BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ HỒNG NHUNG

TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI NHUẬN

VÀ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ HỒNG NHUNG

TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI NHUẬN

VÀ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. ĐOÀN THANH HÀ

2. TS. BÙI ĐAN THANH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023

i

LỜI CAM ĐOAN

Luận án này chưa từng được trình nộp để lấy học vị Tiến sĩ tại bất cứ một cơ sở đào tạo nào. Luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả. Các số liệu, nội dung nghiên cứu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây, ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn đầy đủ trong luận án.

Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của mình.

TP.HCM, ngày … tháng … năm 2023

Tác giả

Phạm Thị Hồng Nhung

ii

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi trân trọng gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy Cô trường Đại học Ngân

hàng TP. Hồ Chí Minh đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong

suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Tôi xin trân trọng xin gửi lời cảm ơn sâu

sắc đến giảng viên hướng dẫn luận án - PGS.TS. Đoàn Thanh Hà đã tận tình chỉ bảo và đặt

nền móng, định hướng nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận án này, TS. Bùi Đan

Thanh đã dành nhiều thời gian, tâm huyết hướng dẫn, có những góp ý chi tiết với những

chỉ dẫn khoa học đáng quý và hỗ trợ tôi trong việc công bố các kết quả nghiên cứu của luận

án.

Lời cảm ơn tiếp theo tôi xin được gửi đến Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Ngân

hàng TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt là cô Vũ Thị Thu Hà – Quản lý lớp nghiên cứu sinh đã rất

nhiệt tình hỗ trợ tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập và nghiên cứu của tôi.

Tôi xin gửi lời cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp đã luôn bên cạnh, động viên, hỗ trợ tôi

để tôi có nhiều thời gian cũng như sức khỏe trong suốt quá trình học tập và hoàn thành

nghiên cứu khoa học này.

Cám ơn những người thân trong gia đình đã luôn bên tôi, sự giúp đỡ của các thành

viên trong gia đình chính là động lực giúp tôi có thể nỗ lực để hoàn thành luận án này.

iii

TÓM TẮT

Luận án được thực hiện nhằm nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và

rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện bằng phương

pháp định tính và định lượng theo phương pháp Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs

nhằm thực hiện mục tiêu nghiên cứu. Sử dụng số liệu được thu thập từ báo cáo tài chính

của 30 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy:

(i) Tiền gửi của khách hàng (DEP) có xu hướng làm giảm lợi nhuận của các NHTM

tại Việt Nam.

(ii) Nợ phi tiền gửi (NONDEP) có xu hướng làm tăng lợi nhuận của các NHTM tại

Việt Nam.

(iii) Vốn ngân hàng (CAP) có tác động cùng chiều đến lợi nhuận ròng trên tài sản

ROA nhưng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu

ROE.

(iv) Tiền gửi của khách hàng (DEP) có xu hướng làm giảm rủi ro của các NHTM

Việt Nam.

(v) Nợ phi tiền gửi (NONDEP) có có xu hướng làm tăng rủi ro của các NHTM Việt

Nam.

(vi) Vốn ngân hàng (CAP) có xu hướng làm gia tăng rủi ro của các NHTM Việt Nam

Từ các kết quả nghiên cứu của luận án, tác giả đưa ra các kết luận và khuyến nghị

đối với ban lãnh đạo NHTM và các nhà hoạch định chính sách có thể điều chỉnh cấu trúc

vốn ngân hàng theo hướng hợp lý hơn từ đó giúp các NHTM hoạt động kinh doanh ngày

càng hiệu quả và nâng cao sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Từ khóa: ngân hàng thương mại, lợi nhuận, rủi ro.

iv

ABSTRACT

The thesis is conducted to study the impact of capital structure on the profitability

and risk of Vietnamese commercial banks. The research was carried out by qualitative and

quantitative methods by Bayesian method via Gibbs sampling algorithm to achieve the

research objective. Using data collected from financial statements of 30 Vietnamese

commercial banks in the period 2012-2020, the research results show that:

(i) Customer deposits (DEP) tend to reduce profitability of commercial banks in

Vietnam.

(ii) Non-Deposit liabilities (NONDEP) tends to increase profitability of

commercial banks in Vietnam.

(iii) Bank equity (CAP) has a positive effect on net return on assets ROA but has

a negative effect on net return on equity ROE.

(iv) Customer deposits (DEP) tend to reduce the risk of Vietnamese commercial

banks.

(v) Non-Deposit liabilities (NONDEP) tends to increase the risk of Vietnamese

commercial banks.

(vi) Bank capital (CAP) tends to increase the risk of Vietnamese commercial

banks

From the research results of the thesis, the author makes conclusions and

recommendations for the management of commercial banks and policy makers who can

adjust the bank's capital structure in a more reasonable direction, thereby helping

commercial banks operate more efficiently and improve the financial stability of

commercial banks in Vietnam.

Keywords: commercial bank, profitability, risk-taking.

v

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................................... ii

ABSTRACT ....................................................................................................................... iv

MỤC LỤC ........................................................................................................................... v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................... viii

DANH MỤC BẢNG .......................................................................................................... ix

DANH MỤC HÌNH ............................................................................................................ x

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ................................................................................................ 1

1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................... 1

1.1.1. Bối cảnh nghiên cứu ............................................................................................ 1

1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan và khoảng trống khoa học ........................ 4

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 8

1.2.1 Mục tiêu tổng quát ................................................................................................ 8

1.2.2. Mục tiêu cụ thể .................................................................................................... 8

1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ........................................................................................ 9

1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................................................ 9

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 9

1.4.2 Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 9

1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................................... 10

1.6 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU .................................................................................... 11

1.7 ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN ................................................................................ 12

1.8 KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN .................................................................................... 14

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN

LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............................... 16

2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC VỐN ....................................................... 16

vi

2.1.1 Khái niệm cấu trúc vốn ....................................................................................... 16

2.1.2 Thành phần của cấu trúc vốn .............................................................................. 17

2.1.3 Cấu trúc vốn của ngân hàng thương mại .......................................................... 20

2.1.4 Chỉ tiêu đo lường cấu trúc vốn của ngân hàng thương mại ................................ 22

2.1.5 Các lý thuyết về cấu trúc vốn ............................................................................. 24

2.2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 26

2.2.1 Khái niệm ............................................................................................................ 26

2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của ngân hàng thương mại ............................... 27

2.2.3 Các lý thuyết về lợi nhuận của NHTM ............................................................... 30

2.3 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ........ 31

2.3.1 Khái niệm ............................................................................................................ 31

2.3.2 Đánh giá rủi ro của ngân hàng thương mại ........................................................ 36

2.4 NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .................. 38

2.4.1. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại ........................................................................................... 38

2.4.2. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro của ngân hàng thương mại ................................................................................................. 49

2.5 THẢO LUẬN NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC ............................................... 54

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ................................. 58

3.1 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU ................................................................................ 58

3.2 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 60

3.2.1 Các biến nghiên cứu ........................................................................................... 60

3.2.2 Mô hình nghiên cứu ............................................................................................ 69

3.3 PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG ........................................................................... 70

3.4 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ....................................................................................... 72

3.4.1 Mô tả dữ liệu nghiên cứu .................................................................................... 72

3.4.2 Kiểm định mô hình ............................................................................................. 73

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ....................................... 75

4.1 THỐNG KÊ MÔ TẢ VÀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIẾN ........................... 75

4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................................... 82

vii

4.2.1. Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của các ngân hàng............................ 82

4.2.2. Tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro của ngân hàng ........................................ 92

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI XÂY DỰNG CẤU TRÚC VỐN HỢP LÝ ........................................ 101

5.1 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 101

5.2 CÁC GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG XÂY DỰNG CẤU TRÚC VỐN HỢP LÝ .............................................................................................................. 104

5.2.1 Đối với các ngân hàng thương mại ................................................................... 104

5.2.2 Đối với cơ quan quản lý nhà nước .................................................................... 108

5.3 HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ............ 109

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 112

PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 122

DANH MỤC CÁC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN141

viii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI ĐẦY ĐỦ KÝ HIỆU

VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH

CTV Cấu trúc vốn

Doanh nghiệp DN

ESS Số lượng mẫu hiệu quả Effective Sample Size

FEM Mô hình tác động cố định Fixed Effects Model

Phương pháp bình phương bé Feasible Generalized Least

FGLS nhất tổng quát Squares

GMM Mô hình hồi quy moment tổng quát Generalized Method of Moments

GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product

MCMC Markov Chain Monte Carlo

MTV Một thành viên

NDH Nợ dài hạn

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NIM Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên Net Interest Margin

NHTM Ngân hàng thương mại

OLS Bình phương nhỏ nhất thông Ordinary Least Squares

thường

REM Mô hình tác động ngẫu nhiên Random Effects Model

ROA Lợi nhuận trên tổng tài sản Return on Assets

ROE Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Return on Equity

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

VCSH Vốn chủ sở hữu

ix

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1 Tổng kết các nghiên cứu về các động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của các

ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................................................... 45

Bảng 2.2 Tổng kết các nghiên cứu về các động của cấu trúc vốn đến rủi ro của các ngân

hàng thương mại Việt Nam ................................................................................................ 52

Bảng 3.1 Tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu ...................................... 66

Bảng 3.2 Đo lường các biến sử dụng trong mô hình .......................................................... 67

Bảng 3.3 Các mô hình trong đề tài ..................................................................................... 70

Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong giai đoạn 2012 – 2020 .................... 75

Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo lợi nhuận 80

Bảng 4.3 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo rủi ro ....... 81

Bảng 4.4 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập DEP .................. 82

Bảng 4.5 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập NONDEP ......... 83

Bảng 4.6 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập CAP .................. 83

Bảng 4.7 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập DEP .................. 84

Bảng 4.8 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập NONDEP .......... 84

Bảng 4.9 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập CAP .................. 85

Bảng 4.10 Số lượng mẫu hiệu quả ..................................................................................... 88

Bảng 4.11 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập DEP ............ 92

Bảng 4.12 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập NONDEP.... 93

Bảng 4.13 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập CAP ............ 93

Bảng 4.14 Số lượng mẫu hiệu quả ..................................................................................... 95

x

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1 Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................. 12

Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu ........................................................................................... 59

Hình 4.1 Lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020 ........ 76

Hình 4.2 Rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020 .............. 78

Hình 4.3 CTV của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020 ................ 79

Hình 4.4 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA ...................................... 86

Hình 4.5 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE ....................................... 87

Hình 4.6 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến lnZ-score ............................... 95

1

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU

1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1.1. Bối cảnh nghiên cứu

Khác với các doanh nghiệp phi tài chính, NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc

biệt là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực khác trong

nền kinh tế, vì vậy ngân hàng trong những năm gần đây càng ngày càng đóng góp vị trí

quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. NHTM vừa là người đi vay vừa

là người cho vay, NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi và sử dụng

nguồn vốn này đáp ứng các nhu cầu vốn cho nền kinh tế, phân phối nguồn vốn cho các

ngành nghề sản xuất kinh doanh trong toàn xã hội, chức năng kinh doanh chính của

ngành ngân hàng là chức năng kinh doanh tiền tệ nên hoạt động của ngân hàng đóng

một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, sự ổn định hệ thống ngân hàng thương

mại góp một phần lớn vào sự ổn định chung cho cả nền kinh tế. Ngân hàng là bộ máy

trung gian quan trọng giữa huy động và cho vay, giúp dòng tiền trong xã hội vận hành

hiệu quả. Ngoài ra, với chức năng là trung gian thanh toán, quản lý các phương tiện

thanh toán, chức năng tạo tiền (bút tệ), NHTM ngày càng đóng vai trò quan trọng đối

với sự phát triển và thịnh vượng của mỗi quốc gia. Vì vậy, sự ảnh hưởng của ngân hàng

đối với cá nhân và với doanh nghiệp là rất lớn, và nó còn ảnh hưởng tới sự vận hành của

cả nền kinh tế. Ổn định hệ thống tài chính luôn được chính phủ các quốc gia đặc biệt

chú trọng, một hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, hiện đại là tiền đề cho sự phát

triển của mỗi nền kinh tế.

Ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế của các

quốc gia trên thế giới, được xem như kênh dẫn vốn linh hoạt và hiệu quả với nguồn vốn

của ngân hàng được tài trợ chủ yếu là từ các nguồn vốn bên ngoài do tổng tài sản được

tài trợ chủ yếu là nợ (Berlin 2011). Như vậy, nghiệp vụ huy động vốn là một trong những

nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất đối với bất kỳ ngân hàng nào, được xem như là yếu

tố đầu vào trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng (Sealey and Lindley 1977). Là

doanh nghiệp đặc biệt và có sức ảnh hưởng lớn đối với kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia,

2

các NHTM luôn nhận được sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước, cũng

như tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về ngân hàng, chẳng hạn như hiệp ước Basel về

lĩnh vực ngân hàng. Do các ngân hàng cho vay và kiếm lợi nhuận dựa trên nguồn tiền

của người khác, là nguồn tiền có độ rủi ro cao vì về cơ bản, việc rút tiền có thể xảy ra

bất cứ lúc nào mà khách hàng cần. Do đó, NHTM sử dụng đòn bẩy cao và tạo ra đòn

bẩy tài chính cho tất các các doanh nghiệp khác (Hoque and Pour 2018). Mặt khác, vốn

của NHTM có vai trò rất quan trọng, được xem là tấm đệm tài chính, giúp giảm thiểu

các rủi ro cũng như các khoản lỗ có thể phát sinh trong tương lai (Ahmad and Albaity

2019). Để đảm bảo các NHTM có đủ vốn, việc vận dụng theo chuẩn mực quốc tế, như

khuôn khổ an toàn vốn có trọng số rủi ro do Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, là

rất quan trọng. Khi các NHTM có nhiều vốn hơn sẽ có thể an toàn hơn nhưng điều đó

lại trái với mong muốn của các nhà quản lý ngân hàng, muốn nắm giữ ít vốn hơn do chi

phí của nguồn vốn này cao hơn so với các nguồn vốn khác (Mishkin 2000). Do đó, đòn

bẩy tài chính của các NHTM cần được quy định bởi cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh

vực ngân hàng và đảm bảo ít có sự biến động lớn về tỷ lệ đòn bẩy giữa các ngân hàng

(Mishkin 2000). Nhưng trên thực tế, mức độ biến động về tỷ lệ đòn bẩy tài chính thường

rất lớn giữa các NHTM, có thể nhận định rằng chưa có một loại hình doanh nghiệp nào

sử dụng tỷ số nợ trên vốn cao như các ngân hàng. Đồng thời, những khó khăn phức tạp

thường xuyên thay đổi của các quy định pháp lý đối với các ngân hàng luôn hiện hữu.

Cũng chính vì lý do đó, hoạt động của ngân hàng cũng chịu sự quản lý chặt chẽ bởi các

quy định pháp lý và trong các nghiên cứu thực nghiệm về cấu trúc vốn thường loại trừ

ngành ngân hàng và các tổ chức tài chính nói chung ra khỏi các mẫu nghiên cứu (Bessler

et al. 2013 Fan et al. 2012; Octavia and Brown 2008) bởi vì quy định tuân thủ vốn quyết

định cấu trúc vốn của ngành này. Một lý do quan trọng khác để loại trừ các ngân hàng

là bảng cân đối kế toán rất khác so với các công ty khác vì thường có tỷ lệ đòn bẩy và

nhận tiền gửi rất cao, vì tính chất đặc biệt của định chế tài chính trung gian này và chức

năng kinh doanh tiền tệ, hơn nữa các khoản nợ của các ngân hàng có vẻ mang tính khác

biệt so với các tổ chức phi tài chính khác (Caglayan and Sak 2010).

Bên cạnh đó, lợi nhuận là một yếu tố quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp

nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng, lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là điều

kiện tồn tại và phát triển của ngành ngân hàng. Khi ngân hàng đạt được mục tiêu lợi

3

nhuận, ngoài việc gia tăng vị thế của mình mà còn tạo nên sự ổn định cho cả nền kinh

tế. Bởi vì, NHTM đang nắm giữ một vai trò quan trọng, là một trung gian tài chính thực

hiện việc điều chuyển nguồn vốn giữa các tầng lớp trong dân cư, sự ổn định hệ thống

NHTM góp một phần lớn vào sự ổn định chung cho cả nền kinh tế. Tuy nhiên, lợi nhuận

và rủi ro có mối quan hệ thuận chiều. Vì vậy, nếu ngân hàng chạy theo mục tiêu lợi

nhuận mà không kiểm soát tốt rủi ro sẽ dẫn đến nợ xấu gia tăng, gây nên những hệ lụy

khó lường. Để đảm bảo NHTM an toàn cho hoạt động kinh doanh trong môi trường

nhiều biến động, quyết định cấu trúc vốn hiện nay là một vấn đề quan trọng không chỉ

trong doanh nghiệp mà còn trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Trong những năm gần

đây, thực trạng hệ thống ngân hàng cho thấy các ngân hàng đang đối diện với tình trạng

mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn và tài sản khi sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay

dài hạn làm gia tăng rủi ro thanh khoản, kéo theo tỷ lệ nợ xấu tăng cao gây ảnh hưởng

đến an toàn cho hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền

kinh tế Việt Nam nói chung. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã cho

thấy vai trò quan trọng của cấu trúc vốn của các doanh nghiệp tài chính nói chung, và

của các ngân hàng thương mại nói riêng, cấu trúc vốn hợp lý không chỉ giúp các ngân

hàng thương mại tối đa hoá lợi nhuận, tiết kiệm chi phí mà còn là tấm đệm trước rủi ro

phá sản khi nền kinh tế có những biến động mạnh.

Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào khối ASEAN, khu vực mậu dịch tự do của

ASEAN, ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ, gia nhập vào WTO-

Tổ chức thương mại thế giới, gia nhập Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và

Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương (CPTPP) vào cuối năm 2019. Cùng với xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, Việt

Nam đang cố gắng từng bước hòa nhập với xu thế chung mang tính tất yếu của thế giới,

xu thế này cũng tạo ra cho nước ta nhiều cơ hội về giao lưu, học hỏi, ứng dụng những

thành tựu khoa học và đặc biệt đã mở đường cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội

xuất khẩu hàng hóa, giới thiệu sản phẩm của nước mình đến các nước khác trên thế giới,

có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa,… Việc mở cửa ngành ngân hàng cũng

đã đem lại những thay đổi to lớn cho ngành này, giúp cho các ngân hàng trong nước tiếp

nhận các công nghệ ngân hàng hiện đại, các dịch vụ ngân hàng được chuyên nghiệp và

đa dạng hóa. Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM)

4

Việt Nam đã và đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng nước

ngoài vì vậy hiện nay, các ngân hàng đang trong một cuộc chạy đua khốc liệt- cạnh tranh

về vốn, nguồn nhân lực, chất lượng dịch vụ và công nghệ, nhằm gia tăng hiệu quả hoạt

động, gia tăng thị phần, tối đa hóa lợi nhuận, đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam phải có

những thay đổi nhằm khôi phục sự an toàn và ổn định cho hệ thống ngân hàng.

1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan và khoảng trống khoa học

Hiện nay, việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro

của các ngân hàng thương mại đã trở thành chủ đề thu hút được sự quan tâm của nhiều

nhà nghiên cứu trên toàn thế giới và có những cách tiếp cận khác nhau đưa đến những

kết luận khác nhau. Cụ thể như sau:

Anarfo (2015) nghiên cứu các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của ngân hàng

tại khu vực Hạ Sahara từ năm 2004 đến năm 2014. Kết quả nghiên cứu chỉ ra các yếu tố

tác động đến cấu trúc vốn của ngân hàng bao gồm lợi nhuận trên tổng tài sản, quy mô

ngân hàng, tài sản hữu hình, tốc độ tăng trưởng, lạm phát.

Fauziah và cộng sự (2020) tìm hiểu các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các

ngân hàng Hồi giáo tại Indonesia trong giai đoạn 2010 – 2018. Kết quả nghiên cứu cho

thấy lợi nhuận trên tổng tài sản, quy mô ngân hàng là các yếu tố tác động đến cấu trúc

vốn của các ngân hàng Hồi giáo tại Indonesia.

Hoque và Pour (2018) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của 347

ngân hàng trên thế giới từ năm 1998 đến năm 2016. Kết quả nghiên cứu chỉ ra các yếu

tố thuộc về đặc điểm ngân hàng là tỷ lệ giá trị sổ sách trên giá trị thị trường, quy mô

ngân hàng, rủi ro tác động thuận chiều đến cấu trúc vốn. Ngược lại, khả năng sinh lời

có tác động nghịch chiều đến cấu trúc vốn của ngân hàng. Đối với các yếu tố thuộc về

đặc điểm quốc gia, bao gồm lợi thế về thuế, bảo hiểm tiền gửi, quyền chủ nợ, luật phá

sản làm tăng tỷ lệ nợ. Trong khi đó, ngân hàng tại các quốc gia sử dụng luật Anh – Mỹ

có xu hướng sử dụng ít nợ hơn.

Nghiên cứu về tác động của CTV đến lợi nhuận của các NHTM tại Mỹ, Berger

và di Patti (2006) chứng minh sự phù hợp của lý thuyết đại diện đối với trường hợp các

5

NHTM tại Mỹ trong giai đoạn 1990 – 1996. Kết quả cho thấy sự tương đồng với lý

thuyết đại diện khi các ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao đạt được lợi nhuận nhiều

hơn.

Trong nghiên cứu của mình, Pratomo và Ismail (2006) cũng tìm cách chứng minh

lý thuyết đại diện trong trường hợp 15 NHTM tại Malaysia trong giai đoạn 1997 – 2004.

Các tác giả đã chứng minh được các ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính cao sẽ đạt lợi

nhuận tốt hơn, phù hợp với lý thuyết đại diện.

Hutchison và Cox (2007) tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa cấu trúc vốn và lợi

nhuận của các NHTM tại Mỹ giai đoạn 1996 – 2002. Tác giả tìm thấy bằng chứng cho

thấy đòn bẩy tài chính làm tăng ROE. Phân tích được mở rộng để xác định mối quan hệ

giữa tỷ suất sinh lợi trên tài sản (ROA) và vốn chủ sở hữu. Bằng chứng ủng hộ giả thuyết

rằng có mối quan hệ thuận chiều giữa vốn tự có và ROA.

Al-Kayed và cộng sự (2014) nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận

của 85 ngân hàng Hồi giáo tại 19 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm 2003 – 2008.

Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi nhuận của ngân hàng nhận tác động dương với tỷ lệ

vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn, quy mô ngân hàng và nhận tác động âm từ chi phí

hoạt động trên tổng tài sản.

Saeed (2013) nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của ngân hàng

tại Pakistan. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ ngắn hạn trên vốn (STDTC), tổng số nợ

trên vốn và quy mô ngân hàng (SIZE) có sự tương quan dương đối với lợi nhuận của

ngân hàng. Ngược lại nợ dài hạn trên vốn (LTDTC) lại có mối tương quan âm với ROA,

ROE, EPS.

Anarfo và Appiahene (2017) nghiên cứu tác động của CTV đến lợi nhuận của

các NHTM tại 37 quốc gia khu vực hạ Sahara. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài

chính làm giảm lợi nhuận của các NHTM khu vực hạ Sahara.

Tại Việt Nam, Trần Việt Dũng (2014) nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi

nhuận của 22 NHTM Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu cho

thấy đòn bẩy tài chính có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM.

6

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy có sự tác động của cấu trúc vốn đến

rủi ro của NHTM. Cụ thể, Pricillia (2015) tìm hiểu các yếu tố tác động đến rủi ro của

các ngân hàng Indonesia. Sử dụng phương pháp hồi quy bình phương tối thiểu 2 giai

đoạn, kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của ngân hàng.

Mercan (2021) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM tại

George giai đoạn 2006 – 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm giảm

rủi ro ngân hàng. Ngược lại, quy mô ngân hàng, dư nợ cho vay có ảnh hưởng tăng rủi

ro của ngân hàng.

Saif-Alyousfi và Saha (2020) thực hiện nghiên cứu nhằm mục đích kiểm tra tác

động của cấu trúc tài chính, ngân hàng cụ thể và các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với rủi ro

và lợi nhuận của các ngân hàng trong các nền kinh tế thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng

Vịnh (GCC) trong giai đoạn 1998 – 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy các ngân hàng

có đòn bẩy tài chính thấp và tỷ lệ tăng trưởng cho vay cao thì rủi ro và lợi nhuận cao

hơn.

Nghiên cứu của Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự (2020) được thực hiện nhằm

đánh giá các yếu tố tác động đến rủi ro của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018.

Sử dụng bộ số liệu của 19 NHTM Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài

chính, NIM làm tăng rủi ro cho ngân hàng.

Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015) nghiên cứu tác động của cấu trúc

vốn và các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 – 2013.

Kết quả cho thấy đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của NHTM.

Như vậy, tổng quan các nghiên cứu cho thấy chiều hướng ảnh hưởng khác nhau

của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Cụ thể, một số nghiên cứu cho thấy đòn

bẩy tài chính có tác động làm tăng lợi nhuận của NHTM (Pratomo and Ismail, 2006;

Berger and di Patti, 2006). Ngược lại, một số nghiên cứu khác lại cho thấy đòn bẩy tài

chính có tác động làm giảm lợi nhuận của NHTM (Anarfo and Appiahene 2017; Trần

Việt Dũng 2014; Al-Kayed et al. 2014). Tương tự như vậy, nhiều nghiên cứu cho thấy

đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của ngân hàng (Pricillia 2015; Bhagat et al. 2015;

7

Nguyen and Duong 2020; Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự 2020; Phạm Tiến Minh và

Bùi Huy Hải Bích 2019; Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng 2015) hoặc làm giảm

rủi ro của ngân hàng (Saif-Alyousfi and Saha 2020; Mercan 2021). Các kết quả khác

nhau có thể là do các nghiên cứu được thực hiện theo không gian, thời gian, phương

pháp tiếp cận khác nhau. Bên cạnh đó, các nghiên cứu sử dụng các chỉ tiêu như vốn chủ

sở hữu trên tổng tài sản, tổng nợ trên tổng tài sản, nợ ngắn hạn trên tổng tài sản, nợ dài

hạn trên tổng tài sản làm đại diện cho CTV của NHTM. Tuy nhiên, các chỉ tiêu như vậy

lại tương tự với các chỉ tiêu phản ánh CTV của các doanh nghiệp phi tài chính. Trong

khi đó, CTV của NHTM có sự khác biệt rất lớn với CTV của doanh nghiệp phi tài chính

(Gropp and Heider 2010; Sibindi 2018).

Mặt khác, về thời gian nghiên cứu, tại Việt Nam có rất ít các nghiên cứu trong

lĩnh vực ngân hàng liên quan đến mảng cấu trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro trong khoảng

thời gian dài nhất là từ giai đoạn khủng hoảng tài chính của nền kinh tế, nghiên cứu này

của tác giả thời gian sẽ kéo dài từ năm 2012 đến năm 2020. Giai đoạn này được lựa chọn

vì đây cũng là giai đoạn thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, đổi mới

hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc

phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế đủ khả năng cạnh tranh với các tổ chức tín

dụng lớn trong khu vực (Chính phủ 2012). Hơn nữa, đây cũng là giai đoạn mà Luật các

tổ chức tín dụng số 17/2017/QH14 sửa đổi bổ sung chính thức có hiệu lực thi hành cho

phép các ngân hàng yếu kém được phép phá sản áp dụng chính thức từ ngày 15/1/2018.

Theo lược khảo của tác giả, trong giai đoạn này tại Việt Nam, có rất nhiều các nghiên

cứu về tác động của cấu trúc vốn đến hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp phi tài chính.

Trong khi đó, nghiên cứu về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro trong

ngành ngân hàng rất ít được các nhà nghiên cứu chú ý đến.

Ngoài ra, về phương pháp nghiên cứu, các nghiên cứu trước đây đều sử dụng

phương pháp tần suất (truyền thống) như FEM, REM, GMM, dẫn đến các kết quả khác

nhau khi đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Phương

pháp tần suất cần có bộ dữ liệu đủ lớn để đưa ra kết luận hợp lý vì cỡ mẫu nhỏ có thể

làm giảm độ chính xác của diễn giải kết quả thống kê (Muthén and Curran 1997). Trong

khi đó, vấn đề cỡ mẫu nhỏ thường xuyên xuất hiện trong các nghiên cứu khoa học do

các yếu tố đặc thù gây cản trở như chi phí hoặc các ràng buộc về đạo đức (Mariëlle et

8

al. 2017; Rocchetti et al. 2013; van der Lee et al. 2008). Phương pháp Bayes khắc phục

được nhiều nhược điểm của phương pháp tần suất vì có thể cho ra kết quả đáng tin cậy

với cỡ mẫu bất kỳ (Baldwin and Fellingham 2013). Vì vậy, phương pháp Bayes là cách

tiếp cận phù hợp trong đề tài này.

Chính vì những lý do về mặt lý luận và thực tiễn như trên cho thấy tính cấp thiết

khi nghiên cứu về tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM Việt Nam.

Kết quả của luận án là cơ sở để giúp các nhà quản trị ngân hàng hoạch định được cấu

trúc vốn phù hợp hơn nhằm đạt được lợi nhuận mục tiêu, bảo vệ sự an toàn của hệ thống

NHTM. Cụ thể là các ngân hàng sử dụng nợ như thế nào là hợp lý, trong điều kiện nào

việc sử dụng và gia tăng vốn vay nợ hay vốn chủ sở hữu sẽ mang lại hiệu quả, giảm

nguy cơ thiệt hại cho ngân hàng. Đây chính là lý do mà tác giả lựa chọn thực hiện đề tài

“Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại

Việt Nam”.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1.2.1 Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của luận án là đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi

nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2020.

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là một trong những cơ sở quan trọng cho các nhà

hoạch định chính sách và các nhà quản trị của ngân hàng có thể hướng đến một cấu trúc

tài chính hợp lý, để các ngân hàng hoạt động một cách hiệu quả và giảm rủi ro trong

hoạt động kinh doanh ngân hàng, góp phần xây dựng các chính sách quản trị ngân hàng

phù hợp và bền vững.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

Trên cơ sở các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể của luận án như sau:

Mục tiêu cụ thể thứ nhất: Luận án sẽ xác định và đo lường tác động của cấu trúc

vốn (CTV) đến lợi nhuận của 30 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn

2012 - 2020.

9

Mục tiêu cụ thể thứ hai: Luận án sẽ xác định và đo lường tác động của cấu trúc

vốn (CTV) đến rủi ro của 30 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2012-

2020.

Mục tiêu cụ thể thứ ba: Xây dựng khung lý thuyết về tác động của cấu trúc vốn

đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất

một số hàm ý chính sách nhằm xây dựng cấu trúc vốn ngân hàng theo hướng hợp lý,

hiệu quả và an toàn trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận án cần trả lời các câu hỏi sau:

Câu hỏi 1: Mức độ và chiều hướng tác động của CTV đến lợi nhuận của các

NHTM Việt Nam như thế nào giai đoạn 2012–2020?

Câu hỏi 2: Mức độ và chiều hướng tác động của CTV đến rủi ro của các NHTM

Việt Nam như thế nào giai đoạn 2012–2020?

Câu hỏi 3: Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM được

nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết nào? Những giải pháp nào các ngân hàng thương

mại Việt Nam nên thực hiện nhằm hướng tới một cấu trúc vốn hợp lý hơn để đạt được

hiệu quả và rủi ro ở mức phù hợp?

1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các

ngân hàng thương mại tại Việt Nam, giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020.

1.4.2 Phạm vi nghiên cứu

Về mặt không gian: Luận án thu thập số liệu từ báo cáo tài chính được công bố

hàng năm của 30 NHTM Việt Nam để đánh giá tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi

ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Mẫu nghiên cứu của luận án sẽ loại trừ

và không xem xét các ngân hàng bị hợp nhất, sáp nhập hoặc mua lại, các NHTM TNHH

MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu và các ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt bởi Ngân

10

hàng Nhà nước, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại

Việt Nam và ngân hàng liên doanh do không có đầy đủ thông tin dữ liệu, chưa có độ

chính xác cao và chưa đủ độ tin cậy nên tác giả đã loại trừ ra khỏi mẫu nghiên cứu của

mình. Tổng tài sản của 30 NHTM trong mẫu nghiên cứu của luận án chiếm khoảng 86%

tổng tài sản của các NHTM, do đó mẫu nghiên cứu đảm bảo tính đại diện cho các NHTM

tại Việt Nam.

Về mặt thời gian: Luận án nghiên cứu tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro

của ngân hàng thương mại tại Việt Nam được tiến hành trong giai đoạn từ năm 2012

đến năm 2020. Luận án lựa chọn thời gian này vì đây là giai đoạn thực hiện tái cơ cấu,

sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện

đại, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế (Chính phủ, 2012).

1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu của luận án là đánh giá tác động của cấu

trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tác giả đã sử

dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng

với nội dung cụ thể như sau:

- Đối với phương pháp nghiên cứu định tính, luận án sử dụng phương pháp thống kê mô

tả, tổng hợp, so sánh đối chiếu để phân tích, đánh giá thực trạng cấu trúc vốn, lợi nhuận

và rủi ro của các ngân hàng tại Việt Nam.

- Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để đánh giá chiều hướng và mức

độ tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại tại

Việt Nam. Phương pháp hồi quy tuyến tính Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs

được sử dụng trong nghiên cứu. Phương pháp Bayes phù hợp với mô hình dữ liệu dạng

bảng vì kết hợp thông tin tiên nghiệm với bộ dữ liệu thu thập được và khắc phục nhược

điểm của phương pháp truyền thống. Ngoài ra, nghiên cứu thực hiện kiểm định tự tương

quan các chuỗi MCMC của các biến bằng biểu đồ Autocorrelation và Effective sample

size (ESS) nhằm đánh giá suy diễn Bayes là vững.

- Bên cạnh đó, về dữ liệu nghiên cứu, luận án sử dụng số liệu được thu thập từ báo cáo

11

tài chính, báo cáo thường niên của 30 NHTM Việt Nam được công bố hàng năm. Nguồn

dữ liệu kinh tế vĩ mô được tác giả thu thập từ Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam trong khoảng thời gian 9 năm từ năm 2012 đến năm 2020. Luận án nghiên

cứu giai đoạn này vì đây là khoảng thời gian thực hiện cơ cấu lại hệ thống các tổ chức

tín dụng năm 2011 – 2015 theo quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 của thủ tướng

Chính phủ nhằm tăng cường sự ổn định và lành mạnh cho hệ thống ngân hàng.

- Về phương pháp xử lý số liệu: Từ báo cáo tài chính của 30 NHTM Việt Nam, tác giả

nhập dữ liệu vào phần mềm Excel, áp dụng công thức liên quan để tính toán các chỉ số

là các biến độc lập và phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu. Sau đó, để đo lường mức độ

tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt

Nam, tác giả chuyển các dữ liệu từ Excel sang phần mềm STATA để chạy kiểm định

mô hình và đưa ra kết luận tương ứng.

1.6 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Luận án áp dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để hệ thống nền tảng lý

thuyết và bằng chứng thực nghiệm liên quan để từ đó, tác giả xây dựng phương pháp

nghiên cứu phù hợp của luận án. Phương pháp hồi quy Bayes được sử dụng để đánh giá

tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt

Nam.

12

Thiết kế nghiên cứu

Xác định vấn đề nghiên cứu

Tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng

thương mại Việt Nam.

Nội dung nghiên cứu Cơ sở lý thuyết về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM.

Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp định lượng Bayes với mô hình hồi quy đa biến trên dữ liệu bảng nhằm phân tích, đánh giá tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu Kết luận về tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam, chiều hướng tác động. Đề xuất hàm ý chính sách

Hình 1.1 Thiết kế nghiên cứu

1.7 ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

Về mặt khoa học luận án có những đóng góp sau:

Thứ nhất, theo lược khảo của tác giả, các nghiên cứu hiện nay tại Việt Nam trong

giai đoạn từ 2012– 2020, các nghiên cứu được thực hiện nhằm đo lường ảnh hưởng của

cấu trúc vốn và các yếu tố khác đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM Việt Nam trong

giai đoạn này rất ít được các nhà nghiên cứu chú ý. Vì vậy, kỳ vọng nghiên cứu này sẽ

cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và

rủi ro của các ngân hàng thương mại tại một quốc gia đang phát triển là Việt Nam, giúp

cho việc xây dựng cơ sở nền tảng cho các nghiên cứu về sau. Ngoài ra, điều này giúp

cho các nhà quản lý nhận diện được vai trò tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và

13

rủi ro của các NHTMCP Việt Nam.

Thứ hai, dựa trên nghiên cứu của Gropp và Heider (2010), Sibindi (2018), luận

án đưa vào mô hình nghiên cứu ba yếu tố đặc thù của CTV NHTM là tỷ lệ tiền gửi khách

hàng trên tổng tài sản, tỷ lệ nợ phi tiền gửi trên tổng tài sản, vốn ngân hàng trên tổng tài

sản do CTV của NHTM có sự khác biệt rất lớn so với CTV của các doanh nghiệp phi

tài chính.

Thứ ba, luận án sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính Bayes thông qua

thuật toán lấy mẫu Gibbs để đánh giá ảnh hưởng của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi

ro của 30 NHTM Việt Nam. Phương pháp Bayes là cách tiếp cận phù hợp trong đề tài

vì dữ liệu bảng (kết hợp giữa dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo). Ngoài ra, nghiên

cứu thực hiện kiểm định tự tương quan các chuỗi MCMC của các biến bằng biểu đồ

Autocorrelation và Effective sample size (ESS) nhằm đánh giá suy diễn Bayes là vững.

Về mặt thực tiễn:

Tại Việt Nam, có rất nhiều các nghiên cứu về tác động của cấu trúc vốn đến hiệu

quả hoạt động các doanh nghiệp phi tài chính. Trong khi đó, nghiên cứu về tác động của

cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro trong ngành ngân hàng rất ít được các nhà nghiên

cứu chú ý đến. Ngoài ra, luận án đưa ra các đề xuất giúp các ngân hàng cân bằng giữa

lợi nhuận và rủi ro, không tăng lợi nhuận quá mức dẫn đến rủi ro cao. Đó chính là lý do

để tác giả sẽ nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM

Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà

quản trị ngân hàng có cái nhìn đầy đủ hơn về cấu trúc vốn của mỗi ngân hàng, đánh giá

được năng lực quản trị nguồn vốn của mình, nhận biết được tác động của cấu trúc vốn

đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng, thấy được tầm quan trọng của việc hoạch

định cấu trúc vốn đối với hiệu quả hoạt động và sự ổn định của các ngân hàng. Từ đó

có thể vận dụng các kiến nghị, giải pháp mà luận án đề xuất cho các nhà quản lý, các

nhà hoạch định chính sách, các nhà quản trị ngân hàng và các nhà đầu tư trong việc ra

quyết định và kiểm soát cấu trúc vốn của NHTM được hợp lý hơn nhằm nâng cao hiệu

quả tài chính và an toàn trong hoạt động của các ngân hàng, là cơ sở để hoàn thiện được

14

một khung chính sách hợp lý trong quá trình quản lý hoạt động của các ngân hàng trong

bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế đặc biệt là hội nhập trong lĩnh

vực tài chính ngân hàng, góp phần xây dựng hệ thống ngân hàng vững chắc, nền tài

chính vững mạnh và ổn định trong khu vực, đảm bảo tăng trưởng bền vững.

1.8 KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Nội dung của đề tài nghiên cứu bao gồm 5 chương được trình bày theo kết cấu sau:

Chương 1: GIỚI THIỆU.

Nội dung chương này sẽ trình bày các vấn đề tổng quan về đề tài nghiên cứu bao gồm

lý do chọn đề tài, khoảng trống nghiên cứu, mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, đối tượng

và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp mới của nghiên cứu, kết cấu

của đề tài nghiên cứu.

Chương 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI

NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

Trong chương này của luận án sẽ trình bày các cơ sở lý thuyết, lược khảo các nghiên

cứu trước. Từ các bài nghiên trong và ngoài nước luận án sẽ làm rõ những khoảng trống

nghiên cứu cần được khai thác thêm.

Chương 3: PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU.

Nội dung phần này sẽ trình bày lần lượt về mô hình nghiên cứu, giải thích các biến trong

mô hình và cách thu thập dữ liệu nghiên cứu.

Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.

Trong chương này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ gữa cấu

trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam và phân tích các

kết quả hồi quy.

Chương 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI XÂY DỰNG CẤU TRÚC VỐN HỢP LÝ.

Dựa vào chương 4 phần này sẽ tổng kết lại bài nghiên cứu, các kết quả đạt được và nêu

đưa ra một số hàm ý chính sách cho các nhà quản lý, nhà quản trị ngân hàng nhằm xây

dựng cấu trúc vốn một cách phù hợp hơn cho ngân hàng, đồng thời đưa ra một số định

hướng để phát triển thêm đề tài.

15

Tóm tắt chương 1

Trong chương 1 của luận án, tác giả đã trình bày lý do để lựa chọn đề tài nghiên

cứu. Ngoài ra, luận án xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu làm căn cứ triển khai

các chương sau. Hơn nữa, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu

cứu của luận án được chỉ ra trên cơ sở bám sát mục tiêu nghiên cứu. Quan trọng hơn,

các điểm mới và đóng góp của luận án về mặt lý luận và thực tiễn cũng đã được trình

bày một cách chi tiết trong chương này. Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu có những

đóng góp nhất định vào việc hoàn thiện khung lý thuyết về cấu trúc vốn, lợi nhuận và

rủi ro của các NHTM, nhằm hoàn thiện cấu trúc vốn hợp lý cho mục tiêu phát triển dài

hạn của các NHTM trong thời gian tới. Ngoài ra, luận án cũng có đóng góp về mặt thực

tiễn đó là đề xuất những khuyến nghị giúp các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà quản

trị ngân hàng có cái nhìn đầy đủ hơn về cấu trúc vốn của mỗi ngân hàng, đánh giá được

năng lực quản trị nguồn vốn của NHTM.

16

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA

CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Giới thiệu chương

Trong chương 2 của luận án sẽ trình bày cơ sở lý thuyết về cấu trúc vốn, lợi nhuận

và rủi ro. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trong

và ngoài nước có liên quan làm cơ sở để xây dựng phương pháp nghiên cứu và dữ liệu

nghiên cứu phù hợp với nội dung của đề tài nghiên cứu.

2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC VỐN

2.1.1 Khái niệm cấu trúc vốn

Cấu trúc là thuật ngữ dùng để đề cập đến các bộ phận cấu thành và mối liên hệ

của chúng trong tổng thể, quá trình vận động tương tác giữa các bộ phận cấu thành qui

định bản chất của tổng thể đó. Đề cập đến bộ phận cấu thành của tổng thể là đề cập đến

vai trò, chức năng của nó trong tổng thể, thể hiện qua tính chất và mức độ tác động của

bộ phận đến tổng thể đó.

Vốn trong DN thể hiện nguồn lực tài chính bên trong của DN bao gồm vốn góp

của chủ sở hữu, từ nguồn lợi nhuận hoạt động để lại của DN và các nguồn lực bên ngoài

từ các nhà đầu tư bên ngoài có thể là nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội, các tổ chức

tín dụng (ngân hàng, quỹ tín dụng,…), các nhà đầu tư tư nhân,…

Theo Myers (1984), cấu trúc vốn được định nghĩa là sự kết hợp giữa nợ phải trả

(nợ ngắn hạn, nợ dài hạn) và vốn chủ sở hữu để hình thành nên toàn bộ nguồn vốn của

doanh nghiệp được sử dụng để tài trợ vốn cho các hoạt động kinh doanh của một doanh

nghiệp.

Theo Ross và cộng sự (2003), cấu trúc vốn của doanh nghiệp hay còn gọi là đòn

bẩy tài chính là sự kết hợp giữa việc sử dụng nợ và vốn chủ sở hữu theo một tỷ lệ nhất

17

định để tài trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong khi đó Mcguigan và cộng sự (2006) định nghĩa cấu trúc vốn là sự kết hợp

giữa nợ ngắn hạn thường xuyên, nợ dài hạn, vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường

được sử dụng để tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.

Mặt khác, theo Paramasivan và Subramanian (2008), CTV là sự kết hợp giữa

việc sử dụng NDH và VCSH (bao gồm vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường).

Tại Việt Nam, theo Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2013), cấu trúc vốn được định

nghĩa là sự kết hợp của nợ ngắn hạn thường xuyên, nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi và vốn

cổ phần thường được sử dụng để tài trợ cho các quyết định đầu tư của doanh nghiệp.

Nguyễn Minh Kiều (2014) cho rằng, CTV là quan hệ tỷ lệ giữa nợ và VCSH trong tổng

nguồn vốn của doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Khác với các doanh nghiệp phi tài chính, khi nghiên cứu thực trạng cấu trúc vốn

của các NHTM, cho thấy cấu trúc vốn của NHTM có sự khác biệt rất lớn với CTV của

doanh nghiệp phi tài chính (Gropp and Heider 2010; Sibindi 2018). Do đặc thù về cấu

trúc vốn của các NHTM tại Việt Nam, nguồn vốn chủ yếu đến từ việc huy động trong

các tầng lớp dân cư, đi vay và một phần nhỏ đến từ việc góp vốn của các cổ đông, vì

vậy luận án sử dụng khái niệm về cấu trúc vốn của các NHTM theo Gropp và Heider

(2010), phản ánh mối quan hệ giữa nợ phải trả (bao gồm nợ phi tiền gửi và tiền gửi

khách hàng) và vốn cổ phần dùng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh ở một ngân hàng.

2.1.2 Thành phần của cấu trúc vốn

Theo khái niệm cấu trúc vốn, thành phần cơ bản trong cấu trúc vốn gồm 2 bộ

phận chủ yếu là nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Tính chất của hai nguồn vốn này

hoàn toàn khác nhau về trách nhiệm pháp lý của NHTM.

Nguồn vốn chủ sở hữu: Tương tự như những doanh nghiệp khác, VCSH là vốn thuộc

quyền sở hữu của NHTM, do các nhà đầu tư, các sáng lập viên đóng góp vào khi thành

lập và được bổ sung trong quá trình hoạt động, từ vốn góp thêm của chủ sở hữu và từ

kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng (Trầm Thị Xuân Hương 2012). Mặc dù,

VCSH chiếm tỷ trọng không nhiều trong tổng nguồn vốn của NHTM, nhưng tính chất

18

vận động ổn định và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM,

quyết định năng lực tài chính, quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh của NHTM.

Đây không phải là một khoản nợ và do đó NHTM không có trách nhiệm phải thanh toán

và có thể chủ động sử dụng mà không sợ rủi ro thanh khoản. Vốn chủ sở hữu gồm các

thành phần sau:

- Vốn điều lệ: Là số tiền do các thành viên sáng lập đóng góp ban đầu khi thành

lập. Đây chính là số vốn được ghi trong điều lệ NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong

nguồn vốn chủ sở hữu và đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của

các NHTM. Đối với các NHTM Nhà nước đây chính là vốn do ngân sách Nhà nước cấp

khi mới thành lập. Đối với các NHTM cổ phần, nguồn vốn chủ yếu do các cổ đông đóng

góp dưới hình thức mua cổ phiếu phát hành của NHTM bao gồm cổ phần thường và các

cổ phần ưu đãi. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của NHTM và chỉ chịu trách nhiệm hữu

hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Đây không phải là khoản nợ nên các NHTM

cổ phần được toàn quyền sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải

cam kết và ràng buộc về nghĩa vụ thanh toán. Chính từ đặc điểm này cho thấy mức độ

tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các NHTM cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào

nguồn vốn này, vốn góp cổ phần càng lớn thì mức độ tự chủ về vốn trong hoạt động

kinh doanh càng cao.

- Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Là phần thu nhập của NHTM được cổ

đông đồng ý cho NHTM giữ lại để tái đầu tư thay vì nhận cổ tức. Đây là nguồn vốn rất

chủ động và thuận tiện cho NHTM. Tuy nhiên, NHTM phải cam kết trả cho cổ đông lãi

suất cao hơn cổ tức hiện tại.

- Nguồn vốn từ phát hành thêm cổ phiếu: Các NHTM có thể tăng vốn chủ sở

hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới. Đây chính là kênh huy động vốn rất quan

trọng trong chiến lược tài trợ dài hạn của các NHTM. Các NHTM cổ phần có thể phát

hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán.

Khi phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, các NHTM cổ phần niêm

yết các thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả kinh doanh và các thông tin

khác để nhà đầu tư có thể đánh giá được triển vọng của NHTM trong tương lai. Trong

19

trường hợp không đủ điều kiện phát hành chứng khoán trên thị trường, NHTM có thể

phát hành cổ phiếu trực tiếp cho các cổ đông là những người có quan hệ mật thiết với

NHTM như cán bộ công nhân viên hay là các đối tác thường xuyên của NHTM.

- Vốn chủ sở hữu khác: Bao gồm các nguồn vốn và các quỹ chuyên dùng được

hình thành chủ yếu từ việc phân phối lợi nhuận, bao gồm: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự

phòng tài chính, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chênh lệch tỷ giá hối đoái…

Nợ phải trả: Là số vốn vay, vốn chiếm dụng của các tổ chức, cá nhân mà đơn vị có

nghĩa vụ phải thanh toán. Nợ phải trả của NHTM bao gồm: các khoản nợ Chính phủ và

Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của

khách hàng, các công cụ tài chính phái sinh và các khoản nợ tài chính khác, phát hành

giấy tờ có giá, các khoản nợ khác. Nguồn vốn phải trả của NHTM nhằm đảm bảo cho

ngân hàng luôn có đủ nguồn vốn để duy trì và phát triển một cách có hiệu quả hoạt động

kinh doanh của mình, đồng thời đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thanh khoản ở mức độ

chi phí thấp nhất (Trần Huy Hoàng 2011). Nợ phải trả được phân loại theo thời hạn

thanh toán, gồm có:

- Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ có thời hạn thanh toán dưới 1 năm. Nợ ngắn

hạn thường bao gồm: tiền gửi thanh toán của Kho bạc Nhà nước, các khoản nợ NHNN,

tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác dưới 1 năm, tiền gửi và các khoản phải trả

khách hàng dưới 1 năm, các khoản phải nộp cho cơ quan quản lý nhà nước, các khoản

phải trả cán bộ công nhân viên, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, kỳ phiếu NHTM (Trần Huy

Hoàng 2011; Trầm Thị Xuân Hương 2012).

- Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm. Nợ dài hạn

thường được sử dụng để cho vay và đầu tư dài hạn, bao gồm: tiền gửi và vay các tổ chức

tín dụng khác trên 1 năm, tiền gửi và các khoản phải trả khách hàng kỳ hạn trên 1 năm,

chứng chỉ tiền gửi dài hạn, phát hành trái phiếu dài hạn, vốn nhận từ Chính phủ, các tổ

chức quốc tế và các tổ chức khác (Trần Huy Hoàng 2011; Trầm Thị Xuân Hương 2012).

Tuy nhiên, trong bảng cân đối kế toán của NHTM phần nợ phải trả sẽ không chia

thành nợ phải trả ngắn hạn và nợ phải trả dài hạn giống như trong bảng cân đối kế toán

của doanh nghiệp. Nguyên nhân là do phần lớn nợ phải trả của NHTM đều có thể thực

20

hiện hay thanh toán trong thời gian gần.

Do NHTM là doanh nghiệp đặc biệt, trong đó, nguồn vốn của ngân hàng được

tài trợ chủ yếu là từ các nguồn vốn bên ngoài do tổng tài sản được tài trợ chủ yếu là nợ

(Berlin 2011). Như vậy, nghiệp vụ huy động vốn là một trong những nghiệp vụ cơ bản

và quan trọng nhất đối với bất kỳ ngân hàng nào, được xem như là yếu tố đầu vào trong

hoạt động kinh doanh của ngân hàng (Sealey and Lindley 1977). Trên cơ sở đó, ba chỉ

tiêu quan trọng đo lường CTV của NHTM là tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản, nợ

phi tiền gửi trên tổng tài sản, vốn ngân hàng trên tổng tài sản (Gropp and Heider 2010;

Sibindi 2018).

2.1.3 Cấu trúc vốn của ngân hàng thương mại

Cấu trúc vốn của các ngân hàng về cơ bản khác với CTV của các công ty phi tài

chính vì nó bao gồm tiền gửi, một nguồn tài chính thường không có sẵn cho các công

ty. Hơn nữa, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho các công ty được thực hiện bằng cách

sử dụng nợ dài hạn chia cho tài sản hoặc nợ ngắn hạn chia cho tổng tài sản thay vì tổng

nợ phải trả chia cho tài sản. Do đó, trong luận án này, tác giả phân tách nợ ngân hàng

thành tiền gửi khách hàng và nợ phi tiền gửi. Các khoản nợ không phải là tiền gửi có

thể được coi là có liên quan chặt chẽ đến nợ dài hạn của các ngân hàng. Chúng bao gồm

nợ dài hạn cấp cao, nợ thứ cấp và các giấy nợ khác. Bên cạnh nợ, phần còn lại trong

tổng nguồn vốn của các NHTM là vốn ngân hàng.

Mishkin (2000) cho rằng, vốn ngân hàng được xác định bởi các yêu cầu về vốn

của ngân hàng. Điều này có nghĩa là đòn bẩy ngân hàng phải được xác định theo quy

định và đòn bẩy sẽ ít thay đổi hơn giữa các ngân hàng. Nói cách khác, các lý thuyết tài

chính doanh nghiệp sẽ có nhiều hạn chế trong việc giải thích sự thay đổi sự biến động

của đòn bẩy đối với các ngân hàng. Điều này ngụ ý rằng đòn bẩy ngân hàng cần được

nghiên cứu thêm, vì các quyết định về cơ cấu vốn không chỉ là kết quả của quy định về

vốn (Hoque and Pour 2018). Các ngân hàng có xu hướng nắm giữ mức vốn cao hơn mức

tối thiểu theo quy định do các ngân hàng cần giữ mức đệm vốn vượt quá mức tối thiểu

theo quy định do bị chi phối bởi các lực lượng thị trường trong việc xác định mức đệm

mà các ngân hàng cần duy trì so với yêu cầu vốn tối thiểu. Các ngân hàng cần giữ bộ

đệm vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định để tránh chi phí phát hành vốn cổ phần

21

trong thời gian ngắn. Theo quan điểm vùng đệm tài chính, các ngân hàng có tỷ lệ giá trị

thị trường trên sổ sách, lợi nhuận và cổ tức cao hơn ít có khả năng phải đối mặt với chi

phí phát hành vốn cổ phần cao hơn do danh tiếng tốt hơn, tình trạng tài chính lỏng lẻo

hơn và giá thị trường tốt hơn (Gropp and Heider 2010). Các ngân hàng lớn hơn có xu

hướng sẽ ít sử dụng đòn bẩy hơn vì các ngân hàng đó có nhiều khả năng phát hành vốn

cổ phần với chi phí thấp hơn do danh tiếng và sự tín nhiệm của nhà đầu tư. Ngoài ra,

các ngân hàng lớn hơn có thể có bộ đệm lớn hơn vì chúng phức tạp hơn và do đó có vấn

đề về thông tin bất đối xứng cao hơn. Mối quan hệ giữa rủi ro và đòn bẩy dự kiến là

ngược chiều vì các ngân hàng rủi ro thường có chi phí phát hành vốn cổ phần cao hơn

và do đó, dự kiến sẽ ít sử dụng đòn bẩy hơn. Hoque và Pour (2018) lập luận rằng các

ngân hàng có tài sản thế chấp cao hơn có khả năng có nhiều đòn bẩy hơn vì dự kiến sẽ

có tình trạng thiếu hụt tài chính lớn hơn và ít rủi ro hơn hoặc có được mức giá tốt hơn

và do đó, phải đối mặt với chi phí phát hành vốn cổ phần trong thời gian ngắn thấp hơn.

Để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng và hạn chế các ngân hàng sử dụng

đòn bẩy quá mức làm tăng rủi ro, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng đưa ra hiệp ước

Basel I, với yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% và tốt nhất là trên 10%. Do đó,

các ngân hàng cần duy trì một lượng vốn tối thiểu nhằm bảo vệ người gửi tiền, đáp ứng

khả năng thanh khoản và đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiệp

ước Basel I còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu do sự thay đổi nhanh

chóng của hệ thống ngân hàng. Do đó, hiệp ước Basel II được ban hành nhằm khắc phục

những hạn chế của hiệp ước Basel I. Thay vì chỉ đề cập đến rủi ro tín dụng, trong Basel

II đã tính thêm rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Tiêu chuẩn về tỷ lệ an toàn vốn tối

thiểu (CAR) theo hiệp ước Basel II vẫn là 8% nhưng các ngân hàng cần duy trì lượng

vốn nhiều hơn để đáp ứng tỷ lệ 8%. Nói cách khác, đòn bẩy ngân hàng giảm xuống khi

áp dụng hiệp ước Basel II so với Basel I. Để nâng cao hơn nữa năng lực quản trị rủi ro

của ngân hàng thương mại, hiệp ước Basel III được ban hành với mục tiêu nâng cao hơn

chất lượng vốn của ngân hàng. Tỷ lệ CAR theo Basel III vẫn là 8% nhưng chất lượng

nguồn vốn được yêu cầu cao hơn. Theo đó, tỷ lệ vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên

6% trong Basel III, đồng thời tỷ lệ vốn của cổ đông thường được tăng từ 2% lên 4%. Do

vậy, để đáp ứng tiêu chuẩn Basel III, các ngân hàng cần tăng vốn cốt lõi hơn nữa và điều

đó cũng đồng nghĩa với việc các ngân hàng cần giảm đòn bẩy tài chính để đáp ứng tiêu

22

chuẩn Basel III.

2.1.4 Chỉ tiêu đo lường cấu trúc vốn của ngân hàng thương mại

Có rất nhiều chỉ tiêu phản ánh cấu trúc vốn của ngân hàng. Trong phạm vi của

luận án, tác giả đề cập một số chỉ tiêu phổ biến:

- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (Ali et al. 2011; Saona 2010; Gropp and Heider

2010): Chỉ tiêu này cho biết mức độ tự tài trợ cho tài sản của ngân hàng bằng khoản vốn

chủ sở hữu như thế nào. Mặt khác, chỉ tiêu này cho biết nguồn vốn chủ sở hữu chiếm

bao nhiêu phần trăm trong tổng tài sản của ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính toán theo

công thức lấy tổng vốn chủ sở hữu chia cho tổng tài sản của NHTM.

Chỉ tiêu này được đánh giá là rất quan trọng đối với các NHTM vì lĩnh vực ngân

hàng có sự khác biệt so với các lĩnh vực khác về CTV, trong đó, do đặc thù kinh doanh

trong lĩnh vực ngân hàng nên các ngân hàng huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau

để cấp tín dụng hoặc đầu tư và các danh mục có độ rủi ro khác nhau, với mục tiêu chính

là tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông. Vì vậy, vốn huy động từ bên ngoài, bao gồm huy

động từ các tổ chức và dân cư hay đi vay là nguyên nhân làm cho vốn chủ sở hữu chỉ

chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn của các NHTM. Các ngân hàng sử dụng vốn

huy động do chi phí sử dụng vốn thấp và các NHTM cũng như các doanh nghiệp có thể

nhận được lợi ích từ lá chắn thuế. Tuy nhiên, đó cũng chính là điểm yếu của CTV của

NHTM, có thể gây ra nhiều rủi ro do tỷ lệ nợ quá lớn, chẳng hạn như rủi ro về thanh

khoản của ngân hàng. Mặt khác, vốn chủ sở hữu càng lớn nói lên năng lực tài chính của

các NHTM càng cao, cho thấy khả năng hấp thụ các rủi ro có thể xảy ra như khả năng

thanh khoản của ngân hàng tăng lên, đáp ứng được việc rút tiền của khách hàng bất cứ

lúc nào. Từ đó tạo uy tín đối với người gửi tiền cũng như khả năng hoạt động liên tục

trong một môi trường biến động mạnh. Đây cũng chính là một trong các yếu tố quyết

định đến khả năng hoạt động hiệu quả và tạo ra lợi nhuận của các NHTM.

- Tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu (Halov et al. 2009: Anarfo 2015; Awunyo-Vitor

and Badu 2012): Chỉ tiêu tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu hay còn gọi là đòn bẩy

tài chính cho biết mức độ đảm bảo cho các khoản nợ phải trả bằng vốn chủ sở hữu của

ngân hàng. Hay nói cách khác, chỉ tiêu này cho thấy một đồng nợ của ngân hàng được

23

đảm bảo bằng bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu, đồng nghĩa với việc phản ánh năng lực

tài chính của ngân hàng. Chỉ số này cũng có thể được sử dụng để đo lường mức độ rủi

ro của ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức lấy tổng nợ phải trả của NHTM

chia cho tổng vốn chủ sở hữu.

- Tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản (Jadah et al. 2020; Al-Omari 2021; Sakunasingha et

al. 2018; Anarfo 2015; Lê Thị Tuấn Nghĩa và Phạm Mạnh Hùng 2016; Sibindi 2018;

Phạm Hải Nam và cộng sự, 2021): Chỉ tiêu tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản, cũng được

gọi là đòn bẩy tài chính cho biết trong tổng tài sản của NHTM có bao nhiêu phần trăm

được tài trợ bằng nợ. Như đã phân tích ở trên, CTV của các NHTM có sự khác biệt lớn

so với các doanh nghiệp phi tài chính nên tài sản của các NHTM chủ yếu được tài trợ

bằng nợ. Trong tổng nợ của NHTM có hai thành phần chính là tiền gửi khách hàng và

nợ phi tiền gửi. Trong công thức này, không có sự phân biệt rõ ràng giữa tiền gửi khách

hàng và nợ phi tiền gửi. Do đó, công thức này được tính bằng cách lấy tổng nợ của

NHTM chia cho tổng tài sản.

- Tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản (Gropp and Heider 2010; Sibindi 2018;

Widyastuti et al, 2019): Chỉ tiêu tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản cho biết trong

tổng tài sản của NHTM có bao nhiêu phần trăm được tài trợ bằng tiền gửi khách hàng.

Đối với các NHTM, tài sản được tài trợ chủ yếu bằng nguồn vốn bên ngoài, trong đó

huy động từ tiền gửi khách hàng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh

của ngân hàng. Một ngân hàng có uy tín cao, có lịch sử hoạt động lâu đời sẽ nhận được

tín nhiệm từ người gửi tiền và do đó, có thể huy động vốn từ tiền gửi khách hàng dễ

dàng và có chi phí thấp hơn so với các ngân hàng khác. Tiền gửi khách hàng cho biết

khả năng huy động vốn thường xuyên của ngân hàng. Đây là nguồn vốn lớn nhất trong

cơ cấu tổng nguồn vốn của NHTM. Với vai trò là trung gian tín dụng, các ngân hàng

huy động từ người gửi tiền và cho vay những người thiếu tiền, nguồn vốn này đóng vai

trò then chốt giúp ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô, đa dạng

hóa các sản phẩm tín dụng. Khi ngân hàng xây dựng được uy tín, chất lượng sản phẩm,

dịch vụ tốt sẽ thu hút được số lượng lớn người gửi tiền, từ đó giúp ngân hàng cho vay

cũng như tiếp cận khách hàng ở những sản phẩm, dịch vụ khác.

- Tỷ lệ nợ phi tiền gửi trên tổng tài sản (Gropp and Heider 2010; Sibindi 2018): Chỉ tiêu

24

tỷ lệ nợ phi tiền gửi trên tổng tài sản cho biết trong tổng tài sản của NHTM có bao nhiêu

phần trăm được tài trợ bằng nợ phi tiền gửi. Đây là khoản nợ được xem như là có liên

quan chặt chẽ đến nợ dài hạn của ngân hàng, bao gồm nợ dài hạn ưu tiên trước khi thanh

lý (senior long term debt), nợ hạng 2, chứng khoán nợ (Gropp and Heider 2010). Các

ngân hàng huy động nguồn tiền này với chi phí thấp hơn và không thường xuyên so với

các khoản tiền gửi để tài trợ danh mục tín dụng và đầu tư, đáp ứng nhu cầu thanh khoản

của ngân hàng. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn có tính ổn định cao. Vì vậy, ngân hàng sẽ

áp đặt lãi suất cao hơn khi cho vay. Hơn nữa, tương tự như tiền gửi khách hàng, khi

ngân hàng gia tăng nợ phi tiền gửi trong tổng nguồn vốn, đòn bẩy tài chính của ngân

hàng cũng sẽ tăng lên (Gropp and Heider 2010).

Như vậy, dưa trên các công thức trên có thể thấy theo quan điểm thứ nhất, CTV

của NHTM bao gồm nợ và vốn chủ sở hữu. Theo quan điểm này thì CTV của NHTM

không có sự khác biệt so với CTV của các doanh nghiệp phi tài chính. Quan điểm thứ

hai xem xét CTV của NHTM ở phạm vi rộng hơn khi cho rằng CTV của NHTM bao

gồm tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi và vốn chủ sở hữu. Ưu điểm của quan điểm

thứ hai là cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa CTV của NHTM và CTV của doanh nghiệp

phi tài chính. Do đó, trong phạm vi của luận án, tác giả sẽ xem xét CTV của NHTM trên

quan điểm thứ hai, CTV của NHTM bao gồm tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi và

vốn chủ sở hữu.

2.1.5 Các lý thuyết về cấu trúc vốn

Lý thuyết Modigliani-Miller (MM)

Modigliani và Miller (1958) giả định một thị trường hoàn hảo, nơi có thông tin

đối xứng, không phân biệt người bên trong hay bên ngoài doanh nghiệp; chi phí giao

dịch và chi phí phá sản hoặc sai lệch về thuế được loại trừ; các lựa chọn về vốn chủ sở

hữu và nợ trở nên không còn phù hợp, vốn nội bộ và huy động từ bên ngoài có thể được

thay thế. Sau đó, mô hình MM được sửa đổi (Modigliani and Miller 1963), cho rằng cấu

trúc tối ưu xảy ra vì lợi ích lá chắn thuế từ việc tài trợ bằng nợ trên vốn chủ sở hữu.

Fama và French (1998) đã nghiên cứu mô hình thuế của định lý MM và kết luận rằng

các công ty sử dụng nhiều nợ hơn là vốn chủ sở hữu có xu hướng đạt được lợi nhuận

25

cao hơn. Do đó, để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, cần sử dụng nợ nhiều hơn, khi đó

CTV tối ưu là cấu trúc 100% nợ. Đây chính là nhược điểm của lý thuyết này loại bỏ rủi

ro của việc vay nợ vì vấn đề kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp, dẫn đến giá trị của

công ty giảm dần khi chi phí kiệt quệ tài chính tăng lên vượt quá lợi ích thu được từ lá

chắn thuế.

Lý thuyết đánh đổi

Lý thuyết này ban đầu được Modigliani và Miller (1958) đề xuất dựa trên lợi ích

về thuế, chi phí phá sản và chi phí đại diện, trong đó không có chi phí bù đắp của nợ; vì

vậy, các doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng tài trợ bằng nợ trong cấu trúc vốn của họ. Sau

đó, Kraus và Litzenberger (1973) sự đánh đổi giữa chi phí và lợi ích của việc vay nợ

nhằm đưa ra một CTV tối ưu. Trong mô hình này, việc vay nợ có ưu điểm hơn so với

vốn chủ sở hữu do tiền lãi mang lại lợi ích từ việc tránh thuế. Tuy nhiên, việc vay nợ có

thể làm tăng rủi ro tài chính, dẫn đến chi phí tăng lên khi so sánh với tài trợ bằng vốn

chủ sở hữu. Theo lý thuyết cân bằng tĩnh, các nhà quản lý cần phải duy trì mức nợ thích

hợp để giá trị doanh nghiệp đạt được tối đa. Trong nghiên cứu của mình, Myers (1984)

kết luận rằng các doanh nghiệp sẽ xây dựng một CTV mục tiêu dựa trên sự cân bằng

giữa khoản tiết kiệm thuế từ lãi vay và chi phí phá sản, và sau đó, điều chỉnh dần dần

CTV theo hướng mục tiêu đó.

Lý thuyết Trật tự phân hạng

Được xây dựng bởi Myers và Majluf (1984) và Myers (1984), cũng được gọi là

lý thuyết bất đối xứng thông tin. Ý tưởng của lý thuyết này cho rằng, một công ty tuân

theo một trật tự ưu tiên các nguồn tài trợ khác nhau, từ các nguồn bên trong đến bên

ngoài. Lý thuyết dựa trên giả định rằng chi phí lựa chọn bất lợi là kết quả của rủi ro từ

việc huy động vốn từ bên ngoài do thông tin không cân xứng, sự lạc quan của nhà quản

lý hoặc cả hai. Để giảm thiểu chi phí lựa chọn bất lợi, các doanh nghiệp ưa thích tài trợ

vốn từ các nguồn vốn bên trong trước tiên, sau đó mới tới các nguồn vốn từ bên ngoài.

Nếu cần nguồn vốn bên ngoài, ưu tiên đầu tiên của họ là phát hành nợ và sau đó là một

lựa chọn ít được ưa chuộng hơn, phát hành chứng khoán hỗn hợp như nợ thứ cấp, và sau

26

đó là cổ phần như một nguồn lực cuối cùng.

Lý thuyết Đại diện

Sự lựa chọn cấu trúc vốn xảy ra do vấn đề thông tin bất cân xứng giữa các nhà

điều hành công ty và cổ đông (Miller and Rock 1985). Theo Jensen và Meckling (1976),

cấu trúc vốn tối ưu có được bằng cách đánh đổi chi phí quản lý của nợ với lợi ích của

nợ. Chi phí đại diện (Agency cost) đề cập đến chi phí phát sinh khi có xung đột giữa các

nhà điều hành, trái chủ, và chủ sở hữu công ty. Jensen và Meckling (1976) cho rằng việc

phát hành thêm nợ có thể dẫn đến xung đột giữa chủ sở hữu công ty (thông qua các nhà

điều hành) và các trái chủ, vì các nhà điều hành có thể phân bổ vốn vào các dự án có

nhiều rủi ro, mang lại lợi nhuận cao cho cổ đông, nhưng làm tăng chi phí thất bại cho

các trái chủ, bởi vì trách nhiệm hữu hạn của cổ đông. Mặt khác, nếu vốn cổ phần được

phát hành nhiều hơn có thể dẫn đến xung đột giữa cổ đông và ban lãnh đạo do dòng tiền

tự do ở mức cao. Các nhà điều hành có thể chọn các thương vụ đầu tư ngắn hạn hơn là

các thương vụ đầu tư dài hạn do kết quả có thể đến sớm và nâng cao danh tiếng của họ

một cách nhanh chóng. Các nhà điều hành có thể lựa chọn các khoản đầu tư ít rủi ro hơn

và mức nợ thấp hơn để giảm nguy cơ dẫn đến việc phá sản và điều này có thể đi ngược

lại với mong muốn của cổ đông trong việc gia tăng giá trị của công ty một cách tối đa

(Jensen and Meckling 1976).

2.2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.2.1 Khái niệm

NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực

tiền tệ, tín dụng và dịch vụ thanh toán, có liên quan trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực kinh

tế cũng như các mặt của đời sống xã hội. Thêm nữa, lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng luôn

rất nhạy cảm, đòi hỏi sự thận trọng trong điều hành hoạt động để tránh những hậu quả

khó lường có thể xảy ra. Dù là doanh nghiệp đặc biệt, mục tiêu hoạt động của NHTM

cũng là tạo ra lợi nhuận để có thể tích lũy vốn và phát triển quy mô cũng như tăng cường

khả năng cạnh tranh và bảo đảm sự an toàn trong hoạt động ngân hàng. Trong đó, lợi

nhuận là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM. Hofstrand

(2009) cho rằng, lợi nhuận là mục tiêu chính của tất cả các dự án kinh doanh. Nếu không

27

có lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ không tồn tại trong thời gian dài. Vì vậy, việc đo lường

lợi nhuận hiện tại và quá khứ và dự đoán lợi nhuận trong tương lai là rất quan trọng. Gia

tăng lợi nhuận của doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ban lãnh

đạo doanh nghiệp.

Theo Asika và cộng sự (2017), lợi nhuận có nghĩa là khả năng tạo ra lợi nhuận

từ tất cả các hoạt động kinh doanh của một tổ chức, doanh nghiệp. Điều này cho thấy

ban quản lý có thể tạo ra lợi nhuận hiệu quả như thế nào bằng cách sử dụng tất cả các

nguồn lực sẵn có trên thị trường. Còn theo Harward và Upton (1953), lợi nhuận là khả

năng của một khoản đầu tư nhất định thu được lợi nhuận từ việc đầu tư.

Olalekan và Adeyinka (2013) cho rằng, lợi nhuận của NHTM là khả năng tạo ra

lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện hiệu quả hoạt động của

ngân hàng.

Như vậy, lợi nhuận phản ánh mức độ tạo ra lợi nhuận từ việc sử dụng các nguồn

lực sẵn có của ngân hàng, từ tài sản vật chất đến tài sản tài chính hay con người mà ngân

hàng đang nắm giữ để tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận là nền tảng quan trọng giúp các ngân

hàng tăng cường năng lực tài chính, công nghệ, mở rộng thị trường, từ đó đạt hiệu quả

kinh doanh cao. Trong chừng mực nào đó, hiệu quả kinh doanh lại quyết định lợi nhuận

của NHTM. Nếu các yếu tố khác không đổi, một ngân hàng có hiệu quả kinh doanh cao

hơn thì có lợi nhuận tốt hơn và ngược lại. Do đó lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của

NHTM có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.

2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của ngân hàng thương mại

Để đánh giá lợi nhuận của NHTM, các tỷ số cơ bản được sử dụng là ROA, ROE,

NIM (Nguyễn Minh Kiều 2009).

Thứ nhất, Tỷ số lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA-Return on Assets)

Theo Nguyễn Minh Kiều (2009), tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản là chỉ tiêu đánh

giá hiệu quả công tác quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính của các NHTM để tạo ra

lợi nhuận, phản ánh nhà quản trị ngân hàng có quản trị tài sản tốt hay không, tài sản của

một ngân hàng được sử dụng như thế nào để tạo ra lợi nhuận, chỉ tiêu này được tính

28

bằng lợi nhuận ròng trên tổng tài sản. Trong đó, lợi nhuận sau thuế được lấy từ báo cáo

kết quả hoạt động kinh doanh, tổng tài sản hay vốn chủ sở hữu được lấy từ bảng cân đối

kế toán của ngân hàng. Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản thể hiện lợi nhuận được tạo ra

trên mỗi đồng tài sản, phản ánh khả năng quản trị và sử dụng tài sản của ngân hàng để

tạo ra lợi nhuận. ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ

lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản). Tài sản của một ngân hàng được hình thành từ

vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt

động của ngân hàng. Khi mức ROA cao phản ánh kết quả của hoạt động kinh doanh

hiệu quả, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý với chính sách đầu tư hay cho vay tốt, có

sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản trước những biến động của nền

kinh tế. Ngược lại, ROA thấp thể hiện hoạt động kinh doanh tài sản không hợp lý hoặc

thu nhập lãi thuần từ hoạt động kinh doanh trên tổng doanh thu thấp dẫn đến tỷ suất sinh

lợi trên doanh thu thấp, có thể là kết quả của một chính sách đầu tư hay cho vay không

năng động hoặc có thể chi phí hoạt động của ngân hàng quá mức. Nhược điểm của ROA

là không phản ánh các hoạt động ngoại bảng, đôi khi chiếm một tỷ trọng rất lớn trong

hoạt động ngân hàng. ROA được tính theo công thức:

Lợi nhuận sau thuế ROA= Tổng tài sản

Thứ hai, Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity - ROE)

Tỷ số này đo lường mức độ sinh lời của vốn chủ sở hữu, chỉ tiêu này cho biết 1

đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu lợi nhuận ròng cho ngân hàng (Nguyễn Minh Kiều

2009). Chỉ tiêu này được sử dụng rất phổ biến trong phân tích hiệu quả hoạt động kinh

doanh nhằm phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. ROE đo lường tỷ lệ thu nhập

cho các cổ đông của ngân hàng, tỷ lệ này thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được

từ việc đầu tư vốn vào ngân hàng. Do đó, hầu hết các cổ đông hoặc các nhà đầu tư rất

quan tâm đến tỷ số này bởi nó gắn với lợi nhuận mà họ có thể nhận được, ROE thường

được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường

với mục đích tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu đầu tư, đây là chỉ tiêu quan tâm

hàng đầu của các cổ đông khi mục tiêu của họ là lợi nhuận. Chỉ tiêu này được sử dụng

rất phổ biến trong phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh nhằm phản ánh hiệu quả sử

29

dụng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, nhược điểm của hệ số ROE là chịu ảnh hưởng từ đòn

bẩy tài chính và tác động của các quy định về đòn bẩy tài chính. Điều này làm cho những

ngân hàng nào có xu hướng vay nợ cao hơn thì thường có tỷ suất sinh lợi cao hơn các

ngân hàng sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu. ROE được tính theo công thức:

Lợi nhuận sau thuế ROE= Vốn chủ sở hữu

Ngoài ROA, ROE là các chỉ tiêu chủ yếu đo lường hiệu quả hoạt động còn có hệ số

chênh lệch lãi thuần còn gọi là Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (Net interest Margin -

NIM)

Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi

mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời

và theo đuổi các ngồn vốn có chi phí thấp (Nguyễn Minh Kiều 2009). Hệ số lãi ròng

biên tế được các nhà quản trị ngân hàng quan tâm theo dõi vì tỷ lệ này giúp ngân hàng

dự báo khả năng sinh lãi của ngân hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh

lời và việc tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Tỷ lệ NIM cao là một dấu

hiệu quan trọng cho thấy ngân hàng đang thành công trong việc quản lý tài sản và nợ.

Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ tài sản sinh lời của ngân hàng có mức sinh lời

không cao hoặc ngân hàng đã huy động nguồn vốn với lãi suất cao nên mức chênh lệch

ngày càng thấp, dẫn đến ngân hàng gặp khó khăn trong việc tạo lợi nhuận. Mức lãi ròng

biên tốt là chỉ dẫn về: thu nhập từ khoản cho vay tốt, tỷ lệ chi phí thấp, hiệu quả sử dụng

tài sản và khả năng thu được lợi nhuận từ nguồn vốn. Tỷ số này được tính theo công

thức:

Thu nhập từ lãi-Chi phí trả lãi NIM= Tổng tài sản có sinh lãi

Trong phạm vi của luận án, tác giả giới hạn sử dụng 2 chỉ tiêu là ROA và ROE

để đánh giá hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam vì ROA cung cấp thông tin

cho nhiều đối tượng như chủ sở hữu và nhà đầu tư, hoặc các cơ quan quản lý muốn xếp

hạng, so sánh hiệu quả hoạt động giữa các ngân hàng thương mại. Trong đó, tỷ số ROE

được chủ sở hữu đặc biệt quan tâm nhất. Trong khi đó, hạn chế của tỷ số NIM là chỉ đo

30

lường được dựa trên hoạt động tín dụng của ngân hàng mà không đánh giá được thu

nhập từ những hoạt động khác của ngân hàng.

2.2.3 Các lý thuyết về lợi nhuận của NHTM

Các nghiên cứu về lợi nhuận của ngân hàng dựa trên 2 lý thuyết: lý thuyết quyền

lực thị trường (MP – market power) và lý thuyết cấu trúc – hiệu quả (ES - efficient

structure).

Lý thuyết quyền lực thị trường

Lý thuyết quyền lực thị trường (MP – market power) có hai hướng tiếp cận chính:

lý thuyết Cấu trúc-Hành vi-Hiệu quả (SCP, Structure-Conduct-Performance) và lý

thuyết quyền lực thị trường tương đối (RMP – Relative market power). Lý thuyết SCP

vẫn là giả thuyết nổi bật trong số các lý thuyết cho rằng liên hệ sức mạnh thị trường với

lợi nhuận của NHTM (Athanasoglou et al. 2008; Van Hoose 2010). Mô hình SCP được

phát triển bởi Bain (1951). Lý thuyết này cho rằng trong một thị trường có mức độ tập

trung cao hơn, các ngân hàng có khả năng thao túng thị trường và hành vi độc quyền sẽ

làm tăng lợi nhuận. Mô hình SCP giả định rằng một hệ thống tập trung hơn dẫn đến ít

cạnh tranh hơn và do đó mang lại lợi nhuận cao hơn. Một trường hợp đặc biệt của lý

thuyết MP là lý thuyết sức mạnh thị trường tương đối (RMP), được đề xuất bởi Smirlock

(1985). Smirlock (1985) cho rằng không có mối quan hệ nào giữa mức độ tập trung và

lợi nhuận, nhưng đúng hơn là giữa thị phần ngân hàng và lợi nhuận của ngân hàng và

đề xuất rằng chỉ những ngân hàng có thị phần lớn và sản phẩm khác biệt tốt mới có thể

thực hiện quyền lực thị trường và kiếm được lợi nhuận phi cạnh tranh.

Lý thuyết cấu trúc-hiệu quả

Lý thuyết cấu trúc hiệu quả (ES) được phát triển bởi Demsetz (1973). Lý thuyết

ES cho rằng nếu các ngân hàng đạt được mức độ hiệu quả cao hơn so với các đối thủ

cạnh tranh có thể tăng giá trị của cổ đông hoặc giành được thị phần bằng cách giảm giá

sản phẩm, dịch vụ. Theo ES, các thị trường tập trung là những nơi mà các ngân hàng

hoạt động hiệu quả cao. Hiệu quả không phải là hiệu ứng mà là yếu tố quyết định cấu

trúc thị trường. Phiên bản hiệu quả X của giả thuyết ES gợi ý rằng việc tăng cường quản

31

lý và hiệu quả quy mô dẫn đến sự tập trung cao hơn và do đó, lợi nhuận cao hơn.

Như vậy, có thể thấy lý thuyết quyền lực thị trường (MP – market power) cho

rằng, lợi nhuận của ngân hàng là một hàm theo yếu tố thị trường, trong khi lý thuyết cấu

trúc hiệu quả (ES - efficient structure) cho rằng hiệu quả của ngân hàng chịu ảnh hưởng

của hiệu quả nội bộ và các quyết định quản trị, tức là các yếu tố bên trong.

2.3 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.3.1 Khái niệm

Theo Basel II (2004), ba nhóm rủi ro quan trọng tại một ngân hàng bao gồm rủi

ro tín dụng (Credit Risk), rủi ro hoạt động (Operational Risk) và rủi ro thị trường (Market

Risk). Rủi ro ngân hàng được xem là những biến cố không mong đợi có thể xảy ra đối

với ngân hàng dẫn đến sự thiệt hại, mất mát về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi

nhuận thực tế so với dự kiến. Trong thực tế, các nhà quản trị ngân hàng sẽ không thể loại

trừ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện để kịp thời đưa ra các biện pháp chủ động xử lý

nhằm hạn chế những nguy hại do rủi ro gây ra. Theo Willett (1901), rủi ro là một sự bất

trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi. Còn theo Uỷ ban

Basel về giám sát ngân hàng (2010), các rủi ro chính mà một ngân hàng có thể đối mặt

bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, và rủi ro thanh khoản. Ngoài

ra, theo Amalendu Ghosh (2012) thì rủi ro trong ngân hàng là tổn thất không biết trước

mà ngân hàng gặp phải do một hoặc một số sự kiện xảy ra. Rủi ro phát sinh do sự xảy

ra không chắc chắn của các sự kiện liên quan mà sự kiện này có nguy cơ gây ra thiệt hại

cho ngân hàng.

Rủi ro hoạt động

Theo Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (2004) rủi ro hoạt động được hiểu là

rủi ro tổn thất do các quy trình không đầy đủ hoặc có sai sót, do yếu tố con người và do

lỗi vận hành hệ thống nội bộ không hiệu quả hoặc do các yếu tố bên ngoài làm tổn thất

về tài chính. Các nguyên nhân chính gây ra rủi ro hoạt động:

Rủi ro do sự cố con người là rủi ro liên quan đến nhân viên ngân hàng phát sinh

từ sự thiếu chuyên môn nghiệp vụ, sự gian lận, sự không tuân thủ những quy trình và

32

chính sách hiện hành.

Rủi ro quy trình do những thủ tục và biện pháp kiểm soát báo cáo, theo dõi và

quyết định không phù hợp, những thủ tục xử lý thông tin chưa hợp lý. Ví dụ như sai sót

trong trường hợp ghi chép giao dịch hoặc kiểm tra tài liệu pháp lý, những rủi ro không

được phát hiện vượt qua giới hạn, sự thiếu sót, yếu kém trong quản lý theo dõi rủi ro...

Rủi ro hệ thống là rủi ro do phần mềm vận hành không phù hợp với thực tế, lỗ

hổng về an ninh trong hệ thống thông tin, lỗi quy trình nội bộ để truyền dữ liệu và thông

tin chính xác, sự can thiệp và lỗi của con người hoặc trong trường hợp khi hệ thống hỗ

trợ bên trong ngừng hoạt động. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, các ngân hàng ngày

càng áp dụng nhiều hơn các công nghệ tiên tiến, hiện đại vào hoạt động kinh doanh

nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, điều đó cũng làm cho các

ngân hàng ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào công nghệ, và như vậy rủi ro về công

nghệ cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngân hàng.

Rủi ro các yếu tố bên ngoài do sự kiện khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của

ngân hàng cũng góp phần gây ra rủi ro hoạt động như: thay đổi khung pháp lý, chính

sách thay đổi, các hành vi lừa đảo, trộm cắp hoặc phạm tội của các đối tượng bên ngoài,

các sự kiện bất khả kháng (chiến tranh, thiên tai…) cũng có thể tạo ra hoặc làm tăng

thêm rủi ro trong ngân hàng.

Tất cả các ngân hàng đều phải đối mặt với rủi ro hoạt động trong các hoạt động

hàng ngày trên tất cả các bộ phận của họ bao gồm ngân quỹ, tín dụng, đầu tư, công nghệ

thông tin. Rủi ro hoạt động không chỉ gây thiệt hại cho ngân hàng về mặt tài chính mà

còn gây ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, con người và thương hiệu. Theo Basel II, sự kiện

rủi ro hoạt động xảy ra sẽ ảnh hưởng về mặt tài chính và phi tài chính của ngân hàng tùy

thuộc vào mức độ và tần suất xảy ra của sự kiện rủi ro hoạt động đó. Mức độ ảnh hưởng

có thể xảy ra từ các sự kiện rủi ro hoạt động đó là: trách nhiệm pháp lý, tổn thất hoặc hư

hỏng tài sản, bồi thường vật chất, mất nguồn viện trợ, làm giảm giá trị tài sản làm ảnh

hưởng đến danh tiếng và làm chậm lại hoạt động nghiệp vụ của NHTM.

33

Rủi ro tín dụng

Theo Fitch (1997), rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh

toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng là nguyên nhân dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ

trả nợ. Còn theo Ủy ban giám sát Basel (2001) thì rủi ro tín dụng là khả năng mà người

đi vay hoặc đối tác của ngân hàng thất bại trong việc thực hiện theo các điều khoản trả

nợ đã thỏa thuận. Theo quy định tại thông tư số 13/2018/TT-NHNN của NHNN Việt

Nam ngày 18/05/2018, rủi ro tín dụng được xem là rủi ro mà các dòng tiền đã cam kết

từ các khoản cho vay và chứng khoán do ngân hàng nắm giữ có thể không được thanh

toán đầy đủ và đúng hạn, dẫn đến khả năng phá sản ngân hàng. Ngoài ra, rủi ro tín dụng

được xem là khả năng xảy ra tổn thất liên quan đến sự suy giảm năng lực thực hiện các

cam kết tín dụng không chỉ xuất phát từ người đi vay mà còn phát sinh từ các đối tác

kinh doanh. Đây là các cá nhân, tổ chức có quan hệ giao dịch kinh doanh thông qua các

hợp đồng giao dịch với NHTM. Theo đó, rủi ro tín dụng được phân thành hai nhóm, bao

gồm rủi ro tín dụng đến từ khách hàng và rủi ro tín dụng đến từ đối tác của NHTM.

Rủi ro tín dụng đến từ khách hàng phát sinh do khách hàng vay không thực hiện

đúng các điều khoản của hợp đồng tín dụng (không thể chi trả tiền lãi, chậm trả nợ, trả

nợ không đủ hoặc không trả nợ) khi đến hạn, gây ra những tổn thất về tài chính và khó

khăn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Rủi ro tín dụng đến từ đối tác là rủi ro do đối tác của NHTM không thực hiện

hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ thanh toán trước

hoặc khi đến hạn của các giao dịch kinh tế, bao gồm giao dịch tự doanh, giao dịch mua

lại, giao dịch sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro và các giao dịch mua bán ngoại

tệ, tài sản tài chính khác.

Như vậy có thể kết luận rằng, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong

hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng và đối tác không thực hiện

hoặc không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ của mình theo các điều khoản đã thỏa

thuận. Đây được coi là rủi ro đáng kể nhất trong hoạt động ngân hàng và là nguyên nhân

chính của các vụ phá sản ngân hàng.

34

Rủi ro thị trường

Rủi ro thị trường là rủi ro xảy ra đối với ngân hàng khi mà thị trường có những

biến động và thay đổi ngược chiều so với dự đoán của ngân hàng. Đây là rủi ro tổn thất

ở các vị thế nội bảng hoặc ngoại bảng cân đối kế toán phát sinh từ sự biến động của thị

trường chứng khoán, lãi suất, tỷ giá hối đoái hay giá cả hàng hoá. Rủi ro thị trường bắt

nguồn từ sự không thể đoán trước của thị trường chứng khoán (rủi ro giá cổ phiếu), giá

cả hàng hóa (rủi ro hàng hoá), lãi suất (rủi ro lãi suất) và ngoại hối (rủi ro tỷ giá). Các

ngân hàng không thể tác động làm thay đổi các yếu tố này mà chỉ có thể dự báo xu

hướng, tính toán mức độ ảnh hưởng để từ đó đưa ra các biện pháp chủ động điều chỉnh

quy mô, cơ cấu tài sản có, sao cho hạn chế thấp nhất tổn thất có thể xảy ra thông qua

việc kết hợp mô hình hiện đại trong việc ước lượng rủi ro lãi suất và sử dụng linh hoạt

các công cụ tài chính phái sinh. Các ngân hàng chịu nhiều rủi ro hơn nếu họ tham gia

nhiều vào việc đầu tư vào các thị trường khác nhau.

Bên cạnh những loại rủi ro trên, NHTM còn phải đối mặt với rủi ro thanh khoản và rủi

ro lãi suất.

Rủi ro thanh khoản

Hoạt động của các ngân hàng trong lĩnh vực chuyển đổi nguồn vốn và kỳ hạn là

cơ sở để tạo ra rủi ro thanh khoản. Sự không phù hợp giữa kỳ hạn của tài sản có và tài

sản nợ, cả trên bảng cân đối kế toán và ngoài bảng cân đối kế toán, tạo thành khoảng

cách chênh lệch tạo thành rủi ro cấu trúc. Rủi ro này được xác định bởi đặc điểm của

các nguồn tài trợ, ngắn hạn hoặc trung hạn, so với cho vay dài hạn. Kết quả là, các ngân

hàng buộc phải liên tục luân chuyển các nguồn tài trợ ngắn hạn hoặc trung hạn trên bảng

cân đối kế toán, để phù hợp với thời gian đáo hạn của tài sản. Rủi ro thanh khoản là một

trong những rủi ro nghiêm trọng nhất mà các ngân hàng gặp phải. Việc quản lý thanh

khoản phù hợp có thể giảm thiểu khả năng xảy ra các vấn đề nghiêm trọng trong tương

lai. Trên thực tế, vấn đề thanh khoản không chỉ giới hạn ở một ngân hàng. Tỷ lệ thanh

khoản thấp trong một tổ chức tài chính có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Rủi ro

thanh khoản có thể đóng vai trò quyết định trong trường hợp ngân hàng phá sản. Trong

thời kỳ suy thoái kinh tế, khả năng thanh khoản của ngân hàng là sự đảm bảo cho sự ổn

định tài chính của ngân hàng. Tính thanh khoản là khả năng ngân hàng tài trợ cho việc

35

gia tăng tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ khi đến hạn mà không phải gánh chịu những

tổn thất không thể chấp nhận được. Vai trò cơ bản của các ngân hàng trong việc chuyển

đổi kỳ hạn của các khoản tiền gửi ngắn hạn thành các khoản cho vay dài hạn khiến các

ngân hàng vốn dễ bị rủi ro thanh khoản, cả về bản chất của một tổ chức cụ thể và ảnh

hưởng đến toàn bộ thị trường. Hầu như mọi giao dịch hoặc cam kết tài chính đều có ý

nghĩa đối với tính thanh khoản của ngân hàng. Quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả giúp

đảm bảo ngân hàng có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ về dòng tiền vốn không chắc chắn

do bị ảnh hưởng bởi các sự kiện bên ngoài và hành vi của các tác nhân khác.

Rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất như một khả năng mang lại thiệt hại cho ngân hàng do biến động

lãi suất. Rủi ro bắt nguồn từ sự mất cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ. Rủi ro lãi suất

là một phần phổ biến trong kinh doanh ngân hàng, tuy nhiên, tỷ lệ rủi ro quá cao có thể

dẫn đến giảm thu nhập ngân hàng cũng như giá trị vốn của ngân hàng. Theo Ủy ban

giám sát ngân hàng Basel (2004), rủi ro lãi suất được chia thành bốn loại: rủi ro cơ bản,

rủi ro đường cong lợi suất, rủi ro tùy chọn và rủi ro định giá lại. Rủi ro lãi suất tồn tại

trong bất kỳ sản phẩm, dịch vụ nào mà ngân hàng cung cấp. Do đó, các ngân hàng

thường phòng ngừa những rủi ro này bằng cách tham gia vào các hoạt động hoán đổi,

quản lý khe hở nhạy cảm với lãi suất, ngụ ý rằng loại rủi ro này là một nguyên nhân gây

lo ngại và các ngân hàng cần phải thường xuyên theo dõi, vì ngành ngân hàng coi loại

rủi ro này là một phần của rủi ro thị trường. Rủi ro lãi suất ảnh hưởng tiêu cực đến tài

sản của ngân hàng và thu nhập được tạo ra từ chúng. Ảnh hưởng của biến động lãi suất

phụ thuộc vào thu nhập của ngân hàng và giá trị ròng trong cấu trúc bảng cân đối kế

toán; nghĩa là, giữa tài sản có và nợ phải trả nhạy cảm với lãi suất và thời gian đáo hạn

của chúng. Rủi ro lãi suất được đo lường thông qua tỷ lệ tài sản có nhạy cảm trên tài sản

nợ nhạy cảm. Chứng khoán ngắn hạn, khoản vay lãi suất thả nổi, là những tài sản nhạy

cảm nhất đối với biến động lãi suất. Trong khi tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm

ngắn hạn, tiền gửi ngắn hạn và các khoản cho vay mà ngân hàng nhận được là nợ nhạy

cảm nhất đối với lãi suất.

36

2.3.2 Đánh giá rủi ro của ngân hàng thương mại

Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đo lường rủi ro của ngân hàng, tương

ứng với mỗi loại sẽ có các cách đánh giá cụ thể để đo lường loại rủi ro đó. Trong lĩnh

vực ngân hàng, rủi ro tín dụng là loại rủi ro quan trọng nhất của các NHTM, dự phòng

rủi ro trích lập và nợ xấu được xem là những thước đo phổ biến và đáng tin cậy nhất.

Bên cạnh đó, để đánh giá rủi ro phá sản hay mức độ rủi ro tổng thể của ngân hàng thì

chỉ số Z-score là thước đo đánh giá được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng nhất. Chỉ số Z-

score còn được sử dụng đại diện cho độ bất ổn tài chính hay rủi ro phá sản của ngân

hàng với mục đích dự báo, đo lường khả năng xảy ra bất ổn trong hoạt động kinh doanh

có nguy cơ không thể hoàn thành nghĩa vụ tài chính của mình dẫn đến việc bị sáp nhập,

mua lại ngân hàng.

Phương pháp Z-score so sánh một cách rõ ràng vốn đệm (vốn cổ phần và lợi

nhuận) với rủi ro (biến động thu nhập) nhằm xác định khả năng thanh toán của một ngân

hàng. Chỉ số Z-score là một trong những phương pháp khá phổ biến được sử dụng để

đo lường mức độ ổn định của các định chế tài chính, vì nó dại diện cho nghịch đảo của

xác suất phá sản của một ngân hàng (Laeven and Levine 2009). Vì vậy, giá trị cao hơn

của Z-score được hiểu như là ngân hàng ít gặp rủi ro hay các ngân hàng ổn định hơn.

Ngược lại, khi chỉ số Z-score thấp, ngân hàng đang mất dần ổn định, nguy cơ cạn kiện

nguồn vốn dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản (Lepetit and Strobel 2014). Chỉ

số này đồng thời xem xét đến ba yếu tố quan trọng trong đánh giá hiệu suất hoạt động

của ngân hàng, bao gồm an toàn vốn thông qua tỷ lệ vốn chủ sở hữu, lợi nhuận thông

qua ROA và rủi ro thông qua độ lệch chuẩn của ROA, tức mức độ dao động của lợi

nhuận (Roy 1952).

Chỉ số Z - score được tính toán theo công thức:

Z-score = ROA +E/A δ(ROA)

Trong đó

ROA: Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản của các ngân hàng

E/A: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng

37

δ(ROA): Độ lệch chuẩn của ROA, đại diện cho sự biến động về lợi nhuận (được tính

bằng cách ước tính độ lệch chuẩn của ROA trong thời gian 3 năm liên tục bao gồm năm

nay và hai năm trước đó và tiếp tục nguyên tắc này trên phần còn lại của mẫu nghiên

cứu)

Từ công thức của Boyd và Graham (1986), Hannan và Hanweck (1988), nhiều

nghiên cứu đã sử dụng chỉ số Z-score đại diện cho rủi ro ngân hàng, độ bất ổn trong hoạt

động ngân hàng và nguy cơ phá sản ngân hàng. Theo đó, chỉ số Z-score được sử dụng

để tính toán mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thông qua vốn hóa, lợi nhuận

và biến động tài sản của họ. Chỉ số Z-score càng tăng lên thể hiện ngân hàng ít gặp phải

rủi ro hơn và có sự ổn định tài chính cao hơn, rủi ro mất khả năng thanh toán thấp, vì

vậy việc tăng Z-score cho thấy khả năng phá sản của các ngân hàng giảm hay tính ổn

định của ngân hàng tăng. Chỉ số Z- score có thể chỉ ra một cách rõ ràng mối quan hệ

ngược chiều đối với xác suất mất khả năng thanh toán của các ngân hàng, đó chính là

khả năng giá trị tài sản thấp hơn giá trị của nợ phải trả. Hệ số Z-score ở đây có thể đại

diện cho sự ổn định tài chính của một ngân hàng trong một quốc gia hoặc đại diện cho

sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng trong một quốc gia hay một khu vực.

Các phiên bản khác nhau của Z-score cũng đã xuất hiện khá nhiều và thậm chí

còn xa rời khỏi khái niệm ban đầu. Một số nghiên cứu ước tính giá trị độ lệch chuẩn của

ROA chỉ căn cứ trên một phần của mẫu thời gian (2, 3, 4 hoặc 5 năm) và tiếp tục nguyên

tắc này trên phần còn lại của mẫu để làm cho chỉ số Z-score trở nên nhạy hơn và do đó

biến động nhiều hơn (Laeven and Levine, 2009; Williams 2014). Các tác giả cho rằng

bằng cách này, họ có thể nắm bắt tốt hơn những thay đổi tức thời phù hợp với từng bối

cảnh của ngân hàng.

Laura Chiaramonte và cộng sự (2016) đã nghiên cứu và chỉ ra rằng 76% khả năng

thất bại của các ngân hàng có thể được dự đoán tốt bằng chỉ số Z-score. Hơn nữa, chỉ số

Z-score còn có một ưu điểm khác là dễ tính toán và dữ liệu sử dụng để tính toán chỉ tiêu

này có sẵn trên báo cáo tài chính của ngân hàng.

Ngoài ra, các nghiên cứu sử dụng logarit của Z-score như trong các bài nghiên

cứu của Laeven và cộng sự (2009); Houston và cộng sự (2010) trong mối quan hệ với

rủi ro phá sản ngân hàng vì việc sử dụng hàm logarit sẽ làm giảm sự biến động mạnh và

sự chênh lệch lớn giữa các ngân hàng thương mại. Đặc biệt đối với dữ liệu của các ngân

38

hàng thương mại tại Việt Nam còn biến động mạnh qua các năm thì việc sử dụng logarit

sẽ làm giảm sự biến động quá mạnh và sự chênh lệch quá lớn giữa các ngân hàng thương

mại và làm cho kết quả nghiên cứu sẽ trở nên chính xác hơn.

Theo Lepetit và Strobel (2014), cho đến thời điểm hiện nay chỉ số Z-score ngân

hàng vẫn được xem như là chỉ số về dự báo khả năng phá sản của ngân hàng được sử

dụng rộng rãi trong các nghiên cứu như: Boyd và cộng sự (2006), Berger và cộng sự

(2009). Chỉ số Z-score cao hơn cho thấy ngân hàng ít gặp rủi ro và ổn định hơn, vì vậy

luận án sẽ sử dụng chỉ số Z-score để đánh giá rủi ro tổng thể của các NHTM Việt Nam.

2.4 NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN

ĐẾN LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.4.1. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi

nhuận của ngân hàng thương mại

Berger và di Patti (2006) nghiên cứu về CTV và lợi nhuận của các NHTM thông

qua việc kiểm định lý thuyết chi phí đại diện. Nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp

bình phương nhỏ nhất hai giai đoạn (2SLS) để nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến

tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng nhằm chứng minh sự phù hợp của lý thuyết đại diện

đối với trường hợp các NHTM tại Mỹ thời gian nghiên cứu là 6 năm trong giai đoạn

1990–1995. Mẫu nghiên cứu gồm 695 NHTM của Mỹ và được kiểm tra lại trên tổng thể

7320 NH Mỹ giai đoạn này. Kết quả cho thấy sự tương đồng với lý thuyết đại diện khi

các ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao đạt được lợi nhuận nhiều hơn. Cụ thể trong

nghiên cứu này có tồn tại mối quan hệ nghịch biến giữa lợi nhuận (ROE) và tỷ lệ vốn

chủ sở hữu/Tổng tài sản (ECAP), hay nói cách khác, có sự tác động qua lại cùng chiều

giữa ROE và đòn bẩy tài chính của ngân hàng. Ngoài ra, theo nghiên cứu cho thấy, hiệu

quả tài chính của ngân hàng còn bị tác động bởi tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông

khác nhau (cá nhân, tổ chức…), chỉ số tiền gửi thị trường, độ lệch chuẩn của ROE.

Tương tự Berger và di Patti (2006), Pratomo và Ismail (2006) cũng tìm cách

chứng minh lý thuyết đại diện trong trường hợp 15 NHTM tại Malaysia trong giai đoạn

1997–2004. Kết quả nghiên cứu cho thấy các tác giả đã chứng minh được các ngân hàng

sử dụng đòn bẩy tài chính cao sẽ đạt lợi nhuận tốt hơn. Tăng đòn bẩy tài chính, tức tăng

nợ làm cho ngân hàng phải tuân thủ theo các quy tắc quản trị tài chính qua đó tiết kiệm

39

chi phí, tận dụng được các cơ hội đầu tư có khả năng sinh lợi đồng thời cùng tạo áp lực

tạo ra dòng tiền, điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết đại diện. Vì vậy, trong trường

hợp các yếu tố khác không đổi đòn bẩy tài chính cao hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng

nguồn vốn thấp sẽ giúp ngân hàng tăng lợi nhuận. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu tác động

của các nhân tố khác đến lợi nhuận của NHTM như: độ lệch chuẩn của ROE (SDROE),

quy mô NH (SIZE), chỉ số tiền gửi thị trường (HERF) có tương quan thuận, cho vay

(LOAN) có tương quan nghịch nhưng không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, nhân

tố đầu tư chứng khoán (SEC) có tương quan nghịch với lợi nhuận NHTM, ở mức ý nghĩa

1%.

Kyereboah-Coleman (2007) xem xét tác động của cấu trúc vốn đối với lợi nhuận

của 52 tổ chức tài chính vi mô tại Ghana với dữ liệu bảng giai đoạn 1995 – 2004. Kết

quả cho thấy các tổ chức tài chính vi mô sử dụng đòn bẩy tài chính cao và tài trợ dài hạn

cho hoạt động. Ngoài ra, các tổ chức tài chính vi mô có đòn bẩy cao hoạt động tốt hơn

bằng cách tiếp cận với nhiều khách hàng hơn, tận hưởng lợi thế kinh tế quy mô và do

đó có khả năng đối phó tốt hơn với rủi ro đạo đức và lựa chọn bất lợi, nâng cao khả năng

đối phó với rủi ro.

Hutchison và Cox (2007) tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa cấu trúc vốn và lợi

nhuận của các NHTM tại Mỹ giai đoạn 1983–1989 và 1996–2002. Sử dụng dữ liệu gồm

87.928 và 59.623 cho từng giai đoạn, tác giả tìm thấy bằng chứng cho thấy đòn bẩy tài

chính làm tăng ROE. Phân tích được mở rộng để xác định mối quan hệ giữa tỷ suất sinh

lợi trên tài sản (ROA) và vốn chủ sở hữu. Bằng chứng ủng hộ giả thuyết rằng có mối

quan hệ thuận chiều giữa đòn bẩy tài chính và ROE trong cả hai giai đoạn. Kết quả này

hàm ý rằng các ngân hàng tăng đòn bẩy tài chính để tăng lợi nhuận cho người sở hữu cổ

phiếu mặc dù rủi ro tài chính gia tăng.

Saona (2010) nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận của các

ngân hàng ngân hàng Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ năm 1995–2007 với phương

pháp định lượng GMM (Generalised Methods of Moments). Biến phụ thuộc đại diện

cho lợi nhuận của các ngân hàng được đo lường bằng tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở

hữu ROE. Ngoài biến độc lập chính tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn, tác giả

đưa vào mô hình các biến nội của tại ngân hàng bao gồm: quy mô ngân hàng, mức độ

tập trung thị trường, khả năng cho vay, lượng tiền gửi, chi phí lãi vay, mức đầu tư vào

40

chứng khoán và rủi ro của ngân hàng. Ngoài ra, còn xem xét đến các yếu tố vĩ mô như

là biến kiểm soát cho mô hình như tỷ lệ chiết khấu của Cục dự trữ Liên Bang Mỹ, chỉ

số NASDAQ ngân hàng, và danh tiếng của ngân hàng đó. Kết quả nghiên cứu cho thấy

có mối quan hệ ngược chiều giữa việc tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn và

lợi nhuận của ngân hàng, điều này có nghĩa việc tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng

nguồn vốn sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Các biến đặc điểm ngân hàng khác

cũng có tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng như mối tương quan âm của

tiền gửi, chi phí lãi suất, rủi ro của ngân hàng. Mối tương quan dương của thị phần ngân

hàng và cho vay lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Awunyo-Vitor và Badu (2012) kiểm tra mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi

nhuận các các ngân hàng bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng. Bài nghiên cứu được

thực hiện cho sáu ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Ghana trong giai

đoạn từ 2000 đến 2010. Trong đó biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của các ngân

hàng được đại diện bởi lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản ROA, lợi nhuận sau thuế trên

vốn chủ sở hữu ROE và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của tổng tài sản Tobin’s Q.

Các biến độc lập bao gồm biến cấu trúc vốn là tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu, SIZE được

đo lường bằng logarit tự nhiên của thu nhập, CLB là tỷ lệ nợ ngắn hạn trong tổng nợ của

ngân hàng, AGE là số năm hoạt động của các ngân hàng, BOS là số lượng thành viên

trong Ban giám đốc, MCAP là giá trị vốn hóa thị trường, nó đại diện cho giá trị thị

trường của vốn chủ sở hữu. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cấu trúc vốn có LEV tác động

ngược chiều lên của ROE, ROA và Tobins’Q của các ngân hàng này. Kết quả nghiên

cứu này cũng cho thấy mối quan hệ không đáng kể giữa cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt

động của ngân hàng được đo bằng ROA. Awunyo-Vitor và Badu (2012) cho rằng chi

phí sử dụng nợ cao (do ngân hàng sử dụng tỷ lệ nợ cao trong cấu trúc vốn) đã làm tăng

chi phí lãi, làm giảm lợi nhuận, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thể hiện qua

các chỉ số ROE, ROA và Tobins’Q. Ngoài ra, các ngân hàng sử dụng nhiều nợ có khuynh

hướng bị chi phí phá sản gián tiếp như là sụt giảm doanh thu và lợi thế thương mại, gặp

khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung. Những biến khác trong mô hình

như SIZE có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đo lường

bởi ROE. Trong khi đó, ROA lại chịu sự tác động một cách đáng kể bởi các biến AGE,

41

SIZE, MCAP và CLB; Tobins’Q chịu sự tác động đáng kể bởi SIZE và MCAP.

Saeed (2013) nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của ngân hàng

tại Pakistan. Mẫu nghiên cứu gồm 25 ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Karachi

trong giai đoạn 5 năm từ 2007–2011. Trong đó biến phụ thuộc đại diện được đo lường

bằng tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA)

và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS), biến độc lập nợ dài hạn, nợ ngắn hạn, tổng nợ cùng

với hai biến kiểm soát đó là quy mô ngân hàng (SIZE) và tăng trưởng tài sản (AG). Kết

quả nghiên cứu cho thấy nợ ngắn hạn trên vốn (STDTC), tổng số nợ trên vốn và quy mô

ngân hàng (SIZE) có sự tương quan dương đối với lợi nhuận của ngân hàng. Ngược lại

nợ dài hạn trên vốn (LTDTC) lại có mối tương quan âm với ROA, ROE, EPS. Trong

khi đó biến kiểm soát tăng trưởng tài sản (AG) có ảnh hưởng ngược chiều không đáng

kể đến ROA và ROE nhưng ảnh hưởng ngược chiều đáng kể đến EPS. Từ kết quả nghiên

cứu có thể kết luận rằng có tồn tại mối quan hệ tương quan cùng chiều giữa cấu trúc vốn

và lợi nhuận của các ngân hàng Pakistan.

Al-Kayed và cộng sự (2014) nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận

của 85 ngân hàng Hồi giáo tại 19 quốc gia và vùng lãnh thổ trong khoảng thời gian từ

năm 2003–2008. Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất hai giai

đoạn (2 SLS) để nghiên cứu mối quan hệ của cấu trúc vốn đến hiệu quả của các ngân

hàng. Trong đó, đại diện cho hiệu quả hoạt động của các ngân hàng được đo lường bằng

tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA), tỷ

lệ thu nhập lãi cận biên (NIM). Đồng thời, các tác giả tách các biến phụ thuộc ra thành

hai nhóm: biến các đặc điểm của ngân hàng và biến vĩ mô. Các biến đặc điểm của ngân

hàng được sử dụng trong mô hình bao gồm tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn,

tỷ lệ tài sản không sinh lời trên tổng tài sản, chi phí hoạt động trên tổng tài sản, quy mô

ngân hàng, biến rủi ro đo bằng tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản. Các biến vĩ mô được sử dụng

trong mô hình bao gồm tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP, lạm phát, cấu

trúc tài chính, cấu trúc thị trường thuế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Kết quả nghiên cứu cho

thấy lợi nhuận của ngân hàng có tác động dương với tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng

nguồn vốn, quy mô ngân hàng có tác động âm từ chi phí hoạt động trên tổng tài sản,

điều này chứng tỏ việc gia tăng chi phí hoạt động trên tổng tài sản sẽ làm giảm hiệu quả

hoạt động của các ngân hàng. Lợi nhuận của ngân hàng không bị tác động bởi các yếu

42

tố độ rủi ro, tỷ lệ tài sản không sinh lời trên tổng tài sản, các yếu tố vĩ mô như tốc độ

tăng trưởng GDP, cung tiền hay mức dự trữ, thuế, lạm phát, cấu trúc tài chính, cấu trúc

thị trường.

Gohar và Rehman (2016) nghiên cứu tác động của CTV đến lợi nhuận của 10

NHTM tại Pakistan giai đoạn 2009–2013. Các biến đại diện cho CTV là tổng nợ trên

vốn chủ sở hữu, nợ ngắn hạn trên vốn chủ sở hữu, nợ dài hạn trên vốn chủ sở hữu. Kết

quả cho thấy tỷ lệ nợ cao hơn làm giảm lợi nhuận của NHTM tại Pakistan. Kết quả

nghiên cứu hàm ý rằng trong các nghiên cứu về cấu trúc vốn, khu vực tài chính và phi

tài chính không thể kết hợp với nhau vì các mối quan hệ trái ngược nhau. Hơn nữa, các

nhà đầu tư có thể sử dụng công việc này trong quá trình phân tích đầu tư.

Anarfo và Appiahene (2017) nghiên cứu tác động của CTV đến lợi nhuận của

các NHTM ở Châu Phi. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng cùng

với các kiểm định Unit Root Test để phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi

nhuận ngân hàng, dữ liệu phân tích từ 37 quốc gia trong khu vực hạ Sahara giai đoạn từ

năm 2009 đến năm 2015. Bài nghiên cứu đã sử dụng tỷ lệ nợ (DR) làm thước đo cấu

trúc vốn của ngân hàng. Ngoài ra, lợi nhuận của các ngân hàng được đo bằng cách sử

dụng chỉ số đo lường hiệu quả điều chỉnh rủi ro lợi nhuận trên tài sản (RAROA), chỉ số

đo lường hiệu quả điều chỉnh rủi ro lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (RAROE) và tỷ lệ thu

nhập lãi cận biên (NIM). Nghiên cứu sử dụng 8 biến số làm yếu tố quyết định lợi nhuận

của các ngân hàng bao gồm: tỷ lệ nợ, quy mô của một ngân hàng, tính hữu hình của tài

sản, tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng, thuế, tăng trưởng GDP, lãi suất và tỷ lệ lạm

phát. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm giảm lợi nhuận của các NHTM

khu vực hạ Sahara. Điều này chỉ ra rằng các ngân hàng ở Châu Phi sẽ đạt được lợi nhuận

tối đa bằng cách giảm tỷ lệ nợ và tài trợ bằng nguồn vốn chủ sở hữu để tăng lợi nhuận

của họ vì tỷ lệ nợ cao sẽ làm giảm khả năng sinh lời. Tác động tiêu cực của cấu trúc vốn

đến lợi nhuận của ngân hàng có thể là kết quả của chi phí phá sản cao hơn lợi ích của

việc vay nợ dưới hình thức tiết kiệm thuế theo lý thuyết đánh đổi vốn cấu trúc. Chính

phủ và các nhà hoạch định chính sách nên giảm thuế suất doanh nghiệp vì nó làm giảm

lợi nhuận của ngân hàng. Khi thuế giảm và các ngân hàng đạt được lợi nhuận cao hơn,

từ đó cung cấp môi trường tạo điều kiện để tăng việc làm cho người lao động và do đó

làm giảm thất nghiệp ở châu Phi. Các biến số ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của ngân

43

hàng là quy mô, tài sản hữu hình, tăng trưởng, thuế và lãi suất.

Widyastuti và cộng sự (2019) thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của

CTV đến lợi nhuận của các NHTM tại Indonesia trong giai đoạn 2009 – 2017. Bài

nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, nợ dài hạn trên tổng

tài sản, tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản để chỉ CTV của NHTM; chỉ tiêu ROA và

ROE để chỉ lợi nhuận của NHTM. Kết quả cho thấy tỷ lệ nợ dài hạn tác động cùng chiều

đến ROA và ROE, tỷ lệ vốn chủ sở hữu tác động ngược chiều đến ROA và ROE, tiền

gửi khách hàng tác động cùng chiều đến ROE nhưng ngược chiều đến ROA. Điều này

ủng hộ quan điểm rằng việc tạo ra giá trị của ngân hàng độc lập với cấu trúc của các

hoạt động tài chính. Vì vậy, tỷ trọng cơ cấu vốn (sử dụng nợ và vốn chủ sở hữu) không

rõ ràng về giá trị ngân hàng và có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Do đó, có những yếu tố

chính khác ảnh hưởng đến giá trị của ngành ngân hàng Indonesia ngoài cấu trúc vốn.

Jadah và cộng sự (2020) tìm hiểu tác động của CTV đến lợi nhuận của các NHTM

tại Iraq trong giai đoạn 2009 – 2018. Nghiên cứu tìm thấy bằng chứng cho thấy các

NHTM Iraq sử dụng nợ nhiều hơn làm giảm lợi nhuận. Cụ thể, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên

tổng tài sản có tác động làm tăng ROA. Ngược lại, tổng nợ trên tổng tài sản, nợ ngắn

hạn trên tổng tài sản, nợ dài hạn trên tổng tài sản có tác động ngược chiều đến ROA và

ROE. Nghiên cứu này nêu bật những sự kiện mới để tăng hiểu biết về CTV và mối liên

hệ của CTV với hiệu quả hoạt động của các ngân hàng ở các nền kinh tế đang phát triển

như Iraq. Nghiên cứu được coi là một trong những nghiên cứu sớm nhất về các loại hình

này bằng cách xác định cấu trúc tối ưu của các ngân hàng Iraq và xem xét tác động của

CTV đối với hoạt động của các ngân hàng Iraq.

Nghiên cứu của Molla (2020) được thực hiện nhằm đánh giá tác động của CTV

đến lợi nhuận của các NHTM tại Bangladesh trong giai đoạn 2014 – 2018. Tác giả tìm

thấy bằng chứng cho thấy nợ dài hạn trên tổng tài sản có tác động cùng chiều đến ROA

và ROE. Ngoài ra, tổng nợ trên tổng tài sản không có tác động đến lợi nhuận của NHTM

và tác giả kết luận rằng CTV có ảnh hưởng không đáng kể đến lợi nhuận của các NHTM

tại Bangladesh. Những phát hiện này dẫn đến kết luận rằng CTV có ảnh hưởng yếu hoặc

không ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng niêm yết ở Bangladesh.

44

Nghiên cứu của Al-Omari (2021) về tác động của CTV đến lợi nhuận của các

NHTM tại Jordan thực hiện trong giai đoạn 2011 – 2017. Tác giả sử dụng chỉ tiêu nợ

trên tổng tài sản và nợ trên vốn chủ sở hữu đại diện CTV của NHTM. Các chỉ tiêu đại

diện cho lợi nhuận cao gồm ROA, ROE, ROI, EPS. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi

nhuận của NHTM cao hơn khi sử dụng nợ nhiều hơn. Tác giả đề xuất các NHTM nên

tăng tài sản bằng cách tăng tiền gửi để có thể tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng và

tác động tích cực đến nền kinh tế.

Tương tự như các nghiên cứu nước ngoài tại Việt Nam, theo lược khảo của tác

giả, các nhà nghiên cứu trong nước cũng dành nhiều sự quan tâm cho vấn đề này như:

Trần Việt Dũng (2014) nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận của 22

NHTM Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài

chính có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM. Bên cạnh đó, các ngân hàng hoạt

động hiệu quả hơn khi cổ phần hóa và dự phòng rủi ro tín dụng làm giảm KNSL của

NHTM. Kết quả này hàm ý rằng các ngân hàng giữ nhiều vốn sẽ nhận được sự quan tâm

của người gửi tiền, qua đó các ngân hàng sẽ nhận được lượng tiền gửi với chi phí trả lãi

thấp, làm tăng hiệu quả tài chính của ngân hàng.

Nghiên cứu của Le và Nguyen (2020) về CTV của NHTM có liên quan đến đề

tài. Tác giả đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của NHTM Việt Nam bằng

phương pháp hồi quy định lượng giai đoạn 2007 – 2019. Kết quả nghiên cứu cho thấy

rằng mối quan hệ phi tuyến giữa vốn ngân hàng và lợi nhuận của ngân hàng. Nói cách

khác, đòn bẩy tài chính và lợi nhuận của ngân hàng có mối quan hệ phi tuyến. Đây là

nghiên cứu đầu tiên kết luận rằng bước ngoặt của tỷ lệ vốn tăng lên trong suốt quá trình

phân phối lợi nhuận. Do đó, phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng yêu cầu về vốn

ngân hàng tăng liên tục không nhất thiết dẫn đến lợi nhuận ngân hàng cao hơn.

Tổng hợp lại, các nghiên cứu thực nghiệm các nước trên thế giới về tác động của

của cấu trúc vốn đến lợi nhuận có các kết quả chính được ghi nhận theo Bảng 2.1.

45

Bảng 2.1 Tổng kết các nghiên cứu về các động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác giả (năm) Thời gian Phạm vi Phương Kết quả nghiên cứu

pháp

nghiên

cứu

Berger và di NHTM của 2 SLS Kết quả cho thấy sự tương đồng

Patti (2006) 1990 -1995 Mỹ với lý thuyết đại diện khi các

ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy tài

chính cao đạt được lợi nhuận

nhiều hơn.

(+)

Pratomo và 1997 - 2004 15 NHTM FEM Kết quả nghiên cứu cho thấy các

Ismail (2006) tại Malaysia tác giả đã chứng minh được các

ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài

chính cao sẽ đạt lợi nhuận tốt

hơn.

(+)

Kyereboah- 1995 - 2004 Tổ chức tài REM Kết quả cho thấy các tổ chức tài

Coleman chính vi mô chính vi mô sử dụng đòn bẩy tài

(2007) tại Ghana chính cao và tài trợ dài hạn cho

hoạt động. Ngoài ra, các tổ chức

tài chính vi mô có đòn bẩy cao

hoạt động tốt hơn bằng cách tiếp

cận với nhiều khách hàng hơn,

tận hưởng lợi thế kinh tế quy

mô.

(+)

Hutchison và 1996 - 2002 NHTM tại OLS Tác giả tìm thấy bằng chứng cho

Cox (2007) Mỹ thấy đòn bẩy tài chính làm tăng

ROE.

46

(+)

Saona (2010) 1995 - 2007 Ngân hàng GMM Kết quả nghiên cứu cho thấy có

Hoa Kỳ mối quan hệ ngược chiều giữa

việc tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu

trên tổng nguồn vốn và lợi

nhuận của ngân hàng, điều này

có nghĩa việc tăng tỷ lệ vốn chủ

sở hữu trên tổng nguồn vốn sẽ

làm giảm lợi nhuận của ngân

hàng.

(+)

Awunyo-Vitor 2000 - 2010 6 ngân hàng Pooled Kết quả nghiên cứu này cũng

và Badu (2012) niêm yết OLS cho thấy mối quan hệ không

trên thị đáng kể giữa cấu trúc vốn và

hiệu quả hoạt động của ngân trường

hàng được đo bằng ROA. Ngoài chứng

ra, bài nghiên cứu cho rằng chi khoán

phí sử dụng nợ cao (do ngân Ghana

hàng sử dụng tỷ lệ nợ cao trong

cấu trúc vốn) đã làm tăng chi phí

lãi, làm giảm lợi nhuận, từ đó

ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt

động thể hiện qua các chỉ số

ROE, ROA và Tobins’Q.

(-)

Saeed (2013) 2007-2011 Ngân hàng OLS Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ

ngắn hạn trên vốn (STDTC), yết niêm

tổng số nợ trên vốn và quy mô sàn trên

ngân hàng (SIZE) có sự tương chứng

quan dương đối với lợi nhuận khoán

của ngân hàng. Ngược lại nợ dài

47

Karachi tại hạn trên vốn (LTDTC) lại có

Pakistan mối tương quan âm với ROA,

ROE, EPS.

(+)

Al-Kayed và 2003 - 2008 85 ngân 2 SLS Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi

cộng sự (2014) hàng Hồi nhuận của ngân hàng nhận tác

giáo tại 19 động dương với tỷ lệ vốn chủ sở

quốc gia hữu trên tổng nguồn vốn.

(-)

Gohar và 2009 - 2013 10 NHTM OLS Kết quả cho thấy tỷ lệ nợ cao

Rehman tại Pakistan hơn làm giảm lợi nhuận của

(2016) NHTM tại Pakistan.

(-)

Anarfo và 2009 - 2015 NHTM ở Unit Kết quả nghiên cứu cho thấy

Appiahene Châu Phi đòn bẩy tài chính làm giảm lợi Root

(2017) nhuận của các NHTM khu vực Test

hạ Sahara.

(-)

Widyastuti và 2009 - 2017 NHTM tại OLS Kết quả cho thấy tỷ lệ nợ dài hạn

cộng sự (2019) Indonesia tác động cùng chiều đến ROA

và ROE. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu

tác động ngược chiều đến ROA

và ROE, tiền gửi khách hàng tác

động cùng chiều đến ROE

nhưng ngược chiều đến ROA.

(+/-)

Jadah và cộng 2009 - 2018 NHTM tại FEM Nghiên cứu tìm thấy bằng

sự (2020) Iraq chứng cho thấy các NHTM Iraq

sử dụng nợ nhiều hơn làm giảm

lợi nhuận. Cụ thể, tỷ lệ vốn chủ

sở hữu trên tổng tài sản có tác

48

động làm tăng ROA. Ngược lại,

tổng nợ trên tổng tài sản, nợ

ngắn hạn trên tổng tài sản, nợ

dài hạn trên tổng tài sản có tác

động ngược chiều đến ROA và

ROE.

(-)

Molla (2020) 2014 - 2018 NHTM tại FGLS Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ

Bangladesh dài hạn trên tổng tài sản có tác

động cùng chiều đến ROA và

ROE. Ngoài ra, tổng nợ trên

tổng tài sản không có tác động

đến lợi nhuận của NHTM và tác

giả kết luận rằng CTV có ảnh

hưởng không đáng kể đến lợi

nhuận của các NHTM tại

Bangladesh.

(+)

Al-Omari 2011 - 2017 NHTM tại OLS Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi

(2021) Jordan nhuận của NHTM cao hơn khi

sử dụng nợ nhiều hơn.

(+)

Trần Việt 2006 - 2012 NHTM Việt GMM Kết quả nghiên cứu cho thấy

Dũng (2014) Nam đòn bẩy tài chính có tác động

tiêu cực đến lợi nhuận của

NHTM. Bên cạnh đó, các ngân

hàng hoạt động hiệu quả hơn khi

cổ phần hóa và dự phòng rủi ro

tín dụng làm giảm KNSL của

NHTM.

(-)

49

Le và Nguyen 2007 - 2019 22 NHTM OLS Kết quả nghiên cứu cho thấy

(2020) Việt Nam rằng có mối quan hệ phi tuyến

giữa vốn ngân hàng và lợi nhuận

của ngân hàng. Nói cách khác,

đòn bẩy tài chính và lợi nhuận

của ngân hàng có mối quan hệ

phi tuyến.

(+/-)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

2.4.2. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro

của ngân hàng thương mại

Pricillia (2015) tìm hiểu các yếu tố tác động đến rủi ro của các ngân hàng

Indonesia. Sử dụng phương pháp hồi quy bình phương tối thiểu 2 giai đoạn (2SLS) thời

gian nghiên cứu từ năm 2004 đến năm 2013, nghiên cứu phát hiện ra rằng có bảy yếu tố

ảnh hưởng đến rủi ro của ngân hàng ở Indonesia. Các yếu tố đó là tỷ lệ an toàn vốn

(CAR), đòn bẩy tài chính, kỳ vọng về lợi nhuận, kỳ vọng về mức độ kém hiệu quả, tỷ lệ

tập trung của ngành, mức độ quan trọng của ngân hàng trong nền kinh tế Indonesia và

chuyển động của Ngân hàng Indonesia. Trong đó, đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của

ngân hàng.

Nghiên cứu của Bhagat và cộng sự (2015) về quy mô, đòn bẩy và mức độ chấp

nhận rủi ro của các tổ chức tài chính, mẫu nghiên cứu gồm 702 tổ chức tài chính giai

đoạn từ năm 2002 đến năm 2012. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo Compustat và báo

cáo thường niên của các 599 ngân hàng thương mại, 60 ngân hàng đầu tư và 43 công ty

bảo hiểm tại Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô hoạt động có mối tương quan

dương với mức độ chấp nhận rủi ro tại các tổ chức tài chính tại Mỹ cho giai đoạn 2002

– 2012, các ngân hàng có đòn bẩy tài chính càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro càng

tăng. Ngoài ra, các ngân hàng có sự quản trị tốt hơn sẽ ít rủi ro trong hoạt động. Bên

cạnh đó, nghiên cứu này có khuyến nghị ngoài việc giới hạn quy mô hoạt động của các

ngân hàng quá lớn, thì cần phải gia tăng quy định về yêu cầu vốn tối thiểu cho tất cả các

tổ chức tài chính.

50

Saif-Alyousfi và Saha (2020) thực hiện nghiên cứu nhằm mục đích kiểm tra tác

động của cấu trúc tài chính, ngân hàng cụ thể và các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với rủi ro

và lợi nhuận của các ngân hàng trong các nền kinh tế thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng

Vịnh (GCC) trong giai đoạn 1998–2017. Sử dụng phương pháp SGMM, kết quả nghiên

cứu cho thấy các ngân hàng có đòn bẩy tài chính thấp và tỷ lệ tăng trưởng cho vay cao

thì rủi ro và lợi nhuận cao hơn. Trong nghiên cứu này, Saif-Alyousfi và Saha (2020)

cũng nhận định rằng các ngân hàng thương mại lớn hơn ít rủi ro hơn và ổn định hơn, có

lợi nhuận tốt hơn các ngân hàng nhỏ hơn trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Các ngân hàng Hồi giáo hoạt động tốt hơn về thu nhập phí, vốn hóa, thanh khoản, chất

lượng tài sản và có mức độ tập trung thị trường cao hơn các ngân hàng thông thường.

Mercan (2021) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM tại

George giai đoạn 2006 – 2014. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy OLS dữ liệu

bảng không cân bằng theo phương pháp Hiệu ứng ngẫu nhiên và Hiệu ứng cố định. Kết

quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm giảm rủi ro ngân hàng. Ngược lại, quy

mô ngân hàng, dư nợ cho vay có ảnh hưởng tăng rủi ro của ngân hàng.

Tương tự như các nghiên cứu nước ngoài tại Việt Nam, theo lược khảo của tác

giả, các nhà nghiên cứu trong nước cũng dành nhiều sự quan tâm cho vấn đề này như:

Nghiên cứu của Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự (2020) được thực hiện nhằm

đánh giá các yếu tố tác động đến rủi ro của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018

thu thập bộ số liệu của 19 NHTM Việt Nam. Sử dụng kỹ thuật hồi quy dữ liệu bảng theo

phương pháp bình phương tối thiểu thông thường, mô hình hồi quy tác động cố định,

mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên và mô hình bình phương tối thiểu tổng quát. Kết

quả nghiên cứu cho thấy NIM làm tăng rủi ro cho ngân hàng. Các yếu tố đòn bẩy tài

chính, quy mô ngân hàng, dư nợ cho vay có tác động làm giảm rủi ro.

Nghiên cứu của Nguyen và Duong (2020) tìm hiểu tác động của các yếu tố đến

rủi ro với bộ dữ liệu gồm 27 NHTM Việt Nam giai đoạn 2010 – 2017. Bằng phương

pháp GMM, tác giả kết luận đòn bẩy tài chính, tỷ lệ nợ xấu, dự phòng rủi ro tín dụng,

dư nợ cho vay, quy mô ngân hàng, tăng trưởng GDP là các yếu tố làm tăng rủi ro. Ngược

lại, tỷ suất sinh lợi, lạm phát có tác động làm giảm rủi ro.

51

Phạm Tiến Minh và Bùi Huy Hải Bích (2019) tiến hành nghiên cứu đánh giá tác

động của các yếu tố đến rủi ro của 21 NHTM Việt Nam giai đoạn 2010 – 2018. Sử dụng

phương pháp GLS, kết quả cho thấy các ngân hàng có đòn bẩy tài chính lớn sẽ làm rủi

ro tăng lên. Bên cạnh đó, các cổ đông lớn tập trung, cổ đông tổ chức, và cổ đông nhà

nước góp phần làm giảm các hành vi rủi ro có tác động làm giảm rủi ro.

Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015) nghiên cứu tác động của cấu trúc

vốn và các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 – 2013.

Bài nghiên cứu sử dụng mô hình bình phương tối thiểu thông thường (OLS). Kết quả

cho thấy đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của NHTM. Bên cạnh đó, các yếu tố có mối

quan hệ nghịch chiều với rủi ro ngân hàng là tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ dự phòng nợ

xấu, tỷ lệ thu nhập lãi thuần, đa dạng hóa thu nhập, sở hữu nhà nước, số năm hoạt động

của ngân hàng và ngân hàng đã niêm yết. Các yếu tố có mối quan hệ đồng biến với rủi

ro ngân hàng gồm hiệu quả quản lý chi phí và quy mô.

Trong nghiên cứu của Nguyễn Thanh Dương (2013), tác giả phân tích rủi ro trong

hoạt động ngân hàng sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 36 NHTM tại Việt Nam giai đoạn

từ năm 2006 đến năm 2011, sử dụng mô hình hồi quy đa biến nhằm xác định sự tác động

của các chỉ tiêu đặc trưng đến rủi ro ngân hàng với biến phụ thuộc là Z-Score và các yếu

tố ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng bao gồm có 7 yếu tố: Tỷ lệ dự phòng nợ xấu (LLR),

Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng (LLP), đòn bẩy (LEV), Tỷ lệ thu nhập lãi thuần

(NIR), Tỷ lệ chi phí lương và trợ cấp (CTI), tỷ lệ cho vay (LDR), tỷ lệ tài sản thanh

khoản (LAD). Kết quả nghiên cứu cho thấy có 4 biến có ý nghĩa thống kê: NIR, LLP,

LDR, LEV trong đó tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng huy động (LEV) và tỉ lệ cho vay trên

huy động ngắn hạn (LDR ) có mối quan hệ nghịch biến với rủi ro ngân hàng. Ngược lại,

tỉ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên thu nhập lãi thuần (LLP) và tỉ lệ thu nhập lãi

thuần trên tổng tài sản bình quân (NIR) đồng biến với rủi ro ngân hàng. Ngoài ra, nghiên

cứu cũng cho rằng việc tăng vốn chủ sở hữu là điều kiện tiên quyết có thể bảo vệ ngân

hàng trước rủi ro phá sản. Bên cạnh đó đề tài nghiên cứu còn có những gợi ý về chính

sách và nâng cao trình độ nhằm cải thiện quản lý rủi ro hệ thống ngân hàng, đề xuất

hoàn thiện chức năng quản lí tài sản và nguồn vốn.

52

Tổng hợp lại, các nghiên cứu thực nghiệm tại các nước trên thế giới và Việt Nam

về tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro có các kết quả chính được ghi nhận theo Bảng

2.2.

Bảng 2.2 Tổng kết các nghiên cứu về các động của cấu trúc vốn đến rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác giả (năm) Thời gian Phạm vi PPNC Kết quả nghiên cứu

Pricillia (2015) 2004 - 2013 Các ngân 2SLS Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng

hàng đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro

Indonesia của ngân hàng.

(+)

Bhagat và cộng 2002 - 2012 702 tổ chức Kết quả nghiên cứu cho thấy các

sự (2015) tài chính tại ngân hàng có đòn bẩy tài chính

Mỹ càng cao thì mức độ chấp nhận

rủi ro càng tăng.

(+)

Saif-Alyousfi 1998 - 2017 Nền kinh tế SGMM Kết quả nghiên cứu cho thấy các

và Saha (2020) thuộc Hội ngân hàng có đòn bẩy tài chính

đồng Hợp thấp và tỷ lệ tăng trưởng cho

tác Vùng vay cao thì rủi ro và lợi nhuận

Vịnh cao hơn.

(GCC) (-)

Mercan (2021) 2006 - 2014 NHTM tại OLS, Kết quả nghiên cứu cho thấy

George FEM, đòn bẩy tài chính làm giảm rủi

GMM ro ngân hàng.

(-)

53

Nghiên cứu của 2014 – 2018 19 NHTM OLS, Kết quả nghiên cứu cho thấy

Việt Nam FEM, NIM làm tăng rủi ro cho ngân Lê Ngọc Quỳnh

Anh và cộng sự REM hàng. Các yếu tố đòn bẩy tài

(2020) và GLS chính, quy mô ngân hàng, dư nợ

cho vay có tác động làm giảm

rủi ro.

(-)

Nguyen và 2010 - 2017 27 NHTM GMM Tác giả kết luận đòn bẩy tài

Duong (2020) Việt Nam chính, tỷ lệ nợ xấu, dự phòng rủi

ro tín dụng, dư nợ cho vay, quy

mô ngân hàng, tăng trưởng GDP

là các yếu tố làm tăng rủi ro.

(+)

Phạm Tiến 2010 - 2018 21 NHTM GLS Kết quả nghiên cứu cho thấy các

Việt Nam ngân hàng có đòn bẩy tài chính Minh và Bùi

lớn sẽ làm rủi ro tăng lên. Huy Hải Bích

(2019) (+)

Nguyễn Minh 2009 - 2013 NHTM OLS Kết quả cho thấy đòn bẩy tài

Việt Nam chính làm tăng rủi ro của Hà và Nguyễn

NHTM. Bá Hướng

(2015) (+)

Nguyễn Thanh 2006 - 2011 36 NHTM FEM, Kết quả nghiên cứu cho đòn bẩy

Dương (2013) tại Việt REM, tài chính có mối quan hệ đồng

Nam GLS biến với rủi ro ngân hàng. Điều

này có nghĩa rằng đòn bẩy càng

54

cao do huy động nhiều thì rủi ro

càng cao.

(+)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các nghiên cứu

2.5 THẢO LUẬN NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Như vậy, sau phần tổng quan và lược khảo các nghiên cứu trước tác giả nhận thấy có

một số khoảng trống có thể khai thác như sau:

Thứ nhất, trên thế giới cũng như trong nước đã có nhiều nghiên cứu về mối quan

hệ giữa cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Các nghiên cứu trong nước về

chủ đề này đã phản ánh được về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro. Tuy

nhiên, các nghiên cứu này đã thực hiện cách đây mấy năm, nên thời gian nghiên cứu và

mẫu nghiên cứu không còn phù hợp với diễn biến của nền kinh tế cũng như không còn

phản ánh chính xác sự tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM như

hiện nay. Trong nhiên cứu này, tác giả sẽ cập nhật thời gian nghiên cứu và mẫu nghiên

cứu phù hợp với thời điểm hiện tại.

Thứ hai, các nghiên cứu cho thấy chiều hướng ảnh hưởng khác nhau của CTV

đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Cụ thể, một số nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài

chính có tác động làm tăng lợi nhuận của NHTM (Al-Omari 2021; Pratomo and Ismail

2006; Kyereboah-Coleman 2007; Saona 2010). Ngược lại, một số nghiên cứu khác lại

cho thấy đòn bẩy tài chính có tác động làm giảm lợi nhuận của NHTM (Jadah et al.

2020; Anarfo and Appiahene 2017; Trần Việt Dũng 2014; Al-Kayed et al. 2014). Tương

tự như vậy, nhiều nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của ngân hàng

(Nguyen and Duong 2020; Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự 2020; Phạm Tiến Minh và

Bùi Huy Hải Bích 2019; Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng 2015, Mercan 2021)

hoặc làm giảm rủi ro của ngân hàng (Saif-Alyousfi and Saha 2020). Các kết quả khác

nhau có thể là do các nghiên cứu được thực hiện theo không gian, thời gian, phương

pháp tiếp cận khác nhau.

55

Thứ ba, các nghiên cứu sử dụng các chỉ tiêu như vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản,

tổng nợ trên tổng tài sản, nợ ngắn hạn trên tổng tài sản, nợ dài hạn trên tổng tài sản làm

đại diện cho CTV của NHTM. Tuy nhiên, các chỉ tiêu như vậy lại tương tự với các chỉ

tiêu phản ánh CTV của các doanh nghiệp phi tài chính. Trong khi đó, CTV của NHTM

có sự khác biệt rất lớn với CTV của doanh nghiệp phi tài chính (Gropp and Heider 2010;

Sibindi 2018). Vì vậy, dể đánh giá chính xác CTV của NHTM, dựa trên nghiên cứu của

Gropp và Heider (2010), Sibindi (2018), Widyastuti và cộng sự (2019) về CTV của

NHTM, tác giả đưa vào mô hình hai biến đại diện cho CTV của NHTM là Tiền gửi

khách hàng trên tổng tài sản và Nợ phi tiền gửi trên tổng tài sản.

Tại Việt Nam, phần lớn các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy có các

nghiên cứu về các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn, các nhân tố tác động đến hiệu quả

hoạt động của các NHTM. Ngoài ra còn các nghiên cứu về sự tác động của cấu trúc vốn

đến hiệu quả hoạt động cho các ngành nghề khác cụ thể như xi măng, dệt, dược phẩm,

hay nghiên cứu thuộc lĩnh vực chung. Tuy nhiên rất ít nghiên cứu về ảnh hưởng của

cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro cho nhóm doanh nghiệp tài chính tại Việt Nam,

tiêu biểu là các NHTM. Đây cũng chính là khoảng trống mà chưa nghiên cứu nào được

thực hiện tại Việt Nam.

Về thời gian nghiên cứu, tại Việt Nam có rất ít các nghiên cứu trong lĩnh vực

ngân hàng liên quan đến mảng cấu trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro trong khoảng thời gian

dài nhất là từ giai đoạn khủng hoảng tài chính của nền kinh tế, trong giai đoạn này việc

lựa chọn CTV phù hợp là một trong những quyết định tài chính quan trọng của NHTM

nhằm tránh được những rủi ro phá sản, vì vậy nghiên cứu này của tác giả thời gian sẽ

kéo dài từ năm 2012 đến năm 2020. Đây cũng là giai đoạn các NHTM Việt Nam thực

hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ tại Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012

về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”, các ngân

hàng thực hiện tái cơ cấu theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn và hiệu quả đủ khả

năng cạnh tranh với các tổ chức tín dụng lớn trong khu vực trong bối cảnh hội nhập mới.

Về phương pháp nghiên cứu, các nghiên cứu trước đây về chủ đề này thường

được thực hiện theo cách tiếp cận tần suất truyền thống (frequentist) như FEM, REM,

GMM, dẫn đến các kết quả khác nhau khi đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi

nhuận và rủi ro của NHTM. Phương pháp tần suất này có nhược điểm là độ chính xác

56

của mô hình phụ thuộc vào kích thước mẫu phải đủ lớn để đưa ra kết luận hợp lý vì cỡ

mẫu nhỏ có thể làm giảm độ chính xác của diễn giải kết quả thống kê (Muthén & Curran,

1997). Nhưng chỉ nghiên cứu trong phạm vi một ngành, một lĩnh vực thì việc có được

số lượng mẫu lớn là rất khó khăn. Phương pháp Bayes khắc phục được nhược điểm này

của phương pháp tần suất vì có thể cho ra kết quả đáng tin cậy với cỡ mẫu nhỏ (Baldwin

& Fellingham, 2013). Ngoài ra, suy luận Bayes dựa trên một quy tắc xác suất duy nhất,

quy tắc Bayes, được áp dụng cho tất cả các mô hình tham số (Berger, 1993). Điều này

làm cho cách tiếp cận Bayes trở nên phổ biến và tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho

việc áp dụng và giải thích kết quả. Do thời gian nghiên cứu chỉ là 9 năm cho 30 NHTM

Việt Nam, vì vậy cỡ mẫu chúng ta chỉ có 270 quan sát. Với số quan sát quá ít nên nghiên

cứu này không thể phân tích hồi quy theo phương pháp tần suất truyền thống. Vì thế,

phương pháp Bayes là cách tiếp cận phù hợp trong luận án này vì cỡ mẫu nhỏ và dữ

liệu bảng (kết hợp giữa dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo).

Từ những khoảng trống nghiên cứu trên là cơ sở để tác giả lựa chọn hướng

nghiên cứu về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng

thương mại Việt Nam. Mô hình nghiên cứu của luận án vừa kế thừa một phần ý tưởng

từ các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, vừa thực hiện bổ sung, điều chỉnh để hoàn

thiện hơn đối với vấn đề nghiên cứu là tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi

ro của các NHTM tại Việt Nam.

57

Tóm tắt chương 2

Trong chương 2, tác giả đã trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến tác động của

CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Bên cạnh việc trình bày cơ sở lý thuyết, tác

giả cũng tiến hành lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm liên quan trên thế giới và tại

Việt Nam về tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM, qua đó xác định khe

hở của chủ đề nghiên cứu, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chương tiếp theo của luận

án.

Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước, trong chương 3 tác giả sẽ trình bày

phương pháp và mô hình nghiên cứu của luận án.

58

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Giới thiệu chương 3

Trên cơ sở lý thuyết về cấu trúc vốn, lợi nhuận, rủi ro ngân hàng và lược khảo

các nghiên cứu thực nghiệm đã nêu ở chương 2, chương 3 của luận án sẽ trình bày

phương pháp định lượng theo cách tiếp cận Bayes để đo lường tác động của cấu trúc

vốn tới lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng

trong nội dung chương 3 này luận án sẽ trình bày mô hình nghiên cứu đề xuất, mô tả dữ

liệu và nguồn dữ liệu nghiên cứu thu thập từ các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2012

– 2020. Cuối cùng, luận án sẽ xây dựng các giả thuyết nghiên cứu căn cứ vào lý thuyết

và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây.

3.1 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU

Bước 1: Tác giả lược khảo cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước liên quan đến

giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại. Từ

đó, xác định khoảng trống nghiên cứu.

Bước 2: Trên cơ sở các nghiên cứu trước có liên quan, tác giả tiến hành xây dựng

mô hình nghiên cứu thực nghiệm và phương pháp nghiên cứu.

Bước 3: Để phân tích tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của ngân

hàng thương mại Việt Nam, luận án xây dựng và thiết kế biến, thu thập và xử lý dữ liệu

định lượng, sau đó luận án sẽ sử dụng phần mềm kinh tế lượng thích hợp với phương

pháp, mô hình nghiên cứu để ước lượng mô hình nghiên cứu thực nghiệm.

Bước 4: Luận án sử dụng bảng dữ liệu thứ cấp để thực hiện kiểm định mô hình

nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu bằng cách thực hiện mô hình hồi quy Bayes.

Bước 5: Luận án trình bày kết quả nghiên cứu, phân tích và đánh giá tác động

của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam dựa

trên kết quả ước lượng và các kiểm định đồng thời thảo luận và so sánh với kết quả của

các nghiên cứu trước liên quan.

59

Bước 6: Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra kết luận và hàm ý chính

sách để hoàn thiện cấu trúc vốn cho các NHTM Việt Nam nhằm nâng cao lợi nhuận và

hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất.

Quy trình nghiên cứu được tóm tắt ở hình 3.1 sau đây:

Bước 1 Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước, xác định khoảng trống nghiên cứu

Bước 2

Xây dựng mô hình và phương pháp nghiên cứu

Bước 3 Phân tích tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng thương mại Việt Nam.

BAYES Xử lý dữ liệu định lượng Phân tích hồi quy

Xây dựng và thiết kế biến

Bước 4

Kiểm định mô hình hồi quy

Bước 5

Phân tích kết quả và thảo luận

Bước 6

Gợi ý chính sách và hạn chế của đề tài

Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu

60

3.2 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

3.2.1 Các biến nghiên cứu

3.2.1.1 Lợi nhuận ngân hàng

Tương tự với các nghiên cứu theo tác giả lược khảo trước đây, để đo lường lợi

nhuận của các NHTM Việt Nam luận án sử dụng hai chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng tài

sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).

Chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng tài sản ROA thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản của các

NHTM, nó cho biết 100 đồng tài sản của NHTM thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi

nhuận sau thuế. Chỉ tiêu ROA được tính bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế chia cho tổng

tài sản. Độ lớn của tỷ số này cao thể hiện hiệu quả cao trong sử dụng tài sản của NHTM.

Dựa vào nghiên cứu của Jadah và cộng sự (2020), Molla (2020), Widyastuti và cộng sự

(2019). Chỉ tiêu này được tính toán dựa vào công thức sau:

Lợi nhuận sau thuế ROA= Tổng tài sản

Chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn

chủ sở hữu của NHTM. ROE tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng sau thuế chia cho vốn

chủ sở hữu. Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng vốn chủ sở hữu của NHTM thì tạo ra được

bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế dành cho cổ đông. Dựa vào nghiên cứu của Jadah và

cộng sự (2020), Molla (2020), Widyastuti và cộng sự (2019). Chỉ tiêu ROE được tính

toán dựa vào công thức sau:

Lợi nhuận sau thuế ROE= Vốn chủ sở hữu

3.2.1.2 Rủi ro ngân hàng

Luận án đo lường rủi ro của các NHTM Việt Nam bằng chỉ số Z-score. Hệ số Z-

score càng cao thì mức độ ổn định tài chính của ngân hàng càng lớn. Và ngược lại, hệ

số Z-score càng nhỏ thì ngân hàng càng có nguy cơ phá sản cao. Kế thừa từ các nghiên

cứu trước Laeven và cộng sự (2009), Houston và cộng sự (2010), Lepetit và Strobel

(2014) luận án sử dụng logarit tự nhiên của chỉ số Z-score. Chỉ số Z-score tăng lên cho

thấy ngân hàng có sự ổn định tài chính cao hơn ít gặp rủi ro hơn và khả năng phá sản

của các NHTM giảm. Chỉ số Z-score được tính toán dựa vào công thức sau:

61

Z-score = ROA +E/A δ(ROA)

Trong đó

ROA: Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản của các ngân hàng (Lợi nhuận sau thuế trên

tổng tài sản)

E/A: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng

δ(ROA): Độ lệch chuẩn của ROA (được tính bằng cách ước tính độ lệch chuẩn của ROA

trong thời gian 3 năm liên tục bao gồm năm nay và hai năm trước đó và tiếp tục nguyên

tắc này trên phần còn lại của mẫu nghiên cứu)

3.2.1.3 Các biến độc lập

Tiền gửi khách hàng

Cấu trúc vốn của NHTM có sự khác biệt lớn so với các doanh nghiệp phi tài

chính do nguồn vốn được tài trợ chủ yếu bằng tiền gửi khách hàng và nợ phi tiền gửi

(Gropp and Heider 2010). Tiền gửi khách hàng cho biết khả năng huy động vốn thường

xuyên của ngân hàng, đây là nguồn vốn lớn nhất trong cơ cấu tổng nguồn vốn của

NHTM. Ngoài ra, ngân hàng còn huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá, vay ngân

hàng khác hoặc vay ngân hàng trung ương. Với vai trò là trung gian tín dụng, các ngân

hàng huy động từ người gửi tiền và cho vay những người thiếu tiền, đóng vai trò then

chốt giúp ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô, đa dạng hóa các

sản phẩm tín dụng. Khi ngân hàng xây dựng được uy tín, chất lượng sản phẩm, dịch vụ

tốt sẽ thu hút được số lượng lớn người gửi tiền, từ đó giúp ngân hàng cho vay cũng như

tiếp cận khách hàng ở những sản phẩm, dịch vụ khác, từ đó đạt được lợi nhuận cao hơn.

Lý thuyết đại diện cũng cho rằng ngân hàng có thể đạt lợi nhuận cao hơn khi sử dụng

đòn bẩy tài chính cao do cắt giảm chi phí đại diện. Tuy nhiên, khi ngân hàng sử dụng

đòn bẩy tài chính quá cao có thể làm giảm mức độ ổn định tài chính của các NHTM, rủi

ro của NHTM sẽ tăng lên. Mặc dù tỷ lệ đòn bẩy tài chính của NHTM rất cao so với các

doanh nghiệp phi tài chính nhưng các ngân hàng cần phải đáp ứng nhiều chỉ tiêu về an

toàn trong hoạt động ngân hàng như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo hiệp ước Basel I,

Basel II, Basel III. Khi ngân hàng đáp ứng các chỉ tiêu đó, tỷ lệ đòn bẩy có xu hướng

62

giảm xuống. Vì vậy, tác giả đề xuất giả thuyết:

Giả thuyết H1a: Tiền gửi khách hàng có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của NHTM.

Giả thuyết H1b: Tiền gửi khách hàng có tác động cùng chiều đến rủi ro của NHTM.

Nợ phi tiền gửi

Để đáp ứng yêu cầu về vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh, NHTM có thể phát

hành giấy tờ có giá, vay ngân hàng khác hoặc vay ngân hàng trung ương. Đây là khoản

nợ được xem như là có liên quan chặt chẽ đến nợ dài hạn của ngân hàng, bao gồm nợ

dài hạn ưu tiên trước khi thanh lý (senior long term debt), nợ hạng 2, chứng khoán nợ

(Gropp and Heider 2010). Các ngân hàng huy động nguồn tiền này với lãi suất cao hơn

và không thường xuyên so với các khoản tiền gửi để tài trợ cho các dự án. Vì vậy, ngân

hàng sẽ áp đặt lãi suất cao hơn khi cho vay. Kết quả là ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận

cao hơn nhưng rủi ro cũng lớn hơn. Hơn nữa, tương tự như tiền gửi khách hàng, khi

ngân hàng gia tăng nợ phi tiền gửi trong tổng nguồn vốn, đòn bẩy tài chính của ngân

hàng cũng sẽ tăng lên và ngân hàng sẽ đạt được lợi nhuận nhiều hơn (Gropp and Heider

2010). Lý thuyết đại diện cũng cho thấy ngân hàng có đòn bẩy tài chính cao sẽ đạt được

lợi nhuận nhiều hơn do chi phí đại diện giảm xuống. Để đảm bảo an toàn và giảm rủi ro

trong hoạt động, các ngân hàng cần đáp ứng các chỉ tiêu về an toàn và đòn bẩy tài chính

có xu hướng giảm xuống. Vì vậy, tác giả đề xuất giả thuyết:

Giả thuyết H2a: Nợ phi tiền gửi có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của NHTM.

Giả thuyết H2b: Nợ phi tiền gửi có tác động cùng chiều đến rủi ro của NHTM.

Vốn ngân hàng

Các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu lớn có tấm đệm tài chính tốt hơn nhằm ứng

phó hơn với các biến động của thị trường, do đó có mức độ an toàn cao hơn so với các

ngân hàng có tỷ lệ vốn thấp. Mặt khác, các ngân hàng có vốn lớn sẽ tạo dựng được uy

tín cao cho người gửi tiền và khách hàng vay vốn. Từ đó có thể đa dạng hóa nguồn thu

và tác động tích cực đến lợi nhuận của NHTM. Bên cạnh đó, ngân hàng có nhiều vốn

hơn sẽ giảm bớt nhu cầu huy động vốn từ bên ngoài có chi phí cao hơn và có khả năng

63

tạo ra lợi nhuận tốt hơn so với các ngân hàng có vốn chủ sở hữu thấp. Tuy nhiên, lợi

nhuận đạt được trên mỗi đồng tài sản và mỗi đồng vốn cổ đông bỏ ra có thể giảm nếu

lợi nhuận tăng lên không tương ứng với tỷ lệ vốn tăng. Theo lý thuyết đại diện và nghiên

cứu của Berger và di Patti (2006), ngân hàng có vốn cao hơn sẽ đạt lợi nhuận thấp hơn.

Do ngân hàng là lĩnh vực đặc biệt, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế và rất nhạy

cảm với các biến động trong nền kinh tế nên cần sự giám sát đặc biệt của cơ quan quản

lý. Các ngân hàng phải đáp ứng nhiều chỉ tiêu về an toàn, trong đó có chỉ tiêu an toàn

vốn tối thiểu theo tiêu chuẩn Basel I, Basel II, Basel III. Và vốn ngân hàng có xu hướng

tăng lên để đáp ứng các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do đó,

tác giả đề xuất giả thuyết:

Giả thuyết H3a: Vốn ngân hàng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận của NHTM.

Giả thuyết H3b: Vốn ngân hàng có tác động ngược chiều đến rủi ro của NHTM.

Quy mô ngân hàng

Biến quy mô ngân hàng được đo bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng tài sản được

lấy làm biến dại diện cho quy mô của một ngân hàng thương mại, trong trường hợp nếu

lấy tổng tài sản để đại diện cho quy mô ngân hàng thì sẽ có khoảng cách khá xa giữa các

nhóm ngân hàng làm ảnh hưởng đến kết quả hồi quy. Do đó, phương pháp tính quy mô

ngân hàng bằng hàm logarit của tổng tài sản được sử dụng phổ biến hơn cả. Quy mô

ngân hàng có ảnh hưởng tích cực, mạnh mẽ đến lợi nhuận của NHTM do có khả năng

đa dạng hóa danh mục cho vay và đầu tư, mở rộng mạng lưới rộng khắp, đầu tư mạnh

mẽ về công nghệ, thương hiệu có uy tín và mức độ tín nhiệm cao của khách hàng cũng

như nhà đầu tư (Al-Kayed et al. 2014). Ngoài ra, các ngân hàng có quy mô lớn có thể

giảm chi phí đầu vào và chi phí hoạt động nhờ vào sự chuyên môn hóa (Sufian 2011;

Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh 2016). Bên cạnh đó, tổng tài

sản đại diện cho quy mô của ngân hàng, ngân hàng có tổng tài sản càng lớn chứng tỏ

ngân hàng có nguồn huy động tiền gửi khách hàng dồi dào và khả năng thanh khoản tốt

(Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng 2015). Tại Việt Nam, đa số những ngân hàng

có quy mô lớn thường những ngân hàng lâu đời và có uy tín rộng rãi trong công chúng,

có số lượng khách hàng và mạng lưới hoạt động được mở rộng. Khi quy mô ngân hàng

càng lớn các khả năng đa dạng hóa danh mục cho vay và đầu tư, hệ thống quản lý rủi ro

64

của những ngân hàng lớn sẽ tốt hơn những ngân hàng còn lại (Lê Ngọc Quỳnh Anh

2020). Hơn nữa, các ngân hàng thương mại có quy mô lớn thường ít rủi ro hơn và ổn

định hơn (Saif-Alyousfi and Saha 2020). Do đó, hệ số hồi quy đối với biến đại diện cho

quy mô ngân hàng kỳ vọng có tác động tích cực đến lợi nhuận của NHTM và tác động

ngược chiều với rủi ro của NHTM.

Trong luận án, để đánh giá tác động của quy mô ngân hàng đến lợi nhuận và rủi

ro trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:

SIZE = Logarit tổng tài sản

Dư nợ cho vay

Các ngân hàng có dư nợ trên tổng tài sản cao có xu hướng kém thanh khoản hơn.

Tuy nhiên, các khoản nợ của khách hàng càng cao thì ngân hàng gặt hái được nhiều lợi

nhuận hơn do đây là tài sản có sinh lãi cao, nhưng ngân hàng phải thiết lập quản lý rủi

ro cho các khoản vay này. Khi tiền gửi được chuyển hóa thành các khoản cho vay, ngân

hàng sẽ thu được lợi nhuận cao hơn do cho vay là nguồn thu nhập chủ yếu của các

NHTM Việt Nam (Le 2017). Hơn nữa, cho vay nhiều hơn giúp các ngân hàng giảm các

chi phí trung gian do đó, cải thiện lợi nhuận của ngân hàng. Ngoài ra, nghiên cứu của

Mercan (2021), Nguyen và Duong (2020) cho thấy dư nợ cho vay làm tăng rủi ro cho

ngân hàng. Do đó hệ số hồi quy của biến Dư nợ cho vay dự kiến có tác động tích cực

đến lợi nhuận của NHTM và tác động cùng chiều với rủi ro của NHTM.

Trong luận án, để đánh giá tác động của dư nợ cho vay đến lợi nhuận và rủi ro

của ngân hàng trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:

Dư nợ cho vay LOAN = Tổng tài sản

Chi phí hoạt động

Chi phí hoạt động chiếm tỷ lệ khá cao trong toàn bộ chi phí quản lý của ngân

hàng. Chi phí hoạt động bao gồm các chi phí như nhân sự, quản lý, khấu hao, quảng

cáo, cho biết khả năng quản lý chi phí của NHTM. Tỷ số này càng cao cho thấy khả

năng kiểm soát chi phí hoạt động kém và ngược lại. Nghiên cứu của Batten và Vo

(2019), Sufian (2011), Kosmidou (2008) cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa chi phí

65

hoạt động và lợi nhuận của ngân hàng. Chi phí hoạt động chiếm tỷ lệ khá cao trong toàn

bộ chi phí quản lý của ngân hàng. Do đó hệ số hồi quy của biến Chi phí hoạt động dự

kiến có tác động ngược chiều đến lợi nhuận và tác động cùng chiều với rủi ro của

NHTM.

Trong luận án, để đánh giá tác động của chi phí hoạt động đến lợi nhuận và rủi

ro của ngân hàng trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:

Chi phí hoạt động OPE = Tổng tài sản

Lạm phát

Lạm phát có tác động mạnh đến lợi nhuận của ngân hàng. Khi lạm phát cao, ngân

hàng có thể áp đặt mức lãi suất cho vay cao hơn (Rahman et al. 2015). Tuy nhiên, mức

lãi suất vay cao sẽ tạo nên gánh nặng cho ngân sách trả nợ. Vì vậy, khả năng trả nợ của

khách hàng sẽ giảm xuống, tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM. Hơn nữa, khi

lạm phát cao, khách hàng sẽ rút tiền khỏi ngân hàng để trang trải các chi phí, dẫn đến

huy động và cho vay của ngân hàng giảm xuống (Molla 2020). Lạm phát cao cũng dẫn

đến khả năng ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm lạm

phát (Bikker and Vervliet 2017), qua đó làm giảm tổng cầu của nền kinh tế và giảm nhu

cầu vay vốn, tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM. Ngoài ra, lạm phát có thể có

những tác động đến khả năng phá sản của ngân hàng khi thu nhập thực tế khách hàng

vay bị giảm đi, từ đó khiến họ không có khả năng trả nợ, thu nhập của ngân hàng sụt

giảm. Tuy nhiên, nếu giữ mức lạm phát mục tiêu dưới 4% theo World Bank (2019) lạm

phát lúc này tương đối ổn định thì ngân hàng có thể căn cứ vào tỷ lệ lạm phát để điều

chỉnh lãi suất hoặc quản lý chi phí hoạt động hiệu quả, do đó, tăng thu nhập của ngân

hàng và đảm bảo sự ổn định (Nguyen and Duong 2020). Có nhiều quan điểm khác nhau

về tác động của lạm phát đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng. Do đó hệ số hồi quy

của biến Lạm phát dự kiến có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM và tác động

tích cực với rủi ro của NHTM.

Trong luận án, để đánh giá tác động của lạm phát đến lợi nhuận và rủi ro của

ngân hàng trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:

66

INFLAT = Tỷ lệ lạm phát hàng năm

Tăng trưởng GDP

Tăng trưởng GDP cao được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực đến lợi nhuận của

NHTM do kinh tế phát triển mạnh sẽ thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, kích thích

vay nợ nhiều hơn (Molla 2020). Trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng tốt, khả năng trả

nợ của khách hàng cũng cao hơn và làm cho nợ xấu giảm xuống, chi phí trích lập dự

phòng rủi ro tín dụng cũng giảm xuống và lợi nhuận tăng lên tương ứng (Nguyễn Phạm

Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh 2016). Ngoài ra, hoạt động của ngân hàng sẽ

trở nên sôi động hơn, như huy động vốn, cho vay, cung cấp các dịch vụ ngân hàng, dẫn

đến tăng doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó hệ số hồi quy của biến Tăng

trưởng GDP kỳ vọng có tác động cùng chiều với lợi nhuận của NHTM và tác động

ngược chiều với rủi ro của NHTM.

Trong luận án, để đánh giá tác động của tăng trưởng GDP đến lợi nhuận và rủi

ro của ngân hàng trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:

GGDP = Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm

Bảng 3.1 Tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu

Tên biến Ký hiệu Nguồn dữ liệu Tác động kỳ vọng đến lợi nhuận Tác động kỳ vọng đến rủi ro

DEP

+ +

NONDEP Tiền gửi khách hàng Nợ phi tiền gửi + +

Vốn ngân hàng CAP - -

SIZE + -

Quy mô ngân hàng Dư nợ cho vay LOAN + + Báo cáo tài chính của ngân hàng Báo cáo tài chính của ngân hàng Báo cáo tài chính của ngân hàng Báo cáo tài chính của ngân hàng Báo cáo tài chính của ngân hàng

67

OPE - +

Chi phí hoạt động

Lạm phát INFLAT Báo cáo tài chính của ngân hàng Tổng cục Thống kê +

GGDP - + - Tăng trưởng GDP Tổng cục Thống kê

Ghi chú: (+) tương quan dương, (-) tương quan âm

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Bảng 3.2 Đo lường các biến sử dụng trong mô hình

Tên biến Ký hiệu Nghiên cứu trước Công thức tính

Lợi nhuận ROA Jadah và cộng sự Lợi nhuận sau

(2020), Molla (2020), thuế/Tổng tài sản

Widyastuti và cộng sự ROE Lợi nhuận sau (2019) thuế/Vốn chủ sở hữu

Biến Rủi ro Z-score Mercan (2021), Pricillia (Tỷ suất lãi ròng trên

phụ (2015), Saif-Alyousfi và tổng tài sản của ngân

thuộc Saha (2020), Lê Ngọc hàng + Tỷ lệ vốn chủ sở

Quỳnh Anh và cộng sự hữu trên tổng tài

(2020), Nguyen và sản)/Độ lệch chuẩn của

Duong (2020), Phạm tỷ suất lãi ròng trên

Tiến Minh và Bùi Huy tổng tài sản

Hải Bích (2019)

Cấu trúc DEP Gropp và Heider. Tiền gửi khách

Biến vốn (2010), Sibindi (2018), hàng/Tổng tài sản

độc lập Widyastuti và cộng sự

(2019)

68

NONDEP Gropp và Heider Nợ phi tiền gửi/Tổng

(2010), Sibindi (2018) tài sản

CAP Widyastuti và cộng sự Vốn CSH/Tổng tài sản

(2019)

Quy mô SIZE Sufian (2011), Alexiou Logarit tổng tài sản

và Sofoklis (2009), ngân

Kosmidou và cộng sự hàng (2007), Saif-Alyousfi và

Saha (2020), Lê Ngọc Biến Quỳnh Anh và cộng sự kiểm (2020), Nguyen và soát Duong (2020), Nguyễn

Minh Hà và Nguyễn Bá

Hướng (2015)

Dư nợ cho LOAN Sufian (2011), Le Dư nợ cho vay/Tổng tài

vay (2017), Rahman và sản

cộng sự (2015), Mercan

(2021), Nguyen và

Duong (2020), Lê Ngọc

Quỳnh Anh và cộng sự

(2020)

Chi phí OPE Molyneux va Thornton Chi phí hoạt

hoạt động (1992), Nguyễn Minh động/Tổng tài sản

Hà và Nguyễn Bá

Hướng (2015)

Lạm phát INFLAT Molla (2020), Mercan Tỷ lệ lạm phát

(2021), Nguyen và

Duong (2020)

69

Tăng GGDP Molla Tốc độ tăng trưởng (2020),

trưởng Kohlscheen và cộng sự GDP

GDP (2018), Athanasoglou

và cộng sự (2008),

Trujillo-Ponce (2013),

Nguyễn Phạm Nhã Trúc

và Nguyễn Phạm Thiên

Thanh (2016), Le

(2017), Trần Việt Dũng

(2014), Mercan (2021),

Nguyen và Duong

(2020)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3.2.2 Mô hình nghiên cứu

Bài nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết về cấu trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro của

NHTM và kế thừa nghiên cứu của các tác giả được lược khảo ở chương 2, tác giả đề

xuất mô hình nghiên cứu trong đề tài, cụ thể như sau:

Mô hình tổng quát: ROAjt = ∝0 + ∝𝑗𝑡 𝑋𝑗𝑡 + ∝𝑖𝑡 𝑌𝑗𝑡 + 𝜀𝑗𝑡

ROEjt = 𝛽0 + 𝛽𝑗𝑡𝑋𝑗𝑡 + 𝛽𝑖𝑡𝑌𝑗𝑡 + 𝑢𝑗𝑡

Z-scorejt = ɤ0 + ɤ𝑗𝑡𝑋𝑗𝑡 + ɤ𝑖𝑡𝑌𝑗𝑡 + µ𝑗𝑡

Trong đó:

∝0, 𝛽0, ɤ0: Hệ số chặn

Xjt : Các biến đại diện cấu trúc vốn của ngân hàng

Yjt : Các biến kiểm soát

∝𝑗𝑡, βjt, ɤ𝑗𝑡: Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng

∝𝑖𝑡, 𝛽𝑖𝑡, ɤ𝑖𝑡: Tác động của biến kiểm soát đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng

εjt, 𝑢𝑗𝑡, µ𝑗𝑡: Phần dư của mô hình

70

Mô hình (1), (2), (3), (4) được sử dụng để đánh giá tác động của CTV đến lợi

nhuận của các NHTM Việt Nam. Mô hình (5), (6) được dùng để đánh giá tác động của

CTV đến rủi ro của các NHTM Việt Nam. Từ mô hình tổng quát được viết lại như sau:

Bảng 3.3 Các mô hình trong đề tài

Mô hình 1 ROA = ∝0 + ∝1DEP + ∝2NONDEP + ∝3SIZE + ∝4LOAN +

∝5OPE + ∝6INF+ ∝7GGDP + ε

Mô hình 2 ROE = β0 + β1DEP + β2NONDEP + β3SIZE + β4LOAN +

β5OPE + β6INF + β7GGDP + u

Mô hình 3 ROA = ∝0 + ∝1CAP+ ∝2SIZE + ∝3LOAN + ∝4OPE + ∝5INF+

∝6GGDP + ε

Mô hình 4 ROE = β0 + β1CAP + β2SIZE + β3LOAN + β4OPE + β5INF+

β6GGDP + u

Mô hình 5 Z-score = ɤ0 + ɤ1DEP + ɤ2NONDEP + ɤ3SIZE + ɤ4LOAN +

ɤ5OPE + ɤ6INF+ ɤ7GGDP + µ

Mô hình 6 Z-score = ɤ0 + ɤ1CAP + ɤ2SIZE + ɤ3LOAN +ɤ4OPE +

ɤ5INF+ ɤ6GGDP + µ

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3.3 PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG

Trong thống kê tần suất (truyền thống), các tham số của tổng thể được xem là

hằng số cố định nhưng chưa biết. Tuy nhiên, việc giả định các tham số là hằng số đối

với dữ liệu chuỗi thời gian là không phù hợp vì các tham số sẽ có sự thay đổi (Lê Thanh

Hoa và cộng sự 2017). Đối với thống kê Bayes, các tham số được xem là các đại lượng

ngẫu nhiên và và biến động theo một quy luật phân phối (van de Schoot and Depaoli

71

2014; Bolstad and Curran 2016). Phương pháp tiếp cận tần suất phụ thuộc hoàn toàn

vào dữ liệu quan sát để đưa ra kết luận. Trong khi đó, phương pháp Bayes cung cấp một

cách tiếp cận ước lượng mạnh mẽ hơn bằng cách sử dụng không chỉ dữ liệu có sẵn mà

còn kết hợp một số thông tin hoặc kiến thức hiện có về các tham số mô hình (van de

Schoot and Depaoli 2014). Do đó, phương pháp tần suất cần có bộ dữ liệu đủ lớn để đưa

ra kết luận hợp lý vì cỡ mẫu nhỏ có thể làm giảm độ chính xác của diễn giải kết quả

thống kê (Muthén and Curran 1997). Trong khi đó, vấn đề cỡ mẫu nhỏ thường xuyên

xuất hiện trong các nghiên cứu khoa học do các yếu tố đặc thù gây cản trở như chi phí

hoặc các ràng buộc về đạo đức (Mariëlle et al. 2017; Rocchetti et al. 2013; van der Lee

et al. 2008). Phương pháp Bayes khắc phục được nhược điểm này của phương pháp tần

suất vì có thể cho ra kết quả đáng tin cậy với cỡ mẫu nhỏ (Baldwin and Fellingham

2013). Ngoài ra, suy luận Bayes dựa trên một quy tắc xác suất duy nhất, quy tắc Bayes,

được áp dụng cho tất cả các mô hình tham số (Berger 1993). Điều này làm cho cách tiếp

cận Bayes trở nên phổ biến và tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho việc áp dụng và giải

thích kết quả. Vì vậy, phương pháp Bayes là cách tiếp cận phù hợp trong đề tài này vì

nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng (kết hợp giữa dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo).

Từ xác suất có điều kiện:

p(A|B) = p(A, B) p(B)

Chúng ta có định lý Bayes:

p(B|A) = p(A|B)p(B) p(A)

Trong đó:

p(B|A): Xác suất hậu nghiệm (posterior)

p(A|B): Độ hợp lý của dữ liệu (lilkelihood)

p(B): Xác suất tiên nghiệm (prior)

p(A): Hằng số, xác suất của dữ liệu

A, B là các vectơ ngẫu nhiên

72

Trong phân tích Bayes, nhiều phương pháp có thể được sử dụng để mô phỏng

nhiều mô hình, với những hàm rất phức tạp và mức độ chính xác tùy ý nhà nghiên cứu.

Các phương pháp Markov Chain Monte Carlo (MCMC) để mô phỏng các mô hình

Bayes thường yêu cầu thuật toán lấy mẫu hiệu quả và kiểm định sự hội tụ của chuỗi

MCMC đến phân phối hậu nghiệm dừng (Nguyễn Ngọc Thạch 2019). Trong số các

phương pháp MCMC, được sử dụng rất phổ biến là phương pháp Metropolis-Hastings

và phương pháp Gibbs. Phương pháp lấy mẫu Gibbs được xem là một trường hợp riêng,

có tính chất đặc biệt của thuật toán Metropolis-Hastings (Gelfand et al. 1990), là phương

pháp có hiệu quả rất cao dù đòi hỏi tài nguyên tính toán tương đối lớn. Thuật toán

Metropolis được Metropolis và cộng sự (1953) xây dựng đầu tiên. Sau đó, thuật toán

được Hastings (1970) phát triển hiệu quả hơn.

Trong bài viết này, tác giả sử dụng cách tiếp cận Bayes thông qua thuật toán

Random-walk Metropolis-Hastings và phương pháp lấy mẫu Gibbs nhằm tìm hiểu ảnh

hưởng của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM Việt Nam trong giai đoạn từ năm

2012 đến năm 2020. Do các nghiên cứu trước liên quan đến bài viết này sử dụng phương

pháp truyền thống nên thông tin về phân phối tiên nghiệm không có sẵn. Do đó, tác giả

đề xuất phân phối chuẩn là N(1, 100) cho hệ số hồi quy các biến quan sát và phân phối

Igamma (0,01; 0,01) cho các phương sai trong mô hình. Tác giả lựa chọn phân phối tiên

nghiệm là phân phối chuẩn cho hệ số hồi quy các biến quan sát vì phân phối chuẩn là

phân phối phổ biến và phù hợp với phân phối của bộ số liệu tài chính sử dụng trong

nghiên cứu; phân phối Igamma cho các phương sai vì số liệu tài chính có nhiều giá trị

bất thường (outlier), không ổn định. Phân phối tiên nghiệm có thể được viết lại như sau:

α ∼ N(1; 100)

σ2 ∼ Invgamma(0,01; 0,01)

3.4 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

3.4.1 Mô tả dữ liệu nghiên cứu

Luận án thu thập dữ liệu thứ cấp về tình hình tài chính của các NHTM Việt Nam

được lấy từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của 30 NHTM Việt Nam trong

giai đoạn 2012 - 2020. Theo NHNN, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng là 14.019.553

triệu tỷ đồng vào cuối năm 2020. Do đó, bộ dữ liệu này tương đối đầy đủ vì tổng tài sản

73

của 30 NHTM chiếm xấp xỉ 86% tổng tài sản của các NHTM. Theo thống kê của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam, tại thời điểm 31/12/2020, tổng số NHTM là 35, trong đó có

31 NHTM cổ phần, 4 NHTM 100% vốn nhà nước. Ngoài ra, trong số 31 NHTM cổ

phần, có một NHTM không công bố báo cáo tài chính trong những năm gần đây (NHTM

Đông Á). Trong số 30 NHTM cổ phần trong mẫu nghiên cứu, có 3 NHTM cổ phần do

nhà nước nắm quyền chi phối và 27 NHTM cổ phần tư nhân. Do đó, bài nghiên cứu xây

dựng bộ dữ liệu gồm 30 NHTM thời gian nghiên cứu là 9 năm từ 2012 – 2020, kích cỡ

mẫu gồm 270 quan sát. Đối với dữ liệu vĩ mô, tác giả thu thập từ số liệu của Tổng cục

Thống kê.

3.4.2 Kiểm định mô hình

Để kiểm định tính vững của mô hình dựa trên phương pháp Bayes, cần thực hiện

chẩn đoán chuỗi MCMC hội tụ. Nếu chuỗi MCMC hội tụ, mô hình được xác định là

vững (Nguyen 2020). Sự hội tụ của chuỗi MCMC được kiểm định thông qua chẩn đoán

hình ảnh bằng biểu đồ vết, biểu đồ tự tương quan, biểu đồ phân phối hậu nghiệm. Nếu

kết quả kiểm định cho thấy biểu đồ vết không tạo xu hướng, biểu đồ tự tương quan rớt

nhanh (<40) cho thấy tự tương quan thấp, biểu đồ phân phối hậu nghiệm (histogram)

mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất đồng nhất thì có thể sử dụng kết quả để

phân tích (Sriboonchitta et al. 2019; Svítek et al. 2019. Ngoài ra, cần đánh giá sai số

chuẩn chuỗi MCMC (MCSE) và số lượng mẫu hiệu quả (ESS). Nếu MCSE nhỏ, dưới

0,1, cho thấy các tham số ước lượng khá chính xác, có thể kết luận suy diễn Bayes là

hợp lý và mô hình vững nên có thể phân tích kết quả (Nguyen et al. 2019; Kreinovich

et al. 2019).

74

Tóm tắt chương 3

Trong chương 3, tác giả đã trình bày phương pháp thực hiện nhằm đạt được mục

tiêu nghiên cứu. Quá trình này gồm các bước: (i) bước 1: Xây dựng mô hình thể hiện

tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM; (ii) bước 2: Thu thập số liệu và

ước lượng mô hình; (iii) bước 3: Thực hiện các kiểm định cần thiết; (iv) bước 4: Phân

tích, đánh giá và đưa ra kết luận về tác động của của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của

các NHTM Việt Nam.

Mô hình nghiên cứu được tác giả phát triển trên cơ sở các nghiên cứu của Gropp

và Heider (2010), Sibindi (2018), Mercan (2021) và các nghiên cứu thực nghiệm khác.

Tiếp theo, mô hình được ước lượng bằng phương pháp Bayes và thuật toán lấy mẫu

Gibbs. Sau đó, các kiểm định được thực hiện để đảm bảo mô hình vững và có thể được

sử dụng để phân tích kết quả.

75

CHƯƠNG 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Giới thiệu chương 4

Trong chương này, luận án sẽ tiến hành đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến

lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua việc ước lượng

các mô hình nghiên cứu ở chương 3. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm với dữ liệu gồm

270 quan sát của 30 NHTM Việt Nam trong khoảng thời gian 9 năm từ 2012 đến 2020

sẽ được trình bày và thảo luận trong chương này.

4.1 THỐNG KÊ MÔ TẢ VÀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIẾN

Nghiên cứu được thực hiện với số lượng mẫu gồm 30 NHTM Việt Nam trong

giai đoạn 2012 – 2020. Bảng 4.1 thể hiện thống kê mô tả các biến nghiên cứu, được khái

quát bằng các chỉ số thống kê như số quan sát, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị

lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, qua đó cho thấy sự phân tán giữa các biến trong mẫu nghiên

cứu.

Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong giai đoạn 2012 – 2020

Tên biến quan Giá trị Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn Số

trung bình chuẩn nhất nhất sát

0,0071 0,0058 0,0001 0,0280 ROA 248

0,0830 0,0636 0,0002 0,2582 ROE 245

ln_Zscore 233 4,1249 1,0798 1,2208 7,9168

DEP 248 0,6740 0,1139 0,1746 0,9282

NONDEP 248 0,2322 0,1018 0,0161 0,5062

CAP 248 0,0937 0,0621 0,0262 0,6148

SIZE 248 32,4213 1,1431 29,4911 34,9553

LOAN 248 0,5685 0,1134 0,2162 0,7880

76

OPE 248 0,0171 0,0068 0,0067 0,0692

INFLAT 261 0,0422 0,0230 0,0063 0,0921

GGDP 261 0,0592 0,0123 0,0291 0,0708

Nguồn: Tính toán của tác giả

Để phân tích đánh giá khái quát về lợi nhuận của các NHTM Việt Nam luận án

sử dụng 2 chỉ tiêu: Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) và chỉ tiêu Tỷ suất sinh lời trên

VCSH (ROE). Xu hướng biến động của ROA và ROE của các các NHTM Việt Nam

giai đoạn 2012 – 2020 được thể hiện qua hình dưới đây:

1

12

0.9

10

0.8

0.7

8

0.6

0.5

6

0.4

4

0.3

0.2

2

0.1

0

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

ROA

ROE

Lợi nhuận của các NHTM (%)

Hình 4.1 Lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020

Chỉ tiêu ROA thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản trong hoạt động kinh doanh. Đây

là một chỉ tiêu khá toàn diện trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của NHTM. Tỷ

số này đo lường khả năng sinh lời trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho

biết cứ 1 đồng tài sản thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Ví dụ, ROA =

10% có nghĩa là bình quân một đồng tài sản sử dụng trong sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra

0,1 đồng lợi nhuận. Giá trị trung bình của chỉ tiêu ROA đạt giá trị 0,71% có nghĩa là với

100 đồng tài sản các ngân hàng trung bình sẽ thu được 0,71 đồng lợi nhuận sau thuế.

Trong số các NHTM trong mẫu nghiên cứu thì có Ngân hàng TMCP Quốc Dân năm

2020 đạt tỷ suất sinh lợi thấp nhất với giá trị là 0,1% còn Ngân hàng TMCP Kỹ thương

77

Việt Nam đạt giá trị cao nhất là 2,8% vào năm 2020.

Chỉ tiêu ROE cho biết cứ 1 đồng vốn mà chủ sở hữu bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu

đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ ngân hàng sử dụng có hiệu quả

VCSH. Chỉ số này càng cao, các nhà quản trị ngân hàng càng có lợi thế trong việc đi

huy động vốn trên thị trường tài chính để hỗ trợ đầu tư vào các kế hoạch kinh doanh của

ngân hàng. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ ngân hàng đang sử dụng hiệu quả đồng

vốn của cổ đông, có nghĩa là ngân hàng đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông

với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn,

mở rộng quy mô. Các nhà đầu tư thường coi trọng đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn

chủ sở hữu vì họ quan tâm đến khả năng thu được lợi nhuận từ đồng vốn mà họ bỏ ra.

Trong số các NHTM trong mẫu nghiên cứu Ngân hàng TMCP Quốc Dân đạt tỷ suất

sinh lợi thấp nhất với giá trị là 0,02% vào năm 2020 và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt

Nam đạt giá trị cao nhất là 25,82% vào năm 2020. Hơn nữa, qua bảng 4.1 cho thấy giá

trị trung bình của ROE là là 8,3% và độ lệch chuẩn là 0,0636. Bên cạnh đó, qua hình 4.1

ta thấy tỷ số ROE của các NHTM có xu hướng giảm trong giai đoạn 2012 đến 2015.

Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 2016–2020, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng có

xu hướng cải thiện khi chỉ tiêu ROE bắt đầu tăng trở lại trong giai đoạn này.

Về rủi ro của ngân hàng, tác giả sử dụng logarit tự nhiên của chỉ số Z-Score để

đưa vào mô hình hồi quy tương tự như trong các bài nghiên cứu của Laeven và Levine

(2009), Lepetit và Strobel (2014). Ngoài ra, với dữ liệu của Việt Nam có biến động

mạnh qua các năm thì việc sử dụng hàm logarit sẽ làm giảm sự biến động mạnh và sự

chênh lệch lớn giữa các ngân hàng thương mại cổ phần và làm cho kết quả của bài

nghiên cứu sẽ trở nên chính xác hơn. Qua bảng 4.1 cho thấy kết quả thống kê mô tả về

rủi ro của 30 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2012–2020. Qua đó,

biến đại diện cho mức độ rủi ro là Z-score bình quân tại 30 NHTM Việt Nam trong giai

đoạn 2012-2020 là 4,1249, và độ lệch chuẩn là 1,0798.

78

4.5

4

3.5

3

2.5

2

1.5

1

0.5

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Rủi ro của các NHTM

Hình 4.2 Rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020

Hình 4.2 mô tả biến động của chỉ số Z-score bình quân của các NHTM Việt Nam

qua các năm từ 2012 – 2020. Qua hình 4.2 cho thấy chỉ tiêu này có xu hướng tăng nhẹ

qua các năm 2012 – 2016, đây là giai đoạn thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống

ngân hàng, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông

lệ, chuẩn mực quốc tế. Giai đoạn 2017 – 2020, nhìn tổng thể chỉ số Z-score giảm nhẹ

qua các năm. Trong mẫu nghiên cứu, chỉ số Z-score có giá trị thấp nhất trong 9 năm từ

2012 – 2020 là 1,2208 thuộc về Ngân hàng TMCP Tiên Phong vào năm 2013 thể hiện

mức độ rủi ro phá sản cao và cao nhất là 7,9168 thuộc về Ngân hàng TMCP Đầu tư và

Phát triển Việt Nam vào năm 2019.

Đối với các biến thể hiện CTV của NHTM, biến Tiền gửi khách hàng (DEP) có

giá trị trung bình là 67,40%, điều này có nghĩa là cứ 100 đồng tiền gửi của khách hàng

thì được đảm bảo bằng 67,4 đồng tài sản của ngân hàng, cho thấy tiền gửi khách hàng

chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các NHTM Việt Nam. Mẫu nghiên cứu

biến thiên trong khoảng 17,46% và cao nhất là 92,82%. Điều này cho thấy có sự chênh

lệch khá lớn giữa Tiền gửi khách hàng giữa các ngân hàng thương mại với nhau, theo

đó độ lệch chuẩn của chỉ tiêu này cũng khá cao lên đến 11,39%.

79

Ngoài ra, qua bảng 4.1 cũng cho thấy Nợ phi tiền gửi (NONDEP) trung bình

chiếm 23,22%, điều này có nghĩa là cứ 100 đồng nợ phi tiền gửi thì chỉ được đảm bảo

bằng 23,22 đồng tài sản của ngân hàng. Mẫu nghiên cứu có giá trị thấp nhất là 1,61%,

cao nhất là 50,62% và độ lệch chuẩn là 0,1018. Điều đó cho thấy Nợ phi tiền gửi có vai

trò khá quan trọng trong CTV của các NHTM Việt Nam.

70

14

60

12

50

10

40

8

30

6

20

4

10

2

0

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

CAP

DEP

NONDEP

CTV của các NHTM (%)

Hình 4.3 CTV của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020

Biến đại diện cho CTV tiếp theo là Vốn ngân hàng. Vốn ngân hàng đóng vai trò

quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại tại Việt Nam, chỉ tiêu này là một

trong những chỉ số để đánh giá mức độ lành mạnh tài chính của ngân hàng thương mại.

Được đo lường bằng tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Những ngân hàng có tỷ lệ

này càng cao hơn có nghĩa là đòn bẩy tài chính thấp, mức độ tự chủ về tài chính của các

ngân hàng cao dẫn đến rủi ro ít hơn và ngược lại. Qua bảng 4.1 cho thấy giá trị trung

bình của Vốn ngân hàng là 9,37%. Mẫu nghiên cứu có giá trị thấp nhất là 2,62%, và giá

trị cao nhất là 61,48% với độ lệch chuẩn là 6,21%.

Các biến kiểm soát thuộc về đặc thù ngân hàng bao gồm Quy mô ngân hàng

(SIZE), Dư nợ cho vay (LOAN), Chi phí hoạt động (OPE). Quy mô ngân hàng có sự

chênh lệch lớn giữa các ngân hàng, thể hiện qua độ lệch chuẩn lớn (1,14). Trong đó, quy

mô trung bình của các ngân hàng là 32,4212, đạt giá trị lớn nhất là 34,9553 và nhỏ nhất

80

là 29,4911. Dư nợ cho vay (LOAN) trung bình của các ngân hàng là 56,85, biến thiên

trong khoảng 21,62% và 78,80%. Chi phí hoạt động (OPE) biến động trong khoảng

0,67% đến 6,92% và có giá trị trung bình là 1,71%.

Các biến vĩ mô bao gồm Lạm phát (INFLAT) và Tăng trưởng GDP (GGDP).

Lạm phát bình quân giai đoạn 2012 – 2020 là 4,22%, cao nhất là 6,21% và thấp nhất là

0,63%. Tăng trưởng GDP giai đoạn này trung bình đạt 5,92%, cao nhất và thấp nhất lần

lượt là 7,08% và 2,91%.

Ma trận hệ số tương quan

Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình đánh giá tác động của

CTV đến lợi nhuận NHTM được trình bày trong bảng 4.2.

Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo lợi

nhuận

ROA ROE DEP NONDEP CAP SIZE LOAN OPE INFLAT GGDP

ROA 1.00

ROE 0,8404 1.00

DEP -0,24 -0,05 1,00

NONDEP 0,12 0,16 -0,84 1,00

CAP 0,24 -0,16 -0,45 -0,09 1,00

SIZE 0,22 0,53 0,29 0,01 0.55 1,00

LOAN 0,19 0,30 0,47 -0,47 -0.09 0,29 1,00

OPE 0,40 0,13 -0,34 -0,06 0.75 -0,33 0,04 1,00

INFLAT 0,01 -0,12 -0,26 0,15 0.23 -0,23 -0,29 0,17 1,00

GGDP -0,10 -0,03 0,05 -0,01 -0.77 -0,01 0,04 -0,01 -0,28 1,00

Nguồn: Tính toán của tác giả

Dựa vào bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo

lợi nhuận ở bảng 4.2, có thể đánh giá một cách tổng quát tương quan giữa các biến trong

mô hình nghiên cứu. Hệ số tương quan cho biết mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến,

không phân biệt biến này phụ thuộc vào biến kia. Kết quả từ bảng 4.2 cho thấy hệ số

81

tương quan giữa các biến độc lập và biến kiểm soát trong mô hình nghiên cứu giai đoạn

2012 – 2020. Đối với các biến độc lập là DEP và NONDEP, hệ số tương quan là -0,84,

cho thấy sự tương quan cao giữa hai biến này. Do dó, thay vì đưa cả hai biến vào một

mô hình hồi quy, tác giả kiểm tra tác động của từng biến đối với lợi nhuận của ngân

hàng để tránh hiện tượng đa cộng tuyến. Ngoài ra, hệ số tương quan của các biến kiểm

soát đều nhỏ hơn 0,8. Do đó, có thể kết luận rằng không có sự tương quan của các biến

kiểm soát trong mô hình.

Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình đánh giá tác động của CTV

đến rủi ro NHTM được trình bày trong bảng 4.3.

Bảng 4.3 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo rủi ro

lnZSCORE DEP NONDEP CAP SIZE LOAN OPE INFLAT GGDP

lnZscore 1,00

DEP 0,17 1,00

NONDEP -0,10 -0,93 1,00

CAP -0,18 -0,22 -0,14 1,00

SIZE 0,12 0,21 0,01 -0.61 1,00

LOAN 0,04 0,46 -0,44 -0.08 0,28 1,00

OPE -0,33 -0,14 -0,04 0.51 -0,23 0,08 1,00

INFLAT -0,27 -0,25 0,15 0.27 -0,22 -0,27 0,16 1,00

GGDP 0,06 0,05 -0,025 -0.07 -0,03 0,04 0,01 -0,29 1,00

Nguồn: Tính toán của tác giả

Mối tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo rủi ro được thể hiện

qua ma trận hệ số tương quan ở bảng 4.3, có thể đánh giá một cách tổng quát tương quan

giữa các biến trong mô hình nghiên cứu. Hệ số tương quan cho biết mối quan hệ tuyến

tính giữa hai biến, không phân biệt biến này phụ thuộc vào biến kia. Hệ số tương quan

càng lớn cho thấy mối quan hệ giữa hai biến càng chặt và ngược lại khi hệ số tương

quan thấp cho thấy mối quan hệ giữa hai biến không chặt. Ngoài ra, hệ số dương chỉ ra

mối quan hệ cùng chiều giữa các cặp biến, hệ số âm cho thấy quan hệ ngược chiều giữa

hai biến. Kết quả từ bảng 4.3 cho thấy hệ số tương quan giữa các biến độc lập và biến

82

kiểm soát trong mô hình nghiên cứu giai đoạn 2012 – 2020. Tiền gửi khách hàng, quy

mô ngân hàng, dư nợ cho vay, tăng trưởng GDP đều có tương quan dương với chỉ số Z-

score hay nói cách khác có tác động ngược chiều đến rủi ro của ngân hàng. Nợ phi tiền

gửi, chi phí hoạt động, lạm phát tương quan âm với chỉ số Z-score hay nói cách khác tác

động cùng chiều với rủi ro của ngân hàng. Đối với các biến độc lập đại diện cho CTV

của NHTM là DEP và NONDEP, hệ số tương quan là -0,93, cho thấy sự tương quan cao

giữa hai biến này. Do đó, thay vì đưa cả hai biến vào một mô hình hồi quy, tác giả kiểm

tra tác động của từng biến đối với rủi ro của ngân hàng để tránh hiện tượng đa cộng

tuyến.

4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.2.1. Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của các ngân hàng

ROA là tỷ lệ giữa thu nhập ròng trên tổng tài sản. ROA đo lường lợi nhuận thu

được trên mỗi đồng tài sản và phản ánh mức độ quản lý của ngân hàng sử dụng các

nguồn lực đầu tư của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận (Jahan 2012). Bên cạnh đó, lợi nhuận

ngân hàng được phản ánh tốt nhất thông qua tỷ số ROA do ROA không bị ảnh hưởng

bởi tỷ lệ nợ cao (Rivard and Thomas 1997) và phản ánh tốt hơn lợi nhuận được tạo ra

từ danh mục tài sản. ROE được sử dụng để phân tích lợi nhuận được tạo ra bởi vốn mà

các cổ đông đã đầu tư, được tính bằng tỷ lệ lợi nhuận ròng của một năm trên tổng vốn

chủ sở hữu của cùng năm (Garcia and Guerreiro 2016; Naeem et al. 2017; Pathneja

2016).

Bảng 4.4 đến 4.9 trình bày tóm tắt kết quả hồi quy tác động của CTV đến lợi

nhuận của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2012–2020 theo phương pháp Bayes.

Bảng 4.4 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập DEP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

DEP -0,0159 0,0072 0,0001 -0,0299 -0,0018

SIZE 0,0020 0,0006 0,0000 0,0007 0,0033

83

LOAN 0,0105 0,0071 0,0000 -0,0036 0,0244

OPE 0,3569 0,1121 0,0011 0,1385 0,5789

INFLAT -0,0032 0,0314 0,0003 -0,0671 0,0582

GGDP -0,0449 0,0554 0,0005 -0,1522 0,0631

_cons -0,0565 0,0221 0,0002 -0,1010 -0,0144

var 0,0001 0,0000 0,0000 0,0000 0,0001

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.5 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập NONDEP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

NONDEP 0,0140 0,0074 0,0000 -0,0005 0,0284

SIZE 0,0017 0,0006 0,0000 0,0004 0,0030

LOAN 0,0096 0,0072 0,0000 -0,0042 0,0239

OPE 0,4490 0,1043 0,0010 0,2451 0,6534

INFLAT -0,0024 0,0319 0,0003 -0,0640 0,0597

GGDP -0,0492 0,0563 0,0005 -0,1599 0,0621

_cons -0,0631 0,0216 0,0002 0,1061 -0,0203

var 0,0001 0,0000 0,0000 0,0000 0,0001

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.6 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập CAP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

CAP 0,0177 0,0187 0,0001 -0,0184 0,0555

SIZE 0,0022 0,0007 0,0000 0,0008 0,0037

LOAN 0,0033 0,0063 0,0000 -0,0094 0,0156

84

OPE 0,3455 0,1503 0,0015 2,0457 0,6456

INFLAT 0,0011 0,0316 0,0003 -0,0605 0,0628

GGDP -0,0402 0,0563 0,0005 -0,1488 0,0719

_cons -0,0745 0,0000 0,0002 -0,1225 -0,0264

var 0,0001 0,0000 0,0000 0,0000 0,0001

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.7 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập DEP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

DEP -0,1534 0,0342 0,0001 -0,2209 -0,0860

SIZE 0,0342 0,0031 0,0000 0,0281 0,0402

LOAN 0,1314 0,0342 0,0003 0,0649 0,1975

OPE 1,1683 0,5313 0,0053 1,1269 3,2065

INFLAT -0,0902 0,1448 0,0014 -0,3876 0,2036

GGDP -0,1708 0,2670 0,0026 -0,6906 0,3530

_cons -1,0203 0,1054 0,0010 -1,2257 -0,8139

var 0,0023 0,0002 0,0000 0,0019 0,0028

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.8 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập NONDEP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

NONDEP 0,1941 0,0344 0,0003 0,1259 0,2608

SIZE 0,0216 0.0025 0,0349 0,0247 0,0366

LOAN 0,1485 0,0336 0,0003 0,0827 0,2136

OPE 3,0545 0,4823 0,0050 2,1211 4,0021

85

INFLAT -0,0930 0,1489 0,0014 -0,3812 0,1981

GGDP -0,2269 0,2581 0,0025 -0,7358 0,2797

_cons -1,0781 0,1002 0,0010 -1,2719 -0,8808

var 0,0022 0,0002 0,0000 0,0019 0,0027

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.9 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập CAP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

CAP -0,1964 0,0898 0,0008 -0,3712 -0,0211

SIZE 0,0302 0.0035 0,0000 0,0232 0,0373

LOAN 0,0567 0,0312 0,0003 -0,0040 0,1180

OPE 4,2102 0,7204 0,0072 2,7847 5,6391

INFLAT -0,0387 0,1550 0,0015 -0,3451 0,2660

GGDP -0,2451 0,2742 0,0015 -0,7907 0,2915

_cons -0,9687 0,1195 0,0012 -1,2053 -0,7352

var 0,0025 0,0002 0,0000 0,0021 0,0030

Nguồn: Tính toán của tác giả

Để kiểm định tính vững của mô hình dựa trên phương pháp Bayes, cần thực hiện

chẩn đoán chuỗi MCMC hội tụ. Nếu chuỗi MCMC hội tụ, mô hình được xác định là

vững (Nguyen 2020). Sự hội tụ của chuỗi MCMC được kiểm định thông qua chẩn đoán

hình ảnh bằng biểu đồ vết (trace plot), biểu đồ tự tương quan (autocorrelation), biểu đồ

phân phối hậu nghiệm (histogram).

86

Hình 4.4 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA

87

Hình 4.5 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE

88

Kết quả kiểm định từ hình 4.4 và 4.5 cho thấy biểu đồ vết không tạo xu hướng,

biểu đồ tự tương quan rớt nhanh (<40) cho thấy tự tương quan thấp, biểu đồ phân phối

hậu nghiệm (histogram) mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất đồng nhất.

Ngoài ra, kết quả bảng 4.4 đến 4.9 cũng cho thấy sai số chuẩn chuỗi MCMC (MCMC

standard errors - MCSE) là rất nhỏ, dưới 0,1, cho thấy các tham số ước lượng khá chính

xác. Do đó, có thể kết luận suy diễn Bayes là hợp lý và mô hình vững nên có thể phân

tích kết quả.

Ngoài ra, để đánh giá sự hội tụ của chuỗi MCMC, chỉ tiêu ESS (effective sample

size) có thể được sử dụng cùng với chẩn đoán bằng hình ảnh chuỗi MCMC như trên.

Nếu số lượng ESS ước tính càng gần số lượng của chuỗi MCMC (10.000) thì càng hiệu

quả.

Bảng 4.10 Số lượng mẫu hiệu quả

ESS Corr. time Efficiency

10.000 1,0000 1,0000 DEP

1,0000 NONDEP 10.000 1,0000

0.9892 CAP 9892 1.0100

1,0000 SIZE 10.000 1,0000

0,9558 LOAN 9558 1,0500

1,0000 OPE 10.000 1,0000

1,0000 INFLAT 10.000 1,0000

1,0000 GGDP 10.000 1,0000

0,9327 _cons 9327 1,0700

0,8925 var 8925 1,1200

Nguồn: Tính toán của tác giả

Dựa vào bảng 4.10, cho thấy số lượng mẫu hiệu quả ước tính của các tham số là

10.000 hoặc gần bằng 10.000. Do đó, có thể kết luận mức độ hội tụ của chuỗi MCMC

là rất cao.

89

Bảng 4.5 đến 4.9 trình bày kết quả hồi quy đánh giá tác động của các biến độc

lập và các biến kiểm soát đến ROA và ROE của các NHTM Việt Nam. Đối với biến độc

lập Tiền gửi khách hàng (DEP) đại diện cho CTV của các NHTM, kết quả nghiên cứu

từ các mô hình hồi quy cho thấy tiền gửi khách hàng có tác động ngược chiều đến ROA

và ROE. Khi tiền gửi khách hàng tăng lên, hiệu quả quản lý tài sản và hiệu quả sử dụng

vốn của ngân hàng giảm xuống. Điều này có thể giải thích là khi ngân hàng nhận được

tiền gửi nhiều hơn đồng nghĩa với tài sản và đòn bẩy tài chính của ngân hàng gia tăng,

ngân hàng gặp áp lực trong việc sử dụng có hiệu quả số tiền huy động được, dẫn đến

đầu tư vào các dự án hoặc cấp tín dụng một cách kém hiệu quả và làm giảm ROA và

ROE. Do đó, mặc dù lợi nhuận có thể tăng lên nhưng không bù đắp được sự gia tăng

của tài sản kém chất lượng, kết quả này hoàn toàn tương đồng với kết quả nghiên cứu

của Hutchison và Cox (2007), Gohar và Rehman (2016), Anarfo và Appiahene (2017),

Jadah và cộng sự (2020), Trần Việt Dũng (2014) nhưng trái với nghiên cứu của Berger

và di Patti (2006), Al-Omari (2021), Molla (2020), Pratomo và Ismail (2006),

Kyereboah-Coleman (2007), Saona (2010) giả thuyết nghiên cứu và lý thuyết đại diện.

Biến thứ hai đại diện cho CTV của NHTM là Nợ phi tiền gửi (NONDEP). Khác

tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi có tác động cùng chiều đến ROA và ROE trong tất

cả các mô hình hồi quy. Tuy nhiên, kết quả tại bảng 4.5 cho thấy giá trị trung bình hệ số

hồi quy đối với biến độc lập NONDEP và biến phụ thuộc ROA có khoảng tin cậy Bayes

là (-0,0005; 0,0284). Như vậy biến NONDEP sẽ không có tương quan dương hoàn toàn

đến ROA do giá trị của hệ số hồi quy chạy từ miền âm đến miền dương. Do dó, tác giả

tính toán xác suất tác động dương của biến NONDEP đến ROA. Kết quả tính toán cho

thấy xác suất của chiều hướng tác động dương này là 97,01%, củng cố cho tác động

cùng chiều của nợ phi tiền gửi đến ROA của các NHTM Việt Nam. Khi các NHTM huy

động nhiều hơn bằng các khoản nợ phi tiền gửi, đòn bẩy tài chính của ngân hàng cũng

tăng lên tương ứng. Khác với huy động vốn từ tiền gửi khách hàng thường có nhiều kỳ

hạn khác nhau hoặc không kỳ hạn, các NHTM Việt Nam huy động vốn từ các khoản nợ

phi tiền gửi có lãi suất cao hơn và kỳ hạn dài hơn. Mối quan hệ thuận chiều giữa nợ phi

tiền gửi cho thấy việc sử dụng vốn từ nợ phi tiền gửi có hiệu quả và làm tăng ROA và

ROE. Các ngân hàng thương mại Việt Nam sử dụng nợ phi tiền gửi tài trợ cho các dự

án hoặc danh mục cho vay có thời hạn dài và lãi suất cao, làm tăng hiệu quả của việc sử

dụng tài sản và hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. Kết quả này phù hợp với lý thuyết đại

90

diện, giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu thực nghiệm của Berger và di Patti (2006).

Al-Omari (2021), Molla (2020), Pratomo và Ismail (2006), Kyereboah-Coleman (2007),

Saona (2010) nhưng trái với với nghiên cứu của Hutchison và Cox (2007), Gohar và

Rehman (2016), Anarfo và Appiahene (2017), Jadah và cộng sự (2020), Trần Việt Dũng

(2014).

Biến thứ ba đại diện cho CTV của NHTM Việt Nam là biến CAP. Kết quả hồi

quy theo phương pháp Bayes cho thấy Vốn ngân hàng có mối tương quan dương đến

ROA nhưng có tương quan âm đến ROE của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả

từ bảng 4.6 cho thấy biến CAP không tương quan dương hoàn toàn đến ROA do giá trị

hệ số hồi quy có khoảng tin cậy Bayes là (-0,0184; 0,0555). Tính toán từ phần mềm

Stata cho thấy xác suất tác động dương của biến CAP lên biến ROA là 82,98%, khẳng

định mối tương quan dương của biến CAP đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam. Kết

quả Vốn ngân hàng đại diện cho sức mạnh nội tại của ngân hàng, là tấm đệm an toàn về

tài chính cho ngân hàng, tạo dựng niềm tin cho khách hàng về sự ổn định trong hoạt

động. Các ngân hàng càng có tỷ lệ vốn cao trong tổng nguồn vốn thì càng có khả năng

tự chủ tài chính và ngược lại. Ngoài ra, các ngân hàng có vốn lớn dễ dàng nhận được sự

tín nhiệm từ khách hàng, từ người gửi tiền, từ người sử dụng dịch vụ ngân hàng và người

vay tiền, từ đó có thể đa dạng hóa nguồn thu và tác động tích cực đến khả năng sinh lời.

Khi ngân hàng tăng vốn lên, lợi nhuận tạo ra từ mỗi đồng tài sản tăng lên do hiệu quả

sử dụng tài sản của ngân hàng được cải thiện hay nói cách khác, hiệu quả sử dụng tài

sản của ngân hàng tăng lên. Tuy nhiên, khi tăng vốn lên, lợi nhuận trên mỗi đồng vốn

của cổ đông giảm xuống hay nói cách khác, hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu giảm

xuống. Kết quả này cho thấy ngân hàng gặp khó khăn trong việc duy trì tỷ lệ lợi nhuận

trên vốn chủ sở hữu khi ngân hàng tăng vốn, tức lợi ích mà cổ đông nhận được không

tương xứng với số vốn mà họ bỏ ra.

Đối với các biến kiểm soát, quy mô ngân hàng (SIZE), dư nợ cho vay (LOAN),

chi phí hoạt động (OPE) đều có tác động tích cực đến ROA và ROE của các NHTM

Việt Nam. Ngược lại, các biến vĩ mô là lạm phát (INFLAT) và tăng trưởng kinh tế

(GGDP) có tác động tiêu cực đến ROA và ROE.

91

Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động tích cực đến ROA và ROE của các NHTM

Việt Nam, ủng hộ quan điểm của lý thuyết quyền lực thị trường. Kết quả nghiên cứu

này phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Alexiou và

Sofoklis (2009), Kosmidou và cộng sự (2007). Các ngân hàng có quy mô lớn có khả

năng tiếp cận khách hàng tốt hơn, sản phẩm đa dạng hóa hơn, thương hiệu có uy tín và

mức độ tín nhiệm cao của khách hàng cũng như nhà đầu tư, có khả năng đầu tư vào các

công nghệ hiện đại hơn và có lợi thế cạnh tranh nhờ quy mô, ủng hộ quan điểm hiệu quả

theo quy mô (Scale - efficiency). Kết quả là các NHTM có quy mô lớn đạt được KNSL

cao hơn.

Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động tích cực đến KNSL của NHTM, phù hợp với

giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Le (2017), Rahman và cộng

sự (2015). Một ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản cao có nghĩa là ngân

hàng đó có chiến lược tập trung vào hoạt động cho vay và nắm giữ nhiều tài sản sinh lãi

hơn. Nói cách khác, ngân hàng càng mở rộng hoạt động cho vay càng đạt được hiệu quả

tài chính cao hơn. Đây là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho các

NHTM Việt Nam nhưng rủi ro mà ngân hàng gặp phải cũng cao hơn.

Chi phí hoạt động (OPE) tác động tích cực đến KNSL. Các ngân hàng có chi phí

hoạt động cao có thể làm tăng KNSL của các NHTM Việt Nam. Giai đoạn 2012 – 2020

là giai đoạn mà các NHTM Việt Nam thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân

hàng, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ,

chuẩn mực quốc tế (Chính phủ 2012). Đồng thời, các ngân hàng cũng tiến hành cơ cấu

lại hoạt động kinh doanh theo hướng an toàn, lành mạnh hơn. Nhờ đó, hoạt động quản

trị, điều hành của các ngân hàng đã mang tính chuyên nghiệp hơn, tiếp cận với chuẩn

mực quản trị ngân hàng hiện đại, tích cực hợp tác chuyển giao công nghệ, hợp tác chiến

lược với các ngân hàng tầm vóc toàn cầu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của

Molyneux va Thornton (1992) nhưng trái với giả thuyết nghiên cứu của luận án.

Kết quả cho thấy lạm phát có tác động ngược chiều đến ROA và ROE của các

NHTM Việt Nam. Lạm phát cao có thể giúp ngân hàng áp đặt mức lãi suất cho vay cao,

nhưng tiềm ẩn rủi ro trong tương lai vì với mức lãi suất vay cao sẽ tạo nên gánh nặng

cho ngân sách trả nợ. Khi lãi suất tăng cao, chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất

cho vay sẽ tăng lên, dẫn đến lợi nhuận mà ngân hàng đạt được sẽ tăng lên trong ngắn

92

hạn. Tuy nhiên, lạm phát cao cũng cho thấy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng

đến khả năng trả nợ của khách hàng và làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.

Khi kinh tế tăng trưởng cao, khả năng trả nợ của người vay cũng được đảm bảo

và chất lượng khoản vay tốt hơn. Ngoài ra, chất lượng tăng trưởng kinh tế tốt có tác

động tích cực đến danh mục đầu tư, làm tăng giá trị tài sản, luồng tiền của các ngân

hàng, kết quả là ngân hàng có mức lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, khi kinh tế tăng trưởng

cao có thể dẫn đến nhu cầu đầu tư và vay mượn quá mức, ảnh hưởng tiêu cực đến khả

năng trả nợ của khách hàng và làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu

trái ngược với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự

(2018), Athanasoglou và cộng sự (2008), Trujillo-Ponce (2013), Nguyễn Phạm Nhã

Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), Le (2017), Trần Việt Dũng (2014).

4.2.2. Tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro của ngân hàng

Thước đo mức độ chấp nhận rủi ro (hay rủi ro hệ thống) thường được áp dụng

trong lĩnh vực ngân hàng là hệ số Z-score với ý nghĩa là Z-score càng cao thì ngân hàng

càng ít rủi ro hơn và ngược lại. Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu tác động của

cấu trúc vốn đến rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, tức tác động của

CTV đến Z-score của NHTM Việt Nam. Trong bài nghiên cứu này tác giả sử dụng biến

đo lường rủi ro các NHTM được đo lường bằng logarit tự nhiên của Z-score (lnZ-score).

Bảng 4.11 đến 4.13 cho thấy kết quả hồi quy theo phương pháp Bayes thông qua

thuật toán Random Walk Metropolis-Hastings và phương pháp lấy mẫu Gibbs.

Bảng 4.11 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập DEP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

DEP 1,3838 0,7695 0,0077 -0,1162 2,8912

SIZE 0,0503 0,0613 0,0006 -0,0689 0,1728

LOAN -0,7691 0,7181 0,0071 -2,2085 0,6305

93

OPE -20,5480 8,1444 0,0842 -36.7147 -4,5708

INFLAT -10,0389 3,0213 0,0302 -16,0940 -4,2315

GGDP 0,3674 4,9402 0,0494 -9,2935 10,2122

_cons 2,7374 2,0344 0,0203 -1,3100 6,6955

var 1,0348 0,0997 0,0010 0,8570 1,2484

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.12 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập NONDEP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

NONDEP -1,1990 0,7701 0,0074 -2,7297 0,3220

SIZE 0,0760 0,0638 0,0006 -0,0466 0,2029

LOAN -0,7452 0,7146 0,0071 -2,1405 0,6505

OPE -21,5927 8,0784 0,0832 -37,6471 -5,9402

INFLAT -10,4031 3,0278 0,0302 -16,3673 -4,4552

GGDP 0,6023 4,9389 0,0486 -9,1067 10,0534

_cons 3,1275 2,0729 0,0207 -1,0462 7,1200

var 1,0358 0,0992 0,0010 0,8606 1,2488

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.13 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập CAP

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes

hệ số hồi quy chuẩn MCMC

-1,3471 2,3490 0,0234 -5,9709 3,2253 CAP

0,0341 0,0761 0,0007 -0,1155 0,1852 SIZE

LOAN -0,1790 0,6515 0,0065 -1,4403 1,1139

94

OPE -20,3402 8,4666 0,0868 -36,8933 -3,7661

INFLAT -10,4072 3,1036 0,0310 -16,3465 -4,3865

GGDP 0,2660 5,0057 0,0488 -9,5007 10,1686

_cons 4,0071 2,5723 0,0257 -1,0694 9,0502

var 1,0477 0,1005 0,0010 0,8698 1,2610

Nguồn: Tính toán của tác giả

Để kiểm định tính vững của mô hình dựa trên phương pháp Bayes, cần thực hiện

chẩn đoán chuỗi MCMC hội tụ. Nếu chuỗi MCMC hội tụ, mô hình được xác định là

vững (Nguyen 2020). Sự hội tụ của chuỗi MCMC được kiểm định thông qua chẩn đoán

hình ảnh bằng biểu đồ vết, biểu đồ tự tương quan, biểu đồ phân phối hậu nghiệm.

95

Hình 4.6 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến lnZ-score

Kết quả kiểm định từ hình 4.6 cho thấy biểu đồ vết không tạo xu hướng, biểu đồ

tự tương quan rớt nhanh (<40) cho thấy tự tương quan thấp, biểu đồ phân phối hậu

nghiệm (histogram) mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất đồng nhất. Ngoài

ra, kết quả bảng 4.11 đến 4.13 cũng cho thấy sai số chuẩn chuỗi MCMC (MCMC

standard errors - MCSE) là rất nhỏ, dưới 0,1, cho thấy các tham số ước lượng khá chính

xác. Do đó, có thể kết luận suy diễn Bayes là hợp lý và mô hình vững nên có thể phân

tích kết quả.

Bên cạnh chẩn đoán bằng hình ảnh chuỗi MCMC như trên, luận án sử dụng chỉ

tiêu ESS (effective sample size) để đánh giá sự hội tụ của chuỗi MCMC. Nếu số lượng

ESS ước tính càng gần số lượng của chuỗi MCMC (10.000) thì càng hiệu quả.

Bảng 4.14 Số lượng mẫu hiệu quả

ESS Corr. time Efficiency

DEP 10000 1,0000 1,0000

96

NONDEP 10000 1,0000 1,0000

CAP 10000 1,0000 1,0000

SIZE 9690 1,0300 0,9690

LOAN 10000 1,0000 1,0000

OPE 10000 1,0000 1,0000

INFLAT 10000 1,0000 1,0000

GGDP 10000 1,0000 1,0000

_cons 9744 1,0300 0,9744

var 8819 1,1300 0,8820

Nguồn: Tính toán của tác giả

Kết quả tính toán từ bảng 4.14 cho thấy số lượng mẫu hiệu quả ước tính của các

tham số là 10.000 hoặc gần bằng 10.000. Do đó, có thể kết luận mức độ hội tụ của chuỗi

MCMC là rất cao. Vì vậy, có thể kết luận rằng suy diễn Bayes là vững.

Bảng 4.11, 4.12, 4.13 trình bày kết quả hồi quy đánh giá tác động của các biến

độc lập và các biến kiểm soát đến Z-score của các NHTM Việt Nam. Hệ số hồi quy của

biến độc lập Tiền gửi khách hàng (DEP) đại diện cho CTV của các NHTM là 1,3838

mang giá trị dương, tác động cùng chiều đến Z-score tức nghịch biến với khả năng phá

sản của NHTM Việt Nam. Xác suất tác động cùng chiều là 96,45%. Điều này cho thấy

các ngân hàng có tiền gửi khách hàng càng cao thì sẽ càng làm gia tăng chỉ số Z-score,

hay nói cách khác, ngân hàng có tỷ lệ tiền gửi khách hàng càng cao thì rủi ro mà các

ngân hàng đối mặt giảm xuống. Khi tiền gửi khách hàng tăng lên, chỉ số Z-score càng

cao, ngân hàng hoạt động ổn định và mức độ rủi ro giảm xuống. Điều này có thể giải

thích là nếu ngân hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn đồng nghĩa với tổng tài sản ngân

hàng gia tăng hơn, người gửi tiền và người cho vay sẽ yên tâm hơn. Mặt khác, một ngân

hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn là ngân hàng có uy tín cao, có lịch sử hoạt động lâu

đời, ban lãnh đạo có năng lực và đạo đức kinh doanh tốt, từ đó dẫn đến khả năng phá

sản của ngân hàng giảm xuống. Kết quả này phù hợp kết quả nghiên cứu của Saif-

Alyousfi và Saha (2020), Mercan (2021) nhưng trái với giả thuyết đặt ra, lý thuyết đánh

đổi, lý thuyết đại diện, và các nghiên cứu của Pricillia (2015), Bhagat và cộng sự (2015),

97

Nguyen và Duong (2020), Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự (2020), Phạm Tiến Minh và

Bùi Huy Hải Bích (2019), Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015).

Biến tiếp theo đại diện cho CTV của NHTM là Nợ phi tiền gửi (NONDEP). Khác

tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi có tác động ngược chiều đến Z-score trong mô hình

hồi quy và có xác suất tác động ngược chiều là 94,64%. Điều này cho thấy nợ phi tiền

gửi của ngân hàng càng cao thì sẽ càng làm giảm chỉ số Z-score của ngân hàng. Nói

cách khác, khi nợ phi tiền gửi ở mức độ cao làm cho rủi ro của ngân hàng sẽ gia tăng.

Khi các NHTM huy động nhiều hơn bằng các khoản nợ phi tiền gửi như phát hành trái

phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng … đòn bẩy tài chính của ngân hàng cũng

tăng lên tương ứng. Các ngân hàng có thể sử dụng số tiền vay này để đầu tư vào các

danh mục rủi ro cao hoặc cho vay với thời hạn dài để thu được lợi nhuận cao hơn nhưng

rủi ro cũng cao hơn, dẫn đến rủi ro hệ thống gia tăng. Kết quả này phù hợp với giả thuyết

đặt ra, lý thuyết đánh đổi, lý thuyết đại diện và các nghiên cứu của Pricillia (2015),

Bhagat và cộng sự (2015), Nguyen và Duong (2020), Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự

(2020), Phạm Tiến Minh và Bùi Huy Hải Bích (2019), Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá

Hướng (2015) nhưng trái với kết quả nghiên cứu của Saif-Alyousfi và Saha (2020),

Mercan (2021).

Biến thứ ba đại diện cho CTV của NHTM là vốn ngân hàng (CAP). Kết quả từ

bảng 4.13 cho thấy khi vốn ngân hàng tăng lên, các ngân hàng đối mặt với rủi ro phá

sản nhiều hơn và xác suất chiều hướng tác động là 72,75%. Kết quả nghiên cứu trái với

giả thuyết đặt ra, lý thuyết đánh đổi, lý thuyết đại diện và các nghiên cứu của Pricillia

(2015), Bhagat và cộng sự (2015), Nguyen và Duong (2020), Lê Ngọc Quỳnh Anh và

cộng sự (2020), Phạm Tiến Minh và Bùi Huy Hải Bích (2019), Nguyễn Minh Hà và

Nguyễn Bá Hướng (2015) nhưng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Saif-Alyousfi và

Saha (2020), Mercan (2021). Các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao có khả năng

gặp áp lực trong việc sử dụng có hiệu quả số vốn này và tạo ra lợi nhuận cho các cổ

đông. Do đó, các ngân hàng đó có xu hướng sử dụng số vốn đó một cách kém hiệu quả

hoặc quyết định phân bổ vào các danh mục tín dụng và đầu tư kém an toàn hơn. Đối với

các NHTM Việt Nam, tăng vốn là một áp lực để đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý

nhà nước và nhu cầu mở rộng thị trường của chính bản thân ngân hàng. Kết quả là các

ngân hàng ưu tiên sử dụng vốn chủ sở hữu để chiếm thị phần, thay vì ưu tiên chất lượng

98

tài sản, dẫn đến rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt cao hơn.

Đối với các biến kiểm soát, quy mô ngân hàng (SIZE) và biến vĩ mô là tăng

trưởng kinh tế (GGDP) đều có tác động tích cực đến Z-score của các NHTM Việt Nam.

Ngược lại, các biến dư nợ cho vay (LOAN), chi phí hoạt động (OPE) lạm phát

(INFLAT) có tác động tiêu cực đến chỉ số Z-score.

Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động tích cực đến chỉ số Z-score, hay nói cách

khác quy mô ngân hàng làm tăng tính ổn định cho các NHTM Việt Nam. Kết quả này

phù hợp với giả thuyết nghiên cứu, các nghiên cứu của Saif-Alyousfi và Saha (2020),

Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự (2020), Phạm Tiến Minh (2019) nhưng trái với kết quả

của Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015), Nguyen và Duong (2020), Mercan

(2021). Các ngân hàng có quy mô lớn là những ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng,

khả năng tiếp cận và thu hút khách hàng tốt hơn, có mức độ tín nhiệm cao của khách

hàng, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin nhanh chóng và có lợi thế cạnh tranh

tốt hơn. Quy mô của ngân hàng lớn cũng thể hiện năng lực tài chính mạnh, có khả năng

tiếp cận thị trường tài chính thế giới, có thể đối phó với tình trạng thiếu hụt tài chính bất

ngờ. Ngoài ra, các ngân hàng có quy mô lớn là những ngân hàng có lịch sử lâu đời, có

danh mục đầu tư và cho vay đa dạng, có hệ thống quản trị rủi ro vận hành hiệu quả nhờ

quá trình tích lũy kinh nghiệm trước đó. Kết quả là các NHTM có quy mô lớn thì mức

độ ổn định cao hơn hay khả năng phá sản là thấp.

Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động tiêu cực đến mức độ ổn định, có ảnh hưởng

làm tăng rủi ro của NHTM Việt Nam, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên

cứu của Mercan (2021), Nguyen và Duong (2020) nhưng trái với kết quả của Lê Ngọc

Quỳnh Anh và cộng sự (2020), Saif-Alyousfi và Saha (2020), Một ngân hàng có tỷ lệ

dư nợ cho vay trên tổng tài sản cao có nghĩa là ngân hàng đó có chiến lược tập trung vào

hoạt động cho vay và nắm giữ nhiều tài sản sinh lãi hơn, đặc biệt là những tài sản có rủi

ro cao nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Nói cách khác, ngân hàng càng mở rộng

hoạt động cho vay càng làm cho rủi ro phá sản cao hơn.

Chi phí hoạt động (OPE) tác động cùng chiều đến rủi ro phá sản của ngân hàng.

Kết quả nghiên cứu phù hợp với giả thuyết nghiên cứu nhưng trái với kết quả nhiên cứu

của Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015). Các ngân hàng có chi phí hoạt động

99

cao có thể làm tăng rủi ro của các NHTM Việt Nam. Việc quản lý không hiệu quả các

khoản chi phí bỏ ra để tiến hành các hoạt động của ngân hàng sẽ làm cho ngân hàng

không thể cân đối được lợi nhuận của mình. Chi phí quá cao sẽ khiến lợi nhuận sụt giảm,

qua đó sẽ khiến ngân hàng gặp rủi ro nếu tình trạng này duy trì trong thời gian dài. Bên

cạnh đó, việc quản lý chi phí không hiệu quả có thể dẫn đến các khoản cho vay có rủi

ro cao và hệ thống quản lý rủi ro kém hiệu quả.

Kết quả nghiên cứu cho thấy lạm phát có tác động ngược chiều đến chỉ số Z- score

của các NHTM Việt Nam, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và nghiên cứu của Saif-

Alyousfi và Saha (2020) nhưng trái với kết quả của Nguyen và Duong (2020), Mercan

(2021). Khi lạm phát tăng lên, ngân hàng căn cứ vào tỷ lệ lạm phát để điều chỉnh lãi suất

cho vay cao hơn, nhưng tiềm ẩn rủi ro trong tương lai vì với mức lãi suất vay cao sẽ làm

ảnh hưởng đến tình hình tài chính của khách hàng, làm giảm khả năng trả nợ cho ngân

hàng. Mặt khác, lạm phát cao cũng cho thấy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng

đến khả năng trả nợ của khách hàng và làm tăng rủi ro cho ngân hàng.

Tăng trưởng kinh tế tác động cùng chiều đến chỉ số Z-score của các NHTM Việt

Nam, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và kết quả nghiên cứu của Saif-Alyousfi và

Saha (2020) nhưng trái với kết quả của Nguyen và Duong (2020). Điều này cho thấy,

khi kinh tế tăng trưởng cao, danh mục cho vay được mở rộng khả năng trả nợ của người

vay cũng được đảm bảo và chất lượng khoản vay tốt hơn. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế

tốt kéo theo giá trị tài sản tăng, các dịch vụ của ngân hàng được sử dụng nhiều hơn.

100

Tóm tắt chương 4

Trong chương 4, tác giả đã ước lượng mô hình tác động của CTV đến lợi nhuận

và rủi ro của các NHTM Việt Nam. Để ước lượng mô hình này, tác giả sử dụng phương

pháp ước lượng Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs. Kết quả ước lượng mô hình

cho thấy, tiền gửi khách hàng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận ngân hàng. Trong

khi đó, nợ phi tiền gửi có tác động cùng chiều đến lợi nhuận ngân hàng. Đối với vốn

ngân hàng, kết quả nghiên cứu cho thấy vốn ngân hàng có tác động cùng chiều đến ROA

nhưng tác động ngược chiều đến ROE của các NHTM Việt Nam.

Đối với rủi ro ngân hàng, kết quả nghiên cứu cho thấy tiền gửi khách hàng có tác

động làm giảm rủi ro, nợ phi tiền gửi và vốn ngân hàng có tác động làm tăng rủi ro của

ngân hàng.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chương 4, chương 5 sẽ đưa ra các hàm ý chính

sách đối với các NHTM Việt Nam cũng như cơ quan quản lý nhà nước.

101

CHƯƠNG 5

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI XÂY DỰNG CẤU TRÚC VỐN HỢP LÝ

Giới thiệu chương 5

Chương này sẽ trình bày tóm tắt về các kết quả đạt được trong nghiên cứu đã

được thực hiện và thảo luận trong các chương trước. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên

những đóng góp mới của nghiên cứu về mặt học thuật, từ đó gợi ý một số hàm ý chính

sách cũng như hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo.

5.1 KẾT LUẬN

Nghiên cứu có mục tiêu chung là đánh giá tác động của CTV và các biến kiểm

soát đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM Việt Nam. Luận án dựa trên nền tảng cơ sở

lý thuyết cũng như kết quả những nghiên cứu đáng tin cậy trước đây, tác giả đã lựa chọn

mô hình hồi quy đa biến dữ liệu bảng với biến phụ thuộc là ROA, ROE, Z-score và các

biến độc lập là DEP, NONDEP, CAP nhằm xác định ảnh hưởng của CTV đến lợi nhuận

và rủi ro NHTM Việt Nam, thông qua số liệu được thu thập từ báo cáo tài chính của 30

NHTM trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2020 và dữ liệu vĩ mô từ Tổng cục Thống kê.

Bằng cách tiếp cận theo phương pháp Bayes và thuật toán lấy mẫu Gibbs, kết quả thu

được từ nghiên cứu thực nghiệm cho thấy chiều hướng tác động khác nhau của CTV và

các biến kiểm soát đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM trong giai đoạn 2012 – 2020,

cụ thể như sau:

Tác động của CTV đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam

Tiền gửi của khách hàng (DEP) có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của các

NHTM Việt Nam, cho thấy tác động ngược chiều đến hiệu quả quản lý tài sản và quản

lý vốn. Khi ngân hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn đồng nghĩa với tài sản và đòn bẩy

tài chính của ngân hàng gia tăng, ngân hàng gặp áp lực trong việc sử dụng có hiệu quả

số tiền huy động được, dẫn đến đầu tư vào các dự án hoặc cấp tín dụng một cách kém

hiệu quả và làm giảm ROA và ROE.

102

Khác với tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi (NONDEP) có ảnh hưởng tích cực

đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam. Mối quan hệ thuận chiều giữa nợ phi tiền gửi

cho thấy việc sử dụng vốn từ nợ phi tiền gửi có hiệu quả và làm tăng ROA và ROE. Các

ngân hàng thương mại Việt Nam sử dụng nợ phi tiền gửi tài trợ cho các dự án hoặc danh

mục cho vay có thời hạn dài và lãi suất cao, làm tăng hiệu quả của việc sử dụng tài sản

và hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.

Trong khi đó, vốn ngân hàng (CAP) có mối tương quan cùng chiều với ROA

nhưng lại tác động ngược chiều đến ROE. Khi tăng vốn lên, lợi nhuận trên mỗi đồng

vốn của cổ đông giảm xuống hay nói cách khác, hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu giảm

xuống. Kết quả này cho thấy ngân hàng gặp khó khăn trong việc duy trì tỷ lệ lợi nhuận

trên vốn chủ sở hữu khi ngân hàng tăng vốn, tức lợi ích mà cổ đông nhận được không

tương xứng với số vốn mà họ bỏ ra.

Tác động của các biến kiểm soát thuộc về nội tại đến lợi nhuận ngân hàng

Kết quả nghiên cứu cho thấy Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động tích cực đến

ROA và ROE của các NHTM Việt Nam. Điều này cho thấy những ngân hàng có quy

mô lớn sẽ có lợi nhuận cao hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ, ủng hộ quan điểm của lý

thuyết quyền lực thị trường.

Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động tích cực đến lợi nhuận của các NHTM Việt

Nam. Khi ngân hàng càng mở rộng hoạt động cho vay càng đạt được hiệu quả tài chính

cao hơn. Đây là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM Việt

Nam nhưng rủi ro mà ngân hàng gặp phải cũng cao hơn.

Chi phí hoạt động (OPE) tác động tích cực đến KNSL. Các ngân hàng có chi phí

hoạt động cao có thể làm tăng KNSL của các NHTM Việt Nam.

Tác động của các biến vĩ mô đến lợi nhuận ngân hàng

Kết quả cho thấy lạm phát có tác động ngược chiều đến ROA và ROE của các

NHTM Việt Nam. Lạm phát cao cũng cho thấy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh

hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng và làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.

103

Khi kinh tế tăng trưởng cao có thể dẫn đến nhu cầu đầu tư và vay mượn qúa mức,

ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng trả nợ của khách hàng và làm giảm lợi nhuận của ngân

hàng.

Tác động của CTV đến rủi ro của các NHTM Việt Nam

Tiền gửi của khách hàng (DEP) có tác động ngược chiều với rủi ro của các

NHTM Việt Nam. Khi ngân hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn đồng nghĩa với làm gia

tăng tổng tài sản ngân hàng hơn, người gửi tiền và người cho vay sẽ yên tâm hơn. Mặt

khác, một ngân hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn là ngân hàng có uy tín cao, có lịch

sử hoạt động lâu đời, ban lãnh đạo có năng lực và đạo đức kinh doanh tốt, dẫn đến mức

độ an toàn trong hoạt động ngân hàng cao hơn.

Khác với tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi (NONDEP) có ảnh hưởng cùng

chiều đến rủi ro của các NHTM Việt Nam. Mối quan hệ cùng chiều giữa nợ phi tiền gửi

và rủi ro cho thấy việc sử dụng vốn từ nợ phi tiền gửi có thể làm tăng rủi ro cho các

NHTM. Khi các NHTM huy động nhiều hơn bằng các khoản nợ phi tiền gửi như phát

hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng … đòn bẩy tài chính của ngân

hàng cũng tăng lên tương ứng. Các ngân hàng có thể sử dụng số tiền vay này để đầu tư

vào các danh mục rủi ro cao hoặc cho vay với thời hạn dài để thu được lợi nhuận cao

hơn nhưng rủi ro cũng cao hơn, dẫn đến rủi ro hệ thống gia tăng.

Vốn ngân hàng (CAP) có tác động làm tăng rủi ro của các NHTM Việt Nam. Các

ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao có khả năng gặp áp lực trong việc sử dụng có

hiệu quả số vốn này và tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông. Do đó, các ngân hàng đó có

xu hướng sử dụng số vốn đó một cách kém hiệu quả hoặc quyết định phân bổ vào các

danh mục tín dụng và đầu tư kém an toàn hơn.

Tác động của các biến kiểm soát thuộc về nội tại đến rủi ro ngân hàng

Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động ngược chiều đến rủi ro của các NHTM

Việt Nam. Điều này cho thấy, quy mô của các NHTM Việt Nam lớn hơn sẽ hạn chế

được rủi ro nhiều hơn. Ngoài ra, các ngân hàng có quy mô lớn sẽ có khả năng tiếp cận

với các nguồn tài trợ bên ngoài dễ dàng hơn với chi phí thấp hơn so với các ngân hàng

có quy mô nhỏ, do đó các ngân hàng này có thể linh hoạt hơn khi đối mặt với các tình

104

huống rủi ro.

Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động cùng chiều với rủi ro của các NHTM Việt

Nam. Khi ngân hàng càng mở rộng hoạt động cho vay càng rủi ro cho ngân hàng cao

hơn. Đây là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM Việt Nam

nhưng rủi ro mà ngân hàng gặp phải cũng cao hơn.

Chi phí hoạt động (OPE) tác động cùng chiều đến rủi ro của các NHTM Việt

Nam. Điều này cho thấy khi chi phí hoạt động càng lớn, sẽ làm ngân hàng mất ổn định

và gặp rủi ro nhiều hơn thông qua mức lợi nhuận suy giảm do chi phí tăng. Việc quản

lý không hiệu quả các khoản chi phí bỏ ra để tiến hành các hoạt động của ngân hàng sẽ

làm cho ngân hàng không thể cân đối được lợi nhuận của mình. Chi phí quá cao sẽ khiến

lợi nhuận sụt giảm, qua đó sẽ khiến ngân hàng gặp rủi ro nếu tình trạng này duy trì trong

thời gian dài. Bên cạnh đó, việc quản lý chi phí không hiệu quả có thể dẫn đến các khoản

cho vay có rủi ro cao và hệ thống quản lý rủi ro kém hiệu quả.

Tác động của các biến vĩ mô đến rủi ro ngân hàng

Kết quả cho thấy lạm phát có tác động cùng chiều đến rủi ro của các NHTM Việt

Nam. Khi tỷ lệ lạm phát cao cho thấy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến

khả năng trả nợ của khách hàng, làm tăng rủi ro và giảm lợi nhuận của ngân hàng.

Tăng trưởng kinh tế tác động ngược chiều với rủi ro của các NHTM Việt Nam.

Khi kinh tế tăng trưởng cao, danh mục cho vay được mở rộng khả năng trả nợ của người

vay cũng được đảm bảo và chất lượng khoản vay tốt hơn. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế

tốt kéo theo giá trị tài sản tăng, các dịch vụ của ngân hàng được sử dụng nhiều hơn.

5.2 CÁC GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG XÂY DỰNG CẤU TRÚC

VỐN HỢP LÝ

5.2.1 Đối với các ngân hàng thương mại

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đã nêu ra trong phần trên, tác giả đề xuất một

số hàm ý chính sách cho việc xây dựng cấu trúc vốn hợp lý nhằm đạt được lợi nhuận

hợp lý, giảm rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:

105

Đầu tiên, tiền gửi khách hàng (DEP) có tác động làm giảm lợi nhuận và giảm rủi

ro của NHTM Việt Nam. Vì vậy, để đảm bảo lợi nhuận đạt được tốt nhất và rủi ro ở

mức thấp nhất, các ngân hàng cần ưu tiên huy động nguồn vốn tiền gửi với lãi suất thấp,

tránh hiện tượng tăng lãi suất quá cao để huy động tiền gửi. Trên thực tế, các NHTM

Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nhỏ thường dùng công cụ lãi suất cao

để thu hút người gửi tiền. Tuy nhiên, điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro cho chính ngân hàng

trong tương lai vì để đảm bảo có lợi nhuận và trang trải các chi phí, ngân hàng bắt buộc

tăng lãi suất cho vay, gây khó khăn cho khách hàng vay vốn trong việc hoàn trả nợ gốc

và lãi, gây bất ổn cho toàn hệ thống ngân hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng tăng lãi suất

tiền gửi nhưng không tăng lãi suất cho vay có thể dẫn đến giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ.

Vì vậy, sử dụng công cụ lãi suất không phải là biện pháp phù hợp để thu hút người gửi

tiền mà các ngân hàng cần tích cực tìm kiếm và huy động các khoản tiền gửi với chi phí

thấp để đảm bảo đạt được lợi nhuận hợp lý và rủi ro giảm xuống ở mức thấp nhất. Ngoài

ra, các ngân hàng cần sử dụng tiền gửi để đầu tư và cho vay hiệu quả, tránh việc gia tăng

huy động từ khách hàng nhưng việc sử dụng kém hiệu quả hay đầu tư và cho vay một

cách ồ ạt, không thẩm định kỹ lưỡng khách hàng vay vốn, dẫn đến giảm lợi nhuận của

ngân hàng.

Thứ hai, tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất và quan trọng nhất của NHTM. Vì vậy,

cần nâng cao uy tín, thương hiệu của ngân hàng để có thể tạo dựng niềm tin cho người

gửi tiền. Đối với người gửi tiền, sự an toàn luôn là mối quan tâm hàng đầu khi lựa chọn

ngân hàng để gửi tiền. Bên cạnh đó, như đã phân tích ở trên, giải pháp nâng lãi suất huy

động không phải là giải pháp phù hợp cho các ngân hàng trong hiện tại cũng như trong

tương lai. Do vậy, cần nâng cao chất lượng dịch vụ và trải nghiệm của khách hàng, đặc

biệt trong thời đại số như hiện nay. Các ngân hàng cần đầu tư nhiều hơn cho công nghệ

để giảm thiểu chi phí huy động vốn và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, nhanh

chóng chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng, trong đó có các hoạt động liên quan

đến huy động tiền gửi khách hàng. Từ đó, các ngân hàng có thể huy động vốn từ tiền

gửi với chi phí thấp để có thể hỗ trợ khách hàng vay vốn, vừa làm tăng lợi nhuận của

ngân hàng, vừa có thể giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh.

Thứ ba, để giảm chi phí huy động vốn từ tiền gửi khách hàng để có thể gia tăng

lợi nhuận và không gây rủi ro, tạo áp lực trả lãi cho khách hàng vay vốn, các ngân hàng

cần mở rộng mạng lưới để có thể tiếp cận người gửi tiền tốt hơn. Mặc dù các ngân hàng

106

cần chuyển đổi số, nâng cao trải nghiệm khách hàng nhưng đây là vấn đề mang tính dài

hơi và liên tục. Trước mắt, để thu hút người gửi tiền tốt hơn, việc mở rộng mạng lưới là

cần thiết. Các ngân hàng cần tích cực tìm kiếm thị trường mới để mở rộng mạng lưới,

không những trong phạm vi quốc gia mà có thể ở một số thị trường quốc tế. Hiện nay,

nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tham gia nhiều

vào các liên minh kinh tế như Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh

châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

(CPTPP). Vì vậy, các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng lớn, có thể xem

xét mở rộng mạng lưới sang một số quốc gia thành viên các liên minh kinh tế này để có

thể tận dụng tốt nhất các cơ hội khi kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế thế

giới. Tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới cần có sự nghiên cứu, chọn lọc kỹ lưỡng nhằm

tránh những rủi ro có thể xảy ra.

Thứ tư, để có thể thu hút tiền gửi tốt hơn với chi phí thấp và đạt được lợi nhuận

tốt hơn, các ngân hàng cần đa dạng hóa các sản phẩm tiền gửi, đáp ứng một cách tốt

nhất các nhu cầu khác nhau của người gửi tiền, nhanh chóng áp dụng công nghệ ngân

hàng số nâng cao sự hài lòng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho người gửi tiền. Do đó,

các ngân hàng cần đầu tư các nguồn lực cần thiết để nghiên cứu và pháp triển các sản

phẩm tiền gửi hoàn toàn mới, phù hợp với định hướng phát triển của từng ngân hàng

cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.

Thứ năm, cần sử dụng hiệu quả hơn tiền gửi của khách hàng. Các NHTM Việt

Nam cần thẩm định kỹ lưỡng và hợp lý hơn khi cho vay với mục tiêu đảm bảo chất

lượng tài sản cũng như chất lượng cho vay của ngân hàng. Khi tài sản của ngân hàng

tăng lên nhưng chất lượng tài sản kém đi sẽ dẫn đến hậu quả lâu dài như không có khả

năng thu hồi vốn để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng, tăng rủi ro thanh khoản

và rủi ro vỡ nợ của ngân hàng.

Thứ sáu, nợ phi tiền gửi (NONDEP) vừa làm tăng lợi nhuận, vùa làm tăng rủi ro

cho các NHTM Việt Nam. Các ngân hàng thường sử dụng nguồn vốn này để đầu tư vào

các dự án hoặc danh mục cho vay dài hạn với lãi suất cao hơn và thời hạn dài hơn. Do

đó, các ngân hàng cần lựa chọn danh mục đầu tư hoặc cấp tín dụng một cách chặt chẽ

và an toàn hơn. Để làm được điều đó, cần phải thẩm định chặt chẽ hơn các dự án đầu tư

107

cũng như các khoản vay trung dài hạn, đảm bảo chất lượng tài sản của ngân hàng trong

dài hạn. Các ngân hàng có thể đạt được mức lợi nhuận phù hợp hơn, không quá cao để

có thể gây ra rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Thứ tám, bên cạnh huy động vốn từ tiền gửi khách hàng, các NHTM có thể huy

động từ các khoản nợ phi tiền gửi như phát hành trái phiếu trung và dài hạn, trái phiếu

chuyển đổi, chứng chỉ tiền gửi, vay từ Ngân hàng Nhà nước, các NHTM khác hoặc vay

từ các tổ chức tài chính quốc tế. Các ngân hàng huy động nợ phi tiền gửi nhằm các mục

đích như đáp ứng thanh khoản, tăng vốn trung dài hạn, tăng vốn cấp 2 trong cơ cấu vốn

tự có để đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn. Tuy nhiên, việc tăng nợ phải trả ngoài tiền gửi trong

cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng thương mại có thể làm tăng rủi ro cho NHTM nếu

nguồn vốn này được sử dụng một cách kém an toàn. Thời gian gần đây, các ngân hàng

tăng mạnh mua trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực bất

động sản và chứng khoán. Do các doanh nghiệp này thường đưa ra mức lãi suất rất cao

cho các trái phiếu phát hành ra nên các ngân hàng có thể thu được lợi nhuận lớn từ việc

đầu tư vào các trái phiếu này. Tuy nhiên, rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt là rất cao

do việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp đang còn rất nhiều bất cập, nhiều sai phạm

lớn liên quan đến việc phát hành trái phiếu và sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Do

vậy, để giảm rủi ro, các ngân hàng cần hạn chế đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp; khi

đầu tư cần thận trọng hơn, đánh giá kỹ lưỡng hơn các khoản đầu tư vào trái phiếu doanh

nghiệp; cần tập trung sử dụng số vốn huy động được vào việc cấp tín dụng cho hoạt

động sản xuất kinh doanh, tạo ra sự thịnh vượng cho nền kinh tế.

Cuối cùng, việc tăng vốn có thể làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản nhưng hiệu

quả từ một đồng vốn cổ đông bỏ ra giảm xuống, đồng thời rủi ro của ngân hàng tăng

lên. Vì vậy, các ngân hàng cần thận trọng hơn trong quá trình tăng vốn vì tăng vốn là

việc làm bắt buộc đối với các ngân hàng. Các ngân hàng không nên tăng vốn quá nhanh,

quá ồ ạt mà cần có một lộ trình tăng vốn cụ thể, được đánh giá kỹ lưỡng, từng bước đáp

ứng các tiêu chuẩn an toàn vốn Basel II và Basel III trong thời gian sớm nhất. Trong

trường hợp ngân hàng tăng vốn quá nhanh sẽ tạo nên áp lực trong việc sử dụng số vốn

đó có hiệu quả, dẫn đến phân bổ vốn kém hiệu quả và kết quả là giảm lợi nhuận và tăng

rủi ro cho các ngân hàng.

108

5.2.2 Đối với cơ quan quản lý nhà nước

Thứ nhất, để đảm bảo an toàn trong toàn hệ thống ngân hàng, NHNN cần có cơ

chế tăng tính cạnh tranh trong việc phân bổ các nguồn vốn ngân sách tạm thời nhàn rỗi

gửi tại các NHTM. Đây là nguồn vốn rất lớn nhưng hiện nay đang được gửi chủ yếu tại

các ngân hàng do nhà nước chi phối, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các NHTM. Do vậy,

nguồn vốn này cần được phân bổ lại trong toàn hệ thống ngân hàng dựa trên cơ chế cạnh

tranh, giảm bớt các rào cản được tạo ra khi tham gia đấu thầu nguồn vốn này như các

điều kiện về quy mô tổng tài sản, tổng vốn chủ sở hữu, chất lượng tín dụng, kết quả hoạt

động kinh doanh của mỗi ngân hàng.

Thứ hai, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính chấn chỉnh lại hoạt động phát

hành trái phiếu và sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu của các NHTM lẫn các doanh

nghiệp. Việc huy động vốn từ tiền gửi được sự giám sát chặt chẽ của NHNN. Trong khi

đó, huy động vốn từ trái phiếu do các ngân hàng, công ty chứng khoán phân phối cho

nhà đầu tư lại đang có sự giám sát rất lỏng lẻo của cơ quan quản lý nhà nước, gây rủi ro

rất lớn cho bản thân các NHTM lẫn các nhà đầu tư. Vì vậy, để giảm rủi ro cho ngân

hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư, hoạt động phát hành trái phiếu cần được giám sát chặt

chẽ hơn, bổ sung các quy định pháp lý nhằm lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh

nghiệp.

Thứ ba, cần giám sát thường xuyên và liên tục đối với các NHTM có tham gia

đầu tư, bảo lãnh phát hành, phân phối trái phiếu doanh nghiệp. Mặc dù các NHTM có

thể thu được lợi nhuận cao từ các hoạt động liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp nhưng

rủi ro cho ngân hàng trong tương lai là rất lớn, ảnh hưởng tới chính ngân hàng và toàn

bộ hệ thống ngân hàng.

Thứ tư, NHNN thường xuyên theo dõi các phân tích, dự báo xu hướng thị trường

tài chính thế giới, khu vực và trong nước. Mặc dù giai đoạn hiện nay thị trường tài chính

Việt Nam đã có sự hội nhập sâu rộng vào thị trường tài chính thế giới nhưng các NHTM

Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế về khả năng ứng phó với những biến động của thị

trường tài chính thế giới. NHNN cần cung cấp các khóa đào tạo để các NHTM đủ khả

năng phân tích dự báo xu hướng thị trường tài chính toàn cầu, trên cơ sở đó lập ra kế

hoạch tài chính dài hạn.

109

Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành kế hoạch cụ thể yêu cầu các NHTM

niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng cường minh bạch tài chính và hiệu quả

hoạt động của các NHTM. Ngoài ra, cần tăng cường giám sát các ngân hàng trong việc

sử dụng các nguồn tiền huy động được, đặc biệt là các ngân hàng đang sử dụng đòn bẩy

tài chính lớn.

5.3 HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Mặc dù đã đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả nhận thấy nghiên cứu này vẫn

còn hạn chế và cần được bổ sung, cải thiện trong tương lai, cụ thể là:

Thứ nhất, hệ thống NHTM Việt Nam có đặc thù là được chia thành hai nhóm:

Nhóm các NHTM do nhà nước chi phối và nhóm các NHTM tư nhân. Trong nghiên cứu

này, tác giả gộp cả hai nhóm thành mẫu nghiên cứu, điều này chưa thực sự phù hợp. Vì

vậy, trong nghiên cứu tiếp theo, tác giả sẽ chia thành hai nhóm riêng biệt và đánh giá

tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của từng nhóm ngân hàng.

Thứ hai, tiền gửi khách hàng bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn. Tuy

nhiên, do hạn chế trong việc thu thập số liệu nên trong nghiên cứu này, tác giả gộp chung

tất cả các khoản tiền gửi thành tiền gửi khách hàng. Vì vậy, trong nghiên cứu tiếp theo,

tiền gửi khách hàng sẽ được tách ra thành tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.

Thứ ba, mặc dù nghiên cứu đã thu thập dữ liệu với mẫu 30 NHTM Việt Nam

trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020, tuy nhiên mẫu nghiên cứu chưa bao gồm

các loại hình ngân hàng khác như ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh…. Điều

này làm giới hạn các kết luận có thể rút ra từ kết quả ước lượng cũng như chưa bao quát

toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các nghiên cứu tiếp theo cần bổ sung số liệu thu thập, qua

đó nâng cao cả chất lượng và số lượng của số liệu.

Thứ tư, ngoài các biến số đã được phân tích trong các mô hình đã chỉ ra ở trên,

về mặt lý thuyết cấu trúc vốn của NHTM có thể bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.

Do đó, các nghiên cứu tiếp theo cần dựa trên mục tiêu nghiên cứu cụ thể để bổ sung

thêm các biến khác phản ánh CTV của NHTM.

110

Tóm tắt chương 5

Từ kết quả nghiên cứu ở chương 4, luận án đánh giá lại và đưa ra kết luận về tác

động của của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt

Nam trong chương 5. Kết luận được đưa ra dựa trên kết quả mô hình hồi tuyến tính

Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs.

Trên cơ sở các kết luận đưa ra, tác giả đưa ra hàm ý chính sách tập trung vào hai

nhóm giải pháp bao gồm: (i) giải pháp đối với các ngân hàng thương mại, (ii) giải pháp

đối với cơ quan quản lý nhà nước.

Cuối cùng, chương 5 nêu lên một số hạn chế của nghiên cứu như hạn chế khi

luận án chưa chia nhóm các NHTM do nhà nước chi phối và nhóm các NHTM tư nhân

để đánh giá tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của từng nhóm ngân hàng. Bên

cạnh đó, luận án gộp chung tất cả các khoản tiền gửi thành tiền gửi khách. Hơn nữa,

luận án cũng có hạn chế về cỡ mẫu trong mô hình nghiên cứu khi dữ liệu nghiên cứu

chưa bao gồm các loại hình ngân hàng khác như ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên

doanh. Ngoài ra, luận án chưa đề cập đầy đủ các biến khác phản ánh CTV của NHTM.

Các hạn chế này sẽ là hướng nghiên cứu mở rộng cho tác giả trong tương lai.

111

KẾT LUẬN

Đối với các NHTM, lợi nhuận và rủi ro đều đóng vai trò rất quan trọng, có tác

động lớn đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Hơn nữa, hệ thống ngân

hàng được xem là huyết mạch của nền kinh tế quốc gia, hoạt động của hệ thống ngân

hàng an toàn, hiệu quả thì mới thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đó, cấu trúc vốn của

ngân hàng có sự khác biệt rất lớn so với cấu trúc vốn của các doanh nghiệp phi tài chính,

có ảnh hưởng quyết định đến sự an toàn và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Trên

cơ sở nền tảng lý thuyết và thực tiễn đặt ra cũng như bổ sung cho khoảng trống nghiên

cứu, tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các

ngân hàng thương mại Việt Nam” làm luận án nghiên cứu. Tác giả đã phân tình thực

trạng cấu trúc vốn của các NHTM Việt Nam, tác giả cũng đã đi sâu phân tích các thành

phần cấu tạo nên cấu trúc vốn của các ngân hàng giai đoạn 2012 – 2020. Tác giả có đóng

góp thêm về bằng chứng thực nghiệm và cung cấp thêm một số thông tin hữu ích về tác

động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM Việt Nam, từ đó đảm bảo

tính khoa học cho các gợi ý chính sách để đảm bảo hiệu quả và sự an toàn cho hệ thống

ngân hàng tại Việt Nam.

Để đạt được các mục tiêu trong luận án này, tác giả sử dụng phương pháp hồi

quy Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs với mẫu nghiên cứu bao gồm 30 NHTM

tại Việt Nam trong giai đoạn 2012-2020. Tác giả đã đánh giá mức độ ảnh hưởng của các

biến đại diện cho cấu trúc vốn của ngân hàng (bao gồm các biến DEP, NONDEP, CAP)

đến lợi nhuận (bao gồm các biến ROA và ROE) và rủi ro (bao gồm biến Z-score) của

các NHTM Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng và kết quả nghiên cứu định

lượng của các mô hình nghiên cứu, tác giả đã đề xuất những khuyến nghị nhằm giúp các

ngân hàng đạt được lợi nhuận và rủi ro ở mức hợp lý nhất.

112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt

Thủ tướng Chính phủ Việt Nam 2012, Quyết định 254/QĐ-TTg về Đề án cơ cấu lại hệ

thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015, Hà Nội.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2018, Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/05/2018

quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng

nước ngoài, Hà Nội.

Lê Ngọc Quỳnh Anh, Nguyễn Quý Quốc và Lê Thị Phương Thanh 2020, “Các nhân tố

ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam”,Tạp chí

Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển, số 129(5B), trang 95-107.

Lê Thanh Hoa, Phạm Hoàng Uyên và Nguyễn Đình Thiên 2017, “Một phương pháp

mới tìm khoảng mật độ hậu nghiệm cao nhất và ứng dụng”, Tạp chí Phát triển Kinh tế,

số 28, tập10, trang 79–120.

Nguyễn Minh Kiều 2014, Giáo trình tài chính doanh nghiệp căn bản, NXB Thống kê.

Nguyễn Minh Kiều 2009, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê,

Tp.HCM.

Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng 2015, “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi

ro phá sản ngân hàng bằng phương pháp Z-scor”, Tạp chí Kính tế & Phát triển, số 229,

trang 17-25.

Nguyễn Ngọc Thạch 2019, “Một cách tiếp cận Bayes trong dự báo tổng sản phẩm quốc

nội của Mỹ”, Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á, số 163, trang 5–18.

Nguyễn Thanh Dương 2013, “Phân tích rủi ro trong hoạt động ngân hàn”, Tạp chí Phát

Triển & Hội Nhập, Số 9, tập19, trang 29-39.

Phạm Tiến Minh và Bùi Huy Hải Bích 2019, “Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân

hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật

và Quản lý, số 3(SI):SI1-SI13.

Phạm Hải Nam, Huỳnh Thị Tuyết Ngân, Nguyễn Ngọc Tân, Phạm Thị Hồng Nhung và

113

Nguyễn Trần Xuân Linh 2021, “Cấu trúc vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam:

Cách tiếp cận theo phương pháp Bayes”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh

Châu Á, số 32, tập 5, trang 59–80.

Trần Huy Hoàng 2011, “Giáo trình quản trị ngân hàng thương mại”, NXB Lao động xã

hội.

Trần Việt Dũng 2014, “Xác định các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các

ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 16, trang 1-11.

Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Thị Liên Hoa, Nguyễn Thị Ngọc Trang, Nguyễn Thị Uyên

Uyên và Phan Thị Bích Nguyệt 2013, Tài chính doanh nghiệp hiện đại, NXB Thống kê.

Trầm Thị Xuân Hương 2012, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Trường Đại học Kinh

tế Tp. Hồ Chi Minh, Nhà xuất bản Kinh tế.

Tài liệu tham khảo tiếng Anh

Ahmad, R., & Albaity, M. 2019, “The Determinants of Bank Capital for East Asian

Countries”, Global Business Review, vol. 20, no. 6, pp. 1311–1 323

Al-Omari, R. 2021, “The Impact of Capital Structure on Jordanian Banks Performance;

Journal of Social Sciences”, vol. 10, no. 1, pp. 35-47.

https://doi.org/10.25255/jss.2021.10.1.35.47.

Ali, K., Akhtar, M., and Sadaqat, S. 2011, “Practical Implication of Capital Structure

Thesis Theories: Empirical Evidence from the Commercial Banks of Pakistan”,

European Journal of Social Sciences, vol. 23, no. 1, pp. 165-173.

Al-Kayed, L., Zain, S., and Duasa, J. 2014, “The relationship between capital structure

and performance of Islamic banks”, Journal of Islamic Accounting and Business

Research, vol. 5, no. 2, pp. 158-181.

Amalendu Ghosh. 2012, Managing Risks in Commercial and Retail Banking, Jonh

Wiley & Sons Singapore Pre.Ltd.

Anarfo, E. B. (2015, “Determinants of capital structure of banks: Evidence from Sub-

114

Sahara Africa”, Asian Economic and Financial Review, vol. 5, no. 4, pp. 624– 640.

Anarfo, E. B., ND Appiahene, E. 2017, “The Impact of Capital Structure on Banks’

Profitability in Africa”, Journal of Accounting and Finance, vol. 17, no 3, pp. 55-66.

Asika, E. R., Chitom, J. R., and Chelichi, I. F. 2017, “Appraisal of human resource

accounting on profitability of corporate organization”, Economics, vol. 6, no 1, pp. 1-

10. doi: 10.11648/j.eco.20170601.11

Athanasoglou, P., Brissimis, N., and Delis, D. 2008, “Bank-specific, industry-specific

and macroeconomic determinants of bank profitability”, Journal of international

financial Markets, Institutions and Money, vol. 18, no. 2, pp. 121-136.

Awunyo-Vitor, D., and Badu, J. 2012, “Capital structure and performance of listed

banks in Ghana”, Global Journal of Human-Social Science Research, vol. 12, no. 5.

Baldwin, A., and Fellingham, W. 2013, “Bayesian methods for the analysis of small

sample multilevel data with a complex variance structure”, Psychological Methods, vol.

18, pp. 151– 164.

Batten, J., and Vo, X. V. 2019, “Determinants of bank profitability – Evidence from

Vietnam”, Emerging Markets Finance and Trade, vol. 55, no. 1, pp. 1-12.

Basel Committee on Banking Supervision 2010, Basel III: International framework for

liquidity risk measurement, standards and monitoring, Bank for International

Settlements.

Basel 2001, The New Basel Capital Accord: an explanatory note by the Basel Committee

on Banking Supervision, January 2001.

Basel Committee on Banking Supervision 2004, International Convergence of Capital

Measurements and Capital Standards, Bank for International Settlements, Basel.

Berger, A., and Di Patti 2002, “Capital Structure and Firm Performance: A New

115

Approach to Testing Agency Theory and an Application to the Banking Industry”,

Journal of Banking and Finance, vol. 302006, pp. 1065-1102.

Berger, J. O. 1993, Statistical decision theory and Bayesian analysis. Springer. New

York.

Bessler, W., Drobetz, W., Haller, R., and Meier, I. 2013, “The international zero-

leverage phenomenon”, Journal of Corporate Finance, vol. 23, pp. 196-221.

Berlin, M. 2011, Can We Explain Banks' Capital Structure? Business Review, Q2

(2011), Federal Reserve Bank of Philadelphia, pp. 1– 11.

Bhagat, S., Bolton, B., and Lu, J. 2015, “Size, Leverage, and risk-taking of financial

institutions”, Journal of Banking & Finance, vol. 59, pp. 520-537.

Boyd, J.H., and Graham, S.L. 1986, Risk, regulation, and bank holding company

expansion into nonbanking. Quarterly Review - Federal Reserve Bank of Minneapolis

10, pp. 2–17.

Çağlayan and Şak, ̣2010, "The Determinants of Capital Structure: Evidence from the

Turkish Banks", Journal of Money, Investment and Banking, ISSN 1450-288X Issue 15.

Chiaramonte, L. Liu, H. Poli, F. Zhou, M. 2016, “How accurately can Z‐score predict

bank failure?”, Financial Markets, Institutions & Instruments, vol. 25, no. 5, pp. 333–

360.

Demsetz, H. 1973, “Industry structure, market rivalry, and public policy”, The Journal

of Law & Economics, vol. 16, no. 1, pp. 1-9.

Fama, E. F. and French, K. R. 1998, “Value versus Growth: The International

Evidence”, Journal of Finance, vol. 53, pp. 1975-1999. http://dx.doi.org/10.1111/0022-

1082.00080

Fan, J., Titman, S. and Twite, G. 2012, “An International Comparison of Capital

116

Structure and Debt Maturity Choices”, Journal of Financial and Quantitative Analysis,

vol. 47, no. 1, pp. 23-56.

Fauziah, F. Latief, A. and Jamal, S. W. 2020, “The determinants of Islamic banking

capital structure in Indonesia”, Jurnal Ekonomi dan Bisnis Islam, vol. 5, no. 2, pp. 125–

138.

Fitch, T. P. 1997, Dictionary of Banking Terms. Barron's Edutional Series, Inc, 1997.

Gelfand, A. E. Hills, S. E. Racine-Poon, A. and Smith A. F. M. 1990, “Illustration of

Bayesian inference in normal data models using Gibbs sampling”, Journal of the

American Statistical Association, vol. 85, pp. 972– 985.

Gohar, M. and Rehman, M. 2016, “Impact of Capital Structure on Banks Performance:

Empirical Evidence from Pakistan”, Journal of Economics and Sustainable

Development, vol. 7, no. 1, pp. 32-38.

Gropp, R. and Heider, F. 2010, “The Determinants of Bank Capital Structure”, Review

of Finance, vol. 14, pp. 587–622.

Halov, H. Heider, K . and John, K. 2009, “Capital structure and volatility of risk”, SSRN

Electronic Journal.

Hannan, T.H. and Hanweck, G.A. 1988 “Bank insolvency risk and the market for large

certificates of deposit”, Journal of Money, Credit and Banking, vol. 20, pp. 203–211.

Hastings, W. K. 1970, “Monte Carlo sampling methods using Markov chains and their

applications”, Biometrika, vol. 57, pp. 97–109.

Harward, P. and Upton, A. 1953, Introduction to Business Finance. New York, Mc

Graw Hill

Heffeman, S. 2005, Modem banking. John Wiley & Sons Ltd, Chapter 3 and Chapter

7. 101-171 ,351-407.

Hofstrand, D. 2009, Understanding Profitability.

Available at: .

117

[Accessed 1 July 2021]

Hoque, H. and Pour, E. K. 2018, “Bank‐level and country‐level determinants of bank

capital structure and funding sources”, International Journal of Finance & Economics,

vol. 23, no. 4, pp. 504– 532.

Houston, J. F. Lin, C. Lin, P. and Ma, Y. 2010, “Creditor rights, information sharing,

and bank risk taking”, Journal of Financial Economics, vol. 96, no. 3, pp. 485-512.

Jensen, M. and Meckling, W. 1976, “Theory of the firm: Managerial behavior, agency

costs, and ownership structur”, Journal of Financial Economics, vol. 3, no. 4, pp. 305–

360.

Jadah, H. M. Hassan, A. A. Hameed, T. M. and Al-Husainy, N. H. 2020, “The Impact

of the Capital Structure on Iraqi Banks’ Performance”, Investment Management and

Financial Innovations, vol. 17, no. 3, pp. 122-132.

http:// dx.doi.org/10.21511/imfi.17(3).2020.10

Kraus, A. and Litzenberger, R. 1973, “A state-preference model of optimal financial

leverage”, The Journal of Finance, vol. 28, no. 4, pp. 911– 922.

Kreinovich, V. Thach, N. N. Trung, N. D. and Thanh, D. V. 2019, Beyond Traditional

Probabilistic Methods in Economics. Springer, Cham. Doi: 10.1007/978-3-030-04200-

4

Kyereboah-Coleman, A. 2007, “The impact of capital structure on the performance of

microfinance institutions”, The Journal of Risk Finance, vol. 8, no. 1, pp. 56-71.

Laeven, L. and Levine, R. 2009, “Bank governance, regulation and risk taking”, Journal

of Financial Economics, vol. 93, no. 2, pp. 259–275.

Le, D. Q. T. and Nguyen, T. D. 2020, “Capital Structure and Bank Profitability in

Vietnam: A Quantile Regression Approach”, Journal of Risk Financial Management,

vol. 13, pp. 168; doi:10.3390/jrfm13080168

Mariëlle, Z. Peeters, M. Depaoli, S. and van de Schoot, R. 2017, “Where do priors come

118

from? Applying guidelines to construct informative priors in small sample research”,

Research in Human Development, vol. 14, no. 4, pp. 305– 320.

McGuigan, J. R. Kretlow, W. J. and Moyer, R. C. 2006, Contemporary financial

management, Thomson – South Western, 10th ed..

Metropolis, N.,Rosenbluth, A. W. Rosenbluth, M. N. Teller, A. H. and Teller, E. 1953,

“Equation of state calculations by fast computing machines”, Journal of Chemical

Physics, vol. 21, pp. 1087–1092.

Mercan, M. 2021, “Determinant factors influence bank risk-taking: Evidence from

commercial bank of Georgia”, Globalization and Business, vol. 11, pp. 59-65.

https://doi.org/10.35945/gb.2021.11.007

Miller, M. and Rock, K. 1985, “Dividend policy under asymmetric information”, The

Journal of Finance, vol. 40, no. 4, pp. 1031– 1051.

Mishkin, F. S. 2000, The economics of money, banking, and financial markets. 6th

edition, New York: Pearson Education.

Modigliani, F. and Miller, M. 1958, “The cost of capital, corporate finance and the

theory of investment”, The American Economic Review, vol. 48, no. 3, pp. 261– 297.

Modigliani, F. and Miller, M. H. 1963, “Corporate income taxs and the cost of capital:

A correction”, The American economic review, vol. 53, no. 3, pp. 433– 443.

Molla, I. 2020, {Capital Structure and Bank Performance: Empirical Evidence from

Bangladesh”, Asian Journal of Finance & Accounting, vol. 12, no. 1, pp. 161-176.

Muthén, B. O. and Curran, P. J. 1997, “General longitudinal modeling of individual

differences in experimental designs: A latent variable framework for analysis and power

estimation”, Psychological Methods, vol. 2, no. 4, pp. 371–402.

Myers, S. C. 1984, “The capital structure puzzle”, Journal of Finance, vol. 39, pp. 575–

592.

Myers, S. and Majluf, N. 1984, “Corporate financing and investment decisions when

119

firms have information that investors do not have”, Journal of Financial Econmomics,

vol. 13, no. 2, pp. 187– 221.

Modigliani, F. and Miller, M. 1958, “The cost of capital, corporate finance and the

theory of investment”, The American Economic Review, vol. 48, no. 3, pp. 261– 297.

Mishkin, F. S. 2000, The economics of money, banking, and financial markets. 6th

edition, New York: Pearson Education.

Nguyen, Q. A. and Duong, N. T. P. 2020, “The impact of credit risk on the financial

stability of commercial banks in Vietnam”, HCMCOUJS-Economics and Business

Administration, vol. 11, no. 2, pp. 67-80.

Nguyen H. T. Trung N. D. and Thach N. N. 2019, Beyond Traditional Probabilistic

Methods in Econometrics. In: Kreinovich V., Thach N., Trung N., Van Thanh D. (eds)

Beyond Traditional Probabilistic Methods in Economics. ECONVN 2019. Studies in

Computational Intelligence, vol 809. Springer, Cham. https://doi.org/10.1007/978-3-

030-04200-4_1

Nguyen, N. T. 2020, “How to explain when the ES is lower than one? A Bayesian

nonlinear mixed-effects approach”, Journal of Risk and Financial Management, vol. 13,

no. 2, pp. 1–17. https://doi.org/10.3390/jrfm13020021.

Octavia, M. and Brown, R. 2010, “Determinants of bank capital structure in developing

countries: Regulatory capital requirement versus the standard determinants of capital

structure”, Journal of Emerging Markets, vol. 15, no. 1, pp. 50– 62.

Olalekan, A. and Adeyinka, S. 2013, “Capital adequacy and banks’ profitability of

deposit taking: an empirical from Nigeria”, Far East Journal of Psychology and

Business, vol. 13, no. 4, pp. 32-41.

Paramasivan, C. and Subramanian, T. 2008, Financial Management. New Age

International Limited, Publishers. New Delhi

Pratomo, W, A. and Ismail, A. G. 2006, “Islamic bank performance and capital

120

structure”, MPRA paper.

Pricillia, N. 2015, “The risk-taking behaviour of Indonesian banks using SCP

paradigm”, Bina Ekonomi, vol. 19, no. 2, pp. 91-103.

Ross, S. A. Westerfield, R. W. and Jordan, B. D. 2003, Fundamentals of Corporate

Finance. 6th Edn. McGraw-Hill Irwin Publications, New York

Roy, A. D. 1952, “Safety first and the holding of assets”, Econometrica, vol. 20, pp.

431–449

Rocchetti, M. Crescini, A. Borgwardt, S. Caverzasi, E. Politi, P. Atakan, Z. and Fusar-

Poli, P. 2013, “Is cannabis neurotoxic for the healthy brain? A metaanalytical review of

structural brain alterations in non-psychotic users”, Psychiatry and Clinical

Neurosciences, vol. 67, no. 7, pp. 483–492.

Saeed, M/ Gull, A. and Rasheed, M. 2013, “Impact of Capital Structure on Banking

Performance (A Case Study of Pakistan)”, Interdiscilinary Journal of Contemporary

Research in Business, vol 4, no. 10, pp. 5-10

Saif-Alyousfi, A. and Saha, A. 2020, “Determinants of banks’ risk-taking behavior,

stability and profitability: Evidence from GCC countries”, International Journal of

Islamic and Middle Eastern Finance and Management, Emerald Publishing.

Saona, P. 2010, “Capital Structure and Performance in the US Banking Industry” (May

29, 2010). Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=1617830

Sibindi, A. B. 2018, “Determinants of bank capital structure: Evidence from South

Africa”, Œconomica, vol. 14, no. 5, pp. 108– 126.

Sealey, C. and Lindley, J.T. 1977, “Inputs, outputs and a theory of production and cost

at depository financial institution”, Journal of Finance, vol. 32, pp. 1251– 1266.

Smirlock, M. 1985, “Evidence on the (non) relationship between concentration and

121

profitability in banking”, Journal of Money, Credit, and Banking, vol. 17, no. 1, pp. 69-

83.

Svítek M. Kosheleva O. Kreinovich V. and Nguyen T. N. 2019, Why Quantum (Wave

Probability) Models Are a Good Description of Many Non-quantum Complex Systems,

and How to Go Beyond Quantum Models. In: Kreinovich V., Thach N., Trung N., Van

Thanh D. (eds) Beyond Traditional Probabilistic Methods in Economics. ECONVN

2019. Studies in Computational Intelligence, vol 809. Springer, Cham.

https://doi.org/10.1007/978-3-030-04200-4_13

VanHoose, D. 2010, The industrial organization of banking: Bank behavior, market

structure, and regulation. Springer.

van der Lee, J. H. Wesseling, J. Tanck, M. W. T. and Offringa, M. 2008, “Efficient

ways exist to obtain the optimal sample size in clinical trials in rare diseases”, Journal

of Clinical Epidemiology, vol. 61, no. 4, pp. 324–330.

van de Schoot, R. and Depaoli, S. 2014, “Bayesian analysis: Where to start and what to

report”, The European Health Psychologist, vol. 16, no. 2, pp. 75– 84.

Widyastuti, A. Komara, R. and Layyinaturrobaniyah. 2019, “Capital structure and bank

performance”, Jurnal Bisnis dan Manajemen, vol. 20, no. 2, pp. 136-144.

Williams, B. 2014, “Bank risk and national governance in Asia”, Journal of Banking &

Finance, vol. 49, pp. 10–26.

Willett, A. H. 1901, The economic theory of risk and insurance. New York. Columbia

University Press.

122

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: DANH SÁCH CÁC NHTM TRONG MẪU NGHIÊN CỨU TẠI

Đơn vị: Tỷ đồng

THỜI ĐIỂM 31/12/2020

STT

TÊN NGÂN HÀNG

ĐỊA CHỈ

SỐ GIẤY PHÉP NGÀY CẤP

VỐN ĐIỀU LỆ

1 Công thương Việt Nam

48.057 1

108 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội

*142/GP-NHNN ngày 03/7/2009

(Vietnam Joint Stock Commercial Bank of Industry and Trade)

*1340/QĐ-NHNN ngày 20/8/2021

40.220,2

2 Đầu tư và Phát triển Việt Nam

(Joint Stock Commercial Bank for

194 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội

84/GP-NHNN ngày 23/4/2012

Investment and Development of Vietnam)

37.088,8

3 Ngoại Thương Việt Nam

198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội

286/QĐ-NH5 ngày 21/9/1996

(Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam - VCB)

442 Nguyễn Thị Minh

0032/NHGP ngày

4 Á Châu

27.019,5

24/4/1993 ( cấp đổi số

(Asia Commercial Joint Stock Bank - ACB)

Khai, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh

91/GP-NHNN ngày 19/9/2018)

*1180/QĐ-NHNN ngày

8/7/2021 về việc sửa đổi

nội dung về vốn điều lệ tại

Giấy phép thành lập và hoạt động

Tầng 1, 2, 3 Tòa nhà

5.713,1

5 An Bình (ABB)

Geleximco, số 36 Hoàng

120/GP-NHNN ngày 12/12/2018

Cầu, phường Ô Chợ Dừa,

(An Binh Commercial Joint Stock Bank - ABB)

quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

Tầng 1 và Tầng 5, Tòa nhà

6 Bảo Việt (Baoviet bank)

3.150,0

CornerStone, số 16 Phan

328/GP-NHNN ngày 11/12/2018

Bao Viet Joint Stock commercial Bank

Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Toà Nhà HM TOWN, số

7 Bản Việt

3.670,9

(trước đây là Gia Định)

412 đường Nguyễn Thị

0025/ NHGP ngày 22/8/1992

(Viet Capital Commercial Joint Stock Bank - Viet Capital Bank)

Minh Khai, phường 5, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh

*1682/QĐ-NHNN ngày 26/10/2021

8 Bắc Á

7.531,35

117 Quang Trung, TP. Vinh, tỉnh Nghệ An

0052/NHGP ngày 01/9/1994

(BAC A Commercial Joint Stock Bank - Bac A Bank)

183/QĐ-NH5 ngày

1/9/1994 ( cấp đổii số

47/GP-NHNN ngày 16/4/2019)

*1667/QĐ-NHNN ngày

22/10/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

Tòa nhà Capital Tower số

9 Bưu điện Liên Việt

12.035,90

109 Trần Hưng Đạo,

*91/GP-NHNN ngày 28/3/2008

(LienViet Commercial Joint Stock Bank – Lienviet Post Bank - LPB)

*22/QĐ-NHNN ngày

phường Cửa Nam, Quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội.

14/01/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

10 Đại Chúng Việt Nam

9.000,0

Số 22 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội

279/GP-NHNN ngày 16/9/2013

(Public Vietnam Bank - PVcomBank)

11 Đông Nam Á

14.784,88

25 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội

*0051/NHGP ngày 25/3/1994

(Southeast Asia Commercial Joint Stock Bank - Seabank)

*1489/QĐ-NHNN ngày

17/9/2021 về việc sửa đổi

nội dung vốn điều lệ tại Giấy phép

*2078/QĐ-NHNN ngày

24/12/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

Số 54A Nguyễn Chí

12 Hàng Hải

15.275

Thanh, phường Láng

0001/NHGP ngày 08/6/1991

(The Maritime Commercial Joint Stock Bank - MSB)

*1883/QĐ-NHNN ngày

Thượng, Quận Đống Đa, Hà Nội

23/11/2021 (Quyết định

123

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

40-42-44 Phạm Hồng

0056/NH-GP ngày

13 Kiên Long

3.653

18/9/1995

(Kien Long Commercial Joint Stock Bank - KLB)

Thái, TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

2434/QĐ-NHNN ngày 25/12/2006

*2103/QĐ-NHNN ngày

29/12/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

14 Kỹ Thương

35.109,1

(Viet Nam Technological and

191 Bà Triệu, quậnHai Bà Trưng, Hà Nội

*0040/NHGP ngày 06/8/1993

*282/QĐ-NHNN ngày

Commercial Joint Stock Bank - TECHCOMBANK)

9/3/2021 (Quyết định sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

*1695/QĐ-NHNN ngày

27/10/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

201-203 Cách mạng tháng

15 Nam Á

4.564,5

0026/NHGP ngày 22/8/1992

(Nam A Commercial Joint Stock Bank - NAM A BANK)

8, phường 4, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh

16 Phương Đông

13.698,82

41, 45 Lê Duẩn, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh

*0061/ NHGP ngày 13/4/1996

(Orient Commercial Joint Stock Bank - OCB)

*2120/QĐ-NHNN ngày

09/12/2020 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

*1661/QĐ-NHNN ngày

21/10/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

18 Lê Văn Lương, phường

17 Quân Đội

27.987,6

*100/NH-GP ngày 17/10/2018

(Military Commercial Joint Stock Bank - MB)

Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội

*2009/QĐ-NHNN ngày

25/11/2020 (QĐ thay đổi trụ sở chính)

124

* 1913/QĐ-NHNN ngày

9/11/2020 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ);

Tòa nhà Sailing Tower, số

18 Quốc Tế

15.531,4

*95/GP-NHNN ngày 28/9/2018

Vietnam International Commercial Joint Stock Bank - VIB

111A Pasteur, quận 1, TP Hồ Chí Minh

*23/QĐ-NHNN ngày

14/1/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

*1313/QĐ-NHNN ngày

6/8/2021 (Quyết định sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

0057/NHGP ngày

19 Quốc dân

4.101,6

18/9/1995

28C-28D Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

(Đổi tên từ Ngân hàng Nam Việt) (National Citizen bank - NCB)

970/QĐ-NHNN ngày 18/5/2006

19,21,23,25 Nguyễn Huệ

238/GP-NHNN ngày

20 Sài Gòn

15.231,7

26/12/2011 ( cấp đổi

(Sai Gon Commercial Joint Stock Bank - SCB)

Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố HCM

29/GP-NHNN ngày 4/3/2020)

21 Sài Gòn Công Thương

3.080,0

Số 2C Phó Đức Chính, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh

0034/NHGP ngày 04/5/1993

(Saigon Bank for Industry & Trade - SGB)

22 Sài Gòn – Hà Nội

19.260,48

77 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

*115/GP-NHNN ngày 30/11/2018

(Saigon-Hanoi Commercial Joint Stock Bank - SHB)

*957/QĐ-NHNN ngày

7/6/2021 (Quyết định sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

266-268 Nam Kỳ Khởi

*0006/NHGP ngày

23 Sài Gòn Thương Tín

18.852,2

05/12/1991*289/QĐ-

NHNN ngày 10/3/2021

(Saigon Thuong TinCommercial Joint Stock Bank - Sacombank)

Nghĩa, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh

(Quyết định sửa đổi nội

dung địa điểm đặt trụ sở chính)

125

Số 57 Lý Thường Kiệt,

24 Tiên Phong

11.716,7

*123/GP-NHNN ngày 05/5/2008

(TienPhong Commercial Joint Stock Bank - TPB)

phường Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội

*152/QĐ-NHNN ngày

5/2/2021 (Quyết định sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

*1776/QĐ-NHNN ngày

10/11/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

Tầng 4 và 5, Tòa nhà nhà

25 Việt Á

4.449

Samsora Premier, số 105

*55/GP-NHNN ngày 31/5/2019

đường Chu Văn An,

(Viet A Commercial Joint Stock Bank - VIETA Bank)

*Quyết định số 1293/QĐ-

NHNN ngày 02/8/2021

phường Yết Kiêu, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

(Quyết định sửa đổi địa điểm đặt trụ sở chính)

0042/NHGP ngày

26 Việt Nam Thịnh Vượng

45.056,93

(Vietnam Commercial Joint Stock

12/8/1993 ( cấp đổi số

89 Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội

94/GP-NHNN ngày 28/9/2018)

Bank for Private Enterprise - VPBank)

*1786/QĐ-NHNN ngày

15/11/2021 (Quyết định

sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

4.776,8

27 Việt Nam Thương Tín (Viet Nam Thuong Tin

47 Trần Hưng Đạo, TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng

2399/QĐ-NHNN ngày 15/12/2006

*1495/QĐ-NHNN ngày

Commercial Joint Stock Bank - Vietbank)

20/9/2021 (QĐ sửa đổi nội dung vốn điều lệ)

Tầng 16, 23, 24 tòa nhà

0045/NHGP ngày

28 Xăng dầu Petrolimex

3.000,0

MIPEC số 229 Phố Tây

13/11/1993

(Petrolimex Group Commercial Joint Stock Bank - PGBank)

Sơn, phường Ngã Tư Sở, Đống Đa, Hà Nội

125/QĐ-NHNN ngày 12/01/2007

Tầng 8 Tòa nhà Vincom,

29 Xuất Nhập Khẩu

12.355,2

(Viet nam Export Import

số 72 Lê Thánh Tôn và 47

0011/NHGP ngày 06/4/1992

Lý Tự Trọng, phường Bến

Commercial Joint Stock - Eximbank)

Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh

126

25 bis Nguyễn Thị Minh

00019/NH-GP ngày

20.272,9

30 Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (Ho Chi Minh city Development

6/6/1992 (cấp đổi:

Khai, phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Mịnh

Joint Stock Commercial Bank - HDBank)

0026/NH-GP ngày 12/02/2020)

127

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

128

PHỤ LỤC 2: THỐNG KÊ MÔ TẢ VÀ TƯƠNG QUAN

129

130

PHỤ LỤC 3: KẾT QUẢ HỒI QUY

131

132

133

134

135

136

137

138

139

140

141

DANH MỤC CÁC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

STT Tên công trình Mức độ Nơi công bố Năm công

tham gia bố

1 The Impact of capital Đồng tác giả Cogent Business & 2022

structure on bank Management

profitability: Evidence from

Vietnam

2 Impact of Capital Structure Đồng tác giả WSEAS 2022

on Risk-taking of TRANSACTIONS

Vietnamese Commercial on BUSINESS

and ECONOMICS Banks

3 Cấu trúc vốn và lợi nhuận Đồng tác giả Tạp chí Kinh tế và 2022

của các ngân hàng thương Ngân hàng châu Á

mại Việt Nam: Tiếp cận

bằng Bayes

4 Does Internal Control Đồng tác giả Springer 2022

Affect Bank Profitability in

Vietnam? A Bayesian

Approach

5 Cấu trúc vốn của ngân hàng Đồng tác giả Tạp chí Nghiên 2021

thương mại Việt Nam: cách cứu Kinh tế và

tiếp cận theo phương pháp Kinh doanh Châu

Bayes Á

6 Determinants of Bank Đồng tác giả Springer 2021

Liquidity: Evidence from

Vietnam

142

7 Tác động của kiểm soát nội Đồng tác giả Tạp chí Kinh tế và 2020

bộ đến khả năng sinh lời của Ngân hàng châu Á

các ngân hàng thương mại

Việt Nam

8 Mối quan hệ giữa kiểm soát Đồng tác giả Tạp chí Kinh tế và 2020

nội bộ và rủi ro tín dụng của Ngân hàng châu Á

ngân hàng thương mại:

Bằng chứng thực nghiệm tại

Việt Nam