bao, cuộc sống vẫn là "ngũ sắc cuộc đời chói lọi". Dù trong cuộc sống anh chỉ là
"nhà thơ cưỡi trâu", là "tai ương dồn dập đánh vô hồi", là "đau cái kiếp người", là "để mang
thương-tích". Cuộc sống "tô trò chơi", "là hạt móc", "tó dòng sông", "là tiếng khóc", "là vì
sao lạc phương trời", là đa đoan, đa sự... thì cuộc sống mà mẹ cha cho ta ấy vẫn là "ngũ sắc
cuộc đời chói lọi" vì ta chỉ có nó duy nhất một lần. Và hình ảnh cảm động nhất là hình ảnh
"vô phương trở về". Có lẽ trong lời người sắp "từ thể" nói với cuộc đời còn lại, hình ảnh "vô
phương trở về" này là hình ảnh cảm động nhất, da diết nhất, thiết tha đến cháy lòng nhất. Chế
Lan Viên hoàn toàn tỉnh táo để biết rằng cuộc ra đi ấy "vô phương trở về". Nỗi nhớ tiếc cuộc
đời nằm ở chính hình ảnh ấy, đó là nỗi nhớ tiếc xót xa quặn thắt trong hồn. Từ "vô phương"
có một vẻ bất lực, tuyệt vọng. cảm xúc đau thương lên đến tột đỉnh khi Chế Lan Viên nghĩ
đến sự quên lãng :
Chỗ anh ra đi
Để lại hố thẳm
Vực xoáy
Vết thương không có đáy
Nhưng rồi đời lấp ngay
Không ai nhớ nữa
81
( Chỗ anh ra đi)
Nhà thơ có rất nhiều câu thơ nói về sự quên lãng của người đời đối với thơ, đối với
người sáng tạo. Thế nhưng với tâm thế vội vã, ý chí sáng tạo và tình yêu cuộc sống mãnh liệt,
Chế Lan Viên vẫn cố sáng tạo không ngừng :
Tất cả bình minh đều hứa hẹn, chỉ trừ bình minh ấy
Cái bình minh phản thùng, phản chủ, ác ôn !
Mà thôi, đừng vội lên án hạt sương và tiếng gà kết liễu
Có khi giã từ giữa ánh sáng đó, khi đúng ngọ, lúc hôn hoàng
Hơn thế , anh đã vĩnh biệt từ lúc ngòi bút trong thơ anh bất lực
Từ lúc nhựa anh khô kiệt, thấy hoa mai mà không biết đấy xuân về
(Giờ báo tử)
Phẩm chất nghệ sĩ của Chế Lan Viên hiện rất rõ trong bài thơ này, với ông, khi hết năng
lực sáng tạo tức là người nghệ sĩ đã chết, chỉ còn tồn tại con người sinh vật. Còn con người
nghệ sĩ đã chết.
Các bài thơ thương cảm con người sáng tạo sắp "từ thế''' có giọng bi thương, da diết,
day dứt. Đó là nỗi bi thương của con người quá yêu cuộc sống, quá yêu thơ, có ước mơ lớn
lao, tự cảm thấy chưa hoàn thành được "bài thơ cuộc đời" mà đã phải đi về thế giới bên kia.
Cho nên nỗi bi thương đó không tuyệt vọng, không ảm đạm bởi nhà thơ vẫn có cách níu vào,
bám vào cuộc đời bằng con đường sáng tạo thơ - Sáng tạo ra những "viên ngọc" cho đời:
"Vạch câu thơ sáng qua sự thế rối tinh"
(Lý)
Bao nhiêu cảm xúc cho ngày từ thế : đau đớn, lo âu, chấp nhận bình thản, nhắn gửi, xót
thương, nuối tiếc, tha thứ... Chế Lan Viên đều đã để lại đầy đủ trong thơ vì vậy giọng điệu ở
đây rất nhiều cung bậc khác nhau nhưng giọng nổi bật nhất là giọng thiết tha đau đáu, thiết
tha với cuộc sống, với thơ ; vì thật ra, chẳng có ai lại vui sướng khi phải chia tay với cuộc
sống.
3.2.4. Cảm hứng tình yêu:
Số bài thơ về tình yêu trong ba tập Di cảo thơ không nhiều. Chỉ có hai mươi tám (28)
trên tổng số 568 bài thơ, nhưng nó có chiều sâu nội tâm thăm thẳm.
82
Thực ra cảm hứng tình yêu của Chế Lan Viên ở thơ trữ tình sử thi cũng có chiều sâu
nhưng nó vẫn thiên về hướng ngoại hơn là hướng nội.
Ví dụ các bài "Tình ca ban mai" hoặc bài "Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể " :
Cái rét đầu mùa anh rét xa em
Đêm lạnh chan chia làm hai nửa
Một đắp cho em ở miền sông bể
Một đắp cho mình ở phía không em
Ở hai bài thơ này, cảm xúc đến từ những điều có thật: xa nhau, mong nhớ, đắp chăn...
Còn ở Di cảo thơ cảm xúc đến từ những dự cảm sâu lắng trong tâm của những con
người sắp vĩnh biệt nhau :
Chúng ta sẽ chào nhau bằng hạnh phúc quét qua trời một buổi.
Rồi em đi về phía hư không, anh đi về phía Trường xà
( Chu kỳ sao Chổi)
Tâm thế chào nhau để đi về cõi vĩnh hằng ấy tạo nên cảm xúc nhói buốt sâu lắng về
tình yêu của những con người sắp đi về phía "hư không". Nó làm nổi bật lên nỗi vô thường
của tình yêu : "hạnh phúc quét qua trời một buổi". Ta còn gặp những nỗi niềm lo âu, trống
vắng, xót xa này ở bài "Chung một ngọn đèn" :
Rồi anh cách xa em như hai thiên hà, thiên thể cách trùng
Đo từ anh đến em dễ triệu năm ánh sáng
Tìm hương em phải qua vạn khoảng trời vô hạn
Đâu như thở một bóng đèn chung, một bóng hoa chung.
Ở đây, tình yêu đằm thắm "một bóng đèn chung, một bóng hoa chung" được đặt đối
trọng với "triệu năm ánh sáng, vạn khoảng trời vô hạn" để càng thêm quý yêu cái thuở "một
bóng đèn chung" hơn bởi vì cái thuở ấy chỉ là khoảnh khắc so với thời gian vô tận kia. Vậy
nên càng phải trân trọng nhau vì sự cách xa vĩnh biệt kia là mãi mãi.
Cảm hứng về tình yêu về nỗi nhớ của Chế Lan Viên trong Di cảo thơ có một cái gì đó
bất an, khắc khoải:
83
Tình yêu chập chờn như cơn bão rớt
Cứ nắng rồi mưa, rồi tạnh, rồi mưa thảng thốt
Em thoắt ở, thoắt đi, thoắt về, thoắt lại xa anh
Bao giờ cho tình yêu là một mảng trời xanh
(Bão rớt)
Nhà thơ còn có cảm hứng lo âu về sự lãng quên trong tình yêu :
Sông Tương tư còn có tên Bến Lú
Cả một đời anh qua sông một bữa
Sông Tương tư, suốt đời anh sẽ nhớ
Bến Lú mà, em sẽ chóng quên thôi
( Sông Tương tư)
Cảm hứng về nỗi nhớ trong thơ Chế Lan Viên không quay quắt như Xuân Diệu, không
xả thân như Xuân Quỳnh. Mà nỗi nhớ ấy nó sâu thẳm tình người và trọn vẹn nghĩa tình. Khi
đặt tình yêu vào thế chia lìa mãi mãi, Chế Lan Viên có dịp diễn tả sự trọn vẹn, sự sâu thẳm,
sự vô thường của tình yêu :
Rồi ta sẽ cách xa nhau như hai tượng gỗ trong chùa, siêu hình và bất tử.
Cùng hít một mùi hương, cùng nghe một tiếng chuông
Mà gỗ anh và gỗ em cùng chết khô và để tróc sơn dầu
Chả lẽ anh lại trao cho em một cành dương và chuỗi hạt
Nhắc lại cái ngày ta làm người xa nhau bởi mây trời nhiều nước và
chung nhớ nhau bằng một màu mây.
(Tượng)
Ở đây Chế Lan Viên đặt tình yêu vào sự bất tử giả tạo để chứng minh rằng chính cuộc
đời trần cấu của chúng ta, chính tình yêu của con người dù đa đoan, đa sự, vẫn là đẹp nhất.
Giọng thủ thỉ tâm tình ở đây rất thích hợp để diễn tả tình yêu sâu thẳm và trọn vẹn của Chế
Lan Viên.
Dù thơ về tình yêu trong Di cảo thơ không nhiều, nhưng chất nhân văn thấm đẫm trong
những bài thơ tình yêu đó, làm cho chúng ta sống có ý nghĩa hơn, có trách nhiệm hơn trong
cuộc sống và tình yêu mà chúng ta đang có. Thơ tình yêu của Chế Lan Viên cũng đã làm tròn
84
sứ mạng của mình là làm phong phú, giàu có thêm lên những con tim còn đang yêu, còn đang
đập.
3.2.5. Cảm hứng về thơ và nghề thơ:
Anh đi qua trái đất để lại chừng thơ ấy
Hãy thương anh, anh nào có chi nhiều
Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy
Trái tim nghèo nhưng cũng đã tin yêu
(Gởi)
Chế Lan Viên là một nhà thơ bẩm sinh, năm 16 tuổi Chế Lan Viên đã có một quan
niệm rất độc đáo về thơ và nhà thơ : "Thi sĩ không phải là Người. Đó là Người Mơ, Người
Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu ... (Điêu tàn)
Cùng với thời gian, quan niệm của Chế Lan Viên về thơ và nhà thơ ngày càng trở nên
chín chắn. Thời kỳ 1945 - 1975, ông quan niệm thơ phải có ích. Thơ phải bắt nguồn từ hiện
thực cuộc sống - Quá trình sáng tác là quá trình nghiền ngẫm, nung nấu để biến các đối
tượng-khách quan thành nhu cầu bộc lộ bên trong, là sự thai nghén ấp ủ, sáng tạo lại cuộc
sống bằng vẻ đẹp của hình tượng :
Anh nghe cái mặn của đời đang độ kết tinh
Nó chưa thàn hình, anh cho nó có hình
Chưa thành hạt, anh làm nên hạt
Rồi trả tận tay người cùng với máu anh
(Nghĩ về thơ)
Tầm vóc nhà thơ thời chống Mỹ trong thơ Chế Lan Viên rất hào hùng oanh liệt:
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng
và hạ trực thăng rơi
(Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Ở những năm 80, Chê Lan Viên có sự đổi mới quan niệm về nhà thơ. Vai trò và vị trí
cao đẹp của nhà thơ trước đây đã nhường chỗ cho vị trí khiêm tốn đời thường của bao điều
nghịch lý :
85
Anh là kẻ rất thấp mà, là chổi thôi mà
Sao lại bắt anh quét trời như những chùm sao
(Làm sao)
Trước đây, Chế Lan Viên phấn đấu để thơ mình thành vũ khí, mình là nhà thơ chiến sĩ
thì nay ông khiêm tốn và thành thật nhận khuyết điểm về thực trạng mình và thơ mình :
Tôi chưa có câu thơ nào
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười
... Ôi văn chương có lỗi với bao người
(Ví dụ)
Cảm hứng về thơ của Chế Lan Viên về sau gần với sự thật, gần với "qui luật của muôn
đời" hơn. Với Chế Lan Viên, thơ là "Cộng đời anh cùng vô vàn cái không phải nó" (Chống
lại với thơ Đường)
Mỗi câu thơ là trò chơi chẵn lẻ ú tim được mất
(Rủi may)
Rõ ràng nhà thơ đã nhìn nhận một cách khách quan vai trò khó khăn của thơ trong nền
kinh tế thị trường. Có lúc nhà thơ hoài nghi về thời điểm xuất hiện của thơ và nhà thơ so với
sự vô tận của thời gian :
Thơ là tiếng hú lên vô vọng giữa bể thời gian trắng xóa
Sau hú xong, tuyết lại lạnh lùng hơn
Tiếng hú chìm nghỉm đi trong tuyết
Nếu đất là thi sĩ thì sao ?
Đấy là người thì sao ?
Nếu không có tiếng hú lúc ấy thì hơn hay có thì hơn ?
(Tiếng hú)
Rõ ràng nhà thơ đã có nhiều điểm nhìn khác nhau để nhìn nhận về bản thể thơ. Có
những lúc thơ rất thật, thật như sử :
Biết rằng quên nên họ làm thơ chép sử
86
(Quên)
Vạch câu thơ sáng ngời qua sự thế rối tinh
(Lý)
Cũng có lúc nhà thơ thấy mình bất lực trong sáng tạo, và thơ chỉ là ảo ảnh :
Thơ như con nai trắng, anh không bao giờ gặp trong cuộc đời thường nhật
(Tìm)
Với Chế Lan Viên sáng tạo là một cuộc chơi hoàn toàn bất ổn :
Như cái trò bập bệnh
Sống được là vì không hoàn toàn
Là luôn ở thế chênh vênh
Câu thơ phải luôn bất ổn
Luôn xôn xao
(Bất hoàn toàn)
Chế Lan Viên cũng có lúc nói lên cái xôn xao linh động, cái lung linh huyền diệu của
thơ :
Thơ là chưa bay mà đã đến
Là đang yêu bỗng giã từ
... Là hoa sen cười nửa miệng mà Chân Như
(Quan niệm thơ)
Nhưng thơ cũng còn khốn khổ, còn điêu linh, thơ cũng phải đi ăn xin bên đường :
Ta lôi thơ xuống bùn chạm vào đất đen
Nói chuyện thường ngày, vặt vãnh quàng xiên
Lột trần áo bào và mũ triều thiên
Thơ cầm gậy đi ăn xin ở bên đường nhân loại trẩy
(Thơ thế kỷ 21)
Lý luận về thơ của Chế Lan Viên trong Di cảo thơ đạt đến sự tài hoa, nhuần nhuyễn,
nhất là khi ông lý luận về sức sống của tác phẩm so với thời gian :
87
Nguyễn Du có ngờ không ?
Người ta dịch vầng trăng ông
Qua các biên thùy ngôn ngữ
Ông có bao giờ nghĩ
Cỏ non thơ ông xanh
Ra ngoài thế kỷ vẫn còn xanh
(Kỷ niệm Nguyễn Du)
Sự so sánh ở đây là tư duy chồng lên tư duy. Từ "xanh" ở dòng cuối tương đương với
sự bất tử. Một sự chuyển nghĩa từ để nói về sức trường tồn của tác phẩm với thời gian.
Về mối quan hệ giữa tác phẩm với người đọc, Chế Lan Viên viết :
Cách thế kỷ ông vẫn chấn thương ta với làn mây bạc
Và câu Kiều đau thì nhân loại cũng đau theo
(Kỷ niệm Nguyễn Du)
Chỉ có Chế Lan Viên mới sử dụng được hình ảnh thơ sáng tạo như vậy để nói về mối
quan hệ giữa tác phẩm văn chương với thời gian và với bạn đọc.
Còn về mối quan hệ giữa nhà thơ và bạn đọc, Chế Lan Viên viết:
Đọc thơ, có người như nhà thực vật
Đọc mùa quả, hoa chói mắt
Có người như nhà địa chất
Đọc ngầm cái gì ở sâu dưới đất
Cái mạch ngầm văn bản phía sau
Kẻ đọc dương, người lại nghe cái âm âm
Cái nhạc trưởng chỉ huy trong tiềm thức
(Đọc thơ mạch ngầm văn bản)
Tư duy hình tượng của Chế Lan Viên đã thể hiện sự tiếp nhận sáng tạo độc đáo của
người đọc, tầm đón nhận của các thế hệ đọc, sự đối thoại với tác giả, sự phản tiếp nhận (kẻ
đọc dương, người lại nghe cái âm âm).
88
Cảm hứng về lý luận thơ của Chế Lan Viên rõ ràng là khúc triết, tài hoa và sáng tạo. Nó
có giọng điềm đạm khúc triết về một vấn đề cực kỳ khó. Có thể nói Chế Lan Viên đã thành
công khi lý luận về thơ bằng thơ, mở ra con đường rộng thênh thang cho các nhà thơ trẻ khác
tìm tòi sáng tạo.
3.2.6. Cảm hứng về chữ vô:
Chế Lan Viên nhiều lần nói đến chữ Vô trong Di cảo thơ (Hư vô, Hư không, hư danh,
vô thường ...). Nhưng không nên hiểu đơn giản chữ "Vô" là "vô thường''' của đạo Phật, mà
nhìn theo góc độ văn chương, chữ "vô" của Chế Lan Viên có nhiều ý nghĩa đặc biệt:
Chả còn gì sủi tăm cái hồ lãng quên anh ném câu thơ vào đó
May ra thế kỷ sau, từ viên sỏi thơ anh sủi lên bọt như máu con bông bống
"Bống bống bang bang! " sẽ có người đến bên hồ và gọi thơ anh
Câu thơ trồi lên, đáp lại tiếng gọi mình
Cũng có thể không có giọt máu nào, con bống chết rồi, không ai gọi cả
Và anh mất cả chì lẫn chài ở giữa vô danh
(Sủi tăm)
"Vô danh" trong bài thơ nghĩa là không có dấu ấn, không có tên tuổi trong lòng nghệ
thuật, một sự thất bại của tài năng. Vô danh ở đây đồng nghĩa-với lãng quên và bất lực. Và nó
khác với "vô danh" vĩnh hằng cao cả của các anh hùng liệt sĩ.
Hàng nghìn mộ cát vô danh, vô danh, vô danh
Một tấm sắt sơn đỏ thời gian xóa nhòa tên tuổi
(Mộ cát vô danh)
Ở bài thơ "Ví dầu" Chế Lan Viên có nhắc đến "hư không"
Ví dầu ngày mai bể cạn
Thì đây viên ngọc sau cùng
Kết tinh một đời sóng gió
Dâng đời ở mé hư không
(Ví dầu)
89
"Mé hư không" ở đây không phải là vô nghĩa lý, là không có gì mà "hư không" ở đây là
một không gian thẩm định nghệ thuật và sự tinh lọc, "mé hư không" là mé khách quan, siêu
việt, cô đơn, là sự "vô tư" của nghệ thuật. Rõ ràng là cảm hứng về chữ "vô" của Chế Lan
Viên biến hóa rất tài hoa.
Có lúc Chế Lan Viên chuyển sang khái niệm "vô ngã vô danh" của Phật học :
Anh tồn tại mãi
Không bằng tuổi tên mà như tro bụi
Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại chồi lên
(Từ thế chi ca)
Rõ ràng cả một hệ thống triết lý về chữ "vô" của Chế Lan Viên cho thấy ông có cảm
hứng tỉnh táo, khách quan về cái chết, thể hiện qua giọng thơ triết lý nhẹ nhàng, bình thản.
Ông không khóc than sầu não cho cái chết mà bình thản chấp nhận qui luật của tạo hoá. Thực
ra sống và chết là qui luật tự nhiên của người đời. Có cõi sinh để con người đến và có cõi tử
để con người ra đi. Chế Lan Viên chỉ đau lòng vì chết là kết thúc một quá trình sáng tạo mà
sáng tạo chính là lẽ sống của nhà thơ. Nỗi đớn đau không nghiêng về qui luật sinh học mà
nghiêng về qui luật tâm lý : Sự chấm hết một quá trình sáng tạo nghệ thuật. Dù là nói về sự
sống hay cái chết, các bài thơ của Chế Lan Viên đều toát lên ý nghĩa nhân bản : thể hiện tình
yêu say đắm thiết tha của ông với cuộc đời trần gian.
Nhà thơ Vũ Quần Phương trong bài viết nhân kỷ niệm mười năm ngày nhà thơ Chế Lan
Viên qua đời (1989 - 1999) có nhận xét : "Hai năm cuối đời Chế Lan Viên tự chiêm nghiệm
lại cuộc đời trước cái chết. Điều đó có ý nghĩa lớn, nó dạy ta nhiều lắm. Dạy cách nhìn lịch
sử, dạy cách sống ở đời. Mỗi bài thơ như một lời nói cuối trước vành móng ngựa của thời
gian. Không bi quan. Không lạc quan mà là chiêm nghiệm. Những chiêm nghiệm trụi trần,
không màu mè, mỹ tự, nhưng sâu vì nói tới lõi của cuộc đời và nặng vì đó là sự sống của
ông" (Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 7/6/1999).
Tất nhiên là Di cảo thơ cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót vì nó ra đời không
theo chủ quan của tác giả. Tâm tư, cảm xúc ở đây khá bề bộn mà cốt lõi là suy ngẫm về lý
tưởng, quan niệm sống, hoạt động nghệ thuật. Có những vấn đề ta có thể không hoàn toàn
đồng ý, đồng tình nhưng dễ dàng đồng cảm với ông. Trước một cuộc sống đang chuyển biến
mạnh mẽ với nhiều đổi thay ghê gớm, trong một bối cảnh thế giới đầy những biến động, đảo
lộn phức tạp thì những suy nghĩ, cảm xúc không thể nào lại giản đơn. Nếu Chế Lan Viên có
chút nào bối rối, chút nào khó hiểu, mơ màng về nhận thức hoặc có tâm trạng lo âu, bực bội
90
hay cảm giác cô đơn cũng là điều dĩ nhiên trong hoàn cảnh ấy, và cũng không phải là cá biệt,
đó là tâm trạng chung buổi giao thời.
Tất cả những cảm hứng thơ chủ đạo của Chế Lan Viên ở giai đoạn cuối đời đều nói lên
"điệu hồn" của thơ ông : trung thực nhìn thẳng vào cuộc đời với thái độ tỉnh táo, có phần
thanh thản nhẹ nhàng vì nắm được qui luật của cuộc sống. Ngay cả bài thơ nói về cái chết,
nói về lò thiêu, hình ảnh thơ vẫn rất nhẹ nhàng, giọng thơ điềm đạm :
Anh không còn ở lại yêu hoa mãi được
Thiêu xong, anh về các trời khác cũng đầy hoa
Chỉ tiếc không còn tình yêu ở đó
(Từ thế chi ca)
Từ "về" là uyển ngữ, làm sắc thái đau buồn giảm nhẹ, giọng thơ trở nên bình thản, nhẹ
nhàng. Hình ảnh "trời khác cũng đầy hoa" không phải là hình ảnh bãi tha ma rùng rợn trong
Điêu tàn mà là hình ảnh thể hiện thái độ bình tĩnh đón nhận qui luật, chấp nhận sự hữu hạn
của đời người. Khi đã biết đời người là hữu hạn thì nên sống một cuộc sống có ý nghĩa đèn
từng tích tắc trong cái số phận ngắn ngủi của anh: Không để cho một tích tắc nào trôi qua vô
ích cả. Còn "danh vọng chỉ là ầm ào, vinh quang chỉ là xí xố" mà thôi. Di cảo thơ nhắn nhủ
với ta điều đó.
3.3. Nhân vật trữ tình:
Nhân vật trung tâm trong "Di cảo thơ" là chính bản thân nhà thơ đang trăn trở, nghĩ
suy, tìm tòi bản thể con người và bản thể của thơ. Ông tìm mọi cách trả lời tất cả mọi vấn đề
vĩnh hằng của con người và của thơ không theo cảm quan sử thi mà theo cảm hứng đời
thường. Có nhiều ý nghĩ, cách nghĩ của ông bây giờ ta mới gặp. Nó bổ sung những điều ông
nói, có khi nó còn đính chính quan niệm về đời, quan niệm về thơ của ông trước kia :
Ôi con đường không ra đường của kẻ tìm thơ
Câu thơ không ra thơ của kẻ tìm đường.
(Tìm đường)
Chưa bao giờ ta thấy nhà thơ thành thực, tỉnh táo đến như vậy. Thông thường tài năng
và danh vọng của thành công hay làm che mờ sự thật. Thói quen được suy tôn làm người ta
thỏa mãn và lười biếng đi tìm cái mới. Thế nhưng giờ đây ở vị trí đứng mới : "đứng trong
cuộc đời sóng gió", ông đã phát hiện ra bao nhiêu là sự thật:
91
Nửa thế kỷ tôi loay hoay
Kề miệng vực
Khi tôi cưỡi trên mây
Thì máu người rên trên đất
Mẹ hỏi tôi
Con lên cao mà làm chi
(Tìm đường)
Ông thấy hoạt động sáng tạo bao giờ cũng là hành động cheo leo "kề miệng vực". Với
sự khiêm tốn và chân thành, ông chỉ dám nghĩ rằng, hoa ông "hái trên trời" không xa rời hiện
thực mà chính là "nước mắt dưới xa kia". Nhưng có lẽ chính ông cũng không biết rằng hoa
ông "hái trên trời" chính là lau nước mắt cho đời, chính là lời kêu gọi bảo toàn nhân tính
vang suốt trong ba tập Di cảo thơ. Đó cũng chính là những vấn đề của triết học.
Sau nửa thế kỷ làm thơ, giờ đây ông vẫn dũng cảm đi tìm cái mới, sao cho thơ vào đến
lõi của đời chứ không bận bịu với "vinh quang ầm ào danh vọng xí xố".
Nhân vật trữ tình là nhà thơ giờ đây tìm về với sự thật, nhà thơ có cái vẻ ung dung tự tại
của một con người trải qua một chặng đường dài trăn trở, nghĩ suy chiêm nghiệm về cuộc
sống và về thơ. Cái cốt cách đó không phải tự dưng mà có, nó có bệ tì là các tầng văn hóa của
cuộc đời và tri thức "tắm hồn ta như các tầng văn hóa phủ lên nhau" (Đừng tuyệt vọng) vì
thế mà nó phát hiện được nhiều chiều của cuộc sống:
Trong mùi hương còn mùi hương còn giấu
Trong hồn ta còn trùng điệp hồn ta
(Trong hổn)
Văn học bao giờ cũng gắn liền với những cuộc lãng du của tâm hồn. Cuộc lãng du của
Chế Lan Viên về "miền quên lãng", về "Xứ không màu" ... trình bày một cảm quan, một dự
cảm của ông .... Chứng tỏ ông đi trước cái chết, nhìn trước cái ngày cuối cùng, giờ phút cuối
cùng của đời mình.
Vì có một cảm quan trước về sự hữu hạn đời người như vậy, nên ông ở trong tâm thế đi
tìm những lời giải đáp về những vấn đề muôn đời của thơ của cuộc sống. Giờ đây, nhà thơ
không cung cấp những lời giải đáp phù hợp với các công thức và chuẩn mực có sẵn. Những
giải đáp của ông qua hệ thống triết lý của ông, cho ta thấy tất cả mọi góc cạnh của đời sống
92
phức tạp và đa diện, đa đoan và góp phần thiết lập bầu không khí đạo đức tinh thần lành
mạnh. Ông thể hiện năng lực tự tách ra khỏi bản thân mình để nhận thức chính mình một
cách khách quan, tra vấn mình một cách đau đớn về số phận và ý nghĩa cuộc sống, "bản thể
thơ và sự tồn tại của thơ. Ông nhìn vào mình để thấy khuôn mặt thật của mình, ánh sáng thật
của tâm hồn mình và những hạn chế, khiếm khuyết có thật.
Sự thành thật vốn có của Chế Lan Viên với Đảng, với Cách mạng giờ đây phát triển trở
thành sự thành thật đối với mọi vấn đề của cuộc sống, thành thật với thơ và chính tâm hồn
mình.
Nhân vật trữ tình giờ đây không "hát mê say" những khúc ca hùng tráng ca ngợi Tổ
quốc và sức mạnh của nhân dân, mà giờ đây ông thủ thỉ tâm tình về muôn mặt đời sống, đánh
thức tâm trí độc giả cùng thao thức trăn trở với những vấn đề mà ông nghĩ suy. Ông không
còn chỉ là khách tình si của cái đẹp, mà ông muốn đào sâu đến tận cùng bản chất của cái đẹp,
để làm cho cái đẹp tồn tại vĩnh viễn, ông muốn sáng tạo những bài thơ - viên ngọc vĩnh cửu -
để lại mãi mãi cho đời, có ích cho đời.
Vì đã ở giai đoạn cuối của cuộc đời nên cảm thức thời gian đối với nhà thơ lúc này trở
nên đặc biệt ám ảnh. Thời gian thể hiện ở nhiều cung bậc thể hiện tư tưởng của nhà thơ cực
kỳ phong phú :
"Thời hạn đi tìm của anh hết rồi mà bờ bến tít mù xa"
(Tìm thơ)
"Thời hạn đi tìm" là mô-tif của truyện cổ tích. Trong các truyện cổ tích vua thường ra
thời hạn đi tìm vật quý để các chàng trai đến cầu hôn công chúa thể hiện tài năng và lòng
dũng cảm tìm về làm lễ vật cầu hôn.
Chế Lan Viên suốt đời chỉ cầu hôn thơ, đúng hơn là cầu hôn với sự bất tử của thơ. Và
"thời hạn đi tìm" không do một nhà vua nào qui định mà do cuộc sống qui định thời gian "đi
qua trái đất" của anh sắp hết.
Là con người khiêm tốn, ông thấy đỉnh thơ ca của mình vẫn ở "bờ bến tít mù xa" mà
không biết rằng bản thân mình đã nhiều lần lên đến đỉnh. Nhiều đỉnh cao, đẹp và vững chãi.
Một niềm vinh dự cho nhà thơ là Di cảo thơ II đạt giải thưởng về thơ của Hội nhà văn Việt
Nam 1993. Và năm 1996, Chế Lan Viên là một trong bốn nhà thơ lớn của Việt Nam được
nhận giải thưởng cao quý - giải thưởng Hồ Chí Minh.
93
Trong Di cảo thơ, Chế Lan Viên hay triết luận về cái có hạn, cái bất cập, cái không may
rất trần đời, cái hữu hạn của đời người, cái cảm nhận về sự bất lực :
Ta chạy một đời không dứt
Có hộc tốc chạy đến hết chân trời cũng là đồ bất lực
Ta hiểu đó là sự cảm nhận bất lực, bất mãn của người đặt yêu cầu rất cao với mình và
có khát vọng rất cao với đời. Càng có ý thức cao với mình càng dễ xót xa, cho nên cảm hứng
buồn và cô đơn là cảm hứng có thật trong Di cảo thơ. Có những bài thơ như bài "Tháp
Bayon" ông viết bằng trí thông minh nhưng là trí thông minh của nỗi đau, của niềm nhức
nhối. Nên người đọc thấy đau cho số phận, cho kiếp người. Quả thực, xét về ý nghĩa triết học,
con người có đến muôn nghìn bộ mặt giấu bên trong, không phải lúc nào cũng thể hiện tất cả
ra được.
Cũng cần phải nói thêm một điều rằng, khi trở về với đời sống bình thường, đời sống
tâm linh của Chế Lan Viên có phần nào trùng với sự giải thoát của cõi Phật. Bởi vì nhà thơ
quá đỗi yêu cuộc sống mà đời người thì lại ngắn ngủi hữu hạn nên trong tâm linh ông, trong
ước mơ của ông về cuộc sống ở "Xứ không màu" có một phần nào đấy trùng với sự giải thoát
của cõi Phật. Nhưng ta cũng phải thấy rằng những hình ảnh thơ mà nhân vật trữ tình cảm
nhận mai sau ông sẽ trở thành là: "trời xanh, chòm mây bay khắp bốn phương trời, một bông
hoa nở bừng, một ngọn cỏ mùa xuân, một hạt nắng, con ong hút nhụy ..." là những hình ảnh
mang mã thơ truyền thống nhưng được lồng ý, tình mới của Chế Lan Viên. Nghĩa là cảm
nhận của Chế Lan Viên về thế giới bên kia đầy màu sắc thơ : Nó biểu hiện thái độ bình thản
chấp nhận qui luật thời gian, qui luật cuộc sống. Khi nhận xét về Di cảo thơ của Chế Lan
Viên, Võ Tấn Cường viết : " Ý thức nghệ thuật của ông không còn song hành, đồng nhất với
ý thức công dân mà đã vượt lên, hướng về những triết lý nhân sinh sâu thẳm và sự sinh tồn
của nhân loại" (Chế Lan Viên - Người làm vườn vĩnh cữu - trang 164). Nhận xét đó rất đúng,
nhân vật trữ tình trong Di cảo thơ là một nghệ sĩ đích thực, một nghệ sĩ tài hoa đã đưa thơ
ông vào đến lõi của đời, đạt đến những tầm cao triết lý của cuộc đời mà ta còn phải nghiên
cứu phải học hỏi rất lâu mới hiểu hết ý nghĩa của nó được.
3.4. Những hình ảnh nghệ thuật đặc sắc:
3.4.1. Những hình ảnh biểu tượng cố ý nghĩa mới:
Những hình ảnh nghệ thuật của Chế Lan Viên vẫn là kết quả của cảm xúc sâu lắng
cộng với các thao tác của tư duy như liên tưởng, hồi tưởng, suy tưởng với những thủ pháp
nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng. Nhưng nó có một điểm khác biệt với
94
những hình ảnh nghệ thuật thời sử thi là nó không bừng sáng ở những thời điểm lịch sử nhát
định nào đó bởi thần tượng ở ngoài mình, mà nó bừng sáng ở những thời điếm bình thường, ở
những sự việc và con người bình thường, ở tiếng xôn xao của thế giới tâm hồn sâu kín vừa
lặng yên vừa dông bão của con người, vì thế nó đạt đến chiều sâu nhân bản, đạt đến cái lõi
của đời. Trong thơ hiện ra số phận đồng loại, thực trạng xã hội với những tiêu cực khiếm
khuyết và băng giá của môi trường, hoàn cảnh và nhân cách.
Hình ảnh nghệ thuật thơ giờ đây thiên về nội cảm, xuất phát từ cuộc kiếm tìm đầy khó
khăn và quyết liệt của người sáng tạo trên lộ trình trở về bản thể thi sĩ, trở về với cái tôi nghệ
sĩ đầy tinh thần trách nhiệm trước những vấn đề đời thường và với "thế giới ở ngay trong
mình". Do đó hình ảnh nghệ thuật thơ vừa mang màu sắc thời sự vừa vươn tới những vấn đề
vĩnh cửu của con người. Thế giới nội tâm của con người trở nên phức tạp và bí ẩn, cuộc sống
trở nên góc cạnh và nhiều chiều.
Để nói về nỗi đau, Chế Lan Viên có hình ảnh cô Tấm, Mỵ Châu, giọt máu oan khuất,
ngọc trai ... là những hình ảnh hàm chứa thương đau. Con trai đã phải chịu vết thương bởi sỏi
sạn, chất ngọc của nó tiết ra bao bọc lấy viên sỏi sạn ấy lại làm nên hạt ngọc trai. Điều quí giá
lại được hình thành từ vết thương đau. Hình ảnh nàng Mỵ Châu bao đời nay vẫn là biểu
tượng của sự thơ ngây bị lợi dụng, đó cũng là một nỗi đau. Cô Tấm cũng chỉ tìm lại được vị
trí hoàng hậu của mình sau bốn lần hóa kiếp đau đớn...
Cho nên những hình ảnh hàm chứa nỗi đau này tự bản thân nó đã mang một cái mã của
truyền thống, của truyền thuyết, cổ tích. Và nó được trở về trong sự gặp gỡ với nỗi đau nội
tâm âm ỉ dày vò trong Chế Lan Viên về sự chưa hoàn thiện của cái đẹp.
Để nói về nỗi vô thường của kiếp người, Chế Lan Viên nhắc rất nhiều đến hình ảnh lau,
le :
Miền nội tâm anh, dặm tinh thần anh là ngàn lau xao xác ấy
(Lau)
Tốt hơn, biết mình là cây lau
Cứ xạc xào trong gió
( Lau)
Cả nhưng hạnh phúc mất đi, đẵn đi rồi hóa thành lau lách
Người đến tìm anh sau này chỉ thấy trắng lau le
(Lau 2)
95
Cây lau âm thầm, khiêm tốn, bình dị, hoang sơ là hình ảnh về nỗi vô thường của kiếp
người. Cái thân lau nhỏ nhoi, cái màu trắng hư vô của nó, số phận xao xác của nó sao mà
giống với số phận con người, cũng nhỏ nhoi, cũng xao xác. So với hình ảnh "bàn tay người
thắp lại triệu chồi xanh" (Hai câu hỏi) trong giọng điệu thơ trữ tình sử thi thì hình ảnh cây lau
thật cô đơn, nhỏ nhoi, vô thường, bình đạm. Đây là hình ảnh phù hợp với miền nội tâm Chế
Lan Viên nhất và cũng phù hợp với tính cách giản dị của ông.
Có một hình ảnh rất xưa với lịch sử nhưng khi được Chế Lan Viên đưa vào thơ liền lập
tức gây chấn động bởi sự hàm chứa sâu xa trong nó : Đó là hình ảnh tháp Bayon bốn mặt:
Anh là tháp Bayon bốn mặt
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình
Thực ra cuộc sống nội tâm của con người vô cùng phong phú, điều đó người xưa cũng
biết nên mới có tượng Phật Bà nghìn mắt, nghìn tay. Nhưng trong cuộc sống người ta thường
chỉ thể hiện mặt chính của mình ra còn những mặt khác nó thuộc về thế giới riêng tư, thầm
kín. Không phải thể hiện một mặt là giả dối, là giả đạo đức như có người đã lầm tưởng.
Người ta có thể nghiêm trang khi làm việc, nhưng lại tiếu lâm với bạn bè, sát khí với quân thù
nhưng lại dịu dàng với vợ con. Người ta cũng có thể khô khan đạo mạo bên ngoài nhưng bên
trong lại rất thiết tha nồng cháy .... Chúng ta vẫn hiểu điều đó, nhưng dùng hình ảnh tháp
Bayon bốn mặt để chuyển tải tư tưởng như Ghế Lan Viên quả thật ông có những liên tưởng
kỳ thú, bất ngờ.
Ngay cả hình ảnh về thơ của Chế Lan Viên trong Di cảo thơ cũng mang một bộ mặt
mới lạ mà sâu sắc đến mức làm ta ngỡ ngàng như đứng trước một "qui luật của muôn đời":
Thơ là chưa bay mà đã đến
là đang yêu bỗng giã từ
... là hoa sen cười nửa miệng
mà chân như
(Quan niệm thơ)
Chế Lan Viên đã sáng tạo nhiều hình ảnh hình tượng mới đến mức người ta phải nghiên
cứu về "tính sinh sản trong ngôn ngữ của Chế Lan Viên". Ở Di cảo thơ, các hình ảnh biểu
96
trưng chuyển đổi hoàn toàn sang ý nghĩa mới. Ông có hấn cả một hệ thống hình ảnh ẩn dụ
mới để diễn đạt thế giới nội tâm đa đoan, thể hiện những triết luận về các vấn đề vĩnh hằng
của con người:
- Lệ hồi âm
- Bình đựng lệ
- Tháp Bayon
- Cây siêu hình
- Lỗ kim, sợi chỉ hư vô
- Sen hư tưởng
- Ong triết học
- Tượng đá
- Lò thiêu
- Tro và lửa
- Lông nga máu
- Truyền thống cá
- Đẳng cấp hoa
So sánh với những hình ảnh biểu tượng lãng mạn bay bổng trước kia của cảm hứng sử
thi : Tiếng hát bốn nghìn năm, Con tàu hạnh phúc, Mùa nhân dân, Cành đào chân lý, Con mắt
Bạch Đằng, con mắt Đống Đa, Hạt muối thơ, Cái cân thơ, Giọt lệ thơ...... thì ta thấy hệ thống
ẩn dụ mới của Chế Lan Viên ở Di cảo thơ gần với những vấn đề muôn đời của loài người
hơn.
3.4.2. Những hình ảnh tưởng tượng có tính giả thiết:
Ở Di cảo thơ, những hình ảnh tưởng tượng có tính giả thiết xuất hiện khá nhiều. Đó là
dạng thơ tự sự biểu trưng, đối thoại tượng trứng, hoàn cảnh tượng trưng.
Ví dụ anh sinh ra trong miền đất không hoa văn
Miền biển vắng thủy triều
Khu rừng không trầm hương, di chỉ
Trời vắng mây tình yêu
97
Thì anh có làm thơ không đấy ?
Có chứ ! Càng phải làm nữa chứ !
(Ví dụ)
Bởi vì thơ là sự bù đắp của nghệ thuật đối với những thiếu hụt của cuốc sống: Càng ở
miền đất thiếu hụt mọi thứ, sứ mệnh nhà thơ càng cao cả.
Nỗi trống vắng tri âm làm cho nhà thơ tạo nên giả thiết về "Cuộc gặp gỡ không xảy ra"
Không hỏi và không đáp
Không khóc và chỉ cười
Không cười và chỉ uống
Uống cho đến lúc sáng trời
Uống cho đến khi có người giục chia tay
Nhưng rồi chả bao giờ có bữa rượu đó !
( Cuộc gặp gỡ không xảy ra )
Giọng kể, giọng thuật chặt chẽ, súc tích dường như là có một cuộc gặp gỡ thật. Nhưng
đó chỉ là gặp trong tưởng tượng, trong giả thiết.
Giả thiết về cái chết của mình, Chế Lan Viên viết :
Anh thành một nhúm xương gio trong bình
Em đừng khóc
Ngoài vườn hoa cỏ mọc
(Từ thế chi ca)
Đây vẫn là mối quan hệ nhân quả quen thuộc trong thơ Chế Lan Viên nhưng ở đoạn
cuối này, hình ảnh của nó thật bình đạm : "một nhúm xương gio trong bình", giọng điệu của
nó thật bình thản và lạc quan : "ngoài vườn hoa cỏ mọc". Đây chính là tinh thần lạc quan và
tư duy minh triết của phương Đông đã có từ lâu trong thơ Lý Trần :
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sâu trước nở cành mai
(Sư Thiện Chiếu)
98
Chế Lan Viên đã tiếp thu được tinh thần lạc quan và tư duy minh triết phương Đông ấy,
dù cớ một điều gì phải chấm dứt, phải mất đi nhưng cuộc sống vẫn sinh sôi nẩy nở, cuộc sống
là bất diệt.
Chế Lan Viên còn có giả thiết về một cuộc biến hình về nghệ thuật, sức sống của tác
phẩm sau khi tác giả đã đi về "xứ không màu":
Tôi đã hóa bọ giòi, giun dế
Hóa vô danh, vô ảnh, vô hình
Nghe tình thương bỗng lại sinh thành
Trong khoảnh khắc lại là tôi - khoảng khắc.
Nhớ lại câu thơ của mình quên tắp
Nhớ lại cuộc đời đã ở trần gian
Một cuộc đời mà biết mấy đa đoan
Liền sợ hãi, lại biến mình ra hạt bụi
Và lần này là không còn gì cứu nổi
Tan thành hư không. Và mong nó cũng quên mình.
(Tôi viết cho người...)
Bài thơ thể hiện sức mạnh tâm linh và nhân bản của thơ ca nghệ thuật. Chét là hết, là
hóa bọ giòi, giun dế. Vậy mà "nghe tình thương bỗng lại sinh thành" → đó chính là nhờ sức
mạnh của thơ ca, sức mạnh của cả người tiếp nhận thơ ca.
Nhà thơ cũng giả thiết về sự quên lãng trong bài "Ngôi đền lãng quên"
Anh sẽ hát vang lên mà không có vách nào đáp lại
Vì nó là ngôi đền không có vách của lãng quên
Anh ta đi khắp phòng tìm cái bóng của mình
Vang không có đã đành, bóng cũng không có nữa !
Chỉ có bóng đêm, bóng đen, bóng đêm, bóng đen
Cũng bởi vì đây là đất chết, đây là lãng quên
(Ngôi đền lãng quên )
99
Rất nhiều lần nhà thơ nhắc đến sự lãng quên : "Sông lãng quên", "dòng lãng quên",
"ngôi đền lãng quên'''' ... Càng thấm thìa về sự quên lãng của người đời, nhà thơ càng có khát
vọng sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật thành công chính là sự hiện diện của người
sáng tạo để chống lại sự quên lãng.
3.4.3. Những hình ảnh lý luận về thơ và nhà thơ bằng thư:
Điểm độc đáo của Chế Lan Viên trong Di cảo thơ là xây dựng được những hình ảnh lý
luận về thơ và nhà thơ bằng thơ ca rất gần gũi với cuộc sống. Thực ra ở thơ trữ tình sử thi ông
đã có nhiều bài thơ lý luận về thơ và nhà thơ, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, nên những bài
thơ đó nhấn mạnh đến chức năng là vũ khí đấu tranh tư tưởng của thơ và nhà thơ hơn các
chức năng khác. Giờ đây khi đã trở về cuộc sống bình thường, ông chú ý đầy đủ đến bản chất
của thơ và nhà thơ hơn.
Để nói về vị trí của nhà thơ, sứ mệnh của nhà thơ trong cuộc đời, Chế Lan Viên đã
dùng đến hình ảnh "hồn" :
Trời như ngọc, như hồn, như bể
Ba cái sâu xa xanh có một màu
Ôi, cái tội của muôn đời thi sĩ
Đem hồn đo cho trời bể thêm sâu
(Đo)
"Đo" và "Cân" của Chế Lan Viên là sáng tạo, là mở lối đi vào bản chất, vào thẳm sâu
của tâm hồn. Quá trình sáng tạo nhiều khi là nỗi đau, là trò chơi, là máu :
Nhà thơ không đưa ngay trái tim mình cho độc giả
Mà cầm một trái cây đưa cho họ
Họ cầm lên ròng ròng máu nhỏ
Hóa ra đấy là trái tim mình
Mà anh chạm trổ
Anh tạo ra hình quả
Che đi chính mình
(Nhà thơ)
100
Những "giọt máu" ấy là kết tinh sức nóng của đời, của hóa thân, là cái nhìn của độc giả
về tác phẩm. Bài thơ làm sinh động mối quan hệ nhà thơ - cuộc sống, tác phẩm - bạn đọc.
Hình ảnh về nhà thơ trong Di cảo thơ bây giờ thật là "thiên hình vạn trạng". Nhà thơ
phải là người "biết đánh hơi tài như kẻ đi săn" (Săn thơ), là người thợ đào sông để rồi "Sông
chảy lại - cố nhiên hễ thành sóng thành sông thì là bi kịch" (Sông thơ), là người phải "thường
trực cả trong mơ thì mới kịp thời" (Không khớp) là người phải '''đập đầu vào tảng đá Thiên
sơn tìm thơ tìm lửa" (Nghề của chúng ta) ; nhà thơ là người đóng kịch, người đi săn, là người
đánh bắt san hô ngoài bể, là người ăn vào cái giếng nội tâm " định làm giàu cho mình bằng
cái vốn hư không" (Giếng), là người ngậm ngải tìm trầm, là tướng lĩnh, là tên chăn vịt, là
chiêm tinh, là thợ đào sông, là chàng cưỡi lừa (chở trăm điều thế tục lăng nhăng), là con nợ,
là tình nhân, là người đi buôn, người dệt vải, người xâu kim ....
Nhà thơ đã phải đóng hàng trăm vai trong cuộc sống để vào đến lõi của cuộc sống, làm
cuộc sống bật lên hơi thở hổn hển của nó trong thơ, hơi thở đó có thể nghẹn ngào vì trái
ngang, có thể mãnh liệt vì sung sướng, nhưng nó chính là cuộc sống trần tục và vào thơ dưới
trăm dạng vẻ hình hài.
Về thời gian và sức sống của tác phẩm, Chế Lan Viên cũng đã hình tượng hóa bằng thơ
về hiện tượng tác phẩm bất tử trong thời gian :
Nguyễn Du có ngờ không ?
Người ta dịch vầng trăng ông
Qua các biên thùy ngôn ngữ
Ong có bao giờ nghĩ
Cỏ non thơ ông xanh
Ra ngoài thế kỷ vẫn còn xanh
(Kỷ niệm Nguyễn Du)
Chỉ bằng hình ảnh thơ cực kỳ giản dị "cỏ non xanh'' và hiện tượng chuyển nghĩa tính từ
"xanh", Chế Lan Viên đã chuyển lý luận về sức sống của tác phẩm với thời gian lên thành
hình ảnh thơ tuyệt đẹp. Đó chính là tài hoa của ông.
Về mối quan hệ giữa nhà thơ và bạn đọc, Chế Lan Viên cũng thể hiện quan điểm tiếp
nhận văn học rất phóng khoáng :
Làm thơ có lúc như lấy người điếc lác ù tai làm bạn tri âm
101
Cứ phải hét vào tai những tiếng nói thầm
Làm thơ có lúc là thi sĩ câm ra hiệu bằng tay, bằng mắt, bằng toàn thân
(Tri âm)
Tác phẩm chỉ được tiếp nhận hoàn toàn khi nào có được người đọc giống như người
bạn tri âm, bạn đọc phải có thế giới nội tâm trùng với thê giới nội tâm của nhà văn.
Nhưng bạn đọc cũng có quyền hiểu tác phẩm theo cảm nghĩ riêng của mình, theo sáng
tạo riêng của mình :
Đọc thơ, có người như nhà thực vật
Đọc mùa quả, hoa chói mắt
Có người như nhà địa chất
Đọc ngầm cái gì ở sâu dưới đất
Cái mạch ngầm văn bản phía sau
Kẻ đọc dương, người lại nghe cái âm âm
Cái nhạc trưởng chỉ huy trong tiềm thức
(Đọc thơ mạch ngầm văn bản)
Điểm tài hoa của Chế Lan Viên là ở chỗ ông đã đưa lý luận về thơ ca, về sáng tạo lên
thành những hình ảnh thơ đẹp và biểu cảm, diễn đạt được bản thể của thơ, thơ động chạm
được đến cốt lõi của cuộc đời.
Ở Di cảo thơ, các hình ảnh : thiên đường, địa ngục, cái chết, tro bụi, thế giới bên kia,
giờ báo tử, lò thiêu .... xuất hiện rất nhiều lần, hình ảnh cái chết, cảm giác về sự hủy diệt làm
giọng điệu thơ có phần buồn và bi thương. Nhưng buồn và đau đớn ở đây có cơ sở hiện thực
hơn là sự buồn đau tưởng tượng trong Điêu tàn. Buồn đau ở đây được nảy sinh từ "những
điều trông thấy", nghiệm thấy.
Có thể có người chưa hài lòng với một số bài thơ, câu thơ nhưng rõ ràng Di cảo thơ ra
đời không phải do chủ đích của tác giả. Trên hết, ta vẫn phải thấy sự cố gắng hết mình vì
nghệ thuật, cho nghệ thuật của nhà thơ.
Tất cả những hình ảnh nghệ thuật đặc sắc trong Di cảo thơ : Từ những hình ảnh biểu
trưng mang ý nghĩa mới, những hình ảnh tưởng tượng có tính giả thiết, những hình ảnh lý
luận về thơ và nhà thơ đều góp phần tạo nên tính "đa thanh, đa sắc" trong tác phẩm, là cách
"bám vào cuộc đời" của nhà thơ ở những năm cuối đời. Những hình ảnh nghệ thuật
102
mới lạ đặc sắc này cho thấy Chế Lan Viên luôn vận động vươn lên không ngừng về
nghệ thuật. Sự mới lạ của nó làm ta ngạc nhiên và công nhận thơ Chế Lan Viên quả thật có
nhiều đỉnh cao, mỗi đỉnh có một vẻ đẹp riêng. Ở Di cảo thơ, ông đã vươn đến những vấn đề
vĩnh cửu, những vấn đề của nhân loại và chạm được vào hồn thơ, vào mạch sống của đời.
Nhà thơ đã chuyển tải những hình ảnh nghệ thuật này bằng giọng thơ triết lý tỉnh táo, nhẹ
nhàng và bình thản, một giọng thơ rất đặc trưng của Chế Lan Viên.
* * *
103
KẾT LUẬN
Sự nghiệp thơ ca của Chế Lan Viên trải dài hơn nửa thế kỷ với biết bao thăng trầm,
vinh quang và cay đắng. Trong mười ba tập thơ với hơn một nghìn bài thơ đã được xuất bản,
Chế Lan Viên đã hiện diện như một khuôn mặt lớn của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông đã thể
hiện thơ của mình một cách sâu sắc qua hệ thống quan niệm riêng về thơ. Những quan niệm
nghệ thuật ấy không chỉ ở dưới dạng tùy bút văn xuôi mà còn ở chính mảng thơ lý luận về
thơ của ông.
Những quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên sau bao năm dùi mài nghiền ngẫm đã
trở thành lý luận giúp ông đứng vững trên mảnh đất thơ của mình mà sáng tạo những bài thơ
xuất sắc thể hiện "điệu hồn" riêng vô cùng độc đáo : đó là giọng điệu thơ triết luận tài hoa.
Dù theo cảm hứng sử thi hay cảm hứng đời thường - thế sự, giọng điệu thơ triết luận của ông
vẫn luôn làm người đọc lạ lùng, sức ám ảnh của thơ ông rất lớn nhờ những biện pháp liên
tưởng, suy tưởng tổng hợp tạo nên những hình ảnh độc đáo, bất ngờ, đào sâu mọi ngóe ngách
của cuộc sống và tâm hồn con người.
Nhờ có vốn văn hóa sâu rộng và sức liên tưởng, suy tưởng tổng hợp, Chế Lan Viên
sáng tạo nhanh và mạnh mẽ. Ông thiến về các hình ảnh khái quát hóa bằng triết lý thông qua
các tương quan đối lập. Phạm Hổ có nói : "Từ khi có Chế Lan Viên, có thơ Chế Lan Viên,
trong đời sống văn học, thơ ca có thêm một dòng cảm nghĩ mới, một cách nói mới" (Con đường và tầm vóc thơ Chế Lan Viên ) (1). Chất văn hóa của thơ Chế Lan Viên, cộng với tài
năng vững bền và công phu rèn luyện của ông dường như chắp thêm cho lịch sử thơ ca Việt
Nam hiện đại một đôi cánh mới, qua những con đường và vực thẳm, những cánh cửa và bể
khơi.
Tư duy sáng tác kiểu như Chế Lan Viên sẽ luôn có sức sáng tạo mạnh mẽ, ông sáng tác
nhiều, đào sâu lãnh vực ý tưởng và tạo ra được nhiều ý tưởng hay, nhiều hình ảnh đẹp cho
thơ ca Việt Nam hiện đại. Song, đôi lúc ông đi quá đà, quá mức độ, sa đà vào ý tưởng một
cách hời hợt, lúc đó thơ ông trở nên khô khan dài dòng và nhạt loãng như văn xuôi chính
luận, các ý tưởng trở nên cầu kỳ, rối rắm.
Khi các ý tưởng của ông kết hợp hài hòa, cân bằng với cảm xúc, lúc ấy ông tạo ra
những hình ảnh thơ để đời, những bài thơ xuất sắc mang "điệu hồn" của thời đại : Người đi
tìm hình của Nước, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?, Sao chiến thắng ... Sau này, ở giai
đoạn cuối đời, trong tâm thế giã biệt cuộc đời, ông viết nhiều bài thơ chạm đến cốt lõi của
đời, mang tính nhân văn sâu sắc. (1) In trong sách Chế Lan Viên - Người làm vườn vĩnh cửu - Sách đã dẫn.
104
Từ tấm lòng chân thành, thơ ông mang điệu hồn của ông : chân thành tuyệt đối với
cuộc đời, với bạn đọc, với thơ và với chính mình. Tùy đối tượng phản ánh mà thơ ông lúc thì
có giọng hùng biện, chính luận, lúc có giọng triết lý trữ tình, lúc giọng cao lúc giọng trầm,
khi đanh thép, khi trầm lắng, khi có giọng ngợi ca, khi lại thủ thỉ tâm tình ... Rất nhiều giọng
điệu thơ thể hiện điệu hồn phong phú phức tạp của nhà thơ.
Giọng điệu nghệ thuật là một khái niệm rất cơ bản trong việc nghiên cứu phong cách
nhà văn, cá tính sáng tạo của nhà văn. Mỗi nhà văn đều có giọng điệu riêng của mình, xác
định chân tài riêng của mình. Giọng điệu nghệ thuật tác động mạnh đến các yếu tố khác trong
chỉnh thể nghệ thuật, và nhiều khi đóng vai trò quyết định sự thành công của tác phẩm văn
học. Biểu hiện của giọng điệu nghệ thuật rất đa dạng và tinh vi, đòi hỏi người nghiên cứu
phải xem xét thận trọng.
Về phương diện giọng điệu nghệ thuật, Chế Lan Viên đã thành công. Ông đã có gam
giọng đặc biệt mang bản sắc Chế Lan Viên, đó là thơ trữ tình - triết học. Dù là ở cảm hứng sử
thi hay cảm hứng đời thường, yếu tố triết học vẫn nổi lên hàng đầu. ở thời kỳ 1945 - 1975,
yếu tố triết học của ông thiên về những cặp phạm trù đối lập để khẳng định thế đứng của
Cách mạng, của nhân dân, của Tổ quốc trước quân thù. Thời kỳ sau 1975, nhất là những năm
cuối đời, yếu tố triết học thiên về những triết lý nhân sinh sâu thẳm và sự sinh tồn của nhân
loại.
Giọng điệu thơ trữ tình - triết học là giọng thơ đặc thù của Chế Lan Viên. Mặc dù có
nhiều nhà thơ khác chịu ảnh hưởng phong cách này, nhưng do cách cảm thụ khác nhau, chất
văn hóa khác nhau, năng lực tư duy khác nhau nên chưa có ai vượt qua được tầm tư tưởng
của Chế Lan Viên và có được giọng điệu thơ tư tưởng như ông. Thơ ông đã trở thành tiếng
nói của thời đại.
Một phần quan trọng thơ Chế Lan Viên là những bài thơ mang cảm hứng sử thi, có tầm
khái quát lớn về thời đại và lịch sử, có âm hưởng hùng tráng tự hào, là đỉnh cao của thế hệ
nhà thơ "đứng ngang tầm chiến lũy" và cũng rất có sức thuyết phục bởi tính chất trữ tình
nhân bản. Một găm giọng dễ nhận thấy nhất ở đây là chân thành tha thiết. Chân thành với
Đảng, với cách mạng, với nhân dân.
Phần đồ sộ của thơ Chế Lan Viên lại nằm ở Di cảo thơ. Gần 600 bài thơ phần lớn ở
dạng tứ tuyệt đã chạm tới lõi của cuộc đời và của thơ, mang giọng trầm tư thế sự, đối thoai
với đời, với chính nhà thơ về mọi lẽ sống còn, mọi triết lý nhân sinh thẳm sâu của nhân loại.
Giọng điệu thơ trở nên vô cùng đa dạng chuyển tải mọi vấn đề của cuộc sống, mọi góc cạnh
105
của cuộc đời : khi là giọng tỉnh táo đầy suy tư, chiêm nghiệm ; khi là giọng buồn đau ; có lúc
tự trào ; có lúc xót xa, day diết, xao động bất ổn.
Thơ Chế Lan Viên dân tộc mà hiện đại, nó dân tộc ở cái mã thơ truyền thống, hình ảnh
thơ truyền thống mà dân tộc vẫn dùng nhưng nó hiện đại ở chỗ Chế Lan Viên đã lồng vào
những mã truyền thống ấy những ý, tình mới mang bản sắc riêng của ông, bản sắc của con
người thơ có bệ tì là "các tầng văn hóa phủ lên nhau".
Chế Lan Viên có nhiều đóng góp cho thơ trữ tình Việt Nam và một trong những sắc
thái dễ nhận thấy nhất ở ông đó là yếu tố giọng điệu. Ông là người đi đầu trong việc cách tân
thơ tự do Việt Nam, đưa chất văn xuôi vào thơ và phát triển giọng chính luận - chính trị đanh
thép hùng hồn ; bên cạnh đó cũng còn những giọng điệu khác như mạnh mẽ, dữ dội, ồn ào
quyết liệt, tỉnh táo, suy ngẫm, nghi vấn, phán đoán, dự cảm, giả thiết. Các yếu tố giọng điệu
trong thơ ông phong phú và đa chiều, chứng tỏ một bản lĩnh thơ vững vàng, tài hoa.
Một trong những điều dễ nhận thấy là với tư duy thiên về triết luận của ông, ta không
thể tìm thấy giọng ru thắm thiết như Xuân Quỳnh, giọng hân hoan say đắm như Xuân Diệu,
giọng hồ hởi reo vui phấn khởi như Tố Hữu. Ta cũng thấy hạn chế của Chế Lan Viên là ở
những chỗ cần thét lên căm thù thì nhà thơ đã không thể thét lên. Chủ yếu ta thấy ở ông là
giọng triết lý, giọng phân giải đối thoại, giọng trầm tư, giọng chính luận. Chế Lan Viên cũng
có giọng thủ thỉ tâm tình nhưng những vấn đề tâm tình của Chế Lan Viên không phải là
những mất mát đau khổ trong tình yêu mà là thủ thỉ tâm tình đối thoại về sự nhớ thương, gắn
bó nghĩa tình, tâm tình về thời cuộc, về nhân tình thế thái, đó là lý do vì sao nhà thơ hay xưng
"anh" trong ba tập Di cảo thơ.
Chế Lan Viên đã về "Xứ không màu" hơn mười năm nhưng thực sự chưa có ai khả dĩ
có thể thay thế nổi vị trí của ông trên thi đàn Việt Nam. Sức ám ảnh của thơ ông vẫn còn mãi
vì nó chứa bên trong nó một cội nguồn văn hóa sâu xa kết hợp với năng lực tạo những hình
tượng đặc thù. Chất văn hóa của thơ Chế Lan Viên thể hiện quan điểm lý luận về mối quan
hệ giữa văn học và văn hóa : "Văn học phản ánh văn hóa chính là phản ánh sự thâm nhập và tồn tại của văn hóa trong các hiện tượng đời sống" (1)
Nhà thơ - nhà văn hóa Chế Lan Viên là một vấn đề đang nằm trong triển vọng của khoa
nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại.
* * *
(1) Nguyễn Duy Bắc - Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học - Báo Văn nghệ số 23 ngày 5/6/1993.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh, Chế Lan Viên, một bản lĩnh, một tâm hồn thơ phong phú, đa dạng và bí
ẩn, in trong sách Chế Lan Viên, người làm vườn vĩnh cửu, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà
Nội, 1995.
2. Phan Thị Vàng Anh, Cha tôi, in trong sách Chế Lan Viên, người làm vườn vĩnh cửu,
sách đã dẫn.
3. Vũ Tuấn Anh, Thơ đánh Mỹ của Chế Lan Viên, Tạp chí văn học số 5/1974, 51 -61.
4. Vũ Tuấn Anh, Nhìn lại mười năm đổi mới, in trong sách Việt Nam nửa thế kỷ văn
học (1945 - 1995), Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1997.
5. Lại Nguyên Ân, Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến trình thơ Tiếng Việt.
Tạp chí văn học số 1/1993, 9/1993.
6. Nguyễn Văn Bổng, Những vỉa thơ lấp lánh, in trong sách Chế Lan Viên, người làm
vườn vĩnh cửu, sách đã dẫn.
7. Nông Quốc Chấn, Đời Người, đời thơ, in trong sách Chế Lan Viên, người làm vườn
vĩnh cửu, sách đã dẫn.
8. Hoàng Minh Châu, Chế Lan Viên với nghề thơ, in trong sách Chế Lan Viên, người
làm vườn vĩnh cửu, sách đã dẫn.
9. Nhật Chiêu, Nhớ về Viên Tĩnh viên, in trong sách Chế Lan Viên, người làm vườn
vĩnh cửu, sách đã dẫn.
10. Hồng Diệu, Nửa thế kỷ thơ, nhìn từ một đặc điểm quan trọng, in trong sách Việt
Nam, nửa thế kỷ văn học (1945 - 1975), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 1997.
11. Xuân Diệu, Đọc Ánh sáng và Phù sa, in trong sách Chế Lan Viên, Người làm vườn
vĩnh cửu, sách đã dẫn.
12. Lê Tiến Dũng, Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 -
1945, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 1998.
13. Trần Thanh Đạm, Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua những trang Di cảo,
Báo Văn nghệ số 36, 4-9/1993.
14. Trần Thanh Đạm, Thơ Mới (1932 - 1945) và thơ hôm nay, Báo Văn nghệ số 45,
5/11/1994.
107
15. Trần Thanh Đạm, Ý nghĩa lịch sử và giá trị nhân văn của văn chương dân tộc 50
năm qua, in trong sách Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1945 - 1975), Nhà xuất bản Hội nhà
văn, Hà Nội 1997.
16. Đặng Anh Đào - Thơ sau 1975 - Gió Đông và gió Tây, in trong sách Việt Nam nửa
thế kỷ văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 1997.
17. Hữu Đạt, Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1996.
18. Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức, Nhà văn Việt Nam hiện đại (1945 -1975) Nhà xuất
bản ĐH THCN, Hà Nội, 1979.
19. Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam, Hình thức và thể loại, Nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh, 1998.
20. Anh Đức, Trong ngọn cỏ và hạt sương, in trong sách Chế Lan Viên, người làm
vườn vĩnh cửu, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 1995.
21. Bảo Định Giang, 50 năm ấy biết bao nhiêu tình, in trong sách Việt Nam nửa thế kỷ
văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 1997.
22. Tô Hà, Khoảng cách im lặng giữa các câu thơ. Tạp chí văn học số 2/1991.
23. Nguyễn Văn Hạnh, Thơ Chế Lan Viên, in trong sách Chế Lan Viên, người làm
vườn vĩnh cửu, sách đã dẫn.
24. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương; Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ,
Nhà xuất bản Giáo Dục, Thành phố Hồ Chí Minh 1995.
25. Trần Mạnh Hảo, Chế Lan Viên, người làm vườn vĩnh cửu, in trong sách Chế Lan
Viên, người làm vườn ... , sách đã dẫn;
26. Trần Mạnh Hảo, Thơ phản thơ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1995.
27. Hoàng Ngọc Hiến, Baudelaire, chủ nghĩa tượng trưng và thơ mới -in trong sách
Nhìn lại một cuộc Cách mạng trong thi ca. Nhà xuất bản Giao Dục, Hà Nội 1993.
28. Đỗ Đức Hiểu. Đổi mới phê bình văn học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Nhà
xuất bản Mũi Cà Mau 1993.
29. Sóng Hồng - Thơ - Nhà xuất bản văn học Hà Nội 1966.
30. Đoàn Trọng Huy, Khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau 1975, Tạp chí
văn học số 6/1993.
108
31. Nguyễn Quốc Khánh, Thi pháp thơ Chế Lan Viên, luận án tiến sĩ ngữ văn Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - 1999.
32. KHRAVCHENKO M.B. Cá tính sáng tạo nhà văn và sự phát triển văn học, Nhà
xuất bản Văn học Hà Nội 1987.
33. Lê Đình Kỵ - Thơ mới, những bước thăng trầm, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh 1988.
34. Hoàng Lan - Đối thoại mới của Chế Lan Viên - Tạp chí tác phẩm mới số 35/1974.
35. Phong Lê - Trên hành trình của 40 năm văn xuôi, ngôn ngữ và giọng điệu - Tạp chí
văn học số 5, 5/1985.
36. Mai Quốc Liên - Phê bình và tranh luận văn học, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội
1998.
37. Nguyễn Lộc, Chế Lan Viên và những tìm tòi nghệ thuật trong thơ -in trong sách
Chế Lan Viên, người làm vườn vĩnh cửu.
38. G.N.Poxpêlop - Dẫn luận nghiên cứu văn học - Nhà xuất bản giáo dục - 1998.
39. Phương Lựu, về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo Dục Hà
Nội 1985.
40. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nhà xuất bản Tác phẩm
mới, Hà Nội 1988.
41.Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật cửa nhà văn, Nhà xuất
bản Giáo Dục, Hà Nội 1991.
42. Mười nhà thơ lớn của thế kỷ - Nhà xuất bản Tác phẩm mới - Hội nhà văn 1982.
43. Nguyễn Xuân Nam, Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên, Tạp chí tác phẩm
mới số 23/1973.
44. Nguyễn Xuân Nam, Lời giới thiệu tuyển tập thơ Chế Lan Viên, Nhà xuất bản Văn
học - Hà Nội 1990.
45. Nguyễn Xuân Nam, Thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên, Báo Văn nghệ số 14 ngày
16/04/1991.
46. Phạm Xuân Nguyên, Chế Lan Viên, người đi tìm mặt, in trong sách Chế Lan Viên,
người làm vườn vĩnh cửu, sách đã dẫn.
109
47. Phùng Quí Nhâm - Thẩm định văn học - Nhà xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh
1991.
48. Lê Lưu Oanh, Sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân của cái tôi trữ tình
hiện nay, Tạp chí Văn học số 4/1991.
49. Huỳnh Như Phương, Những tín hiệu mới, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội 1994.
50. Vũ Quần Phương, Thơ với lời bình, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 1990.
51. Nguyễn Thái Sơn, Chế Lan Viên và Di cảo thơ, in trong sách Chế Lan Viên, người
làm vườn vĩnh cửu, sách đã dẫn.
52. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội 1987.
53. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội
1995.
54. Trần Đình Sử, Lý luận, phê bình văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 1996.
55. Lê Thị Thanh Tâm - Trí tuệ và cảm xúc trong Di cảo thơ - Tiểu luận tốt nghiệp cử
nhân khoa học ngữ văn Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh - 1997.
56. Hoài Thanh - Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam - Nhà xuất bản Văn học Hà Nội
1988.
57. Nguyễn Bá Thành, Đọc hai tập Di cảo thơ Chế Lan Viên, in trong sách Chế Lan
Viên, người làm vườn vĩnh cửu, sách đã dẫn.
58. Lê Ngọc Trà, Lý luận và văn học, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh 1990.
59. Phạm Quang Trung, Đọc Chế Lan Viên và Di cảo thơ, in trong sách Chế Lan Viên,
người làm vườn vĩnh cửu, sách đã dẫn.
60. Lê Trí Viễn - Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam - Nhà xuất bản Giáo dục 1988.
61. Nguyễn Minh Vỹ, Tưởng nhớ Chế Lan Viên, in trong sách Chế Lan Viên, người
làm vườn vĩnh cửu, sách đã dẫn.
110
TÁC PHẨM CỦA CHẾ LAN VIÊN TỪ 1945
1. Gửi các anh NXB Văn học 1955
2. Ánh sáng và phù sa NXB Văn học 1960
3. Đối thoại mới NXB Văn học 1973
4. Hoa trước lăng Người NXB Thanh niên 1977
5. Hái theo mùa NXB TP Hồ Chí Minh 1977
6. Hoa trên đá NXB Văn học 1984
7. Những bài thơ đánh giặc NXB Văn học 1972
8. Tuyển tập thơ Chế Lan Viên I NXB Vãn học Hà Nội 1985
9. Tuyển tập thơ Chế Lan Viên II NXB Văn học Hà Nội 1990
10. Di cảo thơ Chế Lan Viên tập I NXB Thuận Hóa - Huế 1992
l1. Di cảo thơ Chế Lan Viên tập II NXB Thuận Hóa-Huế 1993
12. Di cảo thơ Chế Lan Viên tập II NXB Thuận Hóa - Huế 1996.
111