intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn học: Hồi ký trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay nhìn từ đặc trưng thể loại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:182

79
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nhận diện, phân tích những ảnh hưởng của thời đại có liên quan mật thiết đến việc hình thành những đặc trưng cơ bản của hồi ký sau năm 1975, luận án một mặt chỉ ra những yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm hồi ký giai đoạn này, mặt khác phác họa khuynh hướng vận động của hồi ký trong tiến trình giao thoa và biến thể đầy phong phú và phức tạp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Hồi ký trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay nhìn từ đặc trưng thể loại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _______________________ TRẦN THỊ HỒNG HOA HỒI KÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1975 ĐẾN NAY NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2017
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _______________________ TRẦN THỊ HỒNG HOA HỒI KÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1975 ĐẾN NAY NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 62 22 01 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN KHÁNH THÀNH Hà Nội - 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng: - Luận án tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. - Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị. - Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu một cách trung thực, cẩn trọng trong luận án. NGHIÊN CỨU SINH Trần Thị Hồng Hoa
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Khánh Thành - người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn cơ sở đào tạo, các thầy cô giáo, cơ quan, bạn bè và gia đình đã luôn động viên, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này. NGHIÊN CỨU SINH Trần Thị Hồng Hoa
  5. MỤC LỤC Lời cam đoan Lời cảm ơn MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 3 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4 5. Đóng góp mới của luận án ....................................................................... 5 6. Cấu trúc luận án ....................................................................................... 6 Chƣơng 1.TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................. 7 1.1. Một số vấn đề lí luận về ký ................................................................ 7 1.1.1. Nguồn gốc của ký ............................................................................ 7 1.1.2. Đặc trưng của ký ............................................................................. 8 1.1.3. Phân loại ký .................................................................................. 12 1.2. Quan niệm về hồi ký ........................................................................ 14 1.2.1. Khái niệm về hồi ký ....................................................................... 14 1.2.2. Đặc trưng của hồi ký ..................................................................... 16 1.2.3. Phân loại hồi ký ............................................................................ 21 1.3. Lịch sử nghiên cứu hồi ký tại Việt Nam .......................................... 27 1.3.1. Tình hình nghiên cứu hồi ký trước năm 1975 ............................... 27 1.3.2. Tình hình nghiên cứu hồi ký sau năm 1975 .................................. 30 Chƣơng 2.QUÁ TRÌNH PHỤC HIỆN KÝ ỨC TRONG HỒI KÝ SAU 1975 ............................................................................................................ 37 2.1. Vai trò của ký ức trong hồi ký ............................................................ 37 2.1.1. Ký ức là khởi nguồn, chất liệu của văn học nói chung ................... 38 2.1.2. Ký ức sàng lọc và tạo ra những giới hạn của việc tái hiện sự thật . 40 2.2. Sự thôi thúc từ hiện tại - điểm khởi đầu của dòng ký ức ................... 45 2.2.1. Nhu cầu hồi cố của lớp người cao tuổi ........................................... 46 2.2.2. Khát vọng chia sẻ của lớp trẻ qua hồi ký ........................................ 48 2.3. Sự kết tinh của các biểu tượng nghệ thuật.......................................... 50 2.3.1. Những biểu tượng nổi bật ................................................................ 52 2.3.2. Sự tương hỗ của các biểu tượng ...................................................... 61
  6. 2.4. Sự hỗ trợ của trí tưởng tượng trong quá trình hoài niệm ................... 63 2.4.1. Vai trò của tưởng tượng và vấn đề hư cấu trong hồi ký ................. 63 2.4.2. Một số hình thức của tưởng tượng trong hồi ký .............................. 65 Chƣơng 3. DIỄN NGÔN VỀ SỰ THẬT TRONG HỒI KÝ SAU 1975 ..... 70 3.1. Tiếp cận hồi ký từ lý thuyết diễn ngôn ............................................... 70 3.1.1. Khái quát về lý thuyết diễn ngôn ..................................................... 70 3.1.2. Hồi ký dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng xã hội sau năm 1975 ....... 72 3.1.3. Sự hình thành và quan hệ qua lại giữa mã sự thật và mã nghệ thuật trong ký nói chung và hồi ký nói riêng ............................................. 78 kết giữa mã sự thật và mã nghệ thuật trong hồi ký các nhà văn ............................................................................................................. 81 3.2.1. Chủ thể diễn ngôn và cái nhìn tự biện mới mẻ về bản thân ............ 81 2.2.2. Hình tượng bạn bè nghệ sĩ dưới những góc nhìn khác nhau .......... 92 trội của mã sự thật trong hồi ký của các tướng lĩnh, chính trị gia và các cựu binh cách mạng ................................................................ 100 3.3.1. Chân dung người anh hùng trong cuộc chiến và giữa đời thường102 3.3.2. Hình tượng người lính- người đồng đội trong chiến tranh ........... 108 3.3.3. Sự thể hiện của các chính trị gia ................................................... 111 trợ của mã nghệ thuật cho mã sự thật trong hồi ký của các tầng lớp khác…………………………………………………………...…114 3.4.1. Hồi ký của các nhà báo. ............................................................... 115 3.4.2. Hồi ký của những người làm nghệ thuật ....................................... 118 Chƣơng 4. SỰ GIAO THOA THỂ LOẠI CỦA HỒI KÝ SAU 1975 ....... 122 4.1. Chất trữ tình trong hồi ký ................................................................. 122 4.1.1. Sự trỗi dậy của cái tôi nội cảm giữa cấu trúc hồi ức .................... 123 4.1.2. Sự xuất hiện của thiên nhiên giữa dòng chảy sự kiện ................... 126 4.2. Chất tiểu thuyết trong hồi ký ............................................................ 128 4.2.1. Kết cấu hiện đại ............................................................................. 130 4.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật có độ dư ........................................ 134 4.2.3. Kỹ thuật tự sự tạo tính đa thanh .................................................... 137 4.3. Một số biến thể của hồi ký................................................................ 140 4.3.1. Hồi ký-tự truyện ............................................................................. 141 4.3.2. Hồi ký- bút ký ................................................................................. 143
  7. 4.3.3. Hồi ký ẩn danh tiểu thuyết ............................................................. 144 KẾT LUẬN………………………………………………………………148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................ 150 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 151 PHỤ LỤC ............................................................................................... 168
  8. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Hồi ký xuất hiện tại phương Tây từ thời cổ đại Hy Lạp, ban đầu mang dáng dấp tiểu sử văn học, ghi lại những sự kiện đáng nhớ của những nhân vật có sức ảnh hưởng lớn với cộng đồng. Cùng với sự phát triển của lịch sử, sự thay đổi của các giá trị văn hóa, xã hội, hồi ký ngày càng trở thành một thể loại hữu dụng để trình bày ký ức, tâm tư của bản thân, những đánh giá, nhìn nhận của các tầng lớp khác nhau về mọi sự việc, hiện tượng trong đời sống. Tại Việt Nam, vào những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt trong giai đoạn 1930- 1945, hồi ký cũng bắt đầu xuất hiện với tác phẩm Ngục Kon Tum (1938) của Lê Văn Hiến nhưng chưa được sáng tác rộng rãi như các thể ký khác. Những năm 1945- 1975, tiếp nối tinh thần của thời đại, hồi ký- đặc biệt là mảng hồi ký cách mạng đã phát triển rực rỡ với những tác phẩm mang âm hưởng sử thi hào hùng. Sau năm 1975, hồi ký trở thành một thể loại được yêu thích không kém truyện ngắn và tiểu thuyết. Là một thể ký tự sự được phát triển từ những hồi ức cá nhân mang đầy tính chủ quan nên hồi ký tương đối “cởi mở”, không bị câu thúc quá nghiêm ngặt bởi những yêu cầu về nội dung và hình thức thể hiện. Mặt khác, với công chúng hôm nay, nhu cầu tìm đến sự thật, xác minh những bí mật ẩn giấu sau những “vỏ bọc” của lịch sử và con người đã ngày càng trở thành nhu cầu bức thiết và thôi thúc họ tìm đến với hồi ký. Vì thế, không khó hiểu khi bước vào thời kỳ đổi mới, văn đàn nước ta chứng kiến sự “bùng nổ” chưa từng có của thể loại này với sự xuất hiện của rất nhiều tác giả không chuyên ở đủ mọi nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội… Bên cạnh những cuốn hồi ký được viết ra bởi những nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu nổi tiếng còn có những cuốn hồi ký của các nguyên thủ 1
  9. quốc gia, các tướng lĩnh, nhà chính trị, nhà giáo, các diễn viên điện ảnh, nhạc sĩ, các kiến trúc sư hay những người nông dân... 1.2. Theo nguồn thống kê từ Thư viện Quốc gia, số lượng hồi ký được xuất bản từ năm 1986 đến năm 1996 ở nước ta là 296 cuốn (trong đó có 36 cuốn hồi ký của tác giả nước ngoài, 260 cuốn của tác giả Việt Nam). Con số này tăng lên gần gấp ba trong khoảng thời gian tiếp theo từ 1997 đến 2007 với tổng 630 cuốn (trong đó có 71 cuốn hồi ký nước ngoài, 559 cuốn hồi ký của Việt Nam). Đỉnh cao là năm 2005 có đến 77 cuốn hồi ký được xuất bản. Cho đến thời điểm này, tuy chưa có khảo sát đầy đủ cho số lượng hồi ký ra mắt độc giả nhưng chúng tôi có thể khẳng định rằng đã có hàng nghìn đầu sách được công bố trên cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn của cả người viết và người đọc (chưa kể các tác phẩm hồi ký được đăng tải trên mạng xã hội và đến với độc giả thế hệ @ theo phương thức đặc thù). Số lượng tác phẩm đồ sộ và có chất lượng xuất hiện trong thời gian qua đủ để hồi ký tạo nên một cuộc tranh đua hấp dẫn với các thể loại tự sự truyền thống như tiểu thuyết hay truyện ngắn. Tuy nhiên, trong khi các thể loại khác nhận được sự quan tâm sâu sắc của đông đảo nhà phê bình hay các nghiên cứu sinh chuyên ngành văn học thì hồi ký chưa xuất hiện nhiều trong các công trình nghiên cứu lớn mang tính bao quát. Sự xuất hiện rải rác các bài báo về hồi ký qua các giai đoạn đã cung cấp bức tranh chung về mặt lý luận và thực tiễn sáng tác nhưng chưa giải quyết được thấu đáo mọi vấn đề của thể loại. Sự chú ý của một vài luận văn hay luận án dành cho hồi ký bước đầu mang đến cái nhìn hệ thống, khái quát về sự phát triển của hồi ký nhưng lại chưa làm nổi bật được những yếu tố cốt lõi của hồi ký. Nhìn lại lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi cho rằng, vẫn còn nhiều khoảng trống cần phải bổ sung để nhận diện một cách xác đáng những đặc trưng cơ bản của thể loại này. 1.3. Hệ thống thể loại cùng sự vận động và biến đổi của nó là một phương diện quan trọng bộc lộ quan niệm văn học và đặc điểm tư duy 2
  10. nghệ thuật của mỗi thời đại. “Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trước hết là các thể loại, còn trào lưu, trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì và hạng ba” [10, 28]. Soi vào quan điểm trên, ta nhận thấy việc xác lập những ranh giới cùng những đặc trưng nổi bật cho mỗi thể loại trong tiến trình phát triển của văn học là vô cùng quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, với hồi ký, sự phân định đường biên thể loại giữa nó và những dạng thức tác phẩm khác quả thật không phải là việc dễ dàng, nhất là khi trong khuynh hướng giao thoa và biến thể đã trở thành tất yếu của thời đại mới, hồi ký ngày càng có sự thâm nhập rõ nét hơn của bút ký, tự truyện, tiểu thuyết. Muốn trả lại vị trí cho hồi ký trong hệ thống thể loại, cần nhận diện và khẳng định những giá trị cơ bản có liên đới trực tiếp đến sự hình thành nội dung và nghệ thuật, tạo nên điểm khác biệt của hồi ký so với các thể loại khác. Tóm lại, sự hấp dẫn và lên ngôi của hồi ký cộng với những khoảng trống trong lịch sử nghiên cứu đã thôi thúc chúng tôi đặt vấn đề tìm hiểu về “Hồi ký trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay nhìn từ đặc trưng thể loại”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nhận diện, phân tích những ảnh hưởng của thời đại có liên quan mật thiết đến việc hình thành những đặc trưng cơ bản của hồi ký sau năm 1975, luận án một mặt chỉ ra những yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm hồi ký giai đoạn này, mặt khác phác họa khuynh hướng vận động của hồi ký trong tiến trình giao thoa và biến thể đầy phong phú và phức tạp. 3
  11. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thu thập, đối chiếu, hệ thống hóa các tài liệu nghiên cứu về ký nói chung và hồi ký nói riêng nhằm cung cấp bức tranh tổng quan về hồi ký trên tiến trình thể loại. - Nhận diện và phân tích các yếu tố làm nên sự khác biệt của một tác phẩm hồi ký được viết sau năm 1975 so với hồi ký trước năm 1975 và một số kiểu loại gần gũi như tự truyện, bút ký hay nhật ký... - Xác lập các đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật của thể loại hồi ký sau năm 1975 nhằm tìm ra những điểm ưu trội của thể loại đó so với các thể loại khác. - Phân tích một số dạng thức giao thoa thể loại và khuynh hướng biến thể của hồi ký sau năm 1975. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đặc trưng thể loại của hồi ký trong văn học Việt Nam sau năm 1975 thể hiện qua những tác phẩm tiêu biểu nhất. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Tuy hồi ký đã xuất hiện từ những năm 30, 40 của thế kỷ XX nhưng chúng tôi cho rằng chỉ từ sau năm 1975, hồi ký mới đặc biệt nở rộ cả về số lượng và chất lượng, trong đó có những hiện tượng sáng tác hết sức lý thú, mang tính dự báo cho khuynh hướng vận động của thể loại. Vì lý do này, luận án lựa chọn phạm vi nghiên cứu là các tác phẩm hồi ký xuất hiện ở Việt Nam từ sau năm 1975 cho đến nay. Vì số lượng tác phẩm quá lớn, chúng tôi chỉ tập trung vào những tác phẩm đã được giới nghiên cứu cũng như độc giả công nhận và đánh giá cao. Trong số này, luận án ưu tiên phần nhiều cho hồi ký của các nhà văn vì đây là những sáng tác có sự dung hòa tốt nhất giữa tính nghệ thuật và tính lịch sử. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hướng đến những hồi ký tiêu biểu do các tướng lĩnh cách mạng, các cựu chiến binh, chính trị gia và 4
  12. nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội tham gia sáng tác (hoặc được hỗ trợ chấp bút). Tất nhiên, bên cạnh những hồi ký có giá trị tích cực, vẫn còn một số hồi ký xuất hiện những chi tiết phản cảm, xâm phạm đời tư của các nhân vật trong tác phẩm, đồng thời gây hoài nghi cho người đọc về lập trường, đạo đức, động cơ của tác giả (trường hợp các hồi ký của Đào Xuân Quý, Nguyễn Đăng Mạnh, Thương Tín...), nhiều hồi ký viết đơn giản, dễ dãi, ít giá trị văn chương (trào lưu công bố hồi ký đang lan rộng trên các trang mạng xã hội, các trang cá nhân...). Những hồi ký trên không phải là đối tượng của luận án. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án sử dụng kết hợp các thao tác nghiên cứu như phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê... và quy về một số phương pháp nghiên cứu chính: phương pháp lịch sử- xã hội, phương pháp tiếp cận liên ngành, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp phê bình tiểu sử. - Phương pháp lịch sử- xã hội: nhằm tìm ra những đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam sau năm 1975 có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của hồi ký, đồng thời đặt hồi ký trong các trục nghiên cứu khác nhau (tiến trình văn học dân tộc, hệ hình phát triển của thể loại…) để đánh giá chính xác, khoa học những đặc điểm, đóng góp của thể tài này. - Phương pháp tiếp cận liên ngành: chúng tôi sẽ nghiên cứu đặc trưng của hồi ký không chỉ bằng các tri thức văn học mà còn vận dụng kết hợp với các chuyên ngành khoa học gần gũi khác như lý thuyết diễn ngôn và tâm lý học sáng tạo. Lý thuyết diễn ngôn cung cấp cơ sở để phân tích quá trình tái hiện sự thật trong hồi ký qua mối liên hệ ràng buộc giữa mã sự thật và mã nghệ thuật. Còn tâm lý học sáng tạo đưa ra những công cụ “chìa khóa” giúp phân tích vai trò của ký ức trong hồi ký với những giai đoạn cụ thể và tác động chặt chẽ lẫn nhau. 5
  13. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: học hỏi từ lý thuyết về thi pháp của phương Tây, hướng nghiên cứu thi pháp học đã được sử dụng ở hầu hết các thể loại văn học. Tương tự như vậy, khi nghiên cứu về hồi ký, luận án cũng vận dụng phương pháp này để nhận diện, phân tích “hệ thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật” [51, 304]. - Phương pháp phê bình tiểu sử: chú trọng vào tiểu sử của người viết để tìm ra cơ sở lý giải cho những quan điểm sáng tác, những hình tượng nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm. Phương pháp này có nhiều điểm phù hợp để tìm hiểu một thể tài “đậm tính chủ quan” và mang dấu ấn cá nhân như hồi ký. 5. Đóng góp mới của luận án Luận án này là công trình đầu tiên nghiên cứu về hồi ký ở các mảng đề tài khác nhau, bao gồm cả tác phẩm của những tác giả không chuyên nhưng đã được giới phê bình và độc giả ghi nhận. Hồi ký được xem xét như một đối tượng của lý luận văn học với các đặc trưng thể loại nổi bật, không trộn lẫn với bất kỳ thể ký nào khác cũng như hoàn toàn phân biệt với những thể loại cũng viết về cái tôi cá nhân. Kết quả luận án sẽ giúp bổ sung lý luận phê bình về thể loại, cung cấp nguồn tư liệu hữu ích cho việc giảng dạy các môn Lí luận văn học và Văn học Việt Nam tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay. 6. Cấu trúc luận án Luận án gồm 5 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, các công trình nghiên cứu của tác giả và thư mục tham khảo. Nội dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2: Quá trình phục hiện ký ức trong hồi ký sau năm 1975 Chương 3: Diễn ngôn về sự thật trong hồi ký sau năm 1975 Chương 4: Sự giao thoa thể loại của hồi ký sau năm 1975 6
  14. CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Một số vấn đề lý luận về ký 1.1.1. Nguồn gốc của ký Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Ký ra đời rất sớm trong lịch sử văn học của nhân loại. Nhưng phải đến thế kỷ XVII, đặc biệt là từ thế kỉ XIX, khi đời sống lịch sử của các dân tộc ngày càng phát triển theo hướng tăng tốc, khi kĩ nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học mở cửa, xé rào để thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác, nhà văn ngày càng có ý thức tham gia trực tiếp vào những cuộc đấu tranh xã hội, ký mới thực sự phát triển mạnh mẽ” [52, 163]. Nhưng trong cuốn Lý luận văn học, La Khắc Hòa lại cho rằng ký là một thể loại xuất hiện muộn so với văn thơ cách luật bởi lẽ “lịch sử của nó gắn liền với lịch sử phát triển của văn học bác học”. Tác giả cũng nhấn mạnh: “Ở châu Âu, phải đến thế kỷ XVIII, người ta mới thấy ký văn học xuất hiện nhiều trên một số tạp chí trào phúng (…) và đạt được sự kết tinh nghệ thuật trong sáng tác của các nhà khai sáng..” [148, 356]. Khi truy nguyên nguồn gốc của ký ở các quốc gia có sự phát triển lâu đời và có nền văn học phát triển mạnh mẽ, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận ra sự manh nha của ký trong những tác phẩm tiêu biểu. Như “Ở Trung Quốc, ký xuất hiện từ trước đời Hán. Đến các đời Đường, Tống, Minh, Thanh, ký ngày càng phát triển mạnh mẽ và được ý thức về đặc điểm thể loại” [148, 356] hay “ký là thể loại không có mặt trong Văn tuyển của Tiêu Thống, cũng không được bàn đến trong Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, mặc dù chữ ký đã thấy có trong một số thiên từ Hán trở về trước. Ký bắt đầu xuất hiện trong nhiều trước tác của các tác giả đời Đường, như để ghi việc xen với lời bình…” [147, 324]. Ở phương Tây, ký đã phát triển từ khá sớm với các tác phẩm tiêu biểu: Những bức tranh 7
  15. Pari- Mecsie, Tự thuật- Rousseau, Hồi ức từ bên kia nấm mồ- Chateaubriand… Các nhà văn Nga cũng có nhiều tác phẩm ký xuất sắc như Hành trình từ Petecbua đến Moskva của Radisev, Những xó xỉnh Pêtecbua của Nhecrasov, Những người Côdắc vùng Uran của Dan… Tại Việt Nam, nguồn cội xa xưa của ký là các tác phẩm bi ký, minh ký, tạp ký, tục biên, liệt truyệt, thực lục… trong văn học trung đại như Công dư tiệp ký (Vũ Phương Đề), Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)… Tuy lúc đó chưa có ý thức về ký như một thể loại văn học song trong các lời bạt, tự hay trong các công trình mang tính chất khảo cứu của thời đại, người ta vẫn có thể tìm thấy quan niệm về ký khá nhất quán. 1.1.2. Đặc trưng của ký Trước hết, xét về mặt từ nguyên, các thể ký, lục, chí đều có nghĩa là “ghi chép”. Chính vì thế, các học giả thời trung đại đều nhấn mạnh đến chức năng ghi chép như là một nhiệm vụ quan trọng nhất của thể loại này. Tựa Trung Hưng thực lục, Hồ Sĩ Dương viết: “Sách thực lục được biên soạn nhằm chép việc, nêu công lao, tỏ rõ chính thống và ghi rõ dòng dõi vua hiền” [142, 60]. Trong Thượng kinh ký sự, Lê Hữu Trác cũng bày tỏ: “Nhân việc khi nhàn rỗi, uống rượu, gảy đàn, chép lại đầu đuôi việc cũ để nhớ lại khiến con cháu ở đời biết tùy duyên, thủ phận, biết tri túc tri chỉ…” [171, 175]. Mặt khác, các học giả cũng khẳng định, những việc được ghi chép trong ký, lục, chí là sự thực mắt thấy tai nghe. Trong lời tựa của Lam Sơn thực lục và Trung Hưng thực lục, Hồ Sĩ Dương nhấn mạnh hai trước tác của ông “không nói chuyện hoang đường như Lĩnh Nam chích quái, không chép những điều quái loạn như Việt điện u linh, chỉ thêm vào bớt đi cho đúng sự thực để rõ chính thống và làm sáng tỏ đế nghiệp mà thôi” [142, 62]. Tựa Công dư tiệp ký, Vũ Phương Đề viết: “Phủ bình nhật thích nói chuyện nên khi việc quan rảnh rỗi thường ghi chép lại những điều bấy lâu nay mình nghe được, cùng những chuyện biết 8
  16. được từ các nhà bác học đương thời. Tất cả đều căn cứ vào sự thực mà viết thành bài…” [40, 11]. Như vậy, từ rất sớm, các học giả nước ta đã xác định nhiệm vụ đồng thời cũng là đặc trưng trọng tâm của ký là tái hiện và ghi chép sự thật với sự tôn trọng tối đa. Những năm 1960 đã diễn cuộc tranh luận khá quyết liệt trên văn đàn Việt Nam về vị trí, chức năng, đặc trưng, sự thật và hư cấu trong ký. Các ý kiến đều thống nhất thừa nhận ký là thể loại ghi chép người thật việc thật, tranh cãi chủ yếu xoay quanh bàn luận về mức độ và vai trò của hư cấu trong ký. Một bên là Trần Cư, Nguyễn Kim Hoa, Tầm Dương… khẳng định ký không được quyền hư cấu dưới bất cứ hình thức nào. Bên kia là Chế Lan Viên, Nguyễn Minh Nguyên, Châu Giang… cho rằng ký có thể hư cấu trong giới hạn cho phép. Trong công trình Cơ sở lý luận văn học năm 1973 của các tác giả Nguyễn Xuân Nam, Trần Văn Bính, ký được xác định như “một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp nhất”; các tác giả khi viết ký cần “tôn trọng tính xác thực của người và việc trong tác phẩm”; “hư cấu không được sử dụng tuỳ tiện ảnh hưởng đến tính xác thực của nội dung mà trái lại phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm” [117, 42]. Năm 1980, trong công trình Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hà Minh Đức lại khẳng định: “Chức năng của ký không chỉ nhằm vào miêu tả cái có thật trong cuộc sống. Ký cảm nhận nhạy bén với những sự kiện đang phát triển trên dòng thời sự, nên có khả năng phát hiện hướng vận động của hiện thực, những mâu thuẫn, những vấn đề nảy sinh và đoán định hiệu quả đạt tới” [41,7]. Đặt trong mối tương quan so sánh với các loại ký ngoài văn học, tác giả đưa ra định nghĩa: “Ký văn học chủ yếu là hình thức ghi chép linh hoạt trong văn xuôi về những sự kiện và con người có thật trong đời sống với nguyên tắc tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính thời sự của đối tượng miêu tả” [41,45]. 9
  17. Nhìn chung, các tranh luận trong giai đoạn 1945-1986 đều xoay quanh vấn đề: ký được phép hay không được phép hư cấu? Đây cũng là giai đoạn xác lập hệ thống lý thuyết về ký. Lần đầu tiên, các thể tài có chức năng và hình thức ghi chép sự thật như ký sự, phóng sự, bút ký… được tập hợp trong một thể loại văn học có tên là ký. Sau năm 1986, sự ra đời của các bộ giáo trình lí luận văn học gắn với các cơ sở đào tạo sinh viên Ngữ Văn, Báo chí đã tiếp tục xác lập hệ thống lý thuyết về ký. Lí luận văn học do Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm biên soạn đã cho rằng ký là một loại hình văn học trung gian với những đặc trưng như: ký là sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào đời sống xã hội, ký có cách xử lý riêng về khoảng cách giữa thời gian sự kiện và thời gian trần thuật, ký kết hợp linh hoạt các phương thức tự sự, trữ tình, nghị luận với những thao tác tư duy khoa học, đặc trưng của ký là trần thuật người thật việc thật nên người trần thuật trong ký thường xưng tôi, hiện diện với tư cách là nhân chứng, ký có thể hư cấu trong phạm vi nhất định... Từ điển thuật ngữ văn học nhận định: “Nhưng khác với truyện ngắn, truyện vừa, đặc biệt là tiểu thuyết, ký có quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hư cấu. Nhà văn viết ký luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm. Sự việc và con người trong ký phải xác thực hoàn toàn, có địa chỉ hẳn hoi” [52, 163]. Tiếp tục giải quyết những tranh luận về vấn đề hư cấu trong ký, tác giả Hoàng Minh Lường trong Giáo trình lý luận văn học (dành cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền) đã có những kiến giải khá thú vị và xác đáng: “Người viết ký cũng có thể viết về sự kiện nhờ nghe kể lại, thậm chí nhờ đọc nguồn tư liệu tĩnh… Những khó khăn của quá trình xử lý, tiếp cận tư liệu như trên chính là nguồn gốc của sự sáng tạo và hư cấu. Hư cấu và sáng tạo là một khả năng có thể trong quá trình sáng tạo các tác phẩm ký” [104, 256]. Chúng tôi nhận thấy, không cần đợi đến khi văn 10
  18. học được “cởi trói tư duy” ở thời kỳ đổi mới, tạo tiền đề cho những tác phẩm ký thể hiện tư tưởng nội dung và nghệ thuật, mà ngay ở giai đoạn đầu của văn học cổ điển, thực tiễn sáng tác đã xuất hiện nhiều tác phẩm ký với đầy ắp những yếu tố hoang đường, kì ảo (Vũ trung tuỳ bút- Phạm Đình Hổ, Công dư tiệp ký- Vũ Phương Đề) hay những tưởng tượng, giả định lý thú (Thượng kinh ký sự- Lê Hữu Trác). Năm 2013, trong luận án của mình, tác giả Nguyễn Ngọc Minh đã đặt vấn đề nhìn nhận ký như một loại hình diễn ngôn, giải quyết một loạt vấn đề của thể loại dưới góc nhìn mới. Tất nhiên, chúng tôi không đồng ý với tác giả khi coi ký là một “loại hình” (đứng từ góc độ lý luận, ký chỉ nên được xem xét với tư cách một thể loại, đồng đẳng với các thể loại khác như thơ, truyện, tiểu thuyết,…) nhưng chúng tôi khá tán thành với cách tác giả bóc tách đặc trưng của ký. Trên quan điểm của lý thuyết diễn ngôn, người viết đã phân tích giá trị của các tác phẩm ký qua các “mã” từ mã thể loại đến mã tư tưởng hệ. Hướng nghiên cứu này gợi mở cho chúng tôi thêm một cách tiếp cận mới về đặc trưng thể loại của ký. Có thể nói, đặc trưng của ký không chỉ dừng lại ở đặc điểm viết về người thật việc thật hay có sử dụng hư cấu hay không mà “phải là loại văn xuôi tự sự trần thuật những người thật việc thật với những đặc điểm riêng biệt trong mức độ và tính chất hư cấu, trong vai trò của người trần thuật cùng mối liên hệ giữa nó với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện… thì mới làm nên đặc trưng của ký” [148, 280]. Bản thân tác giả Tô Hoài cũng nhận xét: “Thể truyện đòi hỏi sáng tạo trên cơ sở tổng hợp thực tế. Thể ký cần tổng hợp thực tế rồi sáng tạo thông qua những điều mắt thấy tai nghe. Những đặc điểm có tính chất quy định thể loại ấy không hạn chế sự sáng tạo. Hạn chế hay không chỉ do tư tưởng, vốn sống và sở trường, tài năng mọi mặt của người viết mà thôi” [63, 22]. Ký, trong bản chất thể loại, đã luôn dung nạp những sự sáng tạo, hư cấu của chủ thể trần thuật ở một giới hạn nhất định. 11
  19. Tóm lại, chúng tôi cho rằng ký là một thể loại văn học nằm trong loại hình văn xuôi tự sự mang những đặc trưng nổi bật như sau: - Tính chất nổi trội của ký là tính tự sự nhưng bên cạnh đó, tùy thuộc vào đặc trưng của các tiểu loại/ thể tài, ký hoàn toàn có thể dung nạp tính chất trữ tình, chính luận. Những yếu tố này chính là những suy nghĩ, cảm xúc thật của người viết xuất phát từ quá trình tiếp xúc, cảm thụ những sự kiện có thật nên trong ký luôn có sự kết hợp giữa tính khách quan và tính chủ quan. - Khác với nhân vật trong các tác phẩm truyện hay tiểu thuyết thường là một nhân vật được làm mới hoàn toàn thì nhân vật của ký là do nhà văn tái tạo theo nguyên hình một con người có thật. Trong ký, sự trung thực đến mức tối đa với người thật việc thật là một tính tất yếu, một nguyên tắc. Tuy nhiên, giữa những tư liệu bề bộn của đời sống, người viết ký luôn phải biết chọn lọc các chi tiết sinh động và tiêu biểu nhất để tái tạo thành các hình tượng nghệ thuật điển hình. Nhà văn không đưa hết mọi chi tiết vào tác phẩm nhưng chi tiết nào đã được chọn đưa vào tác phẩm thì phải đảm bảo độ chính xác cao. - Phương pháp sáng tạo nghệ thuật và khái quát hiện thực của ký không phải là “ghép những hiện tượng thuộc nhiều người, nhiều việc vào một nhân vật, một hoàn cảnh, mà là phương pháp đúc những hiện tượng thuộc riêng một người thật, việc thật thành một nhân vật, một hoàn cảnh trung thực đến mức tối đa với người thật, việc thật nhà văn đã chọn” [115, 564]. Trên cơ sở tôn trọng sự thật đến mức tối đa, không bịa đặt, không bóp méo sự thật, ký có thể sử dụng linh hoạt các phong cách và bút pháp khác nhau. 1.1.3. Phân loại ký Đặt ký trong dòng chảy lịch đại, các nhà nghiên cứu nước ta chia ký thành hai giai đoạn: ký cổ điển và ký hiện đại. Sự phân chia này không chỉ dựa vào thời gian xuất hiện mà chủ ý nhấn mạnh đến đặc trưng nổi 12
  20. trội của các tiểu loại ký qua các thời kỳ. Ký cổ điển thiên về ghi chuyện, kể việc, các thủ pháp tạo lập văn bản khá đơn giản và thống nhất. Ký hiện đại là những tác phẩm nghệ thuật phản ánh và tái hiện cuộc sống bằng những hình vẻ đa dạng và phong phú... Với ký cổ điển, các tác giả Trần Thị Kim Anh và Hoàng Hồng Cẩm trong cuốn Các thể văn chữ Hán Việt Nam chỉ ra “Trước thế kỷ XV, dường như chỉ bắt gặp những đoạn văn ngắn mang dáng dấp của ký trong sử thi và văn bia, văn tự bạt, những tác phẩm ký hoàn chỉnh chỉ thực sự xuất hiện từ thế kỷ XV trở về sau” [3, 104]. Đồng thời, căn cứ theo nội dung và đặc điểm của các bài ký, các nhà nghiên cứu cũng đề xuất phân chia thành 5 tiểu loại chính là truyện ký nhân vật, ký đình đài danh thắng, du ký, ký sự, tạp ký. Trong khi đó, tác giả Trần Đình Sử cho rằng ký cổ điển chủ yếu bao gồm hai loại là tạp ký và ký sự. Tạp ký là “ghi lại những điều mắt thấy tai nghe”, “loại ghi chép có tính chất lịch sử về sông núi, đền chùa, phương vực, phẩm vật, chuyện lạ…” [147, 328]. Với ký hiện đại, có nhiều cách phân chia được đề xuất. Trong cuốn Lý luận văn học (tập 2) do Trần Đình Sử chủ biên, các tác giả đã phân chia ký thành các thể: phóng sự với đặc trưng nổi bật là ghi chép “những sự thật xác thực, dồi dào và nóng hổi”, có màu sắc chính luận; bút ký thể hiện trực tiếp khuynh hướng cảm nghĩ của tác giả, do đó mang màu sắc trữ tình, ký sự ghi chép hoàn chỉnh một sự kiện, phong trào, giai đoạn; hồi ký có đặc trưng là chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc, kể lại những sự việc trong quá khứ. Tác giả Hà Minh Đức trong công trình Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội đề nghị phân chia ký thành 3 nhóm cơ bản dựa vào phương thức phản ánh đặc thù, đó là: ký tự sự, ký trữ tình và ký chính luận. Ký tự sự bao gồm phóng sự, ký sự, du ký, hồi ký… với đặc tính nổi bật nhất là “tính chất mẫn cảm và năng động trong việc phản ánh người thật việc thật, phản ánh sự kiện đang trên dòng vận động” [41, 64]. Ký trữ tình bao gồm hệ thống thể loại 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2