intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn học: Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:256

173
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án khảo sát một cách hệ thống về kiểu truyện con vật tinh ranh ở Việt Nam và thế giới, nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ thống motif,..., đối chiếu kiểu truyện với Bảng tra cứu A – T để vừa khẳng định tính ứng dụng của Bảng tra cứu. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới

  1. 1
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.  Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực. Tác giả       Đặng Quốc Minh Dương 2
  3. MỤC LỤC Lời cam đoan     2 Mục lục     3 Các chữ viết tắt     5 Các bảng biểu………………………………………………………………..   5 MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………...  6 0.1. Lý do chọn đề tài …….………………………………………………....   6 0.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………   7 0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................   7 0.4.   Phương   pháp   nghiên   cứu.....…………………………………………....  8 1.5. Đóng   góp   của   luận   án   ……………………………………………...........  9 1.6. Kết   cấu   luận   án..........................................................................................   10 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ  NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI…………. ……........…..  11 1.1. Tổng quan về  tình hình sưu tầm, biên dịch và tình hình nghiên cứu...  11 1.2. Một số  khái niệm liên quan...…………………………............................   22 1.3. Sự  phân bố, phân loại kiểu truyện.…......................................................   28 Tiểu   kết.………………………………………………………………....  35 3
  4. CHƯƠNG 2: KẾT CẤU CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH  …………………………………………………………………………………  37 2.1. Về  tên gọi của truyện.…………………...................................................   37 2.2. Cách mở  đầu truyện……………………………......................................   41 2.3.  Kết cấu của các nhóm truyện……………..............................................  44  2.3.1. Kết cấu nhóm truyện tự  vệ…………………………..................  44 2.3.2. Kết cấu nhóm truyện thủ  lợi……………………………………  46  2.3.3. Kết cấu nhóm truyện chơi khăm………………………………. 51  2.3.4. Kết cấu nhóm truyện trợ thủ…………………………………..  54 2.4. Về  kết thúc truyện …………………........................................................   60          Tiểu kết………………………..................................................................   66 CHƯƠNG 3: NHÂN VẬT CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH ………………………………………………………………………………..    68  3.1.   Nhân   vật   tinh   ranh……………………....................................................   68  3.2.   Nhân   vật   đối  thủ……………………………………………....................  76 3.3.   Nhân   vật   nạn   nhân…………………………………………....................  82 3.4. Nhân vật trợ  thủ  tư  tế…………………………………...........................  85 4
  5.           Tiểu kết………………………………………………………...................   93  CHƯƠNG   4:  MỘT   SỐ   MOTIF   THƯỜNG   GẶP   TRONG   KIỂU  TRUYỆNCON VẬT TINH RANH…………………………………………  95  4.1. Motif suy nguyên………………………………….................................  95 4.2. Motif thi tài……………………………………………..........................  97 4.3. Motif xử kiện.………………………………………............................. 100 4.4. Motif hoãn binh…………………………………………….................. 103 4.5. Motif giả mạo………………………………………………................. 105 4.6. Motif xui bẩy………………………………………………………….. 108 4.7. Motif sự bắt chước……………………………………………………. 110 4.8. Motif vi phạm điều ngăn cấm………………………………………..  112 4.9. Motif ăn vụng………………………………………………………....  114 4.10. Motif trao đổi…………………………………………......................... 117    Tiểu   kết………………………………………………………...............  119 CHƯƠNG 5: KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH VÀ BẢNG TRA  CỨU A – T……… ……………………………………………………...………..  121 5.1.   Các   type   truyện   tương   thích…………………………..........................  121 5.2. Các type truyện không có sự  tương thích………………………….....  131               Tiểu kết………………………………………………………………....  145     KẾT LUẬN………………………………………………………………………  148  DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ  ĐàCÔNG BỐ LIÊN QUAN  ĐẾN LUẬN ÁN……………………………………................................................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….... 152 PHỤ   LỤC   1:  TÓM   TẮT   CÁC   TRUYỆN   KHẢO  SÁT.........................................   161 PHỤ LỤC 2: CÁC TYPE TRUYỆN LOÀI VẬT TRONG BẢNG TRA CỨU  5
  6. A – T VÀ CÁC TRUYỆN TƯƠNG THÍCH........................................................... 201 6
  7. CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. Châu Úc và châu Đại Dương: CU&CĐD 2. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: ĐH KHXH&NV 3. Giáo dục: GD 4. Hà Nội: HN 5. Khoa học Xã hội: KHXH 6. Nhà xuất bản: Nxb 7. Sách đã dẫn: sđd 8. Thành phố Hồ Chí Minh: Tp. HCM 9. Văn hóa Dân tộc: VHDT 10. Văn hóa thông tin: VHTT 11. Văn học: VH 12. Của, thuộc Việt Nam: /VN  CÁC BẢNG BIỂU 7
  8. a.i.1. Biểu đồ 1: Biểu đồ sự phân bố truyện kể theo châu lục          trang 29 a.i.2. Biểu đồ 2: Biểu đồ chia nhóm kiểu truyện con vật tinh ranh          trang 35 a.i.3. Biểu đồ 3: Biểu đồ về các cách gọi tên truyện          trang 40 a.i.4. Bảng 5.1: Bảng các type tương thích và không tương thích của các châu  lục  trang 144 8
  9. MỞ ĐẦU 0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Là một loại hình của nghệ thuật ngôn từ, truyện dân gian có những đặc trưng  riêng. Nó sinh ra, tồn tại và lưu truyền từ đời này sang đời khác, được sáng tạo và tái   tạo theo những quy luật riêng. Một trong những quy luật và cũng là đặc điểm của  truyện dân gian đó chính là việc sử dụng những công thức nghệ thuật có sẵn trong kho  tàng văn liệu dân gian như các kiểu mở đầu, các kiểu kết thúc, các dạng kết cấu, các   motif,…. Chính vì thế, khi nghiên cứu văn học dân gian theo phương pháp so sánh ­ lịch  sử, B. N. Putilốp đã xem “tính lặp lại” như một đặc tính nổi bật của dòng văn học này   [55, tr. 7].  Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc phát hiện “tính lặp lại” đã làm xuất  hiện   khuynh   hướng   nghiên   cứu   truyện   dân   gian   theo   kiểu   truyện   (type).   Thực   tế  nghiên cứu đã cho thấy rằng: không chỉ  dừng lại  ở  biên giới một dân tộc, quốc gia,   nhiều kiểu truyện còn mang các yếu tố tương đồng với các dân tộc rất xa nhau về địa   lý, văn hóa. Rất nhiều công trình đã thành công khi vận dụng các nguyên tắc này vào   việc tìm hiểu các kiểu truyện như  kiểu truyện   Thạch Sanh, kiểu truyện  Cô tro bếp  (Cinderella), kiểu truyện người em út, kiểu truyện người con riêng, kiểu truyện người   mang lốt, kiểu truyện  cậu bé tí hon,… Tiếp cận truyện kể  theo hướng này sẽ  giúp  thấy được những nguyên tắc sáng tác truyền thống của một thể  loại qua cách xây  dựng nhân vật, cách xây dựng cốt truyện, cách dẫn dắt, xâu chuỗi những tình tiết,   motif trong truyện. Như vậy, hướng tiếp cận truyện dân gian theo type sẽ giúp ta hiểu  sâu hơn các kiểu tư duy, các nguyên tắc cấu tạo, tổ chức truyện và những vấn đề liên   quan như tính nhân loại, tính dân tộc,…  Trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam và thế  giới, kiểu truyện con vật tinh   ranh là một trong những kiểu truyện quen thuộc và tiêu biểu. Trong kiểu truyện này,  nhân vật chính – một con vật nhỏ  bé nhưng tinh ranh thường sử  dụng các mưu kế,   9
  10. mánh lới để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Đây là kiểu truyện  mà tính duy lý chiếm  ưu thế, nó chi phối quá trình hình thành cốt truyện, xây dựng  nhân vật. Bên cạnh tính duy lý, kiểu truyện còn hấp dẫn bởi các câu chuyện giàu tính  nhân văn và ý nghĩa thẩm mỹ. Nhận ra sức hấp dẫn của kiểu truyện con vật tinh ranh,  một số nhà nghiên cứu đã có những kiến giải mang tính chất gợi mở về một số khía   cạnh nổi bật của kiểu truyện. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề  cốt lõi như  kết cấu, nhân   vật, motif,… cần phải được đào sâu và mở  rộng hơn nữa nhằm đi đến những phát  hiện khoa học về cấu trúc tổng thể  cũng như  cấu trúc bộ  phận của một kiểu truyện  tiêu biểu, qua đó giúp ta có “cái nhìn tham chiếu” đầy đủ, sáng tỏ về giá trị nội dung và  hình thức của kiểu truyện.  Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh   ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới  với mong muốn tìm đến những chứng  cứ xác thực minh chứng cho sự đặc sắc của kiểu truyện, qua đó có cái nhìn cơ bản, đa  diện, đa chiều về kiểu truyện từ những nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Kết quả  khảo sát sẽ giúp bổ sung những kiến thức, nhận định về tiểu loại truyện loài vật cũng  như  kiểu truyện con vật tinh ranh. Đồng thời, đề  tài hy vọng sẽ  đem lại nhiều điều   bổ ích và cần thiết cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian của bản thân.  Như vậy, việc nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian   Việt Nam và thế giới vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn. 0.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 0.2.1.Việc khảo sát một cách hệ thống về kiểu truyện con vật tinh ranh  ở Việt   Nam và thế giới giúp chúng tôi thấy được sự  phân bố của kiểu truyện. Hơn nữa, qua  tập hợp này cũng chứng minh sự  phổ  biến của kiểu truyện trên phạm vi toàn cầu,  cũng như  thấy được diện mạo, đặc điểm, đặc trưng của nó bên cạnh những kiểu   truyện khác. 0.2.2. Nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ  thống motif,… để  làm nổi rõ nét đặc  trưng của kiểu truyện. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thường mở  rộng so sánh để  thấy được những đặc trưng trong phương thức xây dựng nhân vật,  10
  11. kết cấu truyện, các motif của Việt Nam cũng như của các khu vực, quốc gia, châu lục   khác. 0.2.3. Chúng tôi tiến hành đối chiếu kiểu truyện với Bảng tra cứu A – T để vừa  khẳng định tính ứng dụng của Bảng tra cứu, mặt khác góp phần bổ sung một số type  truyện của Việt Nam cũng như của một số nước mà công trình chưa “phủ sóng” đến.  0.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Tất cả những truyện kể có nhân vật trung tâm là con vật  tinh ranh trong truyện  dân gian Việt Nam và thế giới (đã được dịch mà người viết thu thập được) đều là đối  tượng nghiên cứu của  đề  tài. Như  vậy, đối tượng nghiên cứu của đề  tài là những  truyện kể thỏa mãn hai tiêu chí: Nhân vật chính của truyện là con vật và con vật này  phải có tính cách tinh ranh. Chúng tôi loại trừ  những truyện có nhân vật trung tâm là  con vật nhưng không có tính cách tinh ranh hoặc những truyện có nhân vật tinh ranh là  con người.  Mặc dù đã cố  gắng rất nhiều cũng như  được sự  hỗ  trợ  từ  nhiều nguồn khác  nhau trong việc tìm kiếm các nguồn tài liệu nhưng chúng tôi vẫn không dám chắc rằng  đã bao quát hết kho truyện kể của các nước trên thế giới. Bởi như đã biết, Việt Nam  là một quốc gia đa dân tộc, việc khai thác vốn truyện kể của tất cả các dân tộc là hết  sức khó khăn. Tương tự, việc tiếp cận vốn truyện cổ của tất cả các quốc gia trên thế  giới cũng là điều không hề dễ dàng. Vì vậy, chúng tôi chủ yếu triển khai đề tài trên cơ  sở thống kê nguồn truyện của các dân tộc thiểu số đã được dịch sang tiếng phổ thông  và truyện cổ của các nước đã được dịch sang tiếng Viêt.  Theo những tiêu chí trên, dựa vào 103 tuyển tập truyện kể dân gian (trong đó có   32 tập truyện, tuyển tập của Việt Nam, 71 tập truyện, tuy ển tập c ủa các nước, châu   lục), đến nay chúng tôi tập hợp được 512 truyện thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh.  Đây là tài liệu chính để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài. 0.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 11
  12. Để  thực hiện đề  tài, trước hết trong điều kiện cho phép, chúng tôi tập hợp   những truyện kể thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam và thế  giới. Trên  cơ sở đó, chúng tôi tiến hành khảo sát kiểu truyện theo các phương pháp sau:  1.4.1. Phương pháp thống kê ­ phân loại Phương pháp này được sử  dụng trong việc khảo sát, phân loại và trong khi so  sánh đối chiếu. Nhờ phương pháp thống kê mà chúng tôi có được các số liệu để phân  loại các truyện kể; cũng qua đấy thấy được sự phân bố của kiểu truyện ở các dân tộc,   quốc gia, khu vực hay châu lục. Các số liệu thống kê cũng cho thấy tần số xuất hiện   của các con vật tinh ranh. Nhờ  phương pháp này mà chúng tôi có những số  liệu tin  cậy, làm cơ sở để đưa ra những lý giải thích hợp, những kết luận, khái quát khoa học. 1.4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp Sau khi đã hoàn thành bước thống kê tư  liệu – phân loại, chúng tôi sử  dụng   phương pháp phân tích tư liệu. Các truyện kể sẽ được phân tích tỉ mỉ  từng chi tiết và  đánh giá trên quan điểm phân tích một tác phẩm nghệ thuật dân gian hoàn chỉnh. Trong  quá trình khảo sát, chúng tôi chú ý phân tích nội dung các truyện, phân tích các nhân  vật tham gia vào diễn tiến truyện và một số motif của kiểu truyện để từ đó tổng hợp,   rút ra nhận xét, đánh giá bản chất, đặc trưng của kiểu truyện. 1.4.3. Phương pháp so sánh – loại hình Phương pháp so sánh – loại hình được sử dụng trong suốt quá trình xử lí đề tài.  Phương pháp này giúp chúng tôi thấy được những tương đồng và dị  biệt về nhân vật,   kết cấu, motif,… giữa các dân tộc, đất nước, khu vực khác nhau; so sánh nhằm phát  hiện và lý giải những vấn đề  nguồn gốc xã hội, cội nguồn văn hóa, môi trường nảy  sinh… của kiểu truyện; so sánh để thấy được nét gặp gỡ, giao thoa trong kiểu truyện   con vật tinh ranh của các dân tộc do chịu (hoặc không chịu) ảnh hưởng về văn hóa, xã   hội,   lịch  sử….   Phương  pháp  so  sánh  sẽ   được   vận  dụng  một  cách  đặc   biệt  trong   chương 5 – chương so sánh đối chiếu các type trong Bảng tra cứu A – T với các type  trong kiểu truyện.  1.4.4. Phương pháp lịch sử ­ địa lý 12
  13. Chúng tôi không sử  dụng phương pháp này để  tìm “quê hương ban đầu” hay  “con đường di chuyển” của các truyện kể mà để nghiên cứu theo type và motif. Thực  chất của việc nghiên cứu này là nghiên cứu cấu trúc, nghiên cứu hình thức của tác  phẩm truyện dân gian, cụ thể hơn là tiến hành phân loại các tác phẩm thành các type   và motif, khảo sát cấu trúc – dạng thức của type và motif. Chúng tôi sử dụng phương  pháp lịch sử ­ địa lý nhằm mô tả mô hình kết cấu của type truyện và các motif. 1.4.5. Phương pháp mô hình hóa Trên cơ sở những phân tích, khảo sát về sự phân loại, phân bố, về cách gọi tên  truyện, các dạng kết cấu… chúng tôi mô hình hóa thành các công thức, sơ đồ, qua đó   giúp người đọc dễ dàng nắm được các nội dung trình bày. 0.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 0.5.1. Như  đã biết, đặt trong tương quan với các tiểu loại, các thể  loại khác,  truyện loài vật “chưa được chú ý sưu tầm nghiên cứu – nhất là nghiên cứu chuyên  sâu” [186, tr. 50]. Kết quả nghiên cứu về  kiểu truyện con vật tinh ranh sẽ giúp chúng  ta có cái nhìn một cách cơ bản, đa diện về  kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam   và thế  giới. Kết quả  này sẽ  là tiền đề  giúp các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu  truyện loài vật nói chung – một tiểu loại vốn ít được quan tâm nghiên cứu cả  ở  Việt  Nam và thế giới. 0.5.2. Trong quá trình thực hiện đề  tài, chúng tôi luôn chú ý đến việc so sánh   kiểu truyện giữa các nước, các khu vực, châu lục với nhau. Nhờ  đó, chúng tôi phát   hiện các giá trị độc đáo riêng biệt, bản sắc cũng như nét chung, tương đồng mang tính  toàn cầu của kiểu truyện. 0.5.3. Hiện nay, trên bản đồ folklore thế giới, Việt Nam cũng như phần lớn các  nước Đông Nam Á đang là “một khu vực rộng lớn để  trắng” [dẫn theo 148, tr. 170],   chưa có sự  định vị. Việc luận án dành Chương 5 để  so sánh, đối chiếu với Bảng tra   cứu A – T sẽ  cung cấp thêm nguồn tư  liệu cho các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam   thực hiện hoài bão xây dựng Bảng chỉ dẫn về hệ thống type và motif truyện dân gian   Việt Nam, qua đó góp phần giúp khắc phục tình trạng nêu trên.  0.6. KẾT CẤU LUẬN ÁN 13
  14. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ  lục, luận án có  kết cấu gồm 5 chương: ­ Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề  lý luận liên quan đến   đề tài. ­ Chương 2: Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh. ­ Chương 3: Nhân vật của kiểu truyện con vật tinh ranh. ­ Chương 4: Một số motif thường gặp trong kiểu truyện con vật tinh ranh. ­ Chương 5: Kiểu truyện con vật tinh ranh và Bảng tra cứu A – T. 14
  15. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU  VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI I.1. TỔNG QUAN VỀ  TÌNH HÌNH SƯU TẦM, BIÊN DỊCH VÀ TÌNH  HÌNH NGHIÊN CỨU  I.1.1. Về tình hình sưu tầm, biên dịch các tập truyện  Ở Việt Nam, truyện cổ được ghi chép từ  rất sớm trong các tác phẩm khởi đầu   của nền văn học viết như:  Báo cực truyện,  Giao Chỉ  ký, Ngoại sử  ký  (thế  kỷ  XII),  Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (thế  kỷ XIV­XV),... Thế kỷ XIX và thời kì cận đại của thế kỉ XX, hoạt động sưu tầm, biên   soạn truyện cổ càng được nhiều người chú ý, trong đó, có thể kể đến các công trình  như:  Chuyện khôi hài  (1882),  Chuyện đời xưa  (1886) của Trương Vĩnh Ký,  Chuyện   giải buồn (1880: tập 1, 1885: tập 2) của Huỳnh Tịnh Của,  Nam Hải dị nhân (1920) của  Phan Kế  Bính,…  Liên quan đến đề  tài nghiên cứu, tập truyện đầu tiên xuất hiện  truyện kể của kiểu truyện này là tập Truyện cổ nước Nam (1932 – 1934) của Nguyễn  Văn Ngọc. Trên cơ sở nhận thức rằng: “trong khoa văn học dân gian, việc sưu tầm và  chỉnh lý tư liệu phải được coi là tiền đề hay cơ  sở” [148, tr. 217] nên sau Cách mạng  tháng Tám (1945) hoạt động sưu tầm, biên soạn mới bắt đầu trở thành một hoạt động  mang tính khoa học và thành một ngành khoa học độc lập. Từ giai đoạn này, bên cạnh   các công trình sưu tầm truyện cổ người Việt, còn có các tuyển tập truyện cổ của các  dân tộc anh em như:  Truyện cổ  tích miền núi  (1958),  Truyện cổ  Tây nguyên  (1961),  Truyện cổ dân tộc Mèo (1963), Truyện cổ  Việt Bắc (1963),… Một số công trình xuất  hiện nhiều truyện kể của kiểu truyện đang khảo sát như: Truyện cổ Xê Đăng, Truyện   cổ  Cà Tu, Truyện cổ  Mạ, Truyện cổ Cơ Ho, Truyện cổ Khơ me Nam Bộ, Truyện cổ   dân gian Chăm, Truyện cổ  Ê Đê, Truyện cổ  M’nông, Kho tàng truyện cổ  tích Việt   Nam,  Truyện cổ  các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên,  Truyện cổ  các dân tộc Việt   15
  16. Nam,… Gần đây, các nhà nghiên cứu có xu hướng tổng hợp thành các tổng tập như  Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam  (4 tập, 6 quyển), Tổng tập Văn học   dân gian người Việt (19 tập, 20 quyển) và bộ  Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc   thiểu số Việt Nam (23 tập). Xin điểm qua một số công trình tiêu biểu: ­ Công trình  Truyện cổ  dân gian các dân tộc Việt Nam,  gồm 4 tập do tổ  Văn  học các dân tộc thuộc Viện Văn học chỉnh lý, biên soạn và xuất bản trong những năm  1963 – 1967. Đây là cột mốc quan trọng trong việc sưu tầm biên soạn truyện cổ  dân   gian. Tuyển tập này tập hợp 234 truyện của hơn 30 dân tộc anh em.  ­ Truyện cổ các dân tộc thiểu số miền Nam, gồm 2 tập. Công trình tập hợp 97  truyện của 20 dân tộc ít người ở miền Nam nước ta, do Hà Văn Thư, Võ Quang Nhơn   và Y Điêng biên soạn. ­ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) do Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, biên  soạn, khảo dị, giới thiệu 200 truyện của dân tộc Kinh (Việt). Công trình được Nxb   Văn Sử Địa, Nxb Sử học, Nxb KHXH xuất bản từ năm 1958 đến năm 1985. Năm 1993,  viện Văn học xuất bản công trình này trọn bộ 5 tập; năm 2000, Nxb Giáo dục gộp lại   thành 2 tập và cho tái bản.  ­  Từ  năm 2002 ­ 2007, lần lượt các tập của bộ  Tổng tập Văn học dân gian   người Việt (19 tập, 20 quyển) đã hoàn thành việc công bố  ­ trong đó chúng tôi chú ý   tập 6, tập 7 ­ truyện cổ tích (do Nguyễn Thị Huế chủ biên). Đây là bộ tổng tập được   biên soạn dựa theo cách phân loại cốt truyện theo tiểu loại (cổ  tích thần kỳ, cổ  tích   loài vật và cổ tích sinh hoạt). Bên cạnh bản chính, tác giả còn tập hợp, giới thiệu các  bản khác có cùng cốt truyện của người Việt hoặc của các dân tộc thiểu số để so sánh,  đối chiếu. ­ Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp Viện Nghiên cứu Văn hóa tiến   hành biên soạn và xuất bản bộ  Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt   Nam (23 tập) – trong đó, chúng tôi chú ý đến tập 14 – truyện cổ tích do Nguyễn Thị  Yên chủ biên. Công trình này giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc thiểu   số Việt Nam theo từng thể loại. Bên cạnh tính quy mô, công trình còn có điểm mới là:   16
  17. các bản kể được xuất bản dưới hình thức song ngữ (chữ dân tộc hoặc phiên âm tiếng   dân tộc). Tuy bắt đầu muộn hơn nhưng từ những năm 60 của thế kỷ trước, công tác biên  dịch truyện cổ  cũng bắt đầu được chú ý. Liên quan đến đề  tài nghiên cứu, bản dịch  sớm nhất là  Truyện dân gian Lào  (1962), kế  đến là các tập truyện như   Truyện dân   gian Trung Quốc (1963), Truyện cổ  Cao Miên (1968),… Từ  những năm 80 ­ 90, công  việc biên dịch càng được chú ý, đẩy mạnh. Có hàng trăm tập truyện, tuyển tập truyện  dân gian nước ngoài được chuyển dịch và xuất bản bằng tiếng Việt, trong đó, một số  công   trình   có   liên   quan   đến   đề   tài   như:  Truyện   cổ   Grim,  Truyện   cổ   dân   gian   Bêlôrútxia,  Truyện dân gian Nga,  Truyện dân gian Ukraina,  Truyện cổ  dân gian  Ấn   Độ,  Truyện   cổ   Hàn   Quốc,  Truyện   kể   dân   gian   châu   Phi,  Truyện   cổ   Campuchia,  Truyện cổ Mã Lai, Truyện cổ Inđônêxia,… Nói về việc biên dịch, biên soạn không thể  không nhắc đến Ngô Văn Doanh. Ông đã có rất nhiều công trình về  truyện dân gian   các nước, các châu lục khác nhau, trong số  đó, phải kể  đến bộ  tuyển tập  Truyện cổ  năm châu,  tuyển tập  Kho tàng truyện cổ  thế  giới  cũng như  tuyển tập về  các nước  trong khu vực Đông Nam Á. Đây là kho tư  liệu rất quý giúp cho các nhà nghiên cứu  Việt Nam dễ dàng tiếp cận với kho truyện kể của các nước. Gần đây, một số  tác giả  đã biên soạn, tuyển chọn truyện kể theo đề  tài, theo   nhân vật. Chúng tôi quan tâm đến các tập truyện như  Truyện cổ  tích về  các loài vật  của Phạm Thu Yến, Truyện cổ tích về loài vật của Lan Anh, của Lê Châu, Truyện cổ   về  các loài vật  của Thúy Quỳnh,  Truyện kể  về  những con vật thông minh   của Sơn  Khê, Truyện kể về các loài vật của Thu Lan,... Như  vậy, có thể  khẳng định rằng tình hình sưu tập, biên dịch truyện dân gian   luôn được các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam quan tâm, chú ý. Nhờ vậy, nó đã giúp  cho người viết có được những cốt truyện cùng các bản kể về kiểu truyện để khảo sát  và nghiên cứu. Điểm qua các công trình trên có thể thấy rằng, phần lớn các tập truyện,  tuyển tập được biên dịch là truyện dân gian của các nước trong khối Xã hội chủ nghĩa   trước đây, các nước trong khu vực Đông Nam Á ­ khối Asean, các nước gần gũi với  Việt Nam về mặt địa lý và các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây cũng là  điều dễ  hiểu bởi vì tình hữu nghị  của các nước dựa trên sự  hiểu biết lẫn nhau – mà  17
  18. một trong những điều cần biết đầu tiên đó là vốn quý của dân tộc: kho tàng văn hóa  dân gian. I.1.2. Về tình hình nghiên cứu Theo Chu Xuân Diên, năm 1865, O. Mile là người đầu tiên xem truyện loài vật   như một tiểu loại. Trong cách phân loại này, “truyện cổ tích thần kỳ”, “truyện cổ tích  động vật” và “truyện cổ tích sinh hoạt” đã được xác định như ba thể loại cơ bản [21,   tr.241]. Giới thiệu về  tiểu loại này, Từ  điển Văn học – bộ  củ, cho rằng “Truyện cổ  tích loài vật có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng  tượng nhân cách hóa giới tự nhiên. Ở nhiều nước, tính chất cổ xưa của truyện loài vật   đã bị  pha trộn với khuynh hướng của người đời sau, mượn truyện loài vật để  nói về  xã hội loài người. Do đó giữa loại truyện này với truyện ngụ  ngôn có những trường   hợp không có sự phân biệt thật rạch ròi” [125, tr. 1840]. Hiện nay, các nhà nghiên cứu   folklore đều thống nhất cho rằng, truyện cổ tích loài vật thường có 3 lớp chính  [149,  tr. 115 ­ 119]: ­ Lớp truyện hình thành sớm nhất là những truyện vật tổ  gắn với tín   ngưỡng, tô tem giáo của người nguyên thủy. Lớp truyện này còn bảo lưu khá nhiều  trong các dân tộc còn ở trình độ phát triển bán khai; ­ Lớp truyện phản ánh đặc điểm của loài vật. Qua đặc tính đó, người ta  muốn truyền lại cho nhau những tri thức về thế giới tự nhiên nhằm chinh phục nó, sử  dụng nó phục vụ cho đời sống con người;  ­ Lớp truyện đồ  chiếu quan hệ  xã hội loài người vào quan hệ  của các   con vật. Lớp truyện này có xu hướng ngụ ngôn hóa. Tuy được biết đến như  một tiểu loại từ  sớm nhưng truyện loài vật nói chung,   kiểu truyện  con vật tinh ranh  nói riêng  vẫn chưa được nghiên cứu một cách chuyên  sâu, đầy đủ. Thực trạng này đã được V. Ia. Propp chỉ  ra, khi ông cho rằng tiểu loại   truyện cổ  tích loài vật  ở  Nga và các nước phương Tây “chưa từng được coi là đối  tượng nghiên cứu” [210, tr. 310].  Ở  Việt Nam, vào những năm 90 của thế  kỷ  trước,   Hoàng Tiến Tựu cũng nhận định: “Bộ  phận truyện kể  về  loài vật chưa được chú ý   sưu tầm nghiên cứu,  nhất là nghiên cứu chuyên sâu” [186, tr. 50]. Năm 2002, Phạm  18
  19. Thu Yến cũng nhận thấy thực trạng đó. Nhà nghiên cứu cho rằng: “việc nghiên cứu   đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thể loại này chưa được đầu tư đúng mức” [200,   tr. 84]. Đến nay, tình hình nghiên cứu tiểu loại cũng như kiểu truyện  con vật tinh ranh  vẫn chưa được cải thiện là bao. Tuy thế, đây đó đã có một số bài viết nghiên cứu về  một vấn đề  nào đó của kiểu truyện hoặc một vài ý kiến nhận xét, đánh giá với mục  đích minh họa cho các công trình nghiên cứu về  những kiểu truyện khác, những vấn   đề khác. Chúng tôi điểm qua một số bài viết đó. 1. Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện [203] của Anti Aarne và Stith Thompson chia  truyện kể thành 5 cụm lớn: Truyện cổ tích động vật, Những truyện kể thông thường,   Truyện cười và giai thoại, Truyện kể  theo công thức và Những truyện còn lại chưa   phân loại. Trong phần I. Animal tales  ­ truyện cổ  tích động vật lại được hai tác giả  sắp xếp theo trình tự sau:  ­ Từ 1 – 99: Động vật hoang dã ­ 100 – 149: Động vật hoang dã và vật nuôi ­ 150 – 199: Người và động vật hoang dã ­ 200 – 219: Vật nuôi ­ 220 – 249: Chim ­ 250 – 274: Cá ­ 275 – 299: Các con vật khác và các vật dụng. Trong các nhóm type truyện trên, A. Aarne và S. Thompsom lại phân cấp và gọi   tên các type truyện từ  1 – 69 là tiểu nhóm “con vật thông minh” ( the clever animal).  Như vậy, trong Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện, các type truyện con vật thông minh  thuộc nhóm truyện động vật hoang dã. Cách phân nhóm này chỉ  có giá trị  tương đối.  Bởi thực tế các type truyện kể về mưu kế của loài vật còn xuất hiện khá nhiều ở các   nhóm khác. Tiểu nhóm “con vật thông minh” có 138 type truyện, trong đó có cả  type  truyện mở rộng của vùng phủ sóng (truyện cổ Phần Lan, một phần của các nước Bắc  Âu, các nước Nam châu Âu, Đông Nam châu Âu và  Ấn Độ).  Ở  đây, hai tác giả  chú ý   19
  20. khảo sát và giới thiệu những đơn vị truyện trọn vẹn, lưu truyền trong một vùng địa lý  nhất định. Vì vậy, nó rất giới hạn trong phạm vi khảo sát và mang tính chọn lựa.  Gắn liền với Bảng chỉ  dẫn về  các kiểu truyện là công trình gồm 6 cuốn Mục   lục các motif của văn học dân gian [205] của S. Thompson. Ở đây, Thompson tiếp cận  truyện kể từ đơn vị motif. Ông sắp xếp các motif theo logic từ các motif huyền thoại,   siêu nhiên đến các motif hiện thực, hài hước. Ông ký hiệu 23 chương theo các chữ cái  La tinh từ  A đến Z. Trong mỗi chương, các mục được sắp thành từng nhóm lớn, cứ  mỗi nhóm được trao cho 100 số hoặc những bội số của 10, ví dụ: B0 – B99: con vật   huyền thoại, B100 ­ B199: con vật ma thuật. Kế đến, tác giả  cũng chia các nhóm lớn  này thành từng cụm theo hàng chục. Cụm hàng chục đầu tiên trong một nhóm lớn dành  cho những  ý tưởng chung  (general idea), những ý tưởng riêng biệt sẽ  xếp tiếp theo.   Cách làm này được thực hiện tiếp tục trong mỗi cụm nhỏ. Liên quan đến vấn đề  nghiên cứu là nội dung chương K ­  Deceptions (trò lừa dối, mưu mẹo gian dối, mánh  khóe lừa bịp), gồm hơn 2300 motif nói về  các mánh lừa dối, việc làm của kẻ cắp và   tên đểu cáng, những việc lừa phỉnh để  bắt giữ  hoặc để  trốn thoát, sự  dụ  dỗ, ngoại   tình, trá hình, đánh lừa,…  Nhìn chung, đây là hai công trình có tính  ứng dụng cao. Nó tỏ  ra có ích cho   những ai nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề  liên quan – nhất là giúp cho việc “tra cứu”   (index) được nhanh chóng, thuận tiện.  2. Năm 1960, Tập san nghiên cứu Châu Phi (Cahiers d’Études africaines) có hai  bài viết liên quan đến vấn đề  đang nghiên cứu. Đó là bài viết của Denise Paulme bàn  về việc Phân loại truyện kể về kẻ ranh mãnh ở châu Phi [209] (nội dung bài viết này  sẽ  được chúng tôi đề  cập đến nhiều hơn trong phần  1.3.2 Sự  phân loại) và bài viết  Mưu mẹo: những nguyên tắc tra cứu [207] của Claude Braymond. Trong bài viết, nhà  nghiên cứu lần lượt tìm hiểu các vấn đề  như:  mục tiêu của bẫy  (les fins du piège),  chiến lược bảo vệ  (stratégies de protection), bẫy trung gian của bẫy (le piège moyen  d’un piège), cơ  chế  bên trong của bẫy (mécanisme interne du piège),… Với cách làm  trên, ông đã phân loại cái bẫy (mưu mẹo) dựa vào mục đích mà nó hướng đến. Hướng   tiếp cận này giúp cho người đọc dễ dàng tra cứu về hệ thống mưu mẹo trong truyện   kể dân gian châu Phi cũng như áp dụng để nghiên cứu kiểu truyện con vật tinh ranh  ở  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2