BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HỒNG NHUNG
TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI NHUẬN
VÀ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HỒNG NHUNG
TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI NHUẬN
VÀ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 9.34.02.01
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. ĐOÀN THANH HÀ
2. TS. BÙI ĐAN THANH
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023
i
LỜI CAM ĐOAN
Luận án này chưa từng được trình nộp để lấy học vị Tiến sĩ tại bất cứ một cơ sở đào tạo nào. Luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả. Các số liệu, nội dung nghiên cứu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây, ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn đầy đủ trong luận án.
Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của mình.
TP.HCM, ngày … tháng … năm 2023
Tác giả
Phạm Thị Hồng Nhung
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi trân trọng gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy Cô trường Đại học Ngân
hàng TP. Hồ Chí Minh đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Tôi xin trân trọng xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến giảng viên hướng dẫn luận án - PGS.TS. Đoàn Thanh Hà đã tận tình chỉ bảo và đặt
nền móng, định hướng nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận án này, TS. Bùi Đan
Thanh đã dành nhiều thời gian, tâm huyết hướng dẫn, có những góp ý chi tiết với những
chỉ dẫn khoa học đáng quý và hỗ trợ tôi trong việc công bố các kết quả nghiên cứu của luận
án.
Lời cảm ơn tiếp theo tôi xin được gửi đến Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Ngân
hàng TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt là cô Vũ Thị Thu Hà – Quản lý lớp nghiên cứu sinh đã rất
nhiệt tình hỗ trợ tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập và nghiên cứu của tôi.
Tôi xin gửi lời cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp đã luôn bên cạnh, động viên, hỗ trợ tôi
để tôi có nhiều thời gian cũng như sức khỏe trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
nghiên cứu khoa học này.
Cám ơn những người thân trong gia đình đã luôn bên tôi, sự giúp đỡ của các thành
viên trong gia đình chính là động lực giúp tôi có thể nỗ lực để hoàn thành luận án này.
iii
TÓM TẮT
Luận án được thực hiện nhằm nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và
rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện bằng phương
pháp định tính và định lượng theo phương pháp Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs
nhằm thực hiện mục tiêu nghiên cứu. Sử dụng số liệu được thu thập từ báo cáo tài chính
của 30 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
(i) Tiền gửi của khách hàng (DEP) có xu hướng làm giảm lợi nhuận của các NHTM
tại Việt Nam.
(ii) Nợ phi tiền gửi (NONDEP) có xu hướng làm tăng lợi nhuận của các NHTM tại
Việt Nam.
(iii) Vốn ngân hàng (CAP) có tác động cùng chiều đến lợi nhuận ròng trên tài sản
ROA nhưng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu
ROE.
(iv) Tiền gửi của khách hàng (DEP) có xu hướng làm giảm rủi ro của các NHTM
Việt Nam.
(v) Nợ phi tiền gửi (NONDEP) có có xu hướng làm tăng rủi ro của các NHTM Việt
Nam.
(vi) Vốn ngân hàng (CAP) có xu hướng làm gia tăng rủi ro của các NHTM Việt Nam
Từ các kết quả nghiên cứu của luận án, tác giả đưa ra các kết luận và khuyến nghị
đối với ban lãnh đạo NHTM và các nhà hoạch định chính sách có thể điều chỉnh cấu trúc
vốn ngân hàng theo hướng hợp lý hơn từ đó giúp các NHTM hoạt động kinh doanh ngày
càng hiệu quả và nâng cao sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Từ khóa: ngân hàng thương mại, lợi nhuận, rủi ro.
iv
ABSTRACT
The thesis is conducted to study the impact of capital structure on the profitability
and risk of Vietnamese commercial banks. The research was carried out by qualitative and
quantitative methods by Bayesian method via Gibbs sampling algorithm to achieve the
research objective. Using data collected from financial statements of 30 Vietnamese
commercial banks in the period 2012-2020, the research results show that:
(i) Customer deposits (DEP) tend to reduce profitability of commercial banks in
Vietnam.
(ii) Non-Deposit liabilities (NONDEP) tends to increase profitability of
commercial banks in Vietnam.
(iii) Bank equity (CAP) has a positive effect on net return on assets ROA but has
a negative effect on net return on equity ROE.
(iv) Customer deposits (DEP) tend to reduce the risk of Vietnamese commercial
banks.
(v) Non-Deposit liabilities (NONDEP) tends to increase the risk of Vietnamese
commercial banks.
(vi) Bank capital (CAP) tends to increase the risk of Vietnamese commercial
banks
From the research results of the thesis, the author makes conclusions and
recommendations for the management of commercial banks and policy makers who can
adjust the bank's capital structure in a more reasonable direction, thereby helping
commercial banks operate more efficiently and improve the financial stability of
commercial banks in Vietnam.
Keywords: commercial bank, profitability, risk-taking.
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................................... ii
ABSTRACT ....................................................................................................................... iv
MỤC LỤC ........................................................................................................................... v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................... viii
DANH MỤC BẢNG .......................................................................................................... ix
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................................ x
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ................................................................................................ 1
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................... 1
1.1.1. Bối cảnh nghiên cứu ............................................................................................ 1
1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan và khoảng trống khoa học ........................ 4
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 8
1.2.1 Mục tiêu tổng quát ................................................................................................ 8
1.2.2. Mục tiêu cụ thể .................................................................................................... 8
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ........................................................................................ 9
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................................................ 9
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 9
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 9
1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................................... 10
1.6 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU .................................................................................... 11
1.7 ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN ................................................................................ 12
1.8 KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN .................................................................................... 14
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN
LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............................... 16
2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC VỐN ....................................................... 16
vi
2.1.1 Khái niệm cấu trúc vốn ....................................................................................... 16
2.1.2 Thành phần của cấu trúc vốn .............................................................................. 17
2.1.3 Cấu trúc vốn của ngân hàng thương mại .......................................................... 20
2.1.4 Chỉ tiêu đo lường cấu trúc vốn của ngân hàng thương mại ................................ 22
2.1.5 Các lý thuyết về cấu trúc vốn ............................................................................. 24
2.2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 26
2.2.1 Khái niệm ............................................................................................................ 26
2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của ngân hàng thương mại ............................... 27
2.2.3 Các lý thuyết về lợi nhuận của NHTM ............................................................... 30
2.3 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ........ 31
2.3.1 Khái niệm ............................................................................................................ 31
2.3.2 Đánh giá rủi ro của ngân hàng thương mại ........................................................ 36
2.4 NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .................. 38
2.4.1. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại ........................................................................................... 38
2.4.2. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro của ngân hàng thương mại ................................................................................................. 49
2.5 THẢO LUẬN NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC ............................................... 54
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ................................. 58
3.1 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU ................................................................................ 58
3.2 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 60
3.2.1 Các biến nghiên cứu ........................................................................................... 60
3.2.2 Mô hình nghiên cứu ............................................................................................ 69
3.3 PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG ........................................................................... 70
3.4 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ....................................................................................... 72
3.4.1 Mô tả dữ liệu nghiên cứu .................................................................................... 72
3.4.2 Kiểm định mô hình ............................................................................................. 73
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ....................................... 75
4.1 THỐNG KÊ MÔ TẢ VÀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIẾN ........................... 75
4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................................... 82
vii
4.2.1. Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của các ngân hàng............................ 82
4.2.2. Tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro của ngân hàng ........................................ 92
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI XÂY DỰNG CẤU TRÚC VỐN HỢP LÝ ........................................ 101
5.1 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 101
5.2 CÁC GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG XÂY DỰNG CẤU TRÚC VỐN HỢP LÝ .............................................................................................................. 104
5.2.1 Đối với các ngân hàng thương mại ................................................................... 104
5.2.2 Đối với cơ quan quản lý nhà nước .................................................................... 108
5.3 HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ............ 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 112
PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 122
DANH MỤC CÁC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN141
viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DIỄN GIẢI ĐẦY ĐỦ KÝ HIỆU
VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH
CTV Cấu trúc vốn
Doanh nghiệp DN
ESS Số lượng mẫu hiệu quả Effective Sample Size
FEM Mô hình tác động cố định Fixed Effects Model
Phương pháp bình phương bé Feasible Generalized Least
FGLS nhất tổng quát Squares
GMM Mô hình hồi quy moment tổng quát Generalized Method of Moments
GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product
MCMC Markov Chain Monte Carlo
MTV Một thành viên
NDH Nợ dài hạn
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NIM Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên Net Interest Margin
NHTM Ngân hàng thương mại
OLS Bình phương nhỏ nhất thông Ordinary Least Squares
thường
REM Mô hình tác động ngẫu nhiên Random Effects Model
ROA Lợi nhuận trên tổng tài sản Return on Assets
ROE Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Return on Equity
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
VCSH Vốn chủ sở hữu
ix
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tổng kết các nghiên cứu về các động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của các
ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................................................... 45
Bảng 2.2 Tổng kết các nghiên cứu về các động của cấu trúc vốn đến rủi ro của các ngân
hàng thương mại Việt Nam ................................................................................................ 52
Bảng 3.1 Tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu ...................................... 66
Bảng 3.2 Đo lường các biến sử dụng trong mô hình .......................................................... 67
Bảng 3.3 Các mô hình trong đề tài ..................................................................................... 70
Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong giai đoạn 2012 – 2020 .................... 75
Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo lợi nhuận 80
Bảng 4.3 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo rủi ro ....... 81
Bảng 4.4 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập DEP .................. 82
Bảng 4.5 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập NONDEP ......... 83
Bảng 4.6 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập CAP .................. 83
Bảng 4.7 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập DEP .................. 84
Bảng 4.8 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập NONDEP .......... 84
Bảng 4.9 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập CAP .................. 85
Bảng 4.10 Số lượng mẫu hiệu quả ..................................................................................... 88
Bảng 4.11 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập DEP ............ 92
Bảng 4.12 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập NONDEP.... 93
Bảng 4.13 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập CAP ............ 93
Bảng 4.14 Số lượng mẫu hiệu quả ..................................................................................... 95
x
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................. 12
Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu ........................................................................................... 59
Hình 4.1 Lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020 ........ 76
Hình 4.2 Rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020 .............. 78
Hình 4.3 CTV của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020 ................ 79
Hình 4.4 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA ...................................... 86
Hình 4.5 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE ....................................... 87
Hình 4.6 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến lnZ-score ............................... 95
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Khác với các doanh nghiệp phi tài chính, NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc
biệt là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực khác trong
nền kinh tế, vì vậy ngân hàng trong những năm gần đây càng ngày càng đóng góp vị trí
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. NHTM vừa là người đi vay vừa
là người cho vay, NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi và sử dụng
nguồn vốn này đáp ứng các nhu cầu vốn cho nền kinh tế, phân phối nguồn vốn cho các
ngành nghề sản xuất kinh doanh trong toàn xã hội, chức năng kinh doanh chính của
ngành ngân hàng là chức năng kinh doanh tiền tệ nên hoạt động của ngân hàng đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, sự ổn định hệ thống ngân hàng thương
mại góp một phần lớn vào sự ổn định chung cho cả nền kinh tế. Ngân hàng là bộ máy
trung gian quan trọng giữa huy động và cho vay, giúp dòng tiền trong xã hội vận hành
hiệu quả. Ngoài ra, với chức năng là trung gian thanh toán, quản lý các phương tiện
thanh toán, chức năng tạo tiền (bút tệ), NHTM ngày càng đóng vai trò quan trọng đối
với sự phát triển và thịnh vượng của mỗi quốc gia. Vì vậy, sự ảnh hưởng của ngân hàng
đối với cá nhân và với doanh nghiệp là rất lớn, và nó còn ảnh hưởng tới sự vận hành của
cả nền kinh tế. Ổn định hệ thống tài chính luôn được chính phủ các quốc gia đặc biệt
chú trọng, một hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, hiện đại là tiền đề cho sự phát
triển của mỗi nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế của các
quốc gia trên thế giới, được xem như kênh dẫn vốn linh hoạt và hiệu quả với nguồn vốn
của ngân hàng được tài trợ chủ yếu là từ các nguồn vốn bên ngoài do tổng tài sản được
tài trợ chủ yếu là nợ (Berlin 2011). Như vậy, nghiệp vụ huy động vốn là một trong những
nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất đối với bất kỳ ngân hàng nào, được xem như là yếu
tố đầu vào trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng (Sealey and Lindley 1977). Là
doanh nghiệp đặc biệt và có sức ảnh hưởng lớn đối với kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia,
2
các NHTM luôn nhận được sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước, cũng
như tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về ngân hàng, chẳng hạn như hiệp ước Basel về
lĩnh vực ngân hàng. Do các ngân hàng cho vay và kiếm lợi nhuận dựa trên nguồn tiền
của người khác, là nguồn tiền có độ rủi ro cao vì về cơ bản, việc rút tiền có thể xảy ra
bất cứ lúc nào mà khách hàng cần. Do đó, NHTM sử dụng đòn bẩy cao và tạo ra đòn
bẩy tài chính cho tất các các doanh nghiệp khác (Hoque and Pour 2018). Mặt khác, vốn
của NHTM có vai trò rất quan trọng, được xem là tấm đệm tài chính, giúp giảm thiểu
các rủi ro cũng như các khoản lỗ có thể phát sinh trong tương lai (Ahmad and Albaity
2019). Để đảm bảo các NHTM có đủ vốn, việc vận dụng theo chuẩn mực quốc tế, như
khuôn khổ an toàn vốn có trọng số rủi ro do Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, là
rất quan trọng. Khi các NHTM có nhiều vốn hơn sẽ có thể an toàn hơn nhưng điều đó
lại trái với mong muốn của các nhà quản lý ngân hàng, muốn nắm giữ ít vốn hơn do chi
phí của nguồn vốn này cao hơn so với các nguồn vốn khác (Mishkin 2000). Do đó, đòn
bẩy tài chính của các NHTM cần được quy định bởi cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh
vực ngân hàng và đảm bảo ít có sự biến động lớn về tỷ lệ đòn bẩy giữa các ngân hàng
(Mishkin 2000). Nhưng trên thực tế, mức độ biến động về tỷ lệ đòn bẩy tài chính thường
rất lớn giữa các NHTM, có thể nhận định rằng chưa có một loại hình doanh nghiệp nào
sử dụng tỷ số nợ trên vốn cao như các ngân hàng. Đồng thời, những khó khăn phức tạp
thường xuyên thay đổi của các quy định pháp lý đối với các ngân hàng luôn hiện hữu.
Cũng chính vì lý do đó, hoạt động của ngân hàng cũng chịu sự quản lý chặt chẽ bởi các
quy định pháp lý và trong các nghiên cứu thực nghiệm về cấu trúc vốn thường loại trừ
ngành ngân hàng và các tổ chức tài chính nói chung ra khỏi các mẫu nghiên cứu (Bessler
et al. 2013 Fan et al. 2012; Octavia and Brown 2008) bởi vì quy định tuân thủ vốn quyết
định cấu trúc vốn của ngành này. Một lý do quan trọng khác để loại trừ các ngân hàng
là bảng cân đối kế toán rất khác so với các công ty khác vì thường có tỷ lệ đòn bẩy và
nhận tiền gửi rất cao, vì tính chất đặc biệt của định chế tài chính trung gian này và chức
năng kinh doanh tiền tệ, hơn nữa các khoản nợ của các ngân hàng có vẻ mang tính khác
biệt so với các tổ chức phi tài chính khác (Caglayan and Sak 2010).
Bên cạnh đó, lợi nhuận là một yếu tố quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp
nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng, lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là điều
kiện tồn tại và phát triển của ngành ngân hàng. Khi ngân hàng đạt được mục tiêu lợi
3
nhuận, ngoài việc gia tăng vị thế của mình mà còn tạo nên sự ổn định cho cả nền kinh
tế. Bởi vì, NHTM đang nắm giữ một vai trò quan trọng, là một trung gian tài chính thực
hiện việc điều chuyển nguồn vốn giữa các tầng lớp trong dân cư, sự ổn định hệ thống
NHTM góp một phần lớn vào sự ổn định chung cho cả nền kinh tế. Tuy nhiên, lợi nhuận
và rủi ro có mối quan hệ thuận chiều. Vì vậy, nếu ngân hàng chạy theo mục tiêu lợi
nhuận mà không kiểm soát tốt rủi ro sẽ dẫn đến nợ xấu gia tăng, gây nên những hệ lụy
khó lường. Để đảm bảo NHTM an toàn cho hoạt động kinh doanh trong môi trường
nhiều biến động, quyết định cấu trúc vốn hiện nay là một vấn đề quan trọng không chỉ
trong doanh nghiệp mà còn trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Trong những năm gần
đây, thực trạng hệ thống ngân hàng cho thấy các ngân hàng đang đối diện với tình trạng
mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn và tài sản khi sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay
dài hạn làm gia tăng rủi ro thanh khoản, kéo theo tỷ lệ nợ xấu tăng cao gây ảnh hưởng
đến an toàn cho hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền
kinh tế Việt Nam nói chung. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã cho
thấy vai trò quan trọng của cấu trúc vốn của các doanh nghiệp tài chính nói chung, và
của các ngân hàng thương mại nói riêng, cấu trúc vốn hợp lý không chỉ giúp các ngân
hàng thương mại tối đa hoá lợi nhuận, tiết kiệm chi phí mà còn là tấm đệm trước rủi ro
phá sản khi nền kinh tế có những biến động mạnh.
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào khối ASEAN, khu vực mậu dịch tự do của
ASEAN, ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ, gia nhập vào WTO-
Tổ chức thương mại thế giới, gia nhập Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và
Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) vào cuối năm 2019. Cùng với xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, Việt
Nam đang cố gắng từng bước hòa nhập với xu thế chung mang tính tất yếu của thế giới,
xu thế này cũng tạo ra cho nước ta nhiều cơ hội về giao lưu, học hỏi, ứng dụng những
thành tựu khoa học và đặc biệt đã mở đường cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội
xuất khẩu hàng hóa, giới thiệu sản phẩm của nước mình đến các nước khác trên thế giới,
có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa,… Việc mở cửa ngành ngân hàng cũng
đã đem lại những thay đổi to lớn cho ngành này, giúp cho các ngân hàng trong nước tiếp
nhận các công nghệ ngân hàng hiện đại, các dịch vụ ngân hàng được chuyên nghiệp và
đa dạng hóa. Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM)
4
Việt Nam đã và đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng nước
ngoài vì vậy hiện nay, các ngân hàng đang trong một cuộc chạy đua khốc liệt- cạnh tranh
về vốn, nguồn nhân lực, chất lượng dịch vụ và công nghệ, nhằm gia tăng hiệu quả hoạt
động, gia tăng thị phần, tối đa hóa lợi nhuận, đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam phải có
những thay đổi nhằm khôi phục sự an toàn và ổn định cho hệ thống ngân hàng.
1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan và khoảng trống khoa học
Hiện nay, việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro
của các ngân hàng thương mại đã trở thành chủ đề thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu trên toàn thế giới và có những cách tiếp cận khác nhau đưa đến những
kết luận khác nhau. Cụ thể như sau:
Anarfo (2015) nghiên cứu các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của ngân hàng
tại khu vực Hạ Sahara từ năm 2004 đến năm 2014. Kết quả nghiên cứu chỉ ra các yếu tố
tác động đến cấu trúc vốn của ngân hàng bao gồm lợi nhuận trên tổng tài sản, quy mô
ngân hàng, tài sản hữu hình, tốc độ tăng trưởng, lạm phát.
Fauziah và cộng sự (2020) tìm hiểu các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các
ngân hàng Hồi giáo tại Indonesia trong giai đoạn 2010 – 2018. Kết quả nghiên cứu cho
thấy lợi nhuận trên tổng tài sản, quy mô ngân hàng là các yếu tố tác động đến cấu trúc
vốn của các ngân hàng Hồi giáo tại Indonesia.
Hoque và Pour (2018) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của 347
ngân hàng trên thế giới từ năm 1998 đến năm 2016. Kết quả nghiên cứu chỉ ra các yếu
tố thuộc về đặc điểm ngân hàng là tỷ lệ giá trị sổ sách trên giá trị thị trường, quy mô
ngân hàng, rủi ro tác động thuận chiều đến cấu trúc vốn. Ngược lại, khả năng sinh lời
có tác động nghịch chiều đến cấu trúc vốn của ngân hàng. Đối với các yếu tố thuộc về
đặc điểm quốc gia, bao gồm lợi thế về thuế, bảo hiểm tiền gửi, quyền chủ nợ, luật phá
sản làm tăng tỷ lệ nợ. Trong khi đó, ngân hàng tại các quốc gia sử dụng luật Anh – Mỹ
có xu hướng sử dụng ít nợ hơn.
Nghiên cứu về tác động của CTV đến lợi nhuận của các NHTM tại Mỹ, Berger
và di Patti (2006) chứng minh sự phù hợp của lý thuyết đại diện đối với trường hợp các
5
NHTM tại Mỹ trong giai đoạn 1990 – 1996. Kết quả cho thấy sự tương đồng với lý
thuyết đại diện khi các ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao đạt được lợi nhuận nhiều
hơn.
Trong nghiên cứu của mình, Pratomo và Ismail (2006) cũng tìm cách chứng minh
lý thuyết đại diện trong trường hợp 15 NHTM tại Malaysia trong giai đoạn 1997 – 2004.
Các tác giả đã chứng minh được các ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính cao sẽ đạt lợi
nhuận tốt hơn, phù hợp với lý thuyết đại diện.
Hutchison và Cox (2007) tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa cấu trúc vốn và lợi
nhuận của các NHTM tại Mỹ giai đoạn 1996 – 2002. Tác giả tìm thấy bằng chứng cho
thấy đòn bẩy tài chính làm tăng ROE. Phân tích được mở rộng để xác định mối quan hệ
giữa tỷ suất sinh lợi trên tài sản (ROA) và vốn chủ sở hữu. Bằng chứng ủng hộ giả thuyết
rằng có mối quan hệ thuận chiều giữa vốn tự có và ROA.
Al-Kayed và cộng sự (2014) nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận
của 85 ngân hàng Hồi giáo tại 19 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm 2003 – 2008.
Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi nhuận của ngân hàng nhận tác động dương với tỷ lệ
vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn, quy mô ngân hàng và nhận tác động âm từ chi phí
hoạt động trên tổng tài sản.
Saeed (2013) nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của ngân hàng
tại Pakistan. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ ngắn hạn trên vốn (STDTC), tổng số nợ
trên vốn và quy mô ngân hàng (SIZE) có sự tương quan dương đối với lợi nhuận của
ngân hàng. Ngược lại nợ dài hạn trên vốn (LTDTC) lại có mối tương quan âm với ROA,
ROE, EPS.
Anarfo và Appiahene (2017) nghiên cứu tác động của CTV đến lợi nhuận của
các NHTM tại 37 quốc gia khu vực hạ Sahara. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài
chính làm giảm lợi nhuận của các NHTM khu vực hạ Sahara.
Tại Việt Nam, Trần Việt Dũng (2014) nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi
nhuận của 22 NHTM Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu cho
thấy đòn bẩy tài chính có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM.
6
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy có sự tác động của cấu trúc vốn đến
rủi ro của NHTM. Cụ thể, Pricillia (2015) tìm hiểu các yếu tố tác động đến rủi ro của
các ngân hàng Indonesia. Sử dụng phương pháp hồi quy bình phương tối thiểu 2 giai
đoạn, kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của ngân hàng.
Mercan (2021) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM tại
George giai đoạn 2006 – 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm giảm
rủi ro ngân hàng. Ngược lại, quy mô ngân hàng, dư nợ cho vay có ảnh hưởng tăng rủi
ro của ngân hàng.
Saif-Alyousfi và Saha (2020) thực hiện nghiên cứu nhằm mục đích kiểm tra tác
động của cấu trúc tài chính, ngân hàng cụ thể và các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với rủi ro
và lợi nhuận của các ngân hàng trong các nền kinh tế thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng
Vịnh (GCC) trong giai đoạn 1998 – 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy các ngân hàng
có đòn bẩy tài chính thấp và tỷ lệ tăng trưởng cho vay cao thì rủi ro và lợi nhuận cao
hơn.
Nghiên cứu của Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự (2020) được thực hiện nhằm
đánh giá các yếu tố tác động đến rủi ro của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018.
Sử dụng bộ số liệu của 19 NHTM Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài
chính, NIM làm tăng rủi ro cho ngân hàng.
Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015) nghiên cứu tác động của cấu trúc
vốn và các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 – 2013.
Kết quả cho thấy đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của NHTM.
Như vậy, tổng quan các nghiên cứu cho thấy chiều hướng ảnh hưởng khác nhau
của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Cụ thể, một số nghiên cứu cho thấy đòn
bẩy tài chính có tác động làm tăng lợi nhuận của NHTM (Pratomo and Ismail, 2006;
Berger and di Patti, 2006). Ngược lại, một số nghiên cứu khác lại cho thấy đòn bẩy tài
chính có tác động làm giảm lợi nhuận của NHTM (Anarfo and Appiahene 2017; Trần
Việt Dũng 2014; Al-Kayed et al. 2014). Tương tự như vậy, nhiều nghiên cứu cho thấy
đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của ngân hàng (Pricillia 2015; Bhagat et al. 2015;
7
Nguyen and Duong 2020; Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự 2020; Phạm Tiến Minh và
Bùi Huy Hải Bích 2019; Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng 2015) hoặc làm giảm
rủi ro của ngân hàng (Saif-Alyousfi and Saha 2020; Mercan 2021). Các kết quả khác
nhau có thể là do các nghiên cứu được thực hiện theo không gian, thời gian, phương
pháp tiếp cận khác nhau. Bên cạnh đó, các nghiên cứu sử dụng các chỉ tiêu như vốn chủ
sở hữu trên tổng tài sản, tổng nợ trên tổng tài sản, nợ ngắn hạn trên tổng tài sản, nợ dài
hạn trên tổng tài sản làm đại diện cho CTV của NHTM. Tuy nhiên, các chỉ tiêu như vậy
lại tương tự với các chỉ tiêu phản ánh CTV của các doanh nghiệp phi tài chính. Trong
khi đó, CTV của NHTM có sự khác biệt rất lớn với CTV của doanh nghiệp phi tài chính
(Gropp and Heider 2010; Sibindi 2018).
Mặt khác, về thời gian nghiên cứu, tại Việt Nam có rất ít các nghiên cứu trong
lĩnh vực ngân hàng liên quan đến mảng cấu trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro trong khoảng
thời gian dài nhất là từ giai đoạn khủng hoảng tài chính của nền kinh tế, nghiên cứu này
của tác giả thời gian sẽ kéo dài từ năm 2012 đến năm 2020. Giai đoạn này được lựa chọn
vì đây cũng là giai đoạn thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, đổi mới
hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc
phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế đủ khả năng cạnh tranh với các tổ chức tín
dụng lớn trong khu vực (Chính phủ 2012). Hơn nữa, đây cũng là giai đoạn mà Luật các
tổ chức tín dụng số 17/2017/QH14 sửa đổi bổ sung chính thức có hiệu lực thi hành cho
phép các ngân hàng yếu kém được phép phá sản áp dụng chính thức từ ngày 15/1/2018.
Theo lược khảo của tác giả, trong giai đoạn này tại Việt Nam, có rất nhiều các nghiên
cứu về tác động của cấu trúc vốn đến hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp phi tài chính.
Trong khi đó, nghiên cứu về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro trong
ngành ngân hàng rất ít được các nhà nghiên cứu chú ý đến.
Ngoài ra, về phương pháp nghiên cứu, các nghiên cứu trước đây đều sử dụng
phương pháp tần suất (truyền thống) như FEM, REM, GMM, dẫn đến các kết quả khác
nhau khi đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Phương
pháp tần suất cần có bộ dữ liệu đủ lớn để đưa ra kết luận hợp lý vì cỡ mẫu nhỏ có thể
làm giảm độ chính xác của diễn giải kết quả thống kê (Muthén and Curran 1997). Trong
khi đó, vấn đề cỡ mẫu nhỏ thường xuyên xuất hiện trong các nghiên cứu khoa học do
các yếu tố đặc thù gây cản trở như chi phí hoặc các ràng buộc về đạo đức (Mariëlle et
8
al. 2017; Rocchetti et al. 2013; van der Lee et al. 2008). Phương pháp Bayes khắc phục
được nhiều nhược điểm của phương pháp tần suất vì có thể cho ra kết quả đáng tin cậy
với cỡ mẫu bất kỳ (Baldwin and Fellingham 2013). Vì vậy, phương pháp Bayes là cách
tiếp cận phù hợp trong đề tài này.
Chính vì những lý do về mặt lý luận và thực tiễn như trên cho thấy tính cấp thiết
khi nghiên cứu về tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM Việt Nam.
Kết quả của luận án là cơ sở để giúp các nhà quản trị ngân hàng hoạch định được cấu
trúc vốn phù hợp hơn nhằm đạt được lợi nhuận mục tiêu, bảo vệ sự an toàn của hệ thống
NHTM. Cụ thể là các ngân hàng sử dụng nợ như thế nào là hợp lý, trong điều kiện nào
việc sử dụng và gia tăng vốn vay nợ hay vốn chủ sở hữu sẽ mang lại hiệu quả, giảm
nguy cơ thiệt hại cho ngân hàng. Đây chính là lý do mà tác giả lựa chọn thực hiện đề tài
“Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại
Việt Nam”.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận án là đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi
nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2020.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là một trong những cơ sở quan trọng cho các nhà
hoạch định chính sách và các nhà quản trị của ngân hàng có thể hướng đến một cấu trúc
tài chính hợp lý, để các ngân hàng hoạt động một cách hiệu quả và giảm rủi ro trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng, góp phần xây dựng các chính sách quản trị ngân hàng
phù hợp và bền vững.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể của luận án như sau:
Mục tiêu cụ thể thứ nhất: Luận án sẽ xác định và đo lường tác động của cấu trúc
vốn (CTV) đến lợi nhuận của 30 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn
2012 - 2020.
9
Mục tiêu cụ thể thứ hai: Luận án sẽ xác định và đo lường tác động của cấu trúc
vốn (CTV) đến rủi ro của 30 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2012-
2020.
Mục tiêu cụ thể thứ ba: Xây dựng khung lý thuyết về tác động của cấu trúc vốn
đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất
một số hàm ý chính sách nhằm xây dựng cấu trúc vốn ngân hàng theo hướng hợp lý,
hiệu quả và an toàn trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận án cần trả lời các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Mức độ và chiều hướng tác động của CTV đến lợi nhuận của các
NHTM Việt Nam như thế nào giai đoạn 2012–2020?
Câu hỏi 2: Mức độ và chiều hướng tác động của CTV đến rủi ro của các NHTM
Việt Nam như thế nào giai đoạn 2012–2020?
Câu hỏi 3: Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM được
nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết nào? Những giải pháp nào các ngân hàng thương
mại Việt Nam nên thực hiện nhằm hướng tới một cấu trúc vốn hợp lý hơn để đạt được
hiệu quả và rủi ro ở mức phù hợp?
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam, giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: Luận án thu thập số liệu từ báo cáo tài chính được công bố
hàng năm của 30 NHTM Việt Nam để đánh giá tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi
ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Mẫu nghiên cứu của luận án sẽ loại trừ
và không xem xét các ngân hàng bị hợp nhất, sáp nhập hoặc mua lại, các NHTM TNHH
MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu và các ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt bởi Ngân
10
hàng Nhà nước, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam và ngân hàng liên doanh do không có đầy đủ thông tin dữ liệu, chưa có độ
chính xác cao và chưa đủ độ tin cậy nên tác giả đã loại trừ ra khỏi mẫu nghiên cứu của
mình. Tổng tài sản của 30 NHTM trong mẫu nghiên cứu của luận án chiếm khoảng 86%
tổng tài sản của các NHTM, do đó mẫu nghiên cứu đảm bảo tính đại diện cho các NHTM
tại Việt Nam.
Về mặt thời gian: Luận án nghiên cứu tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro
của ngân hàng thương mại tại Việt Nam được tiến hành trong giai đoạn từ năm 2012
đến năm 2020. Luận án lựa chọn thời gian này vì đây là giai đoạn thực hiện tái cơ cấu,
sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện
đại, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế (Chính phủ, 2012).
1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu của luận án là đánh giá tác động của cấu
trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tác giả đã sử
dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng
với nội dung cụ thể như sau:
- Đối với phương pháp nghiên cứu định tính, luận án sử dụng phương pháp thống kê mô
tả, tổng hợp, so sánh đối chiếu để phân tích, đánh giá thực trạng cấu trúc vốn, lợi nhuận
và rủi ro của các ngân hàng tại Việt Nam.
- Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để đánh giá chiều hướng và mức
độ tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại tại
Việt Nam. Phương pháp hồi quy tuyến tính Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs
được sử dụng trong nghiên cứu. Phương pháp Bayes phù hợp với mô hình dữ liệu dạng
bảng vì kết hợp thông tin tiên nghiệm với bộ dữ liệu thu thập được và khắc phục nhược
điểm của phương pháp truyền thống. Ngoài ra, nghiên cứu thực hiện kiểm định tự tương
quan các chuỗi MCMC của các biến bằng biểu đồ Autocorrelation và Effective sample
size (ESS) nhằm đánh giá suy diễn Bayes là vững.
- Bên cạnh đó, về dữ liệu nghiên cứu, luận án sử dụng số liệu được thu thập từ báo cáo
11
tài chính, báo cáo thường niên của 30 NHTM Việt Nam được công bố hàng năm. Nguồn
dữ liệu kinh tế vĩ mô được tác giả thu thập từ Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam trong khoảng thời gian 9 năm từ năm 2012 đến năm 2020. Luận án nghiên
cứu giai đoạn này vì đây là khoảng thời gian thực hiện cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
tín dụng năm 2011 – 2015 theo quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 của thủ tướng
Chính phủ nhằm tăng cường sự ổn định và lành mạnh cho hệ thống ngân hàng.
- Về phương pháp xử lý số liệu: Từ báo cáo tài chính của 30 NHTM Việt Nam, tác giả
nhập dữ liệu vào phần mềm Excel, áp dụng công thức liên quan để tính toán các chỉ số
là các biến độc lập và phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu. Sau đó, để đo lường mức độ
tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt
Nam, tác giả chuyển các dữ liệu từ Excel sang phần mềm STATA để chạy kiểm định
mô hình và đưa ra kết luận tương ứng.
1.6 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Luận án áp dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để hệ thống nền tảng lý
thuyết và bằng chứng thực nghiệm liên quan để từ đó, tác giả xây dựng phương pháp
nghiên cứu phù hợp của luận án. Phương pháp hồi quy Bayes được sử dụng để đánh giá
tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt
Nam.
12
Thiết kế nghiên cứu
Xác định vấn đề nghiên cứu
Tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu Cơ sở lý thuyết về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM.
Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp định lượng Bayes với mô hình hồi quy đa biến trên dữ liệu bảng nhằm phân tích, đánh giá tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu Kết luận về tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam, chiều hướng tác động. Đề xuất hàm ý chính sách
Hình 1.1 Thiết kế nghiên cứu
1.7 ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Về mặt khoa học luận án có những đóng góp sau:
Thứ nhất, theo lược khảo của tác giả, các nghiên cứu hiện nay tại Việt Nam trong
giai đoạn từ 2012– 2020, các nghiên cứu được thực hiện nhằm đo lường ảnh hưởng của
cấu trúc vốn và các yếu tố khác đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM Việt Nam trong
giai đoạn này rất ít được các nhà nghiên cứu chú ý. Vì vậy, kỳ vọng nghiên cứu này sẽ
cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và
rủi ro của các ngân hàng thương mại tại một quốc gia đang phát triển là Việt Nam, giúp
cho việc xây dựng cơ sở nền tảng cho các nghiên cứu về sau. Ngoài ra, điều này giúp
cho các nhà quản lý nhận diện được vai trò tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và
13
rủi ro của các NHTMCP Việt Nam.
Thứ hai, dựa trên nghiên cứu của Gropp và Heider (2010), Sibindi (2018), luận
án đưa vào mô hình nghiên cứu ba yếu tố đặc thù của CTV NHTM là tỷ lệ tiền gửi khách
hàng trên tổng tài sản, tỷ lệ nợ phi tiền gửi trên tổng tài sản, vốn ngân hàng trên tổng tài
sản do CTV của NHTM có sự khác biệt rất lớn so với CTV của các doanh nghiệp phi
tài chính.
Thứ ba, luận án sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính Bayes thông qua
thuật toán lấy mẫu Gibbs để đánh giá ảnh hưởng của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi
ro của 30 NHTM Việt Nam. Phương pháp Bayes là cách tiếp cận phù hợp trong đề tài
vì dữ liệu bảng (kết hợp giữa dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo). Ngoài ra, nghiên
cứu thực hiện kiểm định tự tương quan các chuỗi MCMC của các biến bằng biểu đồ
Autocorrelation và Effective sample size (ESS) nhằm đánh giá suy diễn Bayes là vững.
Về mặt thực tiễn:
Tại Việt Nam, có rất nhiều các nghiên cứu về tác động của cấu trúc vốn đến hiệu
quả hoạt động các doanh nghiệp phi tài chính. Trong khi đó, nghiên cứu về tác động của
cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro trong ngành ngân hàng rất ít được các nhà nghiên
cứu chú ý đến. Ngoài ra, luận án đưa ra các đề xuất giúp các ngân hàng cân bằng giữa
lợi nhuận và rủi ro, không tăng lợi nhuận quá mức dẫn đến rủi ro cao. Đó chính là lý do
để tác giả sẽ nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM
Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà
quản trị ngân hàng có cái nhìn đầy đủ hơn về cấu trúc vốn của mỗi ngân hàng, đánh giá
được năng lực quản trị nguồn vốn của mình, nhận biết được tác động của cấu trúc vốn
đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng, thấy được tầm quan trọng của việc hoạch
định cấu trúc vốn đối với hiệu quả hoạt động và sự ổn định của các ngân hàng. Từ đó
có thể vận dụng các kiến nghị, giải pháp mà luận án đề xuất cho các nhà quản lý, các
nhà hoạch định chính sách, các nhà quản trị ngân hàng và các nhà đầu tư trong việc ra
quyết định và kiểm soát cấu trúc vốn của NHTM được hợp lý hơn nhằm nâng cao hiệu
quả tài chính và an toàn trong hoạt động của các ngân hàng, là cơ sở để hoàn thiện được
14
một khung chính sách hợp lý trong quá trình quản lý hoạt động của các ngân hàng trong
bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế đặc biệt là hội nhập trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng, góp phần xây dựng hệ thống ngân hàng vững chắc, nền tài
chính vững mạnh và ổn định trong khu vực, đảm bảo tăng trưởng bền vững.
1.8 KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Nội dung của đề tài nghiên cứu bao gồm 5 chương được trình bày theo kết cấu sau:
Chương 1: GIỚI THIỆU.
Nội dung chương này sẽ trình bày các vấn đề tổng quan về đề tài nghiên cứu bao gồm
lý do chọn đề tài, khoảng trống nghiên cứu, mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, đối tượng
và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp mới của nghiên cứu, kết cấu
của đề tài nghiên cứu.
Chương 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI
NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Trong chương này của luận án sẽ trình bày các cơ sở lý thuyết, lược khảo các nghiên
cứu trước. Từ các bài nghiên trong và ngoài nước luận án sẽ làm rõ những khoảng trống
nghiên cứu cần được khai thác thêm.
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU.
Nội dung phần này sẽ trình bày lần lượt về mô hình nghiên cứu, giải thích các biến trong
mô hình và cách thu thập dữ liệu nghiên cứu.
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.
Trong chương này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ gữa cấu
trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam và phân tích các
kết quả hồi quy.
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI XÂY DỰNG CẤU TRÚC VỐN HỢP LÝ.
Dựa vào chương 4 phần này sẽ tổng kết lại bài nghiên cứu, các kết quả đạt được và nêu
đưa ra một số hàm ý chính sách cho các nhà quản lý, nhà quản trị ngân hàng nhằm xây
dựng cấu trúc vốn một cách phù hợp hơn cho ngân hàng, đồng thời đưa ra một số định
hướng để phát triển thêm đề tài.
15
Tóm tắt chương 1
Trong chương 1 của luận án, tác giả đã trình bày lý do để lựa chọn đề tài nghiên
cứu. Ngoài ra, luận án xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu làm căn cứ triển khai
các chương sau. Hơn nữa, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu
cứu của luận án được chỉ ra trên cơ sở bám sát mục tiêu nghiên cứu. Quan trọng hơn,
các điểm mới và đóng góp của luận án về mặt lý luận và thực tiễn cũng đã được trình
bày một cách chi tiết trong chương này. Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu có những
đóng góp nhất định vào việc hoàn thiện khung lý thuyết về cấu trúc vốn, lợi nhuận và
rủi ro của các NHTM, nhằm hoàn thiện cấu trúc vốn hợp lý cho mục tiêu phát triển dài
hạn của các NHTM trong thời gian tới. Ngoài ra, luận án cũng có đóng góp về mặt thực
tiễn đó là đề xuất những khuyến nghị giúp các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà quản
trị ngân hàng có cái nhìn đầy đủ hơn về cấu trúc vốn của mỗi ngân hàng, đánh giá được
năng lực quản trị nguồn vốn của NHTM.
16
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CẤU TRÚC VỐN ĐẾN LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Giới thiệu chương
Trong chương 2 của luận án sẽ trình bày cơ sở lý thuyết về cấu trúc vốn, lợi nhuận
và rủi ro. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trong
và ngoài nước có liên quan làm cơ sở để xây dựng phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
nghiên cứu phù hợp với nội dung của đề tài nghiên cứu.
2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC VỐN
2.1.1 Khái niệm cấu trúc vốn
Cấu trúc là thuật ngữ dùng để đề cập đến các bộ phận cấu thành và mối liên hệ
của chúng trong tổng thể, quá trình vận động tương tác giữa các bộ phận cấu thành qui
định bản chất của tổng thể đó. Đề cập đến bộ phận cấu thành của tổng thể là đề cập đến
vai trò, chức năng của nó trong tổng thể, thể hiện qua tính chất và mức độ tác động của
bộ phận đến tổng thể đó.
Vốn trong DN thể hiện nguồn lực tài chính bên trong của DN bao gồm vốn góp
của chủ sở hữu, từ nguồn lợi nhuận hoạt động để lại của DN và các nguồn lực bên ngoài
từ các nhà đầu tư bên ngoài có thể là nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội, các tổ chức
tín dụng (ngân hàng, quỹ tín dụng,…), các nhà đầu tư tư nhân,…
Theo Myers (1984), cấu trúc vốn được định nghĩa là sự kết hợp giữa nợ phải trả
(nợ ngắn hạn, nợ dài hạn) và vốn chủ sở hữu để hình thành nên toàn bộ nguồn vốn của
doanh nghiệp được sử dụng để tài trợ vốn cho các hoạt động kinh doanh của một doanh
nghiệp.
Theo Ross và cộng sự (2003), cấu trúc vốn của doanh nghiệp hay còn gọi là đòn
bẩy tài chính là sự kết hợp giữa việc sử dụng nợ và vốn chủ sở hữu theo một tỷ lệ nhất
17
định để tài trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong khi đó Mcguigan và cộng sự (2006) định nghĩa cấu trúc vốn là sự kết hợp
giữa nợ ngắn hạn thường xuyên, nợ dài hạn, vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường
được sử dụng để tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Mặt khác, theo Paramasivan và Subramanian (2008), CTV là sự kết hợp giữa
việc sử dụng NDH và VCSH (bao gồm vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường).
Tại Việt Nam, theo Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2013), cấu trúc vốn được định
nghĩa là sự kết hợp của nợ ngắn hạn thường xuyên, nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi và vốn
cổ phần thường được sử dụng để tài trợ cho các quyết định đầu tư của doanh nghiệp.
Nguyễn Minh Kiều (2014) cho rằng, CTV là quan hệ tỷ lệ giữa nợ và VCSH trong tổng
nguồn vốn của doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Khác với các doanh nghiệp phi tài chính, khi nghiên cứu thực trạng cấu trúc vốn
của các NHTM, cho thấy cấu trúc vốn của NHTM có sự khác biệt rất lớn với CTV của
doanh nghiệp phi tài chính (Gropp and Heider 2010; Sibindi 2018). Do đặc thù về cấu
trúc vốn của các NHTM tại Việt Nam, nguồn vốn chủ yếu đến từ việc huy động trong
các tầng lớp dân cư, đi vay và một phần nhỏ đến từ việc góp vốn của các cổ đông, vì
vậy luận án sử dụng khái niệm về cấu trúc vốn của các NHTM theo Gropp và Heider
(2010), phản ánh mối quan hệ giữa nợ phải trả (bao gồm nợ phi tiền gửi và tiền gửi
khách hàng) và vốn cổ phần dùng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh ở một ngân hàng.
2.1.2 Thành phần của cấu trúc vốn
Theo khái niệm cấu trúc vốn, thành phần cơ bản trong cấu trúc vốn gồm 2 bộ
phận chủ yếu là nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Tính chất của hai nguồn vốn này
hoàn toàn khác nhau về trách nhiệm pháp lý của NHTM.
Nguồn vốn chủ sở hữu: Tương tự như những doanh nghiệp khác, VCSH là vốn thuộc
quyền sở hữu của NHTM, do các nhà đầu tư, các sáng lập viên đóng góp vào khi thành
lập và được bổ sung trong quá trình hoạt động, từ vốn góp thêm của chủ sở hữu và từ
kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng (Trầm Thị Xuân Hương 2012). Mặc dù,
VCSH chiếm tỷ trọng không nhiều trong tổng nguồn vốn của NHTM, nhưng tính chất
18
vận động ổn định và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM,
quyết định năng lực tài chính, quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh của NHTM.
Đây không phải là một khoản nợ và do đó NHTM không có trách nhiệm phải thanh toán
và có thể chủ động sử dụng mà không sợ rủi ro thanh khoản. Vốn chủ sở hữu gồm các
thành phần sau:
- Vốn điều lệ: Là số tiền do các thành viên sáng lập đóng góp ban đầu khi thành
lập. Đây chính là số vốn được ghi trong điều lệ NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
nguồn vốn chủ sở hữu và đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
các NHTM. Đối với các NHTM Nhà nước đây chính là vốn do ngân sách Nhà nước cấp
khi mới thành lập. Đối với các NHTM cổ phần, nguồn vốn chủ yếu do các cổ đông đóng
góp dưới hình thức mua cổ phiếu phát hành của NHTM bao gồm cổ phần thường và các
cổ phần ưu đãi. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của NHTM và chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Đây không phải là khoản nợ nên các NHTM
cổ phần được toàn quyền sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải
cam kết và ràng buộc về nghĩa vụ thanh toán. Chính từ đặc điểm này cho thấy mức độ
tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các NHTM cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào
nguồn vốn này, vốn góp cổ phần càng lớn thì mức độ tự chủ về vốn trong hoạt động
kinh doanh càng cao.
- Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Là phần thu nhập của NHTM được cổ
đông đồng ý cho NHTM giữ lại để tái đầu tư thay vì nhận cổ tức. Đây là nguồn vốn rất
chủ động và thuận tiện cho NHTM. Tuy nhiên, NHTM phải cam kết trả cho cổ đông lãi
suất cao hơn cổ tức hiện tại.
- Nguồn vốn từ phát hành thêm cổ phiếu: Các NHTM có thể tăng vốn chủ sở
hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới. Đây chính là kênh huy động vốn rất quan
trọng trong chiến lược tài trợ dài hạn của các NHTM. Các NHTM cổ phần có thể phát
hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán.
Khi phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, các NHTM cổ phần niêm
yết các thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả kinh doanh và các thông tin
khác để nhà đầu tư có thể đánh giá được triển vọng của NHTM trong tương lai. Trong
19
trường hợp không đủ điều kiện phát hành chứng khoán trên thị trường, NHTM có thể
phát hành cổ phiếu trực tiếp cho các cổ đông là những người có quan hệ mật thiết với
NHTM như cán bộ công nhân viên hay là các đối tác thường xuyên của NHTM.
- Vốn chủ sở hữu khác: Bao gồm các nguồn vốn và các quỹ chuyên dùng được
hình thành chủ yếu từ việc phân phối lợi nhuận, bao gồm: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
phòng tài chính, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chênh lệch tỷ giá hối đoái…
Nợ phải trả: Là số vốn vay, vốn chiếm dụng của các tổ chức, cá nhân mà đơn vị có
nghĩa vụ phải thanh toán. Nợ phải trả của NHTM bao gồm: các khoản nợ Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của
khách hàng, các công cụ tài chính phái sinh và các khoản nợ tài chính khác, phát hành
giấy tờ có giá, các khoản nợ khác. Nguồn vốn phải trả của NHTM nhằm đảm bảo cho
ngân hàng luôn có đủ nguồn vốn để duy trì và phát triển một cách có hiệu quả hoạt động
kinh doanh của mình, đồng thời đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thanh khoản ở mức độ
chi phí thấp nhất (Trần Huy Hoàng 2011). Nợ phải trả được phân loại theo thời hạn
thanh toán, gồm có:
- Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ có thời hạn thanh toán dưới 1 năm. Nợ ngắn
hạn thường bao gồm: tiền gửi thanh toán của Kho bạc Nhà nước, các khoản nợ NHNN,
tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác dưới 1 năm, tiền gửi và các khoản phải trả
khách hàng dưới 1 năm, các khoản phải nộp cho cơ quan quản lý nhà nước, các khoản
phải trả cán bộ công nhân viên, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, kỳ phiếu NHTM (Trần Huy
Hoàng 2011; Trầm Thị Xuân Hương 2012).
- Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm. Nợ dài hạn
thường được sử dụng để cho vay và đầu tư dài hạn, bao gồm: tiền gửi và vay các tổ chức
tín dụng khác trên 1 năm, tiền gửi và các khoản phải trả khách hàng kỳ hạn trên 1 năm,
chứng chỉ tiền gửi dài hạn, phát hành trái phiếu dài hạn, vốn nhận từ Chính phủ, các tổ
chức quốc tế và các tổ chức khác (Trần Huy Hoàng 2011; Trầm Thị Xuân Hương 2012).
Tuy nhiên, trong bảng cân đối kế toán của NHTM phần nợ phải trả sẽ không chia
thành nợ phải trả ngắn hạn và nợ phải trả dài hạn giống như trong bảng cân đối kế toán
của doanh nghiệp. Nguyên nhân là do phần lớn nợ phải trả của NHTM đều có thể thực
20
hiện hay thanh toán trong thời gian gần.
Do NHTM là doanh nghiệp đặc biệt, trong đó, nguồn vốn của ngân hàng được
tài trợ chủ yếu là từ các nguồn vốn bên ngoài do tổng tài sản được tài trợ chủ yếu là nợ
(Berlin 2011). Như vậy, nghiệp vụ huy động vốn là một trong những nghiệp vụ cơ bản
và quan trọng nhất đối với bất kỳ ngân hàng nào, được xem như là yếu tố đầu vào trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng (Sealey and Lindley 1977). Trên cơ sở đó, ba chỉ
tiêu quan trọng đo lường CTV của NHTM là tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản, nợ
phi tiền gửi trên tổng tài sản, vốn ngân hàng trên tổng tài sản (Gropp and Heider 2010;
Sibindi 2018).
2.1.3 Cấu trúc vốn của ngân hàng thương mại
Cấu trúc vốn của các ngân hàng về cơ bản khác với CTV của các công ty phi tài
chính vì nó bao gồm tiền gửi, một nguồn tài chính thường không có sẵn cho các công
ty. Hơn nữa, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho các công ty được thực hiện bằng cách
sử dụng nợ dài hạn chia cho tài sản hoặc nợ ngắn hạn chia cho tổng tài sản thay vì tổng
nợ phải trả chia cho tài sản. Do đó, trong luận án này, tác giả phân tách nợ ngân hàng
thành tiền gửi khách hàng và nợ phi tiền gửi. Các khoản nợ không phải là tiền gửi có
thể được coi là có liên quan chặt chẽ đến nợ dài hạn của các ngân hàng. Chúng bao gồm
nợ dài hạn cấp cao, nợ thứ cấp và các giấy nợ khác. Bên cạnh nợ, phần còn lại trong
tổng nguồn vốn của các NHTM là vốn ngân hàng.
Mishkin (2000) cho rằng, vốn ngân hàng được xác định bởi các yêu cầu về vốn
của ngân hàng. Điều này có nghĩa là đòn bẩy ngân hàng phải được xác định theo quy
định và đòn bẩy sẽ ít thay đổi hơn giữa các ngân hàng. Nói cách khác, các lý thuyết tài
chính doanh nghiệp sẽ có nhiều hạn chế trong việc giải thích sự thay đổi sự biến động
của đòn bẩy đối với các ngân hàng. Điều này ngụ ý rằng đòn bẩy ngân hàng cần được
nghiên cứu thêm, vì các quyết định về cơ cấu vốn không chỉ là kết quả của quy định về
vốn (Hoque and Pour 2018). Các ngân hàng có xu hướng nắm giữ mức vốn cao hơn mức
tối thiểu theo quy định do các ngân hàng cần giữ mức đệm vốn vượt quá mức tối thiểu
theo quy định do bị chi phối bởi các lực lượng thị trường trong việc xác định mức đệm
mà các ngân hàng cần duy trì so với yêu cầu vốn tối thiểu. Các ngân hàng cần giữ bộ
đệm vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định để tránh chi phí phát hành vốn cổ phần
21
trong thời gian ngắn. Theo quan điểm vùng đệm tài chính, các ngân hàng có tỷ lệ giá trị
thị trường trên sổ sách, lợi nhuận và cổ tức cao hơn ít có khả năng phải đối mặt với chi
phí phát hành vốn cổ phần cao hơn do danh tiếng tốt hơn, tình trạng tài chính lỏng lẻo
hơn và giá thị trường tốt hơn (Gropp and Heider 2010). Các ngân hàng lớn hơn có xu
hướng sẽ ít sử dụng đòn bẩy hơn vì các ngân hàng đó có nhiều khả năng phát hành vốn
cổ phần với chi phí thấp hơn do danh tiếng và sự tín nhiệm của nhà đầu tư. Ngoài ra,
các ngân hàng lớn hơn có thể có bộ đệm lớn hơn vì chúng phức tạp hơn và do đó có vấn
đề về thông tin bất đối xứng cao hơn. Mối quan hệ giữa rủi ro và đòn bẩy dự kiến là
ngược chiều vì các ngân hàng rủi ro thường có chi phí phát hành vốn cổ phần cao hơn
và do đó, dự kiến sẽ ít sử dụng đòn bẩy hơn. Hoque và Pour (2018) lập luận rằng các
ngân hàng có tài sản thế chấp cao hơn có khả năng có nhiều đòn bẩy hơn vì dự kiến sẽ
có tình trạng thiếu hụt tài chính lớn hơn và ít rủi ro hơn hoặc có được mức giá tốt hơn
và do đó, phải đối mặt với chi phí phát hành vốn cổ phần trong thời gian ngắn thấp hơn.
Để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng và hạn chế các ngân hàng sử dụng
đòn bẩy quá mức làm tăng rủi ro, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng đưa ra hiệp ước
Basel I, với yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% và tốt nhất là trên 10%. Do đó,
các ngân hàng cần duy trì một lượng vốn tối thiểu nhằm bảo vệ người gửi tiền, đáp ứng
khả năng thanh khoản và đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiệp
ước Basel I còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu do sự thay đổi nhanh
chóng của hệ thống ngân hàng. Do đó, hiệp ước Basel II được ban hành nhằm khắc phục
những hạn chế của hiệp ước Basel I. Thay vì chỉ đề cập đến rủi ro tín dụng, trong Basel
II đã tính thêm rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Tiêu chuẩn về tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu (CAR) theo hiệp ước Basel II vẫn là 8% nhưng các ngân hàng cần duy trì lượng
vốn nhiều hơn để đáp ứng tỷ lệ 8%. Nói cách khác, đòn bẩy ngân hàng giảm xuống khi
áp dụng hiệp ước Basel II so với Basel I. Để nâng cao hơn nữa năng lực quản trị rủi ro
của ngân hàng thương mại, hiệp ước Basel III được ban hành với mục tiêu nâng cao hơn
chất lượng vốn của ngân hàng. Tỷ lệ CAR theo Basel III vẫn là 8% nhưng chất lượng
nguồn vốn được yêu cầu cao hơn. Theo đó, tỷ lệ vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên
6% trong Basel III, đồng thời tỷ lệ vốn của cổ đông thường được tăng từ 2% lên 4%. Do
vậy, để đáp ứng tiêu chuẩn Basel III, các ngân hàng cần tăng vốn cốt lõi hơn nữa và điều
đó cũng đồng nghĩa với việc các ngân hàng cần giảm đòn bẩy tài chính để đáp ứng tiêu
22
chuẩn Basel III.
2.1.4 Chỉ tiêu đo lường cấu trúc vốn của ngân hàng thương mại
Có rất nhiều chỉ tiêu phản ánh cấu trúc vốn của ngân hàng. Trong phạm vi của
luận án, tác giả đề cập một số chỉ tiêu phổ biến:
- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (Ali et al. 2011; Saona 2010; Gropp and Heider
2010): Chỉ tiêu này cho biết mức độ tự tài trợ cho tài sản của ngân hàng bằng khoản vốn
chủ sở hữu như thế nào. Mặt khác, chỉ tiêu này cho biết nguồn vốn chủ sở hữu chiếm
bao nhiêu phần trăm trong tổng tài sản của ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính toán theo
công thức lấy tổng vốn chủ sở hữu chia cho tổng tài sản của NHTM.
Chỉ tiêu này được đánh giá là rất quan trọng đối với các NHTM vì lĩnh vực ngân
hàng có sự khác biệt so với các lĩnh vực khác về CTV, trong đó, do đặc thù kinh doanh
trong lĩnh vực ngân hàng nên các ngân hàng huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau
để cấp tín dụng hoặc đầu tư và các danh mục có độ rủi ro khác nhau, với mục tiêu chính
là tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông. Vì vậy, vốn huy động từ bên ngoài, bao gồm huy
động từ các tổ chức và dân cư hay đi vay là nguyên nhân làm cho vốn chủ sở hữu chỉ
chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn của các NHTM. Các ngân hàng sử dụng vốn
huy động do chi phí sử dụng vốn thấp và các NHTM cũng như các doanh nghiệp có thể
nhận được lợi ích từ lá chắn thuế. Tuy nhiên, đó cũng chính là điểm yếu của CTV của
NHTM, có thể gây ra nhiều rủi ro do tỷ lệ nợ quá lớn, chẳng hạn như rủi ro về thanh
khoản của ngân hàng. Mặt khác, vốn chủ sở hữu càng lớn nói lên năng lực tài chính của
các NHTM càng cao, cho thấy khả năng hấp thụ các rủi ro có thể xảy ra như khả năng
thanh khoản của ngân hàng tăng lên, đáp ứng được việc rút tiền của khách hàng bất cứ
lúc nào. Từ đó tạo uy tín đối với người gửi tiền cũng như khả năng hoạt động liên tục
trong một môi trường biến động mạnh. Đây cũng chính là một trong các yếu tố quyết
định đến khả năng hoạt động hiệu quả và tạo ra lợi nhuận của các NHTM.
- Tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu (Halov et al. 2009: Anarfo 2015; Awunyo-Vitor
and Badu 2012): Chỉ tiêu tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu hay còn gọi là đòn bẩy
tài chính cho biết mức độ đảm bảo cho các khoản nợ phải trả bằng vốn chủ sở hữu của
ngân hàng. Hay nói cách khác, chỉ tiêu này cho thấy một đồng nợ của ngân hàng được
23
đảm bảo bằng bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu, đồng nghĩa với việc phản ánh năng lực
tài chính của ngân hàng. Chỉ số này cũng có thể được sử dụng để đo lường mức độ rủi
ro của ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức lấy tổng nợ phải trả của NHTM
chia cho tổng vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản (Jadah et al. 2020; Al-Omari 2021; Sakunasingha et
al. 2018; Anarfo 2015; Lê Thị Tuấn Nghĩa và Phạm Mạnh Hùng 2016; Sibindi 2018;
Phạm Hải Nam và cộng sự, 2021): Chỉ tiêu tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản, cũng được
gọi là đòn bẩy tài chính cho biết trong tổng tài sản của NHTM có bao nhiêu phần trăm
được tài trợ bằng nợ. Như đã phân tích ở trên, CTV của các NHTM có sự khác biệt lớn
so với các doanh nghiệp phi tài chính nên tài sản của các NHTM chủ yếu được tài trợ
bằng nợ. Trong tổng nợ của NHTM có hai thành phần chính là tiền gửi khách hàng và
nợ phi tiền gửi. Trong công thức này, không có sự phân biệt rõ ràng giữa tiền gửi khách
hàng và nợ phi tiền gửi. Do đó, công thức này được tính bằng cách lấy tổng nợ của
NHTM chia cho tổng tài sản.
- Tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản (Gropp and Heider 2010; Sibindi 2018;
Widyastuti et al, 2019): Chỉ tiêu tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản cho biết trong
tổng tài sản của NHTM có bao nhiêu phần trăm được tài trợ bằng tiền gửi khách hàng.
Đối với các NHTM, tài sản được tài trợ chủ yếu bằng nguồn vốn bên ngoài, trong đó
huy động từ tiền gửi khách hàng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Một ngân hàng có uy tín cao, có lịch sử hoạt động lâu đời sẽ nhận được
tín nhiệm từ người gửi tiền và do đó, có thể huy động vốn từ tiền gửi khách hàng dễ
dàng và có chi phí thấp hơn so với các ngân hàng khác. Tiền gửi khách hàng cho biết
khả năng huy động vốn thường xuyên của ngân hàng. Đây là nguồn vốn lớn nhất trong
cơ cấu tổng nguồn vốn của NHTM. Với vai trò là trung gian tín dụng, các ngân hàng
huy động từ người gửi tiền và cho vay những người thiếu tiền, nguồn vốn này đóng vai
trò then chốt giúp ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô, đa dạng
hóa các sản phẩm tín dụng. Khi ngân hàng xây dựng được uy tín, chất lượng sản phẩm,
dịch vụ tốt sẽ thu hút được số lượng lớn người gửi tiền, từ đó giúp ngân hàng cho vay
cũng như tiếp cận khách hàng ở những sản phẩm, dịch vụ khác.
- Tỷ lệ nợ phi tiền gửi trên tổng tài sản (Gropp and Heider 2010; Sibindi 2018): Chỉ tiêu
24
tỷ lệ nợ phi tiền gửi trên tổng tài sản cho biết trong tổng tài sản của NHTM có bao nhiêu
phần trăm được tài trợ bằng nợ phi tiền gửi. Đây là khoản nợ được xem như là có liên
quan chặt chẽ đến nợ dài hạn của ngân hàng, bao gồm nợ dài hạn ưu tiên trước khi thanh
lý (senior long term debt), nợ hạng 2, chứng khoán nợ (Gropp and Heider 2010). Các
ngân hàng huy động nguồn tiền này với chi phí thấp hơn và không thường xuyên so với
các khoản tiền gửi để tài trợ danh mục tín dụng và đầu tư, đáp ứng nhu cầu thanh khoản
của ngân hàng. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn có tính ổn định cao. Vì vậy, ngân hàng sẽ
áp đặt lãi suất cao hơn khi cho vay. Hơn nữa, tương tự như tiền gửi khách hàng, khi
ngân hàng gia tăng nợ phi tiền gửi trong tổng nguồn vốn, đòn bẩy tài chính của ngân
hàng cũng sẽ tăng lên (Gropp and Heider 2010).
Như vậy, dưa trên các công thức trên có thể thấy theo quan điểm thứ nhất, CTV
của NHTM bao gồm nợ và vốn chủ sở hữu. Theo quan điểm này thì CTV của NHTM
không có sự khác biệt so với CTV của các doanh nghiệp phi tài chính. Quan điểm thứ
hai xem xét CTV của NHTM ở phạm vi rộng hơn khi cho rằng CTV của NHTM bao
gồm tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi và vốn chủ sở hữu. Ưu điểm của quan điểm
thứ hai là cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa CTV của NHTM và CTV của doanh nghiệp
phi tài chính. Do đó, trong phạm vi của luận án, tác giả sẽ xem xét CTV của NHTM trên
quan điểm thứ hai, CTV của NHTM bao gồm tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi và
vốn chủ sở hữu.
2.1.5 Các lý thuyết về cấu trúc vốn
Lý thuyết Modigliani-Miller (MM)
Modigliani và Miller (1958) giả định một thị trường hoàn hảo, nơi có thông tin
đối xứng, không phân biệt người bên trong hay bên ngoài doanh nghiệp; chi phí giao
dịch và chi phí phá sản hoặc sai lệch về thuế được loại trừ; các lựa chọn về vốn chủ sở
hữu và nợ trở nên không còn phù hợp, vốn nội bộ và huy động từ bên ngoài có thể được
thay thế. Sau đó, mô hình MM được sửa đổi (Modigliani and Miller 1963), cho rằng cấu
trúc tối ưu xảy ra vì lợi ích lá chắn thuế từ việc tài trợ bằng nợ trên vốn chủ sở hữu.
Fama và French (1998) đã nghiên cứu mô hình thuế của định lý MM và kết luận rằng
các công ty sử dụng nhiều nợ hơn là vốn chủ sở hữu có xu hướng đạt được lợi nhuận
25
cao hơn. Do đó, để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, cần sử dụng nợ nhiều hơn, khi đó
CTV tối ưu là cấu trúc 100% nợ. Đây chính là nhược điểm của lý thuyết này loại bỏ rủi
ro của việc vay nợ vì vấn đề kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp, dẫn đến giá trị của
công ty giảm dần khi chi phí kiệt quệ tài chính tăng lên vượt quá lợi ích thu được từ lá
chắn thuế.
Lý thuyết đánh đổi
Lý thuyết này ban đầu được Modigliani và Miller (1958) đề xuất dựa trên lợi ích
về thuế, chi phí phá sản và chi phí đại diện, trong đó không có chi phí bù đắp của nợ; vì
vậy, các doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng tài trợ bằng nợ trong cấu trúc vốn của họ. Sau
đó, Kraus và Litzenberger (1973) sự đánh đổi giữa chi phí và lợi ích của việc vay nợ
nhằm đưa ra một CTV tối ưu. Trong mô hình này, việc vay nợ có ưu điểm hơn so với
vốn chủ sở hữu do tiền lãi mang lại lợi ích từ việc tránh thuế. Tuy nhiên, việc vay nợ có
thể làm tăng rủi ro tài chính, dẫn đến chi phí tăng lên khi so sánh với tài trợ bằng vốn
chủ sở hữu. Theo lý thuyết cân bằng tĩnh, các nhà quản lý cần phải duy trì mức nợ thích
hợp để giá trị doanh nghiệp đạt được tối đa. Trong nghiên cứu của mình, Myers (1984)
kết luận rằng các doanh nghiệp sẽ xây dựng một CTV mục tiêu dựa trên sự cân bằng
giữa khoản tiết kiệm thuế từ lãi vay và chi phí phá sản, và sau đó, điều chỉnh dần dần
CTV theo hướng mục tiêu đó.
Lý thuyết Trật tự phân hạng
Được xây dựng bởi Myers và Majluf (1984) và Myers (1984), cũng được gọi là
lý thuyết bất đối xứng thông tin. Ý tưởng của lý thuyết này cho rằng, một công ty tuân
theo một trật tự ưu tiên các nguồn tài trợ khác nhau, từ các nguồn bên trong đến bên
ngoài. Lý thuyết dựa trên giả định rằng chi phí lựa chọn bất lợi là kết quả của rủi ro từ
việc huy động vốn từ bên ngoài do thông tin không cân xứng, sự lạc quan của nhà quản
lý hoặc cả hai. Để giảm thiểu chi phí lựa chọn bất lợi, các doanh nghiệp ưa thích tài trợ
vốn từ các nguồn vốn bên trong trước tiên, sau đó mới tới các nguồn vốn từ bên ngoài.
Nếu cần nguồn vốn bên ngoài, ưu tiên đầu tiên của họ là phát hành nợ và sau đó là một
lựa chọn ít được ưa chuộng hơn, phát hành chứng khoán hỗn hợp như nợ thứ cấp, và sau
26
đó là cổ phần như một nguồn lực cuối cùng.
Lý thuyết Đại diện
Sự lựa chọn cấu trúc vốn xảy ra do vấn đề thông tin bất cân xứng giữa các nhà
điều hành công ty và cổ đông (Miller and Rock 1985). Theo Jensen và Meckling (1976),
cấu trúc vốn tối ưu có được bằng cách đánh đổi chi phí quản lý của nợ với lợi ích của
nợ. Chi phí đại diện (Agency cost) đề cập đến chi phí phát sinh khi có xung đột giữa các
nhà điều hành, trái chủ, và chủ sở hữu công ty. Jensen và Meckling (1976) cho rằng việc
phát hành thêm nợ có thể dẫn đến xung đột giữa chủ sở hữu công ty (thông qua các nhà
điều hành) và các trái chủ, vì các nhà điều hành có thể phân bổ vốn vào các dự án có
nhiều rủi ro, mang lại lợi nhuận cao cho cổ đông, nhưng làm tăng chi phí thất bại cho
các trái chủ, bởi vì trách nhiệm hữu hạn của cổ đông. Mặt khác, nếu vốn cổ phần được
phát hành nhiều hơn có thể dẫn đến xung đột giữa cổ đông và ban lãnh đạo do dòng tiền
tự do ở mức cao. Các nhà điều hành có thể chọn các thương vụ đầu tư ngắn hạn hơn là
các thương vụ đầu tư dài hạn do kết quả có thể đến sớm và nâng cao danh tiếng của họ
một cách nhanh chóng. Các nhà điều hành có thể lựa chọn các khoản đầu tư ít rủi ro hơn
và mức nợ thấp hơn để giảm nguy cơ dẫn đến việc phá sản và điều này có thể đi ngược
lại với mong muốn của cổ đông trong việc gia tăng giá trị của công ty một cách tối đa
(Jensen and Meckling 1976).
2.2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.2.1 Khái niệm
NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng và dịch vụ thanh toán, có liên quan trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực kinh
tế cũng như các mặt của đời sống xã hội. Thêm nữa, lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng luôn
rất nhạy cảm, đòi hỏi sự thận trọng trong điều hành hoạt động để tránh những hậu quả
khó lường có thể xảy ra. Dù là doanh nghiệp đặc biệt, mục tiêu hoạt động của NHTM
cũng là tạo ra lợi nhuận để có thể tích lũy vốn và phát triển quy mô cũng như tăng cường
khả năng cạnh tranh và bảo đảm sự an toàn trong hoạt động ngân hàng. Trong đó, lợi
nhuận là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM. Hofstrand
(2009) cho rằng, lợi nhuận là mục tiêu chính của tất cả các dự án kinh doanh. Nếu không
27
có lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ không tồn tại trong thời gian dài. Vì vậy, việc đo lường
lợi nhuận hiện tại và quá khứ và dự đoán lợi nhuận trong tương lai là rất quan trọng. Gia
tăng lợi nhuận của doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ban lãnh
đạo doanh nghiệp.
Theo Asika và cộng sự (2017), lợi nhuận có nghĩa là khả năng tạo ra lợi nhuận
từ tất cả các hoạt động kinh doanh của một tổ chức, doanh nghiệp. Điều này cho thấy
ban quản lý có thể tạo ra lợi nhuận hiệu quả như thế nào bằng cách sử dụng tất cả các
nguồn lực sẵn có trên thị trường. Còn theo Harward và Upton (1953), lợi nhuận là khả
năng của một khoản đầu tư nhất định thu được lợi nhuận từ việc đầu tư.
Olalekan và Adeyinka (2013) cho rằng, lợi nhuận của NHTM là khả năng tạo ra
lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
Như vậy, lợi nhuận phản ánh mức độ tạo ra lợi nhuận từ việc sử dụng các nguồn
lực sẵn có của ngân hàng, từ tài sản vật chất đến tài sản tài chính hay con người mà ngân
hàng đang nắm giữ để tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận là nền tảng quan trọng giúp các ngân
hàng tăng cường năng lực tài chính, công nghệ, mở rộng thị trường, từ đó đạt hiệu quả
kinh doanh cao. Trong chừng mực nào đó, hiệu quả kinh doanh lại quyết định lợi nhuận
của NHTM. Nếu các yếu tố khác không đổi, một ngân hàng có hiệu quả kinh doanh cao
hơn thì có lợi nhuận tốt hơn và ngược lại. Do đó lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của
NHTM có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của ngân hàng thương mại
Để đánh giá lợi nhuận của NHTM, các tỷ số cơ bản được sử dụng là ROA, ROE,
NIM (Nguyễn Minh Kiều 2009).
Thứ nhất, Tỷ số lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA-Return on Assets)
Theo Nguyễn Minh Kiều (2009), tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản là chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả công tác quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính của các NHTM để tạo ra
lợi nhuận, phản ánh nhà quản trị ngân hàng có quản trị tài sản tốt hay không, tài sản của
một ngân hàng được sử dụng như thế nào để tạo ra lợi nhuận, chỉ tiêu này được tính
28
bằng lợi nhuận ròng trên tổng tài sản. Trong đó, lợi nhuận sau thuế được lấy từ báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, tổng tài sản hay vốn chủ sở hữu được lấy từ bảng cân đối
kế toán của ngân hàng. Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản thể hiện lợi nhuận được tạo ra
trên mỗi đồng tài sản, phản ánh khả năng quản trị và sử dụng tài sản của ngân hàng để
tạo ra lợi nhuận. ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ
lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản). Tài sản của một ngân hàng được hình thành từ
vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt
động của ngân hàng. Khi mức ROA cao phản ánh kết quả của hoạt động kinh doanh
hiệu quả, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý với chính sách đầu tư hay cho vay tốt, có
sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản trước những biến động của nền
kinh tế. Ngược lại, ROA thấp thể hiện hoạt động kinh doanh tài sản không hợp lý hoặc
thu nhập lãi thuần từ hoạt động kinh doanh trên tổng doanh thu thấp dẫn đến tỷ suất sinh
lợi trên doanh thu thấp, có thể là kết quả của một chính sách đầu tư hay cho vay không
năng động hoặc có thể chi phí hoạt động của ngân hàng quá mức. Nhược điểm của ROA
là không phản ánh các hoạt động ngoại bảng, đôi khi chiếm một tỷ trọng rất lớn trong
hoạt động ngân hàng. ROA được tính theo công thức:
Lợi nhuận sau thuế ROA= Tổng tài sản
Thứ hai, Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity - ROE)
Tỷ số này đo lường mức độ sinh lời của vốn chủ sở hữu, chỉ tiêu này cho biết 1
đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu lợi nhuận ròng cho ngân hàng (Nguyễn Minh Kiều
2009). Chỉ tiêu này được sử dụng rất phổ biến trong phân tích hiệu quả hoạt động kinh
doanh nhằm phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. ROE đo lường tỷ lệ thu nhập
cho các cổ đông của ngân hàng, tỷ lệ này thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được
từ việc đầu tư vốn vào ngân hàng. Do đó, hầu hết các cổ đông hoặc các nhà đầu tư rất
quan tâm đến tỷ số này bởi nó gắn với lợi nhuận mà họ có thể nhận được, ROE thường
được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường
với mục đích tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu đầu tư, đây là chỉ tiêu quan tâm
hàng đầu của các cổ đông khi mục tiêu của họ là lợi nhuận. Chỉ tiêu này được sử dụng
rất phổ biến trong phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh nhằm phản ánh hiệu quả sử
29
dụng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, nhược điểm của hệ số ROE là chịu ảnh hưởng từ đòn
bẩy tài chính và tác động của các quy định về đòn bẩy tài chính. Điều này làm cho những
ngân hàng nào có xu hướng vay nợ cao hơn thì thường có tỷ suất sinh lợi cao hơn các
ngân hàng sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu. ROE được tính theo công thức:
Lợi nhuận sau thuế ROE= Vốn chủ sở hữu
Ngoài ROA, ROE là các chỉ tiêu chủ yếu đo lường hiệu quả hoạt động còn có hệ số
chênh lệch lãi thuần còn gọi là Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (Net interest Margin -
NIM)
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi
mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời
và theo đuổi các ngồn vốn có chi phí thấp (Nguyễn Minh Kiều 2009). Hệ số lãi ròng
biên tế được các nhà quản trị ngân hàng quan tâm theo dõi vì tỷ lệ này giúp ngân hàng
dự báo khả năng sinh lãi của ngân hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh
lời và việc tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Tỷ lệ NIM cao là một dấu
hiệu quan trọng cho thấy ngân hàng đang thành công trong việc quản lý tài sản và nợ.
Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ tài sản sinh lời của ngân hàng có mức sinh lời
không cao hoặc ngân hàng đã huy động nguồn vốn với lãi suất cao nên mức chênh lệch
ngày càng thấp, dẫn đến ngân hàng gặp khó khăn trong việc tạo lợi nhuận. Mức lãi ròng
biên tốt là chỉ dẫn về: thu nhập từ khoản cho vay tốt, tỷ lệ chi phí thấp, hiệu quả sử dụng
tài sản và khả năng thu được lợi nhuận từ nguồn vốn. Tỷ số này được tính theo công
thức:
Thu nhập từ lãi-Chi phí trả lãi NIM= Tổng tài sản có sinh lãi
Trong phạm vi của luận án, tác giả giới hạn sử dụng 2 chỉ tiêu là ROA và ROE
để đánh giá hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam vì ROA cung cấp thông tin
cho nhiều đối tượng như chủ sở hữu và nhà đầu tư, hoặc các cơ quan quản lý muốn xếp
hạng, so sánh hiệu quả hoạt động giữa các ngân hàng thương mại. Trong đó, tỷ số ROE
được chủ sở hữu đặc biệt quan tâm nhất. Trong khi đó, hạn chế của tỷ số NIM là chỉ đo
30
lường được dựa trên hoạt động tín dụng của ngân hàng mà không đánh giá được thu
nhập từ những hoạt động khác của ngân hàng.
2.2.3 Các lý thuyết về lợi nhuận của NHTM
Các nghiên cứu về lợi nhuận của ngân hàng dựa trên 2 lý thuyết: lý thuyết quyền
lực thị trường (MP – market power) và lý thuyết cấu trúc – hiệu quả (ES - efficient
structure).
Lý thuyết quyền lực thị trường
Lý thuyết quyền lực thị trường (MP – market power) có hai hướng tiếp cận chính:
lý thuyết Cấu trúc-Hành vi-Hiệu quả (SCP, Structure-Conduct-Performance) và lý
thuyết quyền lực thị trường tương đối (RMP – Relative market power). Lý thuyết SCP
vẫn là giả thuyết nổi bật trong số các lý thuyết cho rằng liên hệ sức mạnh thị trường với
lợi nhuận của NHTM (Athanasoglou et al. 2008; Van Hoose 2010). Mô hình SCP được
phát triển bởi Bain (1951). Lý thuyết này cho rằng trong một thị trường có mức độ tập
trung cao hơn, các ngân hàng có khả năng thao túng thị trường và hành vi độc quyền sẽ
làm tăng lợi nhuận. Mô hình SCP giả định rằng một hệ thống tập trung hơn dẫn đến ít
cạnh tranh hơn và do đó mang lại lợi nhuận cao hơn. Một trường hợp đặc biệt của lý
thuyết MP là lý thuyết sức mạnh thị trường tương đối (RMP), được đề xuất bởi Smirlock
(1985). Smirlock (1985) cho rằng không có mối quan hệ nào giữa mức độ tập trung và
lợi nhuận, nhưng đúng hơn là giữa thị phần ngân hàng và lợi nhuận của ngân hàng và
đề xuất rằng chỉ những ngân hàng có thị phần lớn và sản phẩm khác biệt tốt mới có thể
thực hiện quyền lực thị trường và kiếm được lợi nhuận phi cạnh tranh.
Lý thuyết cấu trúc-hiệu quả
Lý thuyết cấu trúc hiệu quả (ES) được phát triển bởi Demsetz (1973). Lý thuyết
ES cho rằng nếu các ngân hàng đạt được mức độ hiệu quả cao hơn so với các đối thủ
cạnh tranh có thể tăng giá trị của cổ đông hoặc giành được thị phần bằng cách giảm giá
sản phẩm, dịch vụ. Theo ES, các thị trường tập trung là những nơi mà các ngân hàng
hoạt động hiệu quả cao. Hiệu quả không phải là hiệu ứng mà là yếu tố quyết định cấu
trúc thị trường. Phiên bản hiệu quả X của giả thuyết ES gợi ý rằng việc tăng cường quản
31
lý và hiệu quả quy mô dẫn đến sự tập trung cao hơn và do đó, lợi nhuận cao hơn.
Như vậy, có thể thấy lý thuyết quyền lực thị trường (MP – market power) cho
rằng, lợi nhuận của ngân hàng là một hàm theo yếu tố thị trường, trong khi lý thuyết cấu
trúc hiệu quả (ES - efficient structure) cho rằng hiệu quả của ngân hàng chịu ảnh hưởng
của hiệu quả nội bộ và các quyết định quản trị, tức là các yếu tố bên trong.
2.3 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.3.1 Khái niệm
Theo Basel II (2004), ba nhóm rủi ro quan trọng tại một ngân hàng bao gồm rủi
ro tín dụng (Credit Risk), rủi ro hoạt động (Operational Risk) và rủi ro thị trường (Market
Risk). Rủi ro ngân hàng được xem là những biến cố không mong đợi có thể xảy ra đối
với ngân hàng dẫn đến sự thiệt hại, mất mát về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi
nhuận thực tế so với dự kiến. Trong thực tế, các nhà quản trị ngân hàng sẽ không thể loại
trừ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện để kịp thời đưa ra các biện pháp chủ động xử lý
nhằm hạn chế những nguy hại do rủi ro gây ra. Theo Willett (1901), rủi ro là một sự bất
trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi. Còn theo Uỷ ban
Basel về giám sát ngân hàng (2010), các rủi ro chính mà một ngân hàng có thể đối mặt
bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, và rủi ro thanh khoản. Ngoài
ra, theo Amalendu Ghosh (2012) thì rủi ro trong ngân hàng là tổn thất không biết trước
mà ngân hàng gặp phải do một hoặc một số sự kiện xảy ra. Rủi ro phát sinh do sự xảy
ra không chắc chắn của các sự kiện liên quan mà sự kiện này có nguy cơ gây ra thiệt hại
cho ngân hàng.
Rủi ro hoạt động
Theo Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (2004) rủi ro hoạt động được hiểu là
rủi ro tổn thất do các quy trình không đầy đủ hoặc có sai sót, do yếu tố con người và do
lỗi vận hành hệ thống nội bộ không hiệu quả hoặc do các yếu tố bên ngoài làm tổn thất
về tài chính. Các nguyên nhân chính gây ra rủi ro hoạt động:
Rủi ro do sự cố con người là rủi ro liên quan đến nhân viên ngân hàng phát sinh
từ sự thiếu chuyên môn nghiệp vụ, sự gian lận, sự không tuân thủ những quy trình và
32
chính sách hiện hành.
Rủi ro quy trình do những thủ tục và biện pháp kiểm soát báo cáo, theo dõi và
quyết định không phù hợp, những thủ tục xử lý thông tin chưa hợp lý. Ví dụ như sai sót
trong trường hợp ghi chép giao dịch hoặc kiểm tra tài liệu pháp lý, những rủi ro không
được phát hiện vượt qua giới hạn, sự thiếu sót, yếu kém trong quản lý theo dõi rủi ro...
Rủi ro hệ thống là rủi ro do phần mềm vận hành không phù hợp với thực tế, lỗ
hổng về an ninh trong hệ thống thông tin, lỗi quy trình nội bộ để truyền dữ liệu và thông
tin chính xác, sự can thiệp và lỗi của con người hoặc trong trường hợp khi hệ thống hỗ
trợ bên trong ngừng hoạt động. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, các ngân hàng ngày
càng áp dụng nhiều hơn các công nghệ tiên tiến, hiện đại vào hoạt động kinh doanh
nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, điều đó cũng làm cho các
ngân hàng ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào công nghệ, và như vậy rủi ro về công
nghệ cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngân hàng.
Rủi ro các yếu tố bên ngoài do sự kiện khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của
ngân hàng cũng góp phần gây ra rủi ro hoạt động như: thay đổi khung pháp lý, chính
sách thay đổi, các hành vi lừa đảo, trộm cắp hoặc phạm tội của các đối tượng bên ngoài,
các sự kiện bất khả kháng (chiến tranh, thiên tai…) cũng có thể tạo ra hoặc làm tăng
thêm rủi ro trong ngân hàng.
Tất cả các ngân hàng đều phải đối mặt với rủi ro hoạt động trong các hoạt động
hàng ngày trên tất cả các bộ phận của họ bao gồm ngân quỹ, tín dụng, đầu tư, công nghệ
thông tin. Rủi ro hoạt động không chỉ gây thiệt hại cho ngân hàng về mặt tài chính mà
còn gây ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, con người và thương hiệu. Theo Basel II, sự kiện
rủi ro hoạt động xảy ra sẽ ảnh hưởng về mặt tài chính và phi tài chính của ngân hàng tùy
thuộc vào mức độ và tần suất xảy ra của sự kiện rủi ro hoạt động đó. Mức độ ảnh hưởng
có thể xảy ra từ các sự kiện rủi ro hoạt động đó là: trách nhiệm pháp lý, tổn thất hoặc hư
hỏng tài sản, bồi thường vật chất, mất nguồn viện trợ, làm giảm giá trị tài sản làm ảnh
hưởng đến danh tiếng và làm chậm lại hoạt động nghiệp vụ của NHTM.
33
Rủi ro tín dụng
Theo Fitch (1997), rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh
toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng là nguyên nhân dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ
trả nợ. Còn theo Ủy ban giám sát Basel (2001) thì rủi ro tín dụng là khả năng mà người
đi vay hoặc đối tác của ngân hàng thất bại trong việc thực hiện theo các điều khoản trả
nợ đã thỏa thuận. Theo quy định tại thông tư số 13/2018/TT-NHNN của NHNN Việt
Nam ngày 18/05/2018, rủi ro tín dụng được xem là rủi ro mà các dòng tiền đã cam kết
từ các khoản cho vay và chứng khoán do ngân hàng nắm giữ có thể không được thanh
toán đầy đủ và đúng hạn, dẫn đến khả năng phá sản ngân hàng. Ngoài ra, rủi ro tín dụng
được xem là khả năng xảy ra tổn thất liên quan đến sự suy giảm năng lực thực hiện các
cam kết tín dụng không chỉ xuất phát từ người đi vay mà còn phát sinh từ các đối tác
kinh doanh. Đây là các cá nhân, tổ chức có quan hệ giao dịch kinh doanh thông qua các
hợp đồng giao dịch với NHTM. Theo đó, rủi ro tín dụng được phân thành hai nhóm, bao
gồm rủi ro tín dụng đến từ khách hàng và rủi ro tín dụng đến từ đối tác của NHTM.
Rủi ro tín dụng đến từ khách hàng phát sinh do khách hàng vay không thực hiện
đúng các điều khoản của hợp đồng tín dụng (không thể chi trả tiền lãi, chậm trả nợ, trả
nợ không đủ hoặc không trả nợ) khi đến hạn, gây ra những tổn thất về tài chính và khó
khăn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng đến từ đối tác là rủi ro do đối tác của NHTM không thực hiện
hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ thanh toán trước
hoặc khi đến hạn của các giao dịch kinh tế, bao gồm giao dịch tự doanh, giao dịch mua
lại, giao dịch sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro và các giao dịch mua bán ngoại
tệ, tài sản tài chính khác.
Như vậy có thể kết luận rằng, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng và đối tác không thực hiện
hoặc không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ của mình theo các điều khoản đã thỏa
thuận. Đây được coi là rủi ro đáng kể nhất trong hoạt động ngân hàng và là nguyên nhân
chính của các vụ phá sản ngân hàng.
34
Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường là rủi ro xảy ra đối với ngân hàng khi mà thị trường có những
biến động và thay đổi ngược chiều so với dự đoán của ngân hàng. Đây là rủi ro tổn thất
ở các vị thế nội bảng hoặc ngoại bảng cân đối kế toán phát sinh từ sự biến động của thị
trường chứng khoán, lãi suất, tỷ giá hối đoái hay giá cả hàng hoá. Rủi ro thị trường bắt
nguồn từ sự không thể đoán trước của thị trường chứng khoán (rủi ro giá cổ phiếu), giá
cả hàng hóa (rủi ro hàng hoá), lãi suất (rủi ro lãi suất) và ngoại hối (rủi ro tỷ giá). Các
ngân hàng không thể tác động làm thay đổi các yếu tố này mà chỉ có thể dự báo xu
hướng, tính toán mức độ ảnh hưởng để từ đó đưa ra các biện pháp chủ động điều chỉnh
quy mô, cơ cấu tài sản có, sao cho hạn chế thấp nhất tổn thất có thể xảy ra thông qua
việc kết hợp mô hình hiện đại trong việc ước lượng rủi ro lãi suất và sử dụng linh hoạt
các công cụ tài chính phái sinh. Các ngân hàng chịu nhiều rủi ro hơn nếu họ tham gia
nhiều vào việc đầu tư vào các thị trường khác nhau.
Bên cạnh những loại rủi ro trên, NHTM còn phải đối mặt với rủi ro thanh khoản và rủi
ro lãi suất.
Rủi ro thanh khoản
Hoạt động của các ngân hàng trong lĩnh vực chuyển đổi nguồn vốn và kỳ hạn là
cơ sở để tạo ra rủi ro thanh khoản. Sự không phù hợp giữa kỳ hạn của tài sản có và tài
sản nợ, cả trên bảng cân đối kế toán và ngoài bảng cân đối kế toán, tạo thành khoảng
cách chênh lệch tạo thành rủi ro cấu trúc. Rủi ro này được xác định bởi đặc điểm của
các nguồn tài trợ, ngắn hạn hoặc trung hạn, so với cho vay dài hạn. Kết quả là, các ngân
hàng buộc phải liên tục luân chuyển các nguồn tài trợ ngắn hạn hoặc trung hạn trên bảng
cân đối kế toán, để phù hợp với thời gian đáo hạn của tài sản. Rủi ro thanh khoản là một
trong những rủi ro nghiêm trọng nhất mà các ngân hàng gặp phải. Việc quản lý thanh
khoản phù hợp có thể giảm thiểu khả năng xảy ra các vấn đề nghiêm trọng trong tương
lai. Trên thực tế, vấn đề thanh khoản không chỉ giới hạn ở một ngân hàng. Tỷ lệ thanh
khoản thấp trong một tổ chức tài chính có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Rủi ro
thanh khoản có thể đóng vai trò quyết định trong trường hợp ngân hàng phá sản. Trong
thời kỳ suy thoái kinh tế, khả năng thanh khoản của ngân hàng là sự đảm bảo cho sự ổn
định tài chính của ngân hàng. Tính thanh khoản là khả năng ngân hàng tài trợ cho việc
35
gia tăng tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ khi đến hạn mà không phải gánh chịu những
tổn thất không thể chấp nhận được. Vai trò cơ bản của các ngân hàng trong việc chuyển
đổi kỳ hạn của các khoản tiền gửi ngắn hạn thành các khoản cho vay dài hạn khiến các
ngân hàng vốn dễ bị rủi ro thanh khoản, cả về bản chất của một tổ chức cụ thể và ảnh
hưởng đến toàn bộ thị trường. Hầu như mọi giao dịch hoặc cam kết tài chính đều có ý
nghĩa đối với tính thanh khoản của ngân hàng. Quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả giúp
đảm bảo ngân hàng có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ về dòng tiền vốn không chắc chắn
do bị ảnh hưởng bởi các sự kiện bên ngoài và hành vi của các tác nhân khác.
Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất như một khả năng mang lại thiệt hại cho ngân hàng do biến động
lãi suất. Rủi ro bắt nguồn từ sự mất cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ. Rủi ro lãi suất
là một phần phổ biến trong kinh doanh ngân hàng, tuy nhiên, tỷ lệ rủi ro quá cao có thể
dẫn đến giảm thu nhập ngân hàng cũng như giá trị vốn của ngân hàng. Theo Ủy ban
giám sát ngân hàng Basel (2004), rủi ro lãi suất được chia thành bốn loại: rủi ro cơ bản,
rủi ro đường cong lợi suất, rủi ro tùy chọn và rủi ro định giá lại. Rủi ro lãi suất tồn tại
trong bất kỳ sản phẩm, dịch vụ nào mà ngân hàng cung cấp. Do đó, các ngân hàng
thường phòng ngừa những rủi ro này bằng cách tham gia vào các hoạt động hoán đổi,
quản lý khe hở nhạy cảm với lãi suất, ngụ ý rằng loại rủi ro này là một nguyên nhân gây
lo ngại và các ngân hàng cần phải thường xuyên theo dõi, vì ngành ngân hàng coi loại
rủi ro này là một phần của rủi ro thị trường. Rủi ro lãi suất ảnh hưởng tiêu cực đến tài
sản của ngân hàng và thu nhập được tạo ra từ chúng. Ảnh hưởng của biến động lãi suất
phụ thuộc vào thu nhập của ngân hàng và giá trị ròng trong cấu trúc bảng cân đối kế
toán; nghĩa là, giữa tài sản có và nợ phải trả nhạy cảm với lãi suất và thời gian đáo hạn
của chúng. Rủi ro lãi suất được đo lường thông qua tỷ lệ tài sản có nhạy cảm trên tài sản
nợ nhạy cảm. Chứng khoán ngắn hạn, khoản vay lãi suất thả nổi, là những tài sản nhạy
cảm nhất đối với biến động lãi suất. Trong khi tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
ngắn hạn, tiền gửi ngắn hạn và các khoản cho vay mà ngân hàng nhận được là nợ nhạy
cảm nhất đối với lãi suất.
36
2.3.2 Đánh giá rủi ro của ngân hàng thương mại
Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đo lường rủi ro của ngân hàng, tương
ứng với mỗi loại sẽ có các cách đánh giá cụ thể để đo lường loại rủi ro đó. Trong lĩnh
vực ngân hàng, rủi ro tín dụng là loại rủi ro quan trọng nhất của các NHTM, dự phòng
rủi ro trích lập và nợ xấu được xem là những thước đo phổ biến và đáng tin cậy nhất.
Bên cạnh đó, để đánh giá rủi ro phá sản hay mức độ rủi ro tổng thể của ngân hàng thì
chỉ số Z-score là thước đo đánh giá được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng nhất. Chỉ số Z-
score còn được sử dụng đại diện cho độ bất ổn tài chính hay rủi ro phá sản của ngân
hàng với mục đích dự báo, đo lường khả năng xảy ra bất ổn trong hoạt động kinh doanh
có nguy cơ không thể hoàn thành nghĩa vụ tài chính của mình dẫn đến việc bị sáp nhập,
mua lại ngân hàng.
Phương pháp Z-score so sánh một cách rõ ràng vốn đệm (vốn cổ phần và lợi
nhuận) với rủi ro (biến động thu nhập) nhằm xác định khả năng thanh toán của một ngân
hàng. Chỉ số Z-score là một trong những phương pháp khá phổ biến được sử dụng để
đo lường mức độ ổn định của các định chế tài chính, vì nó dại diện cho nghịch đảo của
xác suất phá sản của một ngân hàng (Laeven and Levine 2009). Vì vậy, giá trị cao hơn
của Z-score được hiểu như là ngân hàng ít gặp rủi ro hay các ngân hàng ổn định hơn.
Ngược lại, khi chỉ số Z-score thấp, ngân hàng đang mất dần ổn định, nguy cơ cạn kiện
nguồn vốn dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản (Lepetit and Strobel 2014). Chỉ
số này đồng thời xem xét đến ba yếu tố quan trọng trong đánh giá hiệu suất hoạt động
của ngân hàng, bao gồm an toàn vốn thông qua tỷ lệ vốn chủ sở hữu, lợi nhuận thông
qua ROA và rủi ro thông qua độ lệch chuẩn của ROA, tức mức độ dao động của lợi
nhuận (Roy 1952).
Chỉ số Z - score được tính toán theo công thức:
Z-score = ROA +E/A δ(ROA)
Trong đó
ROA: Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản của các ngân hàng
E/A: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng
37
δ(ROA): Độ lệch chuẩn của ROA, đại diện cho sự biến động về lợi nhuận (được tính
bằng cách ước tính độ lệch chuẩn của ROA trong thời gian 3 năm liên tục bao gồm năm
nay và hai năm trước đó và tiếp tục nguyên tắc này trên phần còn lại của mẫu nghiên
cứu)
Từ công thức của Boyd và Graham (1986), Hannan và Hanweck (1988), nhiều
nghiên cứu đã sử dụng chỉ số Z-score đại diện cho rủi ro ngân hàng, độ bất ổn trong hoạt
động ngân hàng và nguy cơ phá sản ngân hàng. Theo đó, chỉ số Z-score được sử dụng
để tính toán mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thông qua vốn hóa, lợi nhuận
và biến động tài sản của họ. Chỉ số Z-score càng tăng lên thể hiện ngân hàng ít gặp phải
rủi ro hơn và có sự ổn định tài chính cao hơn, rủi ro mất khả năng thanh toán thấp, vì
vậy việc tăng Z-score cho thấy khả năng phá sản của các ngân hàng giảm hay tính ổn
định của ngân hàng tăng. Chỉ số Z- score có thể chỉ ra một cách rõ ràng mối quan hệ
ngược chiều đối với xác suất mất khả năng thanh toán của các ngân hàng, đó chính là
khả năng giá trị tài sản thấp hơn giá trị của nợ phải trả. Hệ số Z-score ở đây có thể đại
diện cho sự ổn định tài chính của một ngân hàng trong một quốc gia hoặc đại diện cho
sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng trong một quốc gia hay một khu vực.
Các phiên bản khác nhau của Z-score cũng đã xuất hiện khá nhiều và thậm chí
còn xa rời khỏi khái niệm ban đầu. Một số nghiên cứu ước tính giá trị độ lệch chuẩn của
ROA chỉ căn cứ trên một phần của mẫu thời gian (2, 3, 4 hoặc 5 năm) và tiếp tục nguyên
tắc này trên phần còn lại của mẫu để làm cho chỉ số Z-score trở nên nhạy hơn và do đó
biến động nhiều hơn (Laeven and Levine, 2009; Williams 2014). Các tác giả cho rằng
bằng cách này, họ có thể nắm bắt tốt hơn những thay đổi tức thời phù hợp với từng bối
cảnh của ngân hàng.
Laura Chiaramonte và cộng sự (2016) đã nghiên cứu và chỉ ra rằng 76% khả năng
thất bại của các ngân hàng có thể được dự đoán tốt bằng chỉ số Z-score. Hơn nữa, chỉ số
Z-score còn có một ưu điểm khác là dễ tính toán và dữ liệu sử dụng để tính toán chỉ tiêu
này có sẵn trên báo cáo tài chính của ngân hàng.
Ngoài ra, các nghiên cứu sử dụng logarit của Z-score như trong các bài nghiên
cứu của Laeven và cộng sự (2009); Houston và cộng sự (2010) trong mối quan hệ với
rủi ro phá sản ngân hàng vì việc sử dụng hàm logarit sẽ làm giảm sự biến động mạnh và
sự chênh lệch lớn giữa các ngân hàng thương mại. Đặc biệt đối với dữ liệu của các ngân
38
hàng thương mại tại Việt Nam còn biến động mạnh qua các năm thì việc sử dụng logarit
sẽ làm giảm sự biến động quá mạnh và sự chênh lệch quá lớn giữa các ngân hàng thương
mại và làm cho kết quả nghiên cứu sẽ trở nên chính xác hơn.
Theo Lepetit và Strobel (2014), cho đến thời điểm hiện nay chỉ số Z-score ngân
hàng vẫn được xem như là chỉ số về dự báo khả năng phá sản của ngân hàng được sử
dụng rộng rãi trong các nghiên cứu như: Boyd và cộng sự (2006), Berger và cộng sự
(2009). Chỉ số Z-score cao hơn cho thấy ngân hàng ít gặp rủi ro và ổn định hơn, vì vậy
luận án sẽ sử dụng chỉ số Z-score để đánh giá rủi ro tổng thể của các NHTM Việt Nam.
2.4 NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN
ĐẾN LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.4.1. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi
nhuận của ngân hàng thương mại
Berger và di Patti (2006) nghiên cứu về CTV và lợi nhuận của các NHTM thông
qua việc kiểm định lý thuyết chi phí đại diện. Nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp
bình phương nhỏ nhất hai giai đoạn (2SLS) để nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến
tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng nhằm chứng minh sự phù hợp của lý thuyết đại diện
đối với trường hợp các NHTM tại Mỹ thời gian nghiên cứu là 6 năm trong giai đoạn
1990–1995. Mẫu nghiên cứu gồm 695 NHTM của Mỹ và được kiểm tra lại trên tổng thể
7320 NH Mỹ giai đoạn này. Kết quả cho thấy sự tương đồng với lý thuyết đại diện khi
các ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao đạt được lợi nhuận nhiều hơn. Cụ thể trong
nghiên cứu này có tồn tại mối quan hệ nghịch biến giữa lợi nhuận (ROE) và tỷ lệ vốn
chủ sở hữu/Tổng tài sản (ECAP), hay nói cách khác, có sự tác động qua lại cùng chiều
giữa ROE và đòn bẩy tài chính của ngân hàng. Ngoài ra, theo nghiên cứu cho thấy, hiệu
quả tài chính của ngân hàng còn bị tác động bởi tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông
khác nhau (cá nhân, tổ chức…), chỉ số tiền gửi thị trường, độ lệch chuẩn của ROE.
Tương tự Berger và di Patti (2006), Pratomo và Ismail (2006) cũng tìm cách
chứng minh lý thuyết đại diện trong trường hợp 15 NHTM tại Malaysia trong giai đoạn
1997–2004. Kết quả nghiên cứu cho thấy các tác giả đã chứng minh được các ngân hàng
sử dụng đòn bẩy tài chính cao sẽ đạt lợi nhuận tốt hơn. Tăng đòn bẩy tài chính, tức tăng
nợ làm cho ngân hàng phải tuân thủ theo các quy tắc quản trị tài chính qua đó tiết kiệm
39
chi phí, tận dụng được các cơ hội đầu tư có khả năng sinh lợi đồng thời cùng tạo áp lực
tạo ra dòng tiền, điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết đại diện. Vì vậy, trong trường
hợp các yếu tố khác không đổi đòn bẩy tài chính cao hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng
nguồn vốn thấp sẽ giúp ngân hàng tăng lợi nhuận. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu tác động
của các nhân tố khác đến lợi nhuận của NHTM như: độ lệch chuẩn của ROE (SDROE),
quy mô NH (SIZE), chỉ số tiền gửi thị trường (HERF) có tương quan thuận, cho vay
(LOAN) có tương quan nghịch nhưng không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, nhân
tố đầu tư chứng khoán (SEC) có tương quan nghịch với lợi nhuận NHTM, ở mức ý nghĩa
1%.
Kyereboah-Coleman (2007) xem xét tác động của cấu trúc vốn đối với lợi nhuận
của 52 tổ chức tài chính vi mô tại Ghana với dữ liệu bảng giai đoạn 1995 – 2004. Kết
quả cho thấy các tổ chức tài chính vi mô sử dụng đòn bẩy tài chính cao và tài trợ dài hạn
cho hoạt động. Ngoài ra, các tổ chức tài chính vi mô có đòn bẩy cao hoạt động tốt hơn
bằng cách tiếp cận với nhiều khách hàng hơn, tận hưởng lợi thế kinh tế quy mô và do
đó có khả năng đối phó tốt hơn với rủi ro đạo đức và lựa chọn bất lợi, nâng cao khả năng
đối phó với rủi ro.
Hutchison và Cox (2007) tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa cấu trúc vốn và lợi
nhuận của các NHTM tại Mỹ giai đoạn 1983–1989 và 1996–2002. Sử dụng dữ liệu gồm
87.928 và 59.623 cho từng giai đoạn, tác giả tìm thấy bằng chứng cho thấy đòn bẩy tài
chính làm tăng ROE. Phân tích được mở rộng để xác định mối quan hệ giữa tỷ suất sinh
lợi trên tài sản (ROA) và vốn chủ sở hữu. Bằng chứng ủng hộ giả thuyết rằng có mối
quan hệ thuận chiều giữa đòn bẩy tài chính và ROE trong cả hai giai đoạn. Kết quả này
hàm ý rằng các ngân hàng tăng đòn bẩy tài chính để tăng lợi nhuận cho người sở hữu cổ
phiếu mặc dù rủi ro tài chính gia tăng.
Saona (2010) nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận của các
ngân hàng ngân hàng Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ năm 1995–2007 với phương
pháp định lượng GMM (Generalised Methods of Moments). Biến phụ thuộc đại diện
cho lợi nhuận của các ngân hàng được đo lường bằng tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở
hữu ROE. Ngoài biến độc lập chính tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn, tác giả
đưa vào mô hình các biến nội của tại ngân hàng bao gồm: quy mô ngân hàng, mức độ
tập trung thị trường, khả năng cho vay, lượng tiền gửi, chi phí lãi vay, mức đầu tư vào
40
chứng khoán và rủi ro của ngân hàng. Ngoài ra, còn xem xét đến các yếu tố vĩ mô như
là biến kiểm soát cho mô hình như tỷ lệ chiết khấu của Cục dự trữ Liên Bang Mỹ, chỉ
số NASDAQ ngân hàng, và danh tiếng của ngân hàng đó. Kết quả nghiên cứu cho thấy
có mối quan hệ ngược chiều giữa việc tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn và
lợi nhuận của ngân hàng, điều này có nghĩa việc tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng
nguồn vốn sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Các biến đặc điểm ngân hàng khác
cũng có tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng như mối tương quan âm của
tiền gửi, chi phí lãi suất, rủi ro của ngân hàng. Mối tương quan dương của thị phần ngân
hàng và cho vay lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Awunyo-Vitor và Badu (2012) kiểm tra mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi
nhuận các các ngân hàng bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng. Bài nghiên cứu được
thực hiện cho sáu ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Ghana trong giai
đoạn từ 2000 đến 2010. Trong đó biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng được đại diện bởi lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản ROA, lợi nhuận sau thuế trên
vốn chủ sở hữu ROE và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của tổng tài sản Tobin’s Q.
Các biến độc lập bao gồm biến cấu trúc vốn là tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu, SIZE được
đo lường bằng logarit tự nhiên của thu nhập, CLB là tỷ lệ nợ ngắn hạn trong tổng nợ của
ngân hàng, AGE là số năm hoạt động của các ngân hàng, BOS là số lượng thành viên
trong Ban giám đốc, MCAP là giá trị vốn hóa thị trường, nó đại diện cho giá trị thị
trường của vốn chủ sở hữu. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cấu trúc vốn có LEV tác động
ngược chiều lên của ROE, ROA và Tobins’Q của các ngân hàng này. Kết quả nghiên
cứu này cũng cho thấy mối quan hệ không đáng kể giữa cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt
động của ngân hàng được đo bằng ROA. Awunyo-Vitor và Badu (2012) cho rằng chi
phí sử dụng nợ cao (do ngân hàng sử dụng tỷ lệ nợ cao trong cấu trúc vốn) đã làm tăng
chi phí lãi, làm giảm lợi nhuận, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thể hiện qua
các chỉ số ROE, ROA và Tobins’Q. Ngoài ra, các ngân hàng sử dụng nhiều nợ có khuynh
hướng bị chi phí phá sản gián tiếp như là sụt giảm doanh thu và lợi thế thương mại, gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung. Những biến khác trong mô hình
như SIZE có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đo lường
bởi ROE. Trong khi đó, ROA lại chịu sự tác động một cách đáng kể bởi các biến AGE,
41
SIZE, MCAP và CLB; Tobins’Q chịu sự tác động đáng kể bởi SIZE và MCAP.
Saeed (2013) nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của ngân hàng
tại Pakistan. Mẫu nghiên cứu gồm 25 ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Karachi
trong giai đoạn 5 năm từ 2007–2011. Trong đó biến phụ thuộc đại diện được đo lường
bằng tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA)
và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS), biến độc lập nợ dài hạn, nợ ngắn hạn, tổng nợ cùng
với hai biến kiểm soát đó là quy mô ngân hàng (SIZE) và tăng trưởng tài sản (AG). Kết
quả nghiên cứu cho thấy nợ ngắn hạn trên vốn (STDTC), tổng số nợ trên vốn và quy mô
ngân hàng (SIZE) có sự tương quan dương đối với lợi nhuận của ngân hàng. Ngược lại
nợ dài hạn trên vốn (LTDTC) lại có mối tương quan âm với ROA, ROE, EPS. Trong
khi đó biến kiểm soát tăng trưởng tài sản (AG) có ảnh hưởng ngược chiều không đáng
kể đến ROA và ROE nhưng ảnh hưởng ngược chiều đáng kể đến EPS. Từ kết quả nghiên
cứu có thể kết luận rằng có tồn tại mối quan hệ tương quan cùng chiều giữa cấu trúc vốn
và lợi nhuận của các ngân hàng Pakistan.
Al-Kayed và cộng sự (2014) nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận
của 85 ngân hàng Hồi giáo tại 19 quốc gia và vùng lãnh thổ trong khoảng thời gian từ
năm 2003–2008. Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất hai giai
đoạn (2 SLS) để nghiên cứu mối quan hệ của cấu trúc vốn đến hiệu quả của các ngân
hàng. Trong đó, đại diện cho hiệu quả hoạt động của các ngân hàng được đo lường bằng
tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA), tỷ
lệ thu nhập lãi cận biên (NIM). Đồng thời, các tác giả tách các biến phụ thuộc ra thành
hai nhóm: biến các đặc điểm của ngân hàng và biến vĩ mô. Các biến đặc điểm của ngân
hàng được sử dụng trong mô hình bao gồm tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn,
tỷ lệ tài sản không sinh lời trên tổng tài sản, chi phí hoạt động trên tổng tài sản, quy mô
ngân hàng, biến rủi ro đo bằng tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản. Các biến vĩ mô được sử dụng
trong mô hình bao gồm tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP, lạm phát, cấu
trúc tài chính, cấu trúc thị trường thuế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Kết quả nghiên cứu cho
thấy lợi nhuận của ngân hàng có tác động dương với tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng
nguồn vốn, quy mô ngân hàng có tác động âm từ chi phí hoạt động trên tổng tài sản,
điều này chứng tỏ việc gia tăng chi phí hoạt động trên tổng tài sản sẽ làm giảm hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng. Lợi nhuận của ngân hàng không bị tác động bởi các yếu
42
tố độ rủi ro, tỷ lệ tài sản không sinh lời trên tổng tài sản, các yếu tố vĩ mô như tốc độ
tăng trưởng GDP, cung tiền hay mức dự trữ, thuế, lạm phát, cấu trúc tài chính, cấu trúc
thị trường.
Gohar và Rehman (2016) nghiên cứu tác động của CTV đến lợi nhuận của 10
NHTM tại Pakistan giai đoạn 2009–2013. Các biến đại diện cho CTV là tổng nợ trên
vốn chủ sở hữu, nợ ngắn hạn trên vốn chủ sở hữu, nợ dài hạn trên vốn chủ sở hữu. Kết
quả cho thấy tỷ lệ nợ cao hơn làm giảm lợi nhuận của NHTM tại Pakistan. Kết quả
nghiên cứu hàm ý rằng trong các nghiên cứu về cấu trúc vốn, khu vực tài chính và phi
tài chính không thể kết hợp với nhau vì các mối quan hệ trái ngược nhau. Hơn nữa, các
nhà đầu tư có thể sử dụng công việc này trong quá trình phân tích đầu tư.
Anarfo và Appiahene (2017) nghiên cứu tác động của CTV đến lợi nhuận của
các NHTM ở Châu Phi. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng cùng
với các kiểm định Unit Root Test để phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi
nhuận ngân hàng, dữ liệu phân tích từ 37 quốc gia trong khu vực hạ Sahara giai đoạn từ
năm 2009 đến năm 2015. Bài nghiên cứu đã sử dụng tỷ lệ nợ (DR) làm thước đo cấu
trúc vốn của ngân hàng. Ngoài ra, lợi nhuận của các ngân hàng được đo bằng cách sử
dụng chỉ số đo lường hiệu quả điều chỉnh rủi ro lợi nhuận trên tài sản (RAROA), chỉ số
đo lường hiệu quả điều chỉnh rủi ro lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (RAROE) và tỷ lệ thu
nhập lãi cận biên (NIM). Nghiên cứu sử dụng 8 biến số làm yếu tố quyết định lợi nhuận
của các ngân hàng bao gồm: tỷ lệ nợ, quy mô của một ngân hàng, tính hữu hình của tài
sản, tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng, thuế, tăng trưởng GDP, lãi suất và tỷ lệ lạm
phát. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm giảm lợi nhuận của các NHTM
khu vực hạ Sahara. Điều này chỉ ra rằng các ngân hàng ở Châu Phi sẽ đạt được lợi nhuận
tối đa bằng cách giảm tỷ lệ nợ và tài trợ bằng nguồn vốn chủ sở hữu để tăng lợi nhuận
của họ vì tỷ lệ nợ cao sẽ làm giảm khả năng sinh lời. Tác động tiêu cực của cấu trúc vốn
đến lợi nhuận của ngân hàng có thể là kết quả của chi phí phá sản cao hơn lợi ích của
việc vay nợ dưới hình thức tiết kiệm thuế theo lý thuyết đánh đổi vốn cấu trúc. Chính
phủ và các nhà hoạch định chính sách nên giảm thuế suất doanh nghiệp vì nó làm giảm
lợi nhuận của ngân hàng. Khi thuế giảm và các ngân hàng đạt được lợi nhuận cao hơn,
từ đó cung cấp môi trường tạo điều kiện để tăng việc làm cho người lao động và do đó
làm giảm thất nghiệp ở châu Phi. Các biến số ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của ngân
43
hàng là quy mô, tài sản hữu hình, tăng trưởng, thuế và lãi suất.
Widyastuti và cộng sự (2019) thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của
CTV đến lợi nhuận của các NHTM tại Indonesia trong giai đoạn 2009 – 2017. Bài
nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, nợ dài hạn trên tổng
tài sản, tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản để chỉ CTV của NHTM; chỉ tiêu ROA và
ROE để chỉ lợi nhuận của NHTM. Kết quả cho thấy tỷ lệ nợ dài hạn tác động cùng chiều
đến ROA và ROE, tỷ lệ vốn chủ sở hữu tác động ngược chiều đến ROA và ROE, tiền
gửi khách hàng tác động cùng chiều đến ROE nhưng ngược chiều đến ROA. Điều này
ủng hộ quan điểm rằng việc tạo ra giá trị của ngân hàng độc lập với cấu trúc của các
hoạt động tài chính. Vì vậy, tỷ trọng cơ cấu vốn (sử dụng nợ và vốn chủ sở hữu) không
rõ ràng về giá trị ngân hàng và có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Do đó, có những yếu tố
chính khác ảnh hưởng đến giá trị của ngành ngân hàng Indonesia ngoài cấu trúc vốn.
Jadah và cộng sự (2020) tìm hiểu tác động của CTV đến lợi nhuận của các NHTM
tại Iraq trong giai đoạn 2009 – 2018. Nghiên cứu tìm thấy bằng chứng cho thấy các
NHTM Iraq sử dụng nợ nhiều hơn làm giảm lợi nhuận. Cụ thể, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên
tổng tài sản có tác động làm tăng ROA. Ngược lại, tổng nợ trên tổng tài sản, nợ ngắn
hạn trên tổng tài sản, nợ dài hạn trên tổng tài sản có tác động ngược chiều đến ROA và
ROE. Nghiên cứu này nêu bật những sự kiện mới để tăng hiểu biết về CTV và mối liên
hệ của CTV với hiệu quả hoạt động của các ngân hàng ở các nền kinh tế đang phát triển
như Iraq. Nghiên cứu được coi là một trong những nghiên cứu sớm nhất về các loại hình
này bằng cách xác định cấu trúc tối ưu của các ngân hàng Iraq và xem xét tác động của
CTV đối với hoạt động của các ngân hàng Iraq.
Nghiên cứu của Molla (2020) được thực hiện nhằm đánh giá tác động của CTV
đến lợi nhuận của các NHTM tại Bangladesh trong giai đoạn 2014 – 2018. Tác giả tìm
thấy bằng chứng cho thấy nợ dài hạn trên tổng tài sản có tác động cùng chiều đến ROA
và ROE. Ngoài ra, tổng nợ trên tổng tài sản không có tác động đến lợi nhuận của NHTM
và tác giả kết luận rằng CTV có ảnh hưởng không đáng kể đến lợi nhuận của các NHTM
tại Bangladesh. Những phát hiện này dẫn đến kết luận rằng CTV có ảnh hưởng yếu hoặc
không ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng niêm yết ở Bangladesh.
44
Nghiên cứu của Al-Omari (2021) về tác động của CTV đến lợi nhuận của các
NHTM tại Jordan thực hiện trong giai đoạn 2011 – 2017. Tác giả sử dụng chỉ tiêu nợ
trên tổng tài sản và nợ trên vốn chủ sở hữu đại diện CTV của NHTM. Các chỉ tiêu đại
diện cho lợi nhuận cao gồm ROA, ROE, ROI, EPS. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi
nhuận của NHTM cao hơn khi sử dụng nợ nhiều hơn. Tác giả đề xuất các NHTM nên
tăng tài sản bằng cách tăng tiền gửi để có thể tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng và
tác động tích cực đến nền kinh tế.
Tương tự như các nghiên cứu nước ngoài tại Việt Nam, theo lược khảo của tác
giả, các nhà nghiên cứu trong nước cũng dành nhiều sự quan tâm cho vấn đề này như:
Trần Việt Dũng (2014) nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận của 22
NHTM Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài
chính có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM. Bên cạnh đó, các ngân hàng hoạt
động hiệu quả hơn khi cổ phần hóa và dự phòng rủi ro tín dụng làm giảm KNSL của
NHTM. Kết quả này hàm ý rằng các ngân hàng giữ nhiều vốn sẽ nhận được sự quan tâm
của người gửi tiền, qua đó các ngân hàng sẽ nhận được lượng tiền gửi với chi phí trả lãi
thấp, làm tăng hiệu quả tài chính của ngân hàng.
Nghiên cứu của Le và Nguyen (2020) về CTV của NHTM có liên quan đến đề
tài. Tác giả đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của NHTM Việt Nam bằng
phương pháp hồi quy định lượng giai đoạn 2007 – 2019. Kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng mối quan hệ phi tuyến giữa vốn ngân hàng và lợi nhuận của ngân hàng. Nói cách
khác, đòn bẩy tài chính và lợi nhuận của ngân hàng có mối quan hệ phi tuyến. Đây là
nghiên cứu đầu tiên kết luận rằng bước ngoặt của tỷ lệ vốn tăng lên trong suốt quá trình
phân phối lợi nhuận. Do đó, phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng yêu cầu về vốn
ngân hàng tăng liên tục không nhất thiết dẫn đến lợi nhuận ngân hàng cao hơn.
Tổng hợp lại, các nghiên cứu thực nghiệm các nước trên thế giới về tác động của
của cấu trúc vốn đến lợi nhuận có các kết quả chính được ghi nhận theo Bảng 2.1.
45
Bảng 2.1 Tổng kết các nghiên cứu về các động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác giả (năm) Thời gian Phạm vi Phương Kết quả nghiên cứu
pháp
nghiên
cứu
Berger và di NHTM của 2 SLS Kết quả cho thấy sự tương đồng
Patti (2006) 1990 -1995 Mỹ với lý thuyết đại diện khi các
ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy tài
chính cao đạt được lợi nhuận
nhiều hơn.
(+)
Pratomo và 1997 - 2004 15 NHTM FEM Kết quả nghiên cứu cho thấy các
Ismail (2006) tại Malaysia tác giả đã chứng minh được các
ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài
chính cao sẽ đạt lợi nhuận tốt
hơn.
(+)
Kyereboah- 1995 - 2004 Tổ chức tài REM Kết quả cho thấy các tổ chức tài
Coleman chính vi mô chính vi mô sử dụng đòn bẩy tài
(2007) tại Ghana chính cao và tài trợ dài hạn cho
hoạt động. Ngoài ra, các tổ chức
tài chính vi mô có đòn bẩy cao
hoạt động tốt hơn bằng cách tiếp
cận với nhiều khách hàng hơn,
tận hưởng lợi thế kinh tế quy
mô.
(+)
Hutchison và 1996 - 2002 NHTM tại OLS Tác giả tìm thấy bằng chứng cho
Cox (2007) Mỹ thấy đòn bẩy tài chính làm tăng
ROE.
46
(+)
Saona (2010) 1995 - 2007 Ngân hàng GMM Kết quả nghiên cứu cho thấy có
Hoa Kỳ mối quan hệ ngược chiều giữa
việc tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu
trên tổng nguồn vốn và lợi
nhuận của ngân hàng, điều này
có nghĩa việc tăng tỷ lệ vốn chủ
sở hữu trên tổng nguồn vốn sẽ
làm giảm lợi nhuận của ngân
hàng.
(+)
Awunyo-Vitor 2000 - 2010 6 ngân hàng Pooled Kết quả nghiên cứu này cũng
và Badu (2012) niêm yết OLS cho thấy mối quan hệ không
trên thị đáng kể giữa cấu trúc vốn và
hiệu quả hoạt động của ngân trường
hàng được đo bằng ROA. Ngoài chứng
ra, bài nghiên cứu cho rằng chi khoán
phí sử dụng nợ cao (do ngân Ghana
hàng sử dụng tỷ lệ nợ cao trong
cấu trúc vốn) đã làm tăng chi phí
lãi, làm giảm lợi nhuận, từ đó
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động thể hiện qua các chỉ số
ROE, ROA và Tobins’Q.
(-)
Saeed (2013) 2007-2011 Ngân hàng OLS Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ
ngắn hạn trên vốn (STDTC), yết niêm
tổng số nợ trên vốn và quy mô sàn trên
ngân hàng (SIZE) có sự tương chứng
quan dương đối với lợi nhuận khoán
của ngân hàng. Ngược lại nợ dài
47
Karachi tại hạn trên vốn (LTDTC) lại có
Pakistan mối tương quan âm với ROA,
ROE, EPS.
(+)
Al-Kayed và 2003 - 2008 85 ngân 2 SLS Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi
cộng sự (2014) hàng Hồi nhuận của ngân hàng nhận tác
giáo tại 19 động dương với tỷ lệ vốn chủ sở
quốc gia hữu trên tổng nguồn vốn.
(-)
Gohar và 2009 - 2013 10 NHTM OLS Kết quả cho thấy tỷ lệ nợ cao
Rehman tại Pakistan hơn làm giảm lợi nhuận của
(2016) NHTM tại Pakistan.
(-)
Anarfo và 2009 - 2015 NHTM ở Unit Kết quả nghiên cứu cho thấy
Appiahene Châu Phi đòn bẩy tài chính làm giảm lợi Root
(2017) nhuận của các NHTM khu vực Test
hạ Sahara.
(-)
Widyastuti và 2009 - 2017 NHTM tại OLS Kết quả cho thấy tỷ lệ nợ dài hạn
cộng sự (2019) Indonesia tác động cùng chiều đến ROA
và ROE. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu
tác động ngược chiều đến ROA
và ROE, tiền gửi khách hàng tác
động cùng chiều đến ROE
nhưng ngược chiều đến ROA.
(+/-)
Jadah và cộng 2009 - 2018 NHTM tại FEM Nghiên cứu tìm thấy bằng
sự (2020) Iraq chứng cho thấy các NHTM Iraq
sử dụng nợ nhiều hơn làm giảm
lợi nhuận. Cụ thể, tỷ lệ vốn chủ
sở hữu trên tổng tài sản có tác
48
động làm tăng ROA. Ngược lại,
tổng nợ trên tổng tài sản, nợ
ngắn hạn trên tổng tài sản, nợ
dài hạn trên tổng tài sản có tác
động ngược chiều đến ROA và
ROE.
(-)
Molla (2020) 2014 - 2018 NHTM tại FGLS Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ
Bangladesh dài hạn trên tổng tài sản có tác
động cùng chiều đến ROA và
ROE. Ngoài ra, tổng nợ trên
tổng tài sản không có tác động
đến lợi nhuận của NHTM và tác
giả kết luận rằng CTV có ảnh
hưởng không đáng kể đến lợi
nhuận của các NHTM tại
Bangladesh.
(+)
Al-Omari 2011 - 2017 NHTM tại OLS Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi
(2021) Jordan nhuận của NHTM cao hơn khi
sử dụng nợ nhiều hơn.
(+)
Trần Việt 2006 - 2012 NHTM Việt GMM Kết quả nghiên cứu cho thấy
Dũng (2014) Nam đòn bẩy tài chính có tác động
tiêu cực đến lợi nhuận của
NHTM. Bên cạnh đó, các ngân
hàng hoạt động hiệu quả hơn khi
cổ phần hóa và dự phòng rủi ro
tín dụng làm giảm KNSL của
NHTM.
(-)
49
Le và Nguyen 2007 - 2019 22 NHTM OLS Kết quả nghiên cứu cho thấy
(2020) Việt Nam rằng có mối quan hệ phi tuyến
giữa vốn ngân hàng và lợi nhuận
của ngân hàng. Nói cách khác,
đòn bẩy tài chính và lợi nhuận
của ngân hàng có mối quan hệ
phi tuyến.
(+/-)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
2.4.2. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro
của ngân hàng thương mại
Pricillia (2015) tìm hiểu các yếu tố tác động đến rủi ro của các ngân hàng
Indonesia. Sử dụng phương pháp hồi quy bình phương tối thiểu 2 giai đoạn (2SLS) thời
gian nghiên cứu từ năm 2004 đến năm 2013, nghiên cứu phát hiện ra rằng có bảy yếu tố
ảnh hưởng đến rủi ro của ngân hàng ở Indonesia. Các yếu tố đó là tỷ lệ an toàn vốn
(CAR), đòn bẩy tài chính, kỳ vọng về lợi nhuận, kỳ vọng về mức độ kém hiệu quả, tỷ lệ
tập trung của ngành, mức độ quan trọng của ngân hàng trong nền kinh tế Indonesia và
chuyển động của Ngân hàng Indonesia. Trong đó, đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của
ngân hàng.
Nghiên cứu của Bhagat và cộng sự (2015) về quy mô, đòn bẩy và mức độ chấp
nhận rủi ro của các tổ chức tài chính, mẫu nghiên cứu gồm 702 tổ chức tài chính giai
đoạn từ năm 2002 đến năm 2012. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo Compustat và báo
cáo thường niên của các 599 ngân hàng thương mại, 60 ngân hàng đầu tư và 43 công ty
bảo hiểm tại Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô hoạt động có mối tương quan
dương với mức độ chấp nhận rủi ro tại các tổ chức tài chính tại Mỹ cho giai đoạn 2002
– 2012, các ngân hàng có đòn bẩy tài chính càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro càng
tăng. Ngoài ra, các ngân hàng có sự quản trị tốt hơn sẽ ít rủi ro trong hoạt động. Bên
cạnh đó, nghiên cứu này có khuyến nghị ngoài việc giới hạn quy mô hoạt động của các
ngân hàng quá lớn, thì cần phải gia tăng quy định về yêu cầu vốn tối thiểu cho tất cả các
tổ chức tài chính.
50
Saif-Alyousfi và Saha (2020) thực hiện nghiên cứu nhằm mục đích kiểm tra tác
động của cấu trúc tài chính, ngân hàng cụ thể và các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với rủi ro
và lợi nhuận của các ngân hàng trong các nền kinh tế thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng
Vịnh (GCC) trong giai đoạn 1998–2017. Sử dụng phương pháp SGMM, kết quả nghiên
cứu cho thấy các ngân hàng có đòn bẩy tài chính thấp và tỷ lệ tăng trưởng cho vay cao
thì rủi ro và lợi nhuận cao hơn. Trong nghiên cứu này, Saif-Alyousfi và Saha (2020)
cũng nhận định rằng các ngân hàng thương mại lớn hơn ít rủi ro hơn và ổn định hơn, có
lợi nhuận tốt hơn các ngân hàng nhỏ hơn trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Các ngân hàng Hồi giáo hoạt động tốt hơn về thu nhập phí, vốn hóa, thanh khoản, chất
lượng tài sản và có mức độ tập trung thị trường cao hơn các ngân hàng thông thường.
Mercan (2021) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM tại
George giai đoạn 2006 – 2014. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy OLS dữ liệu
bảng không cân bằng theo phương pháp Hiệu ứng ngẫu nhiên và Hiệu ứng cố định. Kết
quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm giảm rủi ro ngân hàng. Ngược lại, quy
mô ngân hàng, dư nợ cho vay có ảnh hưởng tăng rủi ro của ngân hàng.
Tương tự như các nghiên cứu nước ngoài tại Việt Nam, theo lược khảo của tác
giả, các nhà nghiên cứu trong nước cũng dành nhiều sự quan tâm cho vấn đề này như:
Nghiên cứu của Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự (2020) được thực hiện nhằm
đánh giá các yếu tố tác động đến rủi ro của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018
thu thập bộ số liệu của 19 NHTM Việt Nam. Sử dụng kỹ thuật hồi quy dữ liệu bảng theo
phương pháp bình phương tối thiểu thông thường, mô hình hồi quy tác động cố định,
mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên và mô hình bình phương tối thiểu tổng quát. Kết
quả nghiên cứu cho thấy NIM làm tăng rủi ro cho ngân hàng. Các yếu tố đòn bẩy tài
chính, quy mô ngân hàng, dư nợ cho vay có tác động làm giảm rủi ro.
Nghiên cứu của Nguyen và Duong (2020) tìm hiểu tác động của các yếu tố đến
rủi ro với bộ dữ liệu gồm 27 NHTM Việt Nam giai đoạn 2010 – 2017. Bằng phương
pháp GMM, tác giả kết luận đòn bẩy tài chính, tỷ lệ nợ xấu, dự phòng rủi ro tín dụng,
dư nợ cho vay, quy mô ngân hàng, tăng trưởng GDP là các yếu tố làm tăng rủi ro. Ngược
lại, tỷ suất sinh lợi, lạm phát có tác động làm giảm rủi ro.
51
Phạm Tiến Minh và Bùi Huy Hải Bích (2019) tiến hành nghiên cứu đánh giá tác
động của các yếu tố đến rủi ro của 21 NHTM Việt Nam giai đoạn 2010 – 2018. Sử dụng
phương pháp GLS, kết quả cho thấy các ngân hàng có đòn bẩy tài chính lớn sẽ làm rủi
ro tăng lên. Bên cạnh đó, các cổ đông lớn tập trung, cổ đông tổ chức, và cổ đông nhà
nước góp phần làm giảm các hành vi rủi ro có tác động làm giảm rủi ro.
Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015) nghiên cứu tác động của cấu trúc
vốn và các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 – 2013.
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình bình phương tối thiểu thông thường (OLS). Kết quả
cho thấy đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của NHTM. Bên cạnh đó, các yếu tố có mối
quan hệ nghịch chiều với rủi ro ngân hàng là tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ dự phòng nợ
xấu, tỷ lệ thu nhập lãi thuần, đa dạng hóa thu nhập, sở hữu nhà nước, số năm hoạt động
của ngân hàng và ngân hàng đã niêm yết. Các yếu tố có mối quan hệ đồng biến với rủi
ro ngân hàng gồm hiệu quả quản lý chi phí và quy mô.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Thanh Dương (2013), tác giả phân tích rủi ro trong
hoạt động ngân hàng sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 36 NHTM tại Việt Nam giai đoạn
từ năm 2006 đến năm 2011, sử dụng mô hình hồi quy đa biến nhằm xác định sự tác động
của các chỉ tiêu đặc trưng đến rủi ro ngân hàng với biến phụ thuộc là Z-Score và các yếu
tố ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng bao gồm có 7 yếu tố: Tỷ lệ dự phòng nợ xấu (LLR),
Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng (LLP), đòn bẩy (LEV), Tỷ lệ thu nhập lãi thuần
(NIR), Tỷ lệ chi phí lương và trợ cấp (CTI), tỷ lệ cho vay (LDR), tỷ lệ tài sản thanh
khoản (LAD). Kết quả nghiên cứu cho thấy có 4 biến có ý nghĩa thống kê: NIR, LLP,
LDR, LEV trong đó tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng huy động (LEV) và tỉ lệ cho vay trên
huy động ngắn hạn (LDR ) có mối quan hệ nghịch biến với rủi ro ngân hàng. Ngược lại,
tỉ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên thu nhập lãi thuần (LLP) và tỉ lệ thu nhập lãi
thuần trên tổng tài sản bình quân (NIR) đồng biến với rủi ro ngân hàng. Ngoài ra, nghiên
cứu cũng cho rằng việc tăng vốn chủ sở hữu là điều kiện tiên quyết có thể bảo vệ ngân
hàng trước rủi ro phá sản. Bên cạnh đó đề tài nghiên cứu còn có những gợi ý về chính
sách và nâng cao trình độ nhằm cải thiện quản lý rủi ro hệ thống ngân hàng, đề xuất
hoàn thiện chức năng quản lí tài sản và nguồn vốn.
52
Tổng hợp lại, các nghiên cứu thực nghiệm tại các nước trên thế giới và Việt Nam
về tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro có các kết quả chính được ghi nhận theo Bảng
2.2.
Bảng 2.2 Tổng kết các nghiên cứu về các động của cấu trúc vốn đến rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác giả (năm) Thời gian Phạm vi PPNC Kết quả nghiên cứu
Pricillia (2015) 2004 - 2013 Các ngân 2SLS Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng
hàng đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro
Indonesia của ngân hàng.
(+)
Bhagat và cộng 2002 - 2012 702 tổ chức Kết quả nghiên cứu cho thấy các
sự (2015) tài chính tại ngân hàng có đòn bẩy tài chính
Mỹ càng cao thì mức độ chấp nhận
rủi ro càng tăng.
(+)
Saif-Alyousfi 1998 - 2017 Nền kinh tế SGMM Kết quả nghiên cứu cho thấy các
và Saha (2020) thuộc Hội ngân hàng có đòn bẩy tài chính
đồng Hợp thấp và tỷ lệ tăng trưởng cho
tác Vùng vay cao thì rủi ro và lợi nhuận
Vịnh cao hơn.
(GCC) (-)
Mercan (2021) 2006 - 2014 NHTM tại OLS, Kết quả nghiên cứu cho thấy
George FEM, đòn bẩy tài chính làm giảm rủi
GMM ro ngân hàng.
(-)
53
Nghiên cứu của 2014 – 2018 19 NHTM OLS, Kết quả nghiên cứu cho thấy
Việt Nam FEM, NIM làm tăng rủi ro cho ngân Lê Ngọc Quỳnh
Anh và cộng sự REM hàng. Các yếu tố đòn bẩy tài
(2020) và GLS chính, quy mô ngân hàng, dư nợ
cho vay có tác động làm giảm
rủi ro.
(-)
Nguyen và 2010 - 2017 27 NHTM GMM Tác giả kết luận đòn bẩy tài
Duong (2020) Việt Nam chính, tỷ lệ nợ xấu, dự phòng rủi
ro tín dụng, dư nợ cho vay, quy
mô ngân hàng, tăng trưởng GDP
là các yếu tố làm tăng rủi ro.
(+)
Phạm Tiến 2010 - 2018 21 NHTM GLS Kết quả nghiên cứu cho thấy các
Việt Nam ngân hàng có đòn bẩy tài chính Minh và Bùi
lớn sẽ làm rủi ro tăng lên. Huy Hải Bích
(2019) (+)
Nguyễn Minh 2009 - 2013 NHTM OLS Kết quả cho thấy đòn bẩy tài
Việt Nam chính làm tăng rủi ro của Hà và Nguyễn
NHTM. Bá Hướng
(2015) (+)
Nguyễn Thanh 2006 - 2011 36 NHTM FEM, Kết quả nghiên cứu cho đòn bẩy
Dương (2013) tại Việt REM, tài chính có mối quan hệ đồng
Nam GLS biến với rủi ro ngân hàng. Điều
này có nghĩa rằng đòn bẩy càng
54
cao do huy động nhiều thì rủi ro
càng cao.
(+)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các nghiên cứu
2.5 THẢO LUẬN NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Như vậy, sau phần tổng quan và lược khảo các nghiên cứu trước tác giả nhận thấy có
một số khoảng trống có thể khai thác như sau:
Thứ nhất, trên thế giới cũng như trong nước đã có nhiều nghiên cứu về mối quan
hệ giữa cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Các nghiên cứu trong nước về
chủ đề này đã phản ánh được về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro. Tuy
nhiên, các nghiên cứu này đã thực hiện cách đây mấy năm, nên thời gian nghiên cứu và
mẫu nghiên cứu không còn phù hợp với diễn biến của nền kinh tế cũng như không còn
phản ánh chính xác sự tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM như
hiện nay. Trong nhiên cứu này, tác giả sẽ cập nhật thời gian nghiên cứu và mẫu nghiên
cứu phù hợp với thời điểm hiện tại.
Thứ hai, các nghiên cứu cho thấy chiều hướng ảnh hưởng khác nhau của CTV
đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Cụ thể, một số nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài
chính có tác động làm tăng lợi nhuận của NHTM (Al-Omari 2021; Pratomo and Ismail
2006; Kyereboah-Coleman 2007; Saona 2010). Ngược lại, một số nghiên cứu khác lại
cho thấy đòn bẩy tài chính có tác động làm giảm lợi nhuận của NHTM (Jadah et al.
2020; Anarfo and Appiahene 2017; Trần Việt Dũng 2014; Al-Kayed et al. 2014). Tương
tự như vậy, nhiều nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro của ngân hàng
(Nguyen and Duong 2020; Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự 2020; Phạm Tiến Minh và
Bùi Huy Hải Bích 2019; Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng 2015, Mercan 2021)
hoặc làm giảm rủi ro của ngân hàng (Saif-Alyousfi and Saha 2020). Các kết quả khác
nhau có thể là do các nghiên cứu được thực hiện theo không gian, thời gian, phương
pháp tiếp cận khác nhau.
55
Thứ ba, các nghiên cứu sử dụng các chỉ tiêu như vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản,
tổng nợ trên tổng tài sản, nợ ngắn hạn trên tổng tài sản, nợ dài hạn trên tổng tài sản làm
đại diện cho CTV của NHTM. Tuy nhiên, các chỉ tiêu như vậy lại tương tự với các chỉ
tiêu phản ánh CTV của các doanh nghiệp phi tài chính. Trong khi đó, CTV của NHTM
có sự khác biệt rất lớn với CTV của doanh nghiệp phi tài chính (Gropp and Heider 2010;
Sibindi 2018). Vì vậy, dể đánh giá chính xác CTV của NHTM, dựa trên nghiên cứu của
Gropp và Heider (2010), Sibindi (2018), Widyastuti và cộng sự (2019) về CTV của
NHTM, tác giả đưa vào mô hình hai biến đại diện cho CTV của NHTM là Tiền gửi
khách hàng trên tổng tài sản và Nợ phi tiền gửi trên tổng tài sản.
Tại Việt Nam, phần lớn các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy có các
nghiên cứu về các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn, các nhân tố tác động đến hiệu quả
hoạt động của các NHTM. Ngoài ra còn các nghiên cứu về sự tác động của cấu trúc vốn
đến hiệu quả hoạt động cho các ngành nghề khác cụ thể như xi măng, dệt, dược phẩm,
hay nghiên cứu thuộc lĩnh vực chung. Tuy nhiên rất ít nghiên cứu về ảnh hưởng của
cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro cho nhóm doanh nghiệp tài chính tại Việt Nam,
tiêu biểu là các NHTM. Đây cũng chính là khoảng trống mà chưa nghiên cứu nào được
thực hiện tại Việt Nam.
Về thời gian nghiên cứu, tại Việt Nam có rất ít các nghiên cứu trong lĩnh vực
ngân hàng liên quan đến mảng cấu trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro trong khoảng thời gian
dài nhất là từ giai đoạn khủng hoảng tài chính của nền kinh tế, trong giai đoạn này việc
lựa chọn CTV phù hợp là một trong những quyết định tài chính quan trọng của NHTM
nhằm tránh được những rủi ro phá sản, vì vậy nghiên cứu này của tác giả thời gian sẽ
kéo dài từ năm 2012 đến năm 2020. Đây cũng là giai đoạn các NHTM Việt Nam thực
hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ tại Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012
về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”, các ngân
hàng thực hiện tái cơ cấu theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn và hiệu quả đủ khả
năng cạnh tranh với các tổ chức tín dụng lớn trong khu vực trong bối cảnh hội nhập mới.
Về phương pháp nghiên cứu, các nghiên cứu trước đây về chủ đề này thường
được thực hiện theo cách tiếp cận tần suất truyền thống (frequentist) như FEM, REM,
GMM, dẫn đến các kết quả khác nhau khi đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi
nhuận và rủi ro của NHTM. Phương pháp tần suất này có nhược điểm là độ chính xác
56
của mô hình phụ thuộc vào kích thước mẫu phải đủ lớn để đưa ra kết luận hợp lý vì cỡ
mẫu nhỏ có thể làm giảm độ chính xác của diễn giải kết quả thống kê (Muthén & Curran,
1997). Nhưng chỉ nghiên cứu trong phạm vi một ngành, một lĩnh vực thì việc có được
số lượng mẫu lớn là rất khó khăn. Phương pháp Bayes khắc phục được nhược điểm này
của phương pháp tần suất vì có thể cho ra kết quả đáng tin cậy với cỡ mẫu nhỏ (Baldwin
& Fellingham, 2013). Ngoài ra, suy luận Bayes dựa trên một quy tắc xác suất duy nhất,
quy tắc Bayes, được áp dụng cho tất cả các mô hình tham số (Berger, 1993). Điều này
làm cho cách tiếp cận Bayes trở nên phổ biến và tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho
việc áp dụng và giải thích kết quả. Do thời gian nghiên cứu chỉ là 9 năm cho 30 NHTM
Việt Nam, vì vậy cỡ mẫu chúng ta chỉ có 270 quan sát. Với số quan sát quá ít nên nghiên
cứu này không thể phân tích hồi quy theo phương pháp tần suất truyền thống. Vì thế,
phương pháp Bayes là cách tiếp cận phù hợp trong luận án này vì cỡ mẫu nhỏ và dữ
liệu bảng (kết hợp giữa dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo).
Từ những khoảng trống nghiên cứu trên là cơ sở để tác giả lựa chọn hướng
nghiên cứu về tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng
thương mại Việt Nam. Mô hình nghiên cứu của luận án vừa kế thừa một phần ý tưởng
từ các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, vừa thực hiện bổ sung, điều chỉnh để hoàn
thiện hơn đối với vấn đề nghiên cứu là tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi
ro của các NHTM tại Việt Nam.
57
Tóm tắt chương 2
Trong chương 2, tác giả đã trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến tác động của
CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM. Bên cạnh việc trình bày cơ sở lý thuyết, tác
giả cũng tiến hành lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm liên quan trên thế giới và tại
Việt Nam về tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM, qua đó xác định khe
hở của chủ đề nghiên cứu, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chương tiếp theo của luận
án.
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước, trong chương 3 tác giả sẽ trình bày
phương pháp và mô hình nghiên cứu của luận án.
58
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Giới thiệu chương 3
Trên cơ sở lý thuyết về cấu trúc vốn, lợi nhuận, rủi ro ngân hàng và lược khảo
các nghiên cứu thực nghiệm đã nêu ở chương 2, chương 3 của luận án sẽ trình bày
phương pháp định lượng theo cách tiếp cận Bayes để đo lường tác động của cấu trúc
vốn tới lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng
trong nội dung chương 3 này luận án sẽ trình bày mô hình nghiên cứu đề xuất, mô tả dữ
liệu và nguồn dữ liệu nghiên cứu thu thập từ các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2012
– 2020. Cuối cùng, luận án sẽ xây dựng các giả thuyết nghiên cứu căn cứ vào lý thuyết
và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây.
3.1 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU
Bước 1: Tác giả lược khảo cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước liên quan đến
giá tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại. Từ
đó, xác định khoảng trống nghiên cứu.
Bước 2: Trên cơ sở các nghiên cứu trước có liên quan, tác giả tiến hành xây dựng
mô hình nghiên cứu thực nghiệm và phương pháp nghiên cứu.
Bước 3: Để phân tích tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của ngân
hàng thương mại Việt Nam, luận án xây dựng và thiết kế biến, thu thập và xử lý dữ liệu
định lượng, sau đó luận án sẽ sử dụng phần mềm kinh tế lượng thích hợp với phương
pháp, mô hình nghiên cứu để ước lượng mô hình nghiên cứu thực nghiệm.
Bước 4: Luận án sử dụng bảng dữ liệu thứ cấp để thực hiện kiểm định mô hình
nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu bằng cách thực hiện mô hình hồi quy Bayes.
Bước 5: Luận án trình bày kết quả nghiên cứu, phân tích và đánh giá tác động
của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam dựa
trên kết quả ước lượng và các kiểm định đồng thời thảo luận và so sánh với kết quả của
các nghiên cứu trước liên quan.
59
Bước 6: Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra kết luận và hàm ý chính
sách để hoàn thiện cấu trúc vốn cho các NHTM Việt Nam nhằm nâng cao lợi nhuận và
hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất.
Quy trình nghiên cứu được tóm tắt ở hình 3.1 sau đây:
Bước 1 Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước, xác định khoảng trống nghiên cứu
Bước 2
Xây dựng mô hình và phương pháp nghiên cứu
Bước 3 Phân tích tác động của cấu trúc vốn tới lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng thương mại Việt Nam.
BAYES Xử lý dữ liệu định lượng Phân tích hồi quy
Xây dựng và thiết kế biến
Bước 4
Kiểm định mô hình hồi quy
Bước 5
Phân tích kết quả và thảo luận
Bước 6
Gợi ý chính sách và hạn chế của đề tài
Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu
60
3.2 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
3.2.1 Các biến nghiên cứu
3.2.1.1 Lợi nhuận ngân hàng
Tương tự với các nghiên cứu theo tác giả lược khảo trước đây, để đo lường lợi
nhuận của các NHTM Việt Nam luận án sử dụng hai chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng tài
sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng tài sản ROA thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản của các
NHTM, nó cho biết 100 đồng tài sản của NHTM thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận sau thuế. Chỉ tiêu ROA được tính bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế chia cho tổng
tài sản. Độ lớn của tỷ số này cao thể hiện hiệu quả cao trong sử dụng tài sản của NHTM.
Dựa vào nghiên cứu của Jadah và cộng sự (2020), Molla (2020), Widyastuti và cộng sự
(2019). Chỉ tiêu này được tính toán dựa vào công thức sau:
Lợi nhuận sau thuế ROA= Tổng tài sản
Chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
chủ sở hữu của NHTM. ROE tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng sau thuế chia cho vốn
chủ sở hữu. Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng vốn chủ sở hữu của NHTM thì tạo ra được
bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế dành cho cổ đông. Dựa vào nghiên cứu của Jadah và
cộng sự (2020), Molla (2020), Widyastuti và cộng sự (2019). Chỉ tiêu ROE được tính
toán dựa vào công thức sau:
Lợi nhuận sau thuế ROE= Vốn chủ sở hữu
3.2.1.2 Rủi ro ngân hàng
Luận án đo lường rủi ro của các NHTM Việt Nam bằng chỉ số Z-score. Hệ số Z-
score càng cao thì mức độ ổn định tài chính của ngân hàng càng lớn. Và ngược lại, hệ
số Z-score càng nhỏ thì ngân hàng càng có nguy cơ phá sản cao. Kế thừa từ các nghiên
cứu trước Laeven và cộng sự (2009), Houston và cộng sự (2010), Lepetit và Strobel
(2014) luận án sử dụng logarit tự nhiên của chỉ số Z-score. Chỉ số Z-score tăng lên cho
thấy ngân hàng có sự ổn định tài chính cao hơn ít gặp rủi ro hơn và khả năng phá sản
của các NHTM giảm. Chỉ số Z-score được tính toán dựa vào công thức sau:
61
Z-score = ROA +E/A δ(ROA)
Trong đó
ROA: Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản của các ngân hàng (Lợi nhuận sau thuế trên
tổng tài sản)
E/A: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng
δ(ROA): Độ lệch chuẩn của ROA (được tính bằng cách ước tính độ lệch chuẩn của ROA
trong thời gian 3 năm liên tục bao gồm năm nay và hai năm trước đó và tiếp tục nguyên
tắc này trên phần còn lại của mẫu nghiên cứu)
3.2.1.3 Các biến độc lập
Tiền gửi khách hàng
Cấu trúc vốn của NHTM có sự khác biệt lớn so với các doanh nghiệp phi tài
chính do nguồn vốn được tài trợ chủ yếu bằng tiền gửi khách hàng và nợ phi tiền gửi
(Gropp and Heider 2010). Tiền gửi khách hàng cho biết khả năng huy động vốn thường
xuyên của ngân hàng, đây là nguồn vốn lớn nhất trong cơ cấu tổng nguồn vốn của
NHTM. Ngoài ra, ngân hàng còn huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá, vay ngân
hàng khác hoặc vay ngân hàng trung ương. Với vai trò là trung gian tín dụng, các ngân
hàng huy động từ người gửi tiền và cho vay những người thiếu tiền, đóng vai trò then
chốt giúp ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô, đa dạng hóa các
sản phẩm tín dụng. Khi ngân hàng xây dựng được uy tín, chất lượng sản phẩm, dịch vụ
tốt sẽ thu hút được số lượng lớn người gửi tiền, từ đó giúp ngân hàng cho vay cũng như
tiếp cận khách hàng ở những sản phẩm, dịch vụ khác, từ đó đạt được lợi nhuận cao hơn.
Lý thuyết đại diện cũng cho rằng ngân hàng có thể đạt lợi nhuận cao hơn khi sử dụng
đòn bẩy tài chính cao do cắt giảm chi phí đại diện. Tuy nhiên, khi ngân hàng sử dụng
đòn bẩy tài chính quá cao có thể làm giảm mức độ ổn định tài chính của các NHTM, rủi
ro của NHTM sẽ tăng lên. Mặc dù tỷ lệ đòn bẩy tài chính của NHTM rất cao so với các
doanh nghiệp phi tài chính nhưng các ngân hàng cần phải đáp ứng nhiều chỉ tiêu về an
toàn trong hoạt động ngân hàng như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo hiệp ước Basel I,
Basel II, Basel III. Khi ngân hàng đáp ứng các chỉ tiêu đó, tỷ lệ đòn bẩy có xu hướng
62
giảm xuống. Vì vậy, tác giả đề xuất giả thuyết:
Giả thuyết H1a: Tiền gửi khách hàng có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của NHTM.
Giả thuyết H1b: Tiền gửi khách hàng có tác động cùng chiều đến rủi ro của NHTM.
Nợ phi tiền gửi
Để đáp ứng yêu cầu về vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh, NHTM có thể phát
hành giấy tờ có giá, vay ngân hàng khác hoặc vay ngân hàng trung ương. Đây là khoản
nợ được xem như là có liên quan chặt chẽ đến nợ dài hạn của ngân hàng, bao gồm nợ
dài hạn ưu tiên trước khi thanh lý (senior long term debt), nợ hạng 2, chứng khoán nợ
(Gropp and Heider 2010). Các ngân hàng huy động nguồn tiền này với lãi suất cao hơn
và không thường xuyên so với các khoản tiền gửi để tài trợ cho các dự án. Vì vậy, ngân
hàng sẽ áp đặt lãi suất cao hơn khi cho vay. Kết quả là ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận
cao hơn nhưng rủi ro cũng lớn hơn. Hơn nữa, tương tự như tiền gửi khách hàng, khi
ngân hàng gia tăng nợ phi tiền gửi trong tổng nguồn vốn, đòn bẩy tài chính của ngân
hàng cũng sẽ tăng lên và ngân hàng sẽ đạt được lợi nhuận nhiều hơn (Gropp and Heider
2010). Lý thuyết đại diện cũng cho thấy ngân hàng có đòn bẩy tài chính cao sẽ đạt được
lợi nhuận nhiều hơn do chi phí đại diện giảm xuống. Để đảm bảo an toàn và giảm rủi ro
trong hoạt động, các ngân hàng cần đáp ứng các chỉ tiêu về an toàn và đòn bẩy tài chính
có xu hướng giảm xuống. Vì vậy, tác giả đề xuất giả thuyết:
Giả thuyết H2a: Nợ phi tiền gửi có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của NHTM.
Giả thuyết H2b: Nợ phi tiền gửi có tác động cùng chiều đến rủi ro của NHTM.
Vốn ngân hàng
Các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu lớn có tấm đệm tài chính tốt hơn nhằm ứng
phó hơn với các biến động của thị trường, do đó có mức độ an toàn cao hơn so với các
ngân hàng có tỷ lệ vốn thấp. Mặt khác, các ngân hàng có vốn lớn sẽ tạo dựng được uy
tín cao cho người gửi tiền và khách hàng vay vốn. Từ đó có thể đa dạng hóa nguồn thu
và tác động tích cực đến lợi nhuận của NHTM. Bên cạnh đó, ngân hàng có nhiều vốn
hơn sẽ giảm bớt nhu cầu huy động vốn từ bên ngoài có chi phí cao hơn và có khả năng
63
tạo ra lợi nhuận tốt hơn so với các ngân hàng có vốn chủ sở hữu thấp. Tuy nhiên, lợi
nhuận đạt được trên mỗi đồng tài sản và mỗi đồng vốn cổ đông bỏ ra có thể giảm nếu
lợi nhuận tăng lên không tương ứng với tỷ lệ vốn tăng. Theo lý thuyết đại diện và nghiên
cứu của Berger và di Patti (2006), ngân hàng có vốn cao hơn sẽ đạt lợi nhuận thấp hơn.
Do ngân hàng là lĩnh vực đặc biệt, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế và rất nhạy
cảm với các biến động trong nền kinh tế nên cần sự giám sát đặc biệt của cơ quan quản
lý. Các ngân hàng phải đáp ứng nhiều chỉ tiêu về an toàn, trong đó có chỉ tiêu an toàn
vốn tối thiểu theo tiêu chuẩn Basel I, Basel II, Basel III. Và vốn ngân hàng có xu hướng
tăng lên để đáp ứng các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do đó,
tác giả đề xuất giả thuyết:
Giả thuyết H3a: Vốn ngân hàng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận của NHTM.
Giả thuyết H3b: Vốn ngân hàng có tác động ngược chiều đến rủi ro của NHTM.
Quy mô ngân hàng
Biến quy mô ngân hàng được đo bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng tài sản được
lấy làm biến dại diện cho quy mô của một ngân hàng thương mại, trong trường hợp nếu
lấy tổng tài sản để đại diện cho quy mô ngân hàng thì sẽ có khoảng cách khá xa giữa các
nhóm ngân hàng làm ảnh hưởng đến kết quả hồi quy. Do đó, phương pháp tính quy mô
ngân hàng bằng hàm logarit của tổng tài sản được sử dụng phổ biến hơn cả. Quy mô
ngân hàng có ảnh hưởng tích cực, mạnh mẽ đến lợi nhuận của NHTM do có khả năng
đa dạng hóa danh mục cho vay và đầu tư, mở rộng mạng lưới rộng khắp, đầu tư mạnh
mẽ về công nghệ, thương hiệu có uy tín và mức độ tín nhiệm cao của khách hàng cũng
như nhà đầu tư (Al-Kayed et al. 2014). Ngoài ra, các ngân hàng có quy mô lớn có thể
giảm chi phí đầu vào và chi phí hoạt động nhờ vào sự chuyên môn hóa (Sufian 2011;
Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh 2016). Bên cạnh đó, tổng tài
sản đại diện cho quy mô của ngân hàng, ngân hàng có tổng tài sản càng lớn chứng tỏ
ngân hàng có nguồn huy động tiền gửi khách hàng dồi dào và khả năng thanh khoản tốt
(Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng 2015). Tại Việt Nam, đa số những ngân hàng
có quy mô lớn thường những ngân hàng lâu đời và có uy tín rộng rãi trong công chúng,
có số lượng khách hàng và mạng lưới hoạt động được mở rộng. Khi quy mô ngân hàng
càng lớn các khả năng đa dạng hóa danh mục cho vay và đầu tư, hệ thống quản lý rủi ro
64
của những ngân hàng lớn sẽ tốt hơn những ngân hàng còn lại (Lê Ngọc Quỳnh Anh
2020). Hơn nữa, các ngân hàng thương mại có quy mô lớn thường ít rủi ro hơn và ổn
định hơn (Saif-Alyousfi and Saha 2020). Do đó, hệ số hồi quy đối với biến đại diện cho
quy mô ngân hàng kỳ vọng có tác động tích cực đến lợi nhuận của NHTM và tác động
ngược chiều với rủi ro của NHTM.
Trong luận án, để đánh giá tác động của quy mô ngân hàng đến lợi nhuận và rủi
ro trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:
SIZE = Logarit tổng tài sản
Dư nợ cho vay
Các ngân hàng có dư nợ trên tổng tài sản cao có xu hướng kém thanh khoản hơn.
Tuy nhiên, các khoản nợ của khách hàng càng cao thì ngân hàng gặt hái được nhiều lợi
nhuận hơn do đây là tài sản có sinh lãi cao, nhưng ngân hàng phải thiết lập quản lý rủi
ro cho các khoản vay này. Khi tiền gửi được chuyển hóa thành các khoản cho vay, ngân
hàng sẽ thu được lợi nhuận cao hơn do cho vay là nguồn thu nhập chủ yếu của các
NHTM Việt Nam (Le 2017). Hơn nữa, cho vay nhiều hơn giúp các ngân hàng giảm các
chi phí trung gian do đó, cải thiện lợi nhuận của ngân hàng. Ngoài ra, nghiên cứu của
Mercan (2021), Nguyen và Duong (2020) cho thấy dư nợ cho vay làm tăng rủi ro cho
ngân hàng. Do đó hệ số hồi quy của biến Dư nợ cho vay dự kiến có tác động tích cực
đến lợi nhuận của NHTM và tác động cùng chiều với rủi ro của NHTM.
Trong luận án, để đánh giá tác động của dư nợ cho vay đến lợi nhuận và rủi ro
của ngân hàng trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:
Dư nợ cho vay LOAN = Tổng tài sản
Chi phí hoạt động
Chi phí hoạt động chiếm tỷ lệ khá cao trong toàn bộ chi phí quản lý của ngân
hàng. Chi phí hoạt động bao gồm các chi phí như nhân sự, quản lý, khấu hao, quảng
cáo, cho biết khả năng quản lý chi phí của NHTM. Tỷ số này càng cao cho thấy khả
năng kiểm soát chi phí hoạt động kém và ngược lại. Nghiên cứu của Batten và Vo
(2019), Sufian (2011), Kosmidou (2008) cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa chi phí
65
hoạt động và lợi nhuận của ngân hàng. Chi phí hoạt động chiếm tỷ lệ khá cao trong toàn
bộ chi phí quản lý của ngân hàng. Do đó hệ số hồi quy của biến Chi phí hoạt động dự
kiến có tác động ngược chiều đến lợi nhuận và tác động cùng chiều với rủi ro của
NHTM.
Trong luận án, để đánh giá tác động của chi phí hoạt động đến lợi nhuận và rủi
ro của ngân hàng trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:
Chi phí hoạt động OPE = Tổng tài sản
Lạm phát
Lạm phát có tác động mạnh đến lợi nhuận của ngân hàng. Khi lạm phát cao, ngân
hàng có thể áp đặt mức lãi suất cho vay cao hơn (Rahman et al. 2015). Tuy nhiên, mức
lãi suất vay cao sẽ tạo nên gánh nặng cho ngân sách trả nợ. Vì vậy, khả năng trả nợ của
khách hàng sẽ giảm xuống, tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM. Hơn nữa, khi
lạm phát cao, khách hàng sẽ rút tiền khỏi ngân hàng để trang trải các chi phí, dẫn đến
huy động và cho vay của ngân hàng giảm xuống (Molla 2020). Lạm phát cao cũng dẫn
đến khả năng ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm lạm
phát (Bikker and Vervliet 2017), qua đó làm giảm tổng cầu của nền kinh tế và giảm nhu
cầu vay vốn, tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM. Ngoài ra, lạm phát có thể có
những tác động đến khả năng phá sản của ngân hàng khi thu nhập thực tế khách hàng
vay bị giảm đi, từ đó khiến họ không có khả năng trả nợ, thu nhập của ngân hàng sụt
giảm. Tuy nhiên, nếu giữ mức lạm phát mục tiêu dưới 4% theo World Bank (2019) lạm
phát lúc này tương đối ổn định thì ngân hàng có thể căn cứ vào tỷ lệ lạm phát để điều
chỉnh lãi suất hoặc quản lý chi phí hoạt động hiệu quả, do đó, tăng thu nhập của ngân
hàng và đảm bảo sự ổn định (Nguyen and Duong 2020). Có nhiều quan điểm khác nhau
về tác động của lạm phát đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng. Do đó hệ số hồi quy
của biến Lạm phát dự kiến có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM và tác động
tích cực với rủi ro của NHTM.
Trong luận án, để đánh giá tác động của lạm phát đến lợi nhuận và rủi ro của
ngân hàng trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:
66
INFLAT = Tỷ lệ lạm phát hàng năm
Tăng trưởng GDP
Tăng trưởng GDP cao được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực đến lợi nhuận của
NHTM do kinh tế phát triển mạnh sẽ thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, kích thích
vay nợ nhiều hơn (Molla 2020). Trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng tốt, khả năng trả
nợ của khách hàng cũng cao hơn và làm cho nợ xấu giảm xuống, chi phí trích lập dự
phòng rủi ro tín dụng cũng giảm xuống và lợi nhuận tăng lên tương ứng (Nguyễn Phạm
Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh 2016). Ngoài ra, hoạt động của ngân hàng sẽ
trở nên sôi động hơn, như huy động vốn, cho vay, cung cấp các dịch vụ ngân hàng, dẫn
đến tăng doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó hệ số hồi quy của biến Tăng
trưởng GDP kỳ vọng có tác động cùng chiều với lợi nhuận của NHTM và tác động
ngược chiều với rủi ro của NHTM.
Trong luận án, để đánh giá tác động của tăng trưởng GDP đến lợi nhuận và rủi
ro của ngân hàng trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến nghiên cứu:
GGDP = Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm
Bảng 3.1 Tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu
Tên biến Ký hiệu Nguồn dữ liệu Tác động kỳ vọng đến lợi nhuận Tác động kỳ vọng đến rủi ro
DEP
+ +
NONDEP Tiền gửi khách hàng Nợ phi tiền gửi + +
Vốn ngân hàng CAP - -
SIZE + -
Quy mô ngân hàng Dư nợ cho vay LOAN + + Báo cáo tài chính của ngân hàng Báo cáo tài chính của ngân hàng Báo cáo tài chính của ngân hàng Báo cáo tài chính của ngân hàng Báo cáo tài chính của ngân hàng
67
OPE - +
Chi phí hoạt động
Lạm phát INFLAT Báo cáo tài chính của ngân hàng Tổng cục Thống kê +
GGDP - + - Tăng trưởng GDP Tổng cục Thống kê
Ghi chú: (+) tương quan dương, (-) tương quan âm
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Bảng 3.2 Đo lường các biến sử dụng trong mô hình
Tên biến Ký hiệu Nghiên cứu trước Công thức tính
Lợi nhuận ROA Jadah và cộng sự Lợi nhuận sau
(2020), Molla (2020), thuế/Tổng tài sản
Widyastuti và cộng sự ROE Lợi nhuận sau (2019) thuế/Vốn chủ sở hữu
Biến Rủi ro Z-score Mercan (2021), Pricillia (Tỷ suất lãi ròng trên
phụ (2015), Saif-Alyousfi và tổng tài sản của ngân
thuộc Saha (2020), Lê Ngọc hàng + Tỷ lệ vốn chủ sở
Quỳnh Anh và cộng sự hữu trên tổng tài
(2020), Nguyen và sản)/Độ lệch chuẩn của
Duong (2020), Phạm tỷ suất lãi ròng trên
Tiến Minh và Bùi Huy tổng tài sản
Hải Bích (2019)
Cấu trúc DEP Gropp và Heider. Tiền gửi khách
Biến vốn (2010), Sibindi (2018), hàng/Tổng tài sản
độc lập Widyastuti và cộng sự
(2019)
68
NONDEP Gropp và Heider Nợ phi tiền gửi/Tổng
(2010), Sibindi (2018) tài sản
CAP Widyastuti và cộng sự Vốn CSH/Tổng tài sản
(2019)
Quy mô SIZE Sufian (2011), Alexiou Logarit tổng tài sản
và Sofoklis (2009), ngân
Kosmidou và cộng sự hàng (2007), Saif-Alyousfi và
Saha (2020), Lê Ngọc Biến Quỳnh Anh và cộng sự kiểm (2020), Nguyen và soát Duong (2020), Nguyễn
Minh Hà và Nguyễn Bá
Hướng (2015)
Dư nợ cho LOAN Sufian (2011), Le Dư nợ cho vay/Tổng tài
vay (2017), Rahman và sản
cộng sự (2015), Mercan
(2021), Nguyen và
Duong (2020), Lê Ngọc
Quỳnh Anh và cộng sự
(2020)
Chi phí OPE Molyneux va Thornton Chi phí hoạt
hoạt động (1992), Nguyễn Minh động/Tổng tài sản
Hà và Nguyễn Bá
Hướng (2015)
Lạm phát INFLAT Molla (2020), Mercan Tỷ lệ lạm phát
(2021), Nguyen và
Duong (2020)
69
Tăng GGDP Molla Tốc độ tăng trưởng (2020),
trưởng Kohlscheen và cộng sự GDP
GDP (2018), Athanasoglou
và cộng sự (2008),
Trujillo-Ponce (2013),
Nguyễn Phạm Nhã Trúc
và Nguyễn Phạm Thiên
Thanh (2016), Le
(2017), Trần Việt Dũng
(2014), Mercan (2021),
Nguyen và Duong
(2020)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
3.2.2 Mô hình nghiên cứu
Bài nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết về cấu trúc vốn, lợi nhuận và rủi ro của
NHTM và kế thừa nghiên cứu của các tác giả được lược khảo ở chương 2, tác giả đề
xuất mô hình nghiên cứu trong đề tài, cụ thể như sau:
Mô hình tổng quát: ROAjt = ∝0 + ∝𝑗𝑡 𝑋𝑗𝑡 + ∝𝑖𝑡 𝑌𝑗𝑡 + 𝜀𝑗𝑡
ROEjt = 𝛽0 + 𝛽𝑗𝑡𝑋𝑗𝑡 + 𝛽𝑖𝑡𝑌𝑗𝑡 + 𝑢𝑗𝑡
Z-scorejt = ɤ0 + ɤ𝑗𝑡𝑋𝑗𝑡 + ɤ𝑖𝑡𝑌𝑗𝑡 + µ𝑗𝑡
Trong đó:
∝0, 𝛽0, ɤ0: Hệ số chặn
Xjt : Các biến đại diện cấu trúc vốn của ngân hàng
Yjt : Các biến kiểm soát
∝𝑗𝑡, βjt, ɤ𝑗𝑡: Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng
∝𝑖𝑡, 𝛽𝑖𝑡, ɤ𝑖𝑡: Tác động của biến kiểm soát đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng
εjt, 𝑢𝑗𝑡, µ𝑗𝑡: Phần dư của mô hình
70
Mô hình (1), (2), (3), (4) được sử dụng để đánh giá tác động của CTV đến lợi
nhuận của các NHTM Việt Nam. Mô hình (5), (6) được dùng để đánh giá tác động của
CTV đến rủi ro của các NHTM Việt Nam. Từ mô hình tổng quát được viết lại như sau:
Bảng 3.3 Các mô hình trong đề tài
Mô hình 1 ROA = ∝0 + ∝1DEP + ∝2NONDEP + ∝3SIZE + ∝4LOAN +
∝5OPE + ∝6INF+ ∝7GGDP + ε
Mô hình 2 ROE = β0 + β1DEP + β2NONDEP + β3SIZE + β4LOAN +
β5OPE + β6INF + β7GGDP + u
Mô hình 3 ROA = ∝0 + ∝1CAP+ ∝2SIZE + ∝3LOAN + ∝4OPE + ∝5INF+
∝6GGDP + ε
Mô hình 4 ROE = β0 + β1CAP + β2SIZE + β3LOAN + β4OPE + β5INF+
β6GGDP + u
Mô hình 5 Z-score = ɤ0 + ɤ1DEP + ɤ2NONDEP + ɤ3SIZE + ɤ4LOAN +
ɤ5OPE + ɤ6INF+ ɤ7GGDP + µ
Mô hình 6 Z-score = ɤ0 + ɤ1CAP + ɤ2SIZE + ɤ3LOAN +ɤ4OPE +
ɤ5INF+ ɤ6GGDP + µ
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
3.3 PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG
Trong thống kê tần suất (truyền thống), các tham số của tổng thể được xem là
hằng số cố định nhưng chưa biết. Tuy nhiên, việc giả định các tham số là hằng số đối
với dữ liệu chuỗi thời gian là không phù hợp vì các tham số sẽ có sự thay đổi (Lê Thanh
Hoa và cộng sự 2017). Đối với thống kê Bayes, các tham số được xem là các đại lượng
ngẫu nhiên và và biến động theo một quy luật phân phối (van de Schoot and Depaoli
71
2014; Bolstad and Curran 2016). Phương pháp tiếp cận tần suất phụ thuộc hoàn toàn
vào dữ liệu quan sát để đưa ra kết luận. Trong khi đó, phương pháp Bayes cung cấp một
cách tiếp cận ước lượng mạnh mẽ hơn bằng cách sử dụng không chỉ dữ liệu có sẵn mà
còn kết hợp một số thông tin hoặc kiến thức hiện có về các tham số mô hình (van de
Schoot and Depaoli 2014). Do đó, phương pháp tần suất cần có bộ dữ liệu đủ lớn để đưa
ra kết luận hợp lý vì cỡ mẫu nhỏ có thể làm giảm độ chính xác của diễn giải kết quả
thống kê (Muthén and Curran 1997). Trong khi đó, vấn đề cỡ mẫu nhỏ thường xuyên
xuất hiện trong các nghiên cứu khoa học do các yếu tố đặc thù gây cản trở như chi phí
hoặc các ràng buộc về đạo đức (Mariëlle et al. 2017; Rocchetti et al. 2013; van der Lee
et al. 2008). Phương pháp Bayes khắc phục được nhược điểm này của phương pháp tần
suất vì có thể cho ra kết quả đáng tin cậy với cỡ mẫu nhỏ (Baldwin and Fellingham
2013). Ngoài ra, suy luận Bayes dựa trên một quy tắc xác suất duy nhất, quy tắc Bayes,
được áp dụng cho tất cả các mô hình tham số (Berger 1993). Điều này làm cho cách tiếp
cận Bayes trở nên phổ biến và tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho việc áp dụng và giải
thích kết quả. Vì vậy, phương pháp Bayes là cách tiếp cận phù hợp trong đề tài này vì
nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng (kết hợp giữa dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo).
Từ xác suất có điều kiện:
p(A|B) = p(A, B) p(B)
Chúng ta có định lý Bayes:
p(B|A) = p(A|B)p(B) p(A)
Trong đó:
p(B|A): Xác suất hậu nghiệm (posterior)
p(A|B): Độ hợp lý của dữ liệu (lilkelihood)
p(B): Xác suất tiên nghiệm (prior)
p(A): Hằng số, xác suất của dữ liệu
A, B là các vectơ ngẫu nhiên
72
Trong phân tích Bayes, nhiều phương pháp có thể được sử dụng để mô phỏng
nhiều mô hình, với những hàm rất phức tạp và mức độ chính xác tùy ý nhà nghiên cứu.
Các phương pháp Markov Chain Monte Carlo (MCMC) để mô phỏng các mô hình
Bayes thường yêu cầu thuật toán lấy mẫu hiệu quả và kiểm định sự hội tụ của chuỗi
MCMC đến phân phối hậu nghiệm dừng (Nguyễn Ngọc Thạch 2019). Trong số các
phương pháp MCMC, được sử dụng rất phổ biến là phương pháp Metropolis-Hastings
và phương pháp Gibbs. Phương pháp lấy mẫu Gibbs được xem là một trường hợp riêng,
có tính chất đặc biệt của thuật toán Metropolis-Hastings (Gelfand et al. 1990), là phương
pháp có hiệu quả rất cao dù đòi hỏi tài nguyên tính toán tương đối lớn. Thuật toán
Metropolis được Metropolis và cộng sự (1953) xây dựng đầu tiên. Sau đó, thuật toán
được Hastings (1970) phát triển hiệu quả hơn.
Trong bài viết này, tác giả sử dụng cách tiếp cận Bayes thông qua thuật toán
Random-walk Metropolis-Hastings và phương pháp lấy mẫu Gibbs nhằm tìm hiểu ảnh
hưởng của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM Việt Nam trong giai đoạn từ năm
2012 đến năm 2020. Do các nghiên cứu trước liên quan đến bài viết này sử dụng phương
pháp truyền thống nên thông tin về phân phối tiên nghiệm không có sẵn. Do đó, tác giả
đề xuất phân phối chuẩn là N(1, 100) cho hệ số hồi quy các biến quan sát và phân phối
Igamma (0,01; 0,01) cho các phương sai trong mô hình. Tác giả lựa chọn phân phối tiên
nghiệm là phân phối chuẩn cho hệ số hồi quy các biến quan sát vì phân phối chuẩn là
phân phối phổ biến và phù hợp với phân phối của bộ số liệu tài chính sử dụng trong
nghiên cứu; phân phối Igamma cho các phương sai vì số liệu tài chính có nhiều giá trị
bất thường (outlier), không ổn định. Phân phối tiên nghiệm có thể được viết lại như sau:
α ∼ N(1; 100)
σ2 ∼ Invgamma(0,01; 0,01)
3.4 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
3.4.1 Mô tả dữ liệu nghiên cứu
Luận án thu thập dữ liệu thứ cấp về tình hình tài chính của các NHTM Việt Nam
được lấy từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của 30 NHTM Việt Nam trong
giai đoạn 2012 - 2020. Theo NHNN, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng là 14.019.553
triệu tỷ đồng vào cuối năm 2020. Do đó, bộ dữ liệu này tương đối đầy đủ vì tổng tài sản
73
của 30 NHTM chiếm xấp xỉ 86% tổng tài sản của các NHTM. Theo thống kê của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, tại thời điểm 31/12/2020, tổng số NHTM là 35, trong đó có
31 NHTM cổ phần, 4 NHTM 100% vốn nhà nước. Ngoài ra, trong số 31 NHTM cổ
phần, có một NHTM không công bố báo cáo tài chính trong những năm gần đây (NHTM
Đông Á). Trong số 30 NHTM cổ phần trong mẫu nghiên cứu, có 3 NHTM cổ phần do
nhà nước nắm quyền chi phối và 27 NHTM cổ phần tư nhân. Do đó, bài nghiên cứu xây
dựng bộ dữ liệu gồm 30 NHTM thời gian nghiên cứu là 9 năm từ 2012 – 2020, kích cỡ
mẫu gồm 270 quan sát. Đối với dữ liệu vĩ mô, tác giả thu thập từ số liệu của Tổng cục
Thống kê.
3.4.2 Kiểm định mô hình
Để kiểm định tính vững của mô hình dựa trên phương pháp Bayes, cần thực hiện
chẩn đoán chuỗi MCMC hội tụ. Nếu chuỗi MCMC hội tụ, mô hình được xác định là
vững (Nguyen 2020). Sự hội tụ của chuỗi MCMC được kiểm định thông qua chẩn đoán
hình ảnh bằng biểu đồ vết, biểu đồ tự tương quan, biểu đồ phân phối hậu nghiệm. Nếu
kết quả kiểm định cho thấy biểu đồ vết không tạo xu hướng, biểu đồ tự tương quan rớt
nhanh (<40) cho thấy tự tương quan thấp, biểu đồ phân phối hậu nghiệm (histogram)
mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất đồng nhất thì có thể sử dụng kết quả để
phân tích (Sriboonchitta et al. 2019; Svítek et al. 2019. Ngoài ra, cần đánh giá sai số
chuẩn chuỗi MCMC (MCSE) và số lượng mẫu hiệu quả (ESS). Nếu MCSE nhỏ, dưới
0,1, cho thấy các tham số ước lượng khá chính xác, có thể kết luận suy diễn Bayes là
hợp lý và mô hình vững nên có thể phân tích kết quả (Nguyen et al. 2019; Kreinovich
et al. 2019).
74
Tóm tắt chương 3
Trong chương 3, tác giả đã trình bày phương pháp thực hiện nhằm đạt được mục
tiêu nghiên cứu. Quá trình này gồm các bước: (i) bước 1: Xây dựng mô hình thể hiện
tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của NHTM; (ii) bước 2: Thu thập số liệu và
ước lượng mô hình; (iii) bước 3: Thực hiện các kiểm định cần thiết; (iv) bước 4: Phân
tích, đánh giá và đưa ra kết luận về tác động của của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của
các NHTM Việt Nam.
Mô hình nghiên cứu được tác giả phát triển trên cơ sở các nghiên cứu của Gropp
và Heider (2010), Sibindi (2018), Mercan (2021) và các nghiên cứu thực nghiệm khác.
Tiếp theo, mô hình được ước lượng bằng phương pháp Bayes và thuật toán lấy mẫu
Gibbs. Sau đó, các kiểm định được thực hiện để đảm bảo mô hình vững và có thể được
sử dụng để phân tích kết quả.
75
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Giới thiệu chương 4
Trong chương này, luận án sẽ tiến hành đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến
lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua việc ước lượng
các mô hình nghiên cứu ở chương 3. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm với dữ liệu gồm
270 quan sát của 30 NHTM Việt Nam trong khoảng thời gian 9 năm từ 2012 đến 2020
sẽ được trình bày và thảo luận trong chương này.
4.1 THỐNG KÊ MÔ TẢ VÀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIẾN
Nghiên cứu được thực hiện với số lượng mẫu gồm 30 NHTM Việt Nam trong
giai đoạn 2012 – 2020. Bảng 4.1 thể hiện thống kê mô tả các biến nghiên cứu, được khái
quát bằng các chỉ số thống kê như số quan sát, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị
lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, qua đó cho thấy sự phân tán giữa các biến trong mẫu nghiên
cứu.
Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong giai đoạn 2012 – 2020
Tên biến quan Giá trị Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn Số
trung bình chuẩn nhất nhất sát
0,0071 0,0058 0,0001 0,0280 ROA 248
0,0830 0,0636 0,0002 0,2582 ROE 245
ln_Zscore 233 4,1249 1,0798 1,2208 7,9168
DEP 248 0,6740 0,1139 0,1746 0,9282
NONDEP 248 0,2322 0,1018 0,0161 0,5062
CAP 248 0,0937 0,0621 0,0262 0,6148
SIZE 248 32,4213 1,1431 29,4911 34,9553
LOAN 248 0,5685 0,1134 0,2162 0,7880
76
OPE 248 0,0171 0,0068 0,0067 0,0692
INFLAT 261 0,0422 0,0230 0,0063 0,0921
GGDP 261 0,0592 0,0123 0,0291 0,0708
Nguồn: Tính toán của tác giả
Để phân tích đánh giá khái quát về lợi nhuận của các NHTM Việt Nam luận án
sử dụng 2 chỉ tiêu: Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) và chỉ tiêu Tỷ suất sinh lời trên
VCSH (ROE). Xu hướng biến động của ROA và ROE của các các NHTM Việt Nam
giai đoạn 2012 – 2020 được thể hiện qua hình dưới đây:
1
12
0.9
10
0.8
0.7
8
0.6
0.5
6
0.4
4
0.3
0.2
2
0.1
0
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
ROA
ROE
Lợi nhuận của các NHTM (%)
Hình 4.1 Lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020
Chỉ tiêu ROA thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản trong hoạt động kinh doanh. Đây
là một chỉ tiêu khá toàn diện trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của NHTM. Tỷ
số này đo lường khả năng sinh lời trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho
biết cứ 1 đồng tài sản thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Ví dụ, ROA =
10% có nghĩa là bình quân một đồng tài sản sử dụng trong sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra
0,1 đồng lợi nhuận. Giá trị trung bình của chỉ tiêu ROA đạt giá trị 0,71% có nghĩa là với
100 đồng tài sản các ngân hàng trung bình sẽ thu được 0,71 đồng lợi nhuận sau thuế.
Trong số các NHTM trong mẫu nghiên cứu thì có Ngân hàng TMCP Quốc Dân năm
2020 đạt tỷ suất sinh lợi thấp nhất với giá trị là 0,1% còn Ngân hàng TMCP Kỹ thương
77
Việt Nam đạt giá trị cao nhất là 2,8% vào năm 2020.
Chỉ tiêu ROE cho biết cứ 1 đồng vốn mà chủ sở hữu bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ ngân hàng sử dụng có hiệu quả
VCSH. Chỉ số này càng cao, các nhà quản trị ngân hàng càng có lợi thế trong việc đi
huy động vốn trên thị trường tài chính để hỗ trợ đầu tư vào các kế hoạch kinh doanh của
ngân hàng. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ ngân hàng đang sử dụng hiệu quả đồng
vốn của cổ đông, có nghĩa là ngân hàng đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông
với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn,
mở rộng quy mô. Các nhà đầu tư thường coi trọng đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn
chủ sở hữu vì họ quan tâm đến khả năng thu được lợi nhuận từ đồng vốn mà họ bỏ ra.
Trong số các NHTM trong mẫu nghiên cứu Ngân hàng TMCP Quốc Dân đạt tỷ suất
sinh lợi thấp nhất với giá trị là 0,02% vào năm 2020 và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt
Nam đạt giá trị cao nhất là 25,82% vào năm 2020. Hơn nữa, qua bảng 4.1 cho thấy giá
trị trung bình của ROE là là 8,3% và độ lệch chuẩn là 0,0636. Bên cạnh đó, qua hình 4.1
ta thấy tỷ số ROE của các NHTM có xu hướng giảm trong giai đoạn 2012 đến 2015.
Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 2016–2020, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng có
xu hướng cải thiện khi chỉ tiêu ROE bắt đầu tăng trở lại trong giai đoạn này.
Về rủi ro của ngân hàng, tác giả sử dụng logarit tự nhiên của chỉ số Z-Score để
đưa vào mô hình hồi quy tương tự như trong các bài nghiên cứu của Laeven và Levine
(2009), Lepetit và Strobel (2014). Ngoài ra, với dữ liệu của Việt Nam có biến động
mạnh qua các năm thì việc sử dụng hàm logarit sẽ làm giảm sự biến động mạnh và sự
chênh lệch lớn giữa các ngân hàng thương mại cổ phần và làm cho kết quả của bài
nghiên cứu sẽ trở nên chính xác hơn. Qua bảng 4.1 cho thấy kết quả thống kê mô tả về
rủi ro của 30 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2012–2020. Qua đó,
biến đại diện cho mức độ rủi ro là Z-score bình quân tại 30 NHTM Việt Nam trong giai
đoạn 2012-2020 là 4,1249, và độ lệch chuẩn là 1,0798.
78
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
Rủi ro của các NHTM
Hình 4.2 Rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020
Hình 4.2 mô tả biến động của chỉ số Z-score bình quân của các NHTM Việt Nam
qua các năm từ 2012 – 2020. Qua hình 4.2 cho thấy chỉ tiêu này có xu hướng tăng nhẹ
qua các năm 2012 – 2016, đây là giai đoạn thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống
ngân hàng, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông
lệ, chuẩn mực quốc tế. Giai đoạn 2017 – 2020, nhìn tổng thể chỉ số Z-score giảm nhẹ
qua các năm. Trong mẫu nghiên cứu, chỉ số Z-score có giá trị thấp nhất trong 9 năm từ
2012 – 2020 là 1,2208 thuộc về Ngân hàng TMCP Tiên Phong vào năm 2013 thể hiện
mức độ rủi ro phá sản cao và cao nhất là 7,9168 thuộc về Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam vào năm 2019.
Đối với các biến thể hiện CTV của NHTM, biến Tiền gửi khách hàng (DEP) có
giá trị trung bình là 67,40%, điều này có nghĩa là cứ 100 đồng tiền gửi của khách hàng
thì được đảm bảo bằng 67,4 đồng tài sản của ngân hàng, cho thấy tiền gửi khách hàng
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các NHTM Việt Nam. Mẫu nghiên cứu
biến thiên trong khoảng 17,46% và cao nhất là 92,82%. Điều này cho thấy có sự chênh
lệch khá lớn giữa Tiền gửi khách hàng giữa các ngân hàng thương mại với nhau, theo
đó độ lệch chuẩn của chỉ tiêu này cũng khá cao lên đến 11,39%.
79
Ngoài ra, qua bảng 4.1 cũng cho thấy Nợ phi tiền gửi (NONDEP) trung bình
chiếm 23,22%, điều này có nghĩa là cứ 100 đồng nợ phi tiền gửi thì chỉ được đảm bảo
bằng 23,22 đồng tài sản của ngân hàng. Mẫu nghiên cứu có giá trị thấp nhất là 1,61%,
cao nhất là 50,62% và độ lệch chuẩn là 0,1018. Điều đó cho thấy Nợ phi tiền gửi có vai
trò khá quan trọng trong CTV của các NHTM Việt Nam.
70
14
60
12
50
10
40
8
30
6
20
4
10
2
0
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
CAP
DEP
NONDEP
CTV của các NHTM (%)
Hình 4.3 CTV của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2020
Biến đại diện cho CTV tiếp theo là Vốn ngân hàng. Vốn ngân hàng đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại tại Việt Nam, chỉ tiêu này là một
trong những chỉ số để đánh giá mức độ lành mạnh tài chính của ngân hàng thương mại.
Được đo lường bằng tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Những ngân hàng có tỷ lệ
này càng cao hơn có nghĩa là đòn bẩy tài chính thấp, mức độ tự chủ về tài chính của các
ngân hàng cao dẫn đến rủi ro ít hơn và ngược lại. Qua bảng 4.1 cho thấy giá trị trung
bình của Vốn ngân hàng là 9,37%. Mẫu nghiên cứu có giá trị thấp nhất là 2,62%, và giá
trị cao nhất là 61,48% với độ lệch chuẩn là 6,21%.
Các biến kiểm soát thuộc về đặc thù ngân hàng bao gồm Quy mô ngân hàng
(SIZE), Dư nợ cho vay (LOAN), Chi phí hoạt động (OPE). Quy mô ngân hàng có sự
chênh lệch lớn giữa các ngân hàng, thể hiện qua độ lệch chuẩn lớn (1,14). Trong đó, quy
mô trung bình của các ngân hàng là 32,4212, đạt giá trị lớn nhất là 34,9553 và nhỏ nhất
80
là 29,4911. Dư nợ cho vay (LOAN) trung bình của các ngân hàng là 56,85, biến thiên
trong khoảng 21,62% và 78,80%. Chi phí hoạt động (OPE) biến động trong khoảng
0,67% đến 6,92% và có giá trị trung bình là 1,71%.
Các biến vĩ mô bao gồm Lạm phát (INFLAT) và Tăng trưởng GDP (GGDP).
Lạm phát bình quân giai đoạn 2012 – 2020 là 4,22%, cao nhất là 6,21% và thấp nhất là
0,63%. Tăng trưởng GDP giai đoạn này trung bình đạt 5,92%, cao nhất và thấp nhất lần
lượt là 7,08% và 2,91%.
Ma trận hệ số tương quan
Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình đánh giá tác động của
CTV đến lợi nhuận NHTM được trình bày trong bảng 4.2.
Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo lợi
nhuận
ROA ROE DEP NONDEP CAP SIZE LOAN OPE INFLAT GGDP
ROA 1.00
ROE 0,8404 1.00
DEP -0,24 -0,05 1,00
NONDEP 0,12 0,16 -0,84 1,00
CAP 0,24 -0,16 -0,45 -0,09 1,00
SIZE 0,22 0,53 0,29 0,01 0.55 1,00
LOAN 0,19 0,30 0,47 -0,47 -0.09 0,29 1,00
OPE 0,40 0,13 -0,34 -0,06 0.75 -0,33 0,04 1,00
INFLAT 0,01 -0,12 -0,26 0,15 0.23 -0,23 -0,29 0,17 1,00
GGDP -0,10 -0,03 0,05 -0,01 -0.77 -0,01 0,04 -0,01 -0,28 1,00
Nguồn: Tính toán của tác giả
Dựa vào bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo
lợi nhuận ở bảng 4.2, có thể đánh giá một cách tổng quát tương quan giữa các biến trong
mô hình nghiên cứu. Hệ số tương quan cho biết mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến,
không phân biệt biến này phụ thuộc vào biến kia. Kết quả từ bảng 4.2 cho thấy hệ số
81
tương quan giữa các biến độc lập và biến kiểm soát trong mô hình nghiên cứu giai đoạn
2012 – 2020. Đối với các biến độc lập là DEP và NONDEP, hệ số tương quan là -0,84,
cho thấy sự tương quan cao giữa hai biến này. Do dó, thay vì đưa cả hai biến vào một
mô hình hồi quy, tác giả kiểm tra tác động của từng biến đối với lợi nhuận của ngân
hàng để tránh hiện tượng đa cộng tuyến. Ngoài ra, hệ số tương quan của các biến kiểm
soát đều nhỏ hơn 0,8. Do đó, có thể kết luận rằng không có sự tương quan của các biến
kiểm soát trong mô hình.
Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình đánh giá tác động của CTV
đến rủi ro NHTM được trình bày trong bảng 4.3.
Bảng 4.3 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo rủi ro
lnZSCORE DEP NONDEP CAP SIZE LOAN OPE INFLAT GGDP
lnZscore 1,00
DEP 0,17 1,00
NONDEP -0,10 -0,93 1,00
CAP -0,18 -0,22 -0,14 1,00
SIZE 0,12 0,21 0,01 -0.61 1,00
LOAN 0,04 0,46 -0,44 -0.08 0,28 1,00
OPE -0,33 -0,14 -0,04 0.51 -0,23 0,08 1,00
INFLAT -0,27 -0,25 0,15 0.27 -0,22 -0,27 0,16 1,00
GGDP 0,06 0,05 -0,025 -0.07 -0,03 0,04 0,01 -0,29 1,00
Nguồn: Tính toán của tác giả
Mối tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy theo rủi ro được thể hiện
qua ma trận hệ số tương quan ở bảng 4.3, có thể đánh giá một cách tổng quát tương quan
giữa các biến trong mô hình nghiên cứu. Hệ số tương quan cho biết mối quan hệ tuyến
tính giữa hai biến, không phân biệt biến này phụ thuộc vào biến kia. Hệ số tương quan
càng lớn cho thấy mối quan hệ giữa hai biến càng chặt và ngược lại khi hệ số tương
quan thấp cho thấy mối quan hệ giữa hai biến không chặt. Ngoài ra, hệ số dương chỉ ra
mối quan hệ cùng chiều giữa các cặp biến, hệ số âm cho thấy quan hệ ngược chiều giữa
hai biến. Kết quả từ bảng 4.3 cho thấy hệ số tương quan giữa các biến độc lập và biến
82
kiểm soát trong mô hình nghiên cứu giai đoạn 2012 – 2020. Tiền gửi khách hàng, quy
mô ngân hàng, dư nợ cho vay, tăng trưởng GDP đều có tương quan dương với chỉ số Z-
score hay nói cách khác có tác động ngược chiều đến rủi ro của ngân hàng. Nợ phi tiền
gửi, chi phí hoạt động, lạm phát tương quan âm với chỉ số Z-score hay nói cách khác tác
động cùng chiều với rủi ro của ngân hàng. Đối với các biến độc lập đại diện cho CTV
của NHTM là DEP và NONDEP, hệ số tương quan là -0,93, cho thấy sự tương quan cao
giữa hai biến này. Do đó, thay vì đưa cả hai biến vào một mô hình hồi quy, tác giả kiểm
tra tác động của từng biến đối với rủi ro của ngân hàng để tránh hiện tượng đa cộng
tuyến.
4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.2.1. Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận của các ngân hàng
ROA là tỷ lệ giữa thu nhập ròng trên tổng tài sản. ROA đo lường lợi nhuận thu
được trên mỗi đồng tài sản và phản ánh mức độ quản lý của ngân hàng sử dụng các
nguồn lực đầu tư của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận (Jahan 2012). Bên cạnh đó, lợi nhuận
ngân hàng được phản ánh tốt nhất thông qua tỷ số ROA do ROA không bị ảnh hưởng
bởi tỷ lệ nợ cao (Rivard and Thomas 1997) và phản ánh tốt hơn lợi nhuận được tạo ra
từ danh mục tài sản. ROE được sử dụng để phân tích lợi nhuận được tạo ra bởi vốn mà
các cổ đông đã đầu tư, được tính bằng tỷ lệ lợi nhuận ròng của một năm trên tổng vốn
chủ sở hữu của cùng năm (Garcia and Guerreiro 2016; Naeem et al. 2017; Pathneja
2016).
Bảng 4.4 đến 4.9 trình bày tóm tắt kết quả hồi quy tác động của CTV đến lợi
nhuận của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2012–2020 theo phương pháp Bayes.
Bảng 4.4 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập DEP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
DEP -0,0159 0,0072 0,0001 -0,0299 -0,0018
SIZE 0,0020 0,0006 0,0000 0,0007 0,0033
83
LOAN 0,0105 0,0071 0,0000 -0,0036 0,0244
OPE 0,3569 0,1121 0,0011 0,1385 0,5789
INFLAT -0,0032 0,0314 0,0003 -0,0671 0,0582
GGDP -0,0449 0,0554 0,0005 -0,1522 0,0631
_cons -0,0565 0,0221 0,0002 -0,1010 -0,0144
var 0,0001 0,0000 0,0000 0,0000 0,0001
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.5 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập NONDEP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
NONDEP 0,0140 0,0074 0,0000 -0,0005 0,0284
SIZE 0,0017 0,0006 0,0000 0,0004 0,0030
LOAN 0,0096 0,0072 0,0000 -0,0042 0,0239
OPE 0,4490 0,1043 0,0010 0,2451 0,6534
INFLAT -0,0024 0,0319 0,0003 -0,0640 0,0597
GGDP -0,0492 0,0563 0,0005 -0,1599 0,0621
_cons -0,0631 0,0216 0,0002 0,1061 -0,0203
var 0,0001 0,0000 0,0000 0,0000 0,0001
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.6 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA và biến độc lập CAP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
CAP 0,0177 0,0187 0,0001 -0,0184 0,0555
SIZE 0,0022 0,0007 0,0000 0,0008 0,0037
LOAN 0,0033 0,0063 0,0000 -0,0094 0,0156
84
OPE 0,3455 0,1503 0,0015 2,0457 0,6456
INFLAT 0,0011 0,0316 0,0003 -0,0605 0,0628
GGDP -0,0402 0,0563 0,0005 -0,1488 0,0719
_cons -0,0745 0,0000 0,0002 -0,1225 -0,0264
var 0,0001 0,0000 0,0000 0,0000 0,0001
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.7 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập DEP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
DEP -0,1534 0,0342 0,0001 -0,2209 -0,0860
SIZE 0,0342 0,0031 0,0000 0,0281 0,0402
LOAN 0,1314 0,0342 0,0003 0,0649 0,1975
OPE 1,1683 0,5313 0,0053 1,1269 3,2065
INFLAT -0,0902 0,1448 0,0014 -0,3876 0,2036
GGDP -0,1708 0,2670 0,0026 -0,6906 0,3530
_cons -1,0203 0,1054 0,0010 -1,2257 -0,8139
var 0,0023 0,0002 0,0000 0,0019 0,0028
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.8 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập NONDEP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
NONDEP 0,1941 0,0344 0,0003 0,1259 0,2608
SIZE 0,0216 0.0025 0,0349 0,0247 0,0366
LOAN 0,1485 0,0336 0,0003 0,0827 0,2136
OPE 3,0545 0,4823 0,0050 2,1211 4,0021
85
INFLAT -0,0930 0,1489 0,0014 -0,3812 0,1981
GGDP -0,2269 0,2581 0,0025 -0,7358 0,2797
_cons -1,0781 0,1002 0,0010 -1,2719 -0,8808
var 0,0022 0,0002 0,0000 0,0019 0,0027
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.9 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE và biến độc lập CAP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
CAP -0,1964 0,0898 0,0008 -0,3712 -0,0211
SIZE 0,0302 0.0035 0,0000 0,0232 0,0373
LOAN 0,0567 0,0312 0,0003 -0,0040 0,1180
OPE 4,2102 0,7204 0,0072 2,7847 5,6391
INFLAT -0,0387 0,1550 0,0015 -0,3451 0,2660
GGDP -0,2451 0,2742 0,0015 -0,7907 0,2915
_cons -0,9687 0,1195 0,0012 -1,2053 -0,7352
var 0,0025 0,0002 0,0000 0,0021 0,0030
Nguồn: Tính toán của tác giả
Để kiểm định tính vững của mô hình dựa trên phương pháp Bayes, cần thực hiện
chẩn đoán chuỗi MCMC hội tụ. Nếu chuỗi MCMC hội tụ, mô hình được xác định là
vững (Nguyen 2020). Sự hội tụ của chuỗi MCMC được kiểm định thông qua chẩn đoán
hình ảnh bằng biểu đồ vết (trace plot), biểu đồ tự tương quan (autocorrelation), biểu đồ
phân phối hậu nghiệm (histogram).
86
Hình 4.4 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA
87
Hình 4.5 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE
88
Kết quả kiểm định từ hình 4.4 và 4.5 cho thấy biểu đồ vết không tạo xu hướng,
biểu đồ tự tương quan rớt nhanh (<40) cho thấy tự tương quan thấp, biểu đồ phân phối
hậu nghiệm (histogram) mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất đồng nhất.
Ngoài ra, kết quả bảng 4.4 đến 4.9 cũng cho thấy sai số chuẩn chuỗi MCMC (MCMC
standard errors - MCSE) là rất nhỏ, dưới 0,1, cho thấy các tham số ước lượng khá chính
xác. Do đó, có thể kết luận suy diễn Bayes là hợp lý và mô hình vững nên có thể phân
tích kết quả.
Ngoài ra, để đánh giá sự hội tụ của chuỗi MCMC, chỉ tiêu ESS (effective sample
size) có thể được sử dụng cùng với chẩn đoán bằng hình ảnh chuỗi MCMC như trên.
Nếu số lượng ESS ước tính càng gần số lượng của chuỗi MCMC (10.000) thì càng hiệu
quả.
Bảng 4.10 Số lượng mẫu hiệu quả
ESS Corr. time Efficiency
10.000 1,0000 1,0000 DEP
1,0000 NONDEP 10.000 1,0000
0.9892 CAP 9892 1.0100
1,0000 SIZE 10.000 1,0000
0,9558 LOAN 9558 1,0500
1,0000 OPE 10.000 1,0000
1,0000 INFLAT 10.000 1,0000
1,0000 GGDP 10.000 1,0000
0,9327 _cons 9327 1,0700
0,8925 var 8925 1,1200
Nguồn: Tính toán của tác giả
Dựa vào bảng 4.10, cho thấy số lượng mẫu hiệu quả ước tính của các tham số là
10.000 hoặc gần bằng 10.000. Do đó, có thể kết luận mức độ hội tụ của chuỗi MCMC
là rất cao.
89
Bảng 4.5 đến 4.9 trình bày kết quả hồi quy đánh giá tác động của các biến độc
lập và các biến kiểm soát đến ROA và ROE của các NHTM Việt Nam. Đối với biến độc
lập Tiền gửi khách hàng (DEP) đại diện cho CTV của các NHTM, kết quả nghiên cứu
từ các mô hình hồi quy cho thấy tiền gửi khách hàng có tác động ngược chiều đến ROA
và ROE. Khi tiền gửi khách hàng tăng lên, hiệu quả quản lý tài sản và hiệu quả sử dụng
vốn của ngân hàng giảm xuống. Điều này có thể giải thích là khi ngân hàng nhận được
tiền gửi nhiều hơn đồng nghĩa với tài sản và đòn bẩy tài chính của ngân hàng gia tăng,
ngân hàng gặp áp lực trong việc sử dụng có hiệu quả số tiền huy động được, dẫn đến
đầu tư vào các dự án hoặc cấp tín dụng một cách kém hiệu quả và làm giảm ROA và
ROE. Do đó, mặc dù lợi nhuận có thể tăng lên nhưng không bù đắp được sự gia tăng
của tài sản kém chất lượng, kết quả này hoàn toàn tương đồng với kết quả nghiên cứu
của Hutchison và Cox (2007), Gohar và Rehman (2016), Anarfo và Appiahene (2017),
Jadah và cộng sự (2020), Trần Việt Dũng (2014) nhưng trái với nghiên cứu của Berger
và di Patti (2006), Al-Omari (2021), Molla (2020), Pratomo và Ismail (2006),
Kyereboah-Coleman (2007), Saona (2010) giả thuyết nghiên cứu và lý thuyết đại diện.
Biến thứ hai đại diện cho CTV của NHTM là Nợ phi tiền gửi (NONDEP). Khác
tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi có tác động cùng chiều đến ROA và ROE trong tất
cả các mô hình hồi quy. Tuy nhiên, kết quả tại bảng 4.5 cho thấy giá trị trung bình hệ số
hồi quy đối với biến độc lập NONDEP và biến phụ thuộc ROA có khoảng tin cậy Bayes
là (-0,0005; 0,0284). Như vậy biến NONDEP sẽ không có tương quan dương hoàn toàn
đến ROA do giá trị của hệ số hồi quy chạy từ miền âm đến miền dương. Do dó, tác giả
tính toán xác suất tác động dương của biến NONDEP đến ROA. Kết quả tính toán cho
thấy xác suất của chiều hướng tác động dương này là 97,01%, củng cố cho tác động
cùng chiều của nợ phi tiền gửi đến ROA của các NHTM Việt Nam. Khi các NHTM huy
động nhiều hơn bằng các khoản nợ phi tiền gửi, đòn bẩy tài chính của ngân hàng cũng
tăng lên tương ứng. Khác với huy động vốn từ tiền gửi khách hàng thường có nhiều kỳ
hạn khác nhau hoặc không kỳ hạn, các NHTM Việt Nam huy động vốn từ các khoản nợ
phi tiền gửi có lãi suất cao hơn và kỳ hạn dài hơn. Mối quan hệ thuận chiều giữa nợ phi
tiền gửi cho thấy việc sử dụng vốn từ nợ phi tiền gửi có hiệu quả và làm tăng ROA và
ROE. Các ngân hàng thương mại Việt Nam sử dụng nợ phi tiền gửi tài trợ cho các dự
án hoặc danh mục cho vay có thời hạn dài và lãi suất cao, làm tăng hiệu quả của việc sử
dụng tài sản và hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. Kết quả này phù hợp với lý thuyết đại
90
diện, giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu thực nghiệm của Berger và di Patti (2006).
Al-Omari (2021), Molla (2020), Pratomo và Ismail (2006), Kyereboah-Coleman (2007),
Saona (2010) nhưng trái với với nghiên cứu của Hutchison và Cox (2007), Gohar và
Rehman (2016), Anarfo và Appiahene (2017), Jadah và cộng sự (2020), Trần Việt Dũng
(2014).
Biến thứ ba đại diện cho CTV của NHTM Việt Nam là biến CAP. Kết quả hồi
quy theo phương pháp Bayes cho thấy Vốn ngân hàng có mối tương quan dương đến
ROA nhưng có tương quan âm đến ROE của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả
từ bảng 4.6 cho thấy biến CAP không tương quan dương hoàn toàn đến ROA do giá trị
hệ số hồi quy có khoảng tin cậy Bayes là (-0,0184; 0,0555). Tính toán từ phần mềm
Stata cho thấy xác suất tác động dương của biến CAP lên biến ROA là 82,98%, khẳng
định mối tương quan dương của biến CAP đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam. Kết
quả Vốn ngân hàng đại diện cho sức mạnh nội tại của ngân hàng, là tấm đệm an toàn về
tài chính cho ngân hàng, tạo dựng niềm tin cho khách hàng về sự ổn định trong hoạt
động. Các ngân hàng càng có tỷ lệ vốn cao trong tổng nguồn vốn thì càng có khả năng
tự chủ tài chính và ngược lại. Ngoài ra, các ngân hàng có vốn lớn dễ dàng nhận được sự
tín nhiệm từ khách hàng, từ người gửi tiền, từ người sử dụng dịch vụ ngân hàng và người
vay tiền, từ đó có thể đa dạng hóa nguồn thu và tác động tích cực đến khả năng sinh lời.
Khi ngân hàng tăng vốn lên, lợi nhuận tạo ra từ mỗi đồng tài sản tăng lên do hiệu quả
sử dụng tài sản của ngân hàng được cải thiện hay nói cách khác, hiệu quả sử dụng tài
sản của ngân hàng tăng lên. Tuy nhiên, khi tăng vốn lên, lợi nhuận trên mỗi đồng vốn
của cổ đông giảm xuống hay nói cách khác, hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu giảm
xuống. Kết quả này cho thấy ngân hàng gặp khó khăn trong việc duy trì tỷ lệ lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu khi ngân hàng tăng vốn, tức lợi ích mà cổ đông nhận được không
tương xứng với số vốn mà họ bỏ ra.
Đối với các biến kiểm soát, quy mô ngân hàng (SIZE), dư nợ cho vay (LOAN),
chi phí hoạt động (OPE) đều có tác động tích cực đến ROA và ROE của các NHTM
Việt Nam. Ngược lại, các biến vĩ mô là lạm phát (INFLAT) và tăng trưởng kinh tế
(GGDP) có tác động tiêu cực đến ROA và ROE.
91
Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động tích cực đến ROA và ROE của các NHTM
Việt Nam, ủng hộ quan điểm của lý thuyết quyền lực thị trường. Kết quả nghiên cứu
này phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Alexiou và
Sofoklis (2009), Kosmidou và cộng sự (2007). Các ngân hàng có quy mô lớn có khả
năng tiếp cận khách hàng tốt hơn, sản phẩm đa dạng hóa hơn, thương hiệu có uy tín và
mức độ tín nhiệm cao của khách hàng cũng như nhà đầu tư, có khả năng đầu tư vào các
công nghệ hiện đại hơn và có lợi thế cạnh tranh nhờ quy mô, ủng hộ quan điểm hiệu quả
theo quy mô (Scale - efficiency). Kết quả là các NHTM có quy mô lớn đạt được KNSL
cao hơn.
Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động tích cực đến KNSL của NHTM, phù hợp với
giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Le (2017), Rahman và cộng
sự (2015). Một ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản cao có nghĩa là ngân
hàng đó có chiến lược tập trung vào hoạt động cho vay và nắm giữ nhiều tài sản sinh lãi
hơn. Nói cách khác, ngân hàng càng mở rộng hoạt động cho vay càng đạt được hiệu quả
tài chính cao hơn. Đây là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho các
NHTM Việt Nam nhưng rủi ro mà ngân hàng gặp phải cũng cao hơn.
Chi phí hoạt động (OPE) tác động tích cực đến KNSL. Các ngân hàng có chi phí
hoạt động cao có thể làm tăng KNSL của các NHTM Việt Nam. Giai đoạn 2012 – 2020
là giai đoạn mà các NHTM Việt Nam thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân
hàng, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ,
chuẩn mực quốc tế (Chính phủ 2012). Đồng thời, các ngân hàng cũng tiến hành cơ cấu
lại hoạt động kinh doanh theo hướng an toàn, lành mạnh hơn. Nhờ đó, hoạt động quản
trị, điều hành của các ngân hàng đã mang tính chuyên nghiệp hơn, tiếp cận với chuẩn
mực quản trị ngân hàng hiện đại, tích cực hợp tác chuyển giao công nghệ, hợp tác chiến
lược với các ngân hàng tầm vóc toàn cầu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
Molyneux va Thornton (1992) nhưng trái với giả thuyết nghiên cứu của luận án.
Kết quả cho thấy lạm phát có tác động ngược chiều đến ROA và ROE của các
NHTM Việt Nam. Lạm phát cao có thể giúp ngân hàng áp đặt mức lãi suất cho vay cao,
nhưng tiềm ẩn rủi ro trong tương lai vì với mức lãi suất vay cao sẽ tạo nên gánh nặng
cho ngân sách trả nợ. Khi lãi suất tăng cao, chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất
cho vay sẽ tăng lên, dẫn đến lợi nhuận mà ngân hàng đạt được sẽ tăng lên trong ngắn
92
hạn. Tuy nhiên, lạm phát cao cũng cho thấy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ của khách hàng và làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Khi kinh tế tăng trưởng cao, khả năng trả nợ của người vay cũng được đảm bảo
và chất lượng khoản vay tốt hơn. Ngoài ra, chất lượng tăng trưởng kinh tế tốt có tác
động tích cực đến danh mục đầu tư, làm tăng giá trị tài sản, luồng tiền của các ngân
hàng, kết quả là ngân hàng có mức lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, khi kinh tế tăng trưởng
cao có thể dẫn đến nhu cầu đầu tư và vay mượn quá mức, ảnh hưởng tiêu cực đến khả
năng trả nợ của khách hàng và làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu
trái ngược với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự
(2018), Athanasoglou và cộng sự (2008), Trujillo-Ponce (2013), Nguyễn Phạm Nhã
Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), Le (2017), Trần Việt Dũng (2014).
4.2.2. Tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro của ngân hàng
Thước đo mức độ chấp nhận rủi ro (hay rủi ro hệ thống) thường được áp dụng
trong lĩnh vực ngân hàng là hệ số Z-score với ý nghĩa là Z-score càng cao thì ngân hàng
càng ít rủi ro hơn và ngược lại. Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu tác động của
cấu trúc vốn đến rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, tức tác động của
CTV đến Z-score của NHTM Việt Nam. Trong bài nghiên cứu này tác giả sử dụng biến
đo lường rủi ro các NHTM được đo lường bằng logarit tự nhiên của Z-score (lnZ-score).
Bảng 4.11 đến 4.13 cho thấy kết quả hồi quy theo phương pháp Bayes thông qua
thuật toán Random Walk Metropolis-Hastings và phương pháp lấy mẫu Gibbs.
Bảng 4.11 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập DEP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
DEP 1,3838 0,7695 0,0077 -0,1162 2,8912
SIZE 0,0503 0,0613 0,0006 -0,0689 0,1728
LOAN -0,7691 0,7181 0,0071 -2,2085 0,6305
93
OPE -20,5480 8,1444 0,0842 -36.7147 -4,5708
INFLAT -10,0389 3,0213 0,0302 -16,0940 -4,2315
GGDP 0,3674 4,9402 0,0494 -9,2935 10,2122
_cons 2,7374 2,0344 0,0203 -1,3100 6,6955
var 1,0348 0,0997 0,0010 0,8570 1,2484
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.12 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập NONDEP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
NONDEP -1,1990 0,7701 0,0074 -2,7297 0,3220
SIZE 0,0760 0,0638 0,0006 -0,0466 0,2029
LOAN -0,7452 0,7146 0,0071 -2,1405 0,6505
OPE -21,5927 8,0784 0,0832 -37,6471 -5,9402
INFLAT -10,4031 3,0278 0,0302 -16,3673 -4,4552
GGDP 0,6023 4,9389 0,0486 -9,1067 10,0534
_cons 3,1275 2,0729 0,0207 -1,0462 7,1200
var 1,0358 0,0992 0,0010 0,8606 1,2488
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.13 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc Z-score và biến độc lập CAP
Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn Khoảng tin cậy Bayes
hệ số hồi quy chuẩn MCMC
-1,3471 2,3490 0,0234 -5,9709 3,2253 CAP
0,0341 0,0761 0,0007 -0,1155 0,1852 SIZE
LOAN -0,1790 0,6515 0,0065 -1,4403 1,1139
94
OPE -20,3402 8,4666 0,0868 -36,8933 -3,7661
INFLAT -10,4072 3,1036 0,0310 -16,3465 -4,3865
GGDP 0,2660 5,0057 0,0488 -9,5007 10,1686
_cons 4,0071 2,5723 0,0257 -1,0694 9,0502
var 1,0477 0,1005 0,0010 0,8698 1,2610
Nguồn: Tính toán của tác giả
Để kiểm định tính vững của mô hình dựa trên phương pháp Bayes, cần thực hiện
chẩn đoán chuỗi MCMC hội tụ. Nếu chuỗi MCMC hội tụ, mô hình được xác định là
vững (Nguyen 2020). Sự hội tụ của chuỗi MCMC được kiểm định thông qua chẩn đoán
hình ảnh bằng biểu đồ vết, biểu đồ tự tương quan, biểu đồ phân phối hậu nghiệm.
95
Hình 4.6 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến lnZ-score
Kết quả kiểm định từ hình 4.6 cho thấy biểu đồ vết không tạo xu hướng, biểu đồ
tự tương quan rớt nhanh (<40) cho thấy tự tương quan thấp, biểu đồ phân phối hậu
nghiệm (histogram) mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất đồng nhất. Ngoài
ra, kết quả bảng 4.11 đến 4.13 cũng cho thấy sai số chuẩn chuỗi MCMC (MCMC
standard errors - MCSE) là rất nhỏ, dưới 0,1, cho thấy các tham số ước lượng khá chính
xác. Do đó, có thể kết luận suy diễn Bayes là hợp lý và mô hình vững nên có thể phân
tích kết quả.
Bên cạnh chẩn đoán bằng hình ảnh chuỗi MCMC như trên, luận án sử dụng chỉ
tiêu ESS (effective sample size) để đánh giá sự hội tụ của chuỗi MCMC. Nếu số lượng
ESS ước tính càng gần số lượng của chuỗi MCMC (10.000) thì càng hiệu quả.
Bảng 4.14 Số lượng mẫu hiệu quả
ESS Corr. time Efficiency
DEP 10000 1,0000 1,0000
96
NONDEP 10000 1,0000 1,0000
CAP 10000 1,0000 1,0000
SIZE 9690 1,0300 0,9690
LOAN 10000 1,0000 1,0000
OPE 10000 1,0000 1,0000
INFLAT 10000 1,0000 1,0000
GGDP 10000 1,0000 1,0000
_cons 9744 1,0300 0,9744
var 8819 1,1300 0,8820
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả tính toán từ bảng 4.14 cho thấy số lượng mẫu hiệu quả ước tính của các
tham số là 10.000 hoặc gần bằng 10.000. Do đó, có thể kết luận mức độ hội tụ của chuỗi
MCMC là rất cao. Vì vậy, có thể kết luận rằng suy diễn Bayes là vững.
Bảng 4.11, 4.12, 4.13 trình bày kết quả hồi quy đánh giá tác động của các biến
độc lập và các biến kiểm soát đến Z-score của các NHTM Việt Nam. Hệ số hồi quy của
biến độc lập Tiền gửi khách hàng (DEP) đại diện cho CTV của các NHTM là 1,3838
mang giá trị dương, tác động cùng chiều đến Z-score tức nghịch biến với khả năng phá
sản của NHTM Việt Nam. Xác suất tác động cùng chiều là 96,45%. Điều này cho thấy
các ngân hàng có tiền gửi khách hàng càng cao thì sẽ càng làm gia tăng chỉ số Z-score,
hay nói cách khác, ngân hàng có tỷ lệ tiền gửi khách hàng càng cao thì rủi ro mà các
ngân hàng đối mặt giảm xuống. Khi tiền gửi khách hàng tăng lên, chỉ số Z-score càng
cao, ngân hàng hoạt động ổn định và mức độ rủi ro giảm xuống. Điều này có thể giải
thích là nếu ngân hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn đồng nghĩa với tổng tài sản ngân
hàng gia tăng hơn, người gửi tiền và người cho vay sẽ yên tâm hơn. Mặt khác, một ngân
hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn là ngân hàng có uy tín cao, có lịch sử hoạt động lâu
đời, ban lãnh đạo có năng lực và đạo đức kinh doanh tốt, từ đó dẫn đến khả năng phá
sản của ngân hàng giảm xuống. Kết quả này phù hợp kết quả nghiên cứu của Saif-
Alyousfi và Saha (2020), Mercan (2021) nhưng trái với giả thuyết đặt ra, lý thuyết đánh
đổi, lý thuyết đại diện, và các nghiên cứu của Pricillia (2015), Bhagat và cộng sự (2015),
97
Nguyen và Duong (2020), Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự (2020), Phạm Tiến Minh và
Bùi Huy Hải Bích (2019), Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015).
Biến tiếp theo đại diện cho CTV của NHTM là Nợ phi tiền gửi (NONDEP). Khác
tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi có tác động ngược chiều đến Z-score trong mô hình
hồi quy và có xác suất tác động ngược chiều là 94,64%. Điều này cho thấy nợ phi tiền
gửi của ngân hàng càng cao thì sẽ càng làm giảm chỉ số Z-score của ngân hàng. Nói
cách khác, khi nợ phi tiền gửi ở mức độ cao làm cho rủi ro của ngân hàng sẽ gia tăng.
Khi các NHTM huy động nhiều hơn bằng các khoản nợ phi tiền gửi như phát hành trái
phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng … đòn bẩy tài chính của ngân hàng cũng
tăng lên tương ứng. Các ngân hàng có thể sử dụng số tiền vay này để đầu tư vào các
danh mục rủi ro cao hoặc cho vay với thời hạn dài để thu được lợi nhuận cao hơn nhưng
rủi ro cũng cao hơn, dẫn đến rủi ro hệ thống gia tăng. Kết quả này phù hợp với giả thuyết
đặt ra, lý thuyết đánh đổi, lý thuyết đại diện và các nghiên cứu của Pricillia (2015),
Bhagat và cộng sự (2015), Nguyen và Duong (2020), Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự
(2020), Phạm Tiến Minh và Bùi Huy Hải Bích (2019), Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá
Hướng (2015) nhưng trái với kết quả nghiên cứu của Saif-Alyousfi và Saha (2020),
Mercan (2021).
Biến thứ ba đại diện cho CTV của NHTM là vốn ngân hàng (CAP). Kết quả từ
bảng 4.13 cho thấy khi vốn ngân hàng tăng lên, các ngân hàng đối mặt với rủi ro phá
sản nhiều hơn và xác suất chiều hướng tác động là 72,75%. Kết quả nghiên cứu trái với
giả thuyết đặt ra, lý thuyết đánh đổi, lý thuyết đại diện và các nghiên cứu của Pricillia
(2015), Bhagat và cộng sự (2015), Nguyen và Duong (2020), Lê Ngọc Quỳnh Anh và
cộng sự (2020), Phạm Tiến Minh và Bùi Huy Hải Bích (2019), Nguyễn Minh Hà và
Nguyễn Bá Hướng (2015) nhưng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Saif-Alyousfi và
Saha (2020), Mercan (2021). Các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao có khả năng
gặp áp lực trong việc sử dụng có hiệu quả số vốn này và tạo ra lợi nhuận cho các cổ
đông. Do đó, các ngân hàng đó có xu hướng sử dụng số vốn đó một cách kém hiệu quả
hoặc quyết định phân bổ vào các danh mục tín dụng và đầu tư kém an toàn hơn. Đối với
các NHTM Việt Nam, tăng vốn là một áp lực để đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý
nhà nước và nhu cầu mở rộng thị trường của chính bản thân ngân hàng. Kết quả là các
ngân hàng ưu tiên sử dụng vốn chủ sở hữu để chiếm thị phần, thay vì ưu tiên chất lượng
98
tài sản, dẫn đến rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt cao hơn.
Đối với các biến kiểm soát, quy mô ngân hàng (SIZE) và biến vĩ mô là tăng
trưởng kinh tế (GGDP) đều có tác động tích cực đến Z-score của các NHTM Việt Nam.
Ngược lại, các biến dư nợ cho vay (LOAN), chi phí hoạt động (OPE) lạm phát
(INFLAT) có tác động tiêu cực đến chỉ số Z-score.
Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động tích cực đến chỉ số Z-score, hay nói cách
khác quy mô ngân hàng làm tăng tính ổn định cho các NHTM Việt Nam. Kết quả này
phù hợp với giả thuyết nghiên cứu, các nghiên cứu của Saif-Alyousfi và Saha (2020),
Lê Ngọc Quỳnh Anh và cộng sự (2020), Phạm Tiến Minh (2019) nhưng trái với kết quả
của Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015), Nguyen và Duong (2020), Mercan
(2021). Các ngân hàng có quy mô lớn là những ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng,
khả năng tiếp cận và thu hút khách hàng tốt hơn, có mức độ tín nhiệm cao của khách
hàng, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin nhanh chóng và có lợi thế cạnh tranh
tốt hơn. Quy mô của ngân hàng lớn cũng thể hiện năng lực tài chính mạnh, có khả năng
tiếp cận thị trường tài chính thế giới, có thể đối phó với tình trạng thiếu hụt tài chính bất
ngờ. Ngoài ra, các ngân hàng có quy mô lớn là những ngân hàng có lịch sử lâu đời, có
danh mục đầu tư và cho vay đa dạng, có hệ thống quản trị rủi ro vận hành hiệu quả nhờ
quá trình tích lũy kinh nghiệm trước đó. Kết quả là các NHTM có quy mô lớn thì mức
độ ổn định cao hơn hay khả năng phá sản là thấp.
Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động tiêu cực đến mức độ ổn định, có ảnh hưởng
làm tăng rủi ro của NHTM Việt Nam, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên
cứu của Mercan (2021), Nguyen và Duong (2020) nhưng trái với kết quả của Lê Ngọc
Quỳnh Anh và cộng sự (2020), Saif-Alyousfi và Saha (2020), Một ngân hàng có tỷ lệ
dư nợ cho vay trên tổng tài sản cao có nghĩa là ngân hàng đó có chiến lược tập trung vào
hoạt động cho vay và nắm giữ nhiều tài sản sinh lãi hơn, đặc biệt là những tài sản có rủi
ro cao nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Nói cách khác, ngân hàng càng mở rộng
hoạt động cho vay càng làm cho rủi ro phá sản cao hơn.
Chi phí hoạt động (OPE) tác động cùng chiều đến rủi ro phá sản của ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu phù hợp với giả thuyết nghiên cứu nhưng trái với kết quả nhiên cứu
của Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2015). Các ngân hàng có chi phí hoạt động
99
cao có thể làm tăng rủi ro của các NHTM Việt Nam. Việc quản lý không hiệu quả các
khoản chi phí bỏ ra để tiến hành các hoạt động của ngân hàng sẽ làm cho ngân hàng
không thể cân đối được lợi nhuận của mình. Chi phí quá cao sẽ khiến lợi nhuận sụt giảm,
qua đó sẽ khiến ngân hàng gặp rủi ro nếu tình trạng này duy trì trong thời gian dài. Bên
cạnh đó, việc quản lý chi phí không hiệu quả có thể dẫn đến các khoản cho vay có rủi
ro cao và hệ thống quản lý rủi ro kém hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu cho thấy lạm phát có tác động ngược chiều đến chỉ số Z- score
của các NHTM Việt Nam, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và nghiên cứu của Saif-
Alyousfi và Saha (2020) nhưng trái với kết quả của Nguyen và Duong (2020), Mercan
(2021). Khi lạm phát tăng lên, ngân hàng căn cứ vào tỷ lệ lạm phát để điều chỉnh lãi suất
cho vay cao hơn, nhưng tiềm ẩn rủi ro trong tương lai vì với mức lãi suất vay cao sẽ làm
ảnh hưởng đến tình hình tài chính của khách hàng, làm giảm khả năng trả nợ cho ngân
hàng. Mặt khác, lạm phát cao cũng cho thấy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ của khách hàng và làm tăng rủi ro cho ngân hàng.
Tăng trưởng kinh tế tác động cùng chiều đến chỉ số Z-score của các NHTM Việt
Nam, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và kết quả nghiên cứu của Saif-Alyousfi và
Saha (2020) nhưng trái với kết quả của Nguyen và Duong (2020). Điều này cho thấy,
khi kinh tế tăng trưởng cao, danh mục cho vay được mở rộng khả năng trả nợ của người
vay cũng được đảm bảo và chất lượng khoản vay tốt hơn. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế
tốt kéo theo giá trị tài sản tăng, các dịch vụ của ngân hàng được sử dụng nhiều hơn.
100
Tóm tắt chương 4
Trong chương 4, tác giả đã ước lượng mô hình tác động của CTV đến lợi nhuận
và rủi ro của các NHTM Việt Nam. Để ước lượng mô hình này, tác giả sử dụng phương
pháp ước lượng Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs. Kết quả ước lượng mô hình
cho thấy, tiền gửi khách hàng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận ngân hàng. Trong
khi đó, nợ phi tiền gửi có tác động cùng chiều đến lợi nhuận ngân hàng. Đối với vốn
ngân hàng, kết quả nghiên cứu cho thấy vốn ngân hàng có tác động cùng chiều đến ROA
nhưng tác động ngược chiều đến ROE của các NHTM Việt Nam.
Đối với rủi ro ngân hàng, kết quả nghiên cứu cho thấy tiền gửi khách hàng có tác
động làm giảm rủi ro, nợ phi tiền gửi và vốn ngân hàng có tác động làm tăng rủi ro của
ngân hàng.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chương 4, chương 5 sẽ đưa ra các hàm ý chính
sách đối với các NHTM Việt Nam cũng như cơ quan quản lý nhà nước.
101
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI XÂY DỰNG CẤU TRÚC VỐN HỢP LÝ
Giới thiệu chương 5
Chương này sẽ trình bày tóm tắt về các kết quả đạt được trong nghiên cứu đã
được thực hiện và thảo luận trong các chương trước. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên
những đóng góp mới của nghiên cứu về mặt học thuật, từ đó gợi ý một số hàm ý chính
sách cũng như hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo.
5.1 KẾT LUẬN
Nghiên cứu có mục tiêu chung là đánh giá tác động của CTV và các biến kiểm
soát đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM Việt Nam. Luận án dựa trên nền tảng cơ sở
lý thuyết cũng như kết quả những nghiên cứu đáng tin cậy trước đây, tác giả đã lựa chọn
mô hình hồi quy đa biến dữ liệu bảng với biến phụ thuộc là ROA, ROE, Z-score và các
biến độc lập là DEP, NONDEP, CAP nhằm xác định ảnh hưởng của CTV đến lợi nhuận
và rủi ro NHTM Việt Nam, thông qua số liệu được thu thập từ báo cáo tài chính của 30
NHTM trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2020 và dữ liệu vĩ mô từ Tổng cục Thống kê.
Bằng cách tiếp cận theo phương pháp Bayes và thuật toán lấy mẫu Gibbs, kết quả thu
được từ nghiên cứu thực nghiệm cho thấy chiều hướng tác động khác nhau của CTV và
các biến kiểm soát đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM trong giai đoạn 2012 – 2020,
cụ thể như sau:
Tác động của CTV đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam
Tiền gửi của khách hàng (DEP) có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của các
NHTM Việt Nam, cho thấy tác động ngược chiều đến hiệu quả quản lý tài sản và quản
lý vốn. Khi ngân hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn đồng nghĩa với tài sản và đòn bẩy
tài chính của ngân hàng gia tăng, ngân hàng gặp áp lực trong việc sử dụng có hiệu quả
số tiền huy động được, dẫn đến đầu tư vào các dự án hoặc cấp tín dụng một cách kém
hiệu quả và làm giảm ROA và ROE.
102
Khác với tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi (NONDEP) có ảnh hưởng tích cực
đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam. Mối quan hệ thuận chiều giữa nợ phi tiền gửi
cho thấy việc sử dụng vốn từ nợ phi tiền gửi có hiệu quả và làm tăng ROA và ROE. Các
ngân hàng thương mại Việt Nam sử dụng nợ phi tiền gửi tài trợ cho các dự án hoặc danh
mục cho vay có thời hạn dài và lãi suất cao, làm tăng hiệu quả của việc sử dụng tài sản
và hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.
Trong khi đó, vốn ngân hàng (CAP) có mối tương quan cùng chiều với ROA
nhưng lại tác động ngược chiều đến ROE. Khi tăng vốn lên, lợi nhuận trên mỗi đồng
vốn của cổ đông giảm xuống hay nói cách khác, hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu giảm
xuống. Kết quả này cho thấy ngân hàng gặp khó khăn trong việc duy trì tỷ lệ lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu khi ngân hàng tăng vốn, tức lợi ích mà cổ đông nhận được không
tương xứng với số vốn mà họ bỏ ra.
Tác động của các biến kiểm soát thuộc về nội tại đến lợi nhuận ngân hàng
Kết quả nghiên cứu cho thấy Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động tích cực đến
ROA và ROE của các NHTM Việt Nam. Điều này cho thấy những ngân hàng có quy
mô lớn sẽ có lợi nhuận cao hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ, ủng hộ quan điểm của lý
thuyết quyền lực thị trường.
Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động tích cực đến lợi nhuận của các NHTM Việt
Nam. Khi ngân hàng càng mở rộng hoạt động cho vay càng đạt được hiệu quả tài chính
cao hơn. Đây là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM Việt
Nam nhưng rủi ro mà ngân hàng gặp phải cũng cao hơn.
Chi phí hoạt động (OPE) tác động tích cực đến KNSL. Các ngân hàng có chi phí
hoạt động cao có thể làm tăng KNSL của các NHTM Việt Nam.
Tác động của các biến vĩ mô đến lợi nhuận ngân hàng
Kết quả cho thấy lạm phát có tác động ngược chiều đến ROA và ROE của các
NHTM Việt Nam. Lạm phát cao cũng cho thấy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng và làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
103
Khi kinh tế tăng trưởng cao có thể dẫn đến nhu cầu đầu tư và vay mượn qúa mức,
ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng trả nợ của khách hàng và làm giảm lợi nhuận của ngân
hàng.
Tác động của CTV đến rủi ro của các NHTM Việt Nam
Tiền gửi của khách hàng (DEP) có tác động ngược chiều với rủi ro của các
NHTM Việt Nam. Khi ngân hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn đồng nghĩa với làm gia
tăng tổng tài sản ngân hàng hơn, người gửi tiền và người cho vay sẽ yên tâm hơn. Mặt
khác, một ngân hàng nhận được tiền gửi nhiều hơn là ngân hàng có uy tín cao, có lịch
sử hoạt động lâu đời, ban lãnh đạo có năng lực và đạo đức kinh doanh tốt, dẫn đến mức
độ an toàn trong hoạt động ngân hàng cao hơn.
Khác với tiền gửi khách hàng, nợ phi tiền gửi (NONDEP) có ảnh hưởng cùng
chiều đến rủi ro của các NHTM Việt Nam. Mối quan hệ cùng chiều giữa nợ phi tiền gửi
và rủi ro cho thấy việc sử dụng vốn từ nợ phi tiền gửi có thể làm tăng rủi ro cho các
NHTM. Khi các NHTM huy động nhiều hơn bằng các khoản nợ phi tiền gửi như phát
hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng … đòn bẩy tài chính của ngân
hàng cũng tăng lên tương ứng. Các ngân hàng có thể sử dụng số tiền vay này để đầu tư
vào các danh mục rủi ro cao hoặc cho vay với thời hạn dài để thu được lợi nhuận cao
hơn nhưng rủi ro cũng cao hơn, dẫn đến rủi ro hệ thống gia tăng.
Vốn ngân hàng (CAP) có tác động làm tăng rủi ro của các NHTM Việt Nam. Các
ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao có khả năng gặp áp lực trong việc sử dụng có
hiệu quả số vốn này và tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông. Do đó, các ngân hàng đó có
xu hướng sử dụng số vốn đó một cách kém hiệu quả hoặc quyết định phân bổ vào các
danh mục tín dụng và đầu tư kém an toàn hơn.
Tác động của các biến kiểm soát thuộc về nội tại đến rủi ro ngân hàng
Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động ngược chiều đến rủi ro của các NHTM
Việt Nam. Điều này cho thấy, quy mô của các NHTM Việt Nam lớn hơn sẽ hạn chế
được rủi ro nhiều hơn. Ngoài ra, các ngân hàng có quy mô lớn sẽ có khả năng tiếp cận
với các nguồn tài trợ bên ngoài dễ dàng hơn với chi phí thấp hơn so với các ngân hàng
có quy mô nhỏ, do đó các ngân hàng này có thể linh hoạt hơn khi đối mặt với các tình
104
huống rủi ro.
Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động cùng chiều với rủi ro của các NHTM Việt
Nam. Khi ngân hàng càng mở rộng hoạt động cho vay càng rủi ro cho ngân hàng cao
hơn. Đây là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM Việt Nam
nhưng rủi ro mà ngân hàng gặp phải cũng cao hơn.
Chi phí hoạt động (OPE) tác động cùng chiều đến rủi ro của các NHTM Việt
Nam. Điều này cho thấy khi chi phí hoạt động càng lớn, sẽ làm ngân hàng mất ổn định
và gặp rủi ro nhiều hơn thông qua mức lợi nhuận suy giảm do chi phí tăng. Việc quản
lý không hiệu quả các khoản chi phí bỏ ra để tiến hành các hoạt động của ngân hàng sẽ
làm cho ngân hàng không thể cân đối được lợi nhuận của mình. Chi phí quá cao sẽ khiến
lợi nhuận sụt giảm, qua đó sẽ khiến ngân hàng gặp rủi ro nếu tình trạng này duy trì trong
thời gian dài. Bên cạnh đó, việc quản lý chi phí không hiệu quả có thể dẫn đến các khoản
cho vay có rủi ro cao và hệ thống quản lý rủi ro kém hiệu quả.
Tác động của các biến vĩ mô đến rủi ro ngân hàng
Kết quả cho thấy lạm phát có tác động cùng chiều đến rủi ro của các NHTM Việt
Nam. Khi tỷ lệ lạm phát cao cho thấy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ của khách hàng, làm tăng rủi ro và giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Tăng trưởng kinh tế tác động ngược chiều với rủi ro của các NHTM Việt Nam.
Khi kinh tế tăng trưởng cao, danh mục cho vay được mở rộng khả năng trả nợ của người
vay cũng được đảm bảo và chất lượng khoản vay tốt hơn. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế
tốt kéo theo giá trị tài sản tăng, các dịch vụ của ngân hàng được sử dụng nhiều hơn.
5.2 CÁC GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG XÂY DỰNG CẤU TRÚC
VỐN HỢP LÝ
5.2.1 Đối với các ngân hàng thương mại
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đã nêu ra trong phần trên, tác giả đề xuất một
số hàm ý chính sách cho việc xây dựng cấu trúc vốn hợp lý nhằm đạt được lợi nhuận
hợp lý, giảm rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:
105
Đầu tiên, tiền gửi khách hàng (DEP) có tác động làm giảm lợi nhuận và giảm rủi
ro của NHTM Việt Nam. Vì vậy, để đảm bảo lợi nhuận đạt được tốt nhất và rủi ro ở
mức thấp nhất, các ngân hàng cần ưu tiên huy động nguồn vốn tiền gửi với lãi suất thấp,
tránh hiện tượng tăng lãi suất quá cao để huy động tiền gửi. Trên thực tế, các NHTM
Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nhỏ thường dùng công cụ lãi suất cao
để thu hút người gửi tiền. Tuy nhiên, điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro cho chính ngân hàng
trong tương lai vì để đảm bảo có lợi nhuận và trang trải các chi phí, ngân hàng bắt buộc
tăng lãi suất cho vay, gây khó khăn cho khách hàng vay vốn trong việc hoàn trả nợ gốc
và lãi, gây bất ổn cho toàn hệ thống ngân hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng tăng lãi suất
tiền gửi nhưng không tăng lãi suất cho vay có thể dẫn đến giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ.
Vì vậy, sử dụng công cụ lãi suất không phải là biện pháp phù hợp để thu hút người gửi
tiền mà các ngân hàng cần tích cực tìm kiếm và huy động các khoản tiền gửi với chi phí
thấp để đảm bảo đạt được lợi nhuận hợp lý và rủi ro giảm xuống ở mức thấp nhất. Ngoài
ra, các ngân hàng cần sử dụng tiền gửi để đầu tư và cho vay hiệu quả, tránh việc gia tăng
huy động từ khách hàng nhưng việc sử dụng kém hiệu quả hay đầu tư và cho vay một
cách ồ ạt, không thẩm định kỹ lưỡng khách hàng vay vốn, dẫn đến giảm lợi nhuận của
ngân hàng.
Thứ hai, tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất và quan trọng nhất của NHTM. Vì vậy,
cần nâng cao uy tín, thương hiệu của ngân hàng để có thể tạo dựng niềm tin cho người
gửi tiền. Đối với người gửi tiền, sự an toàn luôn là mối quan tâm hàng đầu khi lựa chọn
ngân hàng để gửi tiền. Bên cạnh đó, như đã phân tích ở trên, giải pháp nâng lãi suất huy
động không phải là giải pháp phù hợp cho các ngân hàng trong hiện tại cũng như trong
tương lai. Do vậy, cần nâng cao chất lượng dịch vụ và trải nghiệm của khách hàng, đặc
biệt trong thời đại số như hiện nay. Các ngân hàng cần đầu tư nhiều hơn cho công nghệ
để giảm thiểu chi phí huy động vốn và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, nhanh
chóng chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng, trong đó có các hoạt động liên quan
đến huy động tiền gửi khách hàng. Từ đó, các ngân hàng có thể huy động vốn từ tiền
gửi với chi phí thấp để có thể hỗ trợ khách hàng vay vốn, vừa làm tăng lợi nhuận của
ngân hàng, vừa có thể giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, để giảm chi phí huy động vốn từ tiền gửi khách hàng để có thể gia tăng
lợi nhuận và không gây rủi ro, tạo áp lực trả lãi cho khách hàng vay vốn, các ngân hàng
cần mở rộng mạng lưới để có thể tiếp cận người gửi tiền tốt hơn. Mặc dù các ngân hàng
106
cần chuyển đổi số, nâng cao trải nghiệm khách hàng nhưng đây là vấn đề mang tính dài
hơi và liên tục. Trước mắt, để thu hút người gửi tiền tốt hơn, việc mở rộng mạng lưới là
cần thiết. Các ngân hàng cần tích cực tìm kiếm thị trường mới để mở rộng mạng lưới,
không những trong phạm vi quốc gia mà có thể ở một số thị trường quốc tế. Hiện nay,
nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tham gia nhiều
vào các liên minh kinh tế như Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh
châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP). Vì vậy, các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng lớn, có thể xem
xét mở rộng mạng lưới sang một số quốc gia thành viên các liên minh kinh tế này để có
thể tận dụng tốt nhất các cơ hội khi kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế thế
giới. Tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới cần có sự nghiên cứu, chọn lọc kỹ lưỡng nhằm
tránh những rủi ro có thể xảy ra.
Thứ tư, để có thể thu hút tiền gửi tốt hơn với chi phí thấp và đạt được lợi nhuận
tốt hơn, các ngân hàng cần đa dạng hóa các sản phẩm tiền gửi, đáp ứng một cách tốt
nhất các nhu cầu khác nhau của người gửi tiền, nhanh chóng áp dụng công nghệ ngân
hàng số nâng cao sự hài lòng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho người gửi tiền. Do đó,
các ngân hàng cần đầu tư các nguồn lực cần thiết để nghiên cứu và pháp triển các sản
phẩm tiền gửi hoàn toàn mới, phù hợp với định hướng phát triển của từng ngân hàng
cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Thứ năm, cần sử dụng hiệu quả hơn tiền gửi của khách hàng. Các NHTM Việt
Nam cần thẩm định kỹ lưỡng và hợp lý hơn khi cho vay với mục tiêu đảm bảo chất
lượng tài sản cũng như chất lượng cho vay của ngân hàng. Khi tài sản của ngân hàng
tăng lên nhưng chất lượng tài sản kém đi sẽ dẫn đến hậu quả lâu dài như không có khả
năng thu hồi vốn để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng, tăng rủi ro thanh khoản
và rủi ro vỡ nợ của ngân hàng.
Thứ sáu, nợ phi tiền gửi (NONDEP) vừa làm tăng lợi nhuận, vùa làm tăng rủi ro
cho các NHTM Việt Nam. Các ngân hàng thường sử dụng nguồn vốn này để đầu tư vào
các dự án hoặc danh mục cho vay dài hạn với lãi suất cao hơn và thời hạn dài hơn. Do
đó, các ngân hàng cần lựa chọn danh mục đầu tư hoặc cấp tín dụng một cách chặt chẽ
và an toàn hơn. Để làm được điều đó, cần phải thẩm định chặt chẽ hơn các dự án đầu tư
107
cũng như các khoản vay trung dài hạn, đảm bảo chất lượng tài sản của ngân hàng trong
dài hạn. Các ngân hàng có thể đạt được mức lợi nhuận phù hợp hơn, không quá cao để
có thể gây ra rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Thứ tám, bên cạnh huy động vốn từ tiền gửi khách hàng, các NHTM có thể huy
động từ các khoản nợ phi tiền gửi như phát hành trái phiếu trung và dài hạn, trái phiếu
chuyển đổi, chứng chỉ tiền gửi, vay từ Ngân hàng Nhà nước, các NHTM khác hoặc vay
từ các tổ chức tài chính quốc tế. Các ngân hàng huy động nợ phi tiền gửi nhằm các mục
đích như đáp ứng thanh khoản, tăng vốn trung dài hạn, tăng vốn cấp 2 trong cơ cấu vốn
tự có để đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn. Tuy nhiên, việc tăng nợ phải trả ngoài tiền gửi trong
cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng thương mại có thể làm tăng rủi ro cho NHTM nếu
nguồn vốn này được sử dụng một cách kém an toàn. Thời gian gần đây, các ngân hàng
tăng mạnh mua trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực bất
động sản và chứng khoán. Do các doanh nghiệp này thường đưa ra mức lãi suất rất cao
cho các trái phiếu phát hành ra nên các ngân hàng có thể thu được lợi nhuận lớn từ việc
đầu tư vào các trái phiếu này. Tuy nhiên, rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt là rất cao
do việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp đang còn rất nhiều bất cập, nhiều sai phạm
lớn liên quan đến việc phát hành trái phiếu và sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Do
vậy, để giảm rủi ro, các ngân hàng cần hạn chế đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp; khi
đầu tư cần thận trọng hơn, đánh giá kỹ lưỡng hơn các khoản đầu tư vào trái phiếu doanh
nghiệp; cần tập trung sử dụng số vốn huy động được vào việc cấp tín dụng cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, tạo ra sự thịnh vượng cho nền kinh tế.
Cuối cùng, việc tăng vốn có thể làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản nhưng hiệu
quả từ một đồng vốn cổ đông bỏ ra giảm xuống, đồng thời rủi ro của ngân hàng tăng
lên. Vì vậy, các ngân hàng cần thận trọng hơn trong quá trình tăng vốn vì tăng vốn là
việc làm bắt buộc đối với các ngân hàng. Các ngân hàng không nên tăng vốn quá nhanh,
quá ồ ạt mà cần có một lộ trình tăng vốn cụ thể, được đánh giá kỹ lưỡng, từng bước đáp
ứng các tiêu chuẩn an toàn vốn Basel II và Basel III trong thời gian sớm nhất. Trong
trường hợp ngân hàng tăng vốn quá nhanh sẽ tạo nên áp lực trong việc sử dụng số vốn
đó có hiệu quả, dẫn đến phân bổ vốn kém hiệu quả và kết quả là giảm lợi nhuận và tăng
rủi ro cho các ngân hàng.
108
5.2.2 Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Thứ nhất, để đảm bảo an toàn trong toàn hệ thống ngân hàng, NHNN cần có cơ
chế tăng tính cạnh tranh trong việc phân bổ các nguồn vốn ngân sách tạm thời nhàn rỗi
gửi tại các NHTM. Đây là nguồn vốn rất lớn nhưng hiện nay đang được gửi chủ yếu tại
các ngân hàng do nhà nước chi phối, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các NHTM. Do vậy,
nguồn vốn này cần được phân bổ lại trong toàn hệ thống ngân hàng dựa trên cơ chế cạnh
tranh, giảm bớt các rào cản được tạo ra khi tham gia đấu thầu nguồn vốn này như các
điều kiện về quy mô tổng tài sản, tổng vốn chủ sở hữu, chất lượng tín dụng, kết quả hoạt
động kinh doanh của mỗi ngân hàng.
Thứ hai, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính chấn chỉnh lại hoạt động phát
hành trái phiếu và sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu của các NHTM lẫn các doanh
nghiệp. Việc huy động vốn từ tiền gửi được sự giám sát chặt chẽ của NHNN. Trong khi
đó, huy động vốn từ trái phiếu do các ngân hàng, công ty chứng khoán phân phối cho
nhà đầu tư lại đang có sự giám sát rất lỏng lẻo của cơ quan quản lý nhà nước, gây rủi ro
rất lớn cho bản thân các NHTM lẫn các nhà đầu tư. Vì vậy, để giảm rủi ro cho ngân
hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư, hoạt động phát hành trái phiếu cần được giám sát chặt
chẽ hơn, bổ sung các quy định pháp lý nhằm lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh
nghiệp.
Thứ ba, cần giám sát thường xuyên và liên tục đối với các NHTM có tham gia
đầu tư, bảo lãnh phát hành, phân phối trái phiếu doanh nghiệp. Mặc dù các NHTM có
thể thu được lợi nhuận cao từ các hoạt động liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp nhưng
rủi ro cho ngân hàng trong tương lai là rất lớn, ảnh hưởng tới chính ngân hàng và toàn
bộ hệ thống ngân hàng.
Thứ tư, NHNN thường xuyên theo dõi các phân tích, dự báo xu hướng thị trường
tài chính thế giới, khu vực và trong nước. Mặc dù giai đoạn hiện nay thị trường tài chính
Việt Nam đã có sự hội nhập sâu rộng vào thị trường tài chính thế giới nhưng các NHTM
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế về khả năng ứng phó với những biến động của thị
trường tài chính thế giới. NHNN cần cung cấp các khóa đào tạo để các NHTM đủ khả
năng phân tích dự báo xu hướng thị trường tài chính toàn cầu, trên cơ sở đó lập ra kế
hoạch tài chính dài hạn.
109
Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành kế hoạch cụ thể yêu cầu các NHTM
niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng cường minh bạch tài chính và hiệu quả
hoạt động của các NHTM. Ngoài ra, cần tăng cường giám sát các ngân hàng trong việc
sử dụng các nguồn tiền huy động được, đặc biệt là các ngân hàng đang sử dụng đòn bẩy
tài chính lớn.
5.3 HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Mặc dù đã đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả nhận thấy nghiên cứu này vẫn
còn hạn chế và cần được bổ sung, cải thiện trong tương lai, cụ thể là:
Thứ nhất, hệ thống NHTM Việt Nam có đặc thù là được chia thành hai nhóm:
Nhóm các NHTM do nhà nước chi phối và nhóm các NHTM tư nhân. Trong nghiên cứu
này, tác giả gộp cả hai nhóm thành mẫu nghiên cứu, điều này chưa thực sự phù hợp. Vì
vậy, trong nghiên cứu tiếp theo, tác giả sẽ chia thành hai nhóm riêng biệt và đánh giá
tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của từng nhóm ngân hàng.
Thứ hai, tiền gửi khách hàng bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn. Tuy
nhiên, do hạn chế trong việc thu thập số liệu nên trong nghiên cứu này, tác giả gộp chung
tất cả các khoản tiền gửi thành tiền gửi khách hàng. Vì vậy, trong nghiên cứu tiếp theo,
tiền gửi khách hàng sẽ được tách ra thành tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
Thứ ba, mặc dù nghiên cứu đã thu thập dữ liệu với mẫu 30 NHTM Việt Nam
trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020, tuy nhiên mẫu nghiên cứu chưa bao gồm
các loại hình ngân hàng khác như ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh…. Điều
này làm giới hạn các kết luận có thể rút ra từ kết quả ước lượng cũng như chưa bao quát
toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các nghiên cứu tiếp theo cần bổ sung số liệu thu thập, qua
đó nâng cao cả chất lượng và số lượng của số liệu.
Thứ tư, ngoài các biến số đã được phân tích trong các mô hình đã chỉ ra ở trên,
về mặt lý thuyết cấu trúc vốn của NHTM có thể bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Do đó, các nghiên cứu tiếp theo cần dựa trên mục tiêu nghiên cứu cụ thể để bổ sung
thêm các biến khác phản ánh CTV của NHTM.
110
Tóm tắt chương 5
Từ kết quả nghiên cứu ở chương 4, luận án đánh giá lại và đưa ra kết luận về tác
động của của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt
Nam trong chương 5. Kết luận được đưa ra dựa trên kết quả mô hình hồi tuyến tính
Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs.
Trên cơ sở các kết luận đưa ra, tác giả đưa ra hàm ý chính sách tập trung vào hai
nhóm giải pháp bao gồm: (i) giải pháp đối với các ngân hàng thương mại, (ii) giải pháp
đối với cơ quan quản lý nhà nước.
Cuối cùng, chương 5 nêu lên một số hạn chế của nghiên cứu như hạn chế khi
luận án chưa chia nhóm các NHTM do nhà nước chi phối và nhóm các NHTM tư nhân
để đánh giá tác động của CTV đến lợi nhuận và rủi ro của từng nhóm ngân hàng. Bên
cạnh đó, luận án gộp chung tất cả các khoản tiền gửi thành tiền gửi khách. Hơn nữa,
luận án cũng có hạn chế về cỡ mẫu trong mô hình nghiên cứu khi dữ liệu nghiên cứu
chưa bao gồm các loại hình ngân hàng khác như ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh. Ngoài ra, luận án chưa đề cập đầy đủ các biến khác phản ánh CTV của NHTM.
Các hạn chế này sẽ là hướng nghiên cứu mở rộng cho tác giả trong tương lai.
111
KẾT LUẬN
Đối với các NHTM, lợi nhuận và rủi ro đều đóng vai trò rất quan trọng, có tác
động lớn đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Hơn nữa, hệ thống ngân
hàng được xem là huyết mạch của nền kinh tế quốc gia, hoạt động của hệ thống ngân
hàng an toàn, hiệu quả thì mới thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đó, cấu trúc vốn của
ngân hàng có sự khác biệt rất lớn so với cấu trúc vốn của các doanh nghiệp phi tài chính,
có ảnh hưởng quyết định đến sự an toàn và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Trên
cơ sở nền tảng lý thuyết và thực tiễn đặt ra cũng như bổ sung cho khoảng trống nghiên
cứu, tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các
ngân hàng thương mại Việt Nam” làm luận án nghiên cứu. Tác giả đã phân tình thực
trạng cấu trúc vốn của các NHTM Việt Nam, tác giả cũng đã đi sâu phân tích các thành
phần cấu tạo nên cấu trúc vốn của các ngân hàng giai đoạn 2012 – 2020. Tác giả có đóng
góp thêm về bằng chứng thực nghiệm và cung cấp thêm một số thông tin hữu ích về tác
động của cấu trúc vốn đến lợi nhuận và rủi ro của các NHTM Việt Nam, từ đó đảm bảo
tính khoa học cho các gợi ý chính sách để đảm bảo hiệu quả và sự an toàn cho hệ thống
ngân hàng tại Việt Nam.
Để đạt được các mục tiêu trong luận án này, tác giả sử dụng phương pháp hồi
quy Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs với mẫu nghiên cứu bao gồm 30 NHTM
tại Việt Nam trong giai đoạn 2012-2020. Tác giả đã đánh giá mức độ ảnh hưởng của các
biến đại diện cho cấu trúc vốn của ngân hàng (bao gồm các biến DEP, NONDEP, CAP)
đến lợi nhuận (bao gồm các biến ROA và ROE) và rủi ro (bao gồm biến Z-score) của
các NHTM Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng và kết quả nghiên cứu định
lượng của các mô hình nghiên cứu, tác giả đã đề xuất những khuyến nghị nhằm giúp các
ngân hàng đạt được lợi nhuận và rủi ro ở mức hợp lý nhất.
112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam 2012, Quyết định 254/QĐ-TTg về Đề án cơ cấu lại hệ
thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015, Hà Nội.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2018, Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/05/2018
quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, Hà Nội.
Lê Ngọc Quỳnh Anh, Nguyễn Quý Quốc và Lê Thị Phương Thanh 2020, “Các nhân tố
ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam”,Tạp chí
Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển, số 129(5B), trang 95-107.
Lê Thanh Hoa, Phạm Hoàng Uyên và Nguyễn Đình Thiên 2017, “Một phương pháp
mới tìm khoảng mật độ hậu nghiệm cao nhất và ứng dụng”, Tạp chí Phát triển Kinh tế,
số 28, tập10, trang 79–120.
Nguyễn Minh Kiều 2014, Giáo trình tài chính doanh nghiệp căn bản, NXB Thống kê.
Nguyễn Minh Kiều 2009, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê,
Tp.HCM.
Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng 2015, “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi
ro phá sản ngân hàng bằng phương pháp Z-scor”, Tạp chí Kính tế & Phát triển, số 229,
trang 17-25.
Nguyễn Ngọc Thạch 2019, “Một cách tiếp cận Bayes trong dự báo tổng sản phẩm quốc
nội của Mỹ”, Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á, số 163, trang 5–18.
Nguyễn Thanh Dương 2013, “Phân tích rủi ro trong hoạt động ngân hàn”, Tạp chí Phát
Triển & Hội Nhập, Số 9, tập19, trang 29-39.
Phạm Tiến Minh và Bùi Huy Hải Bích 2019, “Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân
hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật
và Quản lý, số 3(SI):SI1-SI13.
Phạm Hải Nam, Huỳnh Thị Tuyết Ngân, Nguyễn Ngọc Tân, Phạm Thị Hồng Nhung và
113
Nguyễn Trần Xuân Linh 2021, “Cấu trúc vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam:
Cách tiếp cận theo phương pháp Bayes”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh
Châu Á, số 32, tập 5, trang 59–80.
Trần Huy Hoàng 2011, “Giáo trình quản trị ngân hàng thương mại”, NXB Lao động xã
hội.
Trần Việt Dũng 2014, “Xác định các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các
ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 16, trang 1-11.
Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Thị Liên Hoa, Nguyễn Thị Ngọc Trang, Nguyễn Thị Uyên
Uyên và Phan Thị Bích Nguyệt 2013, Tài chính doanh nghiệp hiện đại, NXB Thống kê.
Trầm Thị Xuân Hương 2012, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Trường Đại học Kinh
tế Tp. Hồ Chi Minh, Nhà xuất bản Kinh tế.
Tài liệu tham khảo tiếng Anh
Ahmad, R., & Albaity, M. 2019, “The Determinants of Bank Capital for East Asian
Countries”, Global Business Review, vol. 20, no. 6, pp. 1311–1 323
Al-Omari, R. 2021, “The Impact of Capital Structure on Jordanian Banks Performance;
Journal of Social Sciences”, vol. 10, no. 1, pp. 35-47.
https://doi.org/10.25255/jss.2021.10.1.35.47.
Ali, K., Akhtar, M., and Sadaqat, S. 2011, “Practical Implication of Capital Structure
Thesis Theories: Empirical Evidence from the Commercial Banks of Pakistan”,
European Journal of Social Sciences, vol. 23, no. 1, pp. 165-173.
Al-Kayed, L., Zain, S., and Duasa, J. 2014, “The relationship between capital structure
and performance of Islamic banks”, Journal of Islamic Accounting and Business
Research, vol. 5, no. 2, pp. 158-181.
Amalendu Ghosh. 2012, Managing Risks in Commercial and Retail Banking, Jonh
Wiley & Sons Singapore Pre.Ltd.
Anarfo, E. B. (2015, “Determinants of capital structure of banks: Evidence from Sub-
114
Sahara Africa”, Asian Economic and Financial Review, vol. 5, no. 4, pp. 624– 640.
Anarfo, E. B., ND Appiahene, E. 2017, “The Impact of Capital Structure on Banks’
Profitability in Africa”, Journal of Accounting and Finance, vol. 17, no 3, pp. 55-66.
Asika, E. R., Chitom, J. R., and Chelichi, I. F. 2017, “Appraisal of human resource
accounting on profitability of corporate organization”, Economics, vol. 6, no 1, pp. 1-
10. doi: 10.11648/j.eco.20170601.11
Athanasoglou, P., Brissimis, N., and Delis, D. 2008, “Bank-specific, industry-specific
and macroeconomic determinants of bank profitability”, Journal of international
financial Markets, Institutions and Money, vol. 18, no. 2, pp. 121-136.
Awunyo-Vitor, D., and Badu, J. 2012, “Capital structure and performance of listed
banks in Ghana”, Global Journal of Human-Social Science Research, vol. 12, no. 5.
Baldwin, A., and Fellingham, W. 2013, “Bayesian methods for the analysis of small
sample multilevel data with a complex variance structure”, Psychological Methods, vol.
18, pp. 151– 164.
Batten, J., and Vo, X. V. 2019, “Determinants of bank profitability – Evidence from
Vietnam”, Emerging Markets Finance and Trade, vol. 55, no. 1, pp. 1-12.
Basel Committee on Banking Supervision 2010, Basel III: International framework for
liquidity risk measurement, standards and monitoring, Bank for International
Settlements.
Basel 2001, The New Basel Capital Accord: an explanatory note by the Basel Committee
on Banking Supervision, January 2001.
Basel Committee on Banking Supervision 2004, International Convergence of Capital
Measurements and Capital Standards, Bank for International Settlements, Basel.
Berger, A., and Di Patti 2002, “Capital Structure and Firm Performance: A New
115
Approach to Testing Agency Theory and an Application to the Banking Industry”,
Journal of Banking and Finance, vol. 302006, pp. 1065-1102.
Berger, J. O. 1993, Statistical decision theory and Bayesian analysis. Springer. New
York.
Bessler, W., Drobetz, W., Haller, R., and Meier, I. 2013, “The international zero-
leverage phenomenon”, Journal of Corporate Finance, vol. 23, pp. 196-221.
Berlin, M. 2011, Can We Explain Banks' Capital Structure? Business Review, Q2
(2011), Federal Reserve Bank of Philadelphia, pp. 1– 11.
Bhagat, S., Bolton, B., and Lu, J. 2015, “Size, Leverage, and risk-taking of financial
institutions”, Journal of Banking & Finance, vol. 59, pp. 520-537.
Boyd, J.H., and Graham, S.L. 1986, Risk, regulation, and bank holding company
expansion into nonbanking. Quarterly Review - Federal Reserve Bank of Minneapolis
10, pp. 2–17.
Çağlayan and Şak, ̣2010, "The Determinants of Capital Structure: Evidence from the
Turkish Banks", Journal of Money, Investment and Banking, ISSN 1450-288X Issue 15.
Chiaramonte, L. Liu, H. Poli, F. Zhou, M. 2016, “How accurately can Z‐score predict
bank failure?”, Financial Markets, Institutions & Instruments, vol. 25, no. 5, pp. 333–
360.
Demsetz, H. 1973, “Industry structure, market rivalry, and public policy”, The Journal
of Law & Economics, vol. 16, no. 1, pp. 1-9.
Fama, E. F. and French, K. R. 1998, “Value versus Growth: The International
Evidence”, Journal of Finance, vol. 53, pp. 1975-1999. http://dx.doi.org/10.1111/0022-
1082.00080
Fan, J., Titman, S. and Twite, G. 2012, “An International Comparison of Capital
116
Structure and Debt Maturity Choices”, Journal of Financial and Quantitative Analysis,
vol. 47, no. 1, pp. 23-56.
Fauziah, F. Latief, A. and Jamal, S. W. 2020, “The determinants of Islamic banking
capital structure in Indonesia”, Jurnal Ekonomi dan Bisnis Islam, vol. 5, no. 2, pp. 125–
138.
Fitch, T. P. 1997, Dictionary of Banking Terms. Barron's Edutional Series, Inc, 1997.
Gelfand, A. E. Hills, S. E. Racine-Poon, A. and Smith A. F. M. 1990, “Illustration of
Bayesian inference in normal data models using Gibbs sampling”, Journal of the
American Statistical Association, vol. 85, pp. 972– 985.
Gohar, M. and Rehman, M. 2016, “Impact of Capital Structure on Banks Performance:
Empirical Evidence from Pakistan”, Journal of Economics and Sustainable
Development, vol. 7, no. 1, pp. 32-38.
Gropp, R. and Heider, F. 2010, “The Determinants of Bank Capital Structure”, Review
of Finance, vol. 14, pp. 587–622.
Halov, H. Heider, K . and John, K. 2009, “Capital structure and volatility of risk”, SSRN
Electronic Journal.
Hannan, T.H. and Hanweck, G.A. 1988 “Bank insolvency risk and the market for large
certificates of deposit”, Journal of Money, Credit and Banking, vol. 20, pp. 203–211.
Hastings, W. K. 1970, “Monte Carlo sampling methods using Markov chains and their
applications”, Biometrika, vol. 57, pp. 97–109.
Harward, P. and Upton, A. 1953, Introduction to Business Finance. New York, Mc
Graw Hill
Heffeman, S. 2005, Modem banking. John Wiley & Sons Ltd, Chapter 3 and Chapter
7. 101-171 ,351-407.
Hofstrand, D. 2009, Understanding Profitability.
Available at:
117
[Accessed 1 July 2021]
Hoque, H. and Pour, E. K. 2018, “Bank‐level and country‐level determinants of bank
capital structure and funding sources”, International Journal of Finance & Economics,
vol. 23, no. 4, pp. 504– 532.
Houston, J. F. Lin, C. Lin, P. and Ma, Y. 2010, “Creditor rights, information sharing,
and bank risk taking”, Journal of Financial Economics, vol. 96, no. 3, pp. 485-512.
Jensen, M. and Meckling, W. 1976, “Theory of the firm: Managerial behavior, agency
costs, and ownership structur”, Journal of Financial Economics, vol. 3, no. 4, pp. 305–
360.
Jadah, H. M. Hassan, A. A. Hameed, T. M. and Al-Husainy, N. H. 2020, “The Impact
of the Capital Structure on Iraqi Banks’ Performance”, Investment Management and
Financial Innovations, vol. 17, no. 3, pp. 122-132.
http:// dx.doi.org/10.21511/imfi.17(3).2020.10
Kraus, A. and Litzenberger, R. 1973, “A state-preference model of optimal financial
leverage”, The Journal of Finance, vol. 28, no. 4, pp. 911– 922.
Kreinovich, V. Thach, N. N. Trung, N. D. and Thanh, D. V. 2019, Beyond Traditional
Probabilistic Methods in Economics. Springer, Cham. Doi: 10.1007/978-3-030-04200-
4
Kyereboah-Coleman, A. 2007, “The impact of capital structure on the performance of
microfinance institutions”, The Journal of Risk Finance, vol. 8, no. 1, pp. 56-71.
Laeven, L. and Levine, R. 2009, “Bank governance, regulation and risk taking”, Journal
of Financial Economics, vol. 93, no. 2, pp. 259–275.
Le, D. Q. T. and Nguyen, T. D. 2020, “Capital Structure and Bank Profitability in
Vietnam: A Quantile Regression Approach”, Journal of Risk Financial Management,
vol. 13, pp. 168; doi:10.3390/jrfm13080168
Mariëlle, Z. Peeters, M. Depaoli, S. and van de Schoot, R. 2017, “Where do priors come
118
from? Applying guidelines to construct informative priors in small sample research”,
Research in Human Development, vol. 14, no. 4, pp. 305– 320.
McGuigan, J. R. Kretlow, W. J. and Moyer, R. C. 2006, Contemporary financial
management, Thomson – South Western, 10th ed..
Metropolis, N.,Rosenbluth, A. W. Rosenbluth, M. N. Teller, A. H. and Teller, E. 1953,
“Equation of state calculations by fast computing machines”, Journal of Chemical
Physics, vol. 21, pp. 1087–1092.
Mercan, M. 2021, “Determinant factors influence bank risk-taking: Evidence from
commercial bank of Georgia”, Globalization and Business, vol. 11, pp. 59-65.
https://doi.org/10.35945/gb.2021.11.007
Miller, M. and Rock, K. 1985, “Dividend policy under asymmetric information”, The
Journal of Finance, vol. 40, no. 4, pp. 1031– 1051.
Mishkin, F. S. 2000, The economics of money, banking, and financial markets. 6th
edition, New York: Pearson Education.
Modigliani, F. and Miller, M. 1958, “The cost of capital, corporate finance and the
theory of investment”, The American Economic Review, vol. 48, no. 3, pp. 261– 297.
Modigliani, F. and Miller, M. H. 1963, “Corporate income taxs and the cost of capital:
A correction”, The American economic review, vol. 53, no. 3, pp. 433– 443.
Molla, I. 2020, {Capital Structure and Bank Performance: Empirical Evidence from
Bangladesh”, Asian Journal of Finance & Accounting, vol. 12, no. 1, pp. 161-176.
Muthén, B. O. and Curran, P. J. 1997, “General longitudinal modeling of individual
differences in experimental designs: A latent variable framework for analysis and power
estimation”, Psychological Methods, vol. 2, no. 4, pp. 371–402.
Myers, S. C. 1984, “The capital structure puzzle”, Journal of Finance, vol. 39, pp. 575–
592.
Myers, S. and Majluf, N. 1984, “Corporate financing and investment decisions when
119
firms have information that investors do not have”, Journal of Financial Econmomics,
vol. 13, no. 2, pp. 187– 221.
Modigliani, F. and Miller, M. 1958, “The cost of capital, corporate finance and the
theory of investment”, The American Economic Review, vol. 48, no. 3, pp. 261– 297.
Mishkin, F. S. 2000, The economics of money, banking, and financial markets. 6th
edition, New York: Pearson Education.
Nguyen, Q. A. and Duong, N. T. P. 2020, “The impact of credit risk on the financial
stability of commercial banks in Vietnam”, HCMCOUJS-Economics and Business
Administration, vol. 11, no. 2, pp. 67-80.
Nguyen H. T. Trung N. D. and Thach N. N. 2019, Beyond Traditional Probabilistic
Methods in Econometrics. In: Kreinovich V., Thach N., Trung N., Van Thanh D. (eds)
Beyond Traditional Probabilistic Methods in Economics. ECONVN 2019. Studies in
Computational Intelligence, vol 809. Springer, Cham. https://doi.org/10.1007/978-3-
030-04200-4_1
Nguyen, N. T. 2020, “How to explain when the ES is lower than one? A Bayesian
nonlinear mixed-effects approach”, Journal of Risk and Financial Management, vol. 13,
no. 2, pp. 1–17. https://doi.org/10.3390/jrfm13020021.
Octavia, M. and Brown, R. 2010, “Determinants of bank capital structure in developing
countries: Regulatory capital requirement versus the standard determinants of capital
structure”, Journal of Emerging Markets, vol. 15, no. 1, pp. 50– 62.
Olalekan, A. and Adeyinka, S. 2013, “Capital adequacy and banks’ profitability of
deposit taking: an empirical from Nigeria”, Far East Journal of Psychology and
Business, vol. 13, no. 4, pp. 32-41.
Paramasivan, C. and Subramanian, T. 2008, Financial Management. New Age
International Limited, Publishers. New Delhi
Pratomo, W, A. and Ismail, A. G. 2006, “Islamic bank performance and capital
120
structure”, MPRA paper.
Pricillia, N. 2015, “The risk-taking behaviour of Indonesian banks using SCP
paradigm”, Bina Ekonomi, vol. 19, no. 2, pp. 91-103.
Ross, S. A. Westerfield, R. W. and Jordan, B. D. 2003, Fundamentals of Corporate
Finance. 6th Edn. McGraw-Hill Irwin Publications, New York
Roy, A. D. 1952, “Safety first and the holding of assets”, Econometrica, vol. 20, pp.
431–449
Rocchetti, M. Crescini, A. Borgwardt, S. Caverzasi, E. Politi, P. Atakan, Z. and Fusar-
Poli, P. 2013, “Is cannabis neurotoxic for the healthy brain? A metaanalytical review of
structural brain alterations in non-psychotic users”, Psychiatry and Clinical
Neurosciences, vol. 67, no. 7, pp. 483–492.
Saeed, M/ Gull, A. and Rasheed, M. 2013, “Impact of Capital Structure on Banking
Performance (A Case Study of Pakistan)”, Interdiscilinary Journal of Contemporary
Research in Business, vol 4, no. 10, pp. 5-10
Saif-Alyousfi, A. and Saha, A. 2020, “Determinants of banks’ risk-taking behavior,
stability and profitability: Evidence from GCC countries”, International Journal of
Islamic and Middle Eastern Finance and Management, Emerald Publishing.
Saona, P. 2010, “Capital Structure and Performance in the US Banking Industry” (May
29, 2010). Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=1617830
Sibindi, A. B. 2018, “Determinants of bank capital structure: Evidence from South
Africa”, Œconomica, vol. 14, no. 5, pp. 108– 126.
Sealey, C. and Lindley, J.T. 1977, “Inputs, outputs and a theory of production and cost
at depository financial institution”, Journal of Finance, vol. 32, pp. 1251– 1266.
Smirlock, M. 1985, “Evidence on the (non) relationship between concentration and
121
profitability in banking”, Journal of Money, Credit, and Banking, vol. 17, no. 1, pp. 69-
83.
Svítek M. Kosheleva O. Kreinovich V. and Nguyen T. N. 2019, Why Quantum (Wave
Probability) Models Are a Good Description of Many Non-quantum Complex Systems,
and How to Go Beyond Quantum Models. In: Kreinovich V., Thach N., Trung N., Van
Thanh D. (eds) Beyond Traditional Probabilistic Methods in Economics. ECONVN
2019. Studies in Computational Intelligence, vol 809. Springer, Cham.
https://doi.org/10.1007/978-3-030-04200-4_13
VanHoose, D. 2010, The industrial organization of banking: Bank behavior, market
structure, and regulation. Springer.
van der Lee, J. H. Wesseling, J. Tanck, M. W. T. and Offringa, M. 2008, “Efficient
ways exist to obtain the optimal sample size in clinical trials in rare diseases”, Journal
of Clinical Epidemiology, vol. 61, no. 4, pp. 324–330.
van de Schoot, R. and Depaoli, S. 2014, “Bayesian analysis: Where to start and what to
report”, The European Health Psychologist, vol. 16, no. 2, pp. 75– 84.
Widyastuti, A. Komara, R. and Layyinaturrobaniyah. 2019, “Capital structure and bank
performance”, Jurnal Bisnis dan Manajemen, vol. 20, no. 2, pp. 136-144.
Williams, B. 2014, “Bank risk and national governance in Asia”, Journal of Banking &
Finance, vol. 49, pp. 10–26.
Willett, A. H. 1901, The economic theory of risk and insurance. New York. Columbia
University Press.
122
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: DANH SÁCH CÁC NHTM TRONG MẪU NGHIÊN CỨU TẠI
Đơn vị: Tỷ đồng
THỜI ĐIỂM 31/12/2020
STT
TÊN NGÂN HÀNG
ĐỊA CHỈ
SỐ GIẤY PHÉP NGÀY CẤP
VỐN ĐIỀU LỆ
1 Công thương Việt Nam
48.057 1
108 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội
*142/GP-NHNN ngày 03/7/2009
(Vietnam Joint Stock Commercial Bank of Industry and Trade)
*1340/QĐ-NHNN ngày 20/8/2021
40.220,2
2 Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(Joint Stock Commercial Bank for
194 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội
84/GP-NHNN ngày 23/4/2012
Investment and Development of Vietnam)
37.088,8
3 Ngoại Thương Việt Nam
198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội
286/QĐ-NH5 ngày 21/9/1996
(Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam - VCB)
442 Nguyễn Thị Minh
0032/NHGP ngày
4 Á Châu
27.019,5
24/4/1993 ( cấp đổi số
(Asia Commercial Joint Stock Bank - ACB)
Khai, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
91/GP-NHNN ngày 19/9/2018)
*1180/QĐ-NHNN ngày
8/7/2021 về việc sửa đổi
nội dung về vốn điều lệ tại
Giấy phép thành lập và hoạt động
Tầng 1, 2, 3 Tòa nhà
5.713,1
5 An Bình (ABB)
Geleximco, số 36 Hoàng
120/GP-NHNN ngày 12/12/2018
Cầu, phường Ô Chợ Dừa,
(An Binh Commercial Joint Stock Bank - ABB)
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Tầng 1 và Tầng 5, Tòa nhà
6 Bảo Việt (Baoviet bank)
3.150,0
CornerStone, số 16 Phan
328/GP-NHNN ngày 11/12/2018
Bao Viet Joint Stock commercial Bank
Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Toà Nhà HM TOWN, số
7 Bản Việt
3.670,9
(trước đây là Gia Định)
412 đường Nguyễn Thị
0025/ NHGP ngày 22/8/1992
(Viet Capital Commercial Joint Stock Bank - Viet Capital Bank)
Minh Khai, phường 5, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
*1682/QĐ-NHNN ngày 26/10/2021
8 Bắc Á
7.531,35
117 Quang Trung, TP. Vinh, tỉnh Nghệ An
0052/NHGP ngày 01/9/1994
(BAC A Commercial Joint Stock Bank - Bac A Bank)
183/QĐ-NH5 ngày
1/9/1994 ( cấp đổii số
47/GP-NHNN ngày 16/4/2019)
*1667/QĐ-NHNN ngày
22/10/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
Tòa nhà Capital Tower số
9 Bưu điện Liên Việt
12.035,90
109 Trần Hưng Đạo,
*91/GP-NHNN ngày 28/3/2008
(LienViet Commercial Joint Stock Bank – Lienviet Post Bank - LPB)
*22/QĐ-NHNN ngày
phường Cửa Nam, Quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội.
14/01/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
10 Đại Chúng Việt Nam
9.000,0
Số 22 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội
279/GP-NHNN ngày 16/9/2013
(Public Vietnam Bank - PVcomBank)
11 Đông Nam Á
14.784,88
25 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội
*0051/NHGP ngày 25/3/1994
(Southeast Asia Commercial Joint Stock Bank - Seabank)
*1489/QĐ-NHNN ngày
17/9/2021 về việc sửa đổi
nội dung vốn điều lệ tại Giấy phép
*2078/QĐ-NHNN ngày
24/12/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
Số 54A Nguyễn Chí
12 Hàng Hải
15.275
Thanh, phường Láng
0001/NHGP ngày 08/6/1991
(The Maritime Commercial Joint Stock Bank - MSB)
*1883/QĐ-NHNN ngày
Thượng, Quận Đống Đa, Hà Nội
23/11/2021 (Quyết định
123
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
40-42-44 Phạm Hồng
0056/NH-GP ngày
13 Kiên Long
3.653
18/9/1995
(Kien Long Commercial Joint Stock Bank - KLB)
Thái, TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
2434/QĐ-NHNN ngày 25/12/2006
*2103/QĐ-NHNN ngày
29/12/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
14 Kỹ Thương
35.109,1
(Viet Nam Technological and
191 Bà Triệu, quậnHai Bà Trưng, Hà Nội
*0040/NHGP ngày 06/8/1993
*282/QĐ-NHNN ngày
Commercial Joint Stock Bank - TECHCOMBANK)
9/3/2021 (Quyết định sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
*1695/QĐ-NHNN ngày
27/10/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
201-203 Cách mạng tháng
15 Nam Á
4.564,5
0026/NHGP ngày 22/8/1992
(Nam A Commercial Joint Stock Bank - NAM A BANK)
8, phường 4, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
16 Phương Đông
13.698,82
41, 45 Lê Duẩn, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
*0061/ NHGP ngày 13/4/1996
(Orient Commercial Joint Stock Bank - OCB)
*2120/QĐ-NHNN ngày
09/12/2020 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
*1661/QĐ-NHNN ngày
21/10/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
18 Lê Văn Lương, phường
17 Quân Đội
27.987,6
*100/NH-GP ngày 17/10/2018
(Military Commercial Joint Stock Bank - MB)
Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
*2009/QĐ-NHNN ngày
25/11/2020 (QĐ thay đổi trụ sở chính)
124
* 1913/QĐ-NHNN ngày
9/11/2020 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ);
Tòa nhà Sailing Tower, số
18 Quốc Tế
15.531,4
*95/GP-NHNN ngày 28/9/2018
Vietnam International Commercial Joint Stock Bank - VIB
111A Pasteur, quận 1, TP Hồ Chí Minh
*23/QĐ-NHNN ngày
14/1/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
*1313/QĐ-NHNN ngày
6/8/2021 (Quyết định sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
0057/NHGP ngày
19 Quốc dân
4.101,6
18/9/1995
28C-28D Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
(Đổi tên từ Ngân hàng Nam Việt) (National Citizen bank - NCB)
970/QĐ-NHNN ngày 18/5/2006
19,21,23,25 Nguyễn Huệ
238/GP-NHNN ngày
20 Sài Gòn
15.231,7
26/12/2011 ( cấp đổi
(Sai Gon Commercial Joint Stock Bank - SCB)
Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố HCM
29/GP-NHNN ngày 4/3/2020)
21 Sài Gòn Công Thương
3.080,0
Số 2C Phó Đức Chính, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
0034/NHGP ngày 04/5/1993
(Saigon Bank for Industry & Trade - SGB)
22 Sài Gòn – Hà Nội
19.260,48
77 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
*115/GP-NHNN ngày 30/11/2018
(Saigon-Hanoi Commercial Joint Stock Bank - SHB)
*957/QĐ-NHNN ngày
7/6/2021 (Quyết định sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
266-268 Nam Kỳ Khởi
*0006/NHGP ngày
23 Sài Gòn Thương Tín
18.852,2
05/12/1991*289/QĐ-
NHNN ngày 10/3/2021
(Saigon Thuong TinCommercial Joint Stock Bank - Sacombank)
Nghĩa, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
(Quyết định sửa đổi nội
dung địa điểm đặt trụ sở chính)
125
Số 57 Lý Thường Kiệt,
24 Tiên Phong
11.716,7
*123/GP-NHNN ngày 05/5/2008
(TienPhong Commercial Joint Stock Bank - TPB)
phường Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội
*152/QĐ-NHNN ngày
5/2/2021 (Quyết định sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
*1776/QĐ-NHNN ngày
10/11/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
Tầng 4 và 5, Tòa nhà nhà
25 Việt Á
4.449
Samsora Premier, số 105
*55/GP-NHNN ngày 31/5/2019
đường Chu Văn An,
(Viet A Commercial Joint Stock Bank - VIETA Bank)
*Quyết định số 1293/QĐ-
NHNN ngày 02/8/2021
phường Yết Kiêu, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
(Quyết định sửa đổi địa điểm đặt trụ sở chính)
0042/NHGP ngày
26 Việt Nam Thịnh Vượng
45.056,93
(Vietnam Commercial Joint Stock
12/8/1993 ( cấp đổi số
89 Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội
94/GP-NHNN ngày 28/9/2018)
Bank for Private Enterprise - VPBank)
*1786/QĐ-NHNN ngày
15/11/2021 (Quyết định
sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
4.776,8
27 Việt Nam Thương Tín (Viet Nam Thuong Tin
47 Trần Hưng Đạo, TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
2399/QĐ-NHNN ngày 15/12/2006
*1495/QĐ-NHNN ngày
Commercial Joint Stock Bank - Vietbank)
20/9/2021 (QĐ sửa đổi nội dung vốn điều lệ)
Tầng 16, 23, 24 tòa nhà
0045/NHGP ngày
28 Xăng dầu Petrolimex
3.000,0
MIPEC số 229 Phố Tây
13/11/1993
(Petrolimex Group Commercial Joint Stock Bank - PGBank)
Sơn, phường Ngã Tư Sở, Đống Đa, Hà Nội
125/QĐ-NHNN ngày 12/01/2007
Tầng 8 Tòa nhà Vincom,
29 Xuất Nhập Khẩu
12.355,2
(Viet nam Export Import
số 72 Lê Thánh Tôn và 47
0011/NHGP ngày 06/4/1992
Lý Tự Trọng, phường Bến
Commercial Joint Stock - Eximbank)
Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
126
25 bis Nguyễn Thị Minh
00019/NH-GP ngày
20.272,9
30 Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (Ho Chi Minh city Development
6/6/1992 (cấp đổi:
Khai, phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Mịnh
Joint Stock Commercial Bank - HDBank)
0026/NH-GP ngày 12/02/2020)
127
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
128
PHỤ LỤC 2: THỐNG KÊ MÔ TẢ VÀ TƯƠNG QUAN
129
130
PHỤ LỤC 3: KẾT QUẢ HỒI QUY
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
DANH MỤC CÁC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
STT Tên công trình Mức độ Nơi công bố Năm công
tham gia bố
1 The Impact of capital Đồng tác giả Cogent Business & 2022
structure on bank Management
profitability: Evidence from
Vietnam
2 Impact of Capital Structure Đồng tác giả WSEAS 2022
on Risk-taking of TRANSACTIONS
Vietnamese Commercial on BUSINESS
and ECONOMICS Banks
3 Cấu trúc vốn và lợi nhuận Đồng tác giả Tạp chí Kinh tế và 2022
của các ngân hàng thương Ngân hàng châu Á
mại Việt Nam: Tiếp cận
bằng Bayes
4 Does Internal Control Đồng tác giả Springer 2022
Affect Bank Profitability in
Vietnam? A Bayesian
Approach
5 Cấu trúc vốn của ngân hàng Đồng tác giả Tạp chí Nghiên 2021
thương mại Việt Nam: cách cứu Kinh tế và
tiếp cận theo phương pháp Kinh doanh Châu
Bayes Á
6 Determinants of Bank Đồng tác giả Springer 2021
Liquidity: Evidence from
Vietnam
142
7 Tác động của kiểm soát nội Đồng tác giả Tạp chí Kinh tế và 2020
bộ đến khả năng sinh lời của Ngân hàng châu Á
các ngân hàng thương mại
Việt Nam
8 Mối quan hệ giữa kiểm soát Đồng tác giả Tạp chí Kinh tế và 2020
nội bộ và rủi ro tín dụng của Ngân hàng châu Á
ngân hàng thương mại:
Bằng chứng thực nghiệm tại
Việt Nam