BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------------------
TRẦN VĂN THẮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------------------
TRẦN VĂN THẮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH Mã số: 9340101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN MẠNH QUÂN
HÀ NỘI - 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
Nghiên cứu sinh
Trần Văn Thắng
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận án được thực hiện và hoàn thành tại “Bộ môn Văn hóa doanh nghiệp, Khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế quốc dân”. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS. Nguyễn Mạnh Quân - người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ và định hướng để tôi hoàn thiện Luận án.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, tôi đã nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ tận tình từ Ban Giám hiệu, Lãnh đạo Khoa Quản trị kinh doanh và Bộ môn văn hóa doanh nghiệp cùng toàn thể các thầy cô giáo tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân, tôi xin ghi nhận và chân thành cảm ơn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè,… đã động viên, chia
sẻ để giúp tôi hoàn thành luận án.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Nghiên cứu sinh Trần Văn Thắng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC .................................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................ v
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................... vi
DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ .................................................................................... vii
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ ........................................................................................................................... 10
1.1. Các nghiên cứu nước ngoài .............................................................................. 10
1.2. Các nghiên cứu trong nước .............................................................................. 25
1.3. Một số kết luận được rút ra từ tổng quan ....................................................... 27
TÓM TẮT CHƯƠNG 1 .............................................................................................. 31
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ ..... 32
2.1. Khái niệm ........................................................................................................... 32
2.1.1. Khái niệm công nghệ và khả năng hấp thụ công nghệ .................................. 32
2.1.2. Khái niệm năng lực công nghệ ...................................................................... 34
2.1.3. Nội dung đánh giá công nghệ ........................................................................ 36
2.2. Các hướng nghiên cứu ...................................................................................... 37
2.3. Khung lý thuyết ................................................................................................. 40
2.4. Khoảng trống nghiên cứu ................................................................................. 46
2.5. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu.................................................................... 48
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 50
CHUƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ ................................................... 52
3.1. Định hướng nghiên cứu ..................................................................................... 52
3.2. Quy trình nghiên cứu ........................................................................................ 54
3.2.1. Bảng hỏi và thang đo ..................................................................................... 56
3.2.2. Mẫu nghiên cứu ............................................................................................. 57
3.2.3. Nghiên cứu định tính ..................................................................................... 60
3.2.4. Nghiên cứu định lượng .................................................................................. 65
iv
3.2.5. Nghiên cứu định lượng chính thức ................................................................ 70
TÓM TẮT CHƯƠNG 3 .............................................................................................. 75
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ ........................................................................................................................... 76
4.1. Thống kê mô tả .................................................................................................. 76
4.1.1. Mô tả đặc điểm mẫu ...................................................................................... 76
4.1.2. Kết quả khảo sát ý kiến các DN về VTC, VXH, VCN. ................................ 78
4.1.3. Kết quả khảo sát ý kiến các DN về Năng lực hấp thụ công nghệ. ................ 82
4.1.4. Kết quả khảo sát ý kiến các DN về Môi trường hoạt động. .......................... 84
4.2. Phân tích nhân tố khám phá ............................................................................ 85
4.3. Đánh giá độ tin cậy của thang đo ..................................................................... 86
4.4. Phân tích hồi quy và kiểm định giả thuyết nghiên cứu .................................. 90
4.4.1. Kết quả phân tích hồi quy của biến Vốn tổ chức, Vốn xã hội, Vốn con người và Năng lực hấp thụ công nghệ ............................................................................... 90
4.4.2. Kết quả phân tích hồi quy của biến Vốn tổ chức, Vốn xã hội, Vốn con người, Môi trường hoạt động và Năng lực hấp thụ công nghệ ........................................... 92
4.5. Kết quả kiểm định CFA .................................................................................... 95
4.5.1. CFA thang đo các nhân tố tác động đến năng lực hấp thụ công nghệ của DN . 95
4.5.2. Kiểm định mô hình nghiên cứu ..................................................................... 98
TÓM TẮT CHƯƠNG 4 ............................................................................................ 101
CHƯƠNG 5: THẢO LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT NHỮNG PHÁT HIỆN CỦA NGHIÊN CỨU ........................................................................................................... 102
5.1. Thảo luận về kết quả nghiên cứu ................................................................... 102
5.2. Các hàm ý chính sách ...................................................................................... 103
5.3. Kiến nghị .......................................................................................................... 121
5.4. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................. 130
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 140
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 145
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CH: Khả năng chuyển hóa
DNNVV: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Gross Domestic Product GDP:
HRIS: Hệ thống các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp
Hệ thống quản lý nhân lực HRMS:
KHCN: Khoa học - công nghệ
Khả năng khai thác KT:
NNHT: Năng lực hấp thụ
PT: Khả năng phân tích
R & D: Nghiên cứu và triển khai
SC: Khả năng sao chép
TNXH: Trách nhiệm xã hội
VCN: Vốn con người
VHDN: Văn hóa doanh nghiệp
VTC: Vốn tổ chức
VXH: Vốn xã hội
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.2: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VXH ................... 20
Bảng 1.3: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VTC ................... 23
Bảng 1.4: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VCN ................... 25
Bảng 3.1. Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu ................................................ 55
Bảng 3.2: Kích cỡ mẫu cho kích thước tổng thể khác nhau .......................................... 59
Bảng 3.3: Tổng hợp các thang đo .................................................................................. 62
Bảng 3.4. Kết quả đánh giá sơ bộ thang đo - Nghiên cứu định lượng sơ bộ ................ 65
Bảng 3.5. Kết quả đánh giá lại độ tin cậy thang đo Môi trường hoạt động - Nghiên cứu định lượng sơ bộ........................................................................................... 67
Bảng 3.6: Thang đo hiệu chỉnh và mã hóa lại ............................................................... 68
Bảng 4.1: Loại hình DN ................................................................................................ 77
Bảng 4.2: Các thông tin nhân khẩu của đối tượng hồi đáp ........................................... 77
Bảng 4.3: Thông tin DN đánh giá về Vốn tổ chức ........................................................ 79
Bảng 4.4: Thông tin DN đánh giá về Vốn xã hội .......................................................... 80
Bảng 4.5: Thông tin DN đánh giá về Vốn con người ................................................... 81
Bảng 4.6: Thông tin DN đánh giá về Khả năng sao chép ............................................. 82
Bảng 4.7: Thông tin DN đánh giá về Khả năng khai thác ............................................. 82
Bảng 4.8: Thông tin DN đánh giá về Khả năng phân tích ............................................ 83
Bảng 4.9: Thông tin DN đánh giá về Khả năng chuyển hóa ......................................... 83
Bảng 4.10: Thông tin DN đánh giá về Môi trường hoạt động ...................................... 84
Bảng 4.11: Tổng hợp đánh giá độ tin cậy của thang đo các biến độc lập, biến giải
thích, biến kiểm soát. ................................................................................... 88
Bảng 4.12. Bảng tổng hợp mô hình nghiên cứu ............................................................ 91
Bảng 4.13. Bảng tổng hợp mô hình nghiên cứu ............................................................ 93
Bảng 4.14: Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm trong mô hình lý thuyết chính thức (chuẩn hóa) ................................................................ 100
vii
DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ
Hình 2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu Năng lực hấp thụ .............................................. 42
Hình 2.2. Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ của DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng .............................................................. 49
Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu ..................................................................................... 55
Hình 3.2: Quy trình thiết kế mẫu ................................................................................... 60
Hình 4.1: Kết quả CFA thang đo các nhân tố tác động đến năng lực hấp thụ công nghệ của DN (chuẩn hóa) ....................................................................................................... 96
Hình 4.2: Kết quả CFA mô hình đo lường tới hạn (chuẩn hóa) .................................... 97
Hình 4.3: Kết quả SEM mô hình lý thuyết chính thức (chuẩn hóa) .............................. 98
Hình 4.4: Kết quả SEM mô hình lý thuyết chính thức rút gọn (chuẩn hóa) ................. 99
Biểu đồ 4.1: Phân loại theo loại hình DN ...................................................................... 76
Biểu đồ 4.2: Các thông tin của đối tượng hồi đáp ......................................................... 78
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh nghiên cứu của luận án
Hội nhập kinh tế là tất yếu để phát triển - thách thức toàn cầu hóa đã trở nên hiện hữu đối với doanh nghiệp, và cạnh tranh đang diễn ra dẫn đến áp lực phải phát
triển doanh nghiệp. Vì vậy việc chia sẻ thông tin, kiến thức, công nghệ để mở rộng thị trường, phát triển công nghệ là tất yếu để phát triển công nghiệp phụ trợ, cụm liên kết ngành. Xu thế phát triển của một nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển như ở
Việt Nam sẽ có nhiều khiếm khuyết như sự thiếu đồng bộ của các thị trường và sự phân bổ nguồn lực chưa hợp lý là các nhân tố chính gây ra hiệu quả đầu tư thấp và sự chậm đổi mới nâng cao công nghệ và năng suất của Việt Nam.
Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không
kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Do vậy, “Nhà nước có chính sách đầu tư đồng bộ, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật của cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ quốc gia; khuyến khích, hỗ trợ xây dựng
trung tâm nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, khu công nghệ cao, công viên công nghệ; nâng cấp và xây dựng mới trung tâm nghiên cứu trong cơ sở giáo dục đại học để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, ứng dụng, triển khai, thương mại hoá công nghệ mới”.
Công nghệ đối với doanh nghiệp (DN) nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nói riêng sẽ chủ yếu cần các loại công nghệ: sử dụng nhiều nhân lực; nhu cầu đầu tư ít; dễ hiểu và vận hành đối với nhân công thao tác không có kỹ năng cao; có khả
năng kiểm tra chất lượng bằng kiểm nghiệm thủ công; phục vụ cho thị trường nội địa. Chính sách phát triển công nghệ của chính phủ chỉ tập trung vào can thiệp, bảo hộ và trợ cấp thay vì nâng cao hiệu quả và tăng cường liên kết ngành. Dẫn đến vẫn còn một khoảng cách lớn của chính sách để hỗ trợ DNNVV với khả năng hấp thụ của DN so với
khả năng hấp thụ chính sách hỗ trợ rất yếu mặc dù DN đã thấu hiểu mà không hấp thụ được...
Hấp thụ công nghệ là một quá trình khá phức tạp vì khả năng bên trong của những chủ thể tham gia mua bán, chuyển giao công nghệ lại thường rất hạn chế, nhất
là các DNNVV. Các nhà khoa học đã chỉ ra các doanh nghiệp, nhất là DNNVV, thường chỉ biết đến những nhu cầu công nghệ liên quan tới những cải tiến dần dần về chất lượng sản phẩm và năng suất hoặc nâng cấp thiết bị, và không nắm được các nhu
cầu công nghệ liên quan tới đổi mới mang tính đột phá có tính chiến lược.
2
Năng lực hấp thụ công nghệ được nhấn mạnh hơn nữa trong bối cảnh hiện nay,
khi đang có những thay đổi lớn trong quản lý công nghệ với hoàn cảnh kinh doanh
mới: sự can thiệp của chính phủ ở lĩnh vực quản lý xã hội nói chung đã giảm thiểu,
quyền quyểt định về công nghệ đã chuyển cơ bản từ Chính phủ sang cho bản thân DN;
trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng mở rộng, phạm vi lựa chọn công nghệ sẽ rộng
hơn, đồng thời giá cả biến động hơn và liên quan tới nhiều hệ thống pháp luật để tương
thích với chuẩn mực quốc tế. Trong khi đó, hàng năm, ngân sách nhà nước dành 2%
tổng chi cho khoa học - công nghệ (KHCN), nhưng mức độ hấp thụ công nghệ của
DN của Việt Nam hiện chỉ đứng thứ 121/140 quốc gia. Ở các nước tiên tiến, “nhà
nước chi một đồng cho KHCN, thì xã hội bỏ ra 4 - 5 đồng, nên tổng chi cho KHCN
thường chiếm 4 - 5% GDP”. Trong khi đó, tại Việt Nam, trong 5 năm qua, chi cho
KHCN chỉ bằng 0,56% GDP. Cộng thêm cả phần đầu tư cho KHCN từ xã hội, thì tổng
mức đầu tư cho lĩnh vực này của Việt Nam cũng chỉ khoảng 1% GDP. Theo kết quả
kiểm toán mới được Kiểm toán Nhà nước công bố, trong khi các lĩnh vực khác năm
nào cũng chi vượt dự toán, thì chi cho KHCN chưa năm nào đạt dự toán.
Doanh nghiệp vẫn còn cạnh tranh dựa vào các chính sách ưu đãi, thậm chí có
sự bao cấp của Nhà nước về vốn, mặt bằng, thuế, nhân công, lãi suất… nên không
tập trung đổi mới máy móc, thiết bị, dây chuyền tiên tiến và cũng chẳng quan tâm
đến tập trung nghiên cứu sản phẩm mới, hạ giá thành, nâng cao chất lượng, đa dạng
mẫu mã, chủng loại hàng hóa. Chính vì vậy hầu hết doanh nghiệp không thuê các
chuyên gia, nhà khoa học, những người có chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm vào
làm việc, vì phải trả lương cao. Do không có chuyên gia, nhà khoa học, những
người có chuyên môn, năng lực, nên hầu hết doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV,
thay vì nghiên cứu, chế tạo, cải tiến thiết bị, máy móc, công nghệ hợp lý để sản
xuất, lại mua máy móc, thiết bị, dây chuyền toàn bộ của nước ngoài, mà thường ưu
tiên mua máy móc, thiết bị, dây chuyền rẻ tiền, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường,
tiêu thụ nhiều năng lượng để tiết giảm chi phí đầu tư.
Mặt khác việc chuyển giao công nghệ được thực hiện qua hai hình thức chính là
qua các dự án liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài; trong đó, doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài (FDI) chiếm tới 90% và thông qua việc mua bán công nghệ
trên thị trường chỉ chiếm khoảng 10% còn lại. Tuy nhiên nhiều hợp đồng công nghệ
thực hiện theo hình thức thứ nhất cũng chỉ tập trung vào khai thác nhân công rẻ, giá
đất thấp, tiêu tốn năng lượng và tránh các tiêu chuẩn môi trường ở chính các quốc
gia đầu tư, do vậy hàm lượng công nghệ được chuyển giao còn thấp, chủ yếu là các
3
công đoạn cuối cùng trong chuỗi giá trị. Xem xét việc sử dụng vốn cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển cho thấy chỉ có 87,2% dùng vào mục đích đổi mới công
nghệ, nhưng chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với
90,6% tổng nguồn vốn thực hiện. Ðối với các doanh nghiệp nhà nước, do còn vị thế
độc quyền nên không chịu sức ép cạnh tranh, có tâm lý dựa dẫm vào sự bảo hộ của
Nhà nước, do vậy vốn dành cho đổi mới công nghệ chỉ chiếm 8,7%, doanh nghiệp
ngoài nhà nước chỉ chiếm 0,67%, trong khi đó hầu hết các nước phát triển chi phí
dành cho nghiên cứu phát triển, đổi mới công nghệ, tìm kiếm thị trường, nhu cầu
khách hàng chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm tạo ra công nghệ mới,
nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, tạo ra các sản phẩm mới, độc
đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của khách hàng, làm tăng hiệu quả kinh
doanh và tạo vị thế vững chắc trên thị trường.
Từ những nguyên nhân nói trên dẫn đến sức cạnh tranh yếu của các sản phẩm
thương mại, dịch vụ và hàng tồn kho nhiều, doanh nghiệp bị đình trệ sản xuất, “chết
lâm sàng”, “phá sản, tình trạng nợ xấu gây khó khăn cho hoạt động đổi mới công nghệ,
khả năng sáng tạo sản phẩm mới”. Muốn thế DN phải đáp ứng chuẩn quốc tế, để đủ
khả năng cạnh tranh hoặc cộng tác với DN quốc tế thông qua con đường tiếp nhận
chuyển giao kiến thức, tri thức, công nghệ bằng cách học tập, làm theo, tiếp nhận,
chuyển hóa, khai thác tri thức, trí tuệ nhân loại…
Hoạt động của DN thường bao trùm một phạm vi rộng về lĩnh vực (ngành
nghề) và khu vực địa lý (địa bàn). Vì thế, kết quả hoạt động của DN chịu ảnh hưởng
của môi trường kinh doanh chung và khả năng thích ứng của DN với các yếu tố của
môi trường và điều kiện cạnh tranh. Tuy nhiên, tùy thuộc các yếu tố địa lý, tự nhiên,
nguồn lực, đặc điểm về dân số, cơ cấu ngành nghề… mỗi địa phương thường đưa ra
những định hướng và trọng tâm phát triển riêng trong định hướng chung của toàn
quốc, và kèm theo đó ban hành những chính sách cụ thể để thực thi, thúc đẩy thực thi
chiến lược và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về khuyến khích
phát triển kinh tế tư nhân còn hạn chế, yếu kém như: Hệ thống pháp luật, các cơ chế,
chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ;
Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế;
Kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ kinh doanh; trình độ công
nghệ, trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh
thấp; cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần
4
kinh tế khác; Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của
các chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu; Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngừng
hoạt động, giải thể và phá sản; Vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh
trong kinh tế tư nhân còn khá phổ biến; Tình trạng sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm
môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; gian lận thương mại… diễn
ra nghiêm trọng, phức tạp; Nhiều doanh nghiệp của tư nhân không bảo đảm lợi ích
của người lao động, nợ bảo hiểm xã hội, báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá
hạn ngân hàng, trốn thuế và nợ thuế kéo dài; Xuất hiện những quan hệ không lành
mạnh giữa các doanh nghiệp của tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước, can thiệp vào
quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành lợi ích
nhóm, gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân;
Nhiều quy định của pháp luật về kinh tế tư nhân chưa được thực hiện nghiêm; Môi
trường đầu tư kinh doanh, khởi nghiệp còn nhiều hạn chế, tiềm ẩn rủi ro cao và thiếu
tính minh bạch; Quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản, tiếp cận các cơ hội kinh
doanh, nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành
phần kinh tế khác; Chi phí trung gian, không chính thức còn nhiều.
Khu vực Đồng bằng Sông Hồng vẫn còn nhiều hạn chế. Kinh tế tăng trưởng
nhanh nhưng thiếu đồng bộ, chưa vững chắc; sản xuất nông nghiệp quy mô còn nhỏ,
chuyển dịch chưa mạnh, tiêu thụ sản phẩm khó khăn. Tốc độ tăng trưởng GRDP và
một số chỉ tiêu phát triển kinh tế đạt kết quả chưa được cao. Ngoài ra, vùng đồng bằng
sông Hồng vẫn còn nhiều khó khăn hạn chế đó là diện tích đất hoa màu còn khá ít
trong khi dân số đông và phải giải quyết vấn đề bài toán lao động. Tài nguyên môi
trường như than nâu, khí thiên nhiên có nhiều nhưng khó khai thác và nếu có khai thác
được thì ảnh hưởng tới môi trường khó có thể đo đếm được, thiên tai bão lũ thường
xuyên xảy ra hàng năm do nước đổ về hạ lưu Sông Hồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
còn chậm, dựa chủ yếu vào nông nghiệp và dịch vụ phân bố chủ yếu ở các đô thị lớn
như Hà Nội, Hải Phòng. Nguyên liệu tại chỗ cho phát triển công nghiệp còn rất thiếu,
phải nhập khẩu từ bên ngoài.
Thực tiễn đã chỉ ra, năng lực hấp thụ công nghệ của DN hết sức đa dạng, tùy
thuộc vào vị trí, vai trò, khả năng phụ thuộc vào chiến lược phát triển KT-XH, quyết
tâm của lãnh đạo, chất lượng nguồn nhân lực, quy mô về vốn đầu tư,… Vì vậy, năng
lực hấp thụ công nghệ được xem là một trong những nhân tố phản ánh nhu cầu thực
tiễn và ứng dụng của các DN đạt một trình độ cao, cụ thể như các DN trên địa bàn
Đồng bằng Sông Hồng còn nhỏ bé cả về quy mô và vốn đầu tư nên khả năng hấp thụ
5
vốn công nghệ rất hạn chế, cũng như các DN chỉ mua về và ứng dụng, không có nhu
cầu làm chủ công nghệ thì sẽ hạn chế khả năng hấp thụ công nghệ,… Giải quyết được
vấn đề này sẽ giúp các DN cải thiện được hiệu quả kinh doanh, tăng cường khả năng
cạnh tranh, phát huy được sức mạnh nội tại bên trong.
Khi nghiên cứu năng lực hấp thụ, chúng ta nên khám phá một cách có hệ thống
tổ chức chính thức có ảnh hưởng như thế nào đến cấp độ, sự hình thành, bản chất động
lực của năng lực hấp thụ và khả năng tìm kiếm tri thức trước đó. Khoảng trống nghiên
cứu tương lai là làm sao liên kết được giữa một mặt tạo động lực nghiên cứu và có cơ
chế khuyến khích bằng tiền rõ ràng để xác định mối quan hệ trên có giúp tăng việc
chia sẻ tri thức hay không. Trọng tâm nghiên cứu là khám phá hoạt động của tổ chức
chính thức và không chính thức tác động lên năng lực hấp thụ mang tính thay thế hay
bổ trợ. Ví dụ phần thưởng cho việc chia sẻ tri thức thay thế cho mạng xã hội là khoản
ràng buộc hay là nó là khoản bổ sung? Các đóng góp liên quan cũng như sự tương tác
giữa tổ chức chính thức và không chính thức cũng là những tiền đề của năng lực hấp
thụ cần phải được nghiên cứu hơn nữa.
Từ kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, Vốn tổ chức (VTC), Vốn xã hội (VXH), Vốn
con người (VCN), Khả năng sao chép (SC), Khả năng phân tích (PT), Khả năng
chuyển hóa (CH), Khả năng khai thác (KT) đều tương quan với nhau và có ý nghĩa
thống kê (P < 0,05). Kết quả này có thể giúp DN tiếp cận, huy động và triển khai các
nguồn lực như Vốn tổ chức (VTC), Vốn xã hội (VXH), Vốn con người để phát triển
DN đồng thời chia sẻ thông tin và cơ hội cho DN. Tuy nhiên, các biến liên quan đến
Khả năng sao chép (SC), Khả năng phân tích (PT), Khả năng chuyển hóa (CH), Khả
năng khai thác (KT) lại tác động trực tiếp và gián tiếp lên năng suất của DNNVV.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra môi trường hoạt động có ảnh hưởng
trực tiếp tới năng suất và tác động tới các hoạt động tạo ra năng suất của DN. Những
DN nhận được sự hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính; DN với quy mô mạng lưới tốt; hoặc
DN có trụ sở tại những khu công nghiệp, chế xuất, hay hoạt động trong môi trường có
nhiều sự cạnh tranh ngành càng cao thì năng suất của các DN đó sẽ cao hơn thông qua
kênh trung gian là đầu tư vào máy móc thiết bị và tham gia vào hoạt động xuất khẩu từ
đó đánh giá được kết quả hấp thụ công nghệ.
Xuất phát từ tầm quan trọng và thực tiễn của khu vực Đồng bằng Sông Hồng về
năng lực hấp thụ công nghệ, tác giả dựa đã lựa chọn đề tài “Nhân tố ảnh hưởng đến
6
năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực Đồng bằng
Sông Hồng” làm đề tài luận án Tiến sĩ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của luận án là tập trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
năng lực hấp thụ công nghệ của DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng. Để thực
hiện được mục tiêu này, luận án hướng tới các mục tiêu cụ thể sau đây:
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ của DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng. Từ đó, đề xuất và kiểm định mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ
công nghệ của DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng.
- Đo lường và đánh giá thực trạng về sự ảnh hưởng của các nhân tố (các biến
độc lập) trong mô hình đến năng lực hấp thụ công nghệ (biến phụ thuộc).
- Xác định mức độ và tầm quan trọng của từng nhân tố đến năng lực hấp thụ
công nghệ của DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng.
- Phân tích thực trạng và đưa ra giải pháp đánh giá năng lực hấp thụ công nghệ
trong quá trình đổi mới công nghệ của DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ của
DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung
Nghiên cứu tập trung đánh giá và lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến khả năng hấp thụ công nghệ của DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng thông qua các chỉ tiêu, chỉ số và mô hình phân tích cụ thể.
Về thời gian
Từ tháng 1/2018 đến hết tháng 10/2019.
Về không gian
Các DNNVV thuộc khu vực Đồng bằng Sông Hồng.
7
4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu cơ bản nêu trên, luận án sẽ tập trung trả lời và
làm rõ các câu hỏi nghiên cứu chính sau:
− Những nhân tố chủ yếu nào tác động đến khả năng hấp thụ công nghệ của
DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng?
− Xu hướng và mức độ tác động của từng nhân tố vốn xã hội, vốn tổ chức, vốn
con người đến khả năng hấp thụ công nghệ của DNNVV khu vực Đồng bằng
Sông Hồng như thế nào?
− Ảnh hưởng của môi trường hoạt động khu vực Đồng bằng Sông Hồng đến việc phát triển các nhân tố ảnh hưởng và nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của
DN địa phương như thế nào?
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
Luận án tiến hành nghiên cứu theo cách tiếp cận từ lý luận đến thực tiễn.
Dựa trên khung nghiên cứu lý thuyết, luận án đi từ những lý luận nền tảng lý thuyết
của mô hình đến việc ứng dụng mô hình vào nghiên cứu thực nghiệm nhằm phát
hiện những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ công nghệ của
DNNVV khu vực Đồng bằng Sông Hồng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Đối với phương pháp định tính
Phương pháp định tính được sử dụng thông qua các chuyên gia, phòng vấn… để làm rõ mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ công nghệ của DNNVV khu vực đồng bằng Sông Hồng với môi trường hoạt động được những
đối tượng này thực hiện. Các phân tích được sử dụng với mục đích tìm ra những ảnh hưởng, tác động từ môi trường bên trong, môi trường bên ngoài đến kết quả hoạt động của khả năng hấp thụ công nghệ DNNVV của khu vực đồng bằng Sông Hồng.
Nghiên cứu định tính được thực hiện gồm các bước sau: đầu tiên tác giả tổng quan các tài liệu có liên quan để xây dựng mô hình và thang đo các biến (từ lý thuyết). Sau đó, tác giả hỏi ý kiến chuyên gia để điều chỉnh mô hình và thang đo, cũng như tìm kiếm những phát hiện mới từ các chuyên gia.
5.2.2. Đối với phương pháp định lượng
8
- Luận án sử dụng phương pháp thống kê mô tả để so sánh, phân tích về khả
năng hấp thụ công nghệ DNNVV của khu vực đồng bằng Sông Hồng cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này. Ngoài ra, khả năng hấp thụ của nhóm đối tượng này cũng được đưa vào quá trình phân tích và xử lý dữ liệu thông qua phương pháp định lượng. Các số liệu được xử lý dưới dạng số tuyệt đối và số tương đối, và tùy theo từng mục đích phân tích trong từng nội dung mà tác giả đưa ra quyết định sử dụng loại số liệu nào.
- Bên cạnh việc sử dụng các dữ liệu điều tra sơ cấp được xử lý với phần mềm
SPSS 23, luận án còn kết hợp với các dữ liệu điều tra thứ cấp thông qua các báo cáo
của chính quyền địa phương, các nghiên cứu đã được công bố để đưa ra những lập
luận, những phân tích phục vụ cho nghiên cứu.
- Tác giả sử dụng nghiên cứu định lượng để kiểm định các nhân tố, đánh giá giá
trị, độ tin cậy và mức độ phù hợp của các thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến khả
năng hấp thụ công nghệ DNNVV của khu vực đồng bằng Sông Hồng; kiểm định mô
hình và các giả thuyết nghiên cứu; Luận án còn sử dụng phần mềm AMOS 23 để tiến
hành hồi quy mô hình nghiên cứu giữa các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hấp thụ
công nghệ của DN được điều tra.
- Việc tiến hành phân tích đánh giá không chỉ dựa vào các dữ liệu thống
kê mà ta quan sát được từ kết quả xử lý dữ liệu thứ cấp và sơ cấp, mà còn phải
kết hợp với những kiến thức, những hiểu biết về các biến từ môi trường bên
ngoài có thể ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ công nghệ DNNVV của khu vực
Đồng bằng Sông Hồng.
Với kết quả xử lý dữ liệu, đề tài đưa ra những phân tích, đánh giá để giải
quyết những mục tiêu nghiên cứu đặt ra; làm rõ thực trạng các nhân tố ảnh hưởng;
Dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ công nghệ DNNVV của khu
vực đồng bằng Sông Hồng trong giai đoạn tới; Đưa ra các khuyến nghị giải pháp để nâng cao khả năng hấp thụ công nghệ DNNVV của khu vực đồng bằng Sông Hồng.
6. Những đóng góp mới của luận án
Đóng góp về phương diện lý luận
Từ lý luận về khả năng hấp thụ nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ công
nghệ, luận án đã ứng dụng mô hình và kiểm chứng lại tác động của các nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ DNNVV của khu vực đồng bằng Sông Hồng.
Qua đó, tập trung luận giải và làm rõ thêm khía cạnh lý luận và khung lý thuyết nghiên
9
cứu những nhân tố ảnh hưởng thông qua mô hình nghiên cứu để thể hiện rõ vai trò và
mức độ tác động của chúng đối với khả năng hấp thụ công nghệ DNNVV thuộc một
khu vực kinh tế ở Việt Nam là đồng bằng Sông Hồng.
Đóng góp về phương diện thực tiễn
Kiểm chứng thực tiễn về khả năng hấp thụ công nghệ của Việt nam, những
nghiên cứu trước đây chủ yếu xem xét yếu tố tác động đến năng lực hấp thụ công nghệ
thuần túy mà chưa có cơ sở để đánh giá đồng bộ các nhân tố quản lý (vốn tổ chức,
VTC), con người (vốn con người, VCN), và môi trường tổ chức (vốn xã hội, VXH),
tác động của chúng đến năng lực hấp thụ công nghệ của DN.
Ngoài ra, luận án cũng xem xét tác động của biến kiểm soát Môi trường hoạt
động, trong đó thể hiện ảnh hưởng của các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, đến khả
năng phát triển công nghệ của DN thông qua tác động của chúng đến năng lực hấp thụ
công nghệ. Sự ảnh hưởng khác nhau của từng nhân tố cũng đã được tác giả chỉ ra
trong mô hình hồi quy, kết quả nghiên cứu là cơ sở quan trọng và có ý nghĩa để tác giả
đề xuất các giải pháp để giúp DN nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ trong khu vực
và trên thế giới.
Nghiên cứu cung cấp được những dữ liệu quan trọng về các nhân tố ảnh hưởng
đến khả năng hấp thụ công nghệ của các DNNVV của khu vực đồng bằng Sông Hồng
ở Việt Nam. Qua đó làm cơ sở và cung cấp thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp
ứng dụng mua sắm công nghệ, cung như cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý để
làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách nhập khẩu thiết bị cho phù hợp với Việt nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu thành 5 chương với nội
dung chính như sau:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về năng lực hấp thụ công nghệ
Chương 2: Cơ sở lý luận về năng lực hấp thụ công nghệ Chương 3: Phương pháp nghiên cứu về năng lực hấp thụ công nghệ Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Thảo luận và đề xuất những phát hiện của nghiên cứu
10
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ
1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
a. Về năng lực hấp thụ
Các nghiên cứu nước ngoài về năng lực hấp thụ: đã khái quát, kiểm định năng
lực hấp thụ dựa trên phạm vi chủ thể là cá nhân, nhóm, tổ chức/doanh nghiệp, cộng đồng, nền kinh tế. Phạm vi khách thể là công nghệ, chính sách, vốn, tri thức/kiến thức mới (kinh nghiệm, sáng chế, ý tưởng sáng tạo, thông tin, tư vấn)… Nhưng chưa nêu rõ tác động đối với DN là khả năng sáng tạo, nâng cao ước vọng, cải thiện năng lực học tập/tích lũy kinh nghiệm của nhân lực và DN; => muốn đổi mới/sáng tạo, phải nâng cao năng lực hấp thụ. Khái niệm về hấp thụ Công suất được xác định là một công cụ
quan trọng cho các DN để duy trì, phát triển và cạnh tranh trên thị trường.
Đối với các yếu tố tác động tới năng lực hấp thụ của DN bao gồm các khả năng
sao chép, phân tích, chuyển hóa và khai thác nguồn lực trở nên có ích đối với DN.
Trước tiên, Carmen (2007), cho rằng có bốn khía cạnh của khái niệm khả năng
hấp thụ đối với các DNNVV. Chúng bao gồm bốn khía cạnh: mua lại, đồng hóa, chuyển đổi và khai thác.
Mua lại: Điều này nói đến khả năng của công ty để xác định và tiếp thu kiến thức mà là từ bên ngoài tạo ra. Chất lượng công suất công ty để có được xác định bởi
cường độ và tốc độ của những nỗ lực của công ty để xác định và tích lũy kiến thức (Zahra & George, 2002; Carmen, 2007).
Chuyển hóa cho phù hợp với công ty: Kiến thức chuyển hóa được định nghĩa là
thói quen và quy trình của công ty cho việc phân tích, chế biến, diễn giải và hiểu thông tin thu được từ các nguồn bên ngoài, cho các kiến thức thu được nội bộ bên trong công ty (Szulanski,1996; Carmen, 2007).
Chuyển đổi: Đây là năng lực của công ty để cải thiện thói quen của mình để tạo
thuận lợi cho sự kết hợp của kiến thức và kiến thức thu được và đồng hóa (Zahra & George, 2002 hiện có; Carmen, 2007).
Khai thác: Cohen & Levinthal (1990), quy định việc khai thác như năng lực của
một công ty dựa trên thói quen của họ. Điều này hỗ trợ của công ty để nâng cao, mở rộng và sử dụng năng lực hiện có của công ty và tính sáng tạo để tạo ra quá trình và sản phẩm mới thông qua sự kết hợp của kiến thức thu được và chuyển đổi hoạt động của nó để tăng năng suất của công ty (Carmen, 2007).
11
Nhằm mục đích khắc phục những hạn chế đó, Cohen & Levinthal (1990), nhấn
mạnh vào yếu tố phải phát triển khả năng hấp thụ cho DN và được hưởng lợi từ các dòng chảy tri thức bên ngoài. Một công ty được đánh giá tốt hơn khi được trang bị khả năng hấp thụ tri thức từ bên ngoài để phục vụ phát triển sản xuất của chính DN. Trong khi đó nhiều tác giả đã tuyên bố rằng chính giáo dục đào tạo từ lâu được xác định là một phương tiện để tăng nhanh tri thức của cá nhân lẫn các tổ chức vì nó hỗ trợ cải thiện sự sáng tạo của công ty (Mangematin & Nesta, 1999; Lundvall et al, 2002). Họ tin rằng vấn đề đào tạo về mặt nhân lực đồng thời và liên tục sẽ giúp mang lại lợi ích
lâu dài cho tổ chức cũng như trở thành công cụ cần thiết để đối mặt với sự cạnh tranh và sự đối phó với sự phức tạp trong nền kinh tế toàn cầu.
Cùng quan điểm trên, công trình của Ade Abdulquadri Bilau và các cộng sự
(2015), đã chỉ ra nhiều nghiên cứu trước đó đã nhấn mạnh vào các doanh nghiệp lớn với các cấu trúc điều hành phức tạp và nghiên cứu và phát triển nền tảng vững chắc và không có nhiều nghiên cứu đã đề cập đến lý thuyết trong quan điểm của các công ty vừa và nhỏ. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là để thực hiện một nghiên cứu tài
liệu chi tiết nhằm tìm hiểu khả năng hấp thụ của các công ty vừa và nhỏ. Công trình đã định nghĩa khả năng hấp thụ của một tổ chức phản ánh năng lực sao chép (bắt chước), phân tích, chuyển hóa, khai thác, các nhân tố liên quan đến vốn con người (kỹ năng, chất lượng nhân lực), vốn xã hội (mức độ cởi mở, hợp tác, quan tâm), và vốn tổ chức
(cơ sở và hệ thống thông tin). Kết quả mối quan hệ được kiểm chứng qua mô hình nghiên cứu.
Becker và Dietz (2004), chứng tỏ rằng sự hợp tác trong nghiên cứu và phát triển
(R & D) làm tăng sự đổi mới tổ chức vì nhiều bằng chứng chỉ ra sự hợp tác nghiên cứu rất phổ biến khi các tổ chức phát triển cải tiến ở mức độ cao hơn. Hơn nữa, sự phát triển các tổ chức của các mối quan hệ bên ngoài gần làm tăng tổ chức hiệu quả tiềm năng của sự truyền tải thông tin cũng như kiến thức vô hình cũng như tổ chức có mối quan hệ gần
gũi với các nhân viên trong tổ chức khiến tăng đáng kể về hiệu suất sáng tạo.
Công trình của Cohen và Levinthal (1989, 1990), đã nghiên cứu trên 297 công ty công nghiệp ở Mỹ sử dụng phương pháp đo lường tác động đến chi phí R & D của
môi trường học tập đã chỉ ra mối liên hệ giữa bán hàng, chi tiêu R & D với khả năng hấp thụ. Công trình đã xác định năng lực hấp thụ như là năng lực của một DN để nhận biết và đồng hóa kiến thức bên ngoài. Khả năng hấp thụ của DN không được đưa vào một chiều tĩnh nên khá là năng động và phụ thuộc vào những kiến thức tích lũy được
trước đó. Chính vì vậy các DN vẫn đầu tư vào R & D, lý do chính là nó tạo kỹ năng, khả năng và tạo điều kiện cho sự tiếp thu kiến thức bên ngoài. Nhưng kết quả chỉ đơn
12
thuần là một tài sản mà nhận ra giá trị của nó trong giới hạn của DN cùng với các đơn
vị khác, các công ty sáng tạo với những cách quan trọng của việc tăng cường khả năng hấp thụ của công ty và được hưởng lợi từ kiến thức tạo ra bởi những người khác. Chính phủ đang chú ý đến việc giảm dần các rào cản đối với R & D (làm, mua và hợp tác) và trong việc phát triển các kỹ năng trong các DN, các tổ chức khuyến khích các môi trường sáng tạo và sáng tạo tất cả các điều đó có nghĩa rằng những tác động khác nhau của R & D đổi mới và năng suất cần phải được nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của Cohen và Levinthal (1989), là thể hiện những tiến bộ
chính thực hiện trong việc giải thích phân tích về bản chất của hoạt động R & D và kết quả của các hoạt động này dựa trên hiệu quả của các DN sáng tạo. Kết quả cho thấy các nghiên cứu thực nghiệm về nguồn R & D và hiệu suất cải tiến ở cấp công ty đã phát triển
liên tục. Tuy nhiên, bản chất đa dạng của các hệ thống quốc gia và điều kiện khu vực và ngành tạo ra sự khác biệt mà hạn chế việc áp dụng trực tiếp các mô hình đơn giản.
Davide Dell ' anno và Manlio del Giudice (2015), cho rằng quá trình chuyển giao công nghệ giữa các trường đại học và DN được coi như là một hệ thống con của
chuyển giao kiến thức thuộc vốn con người. Các chuyển giao kiến thức có liên quan đến mức độ tuân thủ các nội dung mà nó được tạo ra để chuyển giao hoặc vận hành, ngay cả khi nó liên quan đến chi phí cận biên của việc phổ biến và nhân rộng Davide Dell ' anno và Manlio del Giudice (2015), cho rằng “mục đích để khích lệ các nhà
nghiên cứu theo đuổi trong các nghiên cứu trong tương lai, biết thêm chi tiết về mối liên quan giữa hấp thụ và năng lực hấp thụ trong tương tác lẫn nhau. Để khẳng định, các công trình liên quan là cần thiết để kiểm tra thực nghiệm của vấn đề nghiên cứu”.
Quan trọng hơn, việc phân tích nên được mở rộng bằng cách đề xuất thời gian chéo hoặc giao thoa văn hóa giữa các nước khác nhau. Hơn nữa, nó sẽ trở nên quan trọng để đánh giá hiệu quả của sự hợp tác này bằng cách đánh giá tác động đối với tính sáng tạo cũng như về hiệu suất và tăng trưởng. Nghiên cứu chắc chắn sẽ làm phong phú thêm
tổng quan về đề tài này.
Tiếp nối dòng chảy của vấn đề hấp thụ công nghệ công trình của Cohen & Levinthal (1990), phát hiện ra rằng biến tổ chức như cơ cấu tổ chức, văn hóa và truyền
thông cũng ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ thông qua vốn xã hội. Họ nhấn mạnh rằng những yếu tố này quan hệ với nhau và kết quả là ảnh hưởng lẫn nhau. Bên cạnh đó, văn hóa tổ chức có ảnh hưởng về tính sáng tạo của một tổ chức như vậy nó có tầm quan trọng đặc biệt cho dù truyền thống hay thay đổi liên tục của một giá trị trong tổ
chức. Tác giả lập luận thêm rằng mọi người cố gắng để thích nghi với một nền văn hóa nhất định và nếu thay đổi được mong muốn, các cá nhân sẽ được nhiều động lực hơn
13
để tìm kiếm thông tin về những thay đổi và cải tiến. Do đó, văn hóa có rất ít chỗ cho
sự hấp thu từ các nguồn bên ngoài kiến thức, đặc biệt là nếu họ mâu thuẫn với niềm tin hiện có (Bosch et al, 1999; Bilau, 2011). Họ trở nên miễn cưỡng đồng hóa và sử dụng thông tin từ bên ngoài bởi vì họ không thể nhận ra giá trị của họ, mặc dù họ có thể nhận thức. Do đó, các loại văn hóa lại rất ít chỗ cho sự hấp thu của các nguồn bên ngoài kiến thức, đặc biệt là nếu họ mâu thuẫn với niềm tin hiện có (Bosch et al, 1999; Bilau, 2011).
Yêu cầu của cuộc điều tra đòi hỏi nó cho phép các DN xác định, chuyển hóa, và
sử dụng kiến thức bên ngoài cần thiết cho sự phát triển của các DN (Cohen & Levinthal, 1990; Kelly, 2006). Phát triển khả năng này đòi hỏi sự đầu tư của DN về thời gian, nguồn lực và điều này có thể mất thời gian lý thuyết hóa và cho thấy tầm
quan trọng của hoạt động nghiên cứu, hoạt động hợp tác nghiên cứu và hợp tác với các nhà nghiên cứu từ bên ngoài. Đây là hướng tới cung cấp khả năng xác định, nắm bắt và sử dụng kiến thức bên ngoài có giá trị cho các lợi thế cạnh tranh của tổ chức.
Công trình của Ade Abdulquadri Bilau và các cộng sự (2015), đã thừa nhận
khái niệm của Adler (1965), khả năng hấp thụ có nguồn gốc từ kinh tế vĩ mô, nơi mà nó đề cập đến khả năng của một nền kinh tế sử dụng và hấp thụ thông tin đối ngoại và các nguồn lực. Bên cạnh đó, Carmen (2007), thì cho rằng có bốn khía cạnh của khái niệm khả năng hấp thụ. Chúng bao gồm: mua lại, đồng hóa, chuyển đổi và khai thác.
Kế thừa những khái niệm về khả năng hấp thụ, nghiên cứu đưa ra các kết luận đó là đây là nghiên cứu nhằm tìm hiểu thông qua một tài liệu nghiên cứu chi tiết các mức độ nhận thức về khái niệm khả năng hấp thụ của các DN xây dựng vừa và nhỏ ở
Nigeria. Các nghiên cứu chuyên sâu nhằm xác định các mức độ nhận thức của các DN vừa và nhỏ ở Nigeria, bằng cách xác định các chỉ số đo lường khả năng hấp thụ cho các DNNVV. Đóng góp của nghiên cứu đó là tìm hiểu sự phát triển của các DNNVV trong việc quản lý, điều chỉnh khả năng hấp thụ của bản thân mỗi DN. Các kết quả của
nghiên cứu này góp phần vào việc nêu bật về các vấn đề liên quan đến năng lực hấp thụ và xa hơn là xem xét tính phù hợp của các khái niệm có thể áp dụng được cho các công ty xây dựng có quy mô vừa và nhỏ ở Nigeria.
Một nghiên cứu khác về khả năng hấp thụ công nghệ của Hanna Salojärvi và Liisa-Maija Sainio (2006), nhấn mạnh vào vai trò của con người do đó đã xây dựng một khuôn khổ khả năng hấp thụ công nghệ có thể được áp dụng cho toàn tổ chức nghiên cứu tìm hiểu về khách hàng của các tổ chức đó. Qua đó, làm tăng sự hiểu biết
của công ty từ nguồn khách hàng trong tổ chức của họ. Nghiên cứu định nghĩa khái niệm, khả năng hấp thụ được định nghĩa là việc chuyển giao kiến thức để các yếu tố đó
14
lái sự phát triển của khả năng hấp thụ trong lần đầu tiên diễn ra. Trong nghiên cứu này
khả năng hấp thụ xây dựng đã được nghiên cứu từ quan điểm của một công ty chính là nhà cung cấp phục vụ một đối tượng khách hàng cụ thể.
Có hai yếu tố tiền đề hỗ trợ cho việc hấp thụ công nghệ của DN bao gồm: môi trường bên ngoài và yếu tố nội bộ bên trong. Môi trường bên ngoài chính là nguồn tri thức (do khách hàng mua lại hoặc kế thừa thành quả từ trước). Thứ hai là yếu tố nội bộ bên trong bao gồm: hệ thống hỗ trợ, các kiến thức của nội bộ tổ chức trước khi có liên quan tới khách hàng, và động lực làm việc của tổ chức.
Hạn chế của nghiên cứu đó là các công trình không nêu được vấn đề làm sao để công ty có thể khai thác kiến thức của khách hàng để phục vụ cho mục đích hấp thụ công nghệ ví dụ như làm sao để phát triển mối quan hệ với khách hàng tiềm năng mới
mà chỉ dừng lại ở mục đích làm sao để mua lại kiến thức của các khách hàng mới. Điều này đồng nghĩa rằng các công ty phải giữ cho sự đa dạng kiến thức và nhằm mục đích hiểu biết toàn diện về môi trường cạnh tranh. Khi đa dạng được các nguồn kiến thức trong bối cảnh thị trường thay đổi nhanh chóng do đó trách nhiệm của việc mua
lại kiến thức của khách hàng liên quan đến nên là trách nhiệm phân cấp bởi vì một người mình không có khả năng theo dõi có sự thay đổi liên tục.
Các nghiên cứu nước ngoài về năng lực hấp thụ được tập hợp ở Bảng 1.1.
Bảng 1.1: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về năng lực hấp thụ
Nhận xét Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu
Tập trung phân tích vào yếu tố phải phát triển Một công ty được đánh giá tốt hơn khi được trang bị khả năng hấp thụ tri thức từ Chỉ nghiên cứu được khả năng hấp thụ
từ
thức tri bên ngoài
Cohen & Levinthal (1990) khả năng hấp thụ cho DN và được hưởng lợi từ các dòng chảy tri thức bên ngoài; Xác bên ngoài để phục vụ phát triển sản xuất của bản thân; Biến tổ chức như cơ cấu tổ chức, văn hóa và truyền
định các nhân tố tiền đề ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ thông cũng ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ của tổ chức.
15
Nhận xét Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu
Chỉ ra mối liên quan giữa R & D với khả năng hấp thụ. Chưa có hoạt động mua lại,
Cohen & Levinthal (1989,1990) Xác định bản chất của khả năng hấp thụ của một công ty Công trình đã xác định khả năng hấp thụ như là khả năng của một công ty để đồng hóa, chuyển đổi và khai thác
nhận biết và đồng hóa kiến thức bên ngoài.
Luo (1997) Tác động từ đặc điểm nhất định của DNNVV địa phương lên sự thành Chưa có hoạt động mua lại, đồng hóa, Khả năng hấp thụ của các DNNVV địa phương là rất quan trọng cho hoạt động
công của thỏa thuận hợp tác tốt của bất kỳ công ty liên doanh. chuyển đổi và khai thác
lực hấp
Lamb, R. e.a.
Định hình khuôn khổ đo lường năng lực hấp thụ nguồn lực của một tổ chức dân sự Khái quát khái niệm năng lực hấp thụ và mở rộng khái thụ niệm năng (absorptive capacity), các chỉ số, phương pháp đo tố ảnh MAC, các yếu Chỉ nêu được niệm, khái phương pháp, chưa hình khả thành năng hấp thụ
công nghệ
hưởng. Vận dụng vào tình huống cụ thể.
Khái quát hóa năng lực hấp thụ và và mở rộng khái Chưa có các nghiên cứu về Định hình khung nghiên thức cứu về vốn tri VCN, lực hấp
VTC, VXH. Gonzalez, P.e.a.
trong tổ chức với công nghệ và năng lực của tổ chức, đặc biệt năng lực thụ niệm năng thông (smart minh absorptive capacity); Các nhân tố định hình năng lực hấp thụ của DN hấp thụ thông minh.
Carmen (2007) Tìm ra bốn khía cạnh: mua lại, đồng hóa, chuyển đổi và khai thác của nhân tố khả Cần có các nghiên cứu cụ thể về VTC, Tìm hiểu khía cạnh của khái niệm khả năng hấp thụ đối với các DNNVV năng hấp thụ. VCN, VXH.
16
Nhận xét Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu
Các cứu nghiên chỉ
Vai trò của sự hợp tác giữa phòng R&D của DN và các tổ chức khác chung chung, chưa cụ thể ra các hóa Becker và Dietz (2004) Chứng tỏ rằng sự hợp tác của R & D làm tăng sự đổi mới tổ chức vì nhiều bằng tại để chứng chứng tác minh tồn rằng sự hợp
trong việc trao đổi và nắm bắt công nghệ
nghiên cứu rất phổ biến khi các tổ chức phát triển cải tiến ở mức độ cao hơn hoạt động của năng lực hấp thụ công nghệ
có cứu tài liệu chi Chưa nghiên về VXH
Tìm ra VTC, VCN, trong đó VTC có ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ của DN. Kết quả mối quan hệ được Hoàn thiện một nghiên cứu tiết nhằm tìm hiểu khả năng hấp thụ của các công ty
Ade Abdulquadri Bilau và các cộng sự (2015) vừa và nhỏ kiểm chứng qua mô hình nghiên cứu.
Khả năng hấp thụ rất quan trọng để làm phong phú thêm việc nghiên cứu của tổ Chưa có nghiên cứu về VXH, VCN
Zahra SA and George G (2002) Tác động của kiến thức, đổi mới với hấp thụ công nghệ chức, như đa dạng kiến thức từ nhiều nguồn và sử dụng kiến thức này để hấp thụ kiến
thức mới làm tăng khả năng hấp thụ và đổi mới công nghệ.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
b. Về vốn xã hội (VXH)
Vốn xã hội hiện nay đang là một khái niệm mới, người ta tìm thấy ở hiện tượng xã hội này rất nhiều ý nghĩa, kể cả về khả năng cũng như về quy mô tác động của vốn xã hội đến sự phát triển con người và phát triển xã hội.
Vốn xã hội (social capital) được quan niệm là: một loại vốn, bên cạnh các loại vốn khác như vốn tài chính, vốn tổ chức, vốn con người. Đến nay, đã có nhiều định nghĩa và cách giải thích khác nhau về vốn xã hội (Baker, 1990; Bourdieu, 1986;
17
Coleman, 1988; Fukuyama, 2001, 2002; Halpern, 2005; Lin, 1999, 2001; Portes, 1998;
Putnam, 1995, 2000). Phân tích một cách khái quát các định nghĩa, cũng như các cách giải thích này cho thấy giữa các tác giả vừa có sự nhất trí, lại vừa có cách hiểu khác nhau về vốn xã hội. Về sự nhất trí giữa các tác giả, mặc dù mỗi người dựa trên kết quả nghiên cứu riêng của mình tại những quốc gia hay những vùng lãnh thổ khác nhau, song đại đa số họ đều gặp nhau ở những điểm sau đây.
Thứ nhất, vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội. Chẳng hạn, vốn xã hội kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững (Bourdieu, 1986: 248-
249), vốn xã hội nằm trong quan hệ xã hội (Coleman, 1988: 98-100), vốn xã hội ở trong mạng lưới xã hội (Lin, 2001: 24-25), mạng lưới xã hội là một thành tố của vốn xã hội (Putnam, 2000: 19), cần quan sát vốn xã hội thông qua mạng lưới xã hội
(Portes, 1998: 8).
Thứ hai, nhiều tác giả dùng khái niệm nguồn lực để định nghĩa vốn xã hội. Nếu Bourdieu (1986: 248-249) quan niệm vốn xã hội là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc quen biết, thì Lin (2001: 25) định nghĩa vốn xã hội là nguồn lực nằm
trong mạng lưới xã hội. Theo quan điểm của Fukuyama (2002: 26), cá nhân có thể tạo ra và sử dụng vốn xã hội để phục vụ mục đích của mình. Trong khi đó Putnam (2000: 296-306, 319-325) cho biết vốn xã hội được dùng để tìm kiếm sự thịnh vượng về kinh tế, hay thành công trong học hành. Lin (1999: 30) lại nói rõ vốn xã hội phản ánh khả
năng đầu tư và lợi ích thu về.
Thứ ba, sự tin cậy và quan hệ qua lại được nhiều tác giả đề cập đến khi bàn về vốn xã hội. Fukuyama (2001: 7-8) quan niệm vốn xã hội gồm có chuẩn mực của sự có
đi có lại, và vốn xã hội biểu thị sự tin cậy. Portes (1998: 7-8) lại nói sự trao đổi qua lại và lòng tin là những nguồn gốc của vốn xã hội. Putnam (2000: 19) quan niệm vốn xã hội gồm có các chuẩn mực của quan hệ trao đổi qua lại và sự tin cẩn.
Bên cạnh những điểm nhất trí với nhau: Giữa các nhà nghiên cứu cũng có
không ít cách hiểu khác nhau về vốn xã hội. Trong khi có người cho rằng vốn xã hội gồm các mạng lưới xã hội (Putnam, 2000: 19) hay các khía cạnh của cấu trúc xã hội (Coleman, 1988: 98), thì những người khác lại cho đó là nguồn lực liên kết với các
mạng lưới (Bourdieu, 1986: 248), hay nguồn lực nằm trong mạng lưới (Lin, 2001: 25). Cũng có người coi vốn xã hội là các chuẩn mực không chính thức (Fukuyama, 2001: 7), chuẩn mực của quan hệ trao đổi qua lại và niềm tin (Putnam, 2000: 19), hay phản ánh khả năng của các cá nhân trong việc tìm kiếm lợi ích thông qua tư cách thành viên
của các mạng lưới, cấu trúc xã hội (Portes, 1998: 6-8). Quả thật, sự bất đồng hay khác biệt trong quan niệm về vốn xã hội ở đây là rất lớn.
18
Khái niệm vốn xã hội hiện vẫn đang được tiếp tục thảo luận, phát triển với
nhiều định nghĩa, cách giải thích khác nhau, kể cả những phê phán đi kèm theo đó. Nhìn một cách tổng quát, sự khác biệt trong các quan niệm về vốn xã hội đang tạo ra cả những thuận lợi lẫn khó khăn cho việc áp dụng khái niệm này vào nghiên cứu thực nghiệm. Về ưu điểm, sự đang dạng và phong phú về định nghĩa và cách giải thích cho thấy vốn xã hội có liên quan và có thể được áp dụng nghiên cứu nhiều lĩnh cứu khác nhau của đời sống. Chẳng hạn, Coleman (1988) sử dụng định nghĩa và cách giải thích của mình về vốn xã hội để nghiên cứu các vấn đề về giáo dục, trong khi đó Fukuyama
(2000) sử dụng khái niệm này để tìm hiểu sự phát triển kinh tế, những người khác (Hendryx và cộng sự, 2002) lại vận dụng nghiên cứu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Sự khác nhau trong quan niệm về vốn xã hội cũng tạo ra không ít khó khăn để
giải quyết các vấn đề thực tiễn. Chẳng hạn, trong khi Putnam (2000: 19) coi vốn xã hội bao gồm các mạng lưới xã hội thì Lin (2001: 24-25) tuyên bố vốn xã hội nằm trong/thuộc về các mạng lưới xã hội, chứ không phải là các mạng lưới xã hội. Trong khi Fukuyama (2002: 29) xem vốn xã hội như là hàng hóa tư (private good), thì
Bourdieu (1986: 248-249) và Coleman (1988: 19) lại khẳng định đó là hàng hóa công (public good). Rõ ràng là, về vốn xã hội, mặc dù vô cùng lý thú và bổ ích, song đó vẫn là một thứ mà người ta chưa dễ dàng nhất trí với nhau về cách hiểu, càng chưa dễ dàng nhất trí với nhau về cách sử dụng.
Trước hết, về khả năng tác động đến đời sống con người và xã hội, người ta thấy rằng vốn xã hội có thể giúp ích rất nhiều trong việc huy động các nguồn lực nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Woolcock, 1998, 2001; Woolcock và cộng sự, 2000). Ở
đây, các tác giả đã phân biệt hai loại vốn xã hội: vốn xã hội co cụm vào trong (bonding social capital) và vốn xã hội vươn ra bên ngoài (bridging social capital). Vốn xã hội co cụm vào trong được quan niệm là loại vốn tồn tại bên trong các nhóm, các cộng đồng; còn vốn xã hội vươn ra bên ngoài tồn tại trong các quan hệ giữa các cá nhân vượt ra
khỏi khuôn khổ các nhóm, hay cộng đồng đồng nhất (các cá nhân ở nhóm này, cộng đồng này với các cá nhân ở nhóm khác, cộng đồng khác). Hai loại vốn này không chỉ có những đặc trưng khác nhau, mà tác động xã hội của chúng cũng không giống nhau.
Nếu vốn xã hội co cụm vào trong giúp giảm thiểu rủi ro, bảo vệ bí mật kinh doanh, và duy trì thực lực kinh tế đã có, thì vốn xã hội vươn ra bên ngoài lại có vai trò quan trọng trong việc cải thiện lợi ích vật chất, nâng cao sản lượng, lợi nhuận và giúp cho cá nhân vươn lên phía trước (Woolcock và cộng sự, 2000: 233).
Cũng bàn về vốn xã hội trong lĩnh vực kinh tế, Grootaert (1999) đã nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong lĩnh vực kinh tế vi mô ở một nước đang phát triển là
19
Indonesia. Tác giả này cho rằng vốn xã hội mang lại lợi ích lâu dài đối với các hộ gia
đình, mà cụ thể là việc tiếp cận đối với dịch vụ tín dụng nhằm xóa đói, giảm nghèo và tạo ra thu nhập ổn định. Trong khi đó Guiso và cộng sự (2004) lại tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn xã hội và phát triển tài chính ở một nước phát triển là Italia. Theo các tác giả này trong những vùng có vốn xã hội cao, các hộ gia đình thường tiếp cận với hình thức tín dụng mang tính thể chế, và ít sử dụng tín dụng phi chính thức. Với nghiên cứu ở khu vực Mỹ La tinh, Fukuyama (2002) đã giải thích rằng vốn xã hội giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhiều doanh nghiệp ở Mỹ La
tinh, và giúp cho nhiều người vượt ra khỏi những khó khăn trong giai đoạn suy thoái kinh tế ở khu vực này. Qua một nghiên cứu khác của Fukuyama (2001) khẳng định vốn xã hội là những chuẩn mực không chính thức thúc đẩy sự hợp tác giữa các cá nhân.
Theo ông, trong các hoạt động kinh tế, mỗi cá nhân sẽ giảm được nhiều chi phí giao dịch nhờ vào vốn xã hội giữa họ.
Vốn xã hội cũng có thể góp phần vào việc phát triển vốn con người, nhất là đối với thế hệ trẻ. Minh chứng cho nhận định này là công trình nghiên cứu: Vốn xã hội
trong việc tạo ra vốn con người của Coleman (1988). Trong công trình này, Coleman đã trình bày những phát hiện của ông về tỷ lệ bỏ học của học sinh trong mối quan hệ với vốn xã hội trong gia đình. Từ đó Coleman chỉ ra rằng vốn xã hội của các bậc cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến thành tích học tập của con cái họ. Vai trò của vốn xã hội trong
việc hình thành vốn con người còn được thể hiện qua kiểm soát xã hội. Dựa vào dữ liệu từ nghiên cứu của Zhou và Bankston về cộng đồng liên kết chặt của người Việt Nam định cư ở New Orleans (Hoa Kỳ), nhà xã hội học Portes (1998) cũng cho rằng nhờ có
vốn xã hội trong cộng đồng người Việt ở đây nên việc học tập của con cái họ được kiểm soát hiệu quả.
Nói đến những tác động của vốn xã hội, các nhà nghiên cứu cũng không quên vai trò quan trọng của nó trong việc hình thành và phát triển xã hội dân sự. Theo Fukuyama (2002) vốn xã hội đóng vai trò thiết yếu đối với nền dân chủ, mà xã hội dân sự thì đi liền với nền dân chủ. Dựa vào vốn xã hội, các cá nhân tập hợp lại với nhau để hỗ trợ những nhu cầu tập thể, và cỗ vũ sự phân quyền trong xã hội. Trong khi đó Putnam (1995, 2000) chỉ ra rằng vốn xã hội mang sẵn trong nó hàng loạt các thuộc tính giúp cho xã hội vận hành hài hòa và trôi chảy, đó là tăng cường các chuẩn mực, làm đơn giản hóa sự hợp tác, cung cấp khuôn mẫu cho sự hợp tác, từ đó mang lại các giải pháp cho những tình huống khó khăn của các hành động tập thể. Qua nghiên cứu, Putnam rút ra nhận xét là: vốn xã hội không chỉ giúp nâng cao học vấn, cải thiện điều kiện chăm sóc trẻ em, nó còn mang lại sự an toàn cho cộng đồng và tạo ra hạnh phúc
20
cho các thành viên cộng đồng. Cũng theo nhà nghiên cứu này, vốn xã hội biểu thị sự cam kết công dân và là công cụ hướng tới sự thịnh vượng chung.
Tuy nhiên, vốn xã hội cũng có mặt trái của nó. Theo nhà xã hội học Portes (1998: 1517) vốn xã hội chứa đựng trong nó ít nhất là bốn hậu quả tiêu cực. Thứ nhất, vốn xã hội mang lại cố kết bên trong nhóm, tuy nhiên, những cố kết như thế lại ngăn cản sự tham gia của những người bên ngoài. Thứ hai, vốn xã hội trong các cộng đồng và nhóm khép kín có thể ngăn cản sự thành công trong kinh doanh của các thành viên. Thứ ba, với những ràng buộc do nó tạo nên, vốn xã hội hạn chế tự do cá nhân của các thành viên. Thứ tư, với đặc tính liên kết, trong nhiều tình huống, sự thành công của cá nhân làm xói mòn cố kết nhóm. Bổ sung vào danh sách liệt kê này, Fukuyama (2002: 27-28) còn cho rằng vốn xã hội trong các quan hệ họ hàng, mặc dù tạo ra sự trợ giúp hiệu quả cho cá nhân hoặc doanh nghiệp trong những thời điểm kinh tế khó khăn; song do những hệ quả tiêu cực kéo theo như sự thiếu tin cậy đối với người xa lạ, nên gây ra khó khăn khi mà các doanh nghiệp lớn mạnh, phát triển lên. Cũng trên tinh thần đó, Putnam còn cho rằng vốn xã hội có thể tạo ra bè phái và tham nhũng (trích theo Smith và cộng sự, 2002: 173). Nói tóm lại, bên cạnh những tác động tích cực, vốn xã hội cũng tạo ra những hệ quả tiêu cực đối với sự phát triển con người và xã hội.
Ngoài ra, còn có Westlund (2003), đã đánh giá tầm ảnh hưởng của hai yếu tố VXH trong DN: mạng lưới quan hệ và chuẩn mực; Đầu tư vào ‘vốn xã hội’; Những khó khăn, trở ngại do những quy tắc trong phương pháp truyền thống khi phân tích và đánh giá kết quả đầu tư vào vốn xã hội trong DN; Cần có cách tiếp cận mới.
Các nghiên cứu nước ngoài về vốn xã hội được tập hợp ở Bảng 1.2.
Bảng 1.2: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VXH
Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Nhận xét
Leenders e.a. Vai trò của VXH đối với kết quả hoạt động DN
Nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động bao gồm: (1) môi trường hoạt động, (2) định hướng phát triển và (3) mạng lưới các mối liên hệ bên trong DN. Các nghiên cứu chưa cụ thể hóa ra các hoạt động của liên quan VXH đến năng lực hấp thụ công nghệ
Chưa có mối liên hệ với năng lực hấp thụ Grootaert (1997) Mối liên hệ giữa VXH và phát triển bền vững
Lòng tin và vai trò của nó trong phát triển mối quan hệ bền vững. Vốn xã hội chỉ có thể phát huy khi kết hợp với những nguồn lực (vốn) khác. Grootaert Kiểm định được vai trò, VXH chỉ có thể phát huy khi Chưa có khung lý
21
Tác giả Mục đích nghiên cứu (1999) lòng tin, mối quan hệ giữa VXH và phát triển bền vững
Kết quả nghiên cứu kết hợp với những nguồn lực (vốn) khác. VXH đơn lẻ và tập hợp các VXH đóng vai trò nhân tố tiền đề khi phân tích khả năng hấp thụ của DN.
Nhận xét luận các và nghiên cứu về vai trò của vốn tri thức đối với năng lực hợp tác và sáng tạo của con người trong tổ chức
Chưa có mối liên hệ với năng lực hấp thụ
Woolcock (2000) Tổng hợp những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến VXH
Ba vấn đề lớn về VXH cần được nghiên cứu: (1) cách thức VXH, VCN và năng lực xã hội gắn kết với nhau; (2) cách thức xác minh VXH; và (3) làm thế nào để VXH được quan tâm nhiều hơn trong các mô hình kinh tế
Chưa có mối liên hệ với năng lực hấp thụ Gabbay (1999)
VXH và mạng lưới xã hội trong DN được xác định là cơ sở cho việc đánh giá tác động của chúng ở các cấp độ tổ chức khác nhau. Đưa ra được một khuôn khổ lý luận và thực hành cho việc nghiên cứu về VXH trong DN
Đầu tư vào VXH, cần có cách tiếp cận mới
Westlund (2003) Phát triển VXH trong DN
Chưa nghiên cứu VXH liên quan đến nhân lực trong tổ chức
Fukuyama (1995)
VXH như một tiêu chí cơ bản để so sánh cơ cấu kinh tế và xã hội các nước
Nhấn mạnh tầm quan trọng VXH trong DN qua các yếu tố: mạng lưới quan hệ và chuẩn mực; Những khó khăn, trở ngại do những quy tắc trong phương pháp truyền thống khi phân tích và đánh giá kết quả đầu tư vào VXH trong DN Niềm tin là một nhân tố cốt lõi của VXH bao hàm trong “chuẩn mực, mối quan hệ tương tác và sự phối hợp hành động giữa các cá nhân trong các mạng xã hội”. VXH được hình thành dựa trên những “đặc trưng văn hóa như đạo đức, các giá trị văn hóa, nhân cách”.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
c. Về vốn tổ chức (VTC)
22
Becker và Peters (2000), phân tích tác động của các cơ hội công nghệ đối với
hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp, tùy thuộc vào năng lực hấp thụ của họ. Tác
giả sử dụng một mô hình lý thuyết đơn giản, sử dụng đầu vào là đổi mới, yếu tố công
nghệ với các biến khả năng hấp thụ. Hơn nữa, đầu ra cũng là đổi mới của các doanh
nghiệp bị ảnh hưởng tích cực bởi khả năng thích ứng, kiến thức bên ngoài một cách
hiệu quả. Các công ty trong ngành sản xuất của Đức có năng lực hấp thụ nội tại và tầm
quan trọng của kiến thức khoa học được đặc trưng bởi tỷ lệ bán các sản phẩm và đăng
ký bằng sáng chế cao hơn các công ty khác.
Patricia Lagunes và các cộng sự (2016), Nghiên cứu này nhằm mục đích tạo ra một mô hình xác định mức độ năng lực hấp thụ của các DNNVV trong lĩnh vực sản xuất thông qua bốn khía cạnh (đầu tư vào R&D, số lượng bằng sáng chế, cấu trúc công
ty, đào tạo nhân viên). Điều quan trọng cần nhấn mạnh là trong mười năm qua, nghiên cứu về chủ đề này chủ yếu được tiến hành ở các nước Châu Á.
Davide Dell anno và Manlio del Giudice (2015), Một số nghiên cứu về quản lý nêu bật tầm quan trọng của các mối quan hệ hợp tác đối với kiến thức và chuyển giao
công nghệ. Nghiên cứu đã xem xét vai trò của năng lực hấp thụ và các tác nhân trong quá trình chuyển giao công nghệ bằng cách chỉ ra các yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng đến các hệ thống đổi mới trong khu vực.
Mariano Nieto, Pilar Quevedo (2005), một bài viết nghiên cứu mang tính định lượng đã tập trung phân tích ảnh hướng của hai biến liên quan với cấu trúc DN (cơ hội
nắm bắt công nghệ và phổ biến kiến thức) và một biến quản lý (khả năng hấp thụ) với nhân tố trung tâm là các nỗ lực sáng tạo của DN. Kết quả được thi thập từ 406 công ty sản xuất Tây Ban Nha với một mức độ hoàn thiện của hoạt động sáng tạo được quy định sẵn, đó là khả năng của bản thân DN có thể xác định, hấp thụ và áp dụng các
công nghệ để tạo ra các bí quyết thương mại.
Một hướng nghiên cứu rất thú vị của Huggins & Izushi (2007), nhấn mạnh vào việc quản lý tri thức ở các DN khi cho rằng tham khảo kiến thức để trở thành phương tiện chủ yếu để tạo ra của cải cho các cá nhân, DN và quốc gia. Tuy nhiên, do ngày càng cạnh tranh toàn cầu, các nhà lãnh đạo phải nhận thức được tầm quan trọng của lợi
thế cạnh tranh, và làm thế nào để duy trì những lợi ích thu được. Thông thường việc duy trì lợi thế cạnh tranh đã đạt được thông qua tập trung vào khả năng tài chính, chiến lược và công nghệ. Do đó, lợi thế cạnh tranh bền vững đạt được bằng cách tập trung vào làm thế nào để quản lý được con người. Hơn nữa, lập luận rằng các DN phải xem xét lại
23
cách thức mới như mua bán lại, tái cấu trúc tổ chức để đối phó với sự cạnh tranh toàn
cầu tăng lên.
Các nghiên cứu nước ngoài về vốn tổ chức được tập hợp ở Bảng 1.3.
Bảng 1.3: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VTC
Mục đích Tác giả Kết quả nghiên cứu Nhận xét nghiên cứu
Hợp tác về R & D có tác
Veugelers Xác định chi tiêu vào dụng tích cực đối với đầu tư
(1997) R & D ở các công ty
vào R & D chỉ khi có khả năng hấp thụ.
Chưa nêu rõ vai trò của VTC trong vốn tri thức của DN và trong việc định hình danh tiếng cho DN
Chưa hình thành nghiên cứu rõ ràng về VTC Becker và Peters (2000)
Tìm hiểu mối quan hệ giữa công suất và sản lượng của các sáng kiến được hấp thụ Các nguồn liên quan đến kiến thức khoa học có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động sáng tạo của các công ty sản xuất tại Đức
Góp phần xây dựng lý thuyết và thực hành đo
Khẳng định khả năng hấp thụ như một công cụ để nâng cao năng lực sáng tạo trong công ty Patricia Lagunes và các cộng sự (2016) Chỉ nghiên cứu được một yếu tố rhuộc VTC, liên quan đến khả năng hấp thụ khả năng hấp thụ của kiến thức bổ ích của các tổ chức kinh doanh
Davide Dell anno và Manlio del cứu về Nghiên kiến thức và chuyển giao công nghệ liên quan đến VTC và năng lực hấp thụ
Giudice (2015) Quá trình chuyển giao công nghệ giữa các trường đại học và DN được coi như là một hệ thống tập con của chuyển giao kiến thức và có thể được hiểu từ nhiều quan điểm
Nhằm mục đích để lệ các nhà khích nghiên cứu để theo đuổi các nghiên cứu trong tương lai, đa dạng hóa về mối quan hệ giữa hấp thụ và năng thụ lực hấp trong mối quan hệ tương tác với nhau
Mariano Nieto, Pilar Quevedo Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới nhân tố các nỗ lực sáng tạo Kết quả nghiên cứu chưa làm rõ các biến có khả năng giải thích lớn (2005) của DN Các biến có khả năng giải thích lớn nhất cho nỗ lực đổi mới sáng tạo của DN đó là hai biến cơ hội đổi mới
24
Mục đích Tác giả Kết quả nghiên cứu Nhận xét nghiên cứu
công nghệ và khả năng hấp thụ
nhất cho nỗ lực đổi mới sáng tạo của DN đó là hai biến: cơ hội đổi mới công nghệ và khả năng hấp thụ thuộc vốn tổ chức.
Chưa có mối liên hệ với năng lực hấp thụ
Tìm hiểu vai trò của quản lý tri thức ở các công ty để trở thành phương tiện chủ yếu để Quản lý tri thức tạo ra quá trình sáng tạo hơn, các sản phẩm và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, Huggins & Izushi (2007)
giúp nhân viên của công ty để chia sẻ ý tưởng, thông tin và hấp thụ kiến thức tạo ra của cải cho công ty và các thành viên trong đó.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
d. Về vốn con người (VCN)
Krebs (2008), đã chỉ ra thách thức đối với DN trong thế kỷ 21, cụ thể: Sự thay đổi quan trọng: “quản lý định hướng con người”; Không dựa nhiều vào cá nhân, mà chủ yếu vào khả năng kết nối để hình thành chuỗi giá trị; Vai trò ngày càng lớn của hệ
thống các mối quan hệ bên trong DN (HRIS) và hệ thống quản lý nhân lực (HRMS).
Engelman, R.e.a. (2015), năng lực hấp thụ của một tổ chức phản ánh khả năng sao chép (bắt chước), phân tích, chuyển hóa, khai thác. Các yếu tố liên quan đến VCN (kỹ năng, chất lượng nhân lực), VXH (mức độ cởi mở, hợp tác, quan tâm), và VTC (cơ sở và hệ thống thông tin); Kiểm chứng mối quan hệ qua mô hình nghiên cứu.
Hanna Salojärvi và Liisa-Maija Sainio (2006), đã đề xuất mô hình khả năng hấp thụ của DN nhấn mạnh vào vai trò của con người, Khả năng hấp thụ xây dựng đã được
nghiên cứu từ quan điểm của một công ty chính là nhà cung cấp phục vụ một đối tượng khách hàng cụ thể.
Các nghiên cứu nước ngoài về vốn tổ chức được tập hợp ở Bảng 1.4.
25
Bảng 1.4: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VCN
Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Nhận xét
Sự thay đổi quan trọng: “quản lý
Krebs (2008) Thách thức đối với DN trong thế kỷ 21
định hướng con người”; khả năng kết nối để hình thành chuỗi giá trị có vai trò chủ yếu, còn đối với cá nhân là thứ yếu. Vai trò của các mối quan hệ bên trong DN (HRIS) và hệ thống quản lý nhân lực (HRMS) ngày càng lớn.
Nhu cầu về những mô hình và cấu trúc mới trong quản lý DN
Engelman, Tác động của vốn nhân lực và VTC đến năng lực hấp thụ công nghệ R.e.a. (2015)
và năng lực sáng tạo của DN
Năng lực hấp thụ của một tổ chức phản ánh khả năng sao chép (bắt chước), phân tích, chuyển hóa, khai thác. Các yếu tố liên quan đến VCN (kỹ năng, chất lượng nhân lực), VXH (mức độ cởi mở, hợp tác, quan tâm), và VTC (cơ sở và hệ thống thông tin); Kiểm chứng mối quan hệ qua mô hình nghiên cứu
Hanna Salojärvi và Đề xuất mô hình khả năng hấp thụ của DN Khả năng hấp thụ xây dựng đã được nghiên cứu từ quan điểm của một công ty chính là nhà
Liisa-Maija Sainio (2006) nhấn mạnh vào vai trò của con người cung cấp phục vụ một đối tượng khách hàng cụ thể.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
1.2. Các nghiên cứu trong nước
Các nghiên cứu ở trong nước chỉ mới tập trung vào nghiên cứu Vốn xã hội, còn
Vốn con người, Vốn tổ chức và năng lực hấp thụ hầu như chưa có công trình nào
nghiên cứu, ngoại trừ tác giả Nguyễn Mạnh Quân, do vậy tác giả tổng quan các nghiên
cứu về VXH như sau:
26
Trần Hữu Quang (2009), đã khẳng định vai trò quan trọng của vốn xã hội với
các DN của Việt Nam. Trong bài viết này, Trần Hữu Quang bàn về quan điểm vốn xã
hội của nhiều tác giả nước ngoài như Bourdieu, Putnam, Fukuyama, qua đó nhấn
mạnh rằng vốn xã hội là một hiện thực đặc trưng của những mối dây liên kết giữa con
người với nhau trong một cộng đồng hay một xã hội. Tác giả đã khẳng định về vốn xã
hội trong mối quan hệ với chuẩn mực, sự cố kết, và hợp tác. Ông cũng lưu ý đến việc
phân tích vốn xã hội trong bối cảnh văn hóa-xã hội và các định chế xã hội. Bàn về vốn
xã hội còn có thêm các tác giả khác như Lê Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh. Lê Ngọc
Hùng (2008) giới thiệu khái quát lí thuyết về vốn xã hội từ tiếp cận kinh tế để bàn sâu
về vốn xã hội và mạng lưới xã hội ở Việt Nam. Hoàng Bá Thịnh (2009) tập trung phân
tích quan niệm về vốn xã hội, mạng lưới xã hội.
Với hướng nghiên cứu của Stephen. J Appold và Nguyễn Quý Thanh đã chỉ ra
vai trò của vốn xã hội trong các doanh nghiệp nhỏ ở Hà Nội. Các tác giả cho biết vốn
xã hội có vai trò quan trọng giúp các doanh nghiệp vay vốn để khởi nghiệp (Appold và
cộng sự, 2004). Nghiên cứu Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một
số nghiên cứu ở Việt Nam của Lê Ngọc Hùng (2008) bàn về các quan niệm khác nhau
về vốn xã hội. Tác giả đề cập đến mô hình tổng hợp về vốn xã hội, vốn con người và
mạng lưới xã hội. Trên cơ sở đó, ông bàn thêm về kết quả của một số nghiên cứu cụ
thể trên các phương diện: mạng lưới xã hội của người lao động, mạng thông tin của
doanh nghiệp, mạng di cư, vai trò của các loại vốn trong xóa đói, giảm nghèo.
Nguyễn Trọng Hoài (2010), đã tổng hợp lý luận, đề xuất hướng nghiên cứu về phương pháp luận về khung phân tích vốn xã hội trong DN. Những khó khăn, bất lợi của DNNVV và sự cần thiết nghiên cứu thực tiễn để phát huy vốn xã hội tiềm ẩn trong hệ thống và con người Việt Nam.
Trương Thị Thu Trang (2009), đề xuất biện phát phát triển VXH thông qua phát triển VCN. Mối quan hệ này có thể chứa đựng nhiều vấn đề về chính sách có thể vận dụng cho cả cấp vĩ mô và vi mô của DN trong việc phát triển nguồn nhân lực.
Nguyễn Mạnh Quân (2010), đã vận dụng VHDN trong quản lý kinh doanh, cụ
thể như sau: Triết lý đạo đức, niềm tin, chuẩn mực hành vi là những nhân tố quan
trọng trong VHDN; VHDN là quá trình chuyển hoá các giá trị đạo đức, niềm tin, nhận
thức, phương pháp và phong cách hành động của một cá nhân, tổ chức thành những
kết quả thể hiện trách nhiệm của DN đối với xã hội; Văn hoá DN là công cụ quản lý
các mối quan hệ con người, bên trong và bên ngoài DN.
27
Các nghiên cứu trong nước về vốn xã hội được tập hợp ở Bảng 1.5.
Bảng 1.5: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu trong nước về VXH
Nhận xét Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu
Vai trò của mạng lưới xã hội, chuẩn mực, lòng Chỉ nghiên cứu riêng lẻ Trần Hữu Quang (2009) Khẳng định vai trò quan trọng của VXH đối với Việt Nam tin xã hội về VXH
Chỉ nghiên cứu riêng lẻ về VXH
Nguyễn Trọng Hoài (2010) Tổng hợp lý luận, đề xuất hướng nghiên cứu
Phương pháp luận về khung phân tích VXH trong DN, Những khó khăn, bất lợi của DNNVV và sự cần thiết nghiên cứu thực tiễn để phát hiện và phát huy VXH tiềm ẩn trong hệ thống và con người Việt Nam
Mối quan hệ này có thể chứa Chỉ nghiên
Trương Thị Thu Trang (2009)
Đề xuất biện phát triển VXH phát thông qua phát triển VCN đựng nhiều vấn đề về chính sách có thể vận dụng cho cả cấp vĩ mô và trong DN trong việc phát triển nguồn nhân lực cứu riêng lẻ về VXH thông qua VCN
tố quan
Vận dụng VHDN
Những nhân trọng trong văn hoá DN là triết lý đạo đức, niềm tin, chuẩn mực hành vi; VHDN trở thành công cụ Chưa tích hợp đồng được thời các nghiên cứu về trong quản lý kinh doanh Nguyễn Mạnh Quân (2010) năng lực hấp thụ
quản lý con người một cách hữu hiệu, nó điều chỉnh các mối quan hệ của con người với
con người ở bên trong và cả ở bên ngoài DN
Nguồn: Tác giả tổng hợp
1.3. Một số kết luận được rút ra từ tổng quan
Từ tổng quan nghiên cứu trong nước và nước ngoài, tác giả đã nghiên cứu và
vận dụng được vốn xã hội trong quản lý kinh doanh, và đã chỉ ra mối quan hệ giữa vốn
tri thức (vốn con người, vốn xã hội, vốn tổ chức), nguồn nhân lực với năng lực hấp thụ
28
và năng lực sáng tạo trong tổ chức. Năng lực hấp thụ của một tổ chức phản ánh khả
năng sao chép (bắt chước), phân tích, chuyển hóa, khai thác. Các yếu tố liên quan đến
vốn con người (chính sách quản lý và phát triển nhân lực), VXH (mối liên kết và thông
tin trong tổ chức), và vốn tổ chức (cơ sở và hệ thống thông tin). Kiểm chứng mối quan
hệ qua mô hình nghiên cứu. Năng lực của một tổ chức/doanh nghiệp nhận thức được
giá trị của một thông tin mới, sao chép nó, và vận dụng nó vào mục đích thương mại
mà chưa quan tâm đến cơ sở của năng lực hấp thụ công nghệ là tri thức, trí tuệ và
thông tin ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ của DN.
Qua đó có thể rút ra một số kết luận khi xem xét các nhân tố tác động đến năng
lực hấp thụ công nghệ như sau:
Thứ nhất, nhân tố năng lực hấp thụ công nghệ phụ thuộc vào 3 nhóm nhân tố cơ
bản. Nhóm thứ nhất, bao gồm nhân tố thuộc vốn nhân lực. Nhóm thứ hai, bao gồm nhân tố thuộc vốn tổ chức. Nhóm thứ ba, bao gồm nhân tố thuộc vốn xã hội, môi trường kinh doanh,… cụ thể như sau:
- Nhìn chung, các nghiên cứu lý luận về vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Do vậy, một trong những vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải xây dựng những quan điểm lý thuyết mới, khái quát hóa từ thực tiễn của việc tạo dựng, duy trì và sử dựng vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội ở Việt Nam. Những luận điểm lý thuyết mới như vậy không chỉ soi đường cho các nghiên cứu thực
nghiệm, mà quan trọng hơn nó còn giúp rất nhiều cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách trong việc phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những biểu hiện tiêu cực kéo theo của vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội trong thực
tiễn, cũng như trong việc xây dựng các dự án phát triển con người và xã hội ở Việt Nam trong thời gian sắp tới.
- Chúng ta đều biết, mặc dù khái niệm vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội được du nhập vào nước ta chưa lâu, nhưng các nghiên cứu trong các tổ chức ẩn chứa
nhiều nguồn vốn quan trọng. Và, từ trong đời sống cộng đồng, người ta đã biết khai thác, sử dụng các nguồn lực này để hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau không chỉ trong sản xuất và kinh doanh, mà còn trong tất cả các giai đoạn khác nhau trong chu trình đời
người như sinh nở, cưới xin, tang ma, giỗ tết. Có thể nói, môi trường xã hội đặc thù ở Việt Nam đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và vận hành của vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội. Cho nên, cùng với việc đưa ra các quan điểm lý thuyết mới, chúng ta cũng rất cần có những nghiên cứu về lịch sử vốn nhân lực, vốn tổ chức,
vốn xã hội ở Việt Nam. Công việc này không chỉ có ý nghĩa cho hiện tại, mà còn là sự
29
đóng góp những nét đặc thù và độc đáo của Việt Nam vào sự hiểu biết chung về vốn
nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Những nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng về vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội ở nước ta cho đến nay, vẫn còn dừng lại ở giai đoạn khởi động, cụ thể như ở một số doanh nghiệp nằm trong khu vực đô thị, hoặc ở vài ba cộng đồng làng xã ở khu vực nông thôn. Thế nhưng, trong thực tiễn, việc tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội lại đang diễn ra sôi động ở khắp mọi nơi. vv... Rõ ràng, giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn đời sống ở ta đang tồn tại một khoảng
cách, do đó, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tời là phải lấp dần khoảng cách đó.
Thứ hai, những nghiên cứu này chỉ tập trung rời rạc từng nhân tố thuộc vốn
nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội, môi trường kinh doanh,…
Thứ ba, cũng chưa có nghiên cứu nào đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ của các DNNVV ở Việt Nam. Do đó, cần thiết phải có một đánh giá tổng quan về năng lực hấp thụ công nghệ của các DNNVV khu vực đồng bằng Sông Hồng như thế nào?
Thứ tư, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến môi trường hoạt động tác động đến
năng lực hấp thụ công nghệ của các DNNVV ở VN.
Thứ năm, cũng chưa có nghiên cứu định lượng nào xem xét tác động của Vốn
tổ chức, Vốn xã hội, Vốn con người đến năng lực hấp thụ công nghệ.
Thứ sáu, theo quan điểm của tác giả, Cohen và Levinthal cùng các nghiên cứu hiện tại không thiết lập được mối liên kết giữa năng lực hấp thụ cấp độ cá nhân và tổ chức. Họ thực sự chưa lý giải được năng lực hấp thụ ở khía cạnh nhận thức cấp độ cá
nhân và sự tương tác giữa các cá nhân. Thay vào đó, các tài liệu tham khảo về hấp thu công nghệ cấp độ cá nhân chủ yếu sử dụng lý thuyết nhận thức cá nhân, được sử dụng như phép ẩn dụ cho năng lực hấp thụ cấp độ tổ chức. Ví dụ, người ta cho rằng nghiên cứu tâm lý gợi mở tri thức sẵn có tích lũy được làm tăng khả năng thêm mới tri thức
vào trí nhớ cũng như truy xuất và sử dụng chúng, các quan sát được cho là giúp chứng minh và làm giàu thêm cho khái niệm hấp thu công nghệ cấp độ tổ chức. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại không thực sự chỉ ra năng lực hấp thụ công nghệ cấp độ tổ
chức có tác động như thế nào đến nhận thức và sự tương tác giữa các cá nhân (bao gồm việc học từ các cá nhân khác). Có thế nói, ở bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, vốn xã hội cũng được coi là một nguồn vốn quý, bên cạnh các loại vốn khác như vốn kinh tế, vốn con người, vốn văn hóa, vv... Nhưng, như đã nói, bên cạnh những tác động tích
cực, vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội cũng có thể kéo theo nó những biểu hiện
30
tiêu cực đối với con người và xã hội. Tuy nhiên, nhìn lại các nghiên cứu về vốn nhân
lực, vốn tổ chức, vốn xã hội ở Việt Nam, nhất là trong các nghiên cứu thực nghiệm, ta thấy trong khi tập trung khai thác mặt tích cực, các nhà khoa học thường bỏ qua hoặc xem nhẹ những biểu hiện tiêu cực của nó. Điều này dễ gây ngộ nhận, rằng vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội giống như một thứ “bảo bối” thần kỳ đem lại toàn những điều tốt đẹp. Cho nên, một vấn đề nữa cần phải đặt ra là, trong nghiên cứu chúng ta không được né tránh, và cũng không nên xem nhẹ mặt nào, mà phải mô tả và phản ánh về vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội đúng như nó đang diễn ra trong cuộc sống.
Chỉ có như vậy, khi trở lại thực tiễn, chúng ta mới có thể nói khai thác và sử dụng vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội một cách tối ưu, mà không sợ rơi vào những sai lầm đáng tiếc.
Với những điểm còn thiếu và những điểm cần phải luận giải rõ hơn, việc luận án nghiên cứu “Nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ của DNNVV khu vực đồng bằng Sông Hồng”, có bổ xung thêm nhân tố “môi trường hoạt động” không chỉ đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu mà còn đáp ứng được sự hợp lý của nghiên
cứu, góp phần bổ sung những khoảng trống trong nghiên cứu khai phá.
31
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã trình bày tổng quan về các nghiên cứu năng lực hấp thụ công
nghệ ở trong nước và nước ngoài. Sau khi tổng hợp, đánh giá, tác giả nhận thấy các
nghiên cứu có điểm chung là đều có sự liên quan đến các yếu tố như Vốn tổ chức,
Vốn xã hội, Vốn con người. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước về năng lực hấp thụ
công nghệ trong mối liên hệ với các yếu tố này còn nhiều hạn chế như: chỉ nhắc đến
chứ chưa xem xét tác động, hoặc có xem xét tác động nhưng chưa tiếp cận dưới góc
độ chính sách,… Đây cũng chính là những điểm còn thiếu và điểm cần phải luận giải
rõ hơn, việc luận án nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ
của DNNVV khu vực đồng bằng Sông Hồng, là cơ sở để tác giả xây dựng các bước
tiếp theo trong quy trình nghiên cứu của mình để hoàn thiện hơn cả về lý luận và
thực tiễn.
32
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ
2.1. Khái niệm
2.1.1. Khái niệm công nghệ và khả năng hấp thụ công nghệ
Chúng ta thừa nhận định nghĩa công nghệ do “Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific- ESCAP)” đưa ra: “Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ”. Định nghĩa công nghệ của ESCAP được coi là bước ngoặt trong quan niệm về công nghệ. Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới dùng công nghệ, mà khái niệm công nghệ đuợc mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Những lĩnh vực
công nghệ mới mẻ dần trở thành quen thuộc công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng, công nghệ du lịch, công nghệ văn phòng.
Cohen và Levinthal (1990) là những người đưa ra khái niệm Khả năng hấp thụ (AC). Kể từ đó, rất nhiều các tác giả đã tiến hành nghiên cứu và phát triển khái niệm
này ở phạm vi rộng hơn.
Cohen và Levinthal đã định nghĩa “AC là một khả năng của công ty nhận ra giá trị của thông tin, đồng hóa nó và để cuối cùng áp dụng chúng vào mục đích thương
mại”. Khái niệm này nhấn mạnh rằng AC là khả năng tổ chức có được và phát triển thông qua một quá trình. Ngoài ra, định nghĩa cho thấy việc thu thập thông tin liên quan và có thể ảnh hưởng đến khả năng tăng doanh số và cạnh tranh trên thị trường của công ty là rất quan trọng để duy trì lợi thế cạnh tranh lâu dài. Vì vậy, bắt buộc một
công ty phải đầu tư vào nỗ lực xây dựng năng lực bán hàng của mình và chiếm thị phần lớn hơn.
Cohen và Levinthal đánh giá: sự quan trọng của việc nhận ra giá trị của kiến thức mới từ bên ngoài, để từ đó cải thiện AC của công ty. Các tác giả cũng đã nhấn mạnh rằng kiến thức như vậy phải được tích lũy tập thể theo thời gian thì việc nâng cao năng lực mới phát huy hiệu quả. Điều này là do bất kỳ thông tin nào sẽ chỉ hữu ích cho một tổ chức nếu có thể hiểu và tích lũy chúng, mà không có chúng sẽ không thể
chuyển đổi, xác định hình và tái triển khai tài nguyên của tổ chức để khai thác kiến thức thu được. Nói cách khác, các tổ chức sẽ chỉ được hưởng lợi từ việc khai thác bất
33
kỳ thông tin nào bên ngoài mà họ nhận được nếu hiểu giá trị của nó đối với công ty và
đồng hóa chúng trong các nhiệm vụ của họ.
Khái niệm này được tiếp tục mở rộng bởi Zahra và George (2002). Họ đã thêm: “hai chiều khác vào quá trình chuyển đổi kiến thức thành hành động sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh - AC tiềm năng (potential AC) và AC hiện thực hóa (realized AC). Năng lực hấp thụ tiềm năng đề cập đến năng lực được nâng cao từ khả năng của hãng để thu nhận và đồng hóa thông tin vào kho kiến thức của nó. Mặt khác, năng lực thực hiện hóa đề cập đến các khả năng của công ty trong việc tăng cường năng lực thông qua
việc chuyển đổi và khai thác các tài sản sản xuất hiện có (hoặc mới). Các tác giả lập luận rằng để bất kỳ thông tin nào bên ngoài hữu ích đối với một tổ chức, trước tiên, nó (công ty) phải có khả năng nhận ra các giá trị và có được chúng (lĩnh vực của việc mua
sắm, acquisition). Thông tin này phải được xử lý để thành viên tổ chức có thể có sự hiểu biết chung về chúng và đồng hóa vào thói quen làm việc của họ (đồng hóa và chuyển đổi, assimilation and transformation). Chỉ số đó, họ mới có thể sử dụng kiến thức thu được vào việc mang lại mang lợi ích thương mại cho công ty (khai thác,
exploitation)”.
Các công trình nghiên cứu sau đó của Lane et al. (2006), Todorova và Durisin (2007) và Volberda et al. (2010) tiếp tục điều chỉnh các khái niệm và khả năng ứng dụng của nó trong thực tế. Lane et al (2006) lưu ý để tránh việc nghiên cứu AC đi
chệch khỏi cấu trúc ban đầu được đề xuất bởi Cohen và Levinthal (1990). Họ lập luận rằng khả năng hấp thụ của DN phụ thuộc vào khả năng hiểu được các giá trị tiềm năng của kiến thức mới (bên ngoài), để đồng hóa chúng vào các hệ thống quản lý và sử
dụng chúng để đạt được lợi thế thương mại. Khái niệm ‘biến đổi’ (transformation) của Cohen và Levinthal, đã kết hợp và được giả định là đã bao hàm ý nghĩa ‘đồng hóa” (assimilation), và khai thác (exploitation) mà các tác giả đã đưa ra.
Todorova và Durisin (2007) cũng đã bình luận về Zahra và George's (2002)
rằng loại bỏ sau đó phần việc “nhận ra giá trị” trong lý thuyết về AC của Cohen và Levinthal (1990) là không phù hợp vì AC hiện thực hóa không phải là hậu quả của AC tiềm năng như cách Zahra và George quan niệm. Todorova và Durisin lập luận
rằng các phần việc “đồng hóa” và “biến đổi” trong AC của Zahra và George là hệ quả “qua lại” (và tương tác) với các phần việc trước đó là “mua sắm” và lại trở thành tiền đề cho việc “khai thác”.
Tuy nhiên, quan điểm của Zahra và George (2002) về AC được Volberda et al.
(2010), cho rằng cần phải xem tiền đề nội bộ của tổ chức (intra-organizational antecedent) và các tiền đề về quản lý (managerial antecedents) là các yếu tố cần thiết
34
trong phát triển AC. Những tiền đề này bao gồm cấu trúc của tổ chức và cách thức cấu
trúc hỗ trợ để rốt cuộc cho phép các thành viên tổ chức khai thác kiến thức vào mục đích lợi ích thương mại ví dụ như những nhiệm vụ liên quan đến kiến thức, hình thức tổ chức, cơ cấu động viên khen thưởng, mạng lưới không chính thức và phương tiện truyền thông nội bộ trong tổ chức.
Công trình của Lane et al (2006) rất thú vị khi giới thiệu việc áp dụng các lý thuyết tổ chức là một cách để hiểu khái niệm về AC. Mặt khác, Todorova và Durisin (2007), bằng cách nhắc đến việc loại trừ của Zahra và George (2002) về một khía cạnh
quan trọng trong lý thuyết ban đầu về AC của Cohen và Liventhal (1990), đã đưa ra một lập luận thuyết phục để đặt câu hỏi về sự cần thiết phải chia tách khái niệm AC thành AC tiềm năng và AC hiện thức hóa. Cuối cùng, Volberda et al. (2010) đã đóng
góp vào sự phát triển của lý thuyết AC bằng cách nêu bật các tiền đề ở nhiều cấp độ (multi-level antecedents) và các yếu tố điều kiện (contingent) có thể ảnh hưởng đến việc hình thành AC của tổ chức. Ngoài ra, nghiên cứu của Volberda và cộng sự đã nhấn mạnh khả năng ứng dụng của AC như một lĩnh vực nghiên cứu trong Quản lý
chiến lược. Phối hợp lại, những phát hiện này đã chỉ ra số lượng lớn các quan điểm mà AC có thể được nghiên cứu và được nhận thức. Họ cũng nêu bật sự bất lực của một viễn cảnh duy nhất có thể mô tả đầy đủ AC trong sự tồn tại tự nhiên của nó.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây về AC bắt nguồn từ công trình của Cohen
và Levinthal (1990) và các công trình nghiên cứu sau đó của nhiều tác giả chi phối
những công trình lý luận về AC trước đây (ví dụ Zahra và George, 2002; Lane &
Lubatkin, 1998), cho thấy đã chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi cách tiếp cận suy diễn - giả
định hay quy nạp-giả định (deductive-hypothetical) của nghiên cứu thực chứng
(positivistic) truyền thống. Nhiều lời chỉ trích đã được cố tạo ra sự cân bằng (levelled)
bằng cách lập luận cách tiếp cận này đã giả định rằng AC tồn tại trong một môi trường
không xác định về không gian và thời gian. Quy luật của khoa học vẫn đang vận hành
và mối quan hệ giữa AC với các hiện tượng khác trong hoạt động của tổ chức đã không
được đánh giá.
2.1.2. Khái niệm năng lực công nghệ
Cuối những năm 1970, sự phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển chủ
yếu thông qua chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Các nghiên cứu hàn lâm
viện và của các tổ chức quốc tế về công nghệ đã chỉ ra được yêu cầu thành công đối
với bên tiếp nhận công nghệ là phải có trình độ nhận thức, năng lực để giải quyết các
hoạt động tự lập, giải quyết sự cố một cách chủ động mà không hoàn toàn dựa vào bên
35
giao. Sự phát triển công nghệ thành công đòi hỏi bên tiếp nhận công nghệ cần có năng
lực công nghệ nhất định. Trong bối cảnh như vậy, đã có rất nhiều nỗ lực để đưa ra
quan niệm về năng lực công nghệ. Dưới đây là một số khái niệm theo giáo trình: Quản
lý công nghệ (2013), Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
Tổ chức Phát Triển Công Nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) đưa ra 5 yếu tố cấu thành năng lực công nghệ là: “khả năng đào tạo nhân lực; khả năng tiến hành nghiên
cứu cơ bản; khả năng thử nghiệm các phương tiện kỹ thuật; khả năng tiếp nhận và thích nghi các công nghệ; khả năng cung cấp và xử lý thông tin”.
Ngân Hàng Thế Giới (WB) đề xuất 3 nhóm cấu thành năng lực công nghệ, đó
là: Năng lực sản xuất, Năng lực đầu tư, Năng lực đổi mới.
M. Fransman (năm công bố) đưa ra quan điểm về năng lực công nghệ gồm 5 yếu tố: năng lực tìm kiếm và thay thế công nghệ; năng lực am hiểu và sử dụng công nghệ; năng lực thích nghi công nghệ phù hợp với đơn vị sử dụng; năng lực cung cấp
công nghệ đã có và năng lực đổi mới; năng lực thể chế hoá quá trình nghiên cứu những đổi mới và đột phá quan trọng nhờ phát triển các phương tiện nghiên cứu và thiết kế; tiến hành nghiên cứu cơ bản để tiếp tục nâng cấp công nghệ.
Các quan niệm trên đây cho thấy rằng năng lực công nghệ là sự kết hợp của
nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có hai yếu tố cần phải được làm rõ và đánh giá, đó là khả năng đồng hoá công nghệ nhập khẩu và năng lực nội sinh tạo ra công nghệ mới.
Khả năng đồng hoá công nghệ nhập khẩu là việc hiểu rõ và vận dụng được
công nghệ nhập khẩu phù hợp với đơn vị sử dụng.
Khả năng nội sinh trong việc tạo ra công nghệ mới là việc tự sáng tạo, cải tiến công nghệ đã từng được sử dụng tại một địa điểm khác, hoặc nâng cấp công nghệ đó, hoặc tạo ra công nghệ hoàn toàn mới.
Trong các công trình nghiên cứu về năng lực công nghệ thì S. Lall (năm công
bố) đưa ra được định nghĩa năng lực công nghệ mang tính tổng quát nhất. Theo tác giả
này thì: Năng lực công nghệ của một quốc gia (ngành hoặc cơ sở) là khả năng triển
khai những công nghệ đã có một cách có hiệu quả và đương đầu được với những thay
đổi công nghệ lớn. Theo định nghĩa này: có hai mức hoạt động phát triển công nghệ,
cũng là hai cơ sở để phân tích năng lực công nghệ. Đó là: sử dụng có hiệu quả công
nghệ sẵn có và thực hiện đổi mới công nghệ thành công. Định nghĩa này cũng đã khái
quát được hai mặt cơ bản của năng lực công nghệ là khả năng đồng hoá công nghệ và
khả năng phát triển công nghệ nội sinh.
36
Từ khái niệm đánh giá năng lực công nghệ là chọn những tiêu chí nào phản ánh
một cách đầy đủ năng lực công nghệ của một doanh nghiệp và những tiêu chí đó có
thể đo lường được. Theo lý thuyết và thực tế có thể rút ra một hệ thống các tiêu chí
như sau khi đánh giá công nghệ của một cơ sở:
Năng lực vận hành bao gồm: Khả năng chọn đúng đầu vào cho công nghệ; Khả năng duy trì quá trình biến đổi ổn định: khả năng sử dụng và kiểm tra kỹ thuật, vận hành các dây chuyền sản xuất hoạt động theo quy trình; Khả năng quản lý sản xuất: xây dựng, đảm bảo việc sản xuất và chất lượng sản phẩm, kiểm soát đầu vào, kiểm soát và khắc phục sự cố; Khả năng marketing sản phẩm.
Năng lực tiếp nhận công nghệ bao gồm: Khả năng tìm kiếm, đánh giá và chọn ra công nghệ thích hợp; Khả năng lựa chọn hình thức tiếp nhận công nghệ phù hợp nhất (liên doanh, hợp tác…); Khả năng thương lượng giá cả, nội dung của hợp đồng chuyển giao công nghệ; khả năng học tập, tiếp thu công nghệ mới; Khả năng triển khai nhanh công nghệ đã tiếp nhận; Khả năng tìm kiếm thị trường cho sản phẩm mới.
Năng lực hỗ trợ cho tiếp nhận công nghệ: Năng lực hỗ trợ tiếp nhận công
nghệ của một cơ sở là khả năng của cơ sở đó trong việc giao công nghệ cho một
cơ sơ khác cùng trong lãnh thổ của một quốc gia. Nó bao gồm các khía cạnh sau:
Khả năng tìm kiếm được đối tác thích hợp để giao công nghệ; Khả năng chủ trì dự
án giao công nghệ; Khả năng đào tạo nguồn nhân lực cho bên tiếp nhận công
nghệ; Khả năng tìm kiếm nguồn tài chính và hình thức thanh toán thích hợp cho
bên tiếp nhận công nghệ; Khả năng tìm kiếm thị trường để tiêu thụ sản phẩm cho
bên tiếp nhận công nghệ.
Năng lực đổi mới công nghệ bao gồm: Khả năng thích nghi công nghệ đã tiếp
nhận; Khả năng sao chép; Khả năng thích nghi công nghệ được chuyển giao thông qua
việc thay đổi quy trình công nghệ; Khả năng nghiên cứu và vận dụng, thiết kế quy
trình công nghệ; Khả năng sáng tạo ra công nghệ và sản phẩm mới.
2.1.3. Nội dung đánh giá công nghệ
Đánh giá công nghệ là một vấn đề còn khá mới mẻ đối với Việt Nam và một số
nước đang phát triển khác. Đây được coi như bước đầu tiên để đề ra kế hoạch phát
triển công nghệ và xây dựng các chính sách kinh tế xã hội. Tuy nhiên không phải tất
cả sự đổi mới công nghệ đều mang lại lợi ích cho xã hội. Vì vậy cần phải thực hiện
đánh giá công nghệ có phù hợp với thực tế hay không.
37
Định nghĩa đánh giá công nghệ
Đánh giá công nghệ có thể được hiểu là quá trình nghiên cứu, tổng hợp, phân
tích một công nghệ để đưa ra kết luận về sự khả thi và tiềm năng áp dụng của công
nghệ đó đối với đơn vị sử dụng.
Đánh giá công nghệ
Do sự phức tạp và đa dạng của công nghệ mà chưa có sự thống nhất về phương pháp để đánh giá công nghệ. Một nhóm nghiên cứu của trường ĐH Stanford đã đưa ra phương pháp đánh giá công nghệ gồm 3 bước là mô tả công nghệ; đánh giá
tác động; và phân tích chính sách.
- Mô tả công nghệ
Ở bước này gồm ba công đoạn: thu thập dữ liệu; giới hạn phạm vi; và đưa ra
các phương án phác thảo.
Công đoạn đầu tiên là thu thập dữ liệu liên quan đến công nghệ từ các kênh khác nhau như internet, sách, báo, hội thảo,… Tiếp theo thực hiện giới hạn phạm vi đánh giá công nghệ, trong đó việc đánh giá phụ thuộc vào kinh phí được cấp, trình độ của các chuyên gia thực hiện đánh giá, thời gian đánh giá, kỹ thuật, địa lý, thể chế tổ
chức, các cơ cấu giá trị xã hội,… Cuối cùng là phác thảo các phương án sẽ sử dụng để đánh giá với các tiêu chí như xuất xứ, thông số sử dụng,…
- Đánh giá tác động
Việc đánh giá tác động được thực hiện căn cứ vào các yếu tố đã được nêu ở trên với các bước sau: Trước tiên, lựa chọn tiêu chuẩn để đánh giá (tính khả thi, độ linh hoạt,…). Tiếp theo tiến hành đo lường thông qua các tiêu chuẩn đã được lựa chọn. Sau
đó, so sánh kết quả thu được để có cơ sở kết luận trong phần phân tích chính sách tiếp theo.
- Phân tích chính sách
Dựa theo kết quả từ đánh giá tác động để đưa ra phân tích về phương án tốt
nhất và thiết lập quy trình thực hiện phương án đó; đồng thời phân tích các yếu tố trở ngại tiềm tàng để thực hiện phương án đó.
2.2. Các hướng nghiên cứu
Các quan điểm được nhiều nhà khoa học về năng lực hấp thụ AC xử lý trước đây tập trung vào việc định dạng và đánh giá các yếu tố và tiền đề giúp nâng cao năng lực AC cho một tổ chức. Tuy nhiên, có hai hướng chính có thể được nhận ra từ các
38
nghiên cứu trước đây về AC. Thứ nhất, là các câu hỏi về những loại nhân tố nào đóng
góp cho sự cải thiện AC - khả năng của các tổ chức trong việc xác định giá trị, tiếp nhận, đồng hóa và sử dụng kiến thức từ bên ngoài để làm tăng lợi qua thương mại (ví dụ Cohen và Levinthal, 1990; Jansen et al., 2005). Mặt khác, theo hướng thứ hai, các nhà phân tích đã nghiên cứu các hình thức gây ảnh hưởng của AC đến kết quả thực hiện (performance) của DN (Escribano et al., 2009).
Theo hướng thứ nhất, các nhà nghiên cứu khảo sát các tiền đề của AC. Ở cấp
độ tổ chức, trong các nhân tố đã xác định là những yếu tố như kiến thức ban đầu của tổ
chức (Cohen và Levinthal, 1990; Van den Bosch et al, 1999), kinh nghiệm tìm kiếm tri
thức (Fosfuri & Tribo, 2008), chính thức hóa (Vega-Jurado et al., 2008) và khả năng
kết hợp (Van den Bosch et al, 1999; Jansen et al., 2005). Ở cấp độ riêng tư hoặc cá
nhân, AC đã được chỉ ra là được thúc đẩy bởi sự tương đồng giữa cơ sở tri thức, cấu
trúc tổ chức, chính sách thù lao và hệ thống cung ứng hiện hành trong tổ chức.
Lane và cộng sự (2006), đã xem xét kỹ 64 bài báo được xuất bản trong quá
trình tổng quan tài liệu về Quản lý giai đoạn 1991-2002. Các bài viết này đã được
chọn vì chúng sử dụng khái niệm AC này để khám phá các chủ đề và bối cảnh nơi
AC đã được áp dụng. Họ xác định bảy chủ đề. Ba chủ đề liên quan đến các đặc
điểm tĩnh (static) của tiền đề hoặc hệ quả của AC (kiến thức, cơ cấu tổ chức và
phạm vi tổ chức). Ba chủ đề khác liên quan đến các đặc điểm động (dynamic) có
mối quan hệ ‘lặp’ (recursive) với AC (việc học tập trong tổ chức, học tập lẫn nhau
giữa các tổ chức và đổi mới sáng tạo). Chủ đề cuối cùng tập trung vào việc xác
định và đo lường chính khái niệm AC. Bài viết này (Lane et al., 2006) rất có ý
nghĩa vì nó nhấn mạnh những điều sau đây:
- Nhiều nhà nghiên cứu đã xem và đưa vào áo dụng AC như là một cơ sở tri
thức, phản ánh mức độ “nội dung” của kiến thức trước đó của công ty. Vì vậy, AC đã
được nghiên cứu bằng cách sử dụng các biến được coi là biến số đại diện (proxy) cho
mức dự trữ kiến thức hiện hữu trong công ty, như cường độ R&D, nội dung kiến thức,
nề nếp tổ chức và quy trình tổ chức. Các biến đại diện như tuổi thọ và quy mô cũng
được sử dụng để lập luận rằng các công ty lớn hơn và lâu đời hơn có khả năng tích lũy
kiến thức nhiều hơn, có nề nếp phát triển hoàn thiện hơn và có các quy trình được thiết
kế ổn định và chặt chẽ hơn; Vì vậy, họ thường có AC cao hơn. Tuy nhiên, những phát
hiện để hỗ trợ quan điểm này là không thuyết phục.
39
- Các nghiên cứu về AC đang tiến triển và ngày càng phát triển. Ngoại trừ bốn
nghiên cứu, các nghiên cứu khác đã chuyển hướng, mở rộng và phát triển thêm rất
nhiều định nghĩa ban đầu của Cohen & Levinthal thành một năng lực năng động rộng
hơn từ góc nhìn của các công ty nhiều đơn vị. Bối cảnh, tương tác đa chiều và các quá
trình, và mối quan hệ hợp tác được xem là các biến mới hoặc yếu tố mới có thể đóng
góp vào AC của một công ty. Trọng tâm trong nghiên cứu AC dần hướng sang các yếu
tố như việc học tập của tổ chức, và các vấn đề quản lý chiến lược liên quan đến liên
minh đối tác và định vị chiến lược để duy trì lợi thế cạnh tranh. Do đó, các khái niệm
về AC tiềm năng và AC hiện thực hóa được đề xuất bởi Zahra & George, 2002) cần
được phát triển và xây dựng thêm trong nghiên cứu AC.
- Có hai trọng tâm nghiên cứu liên quan đến các đặc điểm kiến thức ảnh hưởng
đến sự hấp thụ và đồng hóa của một tổ chức. Thứ nhất là về cách nhận biết loại kiến
thức có ý nghĩa và có thể nâng cao khả năng của tổ chức, và thứ hai là về cách thức
một tổ chức đồng hóa và khai thác chúng vào mục đích thương mại, một khi đã xác
định được thông tin nào đó có giá trị và có liên quan. Do đó, các nhà khoa học đã phân
tích những nội dung của kiến thức như kỹ năng, chiến lược, văn hóa và cấu trúc sẽ
được tổ chức áp dụng để xác định, xử lý và lựa chọn “kiến thức đúng đắn” để cuối
cùng triển khai chiến lược phù hợp nhằm vượt qua các mối đe dọa và hoàn cảnh. Song
song, một số nhà nghiên cứu khác lại tập trung vào việc tìm hiểu các quy trình và cơ
cấu mà thông qua đó kiến thức được xác định có thể được đồng hóa và khai thác, và
nhờ đó cho phép tổ chức thực hiện một chiến lược đã chọn.
- Cơ cấu tổ chức rất quan trọng trong việc tạo điều kiện chuyển giao kiến thức
và định hình AC của công ty. Điều này là do các cải thiện về AC phụ thuộc vào các
quy trình và nề nếp trong tổ chức để có thể tạo thuận lợi cho quá trình xác định, nắm
bắt, nhận thức ý nghĩa của thông tin mới, chia sẻ, truyền đạt và chuyển giao kiến thức
đã nhận thức được thực hiện. Trong các thỏa thuận hợp tác và mở rộng phạm vi, các
liên minh chiến lược và các mối quan hệ đối tác bên ngoài phải được quản lý thông
qua một hệ thống quản lý phù hợp. Hơn nữa, để việc học tập diễn ra và các đổi mới
sáng tạo được đưa vào thực tế, phải có cấu trúc phù hợp để xử lý, lưu trữ và truyền đạt
thông tin liên quan đến những người ra quyết định cho họ hành động một cách chắc
chắn. Tuy nhiên, các tác giả lưu ý rằng “phần lớn các nghiên cứu dành sự tập trung
vào nội dung tri thức đã bỏ qua vai trò của cơ cấu tổ chức trong việc xác định AC của
công ty”. Trong một phần khác của bài báo, các tác giả cũng đã nhắc lại rằng đã có rất
40
ít nghiên cứu chỉ rõ vai trò của cấu trúc và quy trình tổ chức trong việc ảnh hưởng đến
cách các tổ chức tận dụng và khai thác nền tảng kiến thức của họ.
Theo hướng thứ hai, các nghiên cứu tập trung vào vai trò của AC và các tác
động mà AC có thể gây ra đối với hoạt động của tổ chức. Các nghiên cứu đã được thực
hiện nhằm gắn kết các khả năng của tổ chức trong việc xác định giá trị, thu nhận và
đánh giá thông tin, đồng hóa kiến thức ‘mới’ vào kho kiến thức hiện có của nó với
cách thức hành động một cách chắc chắn để mang lại lợi ích thương mại. Như vậy, AC
được coi là một quá trình để nâng cao năng lực của DN trong việc tìm giải pháp cho
các vấn đề hiện có và ứng phó với các thách thức đến từ thị trường (Song, 2015;
Calantone et al., 2002). Huber (1991) và Dibella et al. (1996) cho rằng, thông qua
kinh nghiệm, các tổ chức học hỏi và có được những kỹ năng và hiểu biết mới. Các
mối quan hệ mới được xây dựng, kinh nghiệm được chia sẻ, phổ biến và cuối
cùng được đồng hóa trong cấu trúc tổ chức hiện có. Điều đã xảy ra là các kho tri
thức hiện hữu sẽ tự điều chỉnh và tự làm mới mình. Trong quá trình này, giá trị
của kho kiến thức hiện có của DN tăng lên, giúp tổ chức có thêm năng lực và đáp
ứng nhu cầu mới của môi trường. Tóm lại, AC được cho là đóng vai trò quan
trọng trong việc cho phép các tổ chức mở rộng kiến thức, kỹ năng để trở thành
động lực cải thiện khả năng đồng hóa của tổ chức, sử dụng thông tin trong tương
lai và khai thác kiến thức mới để đối phó với các mối đe dọa nhận ra được về kết
quả thực thi công việc và vị thế cạnh tranh (Jimenez-Jimenez và Sans-Valle,
2011; Tsai, 2001).
Một số nghiên cứu đã được thực hiện về sự gắn kết giữa AC với đổi mới (Song,
2015; Tsai, 2001; Calantone et al., 2002), và với khả năng đáp ứng những thách thức
mới (SantosVijande et al., 2012), cung cấp ý tưởng và cảm hứng cho phát triển các sản
phẩm mới (Wetterings và Boschma, 2009) cũng như đáp ứng nhu cầu của các thị
trường mới nổi (Jansen và cộng sự, 2006; Lichtenthaler, 2009). Một mối đe dọa chung
xuyên qua tất cả các nghiên cứu này là nếu kiến thức thu được không thể được tích
hợp hoặc biến đổi thông qua AC, năng lực đổi mới sáng tạo và các mối đe dọa đối với
tổ chức sẽ bị ảnh hưởng bất lợi.
2.3. Khung lý thuyết
Từ tổng quan nghiên cứu về AC rất đa dạng cả về quan điểm tiếp cận, lý thuyết
và phương pháp. Do đó cần phải có sự tích lũy và thống nhất tri thức thông qua các nỗ
lực nghiên cứu về năng lực hấp thụ công nghệ. Để quá trình tích lũy tri thức thuận lợi,
41
tác giả đề xuất một khung thống nhất làm nổi bật các khối nghiên cứu chính và kết quả
của năng lực hấp thụ công nghệ theo bảng 1 dưới đây. Khung này xác định các phạm
vi nghiên cứu chung theo quan điểm phân chia các tiền đề năng lực hấp thụ công nghệ
thành nhiều cấp độ (quản trị, bên trong tổ chức, bên ngoài tổ chức và tri thức sẵn có),
quy mô của năng lực hấp thụ công nghệ (sáp nhập, đồng hóa, chuyển giao và khai
thác), kết quả (đầu ra) của năng lực hấp thụ công nghệ (lợi thế cạnh tranh, đổi mới,
hiệu suất) và các nhân tố ngữ cảnh tác động đến năng lực hấp thụ công nghệ (sự nhiễu
loạn của môi trường tri thức).