®¹i häc quèc gia hµ néi
tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n
d ¬ng thÞ thanh h ¬ng
Phong c¸ch
tiÓu thuyÕt Ma V¨n Kh¸ng
luËn ¸n tiÕn sÜ v¨n häc
Hµ néi - 2015
®¹i häc quèc gia hµ néi tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n
d ¬ng thÞ thanh h ¬ng Phong c¸ch tiÓu thuyÕt Ma V¨n Kh¸ng Chuyªn ngµnh : V¨n häc ViÖt Nam M· sè
: 62 22 34 01
luËn ¸n tiÕn sÜ v¨n häc
Ng êi h íng dÉn khoa häc: PGS.TS NguyÔn Ngäc ThiÖn
PGS.TS Hµ V¨n §øc
Hµ néi - 2015
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu cña riªng t«i. C¸c kÕt qu¶ nghiªn cøu trong luËn ¸n lµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn ¸n ch a tõng ® îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn ¸n
D ¬ng ThÞ Thanh H ¬ng
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6
1.1. Một số vấn đề về phong cách nghệ thuật 6
1.1.1. Về khái niệm phong cách 6
7
1.1.2. Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật ở nướ c ngoài 1.1.3. Nghiên cứu phong cách và phong cách nghệ thuật nhà văn ở 10
Việt Nam
1.1.4. Quan niệm của luận án về nội hàm khái niệm phong cách 14
1.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Ma Văn Kháng 15
1.2.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết Ma Văn Kháng 16
1.2.2. Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng 24
Chương 2: CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH TIỂU THUYẾT MA 28
VĂN KHÁ NG
2.1. Quá trình hình thành phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng 28
2.1.1. Con đường dẫn đến phong cách nghệ thuật nhà văn 28
2.1.2. Những chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng 30
2.2. Quan niệm nghệ thuật 37
2.2.1. Quan niệm về văn chương 37
2.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người 45
Chương 3: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG 58
3.1. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng 58
3.1.1. Nhân vật anh hùng 59
3.1.2. Nhân vật bi kịch 63
3.1.3. Nhân vật tha hóa 77
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 86
2
3.2.1. Nhân vật qua yếu tố tướng mạo 86
3.2.2. Nhân vật qua yếu tố tính dục 95
3.2.3. Nhân vật mang yếu tố tự truyện 100
Chương 4: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG 105
4.1. Ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng 105
4.1.1. Ngôn ngữ tả, kể và trữ tình ngoại đề 105
4.1.2. Ngôn ngữ phong phú đa dạng sáng tạo 114
4.1.3. Ngôn ngữ nhân vật 120
4.2. Giọng điệu 131
4.2.1. Giọng hào sảng trữ tình 132
4.2.2. Giọng hoài nghi 135
4.2.3. Giọng triết lý 138
4.2.4. Giọng giễu nhại 141
KẾT LUẬN
147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
152
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn xuất sắc của văn học
Việt Nam hiện đại , thuộc số những tiểu thuyết gia hàng đầu của văn xuôi
đương đại Việt Nam. Hơn nửa thế kỉ cầm bút , gần 80 năm cuộc đời, cho đến
hôm nay, mang trong mình dấu ấn năm tháng nhọc nhằn nhưng nguồn cảm
hứng, khát vọng sáng tạo nghệ thuật không hề vơi cạn, trái lại nội lực sáng tác
trong ông vẫn luôn sung mãn.
Với Ma Văn Kháng, để đạt được những thành tựu nghệ thuật và xác
lập được chỗ đứng của mình trong văn học là cả một quá trình lao động nghệ
thuật đầy gian khổ. Trong cuốn hồi kí Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ
thương suy ngẫm về hành trình cuộc đời mình đã qua, về con đường mình đã
lựa chọn, về điểm đầu tiên, miền đất vàng - Lào Cai - đã nâng đỡ tâm hồn
mình, Ma Văn Kháng bộc bạch: "Tôi nhận ra, điều cuốn hút tôi mãnh liệt chính
là số phận các dân tộc nhỏ bé ở đây và câu chuyện của họ phải được biểu hiện
bằng một thể tài lớn: tiểu thuyết" [93, tr. 83]. Lựa chọn tiểu thuyết làm nền
tảng và bệ phóng tâm hồn mình, cho thấy nhận thức, chí hướng và duyên
nghiệp của Ma Văn Kháng với thể loại này. Tiểu thuyết đầu tiên Đồng bạc
trắng hoa xòe đã ra mắt và được bạn được đón nhận, trân trọng, yêu mến và
chính tình cảm của bạn đọc là sợi dây nối kết bền chặt giúp Ma Văn Kháng
thủy chung với một thể tài đòi hỏi rất nhiều công sức, thời gian, tâm huyết, trí
và lực. Từ ngày đầu tiên ấy đến nay, hơn nửa thế kỉ lao động nghệ thuật đã
trôi qua, gắn bó với bao thăng trầm biến động của đất nước, cùng với hàng
trăm truyện ngắn, tiểu luận nghiên cứu phê bình, bài báo... Ma Văn Kháng đã
dâng tặng cuộc đời 16 tiểu thuyết. Qua những sáng tác đó, người đọc có thể
nhận thấy, Ma Văn Kháng có một nhân cách nghệ sĩ luôn hướng về cái đẹp,
dấn thân và hữu trách với đời sống hôm nay của đất nước, của dân tộc.
Giá trị sáng tạo nghệ thuật của tiểu thuyết Ma Văn Kháng được tôn
vinh bằng rất nhiều giải thưởng, theo mốc thời gian, tiểu thuyết Mưa mùa hạ
4
Giải thưởng Văn học Công nhân; Mùa lá rụng trong vườn, giải thưởng Hội
Nhà văn Việt Nam năm 1985, cũng là một trong số bộ ba tác phẩm được tặng
giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001, đã được dựng thành
phim truyền hình dài tập Mùa lá rụng; Gặp gỡ ở La Pan Tẩn giải thưởng Hội
văn nghệ các dân tộc thiểu số năm 2001; Một mình một ngựa giải thưởng Hội
Nhà văn Hà Nội năm 2009. Gần đây nhất, ngày 19 tháng 5 năm 2012, nhà văn
đã vinh dự được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho chùm các
tác phẩm: Mưa mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn và
Truyện ngắn chọn lọc. Đây là sự tôn vinh tài năng, nhân cách, xứng đáng đối
với người nghệ sĩ cả đời cống hiến cho sự phát triển của văn học dân tộc.
Vấn đề lí thuyết phong cách ngh ệ thuật và phong cách nghệ thuật nhà văn cho đến nay vẫn là đối tượng học thuật gây nhiều tranh cãi, chưa có sự
thống nhất. Ở Việt Nam, tiếp nhận và nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết này
từ nước ngoài còn mang tính chất phiến diện, chủ yếu là những công trình từ
Liên Xô cũ. Luận án của chúng tôi mong muốn giới thiệu những công trình
nghiên cứu về lý thuyết này trong mối tương quan so sánh nhằm đa dạng hóa
các cách tiếp cận và sâu xa hơn muốn góp một phần nhỏ bé vào hệ hình
nghiên cứu văn học theo hướng hiện đại. Trong luâ ̣n án này, sau khi phân tích các quan niệm về phong cách nghệ thuật trên thế giới và ở Việt Nam, dựa trên
những nét tương đồng cơ bản trong quan niê ̣m củ a ho ̣ cù ng vớ i các khái niê ̣m đã đươ ̣c thống nhất , chúng tôi mạnh dạn đưa ra quan điểm về phong cách nghê ̣ thuâ ̣t để làm bô ̣ công cu ̣ khi tiến hành nghiên cứ u ph ong cách nghê ̣ thuâ ̣t tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Theo chúng tôi, các nhà văn đều có ý thức khẳng định tiếng nói cá
nhân của mình qua những thể loại mà họ lựa chọn. Đó là nỗ lực không ngừng
nghỉ của anh ta trên đường sáng tạo nghệ thuật. Chính những nỗ lực đó đã làm
nên diện mạo phong phú, đa dạng của văn học Việt Nam hiện đại. Ma Văn
Kháng là một trong số những gương mặt tiêu biểu có nhiều đóng góp lớn, được
các nhà nghiên cứu có uy tín quan tâm, bạn đọc ủng hộ nhiệt thành từ tiểu
5
thuyết đầu tay đến tác phẩm gần đây nhất. Trên cơ sở tiếp cận Ma Văn Kháng
từ vấn đề phong cách ở thể loại tiểu thuyết, chúng tôi xác định mục đích của
đề tài chính là mang lại những khám phá mới, hoặc có cách lý giải phù hợp về
những đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Đây là
những lý do cơ bản để chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Phong cá ch tiểu thuyết Ma Văn Kháng . Nghiên cứu phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng,
chúng tôi có tham vọng làm sáng rõ và khẳng định vị trí của tác giả này trong
tiến trình phát triển văn xuôi Việt Nam hiện đại, đặc biệt là những đóng góp
cá nhân của nhà văn ở một thể tài chủ yếu của một nền văn học: tiểu thuyết.
2. Đối tượng, phạm vi, nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứ u 2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận án là đề tài vận dụng lý thuyết về phong cách học vào khảo sát
và nghiên cứu một tác giả văn học thông qua các tác phẩm ở một thể loại cho
nên đối tượng nghiên cứu trước hết là quan niệm về phong cách nghệ thuật và phong cách nghê ̣ thuâ ̣t nhà văn. Sau đó là sáng tác tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Hai đối tượng này có quan hệ chặt chẽ với nhau vì chỉ có thể làm rõ phong
cách nghệ thuật nhà văn khi có những tri thức về vấn đề nội hàm phong cách.
Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi xác định phạm vi về lí thuyết phong
cách chỉ giới hạn ở một vài tác giả, công trình tiêu biểu và dành vị trí ở
chương tổng quan cho nội dung này. Về tác giả Ma Văn Kháng, với số lượng
16 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, tiểu luận đã được công bố trong những
thời gian khác nhau, để làm rõ đặc điểm, dấu ấn phong cách ở nhiều thể loại
là một việc làm khó khăn, do vậy đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
là tiểu thuyết. Chúng tôi hi vọng, truyện ngắn và tiểu luận phê bình của nhà
văn sẽ được nghiên cứu ở cấp độ khác, trong khuôn khổ khác. Các tiểu thuyết
trong giới hạn của đề tài gồm: Đồng bạc trắng hoa xòe (1979), Vùng biên ải
(1983), Mưa mùa hạ (1984), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới
không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989), Chó Bi, đời lưu
lạc (1992), Ngược dòng nước lũ (1999), Trăng non (2001), Gặp gỡ ở La Pan
6
Tẩn (2001), Một mình một ngựa (2009), Bóng đêm (2011), Bến bờ (2011).
Riêng tiểu thuyết Chuyện của Lý (2013), chúng tôi chỉ điểm qua vì lý do khi
tiến hành nghiên cứu, tiểu thuyết nảy chưa xuất bản, hy vọng sẽ tìm hiểu ở
những công trình về sau. Các bài phát biểu, trả lời phỏng vấn của nhà văn trên
báo chí và một số tiểu luận, phê bình cũng được đưa vào vào diện khảo sát để
làm rõ những quan niệm nghệ thuật của nhà văn.
2.2. Nhiê ̣m vụ nghiên cứ u Luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau: Khảo sát,
nghiên cứu, tổng kết và đưa ra nhận định đặc điểm về phong cách nghệ thuật
tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
3. Phương phá p nghiên cứ u Đối tượng của đề tài vừa mang ý nghĩa văn học sử vừa mang ý nghĩa
lý luận văn học cho nên trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp, dưới đây là những phương pháp cơ bản:
Phương pháp lịch sử - loại hình: Luận án khảo sát lịch sử hình thành
những quan niệm về phong cách nghệ thuật, đặc trưng và nội hàm của khái
niệm qua những công trình của hai nhà nghiên cứu phong cách học trên thế
giới có ảnh hưởng đến phê bình phong cách học ở Việt Nam. Sử dụng phương
pháp loại hình học để xác định rõ đặc trưng thể loại trong tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng qua các giai đoạn sáng tác từ tiểu thuyết sử thi đến tiểu thuyết thế sự
đời tư qua đó làm rõ những đặc điểm của phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Phương pháp hệ thống: trong quá trình nghiên cứu luận án đặt các
sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong hệ thống bao chứa nó, xem xét
phong cách Ma Văn Kháng như một hệ thống cùng vận động, phát triển theo
xu hướng phát triển của văn học. Từ đó, xác định đóng góp của tác giả này
trong việc đổi mới tư duy tiểu thuyết (cách tân thể loại) nói riêng và cống hiến
cho sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung.
Phương pháp so sánh: Luận án sử dụng so sánh đồng đại và lịch đại
để thấy được sự kế thừa truyền thống, những đóng góp mới của Ma Văn Kháng
7
ở phương diện tiểu thuyết. Đặt Ma Văn Kháng và sáng tác của ông trong mối
liên hệ cùng thời với các tác giả khác, từ đó làm rõ phong cách nghệ thuật độc
đáo của ông với những đóng góp quý báu cần ghi nhận, khát vọng nghệ thuật
của ông hướng về cái đẹp, về đất nước và nhân dân.
Phương pháp tiếp cận từ góc độ thi pháp học: Luâ ̣n án sẽ vận dụng lý thuyết về thi pháp học, tìm hiểu phong cách nghệ thuật nhà văn từ quan niệm
nghệ thuật, nhân vật, ngôn từ, giọng điệu.
Phương pháp phân tích - tổng hợp đươ ̣c vâ ̣n dụng ở mức độ cần thiết
khi phân tích nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu của tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
4. Đóng góp của luận án
Luận án bước đầu hệ thống, phân tích và đưa ra nhận xét đánh giá
tổng hợp về đặc điểm phong cách Ma Văn Kháng ở thể loại tiểu thuyết từ tác
phẩm đầu tay cho đến tác phẩm gần đây nhất. Từ bình diện phong cách học
làm rõ sự phong phú đa dạng trong cá tính sáng tạo và những đóng góp của
nhà văn ở thể loại tiểu thuyết cho sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
Ứng dụng phong cách học vào khảo sát một tác giả văn học Việt Nam
đương đại, kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa cung cấp phương pháp
luận và kiến văn cần thiết cho việc tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
ở nhiều cấp độ.
5. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luâ ̣n và danh mu ̣c tài liê ̣u tham khảo, nô ̣i dung
luâ ̣n án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứ u. Chương 2: Cơ sở hình thành phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Chương 3: Thế giới nhân vâ ̣t tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Chương 4: Ngôn ngữ và giọng điệu tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
8
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
1.1.1. Về khái niệm phong cách
Phong cá ch là một trong những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực đờ i sống và nghiên cứ u khoa ho ̣c. Theo tiếng Hi Lạp, từ phong cách (stylos) lúc đầu dùng để chỉ chiếc que có một đầu vót nhọn và một đầu
tù, để viết lên các tấm bảng phủ nến. Thời La Mã cổ đại, phong cách được gọi
là stylus, tiếng Pháp gọi là style và được hiểu như là một thuật ngữ ngôn ngữ
học, nghệ thuật học và văn học. Sau đó, "phong cách" trở thành một khái niệm
có tính chất ngôn ngữ chỉ cách dùng từ, được sử dụng như một thuật ngữ của
ngành ngôn ngữ học. Đến thế kỷ XX, phong cách không chỉ hiểu đơn thuần là
một khái niệm bó hẹp trong ngôn ngữ học, mà đã được coi như là một đặc
trưng của nghệ thuật, để xác định những đặc trưng cơ bản của tác phẩm nghệ
thuật nói chung và tác phẩm văn học nói riêng.
Thời cổ đại, ở phương Tây, từ Aristote (-384 đến -347 TCN) trong
Nghệ thuật thơ ca đến Lưu Hiệp, ở phương Đông (456 - 520) trong Văn tâm
điêu long đã đề cập khái niệm này nhưng dừng ở mức độ rất khái quát. Trải
qua một chiều dài phát triển của lịch sử văn học nhân loại, từ Trung cổ qua
Phục hưng đến Cận đại, khái niệm phong cách vẫn luôn thu hút sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu. Bước sang thời kì hiện đại, các nhà nghiên cứu và
phê bình văn học đã xem nó như một phạm trù thẩm mỹ, một hiện tượng nghệ
thuật, chứa đựng tất cả sự phong phú và phứ c t ạp cả nội dung lẫn hình thức. Nghiên cứu phong cách cũng không dừng lại ở một phương diện mà có thể
tiếp cận ở nhiều góc nhìn khác nhau về tác giả, tác phẩm, thể loa ̣i , thờ i đa ̣i, dân tô ̣c... Cho đến nay , vấn đề phong cách trong sáng tác và nghiên cứ u văn học vẫn là một vấn đề trung tâm trong nghiên cứu và phê bình văn học.
9
1.1.2. Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật ở nướ c ngoài Nghiên cứ u về phong cách củ a các tác giả nướ c ngoài như Khrapchenco, Gradop, Turbin, Jimunxki, Likhavchev,... đã đươ ̣c di ̣ch ra tiếng Viê ̣t khá sớ m. Gần đây là công trình Bản mệnh của lý thuyết của Antoine Compagnon - một
nhà nghiên cứu có ảnh hưởng khá rộng ở Âu, Mỹ cũng được dịch thuật và
được giới học thuật quan tâm. Xét tầm ảnh hưởng, chúng tôi lựa chọn hai nhà
nghiên cứ u M .B Khrapchenco (thuộc Liên Xô cũ) và A. Compagnon (Pháp) để làm sáng rõ những quan niệm phong cách ở nước ngoài có ảnh hưởng đến
nghiên cứu phong cách và phong cách nghệ thuật nhà văn ở Việt Nam giai
đoạn gần đây nhất.
Trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phá
t triển của văn học ứu những quan niệm khác nhau về
Khrapchenco đã thống kê và nghiên c phong cách nghệ thuật (khoảng 20 định nghĩa). Từ quan niệm phong cách là sự
thụ cảm chung về hiện thực, nhận thức hiện thực (Đ. Likhachev. Ar. Grigorian)
đến lý giải phong cách từ góc nhìn ngôn ngữ học (V. Turbin), phủ nhận việc quy
phong cách vào đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật, khẳng định phong cách là
sự thống nhất chỉnh thể về nội dung và hình thức của tác phẩm (V. Kôvalev)
hay quan tâm tới "vẻ đặc thù" (L. Nôvichenkô), phong cách được coi như là
hình thức toàn vẹn mang nội dung (V. Đneprop, Ya. Elxeberg, A.Xôkôlôv),
các nhà cấu trúc lại xem phong cách theo những khuynh hướng khác nhau
(W. Kayzer, R. Yakôbson). Từ những khảo sát trên, theo Khrapchenco chung
quy lại khái niệm phong cách được nhìn ở hai góc độ : (1) góc độ ngôn ngữ
học; (2) góc độ quan niệm phong cách như một hệ thống hình thức mang nội
dung. Ông định nghĩa: "Phong cách biểu hiện những đặc điểm của cá tính
sáng tạo của nhà văn, sự hoàn chỉnh của nhận thức nhà văn về cuộc sống, của
cách nhìn nhà văn đối với thế giới" [104, tr. 144]. Theo Khrapchenco "phong
cách là hệ thống của những hệ thống" [104, tr. 167], bao gồm: thế giới quan
của người nghệ sĩ, xung đột trong tư tưởng của anh ta được ví như một kiểu
"máy phát" [104, tr. 154] năng lượng nghệ thuật riêng. Vì thế phong cách có
10
tính cấu trúc của một kiểu sinh thể nghệ thuật. Hệ thống giọng điệu - kết quả
của sự biểu hiện nghệ thuật đặc trưng và không gian, thời gian và kiểu kết hợp
không gian thời gian mang màu sắc riêng. Ngôn ngữ có phong cách là ngôn
ngữ đa chức năng - ngôn ngữ nghệ thuật. Phong cách, vì thế còn là sự lĩnh hội
riêng - lĩnh hội cách tân đối với thế giới - kiểu sáng tạo riêng đem lại màu sắc
mới cho thể văn.
Như vậy, theo Khrapchenco, những yếu tố biểu hiện phong cách mới
chính là những dấu hiệu của bản thân phong cách. Những ý kiến của Khrapchenco
đã ảnh hưởng rất nhiều đến nghiên cứu và phê bình văn học ở Việt Nam trong
suốt nửa sau thế kỉ XX và cho đến hôm nay.
Nếu Khrapchenco gọi tính chất đa dạng trong quan niệm về phong
cách qua một hình ảnh "xòe ra như cái quạt" thì Antoine Compagnon trong
Bản mệnh của lí thuyết (Văn chương và cảm nghĩ thông thườ ng ) bàn về sự phong phú và đa dạng trong quan niệm về phong cách qua các k ỳ lịch sử, từ mối liên hệ giữa văn bản và ngôn ngữ lại gọi hiện tượng này là "Phong cách
ngang ngửa bộn bề" [3, tr. 243]. Ông đã phân tích nghĩa của từ nguyên trong
tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng La tinh cổ để khẳng định "lịch sử của từ này là lịch
sử chiếm lĩnh sự áp dụng có tính tổng quát" [3, tr. 244]. Từ đó Compagnon
đưa ra một số phương diện về phong cách, chúng tôi tóm lược lại như sau:
. Nói cách khác
phong cách là mô ̣t chuẩn mực: giá trị định ra chuẩn mực và quy tắc của phong cách là giá trị thường được gắn với nó nhất . Theo đó phong cách tốt là mẫu mực để bắt chướ c , mô ̣t quy chuẩn . Phong cách là mô ̣t thứ trang trí : nó thể hiê ̣n trong tu từ ho ̣c liên quan đến viê ̣c diễn đa ̣t bằng từ ngữ đó là sử du ̣ng tính đồng nghĩa. Phong cách là mô ̣t thể loa ̣i . Phong cách là mô ̣t triê ̣u chứ ng: Compagnon đã đi tìm hiểu phương diện này từ Mothe Le Vayer, Dumarsais, D’Alembert tới Flaube rồi Proust để đi tới điểm chung của họ "cái
nhìn độc đáo, như dấu ấn của chủ thể trong diễn ngôn" [3, tr. 250]. Phong
cách, sau rốt như là mô ̣t loa ̣i văn hóa. Compagnon đã phân tích các quan niệm gần đây nhất trên phương diện xã hội học và nhân học trong tiếng Đức và
11
tiếng Anh. Dẫn định nghĩa của Schapio trong Quan niệm về phong cách
"Phong cách là biểu thị của văn hóa như một tổng thể" [3, tr. 253].
Từ những phân tích các phương diện quan niệm về phong cách trên
góc độ tu từ học, ngôn ngữ học, phê bình học và phê bình ý thức hệ chủ đề
Compagnon đi đến kết luận: Phong cách khó có thể là một khái niệm thuần
túy; đó là một quan niệm phức tạp, phong phú, mập mờ, phức hợp [3, tr. 253].
Không dừng ở đó, Compagnon tiếp tục đi tìm hiểu phong cách trong
mối quan hệ ngôn ngữ, phong cách, lối viết. Ông quan tâm tới Barthes trong
độ không của lối viết, ông dẫn quan niệm của Barthes về phong cách "sự lựa
chọn tổng quát một giọng, một ethos" [3, tr. 257] và "lối viết là ngụ ý của
hình thức" [3, tr. 257]. Compagnon đã chỉ ra quan niệm của Barthes chính là
sự Phục sinh lại theo nghĩa tu từ học của từ phong cách bằng "lối viết". Đặc
biệt ông quan tâm đến quan niệm phong cách và sự minh họa bằng ví dụ "một
chữ kí" của G.Genette.
Từ các nghiên cứu, Compagnon đi đến kết luâ ̣n: - Phong cách là mô ̣t biến hóa hình thứ c trên mô ̣t nô ̣i dung ổn đi ̣nh (ít
hoă ̣c nhiều).
- Phong cách là mô ̣t tâ ̣p hơ ̣p những nét đă ̣c trưng củ a mô ̣t tác phẩm cho phép qua đó nhâ ̣n da ̣ng và nhâ ̣n ra tác giả (trực giác hơn là phân tích). - Phong cách là mô ̣t sự lựa cho ̣n giữa nhiều "lối viết" [3, tr. 285]. Từ Khrapchenco đến Compagnon, chúng tôi nhận thấy có những điểm
như sau:
Một là, về sự xuất hiện của khái niệm. Các nghiên cứu đều thống nhất
ở điểm phong cách là một khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại, có nhiều cách định
nghĩa khác nhau xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau (tu từ học, ngôn
ngữ học, chủ nghĩa cấu trúc, phê b ình, ký hiệu học, xã hội học, văn hóa học...).
Hai là, về nội hàm của khái niệm. Các nghiên cứu đều tránh đi đến
một định nghĩa duy nhất. Hai nhà nghiên cứu đã hệ thống các định nghĩa của
người đi trước để chỉ ra các cách tiếp cận chủ yếu khi nghiên cứu văn học.
12
Cách tiếp cận thứ nhất coi phong cách là đối tượng của ngôn ngữ học. Cách
tiếp cận này sẽ giới hạn phạm vi của phong cách ở phạm trù ngôn ngữ và như
vậy làm hẹp biên độ nghiên cứu phong cách. Bởi phong cách không chỉ là
ngôn ngữ. Cách thứ hai coi phong cách là sự lựa chọn nội dung và hình thức
biểu hiện mà qua đó cho phép ta nhận dạng ra tác giả, trào lưu, khuynh
hướng, thời đại, dân tộc. Cách thứ hai này sẽ bao gồm cả nội dung tư tưởng
và sự lựa chọn của nhà văn về hình thức thể hiện.
Điểm khác biệt đó là, từ nghiên cứu của mình, Khrapchenco đưa ra
những ý kiến phù hợp với nghiên cứu và phê bình văn học ở phương diện
phong cách nghệ thuật nhà văn. Trong khi đó, nghiên cứu của Compagnon vì
diện nghiên cứu rộng hơn, tham vọng của nhà nghiên cứu cũng muốn bao
quát khái niệm ở cấp độ khái quát nhất, cho nên đối với nội dung cụ thể là
phong cách nghệ thuật nhà văn vẫn còn bỏ ngỏ.
1.1.3. Nghiên cứu phong cách và phong cách nghệ thuật nhà văn ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ phong cách và phong cách nghệ thuật nhà văn
được giới thuyết khá muộn. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, vấn đề này
hầu như chưa có một công trình nào đề cập đến một cách hệ thống và chuyên
sâu. Từ 1945, nghiên cứu về phong cách nghệ thuật và phong cách nghệ thuật
nhà văn được chú trọng. Giớ i nghiên cứ u và phê bình văn ho ̣c Viê ̣t Nam đã có nhiều công trình nghiên cứ u về phong cách , tuy nhiên, ứng với quá trình nghiên cứu phong cách ở Việt Nam, do tiếp cận vấn đề này muộn hơn trên thế
giới, nên chúng tôi cho rằng nghiên cứu về phong cách ở Việt Nam mang tính
kế thừa và ứng dụng, thể hiện ở các thành tựu: một là, nghiên cứu những vấn
đề lí luận cơ bản về phong cách; hai là, nghiên cứu phong cách cá nhân đặt
trong trào lưu, thời đại để từ đó làm rõ sự vận động của văn học Việt Nam
trong những giai đoạn cụ thể.
Hướng nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về phong cách thành
tựu đạt được là xây dựng khái niệm qua các bộ từ điển như Từ điển Văn học
13
(Đỗ Đức Hiểu ), Từ điển Thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi ), 150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân ), Bên cạnh đó là thành tựu nghiên cứu về phong cách từ góc độ ngôn ngữ học, thi pháp học lý
luận văn học: Phong cách học Tiếng Việt (Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái
Hòa), Dẫn luận phong cá ch học (Nguyễn Thái Hòa). Lí luận văn học (Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam - Thành Thế Thái Bình), Lý luận văn học, vấn đề và
suy nghĩ (Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương), Một số vấn đề thi phá p học hiện đại của Trần Đình Sử, Những thế giớ i nghê ̣ thuật thơ (Trần Đình Sử ), Dẫn luận thi phá p học (Trần Đình Sử), Văn và Ngườ i (Phong Lê), Đi tìm chân lí nghê ̣ thuật của Hà Minh Đức, Nhà văn, tư tưởng và phong cách (Nguyễn
Đăng Mạnh)... Về khái niệm phong cách cá nhân nhà văn (Tôn Thảo Miên)...
Hướng thứ hai đi vào nghiên cứu phê bình phong cách học cụ thể từ
tác giả đến tác phẩm. Các nghiên cứu này khẳng định những chân dung tác
giả văn học lớn, có ý nghĩa thay đổi diện mạo hay thúc đẩy sự phát triển của
văn học ở từng giai đoạn cụ thể. Một số công trình nghiên cứu phong cách tác
giả nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc về phương diện lí thuyết như: Nhà văn hiện
đại (Vũ Ngọc Phan), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều
(Phan Ngọc), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Biện Minh Điền), Chủ
nghĩa hiện thực Nam Cao (Trần Đăng Suyền), Phong cách văn xuôi Nguyễn
Khải (Tuyết Nga), Phong cách Nguyễn Minh Châu (Tôn Phương Lan)...
Về khái niệm phong cách, chúng tôi chỉ điểm lược những khái niệm
gần nhất về mặt thời gian, có ý nghĩa ảnh hưởng hoặc đã được sử dụng nhiều
trong nghiên cứu văn học tại Việt Nam. Trước hết, trong cuốn 150 Thuật ngữ
văn học, phong cách được định nghĩa là:
Những đặc điểm... dường như hiện diện ở bề mặt của tác
phẩm, như là một sự thống nhất hiển thị và cảm giác được của tất cả
các yếu tố chủ yếu thuộc hình thức nghệ thuật. Trong nghĩa rộng,
phong cách là nguyên tắc xuyên suốt kiến trúc tác phẩm có tính
chỉnh thể, có giọng điệu, có màu sắc thống nhất rõ rệt [6, tr. 254].
14
Với khái niệm này, phong cách nghệ thuật được xem như là yếu tố
chủ yếu về hình thức nghệ thuật, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt tác
phẩm để làm nên tính chỉnh thể, giọng điệu, mầu sắc thống nhất trong tác
phẩm cụ thể. Định nghĩa này, chúng tôi cho rằng, có thể nâng lên để cắt nghĩa
tính thống nhất trong các sáng tác cùng thể loại của một tác giả từ đó làm rõ
dấu ấn phong cách cá nhân của tác giả đó.
Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm:
Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất
tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện
nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác
phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc [37, tr. 255-256].
Đối chiếu hai tài liệu, chúng tôi nhận thấy, 150 thuật ngữ văn học chủ
yếu nhận diện phong cách ở yếu tố hình thức "hiện diện trên bề mặt" nói cách
khác là dấu hiệu ngôn ngữ mà nhà văn lựa chọn trong tác phẩm của mình.
Trong khi đó, Từ điển Thuật ngữ văn học lại quan tâm ở góc độ tính thống
nhất trong hệ thống và cái nhìn độc đáo của cá nhân.
Phan Ngọc - người đi tiên phong trong nghiên cứu chuyên sâu về
phong cách tác giả văn học ở Việt Nam cho rằng: "phong cách là một thể
thống nhất hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách
lịch sử, và chứa đựng một giá trị của lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một
thời đại, một thể loại, hay một tác giả" [138, tr. 27]. Với định nghĩa này, Phan
Ngọc đã nhấn mạnh kiểu lựa chọn độc đáo của tác giả, kiểu lựa chọn đó
không chỉ dừng lại ở phương diện hình thức mà hình thức nhằm mục đích biểu
hiện một nội dung, một vấn đề nghệ thuật nào đó trước yêu cầu của thời đại của
lịch sử. Nói cách khác, vấn đề lựa chọn phương tiện biểu hiện cách nhìn của
nhà văn với thế giới mà anh ta đang sống vừa có ý nghĩa khẳng định phong
cách cá nhân của anh ta, vừa chỉ ra những yếu tố, những vấn đề của thời đại
mà anh ta đang sống. Ông cũng cho rằng "mỗi phong cách nghệ thuật đều là
tập hợp những kiểu lựa chọn theo một góc độ nhìn nhất định" [138, tr. 111].
15
Điều đó có nghĩa là góc nhìn của anh ta trước những vấn đề thời đại sẽ chi
phối cách cắt nghĩa các vấn đề theo cách riêng.
Từ Phan Ngọc đến Đỗ Lai Thúy, phong cách nghệ thuật nhà văn đã có
những điểm tương đồng và khác biệt. Phan Ngọc đề cao góc nhìn, Đỗ Lai
Thúy cho rằng: "mỗi thời đại văn hóa tạo ra phong cách của mình, và mỗi nhà
văn trong thời đại đó lại có phong cách riêng. Phong cách của họ chính là sự
lệch so với cái chuẩn của thời đại" [175, tr. 131]. Quan niệm lệch so với
chuẩn của thời đại, theo Đỗ Lai Thúy phải chăng chính là đề cao điểm dị biệt
trong sáng tạo của nhà văn so với chính thời đại mà anh ta đang sống.
Trong khi đó, từ góc nhìn thi pháp học, chịu ảnh hưởng sâu sắc của
phê bình phong cách học, Đỗ Đức Hiểu khẳng định: "phong cách cá thể hóa,
thi pháp khái quát hóa" [42, tr. 34]. Chúng tôi nhận thấy, Đỗ Đức Hiểu với
quan niệm này, đã đặt phong cách trong mối tương quan với thi pháp, đó cũng
là một khuynh hướng tiếp cận hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Nguyễn Đăng Mạnh quan niệm: "phong cách là một chỉnh thể nghệ
thuật, nó phụ thuộc vào thói quen tâm lí và những sở trường riêng, tài nghệ
riêng của anh ta" [127, tr. 83]. Ông khẳng định yếu tố cá tính sáng tạo hay
"cái tôi" của người nghệ sĩ là gốc rễ của phong cách nghệ thuật nhà văn. Quan
niệm này đã được nhà nghiên cứu triển khai khi đi tìm hiểu phong cách nghệ
thuật Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng.
Điểm lược những nghiên cứu về phong cách nghệ thuật và phong cách
nghệ thuật nhà văn ở Việt Nam, chúng tôi cho rằng trong nghiên cứu về vấn
đề này đã có sự phân biệt phong cách đã rõ ràng ở hai phạm trù: phong cách
là phạm trù thuộc ngôn ngữ học và phong cách với tư cách là một chỉnh thể
sáng tạo nghệ thuật thuộc về cá nhân nhà văn trong toàn bộ sáng tác của anh
ta. Các ý kiến về phong cách nghệ thuật nhà văn đã gặp nhau ở điểm: khẳng
định phong cách là biểu hiện của tài năng, có tính ổn định và thống nhất, có
những nét độc đáo làm nên hiện tượng tác giả. Trong phạm vi luận án, chúng
tôi chỉ điểm lược những nội dung cơ bản, có ý nghĩa liên quan đến đề tài, lấy
16
đó làm công cụ thực thi khám phá hiện tượng nghệ thuật phong cách nghệ
thuật tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
1.1.4. Quan niệm của luận án về nội hàm khái niệm phong cách
Từ những nghiên cứu trên, để thuận lợi cho quá trình nghiên cứu phong
cách nghệ thuật nhà văn, chúng tôi đưa ra quan niệm về giá trị nội hàm của
phong cách.
Một là, phong cách là những nét riêng của nhà văn thể hiện trong quá
trình sáng tác và toàn bộ những sáng tác của anh ta. Phong cách là sự kết tinh tài
năng nghệ thuật, cá tính sáng tạo, cốt cách của một tác giả. Phong cách vừa thống
nhất nhưng đồng thời lại có tính đa dạng và biến đổi. Phong cách thực chất là con
đường phát hiện, cảm nhận thế giới một cách nghệ thuật rất riêng biệt của người
nghệ sĩ. Phong cách là sự thống nhất từ hình thức đến nội dung của tác phẩm.
Hai là, phong cách, vì thế, là phẩm chất thẩm mĩ của tác phẩm văn
học thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn để từ đó nhà văn tự tạo cho
mình một thế giới riêng không lặp lại. Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung
và hình thức của phong cách không thể đánh giá một cách bình quân bởi phong
cách thống nhất hình thức với nội dung, cái biểu đạt với cái được biểu đạt.
Ba là, phong cách của một nhà văn xét đến cùng chính là dấu ấn nghệ
thuật của anh ta thể hiện trong tác phẩm có ý nghĩa như là những đặc điểm
vừa có ý nghĩa nhất quán vừa luôn vận động và bổ sung những giá trị mới.
Chính những đặc điểm này trong hành trình sáng tạo nghệ thuật phải được
phát triển đến một trình độ cao vừa có giá trị bền vững vừa có tính biến đổi
mới có thể trở thành phong cách nghệ thuật.
Bốn là, từ những nghiên cứu trên, trong phạm vi của đề tài, chúng tôi
cho rằng, quan trọng nhất là phải làm rõ được phong cách của nhà văn ở thể
loại tiểu thuyết. Vậy, phong cách của Ma Văn Kháng qua tiểu thuyết sẽ được
thể hiện ở phương diện nào, có nhất thiết phải khảo sát toàn diện không, hay
chỉ lựa chọn những điểm quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đối với
việc bộc lộ phong cách nghệ thuật nhà văn.
17
Xuất phát từ điều này, chúng tôi quyết định, trong khuôn khổ của luận
: quan điểm nghê ̣ thuật ; nhân
án tiến hành khảo sát các phương diê ̣n chính vật; ngôn ngữ và giọng điệu , để bướ c đầu xác lâ ̣p những đă ̣c điểm cơ bản trong phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng , mô ̣t nhà văn cho đến nay đươ ̣c khẳng đi ̣nh là mô ̣t trong những cây bú t tiểu thuyết lớ n nhất củ a văn ho ̣c Viê ̣t Nam hiê ̣n đa ̣i.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
Nghiên cứu Ma Văn Kháng ở thể loại tiểu thuyết, chúng tôi nhận thấy,
ngòi bút của ông phong phú về đề tài, độc đáo trong tìm tòi sáng tạo nghệ
thuật từ tác phẩm đầu tay đến tác phẩm gần đây nhất, tư duy tiểu thuyết luôn
có sự vận động và biến đổi theo một nguyên tắc ông đặt ra "Thuận theo người
mà không bỏ mình" nên luôn có sức hấp dẫn với giới nghiên cứu, phê bình,
đồng nghiệp và bạn đọc. Đồng thời, tiến trình văn học từ 1980 đến nay, nền
nghiên cứu phê bình văn học của Việt Nam cũng có những bước chuyển
mạnh trong tư duy và thao tác nghiên cứu. Căn cứ vào tài liệu khảo sát thực
chứng, chúng tôi nhận thấy, các nghiên cứu về Ma Văn Kháng đã bao quát
được các phương diện: đề tài và cảm hứng nghệ thuật, nhân vật, ngôn ngữ,
giọng điệu, vận động trong tư duy, thể loại... Những nghiên cứu này, theo
chúng tôi đều có ý nghĩa cận phong cách và là những gợi mở rất hữu ích
trong quá trình thực hiện luận án. Bên cạnh đó, các nghiên cứu còn mang tính
phân đoạn theo thời gian, sự phân chia giai đoạn này vừa mang tính khách
quan vừa mang tính chủ quan. Khách quan bởi chỉnh thể tác phẩm của Ma
Văn Kháng không thể tách rời với bối cảnh xã hội mà ông đang sống (chúng
tôi sẽ nói đến điều này ở chương sau), chủ quan bởi mỗi giai đoạn ứng với
hoàn cảnh và tâm thế một đoạn đời của ông. Cả hai nội dung chúng tôi đều
xem xét trong chương này. Qua khảo sát hàng trăm bài báo, các công trình
nghiên cứu, phê bình, các chuyên khảo, chuyên luận, chúng tôi nhận thấy các
nghiên cứu tiểu thuyết Ma Văn Kháng chủ yếu theo các góc độ: đề tài, thể
loại, nghệ thuật tự sự, nhân vật.
18
1.2.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết Ma Văn Kháng
Ngay từ khi Đồng bạc trắng hoa xòe ra đời, các nhà nghiên cứu, phê
bình đã quan tâm chú ý tới Ma Văn Kháng. Hoàng Tiến đã viết tiểu luận Đọc
Đồng bạc trắng hoa xòe, vừa là lời giới thiệu sách, vừa có những phân tích
khá sâu sắc, thể hiện con mắt xanh trong phát hiện về tài năng nghệ thuật của
Ma Văn Kháng ở thể loại tiểu thuyết và trong phạm vi đề tài dân tộc miền núi.
Tác giả đã chỉ ra những thành công của Ma Văn Kháng ở một đề tài mà trước
đó đã có nhiều cây bút thành danh, tưởng chừng khó có thể vượt qua. Hoàng
Tiến khẳng định "với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định
đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Đó là cái mốc trên bước đường văn học
của anh" [82, tr. 27].
Sau Hoàng Tiến, Trần Đăng Suyền với Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe,
đã tiếp tục khẳng định tài năng và cá tính sáng tạo của Ma Văn Kháng ngay từ
tiểu thuyết đầu tay, chỉ ra những thành công và những tồn tại của nhà văn ở
tiểu thuyết này. Tiếp đó là Nghiêm Đa Văn với Chiều sâu một vùng đất biên
giới, Trần Bảo Hưng với Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe... các tác giả đánh giá
cao khả năng chiếm lĩnh hiện thực của Ma Văn Kháng ở đề tài dân tộc miền
núi, khẳng định Ma Văn Kháng có năng lực miêu tả con người và cảnh vật
mang đậm chất sử thi và dân tộc miền núi.
Về Vùng biên ải, tác phẩm được xem như là tập hai, sự nối tiếp của Đồng
bạc trắng hoa xòe, có thể kể đến những công trình tiêu biểu: Cuộc chiến tranh
tiễu phỉ ở Vùng biên ải của Trần Đăng Suyền, Đọc "Vùng biên ải" của Lê Thành
Nghị..., những nghiên cứu này đã cho thấy năng lực bao quát hiện thực đời sống
và phản ánh số phận của nhân dân các dân tộc vùng cao trong quá trình đấu
tranh cách mạng, giải phóng chính mình khỏi kiếp đời nô lệ, vươn tới tự do.
Ngoài các nghiên cứu cụ thể về từng tác phẩm, còn có những công
trình mang tính chất tổng hợp, khái quát, chuyên sâu như Tiểu thuyết về đề tài
dân tộc miền núi của Ma Văn Kháng của Nguyễn Ngọc Thiện, Đọc các sáng
tác của Ma Văn Kháng, nghĩ về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn
19
của Nguyễn Văn Toại, Phong cách văn xuôi miền núi Ma Văn Kháng của
Phạm Duy Nghĩa, Tiểu thuyết về đề tài miền núi của Ma Văn Kháng của Trần
Thị Thanh Huyền...
Từ những tư liệu trên chúng tôi nhận thấy các tác giả đã đánh giá cao
tiểu thuyết về đề tài dân tộc miền núi của Ma Văn Kháng ở các phương diện:
Năng lực miêu tả các sự kiện lịch sử nội dung hiện thực phản ánh và ý nghĩa
xã hội ở không gian biên ải với những sự kiện lịch sử đặc biệt, phức tạp.
Khẳng định đóng góp của Ma Văn Kháng ở thể loại tiểu thuyết đã góp phần
làm sáng rõ bức tranh toàn cảnh xã hội và phong tục đặc biệt ở không gian
biên ải bằng những hình tượng sinh động cụ thể. Khẳng định vị trí của Ma
Văn Kháng ở một thể loại lớn: tiểu thuyết sử thi về đề tài dân tộc miền núi là
không thể phủ nhận. Điều mà các nghiên cứu còn bỏ ngỏ là: chỉ chú ý đến
phương diện nội dung đề tài phản ánh, những yếu tố thể hiện phong cách nghệ
thuật nhà văn ở tác phẩm như: nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng
điệu đã được đề cập đến ít nhiều nhưng chưa được tìm hiểu đánh giá đúng mức.
Mưa mùa hạ (1984) là sự khởi đầu cho tiểu thuyết Ma Văn Kháng ở
đề tài thành thị và cũng là sự khởi đầu cho tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma
Văn Kháng. Từ sau tác phẩm này là sự ra đời các tiểu thuyết Mùa lá rụng
trong vườn (1985) Đám cưới không có giấy giá thú (1989); Côi cút giữa cảnh
đời (1989); Chó Bi, đời lưu lạc (1992); Ngược dòng nước lũ (1999). Với các
góc nhìn: chống tiêu cực, sự xuống cấp của đạo đức xã hội, gia đình thành thị
với các mối quan hệ của nó, người trí thức trong cuộc sống hiện đại, vấn đề
hôn nhân và trẻ em... tất cả những nội dung mà tiểu thuyết Ma Văn Kháng
phản ánh đã đã một thời gây sóng gió trong dư luận bạn đọc và giới nghiên
cứu phê bình. Trần Bảo Hưng, Hà Ân, Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Lân Dũng,
Đào Thanh Tùng, Vương Trí Nhàn, Bùi Kim Chi, Nguyễn Gia Nùng, Hoàng
Trần Vũ, Hồ Anh Thái, Tô Đức Chiêu, Wayne Karlin, Đào Tiến, Nguyễn Thị
Hoa, Lê Văn Chính... đã có những đánh giá rất cao về tiểu thuyết Ma Văn
Kháng ở mảng đề tài này.
20
Mưa mùa hạ được Tô Hoài, Nguyễn Thái Vận, Trần Cương, Trần
Đăng Suyền, Nguyễn Thị Huệ... đánh giá cao về sự vận động trong đề tài và
bút pháp nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định tác phẩm
này là bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng, từ sử thi sang
thế sự đời tư, từ đề tài dân tộc miền núi sang thành thị và đời sống thị dân với
tất cả sự phức tạp của nó. Sau Mưa mùa hạ là Mùa lá rụng trong vườn, Đám
cưới không có giấy giá thú - hai mốc son trong sự nghiệp tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng. Theo Trần Bảo Hưng với Mùa lá rụng trong vườn, Ma Văn Kháng
đã đi vào một đề tài khá khiêm tốn nhưng lại là vấn đề quan thiết với nhiều
người: gia đình với những lối sống, cung cách, quan niệm vừa thống nhất, vừa
mâu thuẫn vừa rõ ràng cụ thể, vừa rối rắm phức tạp. Trần Đăng Suyền nhìn
thấy ở Mùa lá rụng trong vườn "chủ yếu là mô tả sự biến đổi của gia đình
trong thời kỳ quá độ hiện nay" [151, tr. 40]. Một số các bài viết khác cũng có
những đánh giá cao về thành công của tác phẩm ở phương diện khám phá về
đề tài như Nguyễn Văn Lưu với Bàn thêm về Mùa lá rụng trong vườn; Hoàng
Sơn với Trò chuyện với tác giả Mùa lá rụng trong vườn, Hồ Anh Thái với bài
viết Truyền thống tốt đẹp của gia đình trong xã hội hiện nay.
Trước sự quan tâm của dư luận, Báo Người Hà Nội đã tổ chức "Thảo
luận về tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn" sau đó đăng các ý kiến trên trên
báo Người Hà Nội số 14, 1985. Cuộc hội thảo này đã thu hút những nhà văn,
cây bút lý luận, phê bình tâm huyết có trách nhiệm như: Thiếu Mai, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Vũ Quần Phương, Lê Quang Trang, Đăng
Trung, Yên Thao, Trần Cương, Trần Đăng Suyền, Đào Thanh Tùng, Vương
Trí Nhàn, Lê Thành Nghị, Hồng Diệu, Nguyễn Thái Vận, các biên tập viên
nhà xuất bản cùng nhà văn Ma Văn Kháng. Các ý kiến xoay quanh những
đóng góp của Ma Văn Kháng về đề tài thành thị qua tác phẩm. Tất cả đều
nhất trí cho rằng sau Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn là một trong
những tác phẩm thành công nhất của Ma Văn Kháng, được bạn đọc và dư
luận đánh giá rất cao ở mảng đề tài thành thị. Kết luận của hội thảo này thống
21
nhất đánh giá: Ma Văn Kháng đã chú ý khai thác những biến động trong gia
đình, cũng là biến động trong đời sống tâm hồn người Hà Nội trong thời điểm
bấy giờ và qua các tiểu thuyết của mình, tham gia vào đời sống xã hội. Nếu
Mưa mùa hạ là một bước chuyển tiếp quan trọng thì Mùa lá rụng trong vườn
đã thực sự là một bước ngoặt trong sự nghiệp tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Sau Mùa lá rụng trong vườn là Đám cưới không có giấy giá thú
(1989). Tác phẩm này gây ra những dư luận trái chiều, đã trở thành đề tài của
một cuộc hội thảo do Tuần báo Văn nghệ tổ chức vào ngày 11/01/1990, Bùi
Kim Chi - Nguyễn Việt đã tổng hơ ̣p các ý ki ến trong Tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, khen và chê [14, tr. 11]. Những ý kiến trái ngược nhau
đã cho thấy ở thời điểm bấy giờ, thực sự Ma Văn Kháng là một nhà văn gây
sóng gió trong dư luận bạn đọc. Ngoài việc góp ý cho tác giả về những vấn đề
cần cân nhắc khi phản ánh hiện thực, một số ý kiến nặng về đánh giá trên
phương diện chính trị như Nguyễn Việt, các nhà văn tham dự hội thảo đều
thống nhất "nhà văn đã gửi được vào trang sách cái tâm tình và những suy
nghĩ nóng bỏng tương ứng với độ nóng bỏng của những vấn đề đang đặt ra
trong cuộc sống của chúng ta" (nhà văn Nguyễn Kiên); "đây là một cuốn sách
không tầm thường" (nhà văn Huy Phương). Nhà văn Lê Lựu phát biểu trực
tiếp cảm xúc: "Tôi thích cuốn này nhất...", bởi theo ông "Ma Văn Kháng đã
huy động toàn bộ hiểu biết..." để từ "chi tiết nhỏ nói được những vấn đề lớn
lao". Hoàng Minh Tường khẳng định mạnh mẽ: "Đây chính là một đóng góp
của nhà văn trong việc định hướng thẩm mĩ cho công chúng". Nhà nghiên cứu
Phan Cự Đệ đã nhận rõ đằng sau những trang viết tưởng chừng có vấn đề ấy
chính là "bi kịch của nhà giáo, một trí thức,... cái "bi kịch vỡ mộng" của một
bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để lầm chỗ".
Từ cuộc hội thảo này, đã gợi ra nhiều hướng tiếp cận mới về tiểu thuyết Ma
Văn Kháng, việc tiếp cận theo góc nhìn đề tài e rằng đã cũ với một cây bút
điềm đạm mà vững chắc từng bước đào tạo mình trong việc khổ luyện với
một thể tài tự sự cỡ lớn.
22
Ngược dòng nước lũ (1999) đã thu hút sự chú ý của Hoàng Trần Vũ , Hồ Anh Thái , Tô Đứ c Chiêu , Lã Duy Lan , Wayne Karlin, Michael Harris, Trần Tế, Lã Nguyên, Phong Lê, Đỗ Hải Ninh,... Các nhà nghiên cứu đánh giá
cao thành công của nhà văn trong phân tích, miêu tả quy luật của xã hội,
hướng tới đấu tranh chống tiêu cực và bảo vệ những giá trị của cuộc sống.
Các tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời (1989), Chó Bi, đời lưu lạc (1992)
được xem là viết cho thiếu nhi, tuy nhiên các nhà nghiên cứu (Phong Lê,
Nguyễn Ngọc Thiện, Lã Thị Bắc Lý, Nguyễn Gia Nùng) vẫn nhận thấy tính
chất đa nghĩa của đề tài, từ câu chuyện giành cho thiếu nhi, nâng lên thành
những bài học về cuộc sống.
Trong đề tài thành thị, có một mảng viết về những người chiến sĩ trên
mặt trận chống lại cái ác, đó là hai tiểu thuyết Bóng đêm (2011) và Bến bờ
(2012). Về đề tài này, cho đến thời điểm chúng tôi khảo sát hầu như chưa có
những nghiên cứu chuyên sâu, chủ yếu là lời giới thiệu trên các báo, hoặc
lồng ghép trong những hướng nghiên cứu khác. Chúng tôi cho rằng, đề tài an
ninh thể hiện rất rõ tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của Ma Văn Kháng, vì
thế, hy vọng sẽ có những nghiên cứu bổ sung vào nội dung này.
Qua khảo sát các nghiên cứu tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn
Kháng chúng tôi nhận thấy: các nghiên cứu thống nhất khẳng định Ma Văn
Kháng thực sự trở thành một cây bút sắc sảo trong việc phản ánh những vấn
đề cuộc sống đang trở thành băn khoăn nhức nhối: gia đình, đạo đức xã hội,
các mối quan hệ cha con, chồng vợ, anh em, đồng nghiệp, thầy trò, đánh giá
cao năng lực phân tích, dự báo của nhà văn trước những vấn đề đời sống đang
diễn ra đầy phức tạp, ảnh hưởng, chi phối sâu sắc đến từng cá nhân và toàn xã
hội. Ma Văn Kháng là nhà văn có ý thức trong việc đổi mới đề tài và bút
pháp, đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam ở thể loại tiểu thuyết thế sự
đời tư. Từ những đổi mới về đề tài, khẳng định Ma Văn Kháng đã góp phần
nhận diện con người Việt Nam ở từng giai đoạn cụ thể qua những phạm vi
nhất định. Những nội dung nghiên cứu không được phân định rõ ràng, chỉ có
23
ở những nghiên cứu chuyên sâu mới mang tính chất khu biệt, còn lại, hầu hết
các nhà nghiên cứu đều lấy đề tài làm điểm xuất phát và từ đó bao quát các
nội dung khác do vậy đôi lúc chưa làm rõ được trọng tâm nghiên cứu.
Những nghiên cứu về tiểu thuyết Ma Văn Kháng ở phương diện đề tài
chiếm một số lượng lớn và rất có ý nghĩa trong việc nhận diện vị trí của nhà văn
trong tiến trình phát triển của văn học đương đại. Nói nghiên cứu về đề tài ở đây
không có nghĩa là các nghiên cứu trên chỉ quan tâm đến phương diện này mà bỏ
qua các yếu tố khác trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Sở dĩ chúng tôi có những
đánh giá trên bởi căn cứ vào điểm xuất phát của các nhà nghiên cứu khi xem xét
tác phẩm Ma Văn Kháng. Một vấn đề nữa đáng chú ý đó là: các nghiên cứu hầu
hết mới chỉ dừng lại ở từng tác phẩm, chưa có những nghiên cứu mang tính tổng
thể, xuyên suốt, bao quát các tiểu thuyết Ma Văn Kháng trong các giai đoạn sáng
tác. Chính điều này đã dẫn đến việc xác định vị trí và đóng góp của nhà văn ở
phương diện thể loại chưa thật xác đáng. Và nếu chỉ dừng lại ở đề tài, tiểu thuyết
của Ma Văn Kháng còn rất nhiều nội dung chưa được khám phá, khai thác.
Từ những năm 90 thế kỷ trước địa vị của Ma Văn Kháng trong văn
học Việt Nam hiện đại đã được khẳng định một cách vững chắc. Những nghiên
cứu về tiểu thuyết Ma Văn Kháng cũng chuyển động mạnh mẽ, có nhiều nghiên
cứu chuyên sâu vượt qua góc nhìn đề tài, mổ xẻ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ở
nhiều phương diện: sự vận động trong tư duy nghệ thuật, nghệ thuật tự sự, nhân
vật, ngôn từ, giọng điệu. Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã trở thành đối tượng
của rất nhiều chuyên luận bên cạnh các tiểu luận và bài báo, trả lời phỏng
vấn… Đây cũng là một điều khẳng định vị thế của nhà văn - trở thành đối
tượng nghiên cứu mang tính học thuật của phê bình văn học đương đại.
Nghiên cứu về nghệ thuật tự sự là một góc tiếp cận được Nguyễn
Ngọc Thiện, Trần Tế, Lã Nguyên, Phong Lê, Đỗ Hải Ninh, Đoàn Trọng Huy,
Phạm Duy Nghĩa, Lê Hiền, Hoàng Thị Huế… thực sự quan tâm. Nguyễn
Ngọc Thiện khi đặt ba tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe, Gặp gỡ ở La Pan
Tẩn và Bóng đêm trong độ dài của thời gian đã nhận thấy ngòi bút của Ma
24
Văn Kháng đã có bước tiến dài trong kỹ thuật tự sự. Theo tác giả, bước tổng
hợp đó là nghệ thuật miêu tả nhân vật, là sự thay đổi điểm nhìn trần thuật, là
tài năng "dụng ngữ", đặc biệt nhà nghiên cứu nhận thấy, khi miêu tả nhân vật,
Ma Văn Kháng thiên về khai thác cái thuộc về bản năng, đời sống tâm sinh lí,
tình dục của họ cùng những suy nghĩ, đối thoại, độc thoại - tức phần hồn con
người với tất cả sự đa đoan phồn tạp khó lường hết mọi điều của nó.
Nghệ thuật tự sự trong sáng tác Ma Văn Kháng của Đỗ Phương Thảo
là công trình chuyên sâu đầu tiên về Ma Văn Kháng ở cả truyện ngắn và tiểu
thuyết. Khảo sát công phu nghệ thuật tự sự của Ma Văn Kháng trong tác
phẩm mang tính sử thi và tác phẩm thế sự đời tư, tác giả đưa ra những kiến
giải sâu sắc về quan niệm về cuộc đời và con người của nhà văn ở cả hai khu
vực đề tài. Nghệ thuật trần thuật được lý giải khá cặn kẽ ở các phương diện.
Tuy nhiên, vì phạm vi của chuyên luận bao gồm cả truyện ngắn và tiểu thuyết
cho nên có những vấn đề thuộc về thể loại tiểu thuyết vẫn còn bỏ ngỏ.
Đoàn Trọng Huy có những nghiên cứu thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới
nghệ thuật tiểu thuyết Ma Văn Kháng trong một cái nhìn tổng hợp: Ma Văn
Kháng, ngọn cờ đổi mới có sức vẫy gọi; Ma Văn Kháng, Vạm vỡ kiên cường
một sức văn, Cảm nhận tài nghệ ngôn từ Ma Văn Kháng. Tác giả khẳng định
"đặc biệt, nghệ thuật trần thuật của Ma Văn Kháng có những đổi mới... đạt
được những hiệu quả nghệ thuật rõ rệt, mang lại hiệu quả thẩm mỹ mới" [58].
Hà Linh trong Ma Văn Kháng, sống là để mang thương tích khẳng
định với Bóng đêm, Ma Văn Kháng đã "xóa nhòa ranh giới của đề tài trong
văn chương, hay nói cách khác, với những nhà văn lớn, thì đề tài chỉ là cái cớ để
họ thể hiện tư tưởng của mình" [115, tr. 10]. Hoàng Thị Huế và Nguyễn Thị
Khánh Thu khẳng định thành công trong xây dựng hình tượng người kể chuyện
trong tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng: "Điểm đặc sắc là kiểu
tự thuật "đánh tráo" chủ thể trần thuật... không phải ở ngôi thứ nhất mà là ngôi
thứ ba, ở dạng này, tác giả vẫn giữ khoảng cách giữa nhân vật và người kể
chuyện... cái tôi tự thuật của tác giả ẩn dưới một lớp vỏ bọc khác" [52, tr. 26].
25
Có thể nói, tiếp cận Ma Văn Kháng từ nghệ thuật trần thuật là một trong những
hướng nghiên cứu mang tính chuyên sâu sâu về tác giả này.
Nghiên cứu nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã được Hoàng
Tiến, Trần Ðăng Suyền, Nghiêm Ða Văn, Lê Thành Nghị, Nguyễn Ngọc Thiện,
Ðoàn Trọng Huy, Nguyễn Thị Huệ... và sau này là Ðỗ Hải Ninh, Phạm Duy
Nghĩa, Ðỗ Phương Thảo... quan tâm. Tuy nhiên, các nghiên cứu ban đầu,
nhân vật chỉ được nhắc đến bằng những dòng ít ỏi, về sau nhân vật trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng đã trở thành đối tượng nghiên cứu mang tính chuyên
sâu. Đánh giá về nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, các nghiên
cứu đều khẳng định thành công của nhà văn trong việc xây dựng các kiểu
nhân vật mang những nét đặc sắc riêng, có bút pháp miêu tả nhân vật độc đáo.
Ở những tác phẩm ở giai đoạn đầu các nhà nghiên cứu nhìn thấy khả năng bao
quát hiện thực thì ở những tác phẩm sau này, họ lại chú ý tới bút lực khám
phá nội tâm nhân vật ở các phương diện đời sống khi đối diện với những xung
đột và mâu thuẫn xã hội cũng như cá nhân con người với con người (Trần
Đăng Suyền, Lã Duy Lan, Đỗ Phương Thảo). Các nghiên cứu thống nhất ở
điểm nhà văn đã xây dựng được những kiểu nhân vật tiểu thuyết mang mầu
sắc riêng. Đó là kiểu nhân vật lý tưởng mang vẻ đẹp bi hùng, nhân vật trí
thức, nhân vật nạn nhân, nhân vật thị dân (Nguyễn Ngọc Thiện, Đoàn Trọng
Huy). Rất nhiều ý kiến cho rằng, nhân vật nữ là thành công đặc biệt trong các
tiểu thuyết Ma Văn Kháng (Trần Đăng Suyền, Trần Bảo Hưng, Nguyễn Thị
Huệ, Nguyễn Ngọc Thiện, Đoàn Trọng Huy, Đỗ Hải Ninh...). Từ những phụ
nữ Mông nhan sắc có kiếp sống như ngựa thồ, thân phận như chõ đồ máo của
trong các tiểu thuyết miền núi đến nhân vật nữ ở thành thị trong tiểu thuyết
Ma Văn Kháng có những nét không thể trộn lẫn, vô cùng hấp dẫn, quyến rũ
cả ở hình thức lẫn nội tâm. Có thể nói, các nhà nghiên cứu đều nhìn thấy ở
nhà văn tấm lòng ưu ái dành cho những người phụ nữ qua sáng tác tiểu
thuyết. Về kiểu nhân vật trí thức của tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Đỗ Hải Ninh
nhận thấy: "nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng mang màu sắc tự truyện...
26
Nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng là nhân vật cô đơn, đúng như trạng thái
ý thức của con người trong xã hội hiện đại" [143, tr. 294]. Đoàn Trọng Huy
cho rằng nhân vật hiệp sĩ an ninh mang vẻ đẹp bi tráng lại là sự khẳng định
một mỹ cảm độc đáo gắn với nhân vật loại hình mới.
Bên cạnh thành công, các nhà nghiên cứu cũng nhìn thấy những hạn
chế của Ma Văn Kháng khi khắc họa các nhân vật chính diện thiên về ca ngợi
không có sự phê phán cần thiết, lý tưởng hóa nhân vật đến mức gần như thánh
thiện. Các nhân vật phản diện thì ngược lại, cường điệu, tô đậm thái quá
những nét nghịch dị về tướng mạo và tính cách.
Qua những nghiên cứu về tiểu thuyết Ma Văn Kháng chúng tôi nhận
thấy các ý kiến thống nhất ở điểm khẳng định thành công của Ma Văn Kháng
ở cả hai mảng đề tài miền núi và thành thị, nghệ thuật tự sự của Ma Văn
Kháng có những điểm độc đáo, thế giới nhân vật của Ma Văn Kháng đa dạng,
phong phú, hấp dẫn, ngôn từ và giọng điệu đã được đề cập đến trong một số
nghiên cứu nhưng chưa chuyên sâu. Các vấn đề về sự vận động trong tư duy
và quan niệm nghệ thuật, kiểu nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật,
ngôn từ và giọng điệu rất cần được tìm hiểu có hệ thống và đầy đủ hơn.
1.2.2. Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng
Điểm lược lại các công trình nghiên cứu về sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng từ trước tới nay qua từng giai đoạn, chúng tôi nhận thấy dù xuất phát
từ những góc độ khác nhau, trong những thời gian khác nhau, ở từng tác phẩm
cụ thể, các ý kiến đều thống nhất đánh giá Ma Văn Kháng là một trong số những
nhà tiểu thuyết tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại, là một ngọn cờ tiên
phong trong công cuộc đổi mới văn học. Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ở từng
giai đoạn đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển của văn học đương đại, phản
ánh được bức tranh hiện thực và đời sống tinh thần thời đại. Nhà văn đã tạo
dựng được những nhân vật đặc sắc và hấp dẫn. Ngôn từ sáng tạo, phong phú.
Về phong cách nghệ thuật, có rất nhiều nhà nghiên cứu đã hướng tới nghiên
cứu để nhằm định danh Ma Văn Kháng trong dòng chảy văn học đương đại.
27
Nghiên cứu đầu tiên hướng tới định danh phong cách tiểu thuyết Ma
Văn Kháng là Văn xuôi khơi nguồn đổi mới của Nguyễn Thị Huệ. Tác giả đặt
Ma Văn Kháng trong mối tương quan với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Nguyễn Mạnh Tuấn, từ quan sát giọng điệu và ngôn ngữ đã đưa ra nhận định Ma
Văn Kháng có "phong cách trữ tình trầm lắng,... duyên dáng, trong sáng, tình
ý đằm sâu trong từng câu chữ...giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm" [51, tr. 192].
Tuy nhiên, với mục đích nghiên cứu sự vận động của văn xuôi Việt Nam
trước thềm đổi mới qua bốn tác giả tiểu thuyết tiêu biểu cho nên những ý kiến
về phong cách mới chỉ dừng lại ở phương diện ngôn ngữ và có ý nghĩa như
một định danh, chưa có sự lý giải mang tính chất chuyên sâu và diện khảo sát
chỉ dừng lại ở hai tiểu thuyết Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn.
Phong cách văn xuôi miền núi của Ma Văn Kháng của Phạm Duy Nghĩa
là công trình đầu tiên nghiên cứu về phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng ở
phạm vi đề tài miền núi. Từ một quan sát mang tính chất khái quát nhất ở
những sáng tác thuộc đề tài dân tộc miền núi, Phạm Duy Nghĩa cho rằng: "Ma
Văn Kháng là nhà văn có phong cách rõ nét, ổn định, không lẫn với cây bút
khác" [135, tr. 38]. Tiếp đó, tác giả đi tới định danh phong cách của nhà văn
khi viết về miền núi "là cảm hứng trước vẻ đẹp phồn thực, cường tráng, bản
tính hồn nhiên cùng sự phân cực sâu sắc của con người và cuộc đời trần thế",
một phong cách nghệ thuật mang "cảm quan dương tính ..." [135, tr. 38]. Với
nghiên cứu này, vấn đề phong cách nghệ thuật của Ma Văn Kháng đã được
đặt ra và giải quyết ở phạm vi đề tài miền núi, bao gồm cả truyện ngắn và tiểu
thuyết. Như vậy, nhà nghiên cứu chưa hướng tới sự phân định về phong cách
thể loại và phạm vi của nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở sáng tác miền núi,
những sáng tác về thành thị, phần rực rỡ nhất của Ma Văn Kháng chưa được
đặt ra trong nghiên cứu này.
Nhấn mạnh cảm quan hiện thực và cái nhìn nhân đạo đối với con người,
Nguyễn Ngọc Thiện cho rằng, đặc điểm phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Ma
Văn Kháng là "phong cách hiện thực - cảm thương, từng trải, tinh tế mà gan ruột,
28
đằm thắm" [166, tr. 460]. Đoàn Trọng Huy trong Ngọn cờ đổi mới có sức vẫy
gọi đánh giá Ma Văn Kháng là một "phong cách hào sảng... đa dạng mà nhất
quán" [57, tr. 107]. Từ nghiên cứu về nhân vật trí thức trong tiểu thuyết Ma
Văn Kháng, Đỗ Hải Ninh nhận ra ở Ma Văn Kháng mô ̣t phong cách "đủ ng đỉnh... nhìn trước ngó sau xuyên sâu từng ngõ ngách và lí giải " [143, tr. 294]. Một số nhà nghiên cứu như Trần Tế, Trần Cương, Trần Thế Phiệt, Lã Nguyên
cũng đề cập đến vấn đề phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng. Chúng tôi cho
rằng, những nhận định này có giá trị gợi dẫn luận án khi nghiên cứu một tài
năng văn chương giàu sức sáng tạo, có gia tài nghệ thuật phong phú, dày dặn.
Tuy nhiên, như trên đã nói, các nghiên cứu về phong cách nghê ̣ thuâ ̣t nhà văn ở thể loại tiểu thuyết mớ i dừ ng la ̣i ở nhâ ̣n đi ̣nh trên nét lớ n , chưa có công , thể loa ̣i trình đi sâu nghiên cứu phong cách nghệ thuật của Ma Văn Kháng
tiểu thuyết mô ̣t cách hê ̣ thống để chỉ ra những nét đô ̣c đáo củ a nhà văn ở thể loại này . Để xác định được đặc điểm phong cách của Ma Văn Kháng trong
thể loại tiểu thuyết với ý nghĩa như một cấu trúc chỉnh thể chúng tôi thấy có
một số vấn đề.
Thứ nhất, Ma Văn Kháng là một nhà tiểu thuyết nhưng đồng thời cũng
là một cây bút truyện ngắn tài hoa, gần đây với Phút giây huyền diệu lại trở
thành một cây bút lí luận phê bình khá sắc sảo. Ở thể loại tiểu thuyết, trong
một tác phẩm có thể thấy một Ma Văn Kháng với nhiều giọng điệu, bút pháp
khác nhau. Có nên xem đó là một hiện tượng đa phong cách hay không, hay
đó là những phương diện khác nhau trong một phong cách thống nhất. Muốn
vậy phải có sự phân tích rõ ràng về từng thể loại trong hệ thống các sáng tác
của nhà văn theo từng giai đoạn cụ thể.
Thứ hai, có thể coi sự chuyển đổi không gian sống và làm việc là bước
ngoặt trong cuộc đời sáng tác của nhà văn hay không? (Giả thiết ngược lại
nếu không có bước chuyển đổi đó thì có một Ma Văn Kháng của ngày hôm
nay không?) Giữa hai giai đoạn ấy, đâu là bước chuyển tiếp? Giữa hai giai
đoạn ấy, đâu là những đặc điểm mang tính bền vững nhất quán, đâu là sự vận
29
động biến đổi trong tư duy nghệ thuật. Cái gì ẩn kín đằng sau những gì đã
phát lộ trong những trang viết.
Thứ ba, nhìn trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam hiện đại từ
sau 1975, Ma Văn Kháng là một trong số những người đi tiên phong đổi mới
văn học, nhưng dường như ông vẫn kiên trì một lối đi riêng, "một mình một
ngựa". Không giống Nguyễn Minh Châu viết "để tìm lại chính mình" (Sắm
vai), hay như Nguyễn Khải "tự thú" (Nghề văn cũng lắm công phu), hoặc như
Nguyễn Huy Thiệp "giải thiêng" (Kiếm sắc, Vàng lửa) để hướng tới phần bản
năng nhất của con người. Cũng không giống Bảo Ninh (Thân phận tình yêu)
lấy chiến tranh làm nền để con người bộc lộ nhân tính. Ma Văn Kháng kiên
nhẫn viết để bảo vệ "cái đẹp thuộc về con người", nghiêng về những giá trị cổ
truyền, cách ứng xử của Ma Văn Kháng qua tiểu thuyết luôn khám phá tiềm
năng của con người trong dòng đời cuộn chảy từ ô cửa gia đình nhìn ra xã
hội,có lúc ông đã tự nhận mình như là Don Kihote, phải chăng chính những
điều này đã làm nên hiện tượng phong cách Ma Văn Kháng?
TIỂU KẾT
Khảo sát phong cách nghệ thuật và các nghiên cứu về tác giả Ma Văn
Kháng ở thể loại tiểu thuyết, chúng tôi cho rằng, giải quyết được những nội
dung còn vướng mắc chính là con đường tìm đến phong cách tác giả. Trên cơ
sở tiếp thu đóng góp của người đi trước, chúng tôi có tham vọng đặt một cái
nhìn toàn diện hơn về phong cách thể loại tiểu thuyết của nhà văn giàu sức
sáng tạo này. Luận án hy vọng sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu, tìm hiểu
phong cách nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng từ tác phẩm đầu tiên
đến tác phẩm gần đây nhất trong độ dài hơn nửa thế kỉ cầm bút của nhà văn.
Trọng tâm của luận án là phân tích, lí giải những cống hiến của nhà văn đối
với sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại ở phương diện thể loại tiểu
thuyết, lí giải cơ sở xã hội của cống hiến ấy, chứng minh bằng lí luận và thực
tiễn sáng tác của nhà văn ở các phương diện: quan niệm nghệ thuật, bút pháp
xây dựng nhân vật, ngôn từ và giọng điệu.
30
Chương 2
CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁ NG
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHONG CÁCH TIỂU THUYẾT MA
VĂN KHÁNG
2.1.1 Con đường dẫn đến phong cách nghệ thuật nhà văn
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc
Việt Nam, cùng với sự kiện lịch sử này, một nền văn học mới cũng được khai
sinh - nền văn học cách mạng. Từ 1945 đến 1975 nền văn học ấy đã tồn tại
trong điều kiện lịch sử đặc biệt: kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ bảo vệ
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Từ 1975 đến nay, văn học Việt Nam đã
chuyển dần sang giai đoạn mới với những quy luật mới. Chiến tranh kết thúc
nhưng những hậu quả của nó đã để lại thì không phải ngày một ngày hai có
thể khắc phục. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và tái thiết đất nước với
muôn vàn khó khăn thử thách đã đặt dân tộc Việt Nam trước yêu cầu phải lựa
chọn một cách khẩn thiết: đổi mới để đáp ứng quy luật phát triển. Đại hội
Đảng lần thứ VI đã chính thức đặt vấn đề: "Đổi mới là con đường vươn lên
đáp ứng đòi hỏi của thời đại, đối phó thắng lợi với mọi thử thách, đáp ứng
những nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đối với đất nước ta, đổi mới có ý
nghĩa sống còn" [23, tr. 124]. Trong bối cảnh lịch sử ấy, văn học Việt Nam
tuân theo đòi hỏi khách quan của lịch sử và đòi hỏi chủ quan của người nghệ
sĩ trong hành trình sáng tạo đã bắt đầu một công cuộc đổi mới đầy thách thức
trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX. Từ sau công cuộc đổi mới
đến nay, văn học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Kế thừa những công trình đánh giá tổng kết về sự phát triển của văn
học cách mạng Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, nhìn một cách bao
quát chặng đường 70 năm phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến
nay, chúng tôi nhận thấy, diện mạo chung của văn học Việt Nam có một sự
vận động và phát triển không ngừng cả về chất và về lượng. Sự vận động đó
thể hiện ở các phương diện: văn học và đời sống xã hội; nhà văn và bạn đọc;
31
vấn đề quan niệm nghệ thuật, thể tài, thể loại, thi pháp, phong cách thời đại và
phong cách cá nhân. Xu hướng của sự vận động đó chính là hướng tới những
giá trị nhân bản và phổ quát của nhân loại. Đặt Ma Văn Kháng trong sự vận
động nội tại của văn học qua những giai đoạn cụ thể ứng với những chặng
đường sáng tác để có cơ sở hơn trong xác định kiểu lựa chọn hay nói cách
khác con đường dẫn đến phong cách nhà văn ở thể loại tiểu thuyết.
Nhìn lại chặng đường hơn nửa thế kỷ sáng tạo nghệ thuật của nhà văn
có thể thấy tham gia vào con đư ờng hình thành tư tưở ng nghê ̣ thuâ ̣t Ma Văn Kháng có những nguyên nhân khách quan và chủ quan mang tính quy luật tất
yếu. Sống trong mô ̣t thờ i đa ̣i li ̣ch sử có vô vàn những sự kiê ̣n lớ n lao tác đô ̣ng đến tâm não của chính mình , Ma Văn Kháng đã xác lâ ̣p cho mình mô ̣t con đườ ng tư tưở ng thẩm mỹ riêng . Tư tưở ng nghê ̣ thuâ ̣t củ a Ma Văn Kháng vì vâ ̣y nó vừ a l à cái bên trong mă ̣c đi ̣nh đồng thờ i còn là quá trình vâ ̣n đô ̣ng luôn luôn không ngừ ng, lâu dài và nỗ lực chiếm lĩnh hiê ̣n thực đờ i sống.
Ma Văn Kháng bắt đầu sự nghiệp cầm bút từ 1961 với truyện ngắn
Phố cụt, sau đó là các tập truyện ngắn: Xa Phủ (1969), Chim họa mi (1972),
Người con trai họ Hạng (1972), Mùa mận hậu (1972), Cái móng ngựa
(1973), Bài ca trăng sáng (1974). Chim én (1975)... liên tiếp ra đời cho thấy
Ma Văn Kháng là một nhà văn có biệt tài về thể loại này. Hơn mười năm sau,
con đường tiểu thuyết của ông mới thực sự bắt đầu từ Gió rừng (1977) - một
tác phẩm viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân các dân
tộc vùng cao Tây Bắc Tổ quốc. Tuy nhiên, là tiểu thuyết đầu tay, Gió rừng
không tránh khỏi những hạn chế về nội dung và nghệ thuật, chỉ đến Đồng bạc
trắng hoa xòe (1979), tư cách nhà tiểu thuyết Ma Văn Kháng mới được khẳng
định chắc chắn. Từ đó đến nay, hàng chục tác phẩm ra đời cùng rất nhiều
truyện ngắn, tất cả cho thấy một tài năng nghệ thuật hiếm có, một nhân cách
nghệ sĩ kiên cường, trong sáng và đạo đức. Cơ sở hình thành phong cách nghệ
thuật tiểu thuyết Ma Văn Kháng qua khảo sát sáng tạo của nhà văn ở thể loại
tiểu thuyết, theo chúng tôi, một mặt do sự lựa chọn của chính nhà văn trước
32
cuộc sống, mặt khác nó chịu ảnh hưởng sâu sắc trước sự vận động nội tại của
nền văn học cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn cụ thể. Kế thừa nghiên
cứu của người đi trước về phương diện lý luận và văn học sử, chúng tôi không
đi sâu vào các yếu tố khách quan, bởi, theo chúng tôi, các yếu tố về bối cảnh
xã hội chung để nuôi dưỡng tài năng nghệ thuật cho các nhà văn cách mạng
thế hệ thứ ba như Ma Văn Kháng đã được nghiên cứu và tìm hiểu rất sâu,
chúng tôi đi tìm hiểu những tiên cảm của nhà văn qua các tiểu thuyết ở từng
chặng đường cụ thể để thấy được sự hình thành phong cách nghệ thuật độc
đáo. Điều gì là ổn định bền vững và điều gì là vận động phát triển. Xuất phát
từ đó, chúng tôi xác định các chặng chính trong sự nghiệp sáng tạo của Ma
Văn Kháng (ở thể loại tiểu thuyết), xem xét và đánh giá những chặng này để
tìm ra những nét cơ bản, định hình, định danh phong cách nghệ thuật nhà văn,
từ đó phát triển nghiên cứu cho các chương kế tiếp.
2.1.2. Những chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn kháng nhận thấy đó là một quá
trình lao động nghệ thuật không ngừng nghỉ, luôn nỗ lực tìm kiếm những giá
trị mới. Ở thể loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn
giương cao ngọn cờ đổi mới, sáng tác của ông góp phần không nhỏ đánh dấu
sự phát triển của thể loại tiểu thuyết Việt Nam từ sử thi sang thế sự đời tư,
cùng với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn
Kháng đã đi trước trong công cuộc đổi mới văn học (1986), căn cứ vào thực
tế sáng tác của Ma Văn Kháng ở thể loại tiểu thuyết chúng tôi tạm thời chia
thành hai giai đoạn và lấy tác phẩm làm ranh giới phân đoạn.
2.1.2.1. Từ "Gió rừng" đến "Vùng biên ải"
Giai đoạn này ứng với các tiểu thuyết Gió rừng, Đồng bạc trắng hoa
xòe và Vùng biên ải. Với Gió rừng, từ bản Chin San của người Dao đỏ trên
dãy Hoàng Liên Sơn, Ma Văn Kháng đã đặt ra những vấn đề thiết cốt đối với
đời sống của người dân tộc thiểu số trong công cuộc kháng chiến và xây dựng
đất nước. Sau Gió rừng, đến Đồng bạc trắng hoa xòe, miền đất Lào Cai, vùng
33
đất biên cương của Tổ quốc, qua tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã trở thành
một không gian nghệ thuật đặc biệt - không gian mang tính chất sử thi đậm
chất dân tộc miền núi. Thời gian nghệ thuật là những năm đầu tiên sau Cách
mạng tháng Tám, 1946 đến 1947, toàn bộ Lào Cai, từ thị trấn đến các huyện
lỵ đã trở thành một khu cứ điểm tồn tại cùng lúc rất nhiều thế lực phản cách
mạng: các thổ ty, lãnh chúa phong kiến, tàn quân của thực dân Pháp, Quốc
dân đảng, Tàu Tưởng. Không khí chính trị ở nơi này vô cùng hỗn loạn. Tiểu
thuyết sử thi của Ma Văn Kháng đã bám sát những sự kiện lịch sử đó, tái hiện
lại một thời đoạn quá khứ dữ dội bi hùng của mảnh đất Lào Cai. Đồng bạc
trắng hoa xòe bắt đầu bằng sự kiện Triệu Đại Lộc, Vũ Khanh, những kẻ đứng
đầu Quốc dân đảng ở Lào Cai, lợi dụng tình hình đảo chính lật đổ Ủy ban
nhân dân lâm thời khi cách mạng vừa đặt chân lên vùng đất này, bắt bớ các
chiến sĩ cách mạng, đối đầu với thổ ty hòng chiếm địa vị cao nhất, thống trị
toàn bộ Lào Cai, tham vọng vươn cánh tay dài ra thâu tóm toàn bộ vùng Tây
Bắc của Tổ quốc. Lào Cai thất thủ, chính quyền rơi vào tay Quốc dân đảng,
các chiến sĩ cách mạng và những người dân yêu nước bị bắt, bị tra tấn dã
man… tất cả ở trong một trạng thái căng thẳng tột độ. Chính trong lúc ấy, sự
kiện Lê Chính và các cán bộ Việt Minh đi vào vùng thổ ty, lãnh chúa vận động
họ ủng hộ cách mạng, chống Quốc dân đảng, thực dân Pháp, Tàu Tưởng, giải
phóng đất nước đã thay đổi cục diện chính trị. Nhận rõ chân tướng của Quốc
dân đảng và quân Đồng minh, các thổ ty đã liên kết với cách mạng, chiến đấu
để giải phóng Lào Cai, nhưng chính họ, sau đó, lại rơi vào một âm mưu khác
do thực dân Pháp xúi giục: nổi phỉ - xưng vua, đòi cát cứ lãnh thổ… những sự
kiện dồn dập ấy đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ, thúc giục Ma Văn
Kháng sáng tác những tiểu thuyết sử thi "tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn
ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành
trên một vùng đất thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu" [82, tr. 20].
Nối tiếp cảm hứng sử thi của Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải đi
sâu phân tích sự kiện nổi phỉ, sự cấu kết của thổ ty lãnh chúa phong kiến với
34
thực dân Pháp qua nhân vật Phơ-rô-phông. Trong Vùng biên ải, nhân dân các
dân tộc thiểu số, dưới sự giác ngộ lý tưởng cách mạng, nhận thức sâu sắc về
con đường của dân tộc mình, đã vươn lên, cắt bỏ những ung nhọt, cắt bỏ
những đau thương giằng xé, đi tới hạnh phúc. Nội dung của Vùng biên ải
hướng tới con đường giải phóng dân tộc của cộng đồng thiểu số qua số phận
của những con người cụ thể. Đồng thời thể hiện một cuộc đấu tranh chính
nghĩa chống lại các thế lực phản động, bảo vệ thành quả cách mạng, độc lập,
tự do, hạnh phúc.
Con đường sáng tạo tiểu thuyết của Ma Văn Kháng từ Đồng bạc trắng
hoa xòe tới Vùng biên ải luôn gắn với đời sống lịch sử rộng lớn của nhân dân
các dân tộc miền núi phía Bắc Tổ quốc. Cảm hứng sử thi thể hiện ở sự miêu
tả những sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại liên quan đến số phận cộng
đồng, qua chân dung những nhân vật phi thường mang ý nghĩa con người tiêu
biểu của thời đại cách mạng vô sản Việt Nam ở không gian biên ải, ở việc chỉ
ra con đường tất yếu của nhân dân các dân tộc thiểu số đấu tranh thoát khỏi
cường quyền, thần quyền, định kiến hủ tục u mê tăm tối, tiễu phỉ gian nan khổ
ải, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Các tác phẩm đã tạo nên
những bức tranh hoành tráng về vùng đất biên cương Tổ quốc, tạo dựng chân
dung những con người quả cảm mà kiêu hãnh dám sống, dấn thân và hy sinh
cho lí tưởng ở những giai đoạn cụ thể. Đọc các tiểu thuyết này ta còn cảm
nhận được những dấu ấn đậm bản sắc dân tộc miền núi mà phong phú hơn cả
chính là đời sống văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc Mông. Những
trang viết của Ma Văn Kháng về chế độ thế tập phiên thần, về tập tục cướp
vợ, về tục cúng trình ma, về quan niệm trọng nam khinh nữ, về gái gầu
phàng... Rồi nhỏ hơn: về bữa ăn thường nhật, trang phục của người Mông, về
đôi mắt người con gái Mông... tất cả thật sống động, hấp dẫn. Những trang
viết của Ma Văn Kháng về thời đoạn lịch sử ấy cho đến hôm nay ngoài ý
nghĩa văn học, vì nội dung trên, còn bao hàm những ý nghĩa văn hóa, lịch sử,
dân tộc học vô cùng sâu sắc. Có thể nói rằng, ngay ở thời điểm đó Ma Văn
35
Kháng đã đặt ra những vấn đề về bản sắc văn hóa dân tộc và quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, khi mà vấn đề tự do đã được giải quyết thì đây chính là vấn
đề thiết cốt với một đất nước có nhiều dân tộc anh em chung sống.
Ở giai đoạn đầu, các sáng tác tiểu thuyết sử thi của Ma Văn Kháng đã
định hình một phong cách nghệ thuật tiểu thuyết đậm chất dân tộc miền núi,
cường tráng và khỏe mạnh, tuy có thiên về mô tả sự kiện, các nhân vật chưa
đi đến tận cùng của phát triển tâm lý, còn nặng về phân chia địch - ta, nhưng
những tiểu thuyết này đã định danh nhà tiểu thuyết Ma Văn Kháng, nhà văn
của vùng biên ải và những tâm hồn thiểu số vùng cao Tây Bắc Tổ quốc.
2.1.2.2. Từ "Mưa mùa hạ" đến "Bến bờ"
Rời Lào Cai về Hà Nội, thay đổi không gian sống, môi trường làm
việc, các mối quan hệ, cuộc sống thành thị mở ra trước mắt Ma Văn Kháng
với tất cả những bộn bề, phức tạp của nó. Nhanh chóng thích ứng và nhập
cuộc với đời sống văn học ở thành thị, quãng thời gian này, sức sáng tạo của
Ma Văn Kháng bừng lên dữ dội, mãnh liệt, hàng trăm truyện ngắn ra đời cùng
các tiểu thuyết Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có
giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Chó Bi, đời lưu lạc, Côi cút giữa cảnh đời
gây sóng gió trong dư luận chứng tỏ một tư duy nghệ thuật năng động, bút lực
dồi dào, cảm quan thẩm mỹ thức thời gắn bó với cuộc sống. Từ Mưa mùa hạ,
thành thị đã trở thành một trong những nguồn cảm hứng chính trong sáng tác
của nhà văn và chính những tác phẩm trong giai đoạn này đã khẳng định sự
phong phú đa dạng trong bút ph áp và bút lực của tiểu thuyết gia Ma Văn
Kháng trước hiện thực đời sống thời mở cửa.
Từ tiểu thuyết sử thi sang tiểu thuyết thế sự đời tư, từ đề tài miền núi
dân tộc thiểu số sang đề tài thành thị với những tiêu cực trong cuộc sống hàng
ngày, Ma Văn Kháng đi sâu mổ xẻ, phân tích, khám phá những vấn đề đang đặt
ra trong xã hội một cách sâu sắc và đầy bản lĩnh. Đó là vấn đề gia đình với các
thế hệ cùng chung sống, vấn đề người trí thức với mẫu hình và sự phá hủy mẫu
hình, con người tha hóa nghịch dị trước dòng xoáy của ham muốn đời thường,
36
con người với những ngẫu nhiên không thể biết trước trong dòng chảy cuộc
đời, bi kịch cá nhân và những ẩn ức tâm lý, trẻ em trước những bi kịch gia
đình, tình yêu, hôn nhân... Qua những trang tiểu thuyết nhà văn trả lời cho
mình và đối thoại với bạn đọc về những vấn đề đó, có thể đưa ra kiến giải hoặc
còn bỏ ngỏ nhưng ở những thời điểm xuất hiện, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
thật sự đã đem đến những góc nhìn mới về con người và cuộc sống đương đại.
Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú và Ngược
dòng nước lũ là bước tiến dài trong tư duy và kỹ thuật tiểu thuyết của nhà văn
từ tiểu thuyết sử thi sang thế sự đời tư. Xoáy vào bi kịch của người trí thức
trong dòng chảy đời thường, nhà văn đã đối thoại với độc giả về hình mẫu
người trí thức trong hiện thực xã hội những năm 90 của thế kỷ XX. Họ có học
vấn, có nhân cách thanh cao, có tự trọng... nhưng dường như lạc lõng, đôi lúc
thành bi quan, yếm thế. Trong gia đình, tiếng nói của họ bị mờ nhạt vì sức
mạnh đồng tiền, ngoài xã hội bị vùi dập bởi quyền lực từ những kẻ mạo danh,
đội lốt trí thức. Luận trong Mùa lá rụng trong vườn, Tự trong Đám cưới
không có giấy giá thú, Khiêm trong Ngược dòng nước lũ có ý nghĩa nhất định
trong việc đánh dấu sự thay đổi ý thức và tư duy tiểu thuyết về mẫu hình nhân
vật trí thức hiện đại. Qua miêu tả, phân tích các nhân vật, Ma Văn Kháng cho
thấy tính chất đơn nhất của mẫu hình nhân vật này. Sự xuất hiện những nhân
vật phản trí thức, mạo danh, đội lốt như Cẩm, Dương, Thuật trong Đám cưới
không có giấy giá thú có ý nghĩa phản tỉnh sâu sắc đối với xã hội về sự tha
hóa của con người trong xã hội đương đại trước sức mạnh của danh vọng,
quyền lực và giá trị vật chất. Chó Bi, đời lưu lạc và Côi cút giữa cảnh đời đi
sâu miêu tả những số phận bất hạnh của trẻ em trong vòng xoáy của đời sống
thị thành, thể hiện những suy tư, trăn trở của nhà văn về sự xuống cấp của đạo
đức, lo lắng cho số phận của phụ nữ và em nhỏ giữa một dòng đời đầy bất
trắc đang rình rập, coi trọng nền tảng giá trị đạo đức cổ truyền. Có thể nói,
những tiểu thuyết ở giai đoạn này đã cho thấy một Ma Văn Kháng của đời
sống thị dân Hà Nội những năm 90 thế kỷ trước vô cùng sinh động, hấp dẫn.
37
Ở giai đoạn thứ hai này nhà văn có những tác phẩm mang tính chất
hồi cố, như là "tìm lại thời gian đã mất" (chữ dùng của M. Froust). Ba tác
phẩm: Trăng non, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Một mình một ngựa quay trở lại với
đề tài dân tộc miền núi nhưng bằng góc nhìn mới, góc nhìn cá nhân dù vẫn
bám sát những sự kiện ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cộng đồng. Trăng non
là câu chuyện về Vàng A Chảo - một gã trai Mèo hiền lành, từng đi lính dõng
cho Pháp, bị Săng, Chăng, Ký (những kẻ phản động) mua chuộc, đe dọa,
"giam trong rừng mười lăm năm" [78, tr. 233], thành thổ phỉ, A Chảo vẫn nhớ
tiếc cuộc sống gia đình, nhớ Seo Di người vợ của y đã vì y mà khổ sở, mất cả
tuổi thanh xuân. A Chảo lầm lạc chứ không tàn độc, hung hãn nên với nhân
vật này, con đường của y chính là sự trở về với gia đình và cộng đồng. Sự trở
về của A Chảo là câu trả lời duy nhất đúng để kết thúc chặng đường bao
nhiêu năm lang bạt, cô đơn nơi rừng rú, kết thúc những ngày tháng đe dọa bản
làng. Giải quyết số phận nhân vật thổ phỉ, Ma Văn Kháng đã thể hiện một cái
nhìn mang tính nhân bản sâu sắc đối với con người ở phía đối lập. Đồng thời
nhà văn đã chỉ ra một quy luật của đời sống: cái ác tất yếu sẽ phải đền tội, con
người dù bị cô lập, bị lợi dụng, bị lừa bịp đến đâu, ngu muội và cuồng tín đến
đâu, chất người, khát vọng sống lương thiện vẫn chiến thắng tất cả.
Gặp gỡ ở La Pan Tẩn viết về người giáo viên miền xuôi lên Lào Cai
xóa mù diệt dốt những năm 70 của thế kỷ trước. Từ những trải nghiệm về
cuộc đời nhà giáo của mình, Ma Văn Kháng đã tạo dựng được một hình mẫu
trí thức tuyệt đẹp. Cắm bản, mở trường, hết lòng tận tụy vì sự nghiệp lâu đài
văn hóa La Pan Tẩn, nhưng không theo khuynh hướng sử thi, tác giả đã cho
nhân vật của mình rơi vào những bi kịch đau đớn: mâu thuẫn với lãnh đạo,
công sức xây trường bị hủy hoại, chứng kiến lối sống đồi bại, trác trụy, đạo
đức giả của cấp trên, trường học bị đốt phá, những người thân yêu bị tha hóa,
bị bức tử, bị lăng mạ, khinh miệt. Bi kịch lên đến đỉnh điểm khi Thiêm bị vu
khống, hãm hại, phải trở về quê với án kỷ luật, bị hắt a xít vào mắt… Câu
chuyện là nỗi cay đắng, phẫn nộ của một nhân cách bị vùi dập, bị đọa đầy bởi
38
những kẻ mạo danh, đội lốt điều cao cả nhưng vẫn luôn tin tưởng vào con
đường mà mình lựa chọn, không vì thế mà gục ngã hay tha hóa biến chất.
Một mình một ngựa là sự hồi tưởng lại ký ức tuổi trẻ của nhân vật
Toàn, hiện thân của tác giả, thư ký riêng cho bí thư tỉnh ủy Quyết Định ở
không gian biên ải những năm chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với
một độ lùi đủ dài về thời gian, không gian, Toàn nhìn nhận lại tất cả những gì
đã trải qua, những bi kịch mà lâu nay bị hào quang che phủ. Toàn nhìn thấy ở
tất cả những con người cùng thời, hình như họ đều bị đặt nhầm chỗ, đóng
những vai không vừa với chính mình, với những phẩm chất mà mình đang có.
Một mình một ngựa không phủ nhận sạch trơn, mà vẫn nhìn thấy những giá trị
tích cực của những con người thời đó đã làm được, đã cống hiến cho đất
nước. Một mình một ngựa là tiểu thuyết có yếu tố tự truyện nhưng thế giới
nghệ thuật trong tác phẩm không phải là sự sao chép và tái hiện y nguyên hiện
thực. Với một mong muốn vẽ lại chân dung những con người và chính mình
trong một thời đoạn lịch sử đầy biến động trên một tinh thần thực sự cầu thị,
gọi tên đúng sự vật, không tô hồng, huyền thoại hóa nhân vật cũng không bôi
đen và bóp méo họ, tác phẩm thực sự là một tiếng nói phản tỉnh và nhận thức
lại có ý nghĩa tích cực trong dòng văn học hướng nội đương đại.
Bóng đêm và Bến bờ là những trải nghiệm mới của Ma Văn Kháng
trong những năm gần đây nhất ở phương diện thể loại tiểu thuyết thế sự đời tư
về đề tài hình sự tâm lý. Vượt qua logic thông thường của thể loại, không sa
đà vào việc khai thác các tình tiết giật gân câu khách mà bằng một "nghệ
thuật tự sự tổng hợp mới" (Nguyễn Ngọc Thiện), nhà văn đã đưa người đọc
đến với thế giới nghệ thuật phong phú, đầy bất ngờ và hấp dẫn, khám phá
những nguyên nhân tội ác trong xã hội hiện đại. Viết về những thử thách lớn
lao và quyết liệt nhất trước sự sống và cái chết của những người chiến sĩ công
an trên mặt trận chống tội phạm hình sự, đấu tranh chống lại cái ác đang
hoành hành dữ dội, về cuộc sống với những thua thiệt, đớn đau và cái chết
của họ, Ma Văn Kháng đã đặt ra những vấn đề quan trọng về giá trị sống,
nhân cách của con người trong xã hội đương đại.
39
Quan sát quá trình sáng tạo tiểu thuyết, ở từng giai đoạn cụ thể, chúng
tôi nhận thấy, tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng luôn có sự vận động theo
chiều hướng hiện đại hóa và chứa đựng tinh thần nhân bản sâu sắc. Sự vận
động này thể hiện qua sự lựa chọn những vấn đề của cuộc sống con người,
tìm tòi và khám phá bản chất cuộc sống vượt lên trên khuôn khổ của đề tài
phản ánh. Qua cách nhìn đời, nhìn người trong sáng, không cay nghiệt hay
miệt thị con người dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Các tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng là kết quả của những nỗ lực không ngừng của nhà văn trong công
việc lao động nghệ thuật nhọc nhằn vất vả mà ông tự nguyện dấn thân. Chính
những điều đó đã khiến cho tiểu thuyết Ma Văn Kháng luôn có vị trí đặc biệt
trong lòng độc giả suốt mấy chục năm qua.
2.2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
Vấn đề quan niệm nghệ thuật của một nhà văn có ý nghĩa rất quan
trọng bởi nó quyết định chỗ đứng của anh ta trong hành trình sáng tạo nghệ
thuật. Là một nhà văn nhưng bên cạnh những sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn
Kháng còn có rất nhiều đóng góp cho văn học đương đại ở phương diện lý
luận qua hệ thống quan niệm nghệ thuật độc đáo về văn chương, con người và
cuộc sống. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi hướng tới làm rõ quan
niệm của nhà văn về văn chương và con người.
2.2.1. Quan niệm về văn chương
Trong tư tưởng nghệ thuật của Ma Văn Kháng, quan niệm về văn
chương có một vị trí quan trọng. Những quan niệm này được bộc lộ dưới hai
dạng thức.
Một là, trực tiếp qua những tiểu luận phê bình và nghiên cứu mang tính
chất lý luận, những phát biểu tại các hội nghị, hội thảo văn học trong và ngoài
nước, những bút ký, trả lời phỏng vấn, đáng chú ý là: Dấu hiệu của dân chủ cởi
mở (1990); Cao hơn cả là tình yêu (1995); Ngẫu hứng và tự do sáng tạo (1994);
Thuận theo người mà không bỏ mình (1992); Nền văn học của dân tộc (1997);
Lào Cai, miền đất vàng (2001); Yêu nghề mà đến với nghề (1997); Những năm
tháng tập rèn (1992)... và gần đây là tập tiểu luận Phút giây huyền diệu (2012).
40
Hai là, quan niệm nghệ thuật được bộc lộ gián tiếp thông qua thế giới
nghệ thuật trong các tiểu thuyết. Có thể được phát biểu qua lời nhân vật, lời
bình giá trữ tình ngoại đề của người kể chuyện...
Ở cả hai dạng thức, chúng tôi nhận thấy mối quan tâm của Ma Văn
Kháng được tập trung các vấn đề: bản chất của văn chương; cá tính và lao
động sáng tạo; cảm hứng nghệ thuật... Qua những mối quan tâm ấy, ở những
giai đoạn nhất định, nhà văn đã thể hiện quan niệm văn chương đáp ứng nhu
cầu thẩm mỹ của thời đại, vừa thỏa mãn khát vọng cá nhân của chính ông
trong sáng tạo nghệ thuật.
2.2.1.1. Về bản chất của văn chương
Ở giai đoạn đầu sáng tác, cũng như các nhà văn cùng thời, Ma Văn
Kháng chịu ảnh hưởng của nguyên lý văn học phản ánh hiện thực cho nên các
tiểu thuyết của ông vì thế, theo xu hướng chung của thời đại, đậm màu sắc sử
thi và lãng mạn. Vấn đề quan niệm nghệ thuật là một sự tự giác trong ý thức
được phản ánh qua tác phẩm với thế giới nghệ thuật của nhà văn, chưa có
những phát ngôn mang tính chất lý luận về vấn đề này.
Ở giai đoạn thứ hai, nắm bắt được yêu cầu đổi mới mang tính chất
sống còn của văn chương trước sự đổi thay của đời sống xã hội, trong tiểu
luận Dấu hiệu dân chủ cởi mở, Ma Văn Kháng cho rằng:
Văn học 1945- 1975 lấy cảm hứng sử thi làm chủ đạo, tức là
lấy cái hoàn thành làm để chiêm ngưỡng thì nay đối tượng của nó là
cái đương đại chưa hoàn thành. Chất liệu mới, đối tượng mới,
phương thức tiếp cận cũng mới. Văn học không còn là lời phán
truyền xa cách, khả kính. Nó là tiếng nói của sự kiếm tìm liên tục,
là sự giao tiếp, thân mật, suồng sã [64].
Ý kiến trên, trong bối cảnh văn học lúc bấy giờ, đó là một bước tiến
dài trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Chính tư duy ấy đã thúc đẩy ông sáng
tạo nên những tiểu thuyết mang đậm dấu ấn và phong cách thời đại sâu sắc
như Mưa mùa hạ, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ trong
41
khi một số nhà văn cùng thời vẫn chưa theo kịp nhịp sống thời bình với tất cả
những phức tạp của nó. Đồng thời, để không xa rời cuộc sống, nhà văn cho rằng
"văn học phải trải qua một sự hóa thân đau đớn... Nó phải rũ khỏi hạn chế của
thói thủ cựu, trì trệ, sự hời hợt nhân danh này nọ, ra khỏi sự sĩ diện, thói quen
bao cấp trong tư duy. Làm quen với đời sống dân chủ, biết day dứt, vật vã,
đớn đau" [64]. Từ vấn đề tư tưởng, Ma Văn Kháng hướng tới những giá trị nghệ
thuật đích thực, với ông, văn chương là "mảnh đất lưu giữ hình bóng cuộc đời
được nhìn nhận bằng thực tại chủ quan... một thực tại chủ quan liên hệ mật
thiết với các đơn vị ngôn ngữ nghệ thuật và thời gian" [84, tr. 155]. Ông khẳng
định văn chương "thu hút sự chú ý của người đọc vì nuôi dưỡng được mối hồ
nghi thích thú của họ từ chương đầu đến chương cuối trong một diễn tiến thỏa
sức trôi dạt vào các miền huyền ảo của trí tưởng tượng" [84, tr. 155].
Trong Ngược dòng nước lũ, qua lời trữ tình ngoại đề, Ma Văn Kháng
đã bộc lộ quan niệm của mình về văn chương một cách sâu sắc. Theo ông,
văn chương "chỉ có mỗi một nhiệm vụ duy nhất là miêu tả con người một
cách văn chương. Nó tự nhiên như đời sống vì nó chính là đời sống. Chi phối
nó chỉ một sức mạnh duy nhất là đời sống... con người nhờ văn chương nhận
ra mình ở những tầm kích chưa từng thấy" [84, tr. 149], và "văn chương quý
nhất là ở tính tự nhiên, kỵ nhất thói cơ hội" [84, tr. 150]. Với quan điểm này,
Ma Văn Kháng đã chống lại thứ văn chương chạy theo thị hiếu đám đông, thứ
văn chương theo thời, không hướng tới những giá trị lâu bền và phổ quát. Theo
ông, văn chương là nơi thể hiện rõ nhất chân giá trị của người cầm bút, nó thể
hiện kiến văn, kinh nghiệm sống, tư duy về đời sống, lối cảm, cách nghĩ...
không thể giấu mình trong sáng tạo văn chương. Nó là một cuộc chơi chữ
nghĩa trí tuệ giữa nhà văn với bạn đọc, nhà văn với cuộc đời và nhà văn với
chính mình, nhìn vào tác phẩm, người đọc thấy được gương mặt tinh thần của
nhà văn và thời đại anh ta đang sống.
Ma Văn Kháng luôn đề cao tính phức điệu của văn chương khi miêu
tả hiện thực đời sống, cùng với nó, ông khẳng định tình nhân ái và sự chân
42
thật mới là yếu tố sống còn của văn học. Ông quan niệm "văn học chính là nỗi
buồn về cái đẹp, về lý tưởng, về nỗi đau giằng xé, về số phận con người, là sự
cắn rứt lương tri không yên, là cuộc đấu tranh nội tâm giữa hai phần sáng -
tối, giữa thiện và ác, khi con người có khả năng phân đôi" [64]. Trong tham
luận Nền văn học của dân tộc, Ma Văn Kháng cho rằng:
Văn học là tiếng nói tâm hồn, tâm thức dân tộc, cái phần bất
biến, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác... suy tư chiêm nghiệm
về số phận con người, về con đường đi của nhân loại, về những
thăng trầm của lịch sử, về ý nghĩa cuộc đời, sẽ khám phá kỹ lưỡng
hơn những u uẩn của trái tim, cái hợp lý và nghịch lý chi phối hành
động, ý thức và cõi vô thức [72].
Từ ý kiến trên, Ma Văn Kháng đã bộc lộ khát vọng về nền văn học
của dân tộc trong thời đại mới. Đó là khát vọng về một nền văn chương mang
tính chất nhân loại đồng thời vẫn có dấu ấn cá nhân sâu sắc khi đi sâu khám
phá tâm hồn con người.
Qua các tham luận, các tiểu thuyết, chọn lọc và phân tích chúng tôi
nhận thấy, quan niệm về văn chương của Ma Văn Kháng ở hai giai đoạn luôn
bám sát yêu cầu của đời sống xã hội, có sự nhất quán trong tư tưởng văn
chương bám sát hiện thực đời sống, khám phá đời sống đồng thời luôn được
bổ sung những giá trị mới trên tinh thần vận động và phát triển theo hướng
nhân bản. Chính những quan niệm văn chương này đã chi phối sáng tạo nghệ
thuật của Ma Văn Kháng ở cả truyện ngắn và thể loại tiểu thuyết. Tất cả được
xác định thành những nguyên tắc sáng tác có ý nghĩa như kim chỉ nam đối với
nhà văn trong lao động sáng tạo nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết nói riêng.
2.2.1.2. Về nguyên tắc sáng tác
Nguyên tắc thứ nhất: "Thôi thúc tôi viết là cái đẹp cuộc sống".
Tôn vinh cái đe ̣p là ý th ức thườ ng tr ực trong tiểu thuyết củ a Ma Văn Kháng, tư tưở ng ấy đã trở thành "nguyên tắc củ a cái nhìn và củ a sự miêu tả thế giớ i" [8, tr. 86] trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Vì nhìn
43
, cho nên chất men say
,
con ngườ i và cuô ̣c sống qua lăng kính củ a cái đe ̣p trong cảm hứ ng sáng ta ̣o củ a Ma Văn Kháng là mô ̣t niềm đam mê mãnh liê ̣t niềm hứ ng khở i vô biên tr ước vẻ đẹp của cuộc đời , trướ c niềm ha ̣nh phú c đươ ̣c làm ngườ i . Điều ông thiết tha trong tất cả các tác phẩm là vươn tớ i cái đe ̣p, ngơ ̣i ca cái đe ̣p , coi cái đe ̣p là chuẩn mực để thẩm đi ̣nh các hiê ̣n tươ ̣ng đờ i sống. Đây chính là nguyên tắc cơ bản mang tính quan niệm chi phối đến sự lựa chọn của nhà văn trước hiện thực cuộc sống và chi phối đến cấu trúc
nhân vật, ngôn từ, giọng điệu của ông trong tiểu thuyết.
Ý thứ c sâu sắc trong tư tưở ng , trên đườ ng sáng ta ̣o , ngay từ đ ầu Ma Văn Kháng đã hư ớng ngòi bút để ca ngơ ̣i cái đe ̣p củ a cuô ̣c sống : cái đẹp của thiên nhiên, của lịch sử đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của con người trong
các sự kiện lịch sử vĩ đại
, trong đờ i sống thườ ng nhâ ̣t vớ i nhữ ng bô ̣n bề lo toan củ a dòng đờ i sinh hóa hồn nhiên . Càng về sau nội lực ngòi bút của ông càng đi sâu khám phá cái đẹp ở bình diện khác , cái đẹp trong thế giới nội tâm
của con người , mô ̣t thế giớ i không thể biết hết , không thể biết trướ c . Ý thức sáng tạo này là cả một quá trình đấu tranh gìn giữ , Ma Văn Kháng tỉnh táo,
thứ c thờ i chứ không a dua theo thờ i bở i tiểu thuyết củ a ông luôn bám sát những vấn đề cuô ̣c sống hôm nay, nhất đi ̣nh không bẻ cong ngòi bú t vì những thị hiếu tầm thường . Đối thoại với ý thức nghệ thuật của thời đại mình đang
sống, ở từng giai đoạn khác nhau, tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng luôn
vận động và bổ sung những nội dung mới.
Ở giai đoạn đầu cầm bút, tiểu thuyết Ma Văn Kháng luôn hướng tới ca
ngợi cái đẹp cao cả mang tính lý tưởng của con người và thời đại cách mạng.
Chiến tranh kết thúc, cuộc sống thường nhật đã trở lại và bắt đầu bằng tất cả
những vấn đề phức tạp của nó mà ở giai đoạn trước người ta có phần né tránh
vì mục tiêu lớn hơn là Tổ quốc; vượt qua những ràng buộc một thời, không
chấp nhận sự tĩnh tại, khuôn mẫu, cứng nhắc trong sáng tạo nghệ thuật, hướng
tới cái đẹp của cuộc đời bình dị, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ở giai đoạn
sau đã đi sâu nghiên cứu, phân tích cuộc sống, con người cá nhân với tất cả sự
44
phồn tạp của nó. Từ những bản hùng ca dữ dội về lịch sử đấu tranh của dân
tộc nơi biên ải, tiểu thuyết của ông đã hướng tới "...nỗi buồn về cái đẹp, về lý
tưởng, về nỗi đau giằng xé, về số phận con người, là sự cắn rứt lương tri
không yên, là cuộc đấu tranh nội tâm giữa hai phần sáng tối, giữa thiện và ác,
khi con người có khả năng phân đôi" [64], tiếng nói đồng cảm của những đớn
đau, thua thiệt cho thân phận con người khi gặp những éo le, ngang trái, bất
công của số phận, từ những điều nhỏ nhặt nhất, nâng lên tầm triết lý nhân sinh
bằng một tiếng nói cá nhân giản dị, trong sáng, hồn nhiên.
Nguyên tắc thứ hai: "Thuận theo người mà không bỏ mình".
Nguyên tắc này được phát biểu trong tham luận của Ma Văn Kháng
đọc tại Hội thảo văn học thế giới ở Copenhagen (Đan Mạch) tháng 8 năm 1992.
Phát biểu này đã công khai bộc lộ nguyên tắc sáng tác của nhà văn sau một
chặng đường trải nghiệm sáng tạo với độ dài 40 năm có lẻ. "Thuận theo người"
là cách nói hình ảnh của Ma Văn Kháng về tinh thần thái độ cầu thị trong
chính nội tâm của người nghệ sĩ. Một hành vi có ý thức trong tiếp nhận người
khác, có nguyên tắc. Bởi, ý niệm về kẻ khác chính là đánh giá soi chiếu bản
thân mình rõ nét nhất. Nếu không có ý niệm về người khác thì cũng không thể
có ý niệm về bản thân. Ma Văn Kháng cho rằng "thuận theo người" không có
nghĩa là mô phỏng, bắt chước mà là "điều kiện để ý thức về dân tộc mình, về bản
thân mình... Mở cửa, giao lưu, biết người khác là quy luật của tồn tại" [66].
Thuận theo người nên Ma Văn Kháng đã tiếp nhận có chọn lọc những tinh
hoa tư tưởng về văn chương chân chính của các vị tiền bối Nguyễn Thượng
Hiền, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Khâm Lân, Hoàng Đức Lương,
Nhữ Bá Sĩ... Ông học được ở các vị tiền nhân ý thức về sứ mệnh chân chính
của người cầm bút trong cuộc đấu tranh với chính mình để vươn tới những giá
trị cao quý. "Thuận theo người" còn là thái độ ứng xử cởi mở trước sự phát
triển của văn học và cuộc sống con người, không bảo thủ và cứng nhắc trong
tư tưởng và sáng tạo nghệ thuật. "Không bỏ mình" bởi ngoài sự cởi mở và
tinh thần tiếp nhận truyền thống và hiện đại, nhà văn phải là người có ý thức
45
sâu sắc về giá trị bản thân mình, có bản lĩnh để giữ vững ngòi bút của mình
trong sáng tạo nghệ thuật. "Không bỏ mình" để giữ được cái tâm trong sáng
khi đối diện với hiện thực, miêu tả, phân tích hiện thực, giữ vững được lập
trường, quan điểm, nguyên tắc sáng tác.
Nguyên tắc thứ ba: "Tôi viết như tôi nghĩ, tôi hiểu, tôi yêu, tôi ghét".
Quan niệm về hành động sáng tác, Ma Văn Kháng không lên gân hay
triết lý tranh biện, trái lại, nhà văn đưa ra những ý niệm rất rõ ràng. "Tôi nghĩ"
là tư tưởng sáng tạo, tư duy nghệ thuật của nhà văn trước hiện thực. "Tôi hiểu" là
nhận thức của nhà văn về văn chương, về con người, về cuộc sống, về sứ
mệnh của người cầm bút với xã hội, với bạn đọc và với chính cá nhân mình.
"Tôi yêu, tôi ghét" là thái độ minh bạch rõ ràng trong văn chương và trong
cuộc sống.
Viết để ca ngợi cái đẹp cuộc sống nên Ma Văn Kháng không tuân theo
những khuôn mẫu định hình, bản thân ông luôn có những sự bứt phá ngoạn
mục về tư duy, kỹ thuật tiểu thuyết trong chính những đề tài mà ông quen thuộc.
Tiểu thuyết của ông có sự biến ảo trong cách khám phá và thể hiện bức tranh
đời sống theo cách riêng và nó phản ánh chính nhận thức, tình cảm, thái độ của
ông trước cuộc sống con người ở từng không gian và thời gian khác nhau. Chẳng
hạn, cùng viết về đề tài dân tộc miền núi, nhưng Đồng bạc trắng hoa xòe
thiên về mô tả sự kiện lịch sử, Vùng biên ải đi sâu phân tích cuộc đấu tranh
nội tâm của con người khi bị đặt trong những hoàn cảnh buộc phải lựa chọn,
Trăng non miêu tả đời sống văn hóa tinh thần của con người biên ải và những
sự kiện mang tính bước ngoặt của cộng đồng và mỗi cá nhân, Gặp gỡ ở La
Pan Tẩn thể hiện một mẫu hình anh hùng trên mặt trận văn hóa giáo dục ở
không gian biên cương, Một mình một ngựa tái hiện ký ức về thời đoạn lịch
sử, ánh hồi quang của quá khứ hào hùng đã qua không trở lại. Viết về đời sống
thành thị và mẫu hình người trí thức nhưng Mưa mùa hạ thiên về thái độ dũng
cảm chống tiêu cực, Đám cưới không có giấy giá thú khám phá người trí thức
trong xung đột với hoàn cảnh sống và các mối quan hệ cá nhân. Mùa lá rụng
46
trong vườn kiên trì bảo vệ thành lũy cuối cùng của cá nhân - gia đình - trước
những biến động xã hội. Ngược dòng nước lũ miêu tả và phân tích cảnh đời
chính trị văn chương với tất cả những cái xấu xa nhơ bẩn của nó và hướng
con người tới cuộc sống có ý nghĩa vượt lên trên giá trị vật chất và danh vọng
tầm thường.
Có thể nói, nếu văn chương là sự dấn thân thì Ma Văn Kháng đã thực
sự hết mình cháy sáng trong từng trang tiểu thuyết. Nhưng là cuộc dấn thân
thì nhất định phải hết mình và "không quan trọng hóa nó" mà luôn giữ "mạch
hồn nhiên". Cái mạch hồn nhiên tươi mát ấy là hơi thở cuộc đời bình dị trong
những trang tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, nó khiến cho tác phẩm và nhân
vật của ông đến với bạn đọc bằng con đường ngắn nhất: sự đồng điệu, khiến
cho tác phẩm của ông không khô khan dù đặt ra những vấn đề triết lý nhân
sinh. Hồn nhiên nên sáng tác của ông không đậm màu sắc duy lý mà thấm
đẫm tinh thần yêu thương con người.
Là sự thể nghiệm của tư duy nghệ thuật nên rất cần đến tích lũy kinh
nghiệm, Ma Văn Kháng cho rằng vốn sống hay "sự từng trải, ngay cả đến một
thiên tài, cũng cần có" [72]. Sáng tác văn chương là sự dấn thân của bản ngã
nghệ thuật cho nên tác phẩm của anh ta sẽ phản ánh trí tuệ, tình cảm, là năng
lực cảm nhận thế giới, vốn ngôn ngữ của nhà văn, không thể ăn theo hay vay
mượn dựa cậy vào người khác. Đó là sự dấn thân anh ta với chính bản thân,
sự đa đoan với bạn đọc, sự giao tiếp với cuộc đời. "Viết văn là trải mình trên
trang giấy, cao hơn cả là vẻ đẹp dung dị sau những sâu thẳm khốc liệt, con
người đã thấm lẽ đời, đạt đến sự cân bằng hài hòa" [73].
Trong sáng tạo văn chương, yếu tố nhân cách là phẩm chất được Ma Văn
Kháng đề cao: "Nhân cách nhà văn cao hơn cả chữ nghĩa. Có nhân cách lớn mới
đủ sức theo đuổi cái công cuộc sáng tạo cực kỳ gian khổ và cô đơn này" [102].
Người nghệ sĩ phải có được cho mình: "Tự do, tự do bên trong của người viết
là bản chất thực sự của sáng tạo, nó là cái quyền tất yếu phải có" [63]. Đề cao
tự do sáng tạo nghệ thuật, coi đó vừa là bản chất, lại vừa là yêu cầu tất yếu đối
47
với người nghệ sĩ - đó là đam mê cháy bỏng, là khát vọng sống mà ông tự
nguyện dấn thân. Ma Văn Kháng đánh giá cao "tính tự do tuyệt đối của nghề
văn" [98, tr. 106]. Con đường nghệ thuật cá nhân được nhà văn đúc kết bằng
những hình ảnh so sánh rất giản dị và gắn với cuộc sống thường nhật:
Có nhà văn phát tiết anh hoa sớm, có người như cây kết trái
muộn. trong quá trình làm nghề, có người gặp may mắn nhiều, có
người gặp rủi ro nhiều. Có người ngay từ trang viết đầu tay, tài
năng đã hé lộ, tác phẩm như một đóa hoa rừng tinh khôi. Có người
cả đời lọ mọ đào giếng dưới lòng đất sâu để khơi nguồn mạch. Có
người tài hoa nằm ở câu chữ hình ảnh. Có người ở năng lực kết cấu.
Có anh sống và viết lủi thủi cô đơn. Có anh viết ồn ào giữa bạn bè
cánh vế [98, tr. 107].
Đặt trong sự vận động ở hai giai đoạn sáng tác, những quan niệm về
hành trình sáng tạo nghệ thuật và phẩm chất của nhà văn rất riêng của Ma
Văn Kháng đã góp phần không nhỏ trong việc định hình phong cách của ông.
Một phong cách viết giản dị, trong sáng, hồn nhiên nhưng vô cùng sâu sắc,
thấm đẫm một tinh thần nhân bản cổ điển mà hiện đại.
2.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người là một vấn đề quan trọng trong
tìm hiểu phong cách nghệ thuật nhà văn. Nếu tìm hiểu quan niệm về văn chương,
luận án chú ý đến những phát ngôn trực tiếp của Ma Văn Kháng, coi đó là
những quan niệm mang tính nguyên tắc chi phối sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn trong thể loại tiểu thuyết thì ở phương diện quan niệm nghệ thuật về con
người, qua sự thể hiện hình tượng nghệ thuật trong các tiểu thuyết, xem đó là
căn cứ chính. Chúng tôi nhận thấy, Ma Văn Kháng là nhà văn có quan niệm
nghệ thuật về con người rất rõ ràng và nhất quán, bộc lộ tính giai đoạn và có
sự vận động biến đổi rất rõ nét, đó là sự vận động từ con người xã hội đến con
người đời tư đặt trong hoàn cảnh cụ thể với tất cả những gì thuộc về chính nó.
48
2.2.2.1. Con người xã hội
Văn ho ̣c Viê ̣t Nam t ừ sau Cách mạng tháng Tám là một nền văn học
cách mạng và văn h ọc của những cuô ̣c chiến tranh gi ữ nước vĩ đại. Chiến tranh và cách ma ̣ng bao giờ cũng có nhu cầu trên hế t là vấn đề số phâ ̣n củ a cô ̣ng đồng, của dân tô ̣c . Cảm hứng sử thi đã xây dựng nên những chân dung
con ngườ i lí tưở ng hoàn hảo trong văn học giai đoạn này. Tiểu thuyết Ma Văn Kháng bắt nguồn và nằm trong dòng chảy ấy cũng không là ngoại lệ. Vậy,
điểm nổi bật của Ma Văn Kháng trong quan niệm nghệ thuật con người ở
bình diện lịch sử xã hội là gì?
Tái hiện xung đột lịch sử ở vùng đất Lào Cai từ 1945 đến 1955, từ
1960 đến 1970, qua các tiểu thuyết sử thi, Ma Văn Kháng đã hướng sự quan
tâm của mình vào những sự kiện lịch sử lớn lao: Nhật thua chạy, Hoa quân
nhập Việt, Quốc dân đảng âm mưu phá hoại thành quả cách mạng, thực dân
Pháp quay lại xâm lược, tiễu phỉ, xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời
sống văn hóa mới, xóa mù diệt dốt... Đặt nhân vật vào trong tính chất hỗn
loạn, phức tạp của vùng đất biên ải, tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã thể hiện
quan niệm con người trên bình diện lịch sử xã hội mang tính giai cấp và vai
trò chức năng rất rõ nét. Từ góc nhìn giai cấp, tiểu thuyết Ma Văn Kháng có
sự phân biệt rõ ràng: thống trị và bị trị. Giai tầng thống trị là các lãnh chúa,
thổ ty, phong kiến sở hữu đất đai, đặt ra luật lệ và duy trì luật lệ đó bằng hệ
thống tay sai tàn bạo khát máu. Giai cấp bị trị là những nông nô nghèo, không
có đất đai, bị ràng buộc bởi luật lệ hà khắc, chế định ngặt nghèo, hủ tục định
kiến mê tín dị đoan, bị bóc lột bằng phát canh thu tô, vay nặng lãi. Sự phân
biệt giai cấp này thể hiện rất rõ ràng ở đời sống sinh hoạt. Giai cấp thống trị
sống tột đỉnh giàu sang trên xương máu và xác người nô lệ, có quyền bức hại
đến chết người vô tội. Giai cấp bị trị nghèo đói đến khốn cùng, bị tước đoạt
quyền làm người, bị đọa đày tra tấn đến chết.
Ở góc nhìn giai cấp, quan niệm nghệ thuật về con người của Ma Văn
Kháng qua tiểu thuyết cho thấy con người trên phương diện xã hội, với những
49
điển hình tiêu biểu ở cả hai phía: thống trị và bị trị. Tuân theo nguyên lý của
chủ nghĩa hiện thực, con người xã hội của Ma Văn Kháng vì thế có những
điển hình mang ý nghĩa tố cáo xã hội sâu sắc. Tuy nhiên, con người xã hội từ
góc nhìn giai cấp sẽ hạn chế những yếu tố cá nhân đời tư. Những khám phá về
bản chất con người chỉ dừng lại ở khái quát bản chất xã hội thông qua lăng
kính giai cấp. Đó cũng là hạn chế của con người xã hội ở phương diện này.
Con người xã hội trong quan niệm nghệ thuật của Ma Văn Kháng còn
thể hiện ở chức năng xã hội: cái ác kìm hãm sự phát triển và tự do/ cái thiện
đấu tranh để giành lấy tự do, bảo vệ tự do. Cái ác trong quan niệm nghệ thuật
về con người của Ma Văn Kháng không tách rời quan niệm về con người qua
cái nhìn giai cấp. Cái ác là hiện thân của giai cấp thống trị: tàn bạo, khát máu,
luôn giam giữ, giết hại cái đẹp, cái lương thiện. Con người hiện thân cho cái
ác gương mặt chủ yếu vẫn là tàn bạo, vô luân, ham sắc dục. Những yếu tố đời
tư chỉ được khai thác để minh họa cho bản chất của cái ác. Có thể thấy rõ điều
này qua hệ thống các nhân vật thổ ty, tri châu và những tay sai công cụ của
chúng trong Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải như Hoàng A Chao, La
Văn Đờ, A Linh, Châu Quán Lồ, Giàng Seo Lử, Giàng Seo Cấu... Con người
chính nghĩa đại diện cho cái thiện mang trong lòng nhiệt tình yêu nước và cách
mạng, hết lòng hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp chung, cho lý tưởng giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần cho cộng đồng các dân tộc thiểu số đi lên cùng đất nước. Đó là những
cốt cách phi thường, đi nhiều, biết rộng, có tài thuyết phục lòng người, có nhân
cách cao thượng, giàu đức hy sinh, lòng dũng cảm, căm phẫn trước tội ác, yêu
thương, che chở những số phận bất hạnh, là người hướng đạo cho nhân dân
trên đường đi theo cách mạng, giải phóng dân tộc: Lê Chính, Kiến, Tâm, Tích,
Pao... trong Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải; Vàng A Chỉnh, Giàng Thị
Cở trong Trăng non... là những con người như thế. Từ bình diện lịch sử - xã
hội, quan niệm nghệ thuật về con người với vẻ đẹp lí tưởng cao cả của Ma
Văn Kháng đã hiện ra với những chuẩn mực truyền thống: cao thượng, hy
50
sinh, sống hết mình cho lí tưởng, luôn chế ngự những bản năng, dục vọng
thấp hèn để vươn tới một đời sống tinh thần cao quý, đời sống nội tâm phong
phú, giàu lí tưởng và lãng mạn. Yếu tố cá nhân vì thế chưa được nhà văn xem
trọng và thể hiện trong các tiểu thuyết. Dù ở thế đối lập hay cùng hàng ngũ,
con người đó vẫn được miêu tả bởi cái nhìn một chiều, không có sự khám phá
mang tính chất phát hiện con người ở những góc nhìn khác. Chính vì thế,
quan niệm con người này chưa có sức hấp dẫn như ở các tiểu thuyết giai đoạn
sau. Đây là hạn chế không chỉ riêng tác phẩm của Ma Văn Kháng mà là của
cả giai đoạn văn học 1945- 1975. Có thể thấy rõ điều này qua các tiểu thuyết
Nhớ Mai Châu của Tô Hoài hay Hoa hậu xứ Mường của Phượng Vũ...
Từ quan niệm nghệ thuật về con người trên bình diện lịch sử xã hội,
vượt qua hạn chế của cái nhìn mang tính giai cấp, Ma Văn Kháng đã bộc lộ
niềm tin mãnh liệt vào con người: luôn chế ngự và làm chủ hoàn cảnh, cải tạo
được hiện thực đời sống, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Đồng thời nhà văn
cũng xây dựng được những hình mẫu tiêu biểu cho con người ở không gian
nhất định trong một thời đoạn lịch sử đầy bão táp, in dấu ấn cá nhân của mình
qua cái nhìn về con người ở thời đoạn ấy, đặc biệt là người dân tộc thiểu số -
chưa hiện diện nhiều trong sáng tác văn học với tư cách là đối tượng thẩm
mỹ. Chính điều đó đã khiến cho tiểu thuyết về đề tài dân tộc miền núi của Ma
Văn Kháng có được vị trí nhất định trong lòng bạn đọc dù trước đó đã có
những tên tuổi thành công ở đề tài này.
2.2.2.2. Con người thế sự đời tư
Với một tư duy nghệ thuật vừa thống nhất vừa vận động, ở giai đoạn
sau, trong các tiểu thuyết thế sự đời tư, con người lại được Ma Văn Kháng
tiếp cận bằng một góc nhìn khác: con người cá nhân, là sản phẩm của tự nhiên,
một "tiểu vũ trụ", với tất cả những bản năng của nó, đầy hấp dẫn và mang tính
cá nhân sâu sắc. Bên cạnh đó, đặt con người trong hoàn cảnh bi kịch, khám
phá con người ở khía cạnh tâm linh chính là những vận động trong tư duy
nghệ thuật của Ma Văn Kháng.
51
Con người bản năng tự nhiên
Trong Mùa lá rụng trong vườn, qua lời của nhân vật Luận, Ma Văn
Kháng từng định nghĩa về con người: "Bản chất con người là một sinh thể tự
nhiên - con người có nguồn gốc động vật - nhưng là một sinh thể tự nhiên
mang tính người. Ta vừa phải thỏa mãn nhu cầu "con" và nhu cầu "người" của
con người" [91, tr. 28]. Với quan niệm này, Ma Văn Kháng đã xác định con
người trước hết là thuộc về chính nó và nó tồn tại trong các mối quan hệ xã
hội vừa mang tính cá nhân vừa mang tính cộng đồng, con người này sẽ đem
đến những bí ẩn, bất ngờ, quyến rũ, phức tạp cho cuộc đời trở thành dòng
"sinh hóa hồn nhiên" đáng cho ta sống.
Quan niệm con người với bản năng tự nhiên đã làm nên kiểu con
người dục vọng trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Con người dục vọng này có
hai loại đối lập với nhau. Loại thứ nhất: con người dục vọng hướng thiện -
luôn đam mê khao khát sống đẹp, luôn cố gắng vươn lên mở rộng tầm hiểu
biết của mình, kiềm chế ham muốn thấp hèn, tận hiến cho cuộc đời những gì
tinh túy nhất của mình, thậm chí cả mạng sống. Loại thứ hai là con người dục
vọng hướng ác, bị bản năng chi phối, trượt dài trên con đường tha hóa, biến
chất, là nạn nhân của chính mình và tội nhân của xã hội. Xu hướng phân
tuyến con người trên cơ sở dục vọng bản năng chính là điểm độc đáo của tiểu
thuyết Ma Văn Kháng. Tuy nhiên, nhà văn không đi theo khuynh hướng miêu
tả, phân tích con người bản năng với những đặc tính bị đẩy đến tận độ như
Nguyễn Huy Thiệp và một số nhà văn ở giai đoạn sau này mà ông luôn hướng
tới lấy bản năng nhằm phản ánh chất người, thước đo chất người. Chính điều
này đã khiến cho Ma Văn Kháng khi miêu tả con người không rơi vào trạng
thái dung tục dù vẫn đậm bản năng tự nhiên. Xu hướng phân tuyến này là phổ
biến trong tất cả các tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn Kháng.
Một đặc điểm nữa trong cái nhìn con người từ bản năng tự nhiên của
tiểu thuyết Ma Văn Kháng đó là xu hướng đối thoại tranh biện và thuyết lý.
Nhà văn cho các nhân vật đối thoại với nhau, từ đó đưa ra một cái nhìn đa
52
chiều về bản năng của con người. Chính xu hướng đối thoại này đã cho thấy
rất rõ quan niệm của nhà văn về con người với những nhu cầu bản năng chính
đáng và phi nhân tính. Từ chỗ dè dặt đề cập đến nhu cầu ăn ngon, mặc đẹp tới
chỗ coi đó là tất yếu của cuộc sống là cả một cuộc đấu tranh dài với tinh thần
khắc kỷ. Có thể thấy điều này trong Mưa mùa hạ, dưới góc nhìn đạo đức
truyền thống, nhân vật họa sĩ Hảo, Loan, bà Nhuần, Thưởng trong cách miêu
tả của nhà văn là những kẻ xấu xa, bị ham muốn chi phối cho nên yếu tố bản
năng cá nhân với những nhu cầu ăn, ở, mặc, tính dục vẫn chưa được nhìn
nhận thỏa đáng. Đến Mùa lá rụng trong vườ n, quan niệm về nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần đã có một bước tiến dài, Ma Văn Kháng đã viết về mô ̣t mâm cỗ đêm ba mươi tết cổ truyền bằng cả mô ̣t tấm lòng ưu ái trân tro ̣ng thể hiê ̣n mô ̣t nguồn mỹ cảm tinh tế và sự am hiểu những nét ẩm thực cổ truyền của dân tộc. Đằng sau đó là cả một khát vọng về cuộc sống đủ đầy, tươi đẹp
sau bao ngày chiến tranh gian nan vất vả. Hay chân dung lưỡng diện của Lý
trong Mùa lá rụng trong vườn, hình tượng nghệ thuật sinh động cho con
người tự nhiên bản năng. Lý thích ăn ngon, mặc đẹp, thích nghe những lời
vuốt ve, chiều nịnh, bản năng của chị được đánh thức sau bao tháng ngày chiến
tranh gian khổ. Có gì xấu khi đó là nhu cầu chính đáng của con người. Nhưng
ở thời điểm bấy giờ là cả một vấn đề trong cách nghĩ , cách nhìn, cách ứng xử
của chính chị trước gia đình và xã hội. Tuy không đồng tình với nhân vật trong
tư tưởng nhưng nhà văn không phủ nhận họ với những nhu cầu chính đáng. Từ
con người khắc kỷ, thuần túy lý tưởng, hy sinh mọi lợi ích cá nhân, Ma Văn
Kháng đã hướng đến cái nhìn con người cá nhân ở những nhu cầu bình thường
nhất, đó là cả một sự thay đổi trong tư duy và nhận thức nghệ thuật.
Một khía cạnh khác để thể hiện con người bản năng đó là khám phá
lòng ái dục vô biên của con người, coi dục tính là phần bản năng nhất của con
. Nhìn con người ở bản năng dục tính,
người. Cái nhìn con người qua tính dục của nhà văn không đi ngươ ̣c đa ̣o lí truyền thống cũng không đa ̣o đứ c giả Ma Văn Kháng đã thể hiện chiều sâu trong tư tưởng, đặc biệt từ sự đối sánh
53
giữa ái dục của tình yêu cao thượng với lối sống bản năng phóng dục, cuồng
dục, dâm dục, nhục dục, tà dục, đa dục... Chính điều này đã khiến cho những
trang viết về cảnh ái ân giữa Khiêm - Hoan (Mưa mùa hạ); Nhâm - Quyến
(Bóng đêm); Điền - Khanh (Bến bờ) khác hẳn với những trang mô tả sự chi
phối của bản năng dẫn đến ngoại tình, thông dâm như Xuyến (Đám cưới
không có giấy giá thú) hoặc Nhàn - vợ Lập (Bến bờ). Hay lối sống đồi bại trác
trụy của những kẻ mua dâm, bán dâm trong các ổ mại dâm của Lý Quân Sầm
(Bóng đêm), Kơn Trọc (Bến bờ), thói khẩu dâm, thủ dâm, thị dâm của Khoái
(Bóng đêm), Hói (Bến bờ), tội ác cưỡng dâm của Tư (Bến bờ)...
Bằng góc nhìn quy chiếu đạo đức, Ma Văn Kháng nhận ra, dục tính là
bản năng tự nhiên, có khả năng chi phối con người, đẩy con người lầm đườ ng lạc lối , hay rơi vào nghịch cảnh bi thương như người Mẹ của nhân vật Tôi
trong Côi cút giữa cảnh đời, người đàn bà trong câu chuyện lồng ghép Hương
hoa Đà Lạt của nhân vật Tầm trong Bóng đêm. Dục tính còn có khả năng biến
con người thành thú tính như Tư trong Bến bờ… bi ̣ ham muốn chi ph ối trở
thành kẻ thủ ác tàn độc với vợ con, em gái, của mình, đó cũng là chuyê ̣n có thể xảy ra gi ữa dòng đời nghiệt ngã và bóng đêm tăm tối. Đề cao nhu cầu chính đáng về đời sống vật chất và lòng ái dục, xem đó là nhu cầu tự thân
nhưng rõ ràng minh bạch trong góc quy chiếu đạo đức chính là đặc điểm con
người tự nhiên bản năng qua tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Con người trong hoàn cảnh bi kịch
Con người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên mà con người với Ma
Văn Kháng còn là "con người của hoàn cảnh" [92, tr. 127]. Đặt con người vào
trong hoàn cảnh xã hội có biến động, trước những rắc rối của gia đình và xã
hội, Ma Văn Kháng có dụng tâm thể hiện cách nhìn con người trong bi kịch,
trước bi kịch, qua ứng xử của họ bộc lộ nhân cách. Trọng (Mưa mùa hạ) đứng
trước bi kịch tình yêu tan vỡ, công việc bị ngăn trở, nhân cách bị vùi dập. Tự
(Đám cưới không có giấy giá thú) một mình đối mặt với những bi kịch đời
sống gia đình cơm áo gạo tiền và bi kịch đánh mất lương tâm người thầy khi
54
mà những giá trị xã hội bị lộn sòng. Khiêm (Ngược dòng nước lũ) rơi vào bi
kịch tưởng chừng không lối thoát: đồng nghiệp phản bội, vợ lừa dối phản trắc,
bạn bè quay lưng. Thiêm (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn) bị vu oan là kẻ phản bội tiếp
tay cho biệt kích, thổ phỉ, buộc rời khỏi La Pan Tẩn, về xuôi làm bảo vệ đánh
trống trường. Bé Duy (Côi cút giữa cảnh đời) bị đặt vào thảm kịch mẹ bỏ lại
cho bà nội già nua nuôi nấng, bị cướp nhà, lang bạt kỳ hồ. Ông Thuần và người
vợ - cô giáo Trang (Chó Bi, đời lưu lạc) bị đẩy vào cảnh ngộ tan nhà nát cửa,
chồng bị đi tù, vợ gục chết trước sự hiểm ác của lòng người. Nhâm (Bóng đêm),
Điền (Bến bờ) bị rơi vào những cái bẫy của những kẻ thủ ác và những kẻ
mạo danh… Ở trong những hoàn cảnh bi thảm ấy, họ có những cơn đau đớn
chấn động cả tinh thần lẫn thể xác, buộc phải lựa chọn giữa nhân cách và
mất tất cả. Hầu hết các nhân vật đều ở trong hoàn cảnh ít nhất có hai bi kịch
đan cài - bi kịch cá nhân và bi kịch xã hội. Để giữ được nhân cách trong
sáng, cao thượng, họ buộc phải chấp nhận sự cô đơn ngay trong hoàn cảnh
mà họ đang sống. Tuy nhiên, đặt con người trong hoàn cảnh mang tính bi
kịch ấy, Ma Văn Kháng đã hướng tới một triết lý sống rất lạc quan về con
người "con người là một sinh linh không dễ buồn nản, càng gặp cảnh bi phẫn
nó càng phát" [78, tr. 317].
Nếu hoàn cảnh thử thách cho nhân cách con người tỏa sáng, thì cũng
chính hoàn cảnh khiến cho con người trở thành tha hóa dị dạng về nhân cách
đạo đức, xơ cứng vì giáo điều, niềm tin mù quáng duy ý chí. Tính chất méo
mó nhân cách bộc lộ ngay trong hành vi ứng xử, ngôn ngữ và sinh hoạt thường
nhật: cách ăn uống, cách nói năng, đi lại, quan hệ phóng dục bừa bãi, thói trác
trụy, thói vu khống… Đó là kẻ như Hảo, Hưng, Thuật, Thưởng (Mưa mùa hạ);
Lại, Cẩm, Dương, Thuật (Đám cưới không có giấy giá thú). Phô, Liệu, Quanh,
Tý Hợi (Ngược dòng nước lũ); Khoái (Bóng đêm); Hói (Bến bờ)... Những
chân dung méo mó nhân cách qua cái nhìn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng
cho ta thấy sự biến dạng của con người trước đồng tiền, dục vọng, quyền lực.
Đó vừa là kết quả của hoàn cảnh vừa là kết quả của sự dẫn dụ bản năng, hai
55
yếu tố trên chi phối khiến cho con người trở nên sục sôi, tàn nhẫn, ác độc với
đồng loại, với người thân, hành xử vô đạo đức.
Hoàn cảnh cũng khiến cho con người trở nên thụ động, nhàm chán và tẻ
nhạt nếu con người không còn ý chí và khát vọng. Đông (Mùa lá rụng trong
vườn) là một trung tá quân đội, con người anh lấp lánh hào quang trong trí nghĩ
của người thân, trở về với cuộc sống thường nhật, anh trở thành một người đàn
ông lù đù, suốt ngày tổ tôm, đánh chắn, áo may ô quần đùi… Con người ấy có gì
đó thật nhạt tẻ khi đối lập với anh là người vợ sắc sảo, khôn ngoan, đanh đá và
con người ấy dường như lạc lõng trong cuộc sống đời thường bởi thói vô lo, vô
nghĩ, xem mọi sự trên đời "có gì phức tạp lắm đâu" [91, tr. 37]. So sánh với nhân
vật ông Thuấn trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp thì nhân vật này lại
không rơi vào bi kịch mâu thuẫn với hoàn cảnh. Ông Thuấn không chấp nhận
hoàn cảnh và cuối cùng chết trong cô đơn. Còn Đông, anh ta chấp nhận cuộc sống
và buông xuôi theo nó, không quan tâm đến mọi sự. Những con người như Đông
không phải là hiếm hoi trong đời thường, quan niệm con người nhạt tẻ, thụ động,
nhàm chán, Ma Văn Kháng dường như muốn lên tiếng cảnh báo về một lối sống
gần như rũ bỏ trách nhiệm, buông xuôi mọi sự. Nhưng sâu xa hơn, theo chúng
tôi, cách miêu tả con người ấy đã thể hiện tư duy nghệ thuật về con người đa
dạng. Kiếm tìm giá trị phổ quát mang tính nhân bản về con người, Ma Văn Kháng
đã có bước tiến dài từ thiêng liêng hóa con người đến giải thiêng con người, trả
nó về đúng vị trí của nó, bỏ qua những vị trí nó buộc phải sắm vai. Tuy nhiên, sự
giải thiêng này không giống như Nguyễn Huy Thiệp, khi lựa chọn nhân vật lịch
sử, hay những nhân vật tướng tá, Ma Văn Kháng chỉ hướng đến những con
người bình thường nhất, trong đám đông vô số, những con người ấy đã sống một
cuộc đời không trùng khít với mình. Do vậy họ vừa đáng giận vừa đáng thương.
Con người tâm linh
Đời sống tâm linh của con người là vô cùng phức tạp . Văn ho ̣c luôn
tìm mọi cách để chiếm lĩnh thế giới tâm linh của con người nhằm thâm nhập
và phát hiện ý thức, vô thứ c, tiềm thứ c. Văn ho ̣c nhâ ̣n thứ c và diễn t ả thế giới
56
tâm linh và con ngườ i tâm linh không theo yêu cầu củ a khoa ho ̣c tự nhiên , nó quan tâm đến những sứ c ma ̣nh bí ẩn siêu thực , những ngẫu nhiên khó giải thích, nó nhằm mục đích khám phá thế giới bên trong của con người, phát hiện
những năng lực nhân tính phù hơ ̣p vớ i chân, thiê ̣n, mỹ, nó phủ nhận lối tư duy lí tính nhìn con người phiến diện m ột chiều. Nhìn nhận con người ở phương
diện tâm linh, Ma Văn Kháng mở rộng biên độ khám phá con người ở những
sức mạnh không thể giải thích, không thể định nghĩa, rất phức tạp và bí ẩn.
Từ quan sát tổng thể, chúng tôi nhận thấy, khám phá con người ở bình
diện tâm linh, Ma Văn Kháng đã sử dụng mô típ kỳ ảo làm phương tiện và
hình thức nghệ thuật để tái tạo hiện thực tâm linh, từ đó đi khai thác chiều sâu
tâm hồn con người ở những phần không thể biết nếu chỉ quan sát từ phía bên
ngoài. Việc sử dụng những mô típ kỳ ảo đã giúp cho con người trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng nhìn từ bình diện tâm linh mang đậm những nét riêng,
thể hiện cá tính sáng tạo cá nhân.
Các mô típ kỳ ảo được sử dụng trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng có
những dạng cụ thể sau: (1) Giấc mơ, chiêm mộng, báo mộng (Gặp gỡ ở La Pan
Tẩn, Bóng đêm, Côi cút giữa cảnh đời, Bến bờ); (2) Những cuộc cúng trình ma,
gọi hồn (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Trăng non, Bóng đêm, Bến bờ);
(3) Những lời nguyền rủa, phù chú, bói toán (Ngược dòng nước lũ, Côi cút
giữa cảnh đời, Chó Bi, đời lưu lạc, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn); (4) Những bóng ma
(Gặp gỡ ở La Pan Tẩn và Bến bờ); (5) Sự thông linh, thấu cảm giữa người sống
với người chết (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Côi cút giữa cảnh đời, Bóng đêm).
Việc xác lập các mô típ dựa trên cơ sở các dấu hiệu lặp lại về hình thức
bằng các hình ảnh, chi tiết, câu, đoạn văn lặp lại hai lần trở lên. Các mô típ thường
có một ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh. Chẳng hạn, mô típ giấc mơ thường được
Ma Văn Kháng sử dụng như một cách để trở lại với thời gian đã mất hay tạo mối
liên lạc giữa các nhân vật. Có thể thấy điều này trong Gặp gỡ ở La Pan Tẩn,
Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ. Mô típ cái bóng trắng xuất
hiện trong Gặp gỡ ở La Pan Tẩn khi Thiêm vác chiếc vành xe, cái bóng trắng
57
trong Bến bờ khi Lập rơi vào một cơn trầm uất, khủng hoảng nặng nề, hai mô típ
này xuất hiện, vừa có ý nghĩa như sự phân thân của nhân vật, vừa có ý nghĩa như
một sự đối thoại với thế giới tâm linh qua hình ảnh một bóng ma để nhận ra
những chân giá trị của con người trong một chiều không gian khác của hiện thực
đời sống. Các mô típ mang đặc trưng cho thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Ma Văn
Kháng, nó góp phần phản ánh cách thể hiện con người trong hiện thực tâm linh.
Đó cũng là một cách chiếm lĩnh hiện thực đậm chất cá nhân của Ma Văn Kháng.
Không đậm đặc màu sắc kỳ ảo, chỉ điểm xuyết khi cần có một sự trợ giúp từ
lực lượng siêu tự nhiên, từ thế giới vô hình, vô ảnh, sử dụng mô típ kỳ ảo để
giải thích tự nhiên, chỉ ra những khía cạnh phức tạp, tế vi nhất của con người.
Với một tinh thần hoài nghi, để đi tìm hiểu thế giới tâm linh của con người
qua trực giác, linh giác, cảm giác, Ma Văn Kháng hướng tới khẳng định một
chân lý đời sống: chính bản năng hướng thiện của con người đã tạo ra một thế
giới huyền ảo, thần tiên, ma quỷ và cùng với nó là niềm tin tôn giáo vào những thế lực siêu nhiên giúp con người linh cảm trước những thay đổi trong số phận.
Nhìn con người ở khía cạnh tâm linh với niềm tin vào thế giới siêu tự nhiên, tin
vào sự trơ ̣ giú p từ lực lươ ̣ng này đối với cuộc sống con người, nghiên cứu những năng lực và hành đô ̣ng đôi khi không thể giải thích, Ma Văn Kháng đã thể hiện một quan niệm tiến bộ về đời sống tinh thần bí ẩn, phong phú của con người mà
trước đó vẫn bị xem là sự mông muội, mê tín dị đoan. Yếu tố thông linh giữa
con người với các lực lượng siêu tự nhiên: trời đất, ma quỷ, thánh thần, người
chết với người sống là một trong những điều bí ẩn khó giải thích thuộc con
người. Nhìn nhận khả năng thông linh bí ẩn củ a con ngườ i giữa cõi âm và coi dương, khả năng thấu cảm người khác bằng linh giác và trực giác là mô ̣t trong những biểu hiê ̣n củ a con ngườ i tâm linh. Chính điều này đã khiến cho Ma Văn Kháng có một sáng tạo độc đáo trong kỹ thuật trần thuật khi đưa vào cốt truyện
những cuộc đối thoại giữa người sống và người chết. Chẳng hạn, cuộc đối thoại
giữa Thiêm với người lái xe đã chết nhập hồn trong vành xe về cuộc đời của
chính ông ta. Hay cuộc gọi hồn Thuyên trong Bóng đêm, người đã chết nhập
58
vong vào một thân xác khác để nói chuyện với người còn sống, kể về cái chết
của mình, qua đó, gián tiếp thông báo tội ác và kẻ thủ ác. Cuộc đối thoại giữa
Lập và "cái bóng trắng" - linh hồn người tù thoát xác lang thang trong đêm tối
ở trại giam về tội ác, về con người cho thấy cuộc đấu tranh trong chính bản
thân nhân vật, chế ngự, kiềm tỏa cái ác, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách.
Khám phá con người ở phương diện tâm linh Ma Văn Kháng đã phát hiê ̣n ra nhiều bình diê ̣n củ a con ngườ i ở bên ngoài pha ̣m trù lí tính. Từ quan niê ̣m con ngườ i tâm linh ấy, hiê ̣n thực không còn là duy nhất củ a lý trí và ý chí, hiê ̣n thực không đươ ̣c nhìn thấy không thể biết hết, nó nằm ngoài khả năng nhận thức của con người. Thừ a nhâ ̣n con ngườ i tâm linh không có nghĩa là mê tín di ̣ đoan, mă ̣c dù giữa chú ng là sơ ̣i chỉ rất mỏng manh , chính niềm tin vào thế giớ i tâm linh đã giú p cho con ngườ i trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng luôn hướ ng thiê ̣n. Ông Thuần (Chó Bi, đời lưu lạc) khi đã quay lưng la ̣i vớ i thế giớ i con ngườ i ở trạng thái cô đơn nhất, chính linh giác và sự thấu cảm đã má ch bảo ông về sai lầm củ a mình khi nghi ki ̣ ngườ i vơ ̣, Nhâm (Bóng đêm), Điền (Bến bờ) khi đối mă ̣t vớ i bóng đêm, tô ̣i ác, cái chết, dườ ng như có mô ̣t lực lươ ̣ng siêu nhiên nào giúp họ vượt qua những vực thẳm đen tối của định mệnh , bắt những kẻ thủ ác đền tội. Nếu không có mô ̣t sự thấu cảm giữa âm và dương, giữa cõi sống và cõi chết thì họ làm sao vượt qua được những ngẫu nhiên đầy bất trắc củ a số phâ ̣n. Từ bình diện tâm linh, mở rộng biên độ khám phá con người với những
năng lực siêu nhiên, những gì chưa thể biết là một trong những điểm độc đáo
trong quan niệm nghệ thuật về con người của tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Chính quan niệm này đã đem lại sự phong phú trong nhân cách con người tiểu
thuyết, góp phần thể hiện một con người đa dạng, giàu năng lực nhân tính để
đối lập với con người duy ý chí, tôn sùng lý tính. Đồng thời, quan niệm này
cũng ảnh hưởng sâu sắc đến kỹ thuật trần thuật, cho phép nhà văn đưa những
yếu tố ảo như giấc mơ, nhập hồn, báo mộng vào cốt truyện, qua đó, bộc lộ trí
tưởng tượng mãnh liệt, nguồn cảm xúc phong phú, ngôn ngữ và giọng điệu
biến hóa, hoàn thiện hơn nguồn mỹ cảm về con người.
59
TIỂU KẾT
Nhận diện quan niệm nghệ thuật về văn chương và con người của Ma
Văn Kháng qua tiểu thuyết, chúng tôi nhận thấy quan niệm về văn chương đi từ
mô tả, phản ánh hiện thực đến nghiền ngẫm, phân tích hiện thực trên cơ sở
những nguyên tắc nhất quán nhưng luôn được bổ sung những giá trị mới. Quan
niệm văn chương không mang tính chất lý luận khô cứng mà trái lại, được xây
dựng từ những trải nghiệm trên đường sáng tạo nghệ thuật và học hỏi kinh
nghiệm của người đi trước nên giàu sức thuyết phục, có giá trị thời sự và lâu bền.
Mở rộng bình diện khám phá con người ở tất cả những tính chất phong
phú, phức tạp nhất, Ma Văn Kháng cho thấy đằng sau cái nhìn đa diện về con
người chính là thái độ khách quan, nghiêm túc và tinh thần nhân bản trân
trọng giá trị đích thực của con người. Từ con người xã hội đến con người thế
sự đời tư, Ma Văn Kháng đã có một hành trình vận động trong nhận thức và
tư duy nghệ thuật. Lý giải cho sự vận động đó, trong Dấu hiê ̣u của dân chủ cởi mở , Ma Văn Kháng cho rằng có những yếu tố khách quan từ sự vận động của văn học: "văn ho ̣c có yêu cầu nô ̣i ta ̣i củ a nó - nó cần hoàn thiê ̣n mình khi có cơ hô ̣i" [64]. Cơ hô ̣i cho những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con
người của văn ho ̣c Viê ̣t Nam nói chung và cho Ma Văn Kháng nói riêng chính là công cuô ̣c đổi m ới và dân chủ hóa đã đươ ̣c Đ ảng Cộng sản Việt Nam khở i xướng năm 1986. Chuyển mình từ cảm hứ ng sử thi sang thế sự đờ i tư , văn học Viê ̣t Nam đã mở rộng các bình diện khám phá con người ở đời sống cá nhân
với tất cả sự phức tạp của nó. Có thể nói, sự vận động ấy còn được quyết định
bởi chủ thể nhà văn, không chấp nhận sự lặp lại, tĩnh tại trong tư duy nghệ
thuật. Quan niệm về con người của Ma Văn Kháng đi từ xã hội đến thế sự đời
tư, từ con người anh hùng đến con người bi kịch, từ con người ý thức đến con
người tâm linh, từ con người chính trị đến con người đạo đức. Chính sự vận
động ấy là biểu hiện của một quan niệm nghệ thuật về con người, vừa thống
nhất vừa bổ sung những giá trị mới. Quan niệm này sẽ chi phối đến thế giới
nhân vật và giọng điệu trong các tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
60
Chương 3
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
Nhân vật là một khái niệm dùng để chỉ con người biểu hiện trong tác
phẩm, còn được gọi bằng một cái tên khác là hình tượng nhân vật. Tiếng Anh
gọi nhân vật là character, tiếng Nga gọi nhân vật là persona, bắt nguồn từ
một từ tiếng Pháp personnage có gốc La tinh là persona, nghĩa ban đầu của
nó là cái mặt nạ để cho người diễn viên sử dụng trong diễn xuất. Về sau, thuật
ngữ này dùng để chỉ con người được miêu tả trong tác phẩm văn học. Những
nhân vật văn học được dụng công miêu tả trở nên bất tử trong lòng bạn đọc
bao giờ cũng là những khám phá nghệ thuật vô cùng độc đáo. Trong sáng tạo
văn học, không thể có con đường nào khác để tiếp cận chân lý nghệ thuật và
chân lý cuộc đời ngoài nhân vật.
Nhân vật là một yếu tố thuộc nội dung tác phẩm nghệ thuật nhưng
nghệ thuật xây dựng nhân vật có sức hấp dẫn và để lại ấn tượng sâu đậm trong
lòng bạn đọc lại là một vấn đề thuộc về hình thức tác phẩm và là một yếu tố
thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật nhà văn. Trong chương này, chúng tôi
hướng tới làm rõ tính khái quát của kiểu nhân vật loại hình và nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng.
3.1. CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng có một thế giới nhân vật phong phú, đa dạng, phức tạp. Ở phần
tổng quan, qua khảo sát các tài liệu nghiên cứu, nhận thấy nhân vật tiểu thuyết
Ma Văn Kháng thường được nhận diện, tiếp cận và phân tích theo các góc độ
vị trí và tính cách để xác định kiểu nhân vật, một số ít căn cứ vào thể loại.
Những nghiên cứu đó đã có giá trị trong việc gợi mở cho đề tài. Tuy nhiên,
nhìn một cách tổng thể, kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng ứng
với quan niệm nghệ thuật được xây dựng trên một khung thẩm mỹ cốt lõi nhất
quán, trong các không gian và thời gian khác nhau, vận động và bổ sung những
61
giá trị mới. Chúng tôi kế thừa những nghiên cứu đã có, căn cứ vào các nhân
vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, từ góc nhìn thể loại, kết hợp với màu sắc
thẩm mỹ của nhân vật, với tính chất hệ thống và khái quát, xác định những
kiểu nhân vật cơ bản sau đây.
3.1.1. Nhân vật anh hùng
Đây là một kiểu nhân vật xuyên suốt các tiểu thuyết sử thi của Ma
Văn Kháng, căn cứ để xác định kiểu nhân vật này dựa trên cơ sở đặc điểm
tính cách, sức hấp dẫn của vẻ đẹp mang tính lý tưởng mà nhà văn gửi gắm.
Vì sao có sự nhận dạng kiểu nhân vật này? Trước hết, đó chính là sự
kết hợp hài hòa giữa cái bi và cái hùng trong các nhân vật ở tiểu thuyết sử thi
của Ma Văn Kháng. Tính chất bi thể hiện ở chính trong cuộc đấu tranh mà nhân
vật lựa chọn. Đó là "cuộc đấu tranh không ngang sức giữa cái thiện với cái ác,
cái mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái phản động... cái bi thường đi với nỗi đau và
cái chết" [37, tr. 37]. Với bản chất là phát hiện những bản chất tốt đẹp, ca ngợi
và bất tử hóa con người, cái bi đi cùng cái hùng "của một lí tưởng thẩm mỹ cao,
thông qua hình tượng người anh hùng... hiện thân của xu thế tiến bộ xã hội, sự
kiên cường về đạo đức, sự lớn lao về tinh thần" [37, tr. 44]. Do đặc trưng loại
hình, kiểu nhân vật lý tưởng trong mỗi tiểu thuyết Ma Văn Kháng có sự khác
nhau về phương diện lịch sử. Mỗi thời kỳ đã in bóng hình vào các nhân vật, đánh
dấu bước trưởng thành trong tư duy nghệ thuật, cá tính sáng tạo, thể hiện những
phẩm chất thẩm mỹ vừa mang tính thời đại vừa có những nét đặc sắc riêng.
Tiểu thuyết sử thi của văn học Việt Nam 1945 - 1975 đã khắc họa
những nhân vật anh hùng tiêu biểu cho lý tưởng thẩm mỹ thời đại cách mạng
vô sản. Các nhân vật trong tiểu thuyết sử thi thường là những nguyên mẫu có
trong đời thực, bước vào trang tiểu thuyết, họ trở thành nhân vật văn học có
sức truyền dẫn mạnh mẽ về lý tưởng cách mạng và hành động anh hùng. Đó
là nhân vật anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Nguyễn
Văn Trỗi trong Sống như anh của Trần Đình Vân, chị Út Tịch trong Người mẹ
cầm súng của Nguyễn Thi, chị Sứ trong Hòn Đất của Anh Đức, má Bảy trong
62
Gia đình má Bảy của Phan Tứ... Chịu sự chi phối, ảnh hưởng của thời đại,
nhưng qua Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Trăng non Ma Văn Kháng
vẫn thể hiện chân dung những con người của một thời đoạn anh hùng có màu
sắc riêng không dễ nhòa lẫn vào bản đồng ca anh hùng của dân tộc trong văn
học Việt Nam 1945 - 1975.
Những xúc động thẩm mỹ của Ma Văn Kháng đã nảy sinh từ các bối
cảnh lịch sử vĩ đại, hào hùng của Lào Cai - miền đất vàng, với nguyên mẫu từ
đời thực, bước vào trang tiểu thuyết, nhân vật bi hùng mang vẻ đẹp lãng mạn,
đậm chất hào sảng của con người biên ải. Sự nghiệp và lý tưởng của họ là bảo
vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, đánh thức trong tâm hồn người dân
tộc thiểu số lòng yêu nước, sức mạnh đoàn kết dân tộc, quyền lợi dân tộc.
Chính lý tưởng anh hùng đó đã làm nên vẻ đẹp cho những con người này ở
trong một thời đại đầy biến động dữ dội. Trong kiểu nhân vật này, Ma Văn
Kháng đã xây dựng thành công những điển hình tiêu biểu: người chiến sĩ trên
mặt trận vũ trang, người anh hùng xuất thân bản địa.
Nhân vật anh hùng trên mặt trận vũ trang là những con người quả cảm,
kiêu dũng của một thời đoạn lịch sử ở Lào Cai, đại diện cho lực lượng vũ trang
của chính quyền cách mạng. Cuộc đời họ là những tấm gương chiến đấu, hy
sinh cho sự nghiệp đấu tranh giành tự do độc lập. Điển hình cho nhân vật anh
hùng trên mặt trận vũ trang là: Lê Chính, Kiến, Tâm, Na, Tích... Trong đó, Lê
Chính - là nhân vật tiêu biểu nhất cho kiểu nhân vật này. Hiện diện ở hai tác
phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải với tư cách người lãnh đạo cao
nhất - "đại diện cho Bắc Bộ phủ, cho chính quyền nhân dân tỉnh" [82, tr. 135]
trong cuộc chiến đấu chống bè lũ Quốc dân đảng và thổ phỉ phản loạn, hình
tượng tuyệt đẹp của Lê Chính được Ma Văn Kháng dụng công xây dựng như
là linh hồn của hai tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải. "Một
mình một ngựa" dấn thân vào thành lũy của các thổ ty Hoàng Văn Chao, tri
châu La Văn Đờ, bằng lòng dũng cảm, trí tuệ vững vàng, sự am hiểu đời sống
văn hóa tinh thần các dân tộc, Lê Chính đã thu phục họ đi theo cách mạng.
63
Trong tâm hồn anh luôn chất chứa những suy tưởng lớn lao về con người, về
cuộc sống, không giáo điều, duy ý chí, anh quan niệm: "con người bao giờ
cũng ở trong một khung cảnh nhất định, một điều kiện nhất định. Và nó bắt
buộc phải chọn lựa, phải tìm được cách ứng xử khôn ngoan nhất trong khi vẫn
kiên trì mục đích sống của mình" [82, tr. 460]. Sự nghiệp lãnh đạo nhân dân
làm cách mạng của Lê Chính với những chiến công thu phục, thuyết hàng, hội
nghị hiệp thương toàn tỉnh, đánh Pháp, tiễu phỉ... những kỳ tích ấy là của một
nhân vật anh hùng trong thời đại cách mạng vô sản. Đặt nhân vật trong tương
quan so sánh với A Châu trong Vợ chồng A Phủ, Nghĩa trong Miền Tây của
Tô Hoài, Thân, Thông trong Rừng động của Mạc Phi, qua những sự kiện lịch
sử mà anh với tư cách người đứng đầu, qua tình yêu với Châu, tình bạn với
Tâm, Kiến, Pao, qua thái độ căm thù cái ác, tình thương với những người dân
nghèo khổ, bản lĩnh phi thường khi chống chọi với vết thương - Lê Chính
thực sự là biểu tượng bất khuất, kiên trung, một hình tượng đẹp về nhân vật
anh hùng miền biên ải.
Nhân vật lý tưởng là người dân tộc thiểu số xuất thân bản địa trong
các tiểu thuyết sử thi của Ma Văn Kháng có màu sắc riêng. Đó là các nhân vật
người Mông xuất hiện với tư cách người anh hùng trên mặt trận đấu tranh giải
phóng dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc. Họ là Giàng A Pao, Lù A Seng, Lù A
Tếnh... (Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải) Giàng Thị Cở, Vàng A Chỉnh...
(Trăng non) Giàng Dìn Chin (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn)... Những con người
trung tín, mạnh mẽ, có chiều sâu trong tâm hồn và tư tưởng. Khác với các
nhân vật của Tô Hoài trong Truyện Tây Bắc, Ma Văn Kháng đã đặt các nhân
vật của mình trong một hành trình đấu tranh tự giải phóng đầy bi kịch. Họ
không chỉ đấu tranh chống lại các thế lực phản cách mạng mà còn phải đối
diện với chính dòng tộc, huyết thống của mình, để từ đó, chọn lựa con đường
duy nhất đúng trong cuộc tự phân thân.
Giàng A Pao - người dân tộc Mông - là hình tượng anh hùng lý tưởng
kết tinh vẻ đẹp cộng đồng dân tộc thiểu số. Ở Đồng bạc trắng hoa xòe, Pao
64
xuất hiện với tư cách một nhân tố cách mạng. Xuất thân trong gia đình một hố
pẩu (người đầu tộc), là con trai thứ ba, anh có nhận thức sâu sắc về số phận
của mình và kiếp đời nô lệ, về hủ tục và định kiến. Chứng kiến chị dâu bị
cưỡng bức, phải ăn lá ngón tự tử, Seo Ly - người anh yêu bị cướp về làm vợ
người khác, hạnh phúc tan vỡ, yêu Seo Cả, có con, bị chính anh mình là
Giàng Lử cưỡng hiếp, mất con, mất người yêu một lần nữa. Mâu thuẫn gia
đình, dòng tộc lên đến đỉnh điểm, rồi chính anh bị bắt, bị trói, bị đánh đập,
hành hạ như thời trung cổ. Trong đêm tối, suy ngẫm về con đường sống chết
của mình trước mắt "lòng căm thù, sức mạnh quật khởi của tất cả những
thống khổ đòi được thể hiện" [82, tr. 526], khiến cho Pao đã nhổ bật rễ cây
vông, trốn thoát khỏi xiềng xích nô lệ, đi theo cách mạng, trở thành chủ tịch
Việt Minh đầu tiên của Can Chư Sủ. Giàng A Pao là người chiến sĩ anh hùng
nhưng cũng là một người con của bản Mông, của hố pẩu Giàng Lầu, yêu và
sống, lao động và chiến đấu hết lòng vì những người thân. Hành trình đến với
cách mạng của anh không giống như A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
của Tô Hoài hay Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Đó là một
hành trình nhận thức từ mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn xã hội, đấu tranh nội
tâm gay gắt để đi đến quyết định đi theo cách mạng thay đổi số phận chính
mình. Kết thúc Đồng bạc trắng hoa xòe là hình ảnh Pao cầm súng đứng lên
nã vào quân thù, đến Vùng biên ải là hình ảnh Pao đi bên Seo Cả "dù hồng
cầm tay, e lệ nồng nàn" [82, tr. 480], cái kết đẹp cho nhân vật anh hùng khép
lại đau thương bước sang trang đời mới, hạnh phúc ấm no.
Có thể nói rằng, tiểu thuyết sử thi của Ma Văn Kháng đã thể hiện
được những hình mẫu lý tưởng của nhân vật chính trong những giai đoạn
lịch sử đặc biệt, ở không gian đặc biệt. Tính cách anh hùng của họ được soi
chiếu, phân tích trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, có sự nối tiếp, kể thừa
trên tinh thần bổ sung những vẻ đẹp mới phù hợp với hiện thực cuộc sống.
Không chỉ quan sát miêu tả ở bề ngoài, ở hành động và tư cách người anh
hùng của thời đại mà nhân vật còn được đặt trong sự vận động trong chiều
65
sâu tư tưởng, khám phá họ qua những bi kịch cá nhân, những băn khoăn trăn
trở trong thế giới nội tâm, những xung đột, mâu thuẫn quyết liệt buộc phải lựa
chọn. Về nhân vật này, như chính Ma Văn Kháng trong vai người kể chuyện
đã suy ngẫm:
Thế hệ sau sẽ đây chắc chắn sẽ giỏi giang hơn, thông minh
hơn, họ sẽ phê phán rạch ròi thời kỳ biến động sâu sắc này... dù thế
nào đi nữa, đây vẫn là thời kỳ sản sinh ra những con người thật đẹp.
Họ có thể còn ấu trĩ, nhưng họ trong sáng tuyệt vời... Có thể họ chưa
đủ tài năng để lý giải mọi điều... nhưng nhiệt tình cách mạng mãi
mãi là gương mặt sáng rỡ của họ... [82, tr. 578].
Đó là lời bình luận chân xác nhất cho kiểu mẫu nhân vật chính diện
anh hùng lý tưởng của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết sử thi.
3.1.2. Nhân vật bi kịch
Sự chuyển đổi không gian sống và làm việc, bối cảnh đời sống thành
thị những năm sau chiến tranh với những biến động sâu sắc đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tư tưởng nghệ thuật Ma Văn Kháng. Không thể giữ cách nhìn
cũ, lối viết cũ, từ Mưa mùa hạ, tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng có một
bước ngoặt mang tính đột phá, nhà văn đã đi tiên phong và nhanh chóng nhập
cuộc để "tiếp cận với một hiện thực mới, một hiện thực phong phú, ngổn ngang,
phải trái, trắng đen lẫn lộn, xen cài" [51, tr. 61], và qua tác phẩm thể hiện sự
"đổi mới khá mạnh dạn trong tư duy nghệ thuật về con người" [51, tr. 60],
"Ma Văn Kháng đã hướng sự quan tâm đến từng cá nhân con người... kiểu
loại nhân vật trong sáng tác đã trở nên phong phú hơn" [51, tr. 62]. Con người
thị dân xuất hiện trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng với tư cách nhân vật văn
học có sức ám ảnh mạnh mẽ đã tạo nên gương mặt mới cho nhà tiểu thuyết
Ma Văn Kháng. Nếu ở tiểu thuyết sử thi, chất hùng chiếm ưu thế, các nhân
vật lý tưởng luôn ở vai trò thắng cuộc, những bi kịch của nhân vật mang màu
sắc xã hội thì đến tiểu thuyết thế sự đời tư, chất bi lại là điểm nổi trội và chính
điều này đã tạo nên một kiểu nhân vật độc đáo - nhân vật bi kịch. Bắt đầu với
66
Mưa mùa hạ, nhân vật bi kịch hiện diện với tư cách là kiểu nhân vật - họ là
những trí thức chân chính - kẻ sĩ hiện đại, là những hiệp sĩ an ninh bảo vệ
bình yên cho cuộc sống con người nhưng chính họ đang phải đối mặt hàng
ngày với những bi kịch đời sống có tên và không có tên. Đặt nhân vật vào
trong bi kịch để khám phá thế giới tâm hồn và tính cách, những ẩn ức, khao
khát, ham muốn vừa lý tưởng vừa đời thường chính là những nét biến chuyển
mang tính kế thừa và vận động trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Ở kiểu nhân vật bi kịch, chúng tôi chú ý đến hai loại nhân vật: trí thức
và phụ nữ. Theo khảo sát và đánh giá của chúng tôi, đây là hai loại nhân vật
mang dấu ấn phong cách rõ nét nhất trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, thể
hiện được chiều sâu tư tưởng, cảm quan thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật và tình
cảm thái độ của nhà văn về con người trong một thời đoạn lịch sử mang tính
bước ngoặt.
3.1.2.1. Trí thức
Trí thức chân chính - kẻ sĩ hiện đại là một trong những thành công
của Ma Văn Kháng. Cái gốc nhân bản để nhà văn xây dựng nên những chân
dung trí thức chân chính là gương sáng trong văn học Việt Nam thời trung
đại. Nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng được xây dựng trên nền mỹ cảm cổ
điển ấy là kỹ sư (Nam, Trọng), thầy giáo (Tự, Thiêm), nhà báo (Kha, Luận),
nhà văn (Khiêm)... hoặc sa cơ thất thế là người đánh trống trường, bảo vệ
(ông Thống)... Ở họ luôn có lý tưởng sống đẹp, có trí tuệ, tri thức, hành xử
văn hóa, trọng nghĩa tình, xem thường danh lợi, thường bị đặt trong hoàn
cảnh bi kịch thử thách nghiệt ngã, những thăng trầm của số phận. Nhân vật trí
thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng "như một ám ảnh khôn nguôi, một trăn
trở, day dứt, có sức hút lớn" [51, tr. 62], "... thật sự làm nên sức sống tiểu
thuyết Ma Văn Kháng" [51, 148]. Với kiểu nhân vật này, chúng tôi nhận thấy,
Ma Văn Kháng đã tạo dựng được những đặc điểm mang ý nghĩa như là hằng
số bất biến trong phẩm cách của họ. Đó là lý tưởng sống đẹp, chất suy tưởng,
trạng thái cô đơn và những bi kịch nội tâm giằng xé.
67
Trong kiểu nhân vật bi kịch là trí thức - kẻ sĩ đời nay, Ma Văn Kháng
có những mẫu hình có hai mẫu hình cơ bản: một là nhân vật trí thức được ví
như "cuốn sách hay để lầm chỗ". Hai là nhân vật trí thức dấn thân "ngược
dòng nước lũ" đấu tranh chống tiêu cực, bảo vệ cái đẹp của cuộc sống.
Ở mẫu hình thứ nhất, nhân vật trí thức - cuốn sách hay để lầm chỗ có
một điểm chung là khao khát được làm việc, cống hiến những tinh lực của
mình cho sự nghiệp mà họ theo đuổi. Giỏi giang, thông tuệ, mẫn tiệp, có năng
lực thấu cảm người khác, nội tâm luôn day dứt, băn khoăn, trăn trở về con
người và cuộc đời, nhưng họ không có sự quyết đoán và mạnh mẽ trong hành
động. Nhìn chung, họ bi quan, yếm thế và lạc lõng dù được nhà văn hết lòng
ưu ái. Những nhân vật này được Ma Văn Kháng đặt trong những giai đoạn
đời sống cụ thể, họ buộc phải đối mặt với những hoàn cảnh nghiệt ngã, với tất
cả những bi kịch nội tâm chua xót. Chính ở những hoàn cảnh ấy, kiểu nhân
vật này đã bộc lộ tất cả những ưu điểm và khuyết thiếu một cách rõ nét. Tiêu
biểu cho "cuốn sách hay để lầm chỗ" là thầy giáo Đặng Trần Tự trong Đám
cưới không có giấy giá thú. Đây là một nhân vật được Ma Văn Kháng đặc biệt
ưu ái và dụng công miêu tả, phân tích nội tâm. Có năng lực và tâm huyết, lý
tưởng sống của Tự gắn với niềm say mê văn chương, là thầy giáo, anh muốn
đem tình yêu văn chương của mình tận hiến cho học trò, những phút thăng hoa
văn chương của khiến ta liên tưởng tới nhân vật văn sĩ Hộ trong Đời thừa của
Nam Cao. Giữa dòng đời nghiệt ngã, anh phải đối mặt với cơm áo gạo tiền,
với người vợ "thuộc tầng lớp dân chúng phổ thông, ít suy tư rắc rối, vụ lợi
một cách giản đơn" [67, tr. 29], đối mặt trước sự gian trá của hiệu trưởng Cẩm
"tự tiện một mình mở bài thi đã khớp phách chữa điểm" [67, tr. 363], rồi vu oan
cho ông Thống khiến ông "xuất huyết não, hết khả năng tố cáo" [67, tr. 16]
anh đau đớn đến tận cùng vì nhận ra mình bất lực. Tự cảm thấy mình như
"kẻ tuẫn nạn của một sở nguyện tin cậy? Bị bạc đãi, bị khinh rẻ. Bị đầy đọa.
Bị phản bội. Bị tước đoạt... chút ao ước định danh cũng không được chấp
nhận" [67, tr. 452-453]. Câu hỏi "vì sao mà đời Tự lại như cuốn sách hay để
68
lầm chỗ. Vì sao Tự không gặp gỡ được lý tưởng; cuộc hôn nhân giữa anh và
cái đẹp anh tôn thờ không được như ý muốn. Một đám cưới không thành. Một
hành trình trắc trở" [67, tr. 380]. Từ lời trữ tình ngoại đề, Ma Văn Kháng cho
thấy một ám ảnh khôn nguôi về thân phận người trí thức ở một giai đoạn đã
qua. Cũng ở nhân vật Tự, Ma Văn Kháng đã nhìn thấy tất cả những mặt yếu
của người trí thức: đó là sự yếm thế, bi quan, chưa có sự quyết liệt và dũng
cảm, nhìn thấy những bi kịch trong cuộc sống, nhưng lảng tránh nó, không
đấu tranh đến cùng để bảo vệ cuộc sống của mình, lối sống mà có lúc anh tôn
vinh "duy ngã độc thanh cao" lại khiến cho anh trở thành "chàng ngốc" trong
mắt người khác. Nói cách khác, nhân vật bi kịch "cuốn sách hay để lầm chỗ"
trong các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng là những nhân vật thất bại ở một
chừng mực nào đó. Thất bại trong sự nghiệp, thất bại trong hôn nhân, tình
yêu, thất bại trong sự đấu tranh vươn lên vì một lý tưởng sống đẹp. Lý giải
nguyên nhân thất bại của nhân vật này ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng đúng
như cách nói của nhà văn, tựu chung lại chính là "lầm chỗ". Nhưng có lẽ,
miêu tả và phân tích sự thất bại của nhân vật, nhà văn muốn bảo toàn những
giá trị mà ông theo đuổi - giá trị con người mà những áo cơm dằn vặt và sự
tha hóa của đồng tiền không làm họ thay đổi. Họ là người của thời xa vắng và
ở một độ lùi thời gian hơn 20 năm, ta thấy kiểu nhân vật này vừa đáng
thương, vừa đáng giận, vừa đáng trách. Từ kiểu nhân vật này, Ma Văn Kháng
đã bày tỏ nỗi đau trước bi kịch người trí thức chân chính, mang trong mình
những phẩm chất cao thượng, sự tích lũy tri thức nhân loại, khát khao dâng
hiến lại bị hạ nhục, bị lăng mạ, bị khinh miệt, coi thường.
Không lặp lại chính mình, ngay trong kiểu nhân vật trí thức, đối chứng
cho mẫu hình trí thức như "cuốn sách hay để lầm chỗ" lại là một mẫu hình
nhân vật trí thức "ngược dòng nước lũ". Đó là nhân vật trí thức dấn thân dũng
cảm trên mặt trận đấu tranh chống tiêu cực, chống lại bất công, tha hóa, cái ác.
Kiểu nhân vật này vẫn có những giá trị bất biến như ở mẫu hình lý tưởng như
lòng yêu nước, tinh thần tôn thờ lý tưởng cách mạng, khát khao tận hiến trí tuệ
69
và cả thể xác cho sự nghiệp chung, sẵn sàng đối mặt với cái ác... Là Trọng,
Nam (Mưa mùa hạ), Luận (Mùa lá rụng trong vườn), Kha (Đám cưới không có
giấy giá thú), Thiêm (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn)... Kiểu trí thức dấn thân - ngược
dòng nước lũ không có mang "ám ảnh buồn tủi về thân phận" [67, tr. 75],
luôn thức thời và suy tưởng sâu sắc về đời sống xã hội, họ tự nguyện dấn thân
vào dòng xoáy cuộc đời với tinh thần nhập cuộc để xây dựng và bảo vệ cái
đẹp cuộc sống con người. Ở mẫu hình này, Ma Văn Kháng đã đạt tới sự cân
bằng hài hòa trong nội tâm và hành động. Không có mặc cảm về thân phận,
họ dũng cảm lội ngược dòng, đấu tranh đến cùng cho xác tín của họ về lý
tưởng sống, về giá trị sống. Đó là cuộc đấu tranh của Trọng với những trì trệ,
tiêu cực; là thái độ sống và viết mạnh mẽ của Luận, Kha; là sự nghiệp xây
dựng tòa lâu đài văn hóa La Pan Tẩn mà Thiêm theo đuổi hơn mười năm trời
ròng rã; là cuộc đấu tranh bảo vệ giá trị con người, hạnh phúc và tình yêu của
Khiêm giữa dòng đời cuộn chảy.
Khám phá đời sống nội tâm từ những trăn trở, day dứt của Trọng,
Luận, Kha, Khiêm, Thiêm về đời sống con người, sự suy thoái đạo đức, lối
sống tiêu dùng, hưởng thụ, nguy cơ tan vỡ gia đình và các giá trị truyền thống...
Ma Văn Kháng đã cho thấy trách nhiệm của trí thức với đời sống hiện thực.
Từ những trang tiểu thuyết, gắn nhân vật với những vấn đề trong cuộc sống
đang cần cắt nghĩa và lý giải, hướng tới phân tích nhân vật qua những biểu
hiện cụ thể trong các quan hệ đời sống, không nhìn con người ở phương diện
chính trị và lý trí thuần túy, chỉ xem đó là một phần cấu thành vào đời sống.
Chính điều đó đã đem đến vẻ đẹp cho mẫu hình trí thức ngược dòng nước lũ
trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Nhưng nếu chỉ có thế, các nhân vật bi kịch
của Ma Văn Kháng vẫn là kiểu anh hùng lý tưởng. Vậy điều gì đã làm nên
chất bi kịch ở các nhân vật này. Chính mâu thuẫn giữa con người và hoàn
cảnh sống, giữa lý tưởng và hiện thực đã sản sinh ra các bi kịch cá nhân
nhưng có ý nghĩa xã hội lớn lao. Cụ thể hơn, là nỗi đau của Trọng (Mưa mùa
hạ) khi chứng kiến tình yêu tan vỡ, người mình yêu thương, tôn thờ lại là cô
70
gái thực dụng, nông nổi, dễ lầm lạc trước cám dỗ, chạy theo sức mạnh vật
chất. Là ở chỗ, những kẻ như Hưng (Mưa mùa hạ) lãnh đạo trực tiếp lại là kẻ
cơ hội, hãnh tiến, vì địa vị chức quyền sẵn sàng đạp lên mạng sống của người
khác, ăn cắp, ăn cướp sản phẩm trí tuệ của đồng nghiệp để mưu cầu lợi ích cá
nhân. Là cái chết đau đớn, bi thảm của Nam, Trọng khi các anh đang cố
chống lại những dòng xoáy điên cuồng của cuộc đời. Bi kịch của Khiêm
(Ngược dòng nước lũ) ở chỗ anh tôn thờ tình cảm, luôn giúp đỡ những kẻ yếu
thế và bị đời khinh miệt, cuối cùng chính anh lại bị những kẻ đó vì lợi ích cá
nhân sẵn sàng bán đứng. Là ở chỗ anh căm thù, khinh bỉ những mối quan hệ
vượt qua rào cản đạo đức, nhưng chính anh lại rơi vào một tình yêu không lối
thoát với Hoan, chính mối tình ấy là vũ khí để kẻ thù chống lại anh, hạ bệ anh,
đẩy anh và Hoan vào những cảnh đời éo le ngang trái. Hoan bị vợ anh rạch
mặt bằng dao lam, bị lợi dụng trở thành kẻ buôn thuốc phiện, bị bắt và đối
mặt với án tù. Khiêm bị đọa đầy đến độ thập tử nhất sinh, đau đớn hơn nữa là
trong lúc cận kề cái chết, ám ảnh anh chính là Thoa, người vợ lại mang nhân
tình về để đẩy anh gần hơn đến cái chết và trong lúc đó, chúng ân ái khoái lạc
không còn biết đến liêm sỉ và giới hạn.
Xót thương cho thân phận người trí thức trong một thời đoạn lịch sử
mang tính chất đặc thù, Ma Văn Kháng đã đi sâu mổ xẻ những ẩn ức, nỗi u
buồn, sự dằn vặt trong nội tâm các nhân vật. Tự đau đớn khi thấy Xuyến - cô
thủ thư - người vợ đầu gối má kề trở thành kẻ nanh nọc để bảo vệ tấc đất của
ngôi nhà anh đang sống trong khi anh không dám đối mặt để bảo vệ tài sản và
người thân của mình. Anh trong cái hang ổ cuối cùng - căn gác xép - Tùng
Thiện thư viện, lắng nghe tiếng đời lăn qua giọng chao chát của vợ từ ngày
đầu tiên rồi sau đến tiếng cười ỡm ờ, đối thoại lẳng lơ giữa Xuyến với Quỳnh,
rồi gần như tuyệt vọng khi thấy trong hang ổ ấy, chiếc quần lót - dấu tích của
một cuộc ân ái, bằng chứng của phản bội và ô nhục, cú sang chấn tinh thần
khiến cho anh gục ngã. Anh chỉ còn bục giảng và đồng nghiệp, những người
có thể nâng đỡ anh trong cuộc đời "như vại dưa muối hỏng này" thì chính bục
71
giảng và đồng nghiệp lại vùi sâu anh hơn vào bi kịch không lối thoát. Kết thúc
tác phẩm là sự trở lại của Tự với mái trường, trở lại để rồi ra đi, tâm trạng của
anh ở những dòng cuối cùng của tác phẩm giống như "vầng phượng già đỏ
não đỏ nùng như những vũng máu tươi của một cuộc chiến bi thương và
quyết liệt" [67, tr. 460]. Phân tích bi kịch của nhân vật Tự, Ma Văn Kháng đã
đi sâu tìm hiểu bản thể con người trong cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội trước
ham muốn và sức mạnh tha hóa của tiền tài, khả năng chống đỡ và tồn tại của
anh ta để bảo vệ giá trị mà anh ta theo đuổi. Từ đó, cảm thương cho số phận
người trí thức trong một cuộc chiến không cân sức và bày tỏ thái độ phẫn nộ
trước sự xuống cấp của đạo đức. Hơn 20 năm, những số phận như Tự cho đến
nay, vẫn có sức ám ảnh khôn nguôi với chúng ta.
Bước sang một địa hạt mới để khám phá hiện thực đời sống đương
đại, trong kiểu nhân vật bi kịch ở một số tác phẩm gần đây như Bóng đêm và
Bến bờ, Ma Văn Kháng đã cho thấy năng lực sáng tạo, cái nhìn con người,
hiện thực của nhà văn luôn bám sát dòng chảy cuộc sống khi đã ở tuổi "xưa
nay hiếm". Nhà văn đã xây dựng một loại độc đáo - hiệp sĩ an ninh - mà ở
nhân vật này vừa có vẻ đẹp lý tưởng vừa ẩn chứa những bi kịch nội tâm sâu
sắc. Nói cách khác, nhân vật này, vừa bi vừa hùng, hay gọi là nhân vật bi
hùng trong kiểu nhân vật bi kịch.
Chất hùng ở nhân vật hiệp sĩ an ninh là lí tưởng chiến đấu hy sinh bảo
vệ cái đẹp, cái thiện, vì danh dự và bổn phận, trách nhiệm với nhân dân, với
cộng đồng trong nghề nghiệp họ lựa chọn. Không nhìn vào hành động và
chạy theo sự gay cấn, nhà văn chú ý khai thác tâm lý của những nhân vật này
trong hành trình thực thi công lý, đối mặt với tội ác, suy tưởng về con người
và cái đẹp. Sự kết hợp giữa yếu tố tâm lý và hình sự trong hai cuốn tiểu thuyết
đã tạo nên kiểu nhân vật độc đáo, một phiên bản nhân vật anh hùng trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng giai đoạn sau. Nhân vật hiệp sĩ an ninh là biểu tượng
của cái đẹp bởi họ: "dám đem sinh mệnh của mình ra để bảo vệ chân lý, sẵn
sàng hy sinh, đón nhận cái chết!... đẹp vì trạng thái bi hùng" [95, tr. 291]. Đó
72
là cái đẹp của những con người tượng trưng cho ánh sáng, cho chân lý, đối diện
với cái ác được ẩn mật trong bóng đêm tăm tối, bóng đêm đồng lõa với tội ác.
Sự lựa chọn nghề nghiệp của các anh không xuất phát từ những lợi ích cá nhân,
mà cao hơn, nó xuất phát từ khát vọng thực hiện công lý, bảo vệ bình yên cho
cuộc sống con người. Họ là những người đứng đầu trên mặt trận chống lại cái
ác. Đối diện trực tiếp với tội phạm - những kẻ thủ ác, họ mang trong mình
phẩm chất hiệp sĩ, vẻ đẹp tâm hồn cao thượng, trí tuệ mẫn tiệp, chiến đấu và
hy sinh như lời thơ Chế Lan Viên đã chọn làm đề từ ở Bóng đêm: "Chúng ta ở
trên đời không chỉ để ra nụ ra hoa mà còn mang thương tích". Đó là Nhâm,
Trừng, Ông Tầm, Khuynh (Bóng đêm), là Điền, Thịnh, Lập... (Bến bờ)...
Khi miêu tả những nhân vật này, Ma Văn Kháng đã tập trung vào hai
điểm cơ bản trong tính cách nhân vật: cao thượng và giàu chất suy tưởng. Đó
là hai vẻ đẹp tinh thần, hai giá trị cơ bản của người chiến sĩ an ninh trên mặt
trận chống tội phạm vì bình yên cuộc sống. Chấp nhận hy sinh cuộc đời mình
khi họ bắt đầu cầm súng đứng trong hàng ngũ, họ nhận ra "nỗi thống khổ của
kẻ bị sỉ nhục, nỗi đau đớn của con người, xét đến cùng, không phải là bị bỏ
đói, bị đánh đập, mà là bị giày đạp lên phẩm giá, danh dự" [96, tr. 34]. Cao
thượng khi nhận rõ trách nhiệm của mình, chống lại cái ác đang hiện diện
muôn hình muôn vẻ, giữ thăng bằng lòng mình trước bất công ngang trái, không
mềm lòng trước cám dỗ vật chất của đời sống. Họ ý thức sâu sắc về con người
và phẩm giá "phải quý trọng phẩm giá mình, bảo vệ nó như trái tim, bảo vệ nó
bằng toàn bộ sức lực và sinh mệnh mình. Danh dự, phẩm giá, khí tiết là tinh hoa
cần được ủ ấp, được bảo vệ như trái tim trong ngực con người, như đóa hồng cài
trước ngực" [96, tr. 35]. Ở những con người này, tinh thần thượng tôn pháp
luật, sự dũng cảm, thái độ căm ghét tội ác, lòng dũng cảm... những biểu hiện
của tính cách cao thượng ấy đều bắt nguồn từ tình yêu thương con người. Đối
mặt với bóng đêm tội ác, các anh chấp nhận sự hy sinh, cái chết bởi từ công
việc của mình, các anh hiểu sâu sắc "cái chết như một sự cần thiết để đưa
cuộc sống của chúng ta đến một bình diện cao hơn" [95, tr. 161]. Những hiệp
73
sĩ ánh sáng qua cái nhìn phân tích của Ma Văn Kháng không phải là những
con người khác lạ với cuộc đời. Nhà văn đã đặt họ trong những mối quan hệ
phức tạp mang tính bi kịch để cho phẩm chất cao thượng của họ bộc lộ. Điền
trong mối tình với Khanh, trong quan hệ với ông Hói - thủ trưởng trực tiếp,
với Nghiệm - gã đồng học bỉ ổi, với tội phạm... tất cả những hành động, suy
tưởng, tâm trạng... nẩy sinh từ những mối quan hệ ấy phản ánh con người anh
một cách sâu sắc và đầy đủ. Hay ở nhân vật Lập - nhà văn không đi phân tích
những hành động của anh trước tội phạm, mà đặt anh trong một tình huống bi
kịch, chứng kiến cảnh người vợ yêu quý, đầu gối má kề của mình ôm ấp một
kẻ tội đồ, cặn bã vừa mãn hạn tù dưới tay anh - tên Ngộ - để thỏa mãn dục
vọng khi anh vừa ra khỏi nhà. Anh có thể làm gì vào lúc ấy, nhà văn đã cho
nhân vật trải qua tất cả các cung bậc cảm xúc để thể hiện bản chất người của
anh. Cay đắng, phẫn nộ, căm hận, rối loạn, kinh tởm... có biết bao xúc cảm đã
trải qua trong phút giây ấy. Từ những cảnh ngộ bi kịch éo le ngang trái tưởng
không bao giờ có thể xảy ra, nhân vật hiệp sĩ ánh sáng hiện ra với tất cả vẻ
đẹp cao quý của họ. Những phẩm chất cao thượng trong con người họ như
một hằng số bất biến mà nghịch cảnh số phận chỉ làm nó thêm tỏa sáng.
Cái chết của nhân vật bi kịch cũng là một vấn đề đặt ra trong các tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng. Kết thúc Mưa mùa hạ là cái chết của Nam, Trọng.
Kết thúc Côi cút giữa cảnh đời là cái chết của Bà Nội. Kết thúc Chó Bi, đời
lưu lạc là cái chết của cô giáo Trang, oan khiên và nghiệt ngã. Kết thúc Một
mình một ngựa là cái chết đau đớn của ông Quyết Định. Kết thúc Bóng đêm -
Nhâm bị thương nặng, Trừng, Khuynh hy sinh; Điền (Bến bờ) cũng hy sinh
trên đường truy bắt tội phạm. Đó là điều không thể tránh khỏi trong cuộc
chiến đối đầu với cái ác hiện diện trong bóng đêm, nhưng cái chết của các anh
là một sự hy sinh mang ý nghĩa như là bến bờ "cái chết đi đến đích, sau đó thì
an lòng yên nghỉ" [96, tr. 277] và "khi ta chết đi, chẳng còn lại gì ngoài những
thứ ta cho kẻ khác" [96, tr. 279]. Cái cho đi của hiệp sĩ ánh sáng chính là niềm
tin bất diệt vào bản chất tốt đẹp, hướng thiện, công lý tất thắng của con người.
74
Đó chính là bến bờ của sự thức nhận giá trị sống mà nhà văn hướng tới qua
kiểu nhân vật này.
3.1.2.2. Phụ nữ
Nhân vật phụ nữ có một vị trí đặc biệt trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng,
nhà văn dành cho họ niềm ưu ái và sự trân trọng rất mực. Trong các tiểu thuyết
sử thi, người phụ nữ dân tộc thiểu số miền biên ải luôn được Ma Văn Kháng
quan tâm, miêu tả, phân tích từ những góc nhìn khác nhau. Góc nhìn giai cấp,
góc nhìn giới tính nữ. Trước tiên, từ góc nhìn giai cấp, họ là nạn nhân đặc biệt
dưới chế độ phong kiến gia trưởng. Đó là những cô gái dân tộc Mông trẻ đẹp,
đầy khát vọng yêu đương, ý thức sâu sắc về giá trị của mình nhưng số phận vô
cùng bi thảm. Họ là công cụ lao động, kiếp sống của họ như "ngựa thồ", thân
phận như "chõ đồ máo của". Bị gả bán, bị cướp về làm vợ, bị ép buộc tình dục,
bị đối xử tàn tệ. Không được quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân và tình yêu,
cuộc đời của họ chìm trong tăm tối, bất hạnh. Xiềng xích trói buộc họ là hủ
tục định kiến, mê tín dị đoan, cường quyền, thói gia trưởng... Mỗi con người
một số phận khác nhau, người bị ép duyên ba bốn lần như chị Pàng, Seo Cả
(Vùng biên ải), người bị bắt làm dâu, bị đày đọa khốn cùng đến điên dại như
Seo Ly (Vùng biên ải), người bị coi như công cụ để thỏa mãn tình dục như Seo
Say, Seo Váy (Vùng biên ải), người bị lạm dụng tình dục như Seo Di (Trăng
non)... Cuộc đời và số phận của họ là những trang đẫm nước mắt bi thương.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở miêu tả số phận của người phụ nữ vùng cao
như là nạn nhân khốn cùng của chế độ phong kiến gia trưởng dòng tộc thì
nhân vật của Ma Văn Kháng không thể vượt qua được Tô Hoài với hình
tượng Mỵ. Vậy, sự khác biệt của nhân vật người phụ nữ dân tộc thiểu số trong
tiểu thuyết Ma Văn Kháng ở đây là gì? Đó là từ những số phận bi thảm ấy,
Ma Văn Kháng nhìn thấy những nhan sắc "khuấy động tình trường", những
tâm tư sâu kín về hạnh phúc lứa đôi, về khát vọng ái ân tình dục mạnh mẽ.
Những điều mà đối với phụ nữ ở miền xuôi, ở thời điểm đó, vẫn như là sự
cấm kỵ, không bàn đến trong tác phẩm văn chương thì ở tiểu thuyết Ma Văn
75
Kháng đã được phân tích một cách sâu sắc qua cuộc đời của những Seo Cả,
Seo Ly, Seo Say... Các nhân vật phụ nữ dân tộc thiểu số của Ma Văn Kháng
có khát vọng tình yêu và năng lực tình dục rất mạnh mẽ. Họ không che giấu
những điều đó, khi gặp được người họ yêu thương, sẵn sàng đi theo cùng trời
cuối đất, chấp nhận tất cả để được sống với tình yêu. Đưa tất cả những khát
vọng sống đầy tính bản năng ấy vào tiểu thuyết của mình, Ma Văn Kháng đã
khiến cho độc giả bất ngờ trước thế giới tinh thần phong phú, bí ẩn, hấp dẫn
của người phụ nữ miền biên ải. Kết thúc của các nhân vật các nhân vật phụ nữ
dân tộc thiểu số trong tiểu thuyết sử thi hầu hết là cái chết. Họ có thể bị giết chết
như Seo Ly hay tự mình kết thúc cuộc đời bằng lá ngón, thuốc phiện, dấm
thanh như chị Pàng, Seo Say..., dù thế nào thì cái chết của họ vẫn luôn ám ảnh
người đọc bởi những nỗi đau khổ, thất vọng cùng cực về cuộc sống, sự tuyệt
vọng khi không tìm được lối thoát cho cuộc đời mình. Qua những nhân vật
này, Ma Văn Kháng đã bày tỏ tình yêu thương, đồng cảm với những người
phụ nữ vùng cao. Đồng thời, ông đặt ra vấn đề giải phóng phụ nữ và bình
đẳng giới cho họ - một vấn đề mà ở thời điểm đó, chưa được giải quyết triệt
để. Đó chính là tầm nhìn mang tính nhân văn sâu sắc ở kiểu nhân vật này.
Trong các tiểu thuyết thế sự đời tư, nhân vật phụ nữ được khám phá ở
góc nhìn cá nhân qua cuộc mưu sinh, các mối quan hệ gia đình và xã hội, đời
sống vật chất và tinh thần, những ham muốn và ẩn ức tâm sinh lý, nhu cầu
tình dục, tính cách và số phận... Chân dung người phụ nữ bình dân thành thị
qua đó, trở nên vô cùng sống động, chân thực và hấp dẫn. Trước hết, đó là
những nhân vật "hồng nhan đa truân". Đây là một kiểu nhân vật hấp dẫn trong
các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, đi song song bên cạnh nhân vật trí thức/
quân tử/ kẻ sĩ hiện đại, họ - như là một đối xứng để làm nổi bật hơn nhân cách
trí thức. Đó là Loan (Mưa mùa hạ), Lý (Mùa lá rụng trong vườn), Hoan
(Ngược dòng nước lũ), Quyến (Bóng đêm), Khanh (Bến bờ)... Mỗi nhân vật
có tính cách và số phận khác nhau nhưng điểm chung giữa họ chính là nhan
sắc quyến rũ và số phận truân chuyên.
76
Loan (Mưa mùa hạ), là mối tình đầu tiên và duy nhất của Trọng. Trẻ
trung, xinh đẹp, từng là niềm tin và hy vọng cho Trọng những ngày anh đi xa.
Nhưng cuộc sống đã thay đổi Loan, tình yêu giữa hai người tan vỡ, Loan bỏ
Trọng, lấy Thưởng, một gã con buôn lọc lõi tình trường, dám chặt đứt ngón tay
để lẩn trốn nghĩa vụ với đất nước khi có chiến tranh, có mang, rồi Thưởng chết,
cô chạy theo Hảo (họa sĩ) trốn ra nước ngoài. Bỏ lại sau lưng tất cả những gì mà
cô đã từng yêu quý và gắn bó. Vì sao một người con gái như thế lại rơi vào
nghịch cảnh éo le, truân chuyên, đánh mất đi tất cả giá trị tốt đẹp. Đi sâu tận
cùng ngóc ngách tâm lý nhân vật, Ma Văn Kháng đã lý giải, số phận truân
chuyên của cô là bởi ở nhân vật này, xuất thân từ tầng lớp bình dân thành thị,
thiếu một nền giáo dục căn cốt nền tảng, đời sống gia đình chỉ xoay quanh giá trị
vật chất và đồng tiền, người cha lao động vất vả mưu sinh nhưng không có uy
quyền trước người mẹ tham lam, thực dụng và dâm đãng. Trượt dài trên con
đường đánh mất nhân cách, số phận của Loan như một nỗi day dứt, ám ảnh và
tiếc nuối cho cái đẹp bị xâm hại, bị bức tử và tha hóa trước đồng tiền và dục vọng.
Nhân vật Lý (Mùa lá rụng trong vườn), là một kiểu dạng truân chuyên
khác. Lý đã ngoài bốn mươi, có một cuộc sống nhìn bề ngoài rất bình yên,
xinh đẹp, đảm đang, tháo vát, đáng mặt dâu trưởng, nội tướng trong nhà. Suốt
một thời gian dài, chồng đi xa, chị lo công việc gia đình, xã hội chỉn chu
không điều tiếng. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, chị lại rơi vào bi kịch hôn
nhân, ngoại tình, bỏ nhà ra đi theo người khác, bỏ công việc, bỏ lại tất cả phía
sau không nuối tiếc. Vì sao người phụ nữ này lại chọn con đường truân
chuyên không biết trước tương lai ra sao như thế để đi tiếp phần đời còn lại. Ở
thời điểm bấy giờ, nhìn nhận chị, người ta chỉ thấy một chị Lý phản bội, hư
hỏng. Nhưng như chính Ma Văn Kháng đã từng mượn lời một nhân vật trong
Mưa mùa hạ để nói: "Chúng ta thường hay có thói tật chỉ công nhận mỗi một
chuẩn mực" [94, tr. 345], nếu chỉ nhìn vào hành động của Lý, ta sẽ kết luận
đấy là kết quả của lối sống ích kỷ cá nhân, hưởng thụ, hay Lý là người nông
nổi, dễ dãi trong tính cách. Nhìn sâu vào phía trong tâm hồn người phụ nữ
77
này, sẽ thấy, những ẩn ức sâu xa về người chồng qua câu hỏi: "Vì sao mình lại
lấy ông Đông?" [91, tr. 17] nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm, chính là
sự thất vọng, nỗi cô đơn, buồn chán khi sống với con người nhàm tẻ, vô vị, an
phận. Người phụ nữ xinh đẹp, tháo vát, đanh đá ấy rất có thể sẽ là một chị Lý
khác nếu chị có được một người bạn đời hiểu và chia sẻ những gì chị suy
nghĩ. Không thể tìm tiếng nói chung với chồng và gia đình, chị bỏ đi theo
người tình dù hiểu hắn đến tận cùng chỉ là một kẻ khốn nạn và cơ hội. Đó là
cả một sự đánh đổi? Vấn đề tại sao chị nhìn thấy những điều đó mà vẫn lao
vào. Tất cả những điều đó cho thấy, con người tưởng như đơn giản mà hóa ra
vô cùng phức tạp trong một thế giới riêng tư khó nắm bắt.
Loan, Lý - hai người phụ nữ, một già một trẻ, mỗi người một số phận
khác nhau, khép tiểu thuyết lại, người đọc vẫn băn khoăn không biết họ sẽ đi đâu
về đâu. Sự truân chuyên của họ, ngoài những yếu tố gia đình, xã hội, thì chính
con người cá nhân của họ với những ham muốn, những đam mê, dục vọng không
thể khống chế, những ẩn ức, khao khát về hạnh phúc của họ, một hạnh phúc rất
đời của phụ nữ: được yêu chiều, thương quý và sống một cuộc đời bình thường,
thậm chí tầm thường trong mắt người khác là nguyên nhân. Miêu tả số phận của
các nhân vật này, phải chăng Ma Văn Kháng muốn cất lên tiếng nói chia sẻ với
những người phụ nữ trong một thời điểm cuộc sống có nhiều biến động. Câu hỏi
nhà văn đặt ra cho chúng ta ở đây chính là: ta đã làm gì cho người ta yêu quý,
hay chỉ đứng nhìn họ bị dòng đời cuốn đi, mất họ vĩnh viễn. Kết cục của Loan,
Lý và bao thân phận nữa chẳng phải là điều đáng tiếc nhất, nỗi hổ thẹn lớn nhất
của những người đàn ông khi không giữ được người đàn bà của mình hay sao?
Hoan (Ngược dòng nước lũ) là người phụ nữ trung niên xinh đẹp, nữ
tính, thử việc đọc bản in ở một nhà xuất bản, chị cô đơn nên nhiều kẻ rắp tâm
chiếm đoạt. Hoan yêu Khiêm, một tình yêu ngang trái vì Khiêm đã có gia
đình. Họ cố gắng chia sẻ và yêu thương nhau trong một thế giới riêng tư
nhưng họ buộc phải chia lìa vì những âm mưu thủ đoạn đê hèn. Mất việc, bị
vợ Khiêm, người đàn bà đã phản bội chồng trắng trợn rạch mặt, Hoan trở về
78
vùng đất cũ, đối diện với những thực tại xấu xa, mất niềm tin, khao khát trả
thù, chị buôn thuốc phiện và vào tù. Thật khủng khiếp đối với một người phụ
nữ như Hoan. Những bi kịch đó đã tạo nên một nhân vật Hoan, tính cách vô
cùng phức tạp. Tính cách và số phận truân chuyên của người phụ nữ này thực
sự là một ám ảnh về thân phận con người trong những năm cuối cùng của thế
kỷ trước.
Trong các tiểu thuyết, còn có bao phụ nữ lầm lỡ trong cuộc đời, không
chế ngự được ham muốn và dục vọng, bị rơi vào những cảnh ngộ đáng
thương, có người trở nên nghiệt ngã, đố kỵ, đê hèn, vụ lợi, tham lam, ích kỷ
như bà trưởng phòng của Phượng (Mùa lá rụng trong vườn), cái Tý Hợi
(Ngược dòng nước lũ), Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú). Hay phải bỏ
xứ phiêu bạt vì những tội lỗi của mình như Thụy (Côi cút giữa cảnh đời),
Thoa (Ngược dòng nước lũ), Nhàn (Bến bờ)... Cắt nghĩa những nguyên nhân
bi kịch cuộc đời của họ, Ma Văn Kháng đã nhìn thấy ở những con người này,
bị bản năng chi phối, ham muốn đời sống vật chất đến tột độ đã khiến cho họ
không giữ được thăng bằng, dẫn đến lầm lạc trong cuộc sống, đánh mất hạnh
phúc và tình yêu, trả giá đau xót bằng chính cuộc đời mình.
Bên cạnh những phụ nữ hồng nhan, Ma Văn Kháng còn dụng tâm xây
dựng chân dung những người vợ, người mẹ, người bà gian nan vất vả trong
tiểu thuyết của mình. Chị Hoài, Phượng (Mùa lá rụng trong vườn), Cô giáo
Trang (Chó Bi, đời lưu lạc), Bà nội (Côi cút giữa cảnh đời) tiêu biểu cho biết
bao người mẹ, người bà trong mỗi gia đình Việt Nam trong hai thập kỷ cuối
cùng của thế kỷ XX. Âm thầm, mạnh mẽ, gan góc, nghị lực đối mặt với gian
nan, thử thách, khó khăn của đời sống những năm bắt đầu sự nghiệp đổi mới,
những người phụ nữ đó đã bộc lộ những phẩm chất mới, phù hợp với yêu cầu
thực tại. Nhân vật có chiều sâu và đi hết hành trình tác phẩm, để lại những ấn
tượng sâu sắc chính là Bà Nội trong Côi cút giữa cảnh đời. Người mẹ già có
một nội lực lớn lao, đó là tình thương con cháu vô bờ bến, có một trí tuệ nhạy
bén và từng trải, ý thức đấu tranh tự bảo vệ quyền lợi của mình đàng hoàng,
79
chân chính. Nhân vật Bà vì thế, vừa mang những nét xưa vừa rất mới, sắc sảo
và mạnh mẽ chứ không âm thầm chịu đựng đắng cay. Nhân vật Bà Nội đã
khơi gợi ở người đọc cái thiện, tình người.
Trong Bóng đêm và Bến bờ, bên cạnh các nhân vật hiệp sĩ an ninh, có
bóng hình những người phụ nữ nhan sắc xinh đẹp, nhưng họ hiện diện với
một vị thế khác, họ không lầm lỡ và oan khuất dù ở trong những hoàn cảnh bi
kịch. Đó là Cúc, Quyến (Bóng đêm), Khanh (Bến bờ), những người con gái có
số phận bi kịch, khổ đau: Quyến từng va vấp và rơi vào những cạm bẫy của
cuộc sống, phải đi làm tiếp viên trong nhà hàng để mưu sinh, Khanh cô đơn
giữa cuộc đời, sống trong một tổ quỷ với những kẻ máu lạnh, chỉ chực cưỡng
hãm, cướp đoạt tất cả những gì thuộc về cô. Mỗi người một số phận nhưng ở
họ, luôn toát lên lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Sống trong bi kịch, giữa những
kẻ đồi bại, xấu xa, ghê tởm nhưng họ vẫn đàng hoàng, giữ được phẩm giá của
mình, vươn lên đi tìm hạnh phúc.
Có thể nói rằng, qua nhân vật người phụ nữ, dù già hay trẻ, hạnh phúc
hay khổ đau, Ma Văn Kháng luôn bộc lộ những hiểu biết sâu sắc về đời sống
tâm sinh lý, sự ngưỡng mộ trân trọng vẻ đẹp tinh thần và thể chất của họ. Qua
cuộc sống của họ, với những phẩm chất đặc biệt của phụ nữ, sự lựa chọn tình
yêu, số phận truân chuyên, bản năng làm mẹ, làm vợ, những sai lầm lỡ bước,
những ẩn ức tâm lý... Ma Văn Kháng nhìn thấy ở họ những khát vọng sống
rất thành thực, rất giản dị, được sống yên bình và hạnh phúc đủ đầy, được yêu
thương và chia sẻ yêu thương. Bên cạnh đó, nhà văn cũng thể hiện nỗi xót xa
cho những người phụ nữ quá nhiều toan tính thực dụng dẫn đến lầm lạc trong
tình trường, để rơi mình vào nghịch cảnh éo le, chua xót.
3.1.3. Nhân vật tha hóa
Miêu tả nhân vật ở thế đối lập, bằng cảm hứng phê phán, châm biếm,
hài hước, Ma Văn Kháng tạo dựng những chân dung phản diện điển hình: các
thổ ty, lãnh chúa phong kiến và công cụ tay sai, những kẻ mạo danh, tội phạm
thủ ác, những kẻ dưới đáy xã hội.
80
Thổ ty, lãnh chúa phong kiến là kiểu nhân vật phản diện độc đáo trong
tiểu thuyết sử thi của Ma Văn Kháng, thuộc tầng lớp cai trị cao nhất trong chế
độ phong kiến ở vùng dân tộc miền núi trước Cách mạng tháng Tám, được
triều đình phong kiến cho truyền nối theo kiểu thế tập phiên thần. Đến thời
Pháp thuộc, các thổ ty được bổ làm tri châu, châu úy, châu đoàn, chánh tổng,
lý trưởng, vẫn là chúa đất cát cứ, là chủ nô có quyền sinh sát, chuyên thu tô,
cho vay nặng lãi, áp chế, bóp nặn đến cùng kiệt người nông nô dưới quyền
mình. Chân dung các nhân vật thổ ty được Ma Văn Kháng tạo dựng phong
phú, đa dạng, giàu cá tính, phản ánh chân thực bản chất của giai cấp thống trị
người dân tộc thiểu số phía Bắc. Đó là Hoàng Văn Chao (Tày), Nông Vĩnh
Yêng (Nùng), Lục Đình Hoàng (Nhắng), La Văn Đờ, Vàng Đinh Tráng, Hán
Sẻo Long (Mông)... trong Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải. Mỗi nhân
vật đều có cá tính rất sắc nét, chân dung được lột tả sống động. Nổi bật nhất là
thổ ty Hoàng Văn Chao châu Pa Kha, xuất thân từ nghề nuôi lợn đực và lái
lợn. Y sở hữu cái nghề ấy và độc quyền không cho ai được làm, nếu vi phạm
sẽ bị phạt vạ, bị giết chết. Cuộc đời bi thảm của ông lão Pâu là minh chứng
điển hình cho tội ác của Hoàng A Chao. Tiếp đến là tri châu La Văn Đờ, khét
tiếng ăn chơi sa đọa và áp bức tàn bạo dân lành. Dưới quyền y là một bầy lính
dõng, sẵn sàng trừng trị tất cả những kẻ nào chống đối. Tàn bạo nhất là tội ác
giết hại người cha của hai anh em Lù A Seng, Lù A Tếnh, hắn cho lính trói
người lấy ngựa kéo cho đến chết, xác người xấu số để chó ăn thịt. Tội ác dã
man tàn bạo như thời trung cổ ấy chính là sự thị uy để áp chế nông nô, đánh
vào nỗi sợ hãi cường quyền, buộc họ vào kiếp sống nô lệ. Khắc họa chân
dung thổ ty lãnh chúa, Ma Văn Kháng không chỉ dừng lại ở bản chất bóc lột
và sự bạo tàn của chúng với con người, nhà văn còn miêu tả chúng ở phương
diện đời sống cá nhân. Cuộc sống của bọn lãnh chúa, thổ ty trên máu mồ hôi
và nước mắt của hàng ngàn vạn nông nô, nô lệ vùng cao là sự phè phỡn, ăn
chơi sa đọa. Rượu, thuốc phiện, gái đẹp, nhà cao cửa rộng, tất cả được bòn rút
đến kiệt cùng từ sức lao động của người nông nô. Tội ác của thổ ty, lãnh chúa
81
với con người biên ải chất chồng như núi, những kẻ thống trị bạo tàn như thế
tất yếu sẽ đẻ ra những quái thai làm công cụ tay sai để đàn áp, cướp bóc, giết
người, đốt nhà, gây tội ác. Thổ ty đã dùng rượu, thuốc phiện, gái đẹp và hậu
đãi để nuôi dưỡng những kẻ tay sai, công cụ cho chúng cai trị nông nô. Đó là
cả một hệ thống gồm lý trưởng, seo phải, binh thầu, lính dõng... tên nào cũng
tàn độc, hung hăng, dã man trong việc cấu kết để bảo vệ quyền lợi lãnh chúa
và cho chính bản thân chúng. Thổ ty dung dưỡng cho chúng lối sống phóng
dật, bản năng để chúng trở thành cơn ác mộng trong nỗi kinh sợ của con
người, những tên tay sai này vừa tàn bạo vừa dã man vừa cuồng tín trong tư
tưởng. Đi sâu khám phá sự tha hóa ở những nhân vật này, Ma Văn Kháng đã
chỉ ra tội ác dã man của thổ ty, đẩy con người đến tận cùng cái ác, biến người
lương thiện thành quỷ dữ, tay sai. Đó là tội ác hủy hoại con người hết sức vô
nhân đạo, sản phẩm của chúng là: Châu Quán Lồ, Giàng Lử, Seo Cấu,... trong
đó nhân vật Châu Quán Lồ (người một mắt) là tính cách phức tạp nhất. Ma
Văn Kháng dành nhiều trang để viết về y - bên cạnh một kẻ tội đồ nhà văn đã
thấy một tính cách Mông đầy bí ẩn. Xuất thân là một gã trai Mông khôi ngô,
tài giỏi, hăng máu và dữ tợn, có nhiều cô gái say đắm, mê mệt đi theo hắn bất
chấp tất cả, kể cả cái chết. Lý giải nguyên nhân vì sao từ một gã trai Mông
trong sáng trở thành một ác quỷ chột mắt, hung hãn, tên tay sai đắc lực cho
thổ ty và thực dân Pháp, giết người không gớm tay, cưỡng hiếp, cướp bóc...
nhà văn đã nhìn thấy nguyên nhân: lối sống phóng dật gây thù chuốc oán, tính
cách nóng nảy, liều lĩnh và giản đơn, không nghĩ ngợi sâu xa, chóng bị kích
động, sống trong một gia đình Mông gia trưởng, ông nội làm seo phải, một
hung thần chuyên bắt nợ thu tô cho thổ ty ở Lao Pao Chải, chứng kiến cảnh ông
thiêu sống người bị hủi, trói và đánh đập người vô tội, uống rượu, hút thuốc
phiện, đánh con đánh cháu... thú tính được dung dưỡng đến tột độ. Lối sống
phóng túng bản năng được nuôi dưỡng trong một gia đình nặng thói áp chế gia
trưởng gặp đời sống lính tráng, bỗng hóa thành nếp sống bợm bãi, liều lĩnh, bạo
tàn" [83, tr. 293]. Bị La Văn Đờ lôi kéo, cho vợ ba là A Linh ăn ngủ để mua
82
chuộc, Lồ trở thành một quan lớn Mông, cuồng tín với khát vọng "lập nước Mèo
tự trị", làm bao điều tàn ngược, hắn là nỗi khiếp sợ cho biết bao gia đình
Mông lương thiện. Cho ngựa kéo bố Lù A Tếnh, Lù A Seng đến chết nát xác,
đánh đập A Lềnh, ăn cướp quán của ông lão người Xá, hãm hiếp con gái nhà
lành, thú tính của hắn được dung dưỡng bởi rượu, thuốc phiện, tình dục vô độ
đã khiến cho hắn hoàn toàn mất nhân tính. Chống lại cộng sản và cách mạng
đến cùng, trong Vùng biên ải, được sự tiếp sức của thực dân Pháp, hắn nổi phỉ
ở Pha Linh, chiếm huyện lỵ, giết chết chủ tịch Seng, chiến sĩ cộng sản đầu
tiên của người Mông Pha Linh bị Lồ trói vào cột đá, tra tấn dã man cho đến chết
rồi phơi xác anh "một tuần liền xác Seng còn đó, đầu anh dập nát chỉ còn một
cục thịt bằng nắm tay, thịt xương văng cả ra ngoài, dính cả vào nhánh xương
rồng dại" [83, tr. 314], Hắn giết chiến sĩ Tích, giết cậu bé trên núi chè... tội ác
chất chồng tội ác. Sự tha hóa của hắn đã đến tận cùng, không còn con đường nào
quay lại. Hắn đã phải trả giá cho tội ác của mình với nhân dân bằng cái chết.
Đó còn là Giàng Lử - con trai của hố pẩu Giàng Lầu, đầu tộc Can Chư
Sủ. Giàng Lử theo Pháp làm đồn trưởng Pactidăng Cán Cấu để thỏa mãn dục
vọng bản thân. Đồn Cán Cấu bị Việt Minh đánh tan tành, hắn trốn về Can
Chư Sủ, nhưng cuộc sống lao động khiến hắn kinh sợ. Hắn tiếp tục hành trình
tội ác, cướp Seo Cả, âm mưu giết Pao - em trai ruột, ám sát Lê Chính... Tội ác
của hắn chất chồng. Đám phỉ tan rã, A Lử, chạy về nương náu ở quê, nhưng
lại định nổ súng giết cha mình. Cái chết đã kết thúc hành trình tội ác của một
tên tay sai tàn bạo, cuồng tín cho thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Không
giống như Giàng Lử, một kẻ tội đồ, Vàng A Chảo (Trăng non) là một gã trai
Mèo hiền lành, từng đi lính dõng cho Pháp, bị bọn Săng, Chăng, Ký mua
chuộc, dọa dẫm, "giam trong rừng mười lăm năm" [78, tr. 233], thành thổ phỉ,
A Chảo có nhưng vẫn nhớ tiếc cuộc sống gia đình, nhớ Seo Di người vợ của y
đã vì y mà khổ sở, mất cả tuổi thanh xuân. A Chảo lầm lạc chứ không tàn độc,
hung hãn nên với nhân vật này, con đường của y chính là sự trở về với gia
đình và cộng đồng. Sự trở về của A Chảo là câu trả lời duy nhất đúng để kết
83
thúc chặng đường bao nhiêu năm lang bạt, cô đơn nơi rừng rú, kết thúc những
ngày tháng đe dọa bản làng. Giải quyết số phận nhân vật thổ phỉ, Ma Văn
Kháng đã thể hiện một cái nhìn mang tính nhân bản sâu sắc đối với con người
ở phía đối lập. Đồng thời nhà văn đã chỉ ra một quy luật của đời sống: cái ác
tất yếu sẽ phải đền tội, con người dù bị cô lập, bị lợi dụng, bị lừa bịp đến đâu,
ngu muội và cuồng tín đến đâu, chất người, khát vọng sống lương thiện vẫn
chiến thắng tất cả.
Nhân vật lưu manh vô sản - kẻ mạo danh điều cao cả, đối lập với nhân
vật chính diện ở trong cùng hàng ngũ là một khám phá của Ma Văn Kháng
trong các tiểu thuyết sử thi. Đặt nhân vật này trong những hoàn cảnh chính trị,
những địa vị quan trọng nơi biên ải ngay từ những ngày chính quyền cách
mạng còn non trẻ, tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng đã thể hiện sự sắc
bén trong nhận thức quy luật phát triển của đời sống xã hội. Sau này khi nhìn
lại một nhân vật tự truyện của ông đã phát biểu: "cách mạng không chỉ nảy
sinh ra những anh hùng, cách mạng còn hàm ẩn trong nó cả sự hỗn độn... nuôi
dưỡng các thực thể hỗn mang, các quái trạng, cặn bã" [92, tr. 170], "chủ nghĩa
tập thể thô sơ triệt tiêu cá nhân là... tiền đề sinh ra tầng lớp lãnh đạo đặc
quyền đặc lợi" [92, tr. 345]. Manh nha tính cách nhân vật này được hình
thành từ Vận (Vùng biên ải) - trưởng ban cán sự tỉnh rồi Đường Xuân Ân,
Quốc Thanh (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn). Trong đó, Quốc Thanh là điển hình tiêu
biểu, bình luận về con đường tiến thân của nhân vật này, Ma Văn Kháng có
một cái nhìn phản ánh đúng quy luật của một thời đoạn lịch sử: "Ông thừa
hưởng món lợi nhuận kếch sù không mất công sức mà có. Chức vụ đẻ ra
quyền lực, quyền lực đẻ ra giá trị, đẻ ra niềm tin" [78, tr. 365]. Bản chất lưu
manh, cơ hội đã khiến cho Quốc Thanh tận dụng hoàn cảnh, leo lên đỉnh cao
quyền lực. Quan sát miêu tả nhân vật này qua rất nhiều góc độ: ngoại hình, cử
chỉ, lời nói, cách ăn ở đi đứng với những chi tiết rất nhỏ nhưng có sức khái
quát bản chất lưu manh hạ tiện con người, phân tích con đường tiến thân và
địa vị của Quốc Thanh, Ma Văn Kháng chỉ ra sai lầm, ấu trĩ trong tư tưởng
84
của một thời đoạn lịch sử khi nhìn nhận con người từ tầng lớp xuất thân. Ma
Văn Kháng gọi tên đích danh đúng bản chất đối tượng, dũng cảm vạch trần
thói hám danh, hãnh tiến, ngu dốt, duy ý chí, phân tích sâu sắc sự hủy hoại
của bọn lưu manh vô sản đối với sự nghiệp cách mạng.
Kẻ thủ ác lại là một khám phá khác trong kiểu nhân vật tha hóa của
tiểu thuyết Ma Văn Kháng ở đề tài an ninh. Từ sự xác định "miêu tả tội ác và
quá trình khám phá tội ác, điều quan trọng nhất đối với các nhà văn chính là
đi đến lý giải: Kẻ phạm tội thuộc hạng người nào? Cái gì đã đẩy con người ấy
đến với tội ác" [37, tr. 342]. Với tinh thần ấy, Ma Văn Kháng đã xây dựng
một kiểu nhân vật trong hai tiểu thuyết thế sự đời tư có màu sắc hình sự tâm
lý Bóng đêm và Bến bờ - kẻ thủ ác. Đối với kiểu nhân vật này, Ma Văn Kháng
đã phân tích động cơ nội tâm và tác động của hoạt động nội tâm nhân vật, chú
trọng miêu tả phản ứng tâm lí nhân vật với ngoại giới, cụ thể là với hiện thực
đang diễn ra và con người trong hiện thực đó. Với các kỹ thuật phân tích tâm
lý hiện đại: khoảnh khắc quan trọng của ký ức, hồi ức, các trạng thái tiềm
thức, vô thức, các giấc mơ, ẩn ức tâm lý, dòng độc thoại nội tâm..., Ma Văn
Kháng đã đi sâu tìm tòi nguyên nhân của tội ác, từ đó, bày tỏ sự phẫn nộ của
cả lý trí và trái tim trước sự tàn độc của những con thú người, cảnh giới con
người trước tình trạng tha hóa đạo đức dẫn đến tình trạng tội ác gia tăng hủy
hoại đời sống. Ma Văn Kháng đã lý giải nguyên nhân sâu xa của tội ác chính
là thú tính man rợ của con người được dung dưỡng trong một hoàn cảnh sống
vô đạo đức, thú tính ấy chỉ cần có cơ hội là bùng nổ. Thuyên là con trai của
một gã lái xe đường dài sa đọa, hư hỏng, trụy lạc. Chứng kiến bố mình triền
miên trong lối sống chỉ biết đến dục vọng, tàn bạo, bất lương, đâm chết tất cả
những con chó trước mũi xe, đâm chết người rồi thản nhiên bỏ đi, ăn thịt,
uống rượu, làm tình. Lối sống man rợ, thú tính ấy đã tác động đến trí óc của
Thuyên, tập nhiễm cho hắn khoái cảm chứng kiến tội ác, hắn chọn nghề mổ
lợn cũng là nhằm thỏa mãn khoái cảm ấy. Thế nên, việc giết Bội với hắn,
cũng như giết một con lợn không hơn không kém. Sau Thuyên là đến Sở, một
85
kẻ đại ác, giết người, cướp của, hãm hiếp phụ nữ, hắn là nỗi kinh sợ của
người lương thiện. Nếu tội ác ở Thuyên là sự bùng phát thú tính man rợ tiềm
ẩn thì đây là một tên tội phạm có tổ chức, có ý thức gây tội ác cho con người.
Rồi đến Lường, kẻ chuyên rạch mặt trẻ con bằng dao lam, nguyên nhân sâu
xa chính là do Lường nhận thấy bất công xã hội, nhưng kẻ gây tội ác mà vẫn
thoát thân dựa vào đồng tiền và quyền lực nên y đã biến mình thành tội phạm
để trả thù cuộc sống, từ trường hợp kẻ thủ ác này, Ma Văn Kháng đã nhìn
thấy "bất công đã và đang trở thành cội nguồn của tội ác" [95, tr. 181].
Kẻ thủ ác có bao nhiêu gương mặt và có bao nhiêu nguyên nhân dẫn
đến tội ác, không thể trả lời hết được vì mỗi một tội ác đều có căn nguyên sâu
xa của nó. Từ chân dung những kẻ thủ ác, Bến bờ đi sâu vào khám phá phần
tăm tối của con người, bản năng hung bạo và bản chất, tính cách kẻ thủ ác,
nhà văn nhận ra rằng, gốc rễ sâu xa của kẻ thủ ác chính là "thất học, dâm loàn
và hung bạo" [96, tr. 53]. Tư, Túc, Mồm lệch... tất cả bọn chúng đều có điểm
chung trong xuất thân, là những kẻ vô học, hoặc chối từ học hành, giáo dục.
Lối sống của chúng mang tính chất bản năng phóng dật, để cho ham muốn và
dục vọng chi phối tất cả. Tư trở thành kẻ đồi bại vì khả năng chế ngự dục
vọng bản năng ở hắn hầu như không có. Hoàn cảnh gia đình mà người mẹ với
cuộc sống giang hồ, phóng túng, trụy lạc càng khiến cho hắn thêm sa đọa.
Hắn ngủ với em gái cùng mẹ khác cha, cưỡng bức em dâu, giết hai đời vợ và
khi ý định cưỡng đoạt Khanh bị Miến, người vợ thứ ba chứng kiến phát giác,
hắn đã giết nốt trong cơn cuồng bạo của kẻ thủ ác dã man vô nhân tính. Những
kẻ như Tư, Túc... không phải là hiếm trong xã hội đương đại. Phân tích tội ác
của chúng, Ma Văn Kháng đã nhấn mạnh, yếu tố gia đình, môi trường giáo
dục, luật pháp chính là những công cụ tốt nhất để con người chế ngự được
phần "con", để trở thành "con người" theo đúng nghĩa của từ này.
Nếu Bóng đêm chú ý đến những kẻ thủ ác đơn lẻ thì sang Bến bờ kẻ
thủ ác đã mang tính chất tập đoàn tội ác: buôn bán ma túy, băng đảng cướp bóc,
tổ chức đường dây mại dâm núp bóng kinh doanh nhà hàng khách sạn... Tính
86
chất này khiến ta liên tưởng tới tổ chức tội phạm quốc tế mafia, sự nguy hiểm
của bọn tội phạm kiểu mới này là chúng hoạt động có tổ chức, xuyên quốc
gia. Từ những vụ án, Ma Văn Kháng đã nhận ra đặc tính chung của những kẻ
thủ ác dù đơn độc hay riêng lẻ: Do lối sống bản năng chi phối, ăn chơi trác
táng, phóng dục, có khoái cảm trước cái ác, lấy sự cưỡng bức người lương
thiện để thỏa mãn thú tính... vô luân, vô nhân cách từ bản tính [96, tr. 115].
Từ kiểu nhân vật này, Ma Văn Kháng cho rằng: "nguyên nhân hủy hoại các
giá trị xã hội nằm ở ngay chính con người" [96, tr. 180], "thù hận như thú tính
sổ lồng lại nhiễm thêm trạng thái bán khai tạo nên những tội ác thật táng đởm
kinh hồn" [96, tr. 24]. Nó khiến cho nhà văn đôi lúc bi quan "Con người là
vậy ư? Nó là một thế giới bỏ ngỏ, một thực thể chưa hoàn thành? Hay nó là
một quái thai đẻ non" [96, tr. 119].
Cái ác - kẻ thủ ác thật đáng sợ khi ta không nhìn rõ mặt, khi nó chìm
vào trong bóng đêm tăm tối, cái ác còn nguy hiểm gấp trăm ngàn lần khi nó
mang bộ mặt nhân danh công lý. Ma Văn Kháng đã viết về những kẻ thủ ác
ẩn mặt này, điểm mặt chỉ tên chúng. Đó là Khoái (Bóng đêm), Hói (Bến bờ)
chúng là những kẻ ẩn mặt, dưới bộ cảnh phục là những kẻ lòng lang dạ sói.
Không né tránh hiện thực khi viết về những kẻ thủ ác ẩn mặt, Ma Văn Kháng
đã phân tích tội ác của chúng với đồng đội, với nhân dân. Chúng cướp công,
hủy hoại cuộc đời của những hiệp sĩ ngày đêm đối mặt với tội ác, chúng hủy
hoại niềm tin của nhân dân vào công lý, chúng dung dưỡng cho tội ác hoành
hành, là nguyên nhân của bất công xã hội, làm tha hóa xã hội.
Xây dựng nhân vật tội phạm - kẻ thủ ác, Ma Văn Kháng đã thể hiện
một cái nhìn sâu sắc về con người và hiện thực đương đại. Đó là một hiện
thực mà cái ác đang từng ngày từng giờ phá hoại cuộc sống của con người,
hủy hoại nhân cách, đạo đức con người. Qua nhân vật này nhà văn đã bày tỏ
thái độ phẫn nộ trước sự tha hóa của con người, đồng thời thể hiện một tinh
thần đấu tranh không khoan nhượng, hướng con người dũng cảm đối diện
chống lại cái ác để bảo vệ cái đẹp và bình yên cuộc sống.
87
Trong Bóng đêm và Bến bờ, những kẻ dưới đáy đã được Ma Văn Kháng
miêu tả khá công phu. Kiểu nhân vật này đã manh nha xuất hiện trong Mưa
mùa hạ ở nhân vật Thưởng, nhưng lúc đó, sự xuất hiện của nhân vật mang
một ý nghĩa khác. Nó chưa trở thành một kiểu nhân vật trong tiểu thuyết thế
sự đời tư. Đến Bóng đêm và Bến bờ, nhân vật này đã xuất hiện như là một
kiểu nhân vật mà sự tồn tại của nó là sự thật của đời sống hôm nay. Tiêu biểu
cho kiểu nhân vật này là gia đình mụ Đống - mẹ kế của nhân vật Khanh -
nghệ sĩ - người yêu Điền. Gia đình này là một thế giới của những kẻ hạ lưu,
giang hồ, tứ chiếng, từ mẹ đến con. Dăm cha ba mẹ, thất học, lang thang kiếm
sống bằng đủ mọi nghề, phe vé tàu, đạp xích lô, buôn bán lặt vặt, trộm cắp bất
lương, việc gì cũng làm. Cái kinh sợ nhất của những kẻ dưới đáy này đó là
bản năng buông phóng đến tột độ, không có rào cản đạo đức nào có thể ngăn
cản sự tha hóa và đồi bại của chúng. Mụ Đống - người đàn bà có ba đời chồng,
năm đứa con, điển hình cho dâm loàn hư hỏng. Tư, con cả mụ Đống "trốn
nghĩa vụ quân sự, mắc tội cưỡng dâm em gái vị thành niên và bà già, bị bắt cải
tạo ở trại Tam Giang, trốn tù một lần, bị bắt lại, án tăng bốn năm" [96, tr. 50].
Đạp xích lô "ngày hai bữa cơm, nó say cả hai. Say rồi nó cà khịa với cả nhân
viên cảnh sát. Nó là cái hố lửa tình dục ngùn ngụt" [96, tr. 51]. Túc, con thứ
"nhân bần trí đoản, cục súc, đã một lần vào nhà đá bóc lịch vì tội cố ý đánh
đồng nghiệp trọng thương... giờ nó vô nghề nghiệp, ăn bám vợ, đã thế lại chơi
bời đàn đúm" [96, tr. 51]. Lụa và Thảo, hai đứa con gái, đứa hăm tám đứa hai
mốt, công khai ghi số đề và phe vé kiêm bán dâm... Kinh khủng hơn nữa,
chúng là người một nhà nhưng anh trai loạn luân với em gái cùng mẹ khác
cha, cưỡng bức em dâu, rình rập để làm nhục Khanh, chửi mẹ đẻ, đánh nhau,
chúng "tiêu biểu cho một lớp người ở dưới cùng xã hội đang trên đà tha hóa,
đang đi dần vào vòng tăm tối... là cái dị dạng, không bình thường của đời
sống, có đặc tính chung là thất học, dâm loàn và hung bạo" [96, tr. 53], "chúng
là thói ganh ghét, gian manh của lớp người đang hủy hoại hết nhân cách, trở
thành cặn bã của xã hội" [96, tr. 56]. Kết thúc tất yếu của gia đình này, kẻ vào
88
tù, người chết, những đứa con nhỏ chứng kiến sự tha hóa, đồi bại của cha mẹ,
chú bác tương lai sẽ như thế nào?
Với cảm hứng phê phán mạnh mẽ, đi sâu phân tích những nguyên nhân
khiến cho sự đồi bại và tha hóa gia tăng trong gia đình thành thị, đằng sau những
cuộc đời nhớp nhúa dưới đáy xã hội, Ma Văn Kháng muốn cảnh tỉnh chúng ta
về một lối sống vô đạo đức, coi thường pháp luật, bất chấp công lý. Lối sống này
sẽ làm băng hoại con người, khiến cho con người trở nên suy đồi: "Con người
ngày càng trở nên hung tợn, đang ở bước thoái hóa cuối cùng là đánh mất
toàn bộ nhân tính. Con người đang bước vào thời mạt thế chăng?" [96, tr. 115].
Đó còn là nỗi khắc khoải âu lo của nhà văn đằng sau sự khám phá mặt trái của
xã hội đương đại: "Con người thì yếu đuối, cuộc sống thì đa đoan, chỉ số an
toàn thì quá thấp" [96, tr. 48] cho những người lương thiện như Khanh, Huy...
khi họ phải chung sống với "ổ quỷ ẩn chứa bao bất trắc" [96, tr. 56].
Có thể nói rằng, những hình mẫu nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn
Kháng qua từng giai đoạn lịch sử đã có ý nghĩa sâu sắc trong việc góp phần
thể hiện chân dung con người Việt Nam hiện đại ở những không gian cụ thể.
Những nhân vật của tiểu thuyết Ma Văn Kháng đời thực bước vào trang sách,
bước vào điện ảnh, rồi lại sống cuộc đời nữa, trong tâm hồn độc giả. Điều đó
cho thấy, ở tiểu thuyết Ma Văn Kháng, sự phong phú, đa dạng, hấp dẫn về
kiểu nhân vật là một thành công đáng được ghi nhận.
3.2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
Tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã thể hiện một nghệ thuật xây dựng nhân
vật độc đáo, sắc sảo, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông phong phú, đa
dạng, hấp dẫn. Chúng tôi chú ý đến ba phương diện nổi bật trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật: qua yếu tố tướng mạo, yếu tố tính dục, yếu tố tự truyện.
3.2.1. Nhân vật qua yếu tố tướng mạo
Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua tướng mạo con người là một trong
những đặc điểm nổi bật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Đây là một đặc
điểm xuyên suốt các sáng tác của nhà văn, từ các tiểu thuyết sử thi đến thế sự
89
đời tư, càng về sau càng rõ nét. Đặc điểm nghệ thuật này có cơ sở từ cách
xem xét tướng mạo mang tính kinh nghiệm của dân gian và nhân tướng học -
một bộ môn khoa học nhân văn nghiên cứu về con người, qua nét tướng để
đoán định tính cách, tương lai và vận số của đối tượng ở những giai đoạn
khác nhau. Coi con người là đối tượng quan sát, nghiên cứu, nguyên tắc cơ
bản của cái nhìn con người qua tướng mạo chính là: có bên trong ắt lộ bên
ngoài. Từ quan sát ngoại hình với đặc điểm gương mặt, hình dáng, mục quang,
phong thái đi đứng, nằm, ngồi, ăn, ngủ, nói, cười, thậm chí cả âm lượng, âm
vực của lời nói... quy nạp các nội dung để xếp loại con người qua các trường
hợp điển hình. Với mục tiêu khám phá, phân tích bản thể con người qua
tướng mạo, trong các tiểu thuyết, Ma Văn Kháng đã thể hiện nghệ thuật miêu
tả nhân vật độc đáo, giàu tính nhân bản và tinh thần thực nghiệm khoa học
nhân văn, mang đậm dấu ấn cá nhân: nhìn nhân vật từ góc độ nhân tướng học,
quan sát ngoại hình để khắc họa nội tâm. Về điều này, Đỗ Hải Ninh đã phát
hiện: "Ma Văn Kháng rất linh hoạt khi miêu tả ngoại hình nhân vật. Sở trường
của ông là miêu tả nhân vật như một nhà tướng số học. Ông vận dụng một
cách sắc sảo những hiểu biết Đông Tây kim cổ để nhấn mạnh tính cách qua
tướng hình nhân vật" [143, tr. 297]. Đoàn Trọng Huy, Nguyễn Ngọc Thiện và
một số nhà nghiên cứu cũng nhìn thấy ở Ma Văn Kháng kiểu miêu tả con
người có sự kết hợp hài hòa giữa khoa tướng mạo dân gian và khoa nhân học
hình sự. Những phát hiện này rất quý giá và có ý nghĩa gợi dẫn cho chúng tôi
khi tìm hiểu nghệ thuật miêu tả nhân vật tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con người đã đem đến cho
nhân vật tiểu thuyết Ma Văn Kháng những nét độc đáo. Ông từng mượn lời
một nhân vật để thể hiện quan điểm của mình khi đánh giá tính cách con người:
"Tính khí con người chỉ có thể chia thành hai bậc chính: quân tử và tiểu nhân,
hiền lành và độc ác" [96, tr. 15]. Đây có thể được coi là nguyên tắc miêu tả
con người qua tướng mạo của Ma Văn Kháng. Quan sát thế giới nhân vật của
tiểu thuyết Ma Văn Kháng, từ sử thi đến thế sự đời tư, chúng tôi nhận thấy,
90
Ma Văn Kháng luôn có sự định hình tính cách và phản ánh nội tâm qua tướng
mạo. Mỗi một nhân vật có một nhân dạng tướng mạo khác nhau, xét các trường
hợp điển hình, tương ứng với quan niệm của nhà văn; tướng mạo nhân vật của
tiểu thuyết Ma Văn Kháng có các nhóm: tướng mạo chính nhân quân tử, anh
hùng, trí thức thông tuệ; tướng mạo hồng nhan; tướng mạo tiểu nhân, hạ lưu,
dâm đãng. Đây là ba nhóm chính thể hiện rõ nét nghệ thuật miêu tả nhân vật
qua yếu tố tướng mạo của tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
3.2.1.1. Tướng mạo nhân vật anh hùng, chính nhân quân tử, trí
thức thông tuệ
Khi miêu tả những nhân vật đại diện cho chính nghĩa, cái đẹp, hướng
tới lấy ngoại hình để thể hiện tính cách và nội tâm, Ma Văn Kháng đã tạo
dựng những nhân vật có vẻ đẹp ngoại hình hoàn hảo, lý tưởng theo quan niệm
của nhân tướng học. Đó là cái đẹp trong tướng mạo các nhân vật chính diện ở
tiểu thuyết sử thi sử thi - người anh hùng trên mặt trận vũ trang. Quan sát,
miêu tả ngoại hình các nhân vật này, "lấy tướng xem tâm", Ma Văn Kháng đã
tạo nên những chân dung mang vẻ đẹp lý tưởng, tiêu biểu cho vẻ đẹp thẩm mỹ
của thời đại. Đó là chân dung Lê Chính - chân dung người anh hùng quả cảm,
chính trực "bộ ngực nở, khuôn hai bả vai rộng. Tóc cắt ngắn hất cao. Gương
mặt rám nắng, hơi cháy lên ánh đồng đỏ và hai con mắt sáng quắc, tự chủ, sắc
sảo nhưng nheo lại thì đôn hậu, thấu tình" [82, tr. 177]. Là chân dung Đắc "đẹp
rắn rỏi với một gương mặt ngăm ngăm nâu, hai con mắt thâm trầm dưới hàng
mày rậm và đen nhánh. Hàng ria mép mới cạo, xanh đen những chấm chân
râu, phù hợp với gò mũi cao và đôi môi thoáng vẻ ngạo nghễ" [83, tr. 231].
Đó còn là chân dung của Tích, Na... của những người chiến sĩ đã ngã xuống
để bảo vệ mảnh đất Lào Cai trong những ngày cách mạng còn non trẻ.
Quan tâm đến nét đặc trưng chủng tộc, vẫn ở kiểu nhân vật lý tưởng,
Ma Văn Kháng đã quan sát ngoại hình của một chính nhân quân tử người
Mông với những nét riêng không thể nhòa lẫn với dân tộc khác. Đó là sự cường
tráng, man dại đậm chất rừng núi của những chàng trai Mông - anh hùng của
91
biên ải. Cao lớn, lạnh lùng, mắt xếch và ít nói, ít cười, tướng mạo của họ được
Ma Văn Kháng đặc tả trong các tác phẩm gợi cho người đọc về hình tượng
người anh hùng như Núp, Kpa Lơng, Tnú trong các sáng tác của Nguyên Ngọc.
Nhưng điều khác biệt của Ma Văn Kháng với Nguyên Ngọc ở đây chính là
miêu tả những nhân vật này với cảm quan hiện đại, không có dấu ấn của những
anh hùng trong truyền thuyết như Đăm Săn, Xing Nhã... họ là người con thuộc
về một dân tộc, và ngoại hình, tướng mạo của họ phản ánh tính cách dân tộc
của họ. Đó là chân dung Pao "khuôn ngực nở, hai con mắt xếch mâng mâng
đỏ" [82, tr. 326], chân dung Vàng A Chỉnh: "Người này thật người Hmông,
kể cả từ cách đi, đầu cứ chúi về đằng trước như đang lên dốc xuống dốc. Cao
lớn, ngực vồng nở, hai tay như hai bắp cày" [78, tr. 31]... "quần lanh, áo lanh
nhuộm chàm. Cao lớn, mũ lưỡi trai. Mắt xênh xếch" [78, tr. 297]. Dấu ấn chủng
tộc qua tướng mạo này góp phần phản ánh tính cách Mông mạnh mẽ, kiên
cường, bất khuất, trung tín sau vẻ ngoài thô mộc, cường tráng.
Quan sát, miêu tả ngoại hình trí thức - kẻ sĩ hiện đại, Ma Văn Kháng
không hướng vẻ đẹp cường tráng của thân thể mà thiên về bộc lộ sức mạnh nội tại
với vẻ đẹp nho nhã thanh quý của bậc túc nho đậm màu sắc tướng mạo dân gian.
Một kiểu gương mặt trí thức mang vẻ đẹp lý tưởng, hoàn hảo là "gương mặt
phân miêng, sáng sủa và tiềm tàng" [78, tr. 445], hay "mặt vuông" [94, tr. 27],
ngũ quan, ngũ đình phân minh, những đường nét thể hiện sắc diện nho nhã,
thâm trầm. Đặc biệt nhà văn luôn chú ý đến đôi mắt để đoán định nội tâm của
người trí thức- một nội tâm phong phú, phức tạp và mâu thuẫn. Đó là "hai con
mắt thâm trầm" [94, tr. 27] trăn trở và băn khoăn của Nam, "hai con mắt trầm
sâu" chứa chất u uẩn của Tự, đôi "mắt sáng" đầy niềm tin của Thiêm [78, tr. 447],
"con mắt sâu tiềm ẩn sự từng trải" của Khiêm...
Quan niệm cốt cách sang quý của nhân vật qua tướng mạo là tổng hòa
tất cả những chi tiết tưởng chừng như rất nhỏ bé, Ma Văn Kháng đã hướng sự
quan sát của mình tới giọng nói, nét cười, cử chỉ ôn nhu, hành động ăn uống...
để thể hiện tính cách nhân vật qua tướng mạo. Đó là những chi tiết về giọng
92
nói "tròn đầy, âm vang và ấm" của Tự, đến "nét miệng thẳng như kẻ" của
Kha, "tiếng nói sang sảng" của Thịnh, hay "cử chỉ ôn nhu" của Thiêm, "phong
thái an nhiên bình đạm" của ông Quyết Định. Đối với nhân vật hiệp sĩ an
ninh, đại diện cho công lý, cho ánh sáng, khắc tinh của tội phạm, Ma Văn
Kháng lại chú ý đến khí chất đặc biệt của họ. Khí chất đó là sự kết hợp hài
hòa của thể chất cường tráng, mạnh mẽ do yêu cầu công việc và có vẻ đẹp
hình thức đầy nam tính, có sức hấp dẫn thiên bẩm. Nhâm, Trừng, Khuynh,
Điền, Thịnh, Lập, ông Tầm... mỗi một con người đều có những nét riêng độc
đáo, tướng mạo phi thường. Tiêu biểu cho tướng mạo hiệp sĩ an ninh là nhân
vật ông Tầm. Ở nhân vật này, nhà văn đã quan sát để thể hiện chân dung
một con người mang vẻ đẹp lý tưởng, hài hòa từ hình thức đến nội tâm. "lưng
tròn vai rộng, mặt to, miệng vuông, hai con mắt hiền từ như mắt voi, tiếng nói
âm vang đĩnh đạc, tiếng cười sảng khoái, phong nghi nghiêm chỉnh đàng
hoàng" [95, tr. 152]. Từ quan sát, đưa ra phán đoán về tính cách, "phong thái
ông ung dung... nội lực dồi dào và thông tỏ mọi nhẽ" [95, tr. 29], đoán định
xuất thân "nhìn ông thoáng qua có thể đoán định, nếu không xuất thân từ gia
đình hào môn vọng tộc, hiển hách thì cũng phải là một gia đình khá giả, gia
phong căn cốt chỉnh tề" [95, tr. 152]... Có thể nói rằng, mỗi chân dung nhân
vật đều có những nét tướng mạo thể hiện cốt cách con người cá nhân của
riêng họ, không thể trộn lẫn. Mỗi chân dung nhân vật đều cho thấy nhà văn đã
dụng công, dụng ý, dụng ngữ rất cẩn trọng.
3.2.1.2. Tướng mạo hồng nhan đoan chính và đàn bà hiếu dâm
Nhân vật người phụ nữ chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác của
Ma Văn Kháng ở cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng ở tiểu thuyết, ngay từ
những sáng tác đầu tiên, Ma Văn Kháng đã giành cho họ sự ưu ái đặc biệt.
Tuy nhiên, ở phần này, chúng tôi chủ yếu đi tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tướng
mạo phụ nữ của nhả văn, không đi vào các nội dung khác. Từ góc nhìn tham
chiếu trên phương diện giới, chúng tôi nhận thấy tướng mạo người phụ nữ
trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng có những nét đặc sắc riêng.
93
Những vẻ đẹp đặc trưng cho người đàn bà biên ải luôn được quan sát
ở vẻ đẹp phồn thực, nữ tính, có chất man dại và phóng túng, rất quyến rũ.
Những tướng mạo đàn bà nhan sắc ấy mang vẻ đẹp đa tình, quyến rũ, say đắm
lòng người, phản ánh một nội tâm luôn chan chứa khát vọng và nhu cầu được
yêu thương, ân ái. Từ thân thể, gương mặt, nụ cười, cử chỉ, dáng điệu đều bộc
lộ thiên tính nữ mời gọi ái ân. Đó chính là nét đặc sắc của người đàn bà biên
ải trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Là những Seo Cả, Seo Ly, Seo Say, Seo
Mùa, Seo Di, A Cở... từ đôi mắt đến nụ cười, hàm răng, mái tóc, bầu ngực
đều bộc lộ vẻ đẹp của thiên tính nữ. Đó là chân dung Seo Cả với vẻ đẹp của
"làn da nõn nà ở cổ chị... hai bầu vú chị căng mọng núc ních nhòn nhọn như
hai ngọn măng tre... Bờ vai trắng hồng nổi bật trên mái tóc đen rậm trải rộng
như tấm nệm lót lưng [83, tr. 160-161]. Hay Seo Say, "nàng đàn bà hơn tất cả
đàn bà... Mông nàng nở, ngực nàng phổng phao. Mắt nàng tươi nở. Môi hé
mở hình hạt đào" [83, tr. 160-161]. Và Seo Di "lườn vai tròn, cái eo thắt
đường nét căng phồng ở ngực, mềm muôn muốt qua hông, xuống bắp chân
xinh hình cá trắm" [78, tr. 86]. Rồi Cở "cái cổ cao trắng nõn. Khuôn ngực
phập phồng... hai con mắt mở to, bóng láng cái ánh biếc xanh vời vợi của
đồng tử. Hai má dậy ánh hồng..." [78, tr. 173]... Nhân vật phụ nữ biên ải của
Ma Văn Kháng có ngoại hình gợi cảm, dào dạt khát vọng tình yêu và năng lực
tình dục, với tất cả những điều đó, họ đã trở thành một phần không thể thiếu
của tiểu thuyết sử thi về đề tài dân tộc miền núi của Ma Văn Kháng.
Trong tiểu thuyết thế sự đời tư, tướng mạo phụ nữ phản ánh tính cách
nhân vật rất rõ nét: có nét tướng của người phụ nữ đoan chính như Phượng,
chị Hoài (Mùa lá rụng trong vườn); có nhan sắc quyến rũ, khơi gợi những
khát khao, ham muốn tình dục, ái ân như Lý (Mùa lá rụng trong vườn), Hoan),
có nhan sắc vừa đoan trinh vừa quyến rũ như Hoan (Ngược dòng nước lũ),
Quyến, Cúc (Bóng đêm), Khanh (Bến bờ), có những tướng mạo nhìn đã thấy
bộc lộ sự dâm đãng thái quá như Nhàn - vợ Lập, mụ Đống (Bến bờ)... Mỗi
nhan sắc phụ nữ, Ma Văn Kháng đều nhìn thấy cái tố chất làm nên thần thái
94
linh hồn của họ. Với cách quan sát, miêu tả từ góc nhìn tướng mạo, Ma Văn
Kháng thể hiện cảm quan rất phồn thực về người phụ nữ. Cảm quan ấy có lúc
thể hiện qua sự quyến rũ của tuổi hồi xuân, vừa lẳng lơ, vừa quyến rũ, chỉ một
nét miêu tả "hai con mắt lá răm nhóng nhánh sáng, đong đưa một cái nhìn vừa
vui tươi vừa lẳng" đã lột tả được vẻ đẹp nữ tính của nhân vật. Vẫn là Lý
nhưng ở một góc nhìn khác, trong gương: "mình trần, đẹp mỡ màng... con mắt
lá răm tình tứ, làn da trắng hồng mơn mởn... hai bầu vú mưng mẩy, căng nức
cùng cặp đùi óng mướt nùng nục sức sống" [91, tr. 108]. Hay là chân dung
nhan sắc của Hoan giữa trời nước mênh mang "lồng ngực phập phồng... chân
óng mượt và thẳng... đôi mắt mênh mang màu xanh biển và nụ cười trắng
muốt màu hoa bưởi ngát thơm" [82, tr. 32], và tràn trề nữ tính trong lúc ái ân
"đôi vú nàng như hai trái táo chín căng mọng... eo hông mượt mà... tóc nàng
thơm lừng, da thịt mát lịm" [82, tr. 32]. Là Yên "hai con mắt ướt rờ rỡ với
hàng mi rợp dày rậm. Và một vùng ngực, eo hông thắt nở bồng bềnh" [92, tr. 8].
Là Khanh, "gương mặt vừa đoan trang, vừa quyến rũ. Mắt nàng tươi vui và
đắm đuối. Môi nàng dịu dàng và mê đắm, tóc nàng dầy rậm, tràn trề sinh lực,
ngực nàng gợi cảm giác hư ảo..." [96, tr. 159].
Có thể nói, từ những quan sát tướng mạo, chú ý đến những đặc điểm
giới tính, Ma Văn Kháng đã làm nổi bật vẻ đẹp của người phụ nữ với tất cả
năng lực và cảm xúc mà họ có. Những chân dung phụ nữ ấy đi song song bên
cạnh các chân dung anh hùng lý tưởng, trí thức thông tuệ có ý nghĩa như là
cặp đôi hoàn hảo, tôn vinh vẻ đẹp trần thế của con người.
Những người đàn bà hiếu dục là một quan sát khác trong các tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng. Nhìn nhận họ ở phương diện con người bản năng,
những nét tướng mạo phản ánh ham muốn nhục dục quá độ. Các nhân vật đều
có một nhân diện riêng biệt qua những chi tiết cụ thể: từ đôi mắt đa tình, lẳng
lơ, dâm đãng đến dáng đi, bộ ngực, đôi hông, đôi chân... thậm chí mùi da thịt,
mùi tóc, hơi thở... nhưng tất cả ở họ, đều có một đặc điểm chung đó là sự bộc
lộ thái quá năng lực và ham muốn nhục dục, nhu cầu tính giao. Từ quan sát
95
tướng mạo theo kinh nghiệm dân gian kết hợp với với những phán đoán, bình
luận gắn với góc quy chiếu đạo đức, những nhân vật này gợi cho người đọc
về những đàn bà tiện dâm, hư hỏng, lăng loàn, trắc nết. Những chân dung phụ
nữ ấy gần như là ám thị về ngôn ngữ khiến cho người đọc có thể hình dung,
tưởng tượng họ rất sinh động không chỉ ngoại hình mà cả ở phương diện tính
cách. Đó là ngoại hình lẳng lơ, dạn dĩ của A Linh, vợ ba La Văn Đờ (Vùng
biên ải), hay chân dung của mụ Nhuần ngùn ngụt dâm đãng (Mưa mùa hạ),
ngoại hình của Thúy đầy nhục cảm ái ân và khao khát dục tình (Gặp gỡ ở La
Pan Tẩn), Máy (Trăng non)... Một chân dung điển hình cho kiểu tướng mạo
đàn bà tiện dâm, hiếu dục là chân dung mụ Đống (Bến bờ). Ma Văn Kháng đã
chủ định miêu tả nhân vật này với tất cả những nét đặc trưng của một người
đàn bà có tướng mạo hiếu dục, dâm ác: mặt tròn, mũi nhọn, môi dầy, cằm hai
lớp biểu hiện của thói dâm đãng, bộ ngực và eo hông hầm hập niềm phồn
thực, đôi mắt khi mở to, tõe hình ba cạnh ướt át đa tình "chém cha đôi mắt lá
khoai, nhìn chồng chồng chết liếc trai trai mù" [96, tr. 48]. Với ngoại hình
được định sẵn ấy, nhân vật này đã thể hiện rất rõ tính cách tiện dâm, lăng loàn,
trắc nết khiến cho người đọc có ấn tượng xấu ngay từ những dòng đầu tiên.
Như vậy, đối với nhân vật người phụ nữ, Ma Văn Kháng đã có chủ ý
phân biệt nhân cách đạo đức ngay từ những quan sát ngoại hình qua tướng mạo
của nhân vật. Những quan sát này cho thấy sự tinh tế, mẫn cảm của nhà văn,
vừa cho thấy quan niệm của ông về nhan sắc phụ nữ. Tuy nhiên, góc nhìn quan
sát miêu tả nhân vật qua tướng mạo này ít nhiều sẽ hạn chế đến tính cách nhân
vật. Nó khiến cho người đọc luôn bị định hình vào một khung thẩm mỹ nhất
định. Khiến cho nhân vật phụ nữ của Ma Văn Kháng luôn có thể định danh.
3.2.1.3. Tướng mạo tiểu nhân, hạ lưu, thủ ác
Tướng mạo những nhân vật phản trí thức, lưu manh, thủ ác cũng
được Ma Văn Kháng dụng công khắc họa chi tiết và tỷ mỉ. Quan tâm đến
ngoại hình với những đặc điểm phản ánh nội tâm và tính cách, ở những nhân
vật này nhà văn tạo dựng những chân dung đối lập với vẻ đẹp hoàn hảo mang
96
tính lý tưởng của các nhân vật chính diện. Chú ý đến gương mặt, đôi mắt,
dáng đi, cách ăn uống, sinh hoạt, lời nói, vừa tả, vừa kể, vừa bình luận phán
đoán bằng chủ quan hay qua luận bàn từ đúc kết của khoa tướng mạo dân gian
ở ca dao, tục ngữ, Ma Văn Kháng đã chỉ ra những nét tướng điển hình cho cái
xấu, cái ác. Để lột tả bản chất bất lương, hung ác, lưu manh, đê tiện của những
nhân vật phản diện, Ma Văn Kháng luôn miêu tả những nét bất thường nghịch
dị, khuyết thiếu hoặc tô đậm cái xấu ở ngoại hình bằng thủ pháp phóng đại,
cường điệu, liệt kê kết hợp lời bình giá ngoại đề của người kể chuyện.
Tướng mạo nghịch dị, bất thường, khuyết thiếu là một trong những đặc
điểm của nhân vật hung ác, tiểu nhân, bất lương trong các tiểu thuyết Ma Văn
Kháng. Điểm nghịch dị, bất thường trên gương mặt được quan tâm nhiều nhất là
đôi mắt. Những kẻ bất lương, hung ác, tiểu nhân, đạo đức giả... không thể giấu
mình qua đôi mắt. Trong các tiểu thuyết, chi tiết đôi mắt được nhà văn quan tâm
để cắt nghĩa tướng mạo của các nhân vật, gợi lên những ấn tượng về nhân vật
ngay từ những dòng đầu tiên. Đó là hình ảnh đôi mắt bị mất một bên của Châu
Quán Lồ, con mắt trái còn lại "sâu hoắm một kẽ nứt đỏ lòm" [82, tr. 249]
khiến người đọc bị ám ảnh bởi sự hung ác, độc địa. Con mắt ấy cả khi làm
tình, lúc ngủ, lúc chết vẫn mở trừng trừng. Đó là đôi mắt của Quốc Thanh
"lưỡng mục, vòm mắt nổi mu, đuôi mắt có tia gai, bên mắt to bên mắt nhỏ,
khi ngưỡng thiên khi ngưỡng địa, bất trắc khôn lường" [78, tr. 360]. Hay sự
khuyết thiếu, nghịch dị của Quanh "cóc cụ mắt lé" (Ngược dòng nước lũ).
Hay đôi mắt Hiến "mặt hẹp, mắt sâu, cằm nhọn... hỏng một bên mắt". Gương
mặt của Thuật "hẹp như mặt chim. Mũi nổi gồ như sống dao. Hai mắt sắc
lạnh. Khuôn mặt đầy những nét biến động, không yên ổn" [67, tr. 55], Cẩm
"một khối dày và nặng. Từ mũi vòng xuống, chui vào mép hai nét vạc như
quai chảo. Môi dầy, bóng lộ vẻ thèm thuồng..." [67, tr. 64]. Tướng mặt của
Phô "mặt thô lạnh, tròn như cái mâm, tóc trên thóp rụng thưa xơ xác... mũi to
sụ, mồm bèn bẹt giống miệng cá trê với mặt tày lệnh, cổ tày cong. Kỳ hình dị
tướng thì lòng gian tham" [84, tr. 158]. Tướng mạo của kẻ đê hèn qua chân
dung Đúc: "bản mặt thịt, dày nục nạc thì lì nét ruồi đen sì dưới mũi" đi kèm
97
lời bình dân gian "mo nang, mặt nạc, đóm dày. Mo nang trôi sấp biết ngày
nào khôn" [84, tr. 161], Khoái với "gương mặt lưỡi cày tím lịm. Quai hàm,
chóp mũi, đuôi mắt nổi góc cạnh" [78, tr. 180]. Là Lý Bân - tục danh Hói, dị
dạng về ngoại hình "cao một mét rưỡi. Vai chảy xuôi. Lưng khum như mu
rùa. Bụng ông tròn. Mặt to lại có rỗ huê... mắt ti hí như mắt rắn" [96, tr. 26].
Ở những nhân vật thủ ác như Thuyên, Túc, Tư, Kơn trọc, Ma Văn
Kháng đã cố ý lấy tướng mạo nghiệt súc để bật lên tính chất vô đạo đức, dã
man, độc ác, bạo tàn. Chẳng hạn như Thuyên (Bóng đêm) vừa tả, vừa kể, vừa
bình giá ngoại hình nhân vật "một cái đầu lởm khởm tóc và gồ ghề, méo mó,
với một dải trán hẹp, bẹp dí, một cặp lông mày giao nhau và xoắn ốc...cặp mắt
lồi trành ra ba góc, vàng ệch, đỏ lừ tia máu. Một cái sống mũi vặn vẹo, hàm
răng nhọn như răng chó... cảm giác không hơn gì sự lại giống" [95, tr. 77]. Ấn
tượng mà nhân vật để lại khiến cho người đọc có cảm giác kinh tởm, ghê sợ.
Quan sát, miêu tả, phân tích, bình luận nhân vật qua cái nhìn tướng mạo
là một đặc điểm nghệ thuật xuyên suốt các tác phẩm, có ý nghĩa như là một sự
định dạng các nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Với đặc điểm này nghệ
thuật xây dựng nhân vật này, Ma Văn Kháng đã thể hiện một nguồn mỹ cảm
đậm chất cổ điển, năng lực quan sát tinh tế, khả năng phán đoán sâu sắc tâm tính
con người. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng chịu
ảnh hưởng của khoa tướng mạo dân gian cho nên bộc lộ phán đoán tính cách
ngay từ ngoại hình. Chính đặc điểm này là một nét riêng độc đáo, là ưu điểm
giúp cho người đọc có cái nhìn định hình về tính cách và số phận nhân vật qua
lời kể của người trần thuật, nhưng cũng là nhược điểm vì vô hình chung, nhân
vật sẽ bị rơi vào thế áp đặt từ chủ quan người viết. Chính vì thế, Ma Văn Kháng
rất hiếm có kiểu nhân vật như Lão Hạc, Chí Phèo, Thị Nở (Nam Cao), hay kiểu
nhân vật như lão Khúng, người đàn bà hàng chài (Nguyễn Minh Châu).
3.2.2. Nhân vật qua yếu tố tính dục
Nghiên cứu phong cách nghệ thuật nhà văn, chúng tôi nhận thấy, xuất
phát từ quan niệm nhìn con người ở phương diện bản năng, Ma Văn Kháng đã
98
coi yếu tố tính dục là một trong những phương tiện nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong tiểu thuyết. Ở phần này, xem yếu tố tính dục là một hệ quy chiếu để
đi tới giải mã nhân vật tiểu thuyết Ma Văn Kháng, chúng tôi không coi đó là
một nội dung phản ánh mà xác định đây là một hình thức nghệ thuật thể hiện
dấu ấn cá nhân sâu sắc.
Vậy, cách tiếp cận và xử lý yếu tố tính dục để làm nổi bật chân dung
nhân vật của Ma Văn Kháng có những đặc điểm gì? Từ những yếu tố tính dục
đó, Ma Văn Kháng muốn hướng tới điều gì qua các nhân vật của ông.
Tình dục là một hoạt động mang tính chất bản năng của một sinh thể
sống. Đối với con người, nó là một nhu cầu chính đáng nhằm thỏa mãn yếu tố
vấn đề giới tính và nòi giống. Miêu tả nhân vật qua yếu tố tính dục trong văn
học Việt Nam đã xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, tiêu biểu là tác
phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Trong tác phẩm này qua mối quan hệ tình dục
giữa Chí Phèo - bà ba Bá Kiến; Chí Phèo - Thị Nở, nhà văn đã nhìn thấy khả
năng tác động lớn lao của tình dục đối với con người. Tuy nhiên, từ lăng kính
giai cấp và khuôn khổ của tác phẩm, yếu tố tính dục vì thế, chưa trở thành
một đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao. Một
giai đoạn rất dài, từ sau Cách mạng tháng Tám, vấn đề tính dục trong văn học
như là một chủ đề cấm kỵ. Từ sau đổi mới, yếu tố tính dục xuất hiện trong
văn học như là một sự khẳng định cho nhu cầu tự nhiên bản năng của con
người. Với một cảm quan lành mạnh và dân chủ, nhiều tác phẩm văn xuôi đã
đề cập đến vấn đề tính dục và những tác động, ảnh hưởng, khả năng của nó
đối với đời sống con người. Tiêu biểu như Người sót lại của rừng cười (Võ
Thị Hảo), Chuyện bốn chín cây cơm nguội (Nguyễn Quang Lập), Chim én
bay (Nguyễn Trí Huân), Đùa của tạo hóa (Phạm Hoa)... Vậy, điều gì đặc biệt
ở cách miêu tả nhân vật qua yếu tố tính dục trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng?
Chúng tôi nhận thấy, ở thể loại truyện ngắn, Ma Văn Kháng cũng đưa
yếu tố tính dục vào rất nhiều tác phẩm: Suối mơ, Những người đàn bà, Chọn
chồng, Anh thợ chữa khóa, Một chiều giông gió... Từ những truyện ngắn, Ma
99
Văn Kháng hướng tới phân tích bản năng tình dục của con người như một
dòng chảy "không lộ thiên, thầm thào chảy nhưng dào dạt vô cùng". Đến tiểu
thuyết, miêu tả nhân vật qua yếu tố tình dục đã trở thành một thủ pháp nghệ
thuật để khám phá nhân vật ở chiều sâu nội tâm với tất cả sự phức tạp của nó.
Trong các tiểu thuyết, để thể hiện bản chất và tính cách nhân vật, Ma Văn
Kháng xây dựng những mối quan hệ tình dục phức tạp, đan cài, vượt qua rào
cản đạo đức. Chúng tôi đã thống kê qua bảng sau:
Bảng 3.1: Thống kê các mối quan hệ
Tác phẩm
Nhân vật nữ
Người thứ 1
Người thứ 2
Người thứ 3
Seo Cả
Người chồng đã chết
Đồng bạc trắng hoa xòe - Vùng biên ải
Giàng A Pao (em chồng- người tình- chồng)
Giàng Lử (em chồng - kẻ cưỡng bức)
Trăng non
Seo Di
Vàng A Ký (chú họ)
Vàng A Chảo (chồng)
Mưa mùa hạ
Loan
Trọng (người yêu)
Thưởng (chồng)
Hảo (bậc cha chú- người tình)
Lý
Đông (chồng)
Mùa lá rụng trong vườn
Gã trưởng phòng (cấp trên - người tình)
Xuyến
Tự (chồng)
Đám cưới không có giấy giá thú
Quỳnh (hàng xóm- người tình)
Hoan
Thoa (vợ)
Ngược dòng nước lũ
Khiêm(người tình - người chồng)
Mộc (người tình, đồng nghiệp của Thoa)
Thụy
Nguyên (chồng)
Côi cút giữa cảnh đời
Gã lái xe đường dài (kẻ gây án- người tình)
Thúy
Thiêm (người yêu)
Gặp gỡ ở La Pan Tẩn
Quốc Thanh (cấp trên - người tình)
An (vợ Quốc Thanh- người yêu của Thiêm)
Yên
Một mình một ngựa
Quyết Định (chồng- lãnh đạo)
Giáo Cầu (thầy giáo - người tình)
Toàn (người ngưỡng mộ)
Bóng đêm
Quyến
Nhâm
Quá khứ
Quá khứ
Bến bờ
Lập (chồng - quản giáo)
Ngộ (người tình - kẻ thụ án)
Nhàn
Bến bờ
Khanh
Điền (người yêu)
Tư (con riêng của mẹ kế - kẻ cưỡng bức)
Nguồn: Tác giả luận án tổng hợp.
Từ bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy, Ma Văn Kháng luôn đặt
nhân vật vào trong những mối quan hệ tình dục phức tạp, có ít nhất ba người
100
tham gia, có mối quan hệ tình dục đơn thuần là bản năng thể hiện lối sống phóng
dục, đồi bại để thỏa mãn thú tính, có mối quan hệ gắn với tình yêu, lòng tự
trọng, có mối quan hệ vượt qua rào cản đạo đức nhưng lại mang ý nghĩa hướng
thiện, có mối quan hệ chà đạp lên đạo đức, bất chấp đạo lý, có mối quan hệ dựa
trên sự lợi dụng và thỏa mãn quyền lợi vật chất, có mối quan hệ thể hiện yếu
tố bạo lực... Những mối quan hệ tình dục ấy vừa có tính chất cá nhân, vừa có
tính chất xã hội. Ở từng mối quan hệ, lăng kính soi chiếu lại có xuất phát điểm
khác nhau. Trong tiểu thuyết sử thi, mối quan hệ tình dục được soi chiếu từ
lăng kính giai cấp. Trong tiểu thuyết thế sự đời tư, lăng kính soi chiếu bản năng
con người qua cái nhìn đạo đức. Xoay quanh những mối quan hệ đó, các nhân
vật bộc lộ bản chất và tính cách của mình một cách rõ nét. Cũng từ những mối
quan hệ tình dục đó, Ma Văn Kháng thể hiện những góc nhìn đa diện về con
người, lí giải con người ở phương diện bản năng và sự kiềm tỏa đạo đức.
Miêu tả hành vi tính dục trong những cảnh huống tính giao ở tiểu
thuyết Ma Văn Kháng có ý nghĩa tô đậm tính cách các nhân vật. Những hành
vi tính dục thô lỗ, bỉ ổi, thú vật phản ánh con người hơn tất cả mọi lời giải
thích, phân tích. Trong Vùng biên ải, hành vi tính dục của Giàng Lử nhằm
mục đích thỏa mãn nhu cầu bản năng, coi người phụ nữ là công cụ tình dục
nên hắn đã cưỡng bức chị Pàng ngay cạnh chiếc quan tài của anh trai hắn -
chồng người chị dâu khốn khổ. Hắn cưỡng bức Seo Cả đến trụy thai dù biết
rằng chị yêu Pao và đứa con trong bụng là của Pao. Chính hành vi cưỡng bức
tình dục đó đã bộc lộ thú tính man rợ, hung ác, vô đạo đức của Giàng Lử. Đó
là hành vi tính giao giữa Quốc Thanh và Thúy (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn), đầy
bản năng động vật với những tiếng rú, chiếc quần tụt một bên ống, lúc ở
trường, lúc bên bờ suối cạn, bãi đá, khi biệt kích đang nhảy dù chiếm ủy ban,
chiếm trường học có ý nghĩa vạch trần bản chất thú tính của các nhân vật sau
vỏ ngoài đạo đức. Hay cuộc ân ái giữa Thoa và Mộc (Ngược dòng nước lũ),
gã nhân tình trơ tráo, khốn nạn ngay trước mặt người chồng (Khiêm) đang ốm
liệt giường, vừa bỉ ổi, vừa dâm đãng, mất nhân tính. Rồi cuộc ái ân vụng trộm
101
của Nhàn với một kẻ mãn hạn tù ngay trong ngôi nhà chồng vợ, khi Lập (chồng)
vừa quay lưng, những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ của Nhàn với tên Ngộ đã cho
thấy một con người khác trong chính nhân vật này - đói khát tình dục, ham hố
vô độ, bất chấp đạo đức để thỏa mãn nhu cầu bản năng, coi thường tình chồng
vợ và cuối cùng bỏ đi theo tiếng gọi dục tình, bất chấp tất cả.
Miêu tả hành vi tính dục khi đi cùng tình yêu lại mang một ý nghĩa
khác, đó là sự dâng hiến, tỏ bày, gắn kết hai người trong một sự hòa hợp cả
thể xác lẫn tinh thần. Nó là điểm đến của tình yêu lứa đôi trọn vẹn, sự thăng
hoa cảm xúc và năng lực tính giao của đôi lứa. Đó là những cuộc ân ái của
Pao - Seo Cả, Khiêm - Hoan, Thiêm - An, Nhâm - Quyến, Điền - Khanh, những
trang viết về cảnh ái ân giữa các nhân vật tràn đầy cảm quan dương tính, phồn
thực, dạt dào cảm xúc, chan chứa yêu thương, đánh thức trong lòng người đọc
tình yêu cao thượng và sự hiến dâng trọn vẹn không vụ lợi toan tính, sự hưởng
thụ năng lực tình dục, hương vị tình yêu đầy tính nhân văn.
Mặc cảm tình dục cũng là một cách để miêu tả khám phá các nhân vật
trong các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Phân tích nhân vật ở sự không trùng
khít, không thống nhất trong năng lực và ham muốn, từ sự đổ vỡ tình cảm,
các cuộc ngoại tình, phản bội, Ma Văn Kháng đã nhìn thấy những nguyên
nhân dẫn đến mặc cảm, ẩn ức tính dục trong nội tâm nhân vật. Có trường hợp
giấu kín mặc cảm như Tự (Đám cưới không có giấy giá thú), ông Quyết Định
(Một mình một ngựa). Có trường hợp dẫn đến suy nhược cả thể chất lẫn tinh
thần, thậm chí cái chết như ông Tuệ (Bến bờ), có trường hợp làm tha hóa, biến
dạng nhân cách con người như Quốc Thanh, Thúy (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn).
Lối sống tình dục cũng là một trong những điểm để khám phá nội tâm
và tính cách nhân vật. Những lối sống phóng đãng, phóng dật, hoang dâm vô
độ, ác dâm, khẩu dâm cho thấy sự đồi bại trong nhân cách con người. Châu
Quán Lồ (Vùng biên ải) có thể ngủ với A Linh (vợ ba La Văn Đờ), trong
chính ngôi nhà của La Văn Đờ, La Văn Đờ lấy vợ làm sợi dây trói buộc tay
chân. Quốc Thanh (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn) với câu nói khoe khoang đã từng
102
ngủ với năm chục người đàn bà là điển hình cho lối sống phóng đãng. Tư
(Bến bờ) ngủ với em gái cùng mẹ khác cha, cưỡng bức trẻ em, phụ nữ để thỏa
mãn thói hoang dâm vô độ. Hói (Bến bờ) luôn có sở thích thị dâm, khẩu dâm,
hành hạ vợ đến khi phát cuồng vì ham muốn lại bỏ lửng chị để thỏa mãn lòng
căm hận. Tất cả những chi tiết đó đã bộc lộ sự méo mó nhân cách, lối sống
tình dục phi nhân tính, đồi bại, vô đạo đức của các nhân vật.
Qua khảo sát các mối quan hệ tình dục giữa các nhân vật trong các tiểu
thuyết, chúng tôi nhận thấy, Ma Văn Kháng đã thể hiện một cái nhìn tiến bộ, coi
đó là một vấn đề thuộc về bản năng, nó có một sức mạnh lớn lao đối với đời sống
con người, chi phối con người, thể hiện qua ham muốn và hành vi của nhân vật
trên phương diện giới. Các nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ở cả hai
phần sáng tối đều có khát vọng, ham muốn, năng lực, hành vi tình dục mạnh mẽ.
Có thể nói xem yếu tố tính dục là một lăng kính để quan sát nhân vật, tiếp cận và
xử lý trên góc quy chiếu đạo đức, điều đó đã trở thành một đặc điểm trong ý thức
nghệ thuật của Ma Văn Kháng. Chính điều này đã đem đến một cái nhìn đa
chiều về con người và tác động đến thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông.
3.2.3. Nhân vật mang yếu tố tự truyện
Tự truyện (autobiography) từ góc nhìn thể loại là "tác phẩm tự sự do
tác giả viết về cuộc đời mình... [37]. Trong tự truyện, yếu tố tiểu sử của nhà
văn chỉ có vai trò như chất liệu (vốn sống), để nhà văn hư cấu và tưởng tượng.
Lấy chính mình qua những trải nghiệm đời sống ở những giai đoạn khác nhau
như là nguyên mẫu, đưa vào tác phẩm qua hình tượng nghệ thuật là một trong
những đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật thể hiện phong cách tiểu thuyết
Ma Văn Kháng. Qua quan sát, chúng tôi nhận thấy đặc điểm nghệ thuật trên
được biểu hiện ở những phương diện cụ thể sau đây: một là, đưa những chất
liệu (vốn sống) và sử dụng những trải nghiệm cá nhân về nghề nghiệp, đời
sống để xây dựng nhân vật; hai là, lấy nguyên tắc thẩm mỹ cá nhân, coi đó là
thang giá trị, chuẩn thẩm mỹ để xây dựng nhân vật tiểu thuyết. Mỗi tiểu
thuyết, tùy theo nội dung phản ánh và sự đòi hỏi của thiết kế nhân vật, những
103
yếu tố tự truyện trên sẽ có mức độ khác nhau. Nhưng tựu trung lại, đó là một
trong những đặc điểm xuyên suốt các sáng tác tiểu thuyết của nhà văn.
Trước hết, quan tâm đến chất liệu cá nhân và trải nghiệm của Ma Văn
Kháng, chúng tôi cho rằng, nhà văn có một nguồn chất liệu (vốn sống) và những
trải nghiệm cá nhân vô cùng phong phú. Những điều đó có được từ chính hiện
thực cuộc đời của nhà văn ở trong những không gian và thời gian khác nhau.
Hơn hai mươi năm sống ở Lào Cai, quãng thời gian bằng với cuộc đời một con
người từ khi sinh ra đến tuổi trưởng thành, nghề nghiệp và vị trí khác nhau đã
giúp Ma Văn Kháng tích lũy được những trải nghiệm sâu sắc về đời sống văn
hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng, ứng xử mang tính cộng đồng, lối ăn ở,
quan hệ xã hội và cá nhân... của người dân tộc miền núi. Quãng đời làm giáo
viên, nhà báo cũng cho ông nguồn chất liệu phong phú khi viết về đời sống
người trí thức. Chính những chất liệu đời sống này khiến cho tác phẩm và nhân
vật của ông có sức thuyết phục cao. Đọc tiểu thuyết Gặp gỡ ở La Pan Tẩn,
Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước
lũ. Thiêm, Luận, Kha, Tự, Khiêm phảng phất những bóng hình của chính Ma
Văn Kháng trong các đoạn đời. Luận (Mùa lá rụng trong vườn) phảng phất
bóng hình của Ma Văn Kháng trong những năm đầu về Hà Nội, dấn thân làm
báo. Các nhân vật trong tác phẩm sau này theo lời ông trong Năm tháng nhọc
nhằn năm tháng nhớ thương đều mang bóng hình những người thân trong
cuộc sống của ông. Thiêm (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn) là hình ảnh thầy giáo Đinh
Trọng Đoàn hồ hởi nhiệt huyết lên vùng cao xóa mù diệt dốt lúc tuổi 20 căng
tràn nhựa sống. Khiêm (Ngược dòng nước lũ) có dấu ấn của quãng đời nhà
báo Ma Văn Kháng ở giai đoạn sau. Vấn đề thứ hai: lấy nguyên tắc thẩm mỹ
cá nhân, coi đó là thang giá trị, chuẩn thẩm mỹ để xây dựng nhân vật tiểu thuyết.
Nguyên tắc thẩm mỹ cá nhân của Ma Văn Kháng thể hiện trong quan niệm
của ông về văn chương và con người như ở chương hai chúng tôi đã trình bày.
Những nguyên tắc này chi phối cách xây dựng nhân vật của Ma Văn Kháng
trong thể loại tiểu thuyết vì thế các nhân vật của ông luôn tuân theo chuẩn mực
thẩm mỹ mang tính chất cố định, không có sự phá cách. Chỉ có trường hợp
104
khó phân định như Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) nhưng chính những
nhân vật không tuân theo nguyên tắc này lại trở thành độc đáo nhất trong tiểu
thuyết của ông. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ tự truyện thì phải đến Một mình
một ngựa hai yếu tố trên mới đạt đến độ kết tinh trong xây dựng nhân vật.
Toàn - nhân vật chính của tiểu thuyết Một mình một ngựa trong dòng
hồi tưởng những ký ức về đoạn đời mình đã qua, với một độ lùi mấy chục
năm, qua cái nhìn lại của chính mình đã trở thành một kiểu nhân vật tự truyện
độc đáo trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Tính chất tự truyện ở nhân vật Toàn
thể hiện qua những chi tiết gần như song trùng với đời thật của nhà văn: sinh
ra và lớn lên ở Hà Nội, địa chỉ nhà nhân vật ở Hà Nội trùng với đời thật của
nhà văn, tham gia cách mạng ở Lào Cai, đi dạy học, làm thư ký cho bí thư
tỉnh ủy, có năng khiếu văn chương, có cái nhìn quan sát con người và cuộc
sống... Anh đã gắn bó một đoạn đời trai trẻ của mình ở mảnh đất biên ải tổ
quốc cùng với những người đồng chí trong một giai đoạn lịch sử đầy khó
khăn. Không giống như Ba người khác (Tô Hoài), nhìn lại quá khứ bằng sự
một góc nhìn sám hối và đối diện với con người quá khứ với tất cả nỗi ám ảnh
chua xót, Ma Văn Kháng đã lần lại sợi dây ký ức suốt mấy chục năm qua, như
ánh hồi quang của một đoạn đời, từ những chất liệu và trải nghiệm của chính
bản thân mình, kể lại những câu chuyện quá khứ, phát triển ý đồ nghệ thuật.
Với khát vọng khám phá đời sống ở cả phương diện lịch sử xã hội và đời tư,
thông qua mối quan hệ giữa các nhân vật, qua hoàn cảnh xã hội, muốn sống
lại đoạn đời đã qua ở một thời gian hiện tại, Ma Văn Kháng đã lựa chọn một
lát cắt trong quãng đời hai mươi năm có lẻ của Toàn, khi anh chia tay với
nghề dạy học đi giúp việc cho bí thư tỉnh ủy với vai trò thư ký và đến lúc anh
rời vị trí này ra đi. Cái nhìn lại này đã giúp cho nhân vật Toàn đã tạo dựng
một kiểu nhân vật, tạm gọi là nhân vật "một mình một ngựa" trong tác phẩm.
Đó là hình ảnh một chiến sĩ cách mạng hiên ngang oai hùng - Bí thư tỉnh ủy
Quyết Định. Nhan đề và chính hình tượng nhân vật từ góc nhìn mới này hàm
chứa một mặc cảm cô đơn. Cô đơn trong sự xông pha đối đầu với lực lượng
105
thù nghịch và cô đơn trong chính đời tư của mình. Người anh hùng quả cảm,
đứng đầu một tỉnh ấy vừa bi hùng vừa đơn độc. Bi hùng khi ông nhận ra vai
trò của mình trong công cuộc cách mạng ở vùng đất mà tất cả còn đang ở
trạng thái sơ khai, bi hùng khi ông xông pha vào sào huyệt của kẻ thù không
hề khiếp sợ, bi hùng khi ông đối diện với những quyết sách sống còn vì quyền
lợi của nhân dân. Nhưng người anh hùng ấy lại cô đơn ngay ở vị trí mình
công tác, cô đơn trong hành trình bảo vệ chân lý, cô đơn trong ngôi nhà và
người vợ xinh đẹp nồng nàn sức sống khao khát ái ân mà ông không thể đáp
ứng, bởi vì "muốn hạnh phúc con người phải có thời gian cho mình, mà ông
thì có cảm giác chưa kịp sống cho mình nữa... cô đơn là trạng thái thường trực
của ông" [92, tr. 332]. Cô đơn - đó phải chăng chính là số phận của những kẻ
có ý thức về giá trị của chính mình. Hình tượng nhân vật Toàn cũng "một
mình một ngựa" trong đoạn đời đó, anh cô đơn trong tư tưởng, luôn cảm thấy
mình như một người đứng bên lề, nhìn thấy tất cả mà vẫn không thể lẫn vào.
Nhân vật Toàn trong dòng hồi tưởng đã thuật lại tất cả, không tô hồng huyền
thoại hóa nhân vật, cũng không bôi đen, phủ nhận sách trơn. Cái nhìn nghiêm
khắc bộc lộ nguyên tắc thẩm mỹ của một nhà giáo khiến cho anh không chỉ
hướng tới thế giới bên ngoài mà cái nhìn đó còn hướng tới nội tâm của chính
mình trong một cuộc tự vấn những gì đã qua mà mình dự phần can hệ. Với tư
cách nhân vật tự thuật, trong dòng hồi tưởng ấy, Toàn đã nhận ra, mình chỉ là
một cá nhân bé nhỏ, đóng một vai không trùng khít với chính mình. Là một
thầy giáo, nhưng số phận ngẫu nhiên đã chọn lựa anh làm phụ tá cho một nhân
vật chính trị, chứng kiến tất cả những thủ đoạn chính trị trong nội bộ lãnh đạo,
chứng kiến sự tranh giành quyền lực, chứng kiến sự kết thúc của một cuộc
đời, một nhân cách oai hùng trong tàn lụi. Nỗi xót xa của anh là nỗi xót xa
cho chính cuộc đời mình và những con người của một thời đã qua không trở
lại ấy "nhọc nhằn quá, cuộc sống có bao giờ hiện ra ở hình thái hoàn hảo đâu.
Mọi người ai cũng như quả đấm với, ai cũng như đánh vật với chính mình,
chả ai sung sướng trọn vẹn cả. Tội nghiệp" [92, tr. 363]. Kết thúc tác phẩm là
106
cảm nhận cay đắng của Toàn về sự kết thúc cuộc đời nhân vật Quyết Định.
Ánh hồi quang của người anh hùng lụi tàn trong mắt Toàn cũng chính là lúc
anh bộc lộ tư tưởng và nguyên tắc thẩm mỹ của mình về con người một cách
sâu sắc toàn diện: con người ta bản chất là cô đơn và mãi mãi cô đơn.
Sử dụng yếu tố tự truyện trong xây dựng nhân vật, Ma Văn Kháng đã
thể hiện màu sắc của cái tôi nhà văn trong thời điểm quá khứ, vừa là sự khám
phá, nhận thức lại chính mình trong một điểm nhìn mới, ở một trục không gian
và thời gian khác với không gian, thời gian đã mất. Với đặc điểm nghệ thuật này,
Ma Văn Kháng đã thể hiện sự tìm tòi khám phá con người ở trong các chiều
kích không gian, nhìn nhận từ nhiều góc độ, có cả yếu tố sử thi, cảm hứng lãng
mạn, kết hợp cái nhìn hiện thực tỉnh táo pha trộn với kỹ thuật dòng ý thức. Qua
chất liệu (vốn sống), trải nghiệm thực tế và sự chi phối của nguyên tắc thẩm
mỹ đối với sáng tác, nhân vật tiểu thuyết không còn đơn giản như là sự minh
họa hay phản tỉnh, nhận thức lại con người và hiện thực, mà cao hơn là sự mở
rộng chiều sâu bản thể con người cũ trong một cái nhìn mới đầy tính nhân văn.
TIỂU KẾT
Qua khảo sát thế giới nhân vật trong suốt hành trình sáng tạo tiểu
thuyết Ma Văn Kháng, xác định những kiểu nhân vật tiêu biểu ở từng thể loại,
nhận thấy: thế giới nhân vật tiểu thuyết Ma Văn Kháng đông đảo về số lượng,
phong phú, phức tạp, đa dạng về thành phần, lứa tuổi và giới tính, hấp dẫn về
tính cách và chiều sâu nội tâm. Thế giới nhân vật của tiểu thuyết Ma Văn
Kháng phản ánh sinh động những chân dung con người trong xã hội qua từng
giai đoạn lịch sử. Thế giới nhân vật này cũng cho thấy Ma Văn Kháng có một
năng lực xây dựng nhân vật sắc sảo và tầm nhìn bao quát xã hội sâu rộng.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Ma Văn Kháng ở tiểu thuyết có ba đặc điểm
chính. Miêu tả nhân vật qua cái nhìn tướng mạo, qua yếu tố tính dục, qua yếu
tố tự truyện. Với những đặc điểm này, Ma Văn Kháng đã khám phá nhân vật
ở các phương diện: hình thức và nội tâm ở cả hai phần sáng/ tối, từ đó, chuyển
tải những tư tưởng nghệ thuật của mình một cách thuyết phục.
107
Chương 4
NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
Khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với khám phá phong cách cá nhân,
Khrapchenko từng nói: "Ngôn ngữ là một hiện tượng của phong cách, ngôn
ngữ thực hiện một chức năng phức tạp, nó tạo ra hệ thống giọng điệu của tác
phẩm. Không một thành tố nào của phong cách tồn tại bên ngoài hệ thống
đó" [104, tr. 191] và "sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi một tiếng nói riêng, ngôn ngữ
là yếu tố thể hiện tiếng nói riêng ấy. Ngôn ngữ là nơi giao hòa của các dấu hiệu
nổi bật nhất diễn đạt phong cách của nhà văn, là nơi biểu hiện một cách tập
trung những nét độc đáo trong cá tính sáng tạo của một tác giả" [32, tr. 172-173].
"Ngôn ngữ văn học còn là chất liệu, và ở những nhà văn ưu tú, chất liệu này
in đậm những nét độc đáo của phong cách" [32, tr. 174].
Ngôn từ là đơn vị đầu tiên cũng là đơn vị cuối cùng để tạo nên phong
cách, diện mạo của nhà văn. Một nhà văn có phong cách ngôn ngữ độc đáo
trước hết phải có vốn từ ngữ phong phú sinh động hấp dẫn, kiến trúc cú pháp
trong các sáng tác cụ thể đa dạng, nguồn ngữ cảm dồi dào tinh tế sâu sắc, có
khả năng sử dụng linh hoạt ngôn từ để làm rõ sự khác biệt, nét chủ yếu của
đối tượng miêu tả. Sáng tạo nghệ thuật của anh ta phải là một chỉnh thể nghệ
thuật hài hòa cả hình thức lẫn nội dung. Ngôn từ nghệ thuật trong các sáng tác
của anh ta phải có mầu sắc riêng, nổi bật được cái tạng viết độc đáo không lẫn
vào bất cứ giọng điệu khác. Khảo sát sáng tác tiểu thuyết Ma Văn Kháng,
chúng tôi nhận thấy đó là một nhà văn có biệt tài sử dụng ngôn ngữ, có ý thức
sâu sắc trong chuẩn mực và sáng tạo từ sáng tác đầu tay cho đến hôm nay.
Trong chương này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu hai phương diện: ngôn ngữ và
giọng điệu, hai yếu tố quan trọng thể hiện dấu ấn phong cách nghệ thuật nhà văn.
4.1. NGÔN NGỮ TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
4.1.1. Ngôn ngữ tả, kể và trữ tình ngoại đề
Trong quá trình sáng tạo tiểu thuyết, Ma Văn Kháng luôn kiên trì một
lối đi riêng, lựa chọn cho mình một phong cách kể chuyện duyên dáng tài hoa,
108
biểu cảm, giàu chất thơ qua sự đan xen giữa mạch kể, mạch tả và bình luận
trữ tình ngoại đề. Từ Đồng bạc trắng hoa xòe, mạch trần thuật đó đã được
triển khai để nhà văn triển khai các cấu trúc tự sự của mình, những sự kiện
lịch sử dày đặc được đan xen với những trang miêu tả thiên nhiên tuyệt bút,
những chân dung con người mang nét đặc sắc cá tính riêng mà qua lối tả nhận
rõ đây chính là nhân vật của Ma Văn Kháng, lối bình luận thiên về chủ quan
rất hóm hỉnh của người kể chuyện dù giấu mặt. Càng về sau, mạch trần thuật
ấy càng bộc lộ rõ như một đặc điểm nổi bật, góp phần làm nên vẻ đẹp của
phong cách Ma Văn Kháng trong thể loại tiểu thuyết.
4.1.1.1. Lời tả
Tìm hiểu ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng ở phương diện lời tả
chúng tôi quan sát qua hai phương diện: lời văn tả cảnh và lời văn tả người.
Lời văn tả cảnh trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng gần với nghệ thuật biểu hiện,
chính xác, tinh tế và biểu cảm. Thiên nhiên trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
qua lời văn ấy hiện lên với tất cả hồn cốt của nó, thực sự trở thành một nhân vật
trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Đó là vẻ đẹp nơi hoang sơ và hùng vĩ qua
bức tranh khu rừng Pơmu lão đại trùng trùng ở Sâu Chua Lao Chải, là ngọn
gió từ Hoàng Liên Sơn thổi xuống thung lũng Xả Hồ, là cảnh rừng mùa
xuân đầy sức sống trong Trăng Non. Chỉ có Ma Văn Kháng mới tả "Mùa
xuân náo nhiệt từng ngọn cỏ cành cây... rừng động hớn thật" [78, tr. 46]. Vẫn
thiên nhiên ấy qua trang tiểu thuyết của Ma Văn Kháng có lúc duyên dáng như
một bài thơ, có lúc lạnh lùng khắc nghiệt dữ dội, lúc hào sảng thắm thiết trữ
tình. Hãy xem một đêm trăng trên bản Mông qua ngôn từ của người kể chuyện
"trăng tãi sáng, nước ở các ruộng bậc thang, hất lên long lanh ánh gương soi,
Trên đám đất mới vỡ, sương đêm lung linh những ánh bụi vàng... Trăng vừa
thấp thoáng sau khu rừng tông qua sủ lững thững... treo gương vàng giữa hai
triền núi xanh lơ "..." [78, tr. 187]. Vầng trăng ấy đến Gặp gỡ ở La Pan Tẩn lại là
"một mảnh trăng vỡ, méo mó, bị lãng quên nghiêng nghiêng nơi góc trời, thoang
thoảng vẻ cô hồn. Cô hồn mà thật sáng... Sáng xa xỉ mà hào phóng, nhưng hồn
109
hậu như hoa rừng, như ngọn đèn trời rỡ ràng soi tỏ một vùng đồi núi trập
trùng..." [78, tr. 305]. Tả gió mà có hình sắc, mùi vị, thanh âm, tính cách "gió
xông xổng thổi suốt trên những sườn núi ràn rạt cỏ gianh ố vàng... Gió nức
thơm mùi hoa dại" [78, tr. 308]; và "Gió từ núi đỉnh Liên Sơn xuống, trườn
theo sườn núi, như lốc cuộn... gió như quái vật sổ lồng" [78, tr. 84]. Ngôn ngữ
miêu tả của Ma Văn Kháng luôn tóm bắt những khoảng khắc đặc biệt của
thiên nhiên: "Nắng cuối thu vàng mỡ màng quyến luyến trên những ngọn dạ
hương. Chớm rét, chim đã về, rộn rã trên những cành cao cổ thụ. Đàn nhạc sáo
líu lo trên cây gạo trút lá thân mình trắng phếch nơi bờ sông. Dòng sông cạn
đổ theo chiều dốc, âm vang tiếng sóng vỗ rạn vỡ hai bờ đá" [82, tr. 112].
Càng về sau này mạch trần thuật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng càng thể
hiện sự vận động rõ rệt, lời tả hiện diện trong tác phẩm có ý nghĩa như là sự hỗ
trợ, bổ sung cho lời kể thêm phần sống động, tả thiên nhiên như là một thủ pháp
trần thuật và là một đối tượng kể chứ không phải là bức phông nền như ở tiểu
thuyết sử thi. Hãy xem ba đoạn văn tả mưa: "Mưa đổ sầm sập phũ phàng...
Mưa suốt đêm. Mưa như từ cổ tích mưa ra. Mưa như từ thời hồng hoang,
nguyên thủy mưa về. Nhưng rồi, mưa đột ngột tạnh. Và thành phố sáng rực
lên từng mảnh tường vôi dưới bầu trời xanh bóng lọng của một ngày hè chói
chang" [94, tr. 12-13]; "Chớm hạ,... nắng đầu mùa nhợt đi, những tảng mây
đen nặng chứa dông bão lừ lừ bay về thành phố. Gió đông nam hấp tấp đuổi
theo những lưỡi khí lạnh chưa kịp rút của mùa đông, vượt lên, đột ngột hóa
lạnh. Mưa đổ xuống thành phố. Những cơn mưa ngắn ngủi. Mạnh như thác
đổ" [91, tr. 163] và đây hơi mưa mát rượi chốc chốc lại tạt nhẹ vào khuôn cửa
sổ tối mờ. May mà có mưa... Vì toa tàu đã hẹp lại đông người. Mà người thì
phát xạ như một hành tinh giàu năng lượng. Đã chật lại oi ngột. May mà có
mưa. Mưa tắm mát vỏ con tàu. Mưa xóa nhòa các đường biên không gian, tạo
nên cái hư giác là con tàu đang trôi trượt vào bóng đêm mông lung không
thanh sắc, hình tướng. Trong mưa, tiếng va đập, rít xiết của con tàu trở nên
phẳng bẹt, nhòa mờ, lan rộng. Mưa ru Điền vào giấc ngủ của kẻ lữ hành cô
110
độc có cuộc sống phiêu tán đó đây đang rất cần những khoảng tĩnh lặng để
nghe được tiếng nói dịu dàng của một đời sống bình dị lâu bền [96, tr. 10]. Ba
đoạn văn đều nói về những cơn mưa mùa hạ, ba cấu trúc đoạn khác nhau, lối
hành văn, từ ngữ, cảm xúc khác nhau. Mỗi đoạn cho ta thấy tâm thế của
người kể chuyện và của nhân vật trước thiên nhiên. Hai đoạn đầu thiên về tả
cảnh để bộc lộ tâm trạng, nhưng đoạn văn thứ ba, mưa không còn là thiên
nhiên tâm trạng, mưa qua lời văn tả cảnh trong dòng ý thức của nhân vật đã
trở thành một nhân vật song hành. Và đây, ba khu vườn, ba góc nhìn khác
nhau: Một khu vườn hiện lên trước mắt người đọc với sức sống "hăm hở", lá
"hồng bấy" hoa "ngoi lên ngầu ngầu một sắc nắng nhẹ... hoa gọi ong... cây
mít bật chồi... rồi sấu... rồi vải...một sớm mai trở dậy đứng dưới gốc sấu hoa
rụng đầy, mịn xanh như bột đậu đồ, ngẩng lên đã thấy những chùm quả non,
xanh như ngọc" [91, tr. 164]. Đây lại là một khu vườn khác hoang vắng, âm u:
"Hai cây hồng xiêm cằn. Một cây dừa còi. Hai cây ổi cao vóng cạnh một cây
táo dại... Tất cả cây cối đều xác xơ, trong khi cây lá ở những luống lay ơn và
tường vi, không hiểu được nuôi dưỡng bằng chất liệu gì mà rậm ròa, xanh um
một sắc độ đậm đặc khác thường"; và đây nữa, tràn trề sức sống như chủ nhân
của nó - người đàn bà trong câu chuyện Hương hoa Đà Lạt: "Cây trong tĩnh
mịch tự đâm chồi. Hoa tự phô sắc. Mưa đậu êm êm trên những cánh hoa. Cúc
tím. Anh đào hồng tươi. Râm bụt đỏ chót. Trà mi trắng bạch. Thiên lý vàng ánh.
Cúc đại đóa như mặt trời lóe sáng. Địa lan vương giả thâm trầm" [96, tr. 207].
Với những lời văn tả cảnh vừa trau chuốt, vừa giản dị, vừa sinh động,
vừa tinh tế, Ma Văn Kháng đã đan dệt lên những bức tranh thiên nhiên tuyệt
đẹp mà cảnh ấy như đồng hiện con người với những rung động riêng tư,
những linh nghiệm tinh tế, mơ hồ từ trong sâu thẳm nội tâm. Lời văn tả cảnh
đã hiện diện với tư cách như là một thành tố của cấu trúc tiểu thuyết Ma Văn
Kháng. Ngôn từ tả cảnh sinh động, từ láy, từ ghép, từ tượng hình, tượng thanh,
biểu thái được nhà văn sử dụng đắc địa khiến cho cảnh trong tiểu thuyết Ma
Văn Kháng có những vẻ đẹp riêng không dễ lẫn vào những nhà văn khác.
111
Lời văn tả người trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng kết hợp với kể và
bình luận trữ tình ngoại đề cùng với một giọng điệu trữ tình đã tạo nên những
hiệu quả rung động thẩm mỹ sâu sắc tác động đến tâm trí người đọc. Từ cái
nhìn chịu ảnh hưởng của khoa tướng mạo dân gian, lối dùng từ ngữ độc đáo,
Ma Văn Kháng đã thể hiện một thế giới nhân vật đầy màu sắc. Nhân vật nào
cũng có những nét riêng, độc đáo không thể trộn lẫn. Ở phần này, chúng tôi
đặc biệt chú ý đến lời văn tả phụ nữ trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng,
xem đó là thành công của nhà văn về phương diện ngôn ngữ miêu tả.
Người phụ nữ trong miêu tả của các tiểu thuyết Ma Văn Kháng phong
phú, nhiều màu vẻ: có những nhan sắc vừa đằm thắm vừa lẳng lơ quyến rũ, say
đắm lòng người, có những nhan sắc đoan trang nết na hiền thục, có đàn bà dâm
loàn trắc nết hư hỏng, có vẻ đẹp của người phụ nữ miền biên ải, có nhan sắc đàn
bà thị dân. Mỗi một chân dung thể hiện một lối miêu tả, lời văn miêu tả rất riêng.
Người đàn bà biên ải luôn được quan sát ở vẻ đẹp phồn thực, nữ tính,
có chất man dại và phóng túng, rất quyến rũ. Đó là những Seo Cả, Seo Ly,
Seo Say, Seo Mùa, Seo Di, A Cở... từ đôi mắt đến nụ cười, hàm răng, mái tóc,
bầu ngực... đều là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên tính nữ. Chân dung Seo Cả:
Gương mặt rười rượi trong ánh trăng và hàm răng trắng muốt
như hoa sở rừng. Trăng tan chảy chan hòa trên gương mặt Cả, trên
làn da nõn nà ở cổ chị, và tràn lan trên làn da trắng nhẫy của chị vừa
hé lộ... hai bầu vú chị căng mọng núc ních nhòn nhọn như hai ngọn
măng tre... mặt Cả ló ra vùng trăng soi. Bờ vai trắng hồng nổi bật
trên mái tóc đen rậm trải rộng như tấm nệm lót lưng [83, tr. 160-161].
Nhan sắc phụ nữ thành thị lại mang vẻ đẹp khác, tinh tế, trau chuốt.
Đó là Lý, Phượng, Quyến, Cúc, Khanh... mỗi nhan sắc phụ nữ, Ma Văn Kháng
đều nhìn thấy cái tố chất làm nên thần thái linh hồn của họ. Ở Lý, là sự quyến
rũ của tuổi hồi xuân, vừa lẳng lơ, vừa quyến rũ, chỉ một nét miêu tả "hai con
mắt lá răm nhóng nhánh sáng, đong đưa một cái nhìn vừa vui tươi vừa lẳng"
đã lột tả được vẻ đẹp nữ tính của nhân vật. Vẫn là Lý nhưng ở một góc nhìn
112
khác, trong gương: "một cô gái mình trần, đẹp mỡ màng...con mắt lá răm tình
tứ, làn da trắng hồng mơn mởn... hai bầu vú mưng mẩy, căng nức cùng cặp
đùi óng mướt nùng nục sức sống" [91, tr. 108]. Đó là nhan sắc của Hoan trong
lúc ái ân, qua cảm nhận của Khiêm "tóc nàng thơm lừng, da thịt mát lịm"
(Ngược dòng nước lũ). Là Khanh, "gương mặt vừa đoan trang, vừa quyến rũ.
Mắt nàng tươi vui và đắm đuối. Môi nàng dịu dàng và mê đắm, tóc nàng dầy
rậm, tràn trề sinh lực, ngực nàng gợi cảm giác hư ảo..." [96, tr. 159].
Lời văn tả người trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng khi hướng tới
những đàn bà hư hỏng, tiện dâm, trác trụy, lăng loàn trắc nết lại mang một màu
sắc khác và thường đặt trong diễn tiến của sự kiện. Đó là lời văn miêu tả hầm
hập niềm phồn thực qua chân dung Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú).
Hãy xem lời văn tả Xuyến trong cuộc ái ân với Tự: "người đàn bà không thỏa
dục trong Xuyến vùng ngay dậy, cay uất tiết đỏ khé hai con mắt" [67, tr. 33].
Chỉ bằng vài từ ngắn gọn mà chính xác, chân dung người đàn bà hiếu dục hiện
ra thật đáng sợ trong mắt người chồng. Lời văn tả Thúy (Gặp gỡ ở La Pan
Tẩn) trong cuộc ái ân với Thiêm "hai núm vú đỏ loét, bầu vú mưng mẩy, chắc
nịch, chân đạp thình thịch... hai cẳng chân như hai cái còng lớn" [78, tr. 430].
Hay lời văn tả một chân dung khác - người đàn bà trong câu chuyện Hương
hoa Đà Lạt (Bến bờ), đang dang dở ái ân với người tình là một kẻ thủ ác mà chị
ta quyết tâm bao che, lúc này, người đàn bà xinh đẹp và dịu dàng như hoa bỗng
chốc thay đổi: "cái xu chiêng buột móc, hai bầu vú lớn trễ ngực, ống quần xốc
xếch bên cao bên thấp, hai con mắt trong văn vắt lúc này đỏ sặc vì cơn dục bị
ức chế tiết ra" [96, tr. 216]. Rồi chị ta nhảy bổ vào người chiến sĩ công an:
"nhe nhe hàm răng nhọn như con thú bị mất mồi" [96, tr. 216]. Những lời văn
tả người ấy sống động và đậm chất hiện thực, phản ánh chính xác hình ảnh và
diễn biến tâm lý của nhân vật trong sự kiện.
Lời văn tả người khi hướng tới những nhân vật tha hóa lại chú ý tới
những nét ngoại hình dị dạng, cách ăn uống thô tục, cách nói năng bộc lộ rõ
sự hạ tiện trong nhân cách. Những kẻ bị nhà văn xếp vào loại dã nhân, nghiệt
113
súc, ở mỗi con thú người này, những chi tiết ngoại hình đều có dụng ý làm bật
lên tính chất vô đạo đức, dã man, độc ác, bạo tàn của chúng. Có thể thấy qua
chân dung Quốc Thanh trong Gặp gỡ ở La Pan Tẩn - một điển hình tha hóa "mặt
phẳng bẹt... dưới cái mũi nở to là đôi môi mỏng vén cao, hở hàm răng nhe nhe
trong khi nói... đôi mắt ngưỡng có tia gai,... khi ngưỡng thiên khi ngưỡng địa...
vừa chất phác ngô nghê vừa gian giảo độc địa" [96, tr. 360]. Hay chân dung
Khoái trong Bến bờ "gương mặt lưỡi cày tím lịm, quai hàm, chóp mũi, đuôi mắt
nổi góc nổi cạnh" [96, tr. 180]. Mỗi chân dung nhân vật đều được nhà văn tóm
bắt những nét đặc sắc nhất và miêu tả bằng những từ ngữ được chọn lựa kỹ càng
để từ đó thể hiện tính cách và phân tích nội tâm nhân vật một cách chính xác.
4.1.1.2. Lời kể
Lời kể trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng theo suốt độ dài sáng tác, qua
từng tiểu thuyết đã thể hiện sự vận động từ những lời kể trung tính của người
kể giấu mặt chuyển dần sang lời kể chủ quan của ngôi thứ nhất, hoặc ngôi thứ
ba để trực tiếp tham gia vào các diễn tiến của chuyện. Những diễn tiến của
chuyện ấy có khi là một phần đời của tác giả được kể lại ở một ngôi kể khác.
Lời kể trong ngôn ngữ trần thuật của Ma Văn Kháng ở giai đoạn đầu đi theo
mạch sử thi nên nhịp điệu chậm rãi dù sự kiện có thể dồn dập liên tiếp. Chẳng
hạn, đoạn miêu tả sự nổi phỉ ở Lao Pao Chải (Vùng biên ải), hàng trăm nhân
vật, và những sự kiện lớn nhỏ chằng chịt đan xen, nhưng lời kể cứ theo trình
tự tuyến tính của thời gian, đi từ lớp này, sang lớp khác. Kết thúc sự kiện này
đến sự kiện khác, trình tự diễn tiến của câu chuyện kết thúc khi các sự kiện đã
được giải quyết theo một hướng nhất định. Trong ý nghĩa đó, những câu văn
dài, kết hợp với miêu tả và bình luận hiện diện đậm đặc tạo thành đặc điểm
lời kể của Ma Văn Kháng ở tiểu thuyết sử thi.
Một đặc điểm của tiểu thuyết đương đại hiện nay được cho là "trọng
về kể hơn tả" [2, tr. 97], bởi tính chất của ngôn ngữ đã thiên gia tăng tính tốc
độ, thông tin và triết luận. Trong sự vận động ấy - ở các tiểu thuyết gần đây,
từ Một mình một ngựa, đến Bóng đêm và Bến bờ, lời kể của Ma Văn Kháng
114
đã có sự thay đổi, ngôn từ bớt đi lời tả, câu văn dài, ngắn đan xen, nhịp điệu
nhanh dù rất ít sự kiện. Xuất hiện những kiểu cấu trúc đoạn dày đặc câu kể,
biến lời đối thoại thành lời nửa trực tiếp (lời kể gián tiếp tự do). Đoạn mở đầu
trong Một mình một ngựa có ý nghĩa như vậy. Thực tế chỉ có một sự kiện,
Toàn chuyển công tác, nội dung đoạn kể về con đường của Toàn đến cơ quan
mới, gặp Yên - vợ thủ trưởng của anh. Toàn bộ những lời kể của Toàn ở đây
từ vị trí ngôi thứ ba, có những lúc đã chuyển thành dòng tâm tư "đang ở thời
kỳ mỗi con người không phải là cá nhân. Không phải là của riêng mình. Mà là
thành viên một cơ cấu... Không do dự. Không đắn đo. Chứ đừng nói khước
từ, chống lại" [92, tr. 12]. Trong dòng tâm tư ấy, nhân vật đã để cho suy nghĩ
của mình đi theo những mạch cảm xúc tưởng chừng như không liên quan nhưng
thực chất lại móc nối với nhau bằng một sợi dây liên lạc từ tờ giấy quyết định
chuyển công tác. Một ví dụ khác, kể về chuyến đi của nhân vật Điền (Bến bờ)
trên tàu, hành trình của anh gắn liền với tâm thức về thời gian vận động từ
bóng tối của đêm hôm trước đến sáng hôm sau. Lời kể hướng tới kể lại những
câu chuyện được kể của người cùng toa tàu, nhưng có những lúc giữa lời kể
và độc thoại nội tâm bị nhòa mờ, không còn ranh giới "Điền nằm lắng nghe
tiếng bánh xe quay vòng... Điền cần yên tĩnh để thư giãn. Để có được sự yên
hòa giữa cái hỗn tạp, nhộn nhàng, để nhận ra cái mênh mang thăm thẳm của
đời sống và cái bến bờ bí ẩn của cuộc đời mỗi con người" [96, tr. 14]. Chính
cách sử dụng lời kể nửa trực tiếp ấy đã cho thấy Ma Văn Kháng không chấp
nhận sự tĩnh tại, luôn vận động theo hướng hiện đại hóa trong kỹ thuật trần
thuật và tư duy nghệ thuật. Vì thế, ở giai đoạn sau này, tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng vẫn có được sức thu hút đáng kể với bạn đọc.
4.1.1.3. Lời bình luận trữ tình ngoại đề
Lời bình luận trữ tình ngoại đề là một trong những thủ pháp quan
trọng giúp người kể chuyện thể hiện chủ quan điểm nhìn trần thuật và cảm
xúc một cách trực tiếp. Lời bình luận trữ tình ngoại đề xuất phát từ nhu cầu và
ý thức chủ thể của người kể chuyện. Trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, nhà
115
văn luôn có ý thức thể hiện chủ quan của mình qua những đoạn trữ tình ngoại
đề đậm đặc dấu ấn cảm xúc cá nhân. Ở các tiểu thuyết sử thi Đồng bạc trắng
hoa xòe, Vùng biên ải có những trường đoạn bình luận trữ tình về chế độ thổ
ty, về tòa dinh thự của Hoàng A Chao, về hiện tượng thổ phỉ, về tục phụ nữ đi
làm gái gầu phàng... Qua những trường đoạn trữ tình ngoại đề ấy, người kể
chuyện đưa người đọc tiếp cận với những khối lượng kiến thức phong phú về
đời sống xã hội ở vùng biên ải với những nét đặc trưng riêng. Tuy nhiên, các
sử dụng lời trữ tình ngoại đề với dung lượng quá dài ở tiểu thuyết sử thi khiến
cho người đọc có cảm giác nặng nề và ấn tượng gần như phô trương kiến thức.
Ở những tiểu thuyết giai đoạn sau này, bình luận trữ tình ngoại đề với
kỹ thuật dòng ý thức có một ý nghĩa như là thủ pháp nghệ thuật làm giãn mạch
kể, làm chùng lại độ căng của sự kiện, đưa người đọc đến những liên tường
mở rộng hơn về những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh về cái đẹp, nỗi buồn,
cái chết, tình dục... Chẳng hạn, ở Đám cưới không có giấy giá thú, có những
lúc diễn tiến mạch kể ở một trạng thái căng nhất, đúng lúc ấy, lời bình luận trữ
tình xuất hiện; hay lời bình luận trữ tình ngoại đề của người kể chuyện trong
Gặp gỡ ở La Pan Tẩn về thời gian: "Thời gian là thánh vật kỳ ảo..." [78, tr. 314],
"Thời gian nhích như sên đo đất..." [78, tr. 321]. Qua lời bình luận ấy, thái độ
chủ quan của người kể chuyện về sự gian nan khổ ải của con đường dấn thân
cho lý tưởng và sự nghiệp giáo dục vùng biên ải bộc lộ rất rõ ràng. Hoặc lời
trữ tình ngoại đề của người kể chuyện trong Mưa mùa hạ về tổ mối, thân đê,
câu chuyện truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, văn chương, tình dục, đạo
đức... lời bình có lúc tưởng chừng đưa người đọc đi xa chủ đề mà người kể
chuyện hướng tới nhưng thực chất nó lại đem đến những liên tưởng phong
phú sâu sắc và rộng mở cho người đọc về chính nội dung tác phẩm.
Bình luận trữ tình ngoại đề ở các tác phẩm Bóng đêm và Bến bờ đã trở
thành một thủ pháp nghệ thuật trong ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Có
thể thấy trong hai tiểu thuyết có những đoạn trữ tình ngoại đề mang ý nghĩa
triết lý sâu sắc thể hiện nhiều chủ đề khác nhau. Chủ đề về cái đẹp, về đạo
116
đức và môi trường dung dưỡng tội ác, về tính dục, về cái chết. Lời bình có lúc
được thể hiện ở người kể chuyện giấu mặt, có lúc thông qua lời đối thoại nửa
trực tiếp của các nhân vật. Lối bình luận này khiến tính chất triết lý và bàn
luận không khô cứng đậm màu sắc duy lý như hay bí ẩn mà trái lại rất hồn
nhiên, thú vị như chính cuộc đời.
Ngôn ngữ trần thuật đan xen giữa tả, kể và trữ tình ngoại đề đã làm
nên một lối kể chuyện trữ tình đằm thắm thiết tha của Ma Văn Kháng trong
thể loại tiểu thuyết. Nghệ thuật kể chuyện là một điều khó ai có thể bắt chước
ai. Để có thể tạo được sự hấp dẫn cho câu chuyện của mình, thể hiện được
bức tranh đời sống con người sinh động và hấp dẫn, không thể lặp đi lặp lại
một lối mòn duy nhất. Vẫn là ba thủ pháp trên, nhưng ở mỗi tác phẩm, độ
đậm nhạt lại khác nhau, càng về sau càng thêm tài hoa duyên dáng.
4.1.2. Ngôn ngữ phong phú đa dạng sáng tạo
4.1.2.1. Từ vựng dân tộc, khẩu ngữ, biệt ngữ
Tiểu thuyết Ma Văn Kháng trước Mưa mùa hạ mang rất rõ đặc điểm
của thời đại, giàu tính chất chính luận, người kể chuyện lẫn nhân vật đều hay
bàn bạc về các vấn đề lớn lao mang tầm thời đại: cách mạng, chủ nghĩa xã
hội, chuyên chính, đấu tranh, hợp tác xã, mặt trận văn hóa, kinh tế, giáo dục...
ngôn từ trần thuật vì thế đậm màu sắc sử thi. Ngôn ngữ của đời thường chỉ
được thể hiện qua phương ngữ và chủ yếu ở đối thoại giữa các nhân vật. Với
cảm hứng ca ngợi những sự kiện lịch sử lớn lao, những anh hùng thời đại phi
thường xuất thân từ đại chúng công nông binh tại một không gian, thời gian
đặc biệt, cho nên ngôn ngữ kể chuyện trong các tiểu thuyết sử thi Ma Văn
Kháng có màu sắc đặc biệt. Màu sắc đặc biệt đó thể hiện trong vốn từ và cách
diễn đạt đậm chất dân tộc miền núi. Để tạo nên không gian hiện thực và cuộc
sống con người nơi biên ải, Ma Văn Kháng đã sử dụng tiếng nói và lối tư duy,
cách diễn đạt của người dân tộc thiểu số. Ma Văn Kháng có một kho từ ngữ
Mông, Dao, Tày, Giáy, Hà Nhì... kết quả của cuộc sống hơn hai mươi năm gắn
bó cùng đồng bào các dân tộc. Trong đó, tiếng nói của người Mông được nhà
117
văn đưa vào các tiểu thuyết sử thi như là một dụng ý nghệ thuật. Ma Văn Kháng
đã đưa vào tiểu thuyết của ông một lớp từ vựng tiếng Mông phong phú, đa dạng.
Đó là cách gọi tên các chức danh trong chế độ thổ ty chúa đất: Phua thay, thổ ty,
binh thầu, seo phải, hủi thầu, na nủ... gọi người già đầu tộc: hố pẩu, miền củ,
thầy cúng: thầy tào, thầy mo, người thổi khèn giỏi: trứ kềnh, con gái trốn chạy
khỏi nhà chồng: gầu phàng; đồ ăn: máo của, sèo đắng, mèn mén; ăn đêm: síu
dề, uống rượu chay: qua chiu, thề bồi: tắng tù, chỉ vật dụng hàng ngày: lù cở,
quẩy tấu...; là tên gọi cỏ cây: pơ mu, tông qua mu, tống quá sủ, soán xủ...;
tiếng chửi: chung cảo na, chung tủa cảo na, lời than: đù a; lời hát kể chuyện:
khua kê... rồi đến cách đặt tên các nhân vật: Giàng A Pao, Lù A Seng, Lù A
Tếnh, Giàng Dìn Chin, Giàng Lầu, Giàng Seo Giống... rồi Hoàng A Chao, La
Văn Đờ, Seo Lở, Giàng Lử, Giàng Seo Cấu... Seo Cả, Seo Ly, Seo Say, Seo
Váy, Seo Mùa, Pàng, Pùa, Phừ...- những tên gọi thuần Mông, không pha tạp.
Không chỉ vận dụng tiếng nói của người dân tộc thiểu số, nhà văn còn
đưa lối nói năng giàu hình ảnh so sánh, ví von gắn với tư duy trực quan của người
miền núi vào tiểu thuyết. Tả người con gái đẹp: mặt như trái đào chín, hai lông
mày như hai sợi chỉ đen, cong vênh (Trăng non); mặt măng tơ, son sẻ, trắng
xinh như cái trứng nhện, váy áo thêu, đeo vòng bạc, rực rỡ như con gà trống
(Trăng non); để tả một đám uống rượu: bọn uống rượu ở hiên đứng dậy, đen
ngòm như quạ (Vùng biên ải) để thể hiện cách cảm nhận thời gian, không gian
"nhiều năm đi qua, nhiều tháng đi qua mà vẫn như ngày hôm qua" [83, tr. 52];
"chiều xuống lửng lơ, tưởng thời gian già đi" [83, tr. 89], "Đường xuống làng
thăm thẳm" [83, tr. 52], "trên núi những đám đốt nương khi chiều đã cháy
thành những vòng cung lửa... những đêm xuân rạo rực mùa làm ăn và đêm
đêm đầu hồi nhà các cô gái đã nỉ non hơi đàn môi gợi tình" [84, tr. 9]; cảm
nhận về cuộc đời gái gầu phàng "đời gái dong là vậy, dằng dặc, không đầu
không cuối, mịt mùng. Vì chỉ biết cắm cúi, hết địu nước, xay ngô lại giã gạo
rồi ăn ngủ. Quên cả cái nghĩ rồi" [83, tr. 95]; cách nói lý, nói lối theo logic của
người Mông (kê Mông kê lý): "Lúa chín rồi phải gặt đi... có no mới yên ổn được...
118
rộng nghe thì sáng... nghĩ bên trái phải biết nghĩ bên phải" [83, tr. 434]. Là
những câu thành ngữ, tục ngữ Mông: trai côi sưởi nắng, gái góa sưởi đèn; Bố
nợ con trai một con dâu, con trai nợ bố một con trâu... Là câu hát dân ca
Mông: em đẹp như con gà sống thiến. Xa em hồn tôi phảng phất ở vạt áo em...
Sử dụng lớp từ vựng và cách nói của người dân tộc thiểu số, lời văn kể chuyện
trong tiểu thuyết sử thi của Ma Văn Kháng, vì thế, có một vẻ đẹp riêng, đậm
chất dân tộc miền núi.
Từ sau Mưa mùa hạ Ma Văn Kháng bắt đầu mở rộng hơn biên độ của
lớp từ ngữ đời thường trong tiểu thuyết. Đó là lối nói dân gian đầy ắp thành
ngữ, tục ngữ, khẩu ngữ, biệt ngữ và sử dụng chúng một cách uyển chuyển
linh hoạt. Với ngôn ngữ đậm chất hiện thực đời thường của đời sống thành
thị, Ma Văn Kháng đem đến cho tiểu thuyết của mình một sức sống mới, sinh
động hơn. Sự chuyển động của ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng từ sử thi
sang thế sự đời tư thể hiện ý thức và năng lực sáng tạo nghệ thuật của nhà văn
trên phương diện ngôn ngữ.
Về giá trị của chất liệu đời thường trong quá trình lao động sáng tạo
nghệ thuật của nhà văn, các nhà lý luận cho rằng "lời nói từ cửa miệng của
nhân dân vốn bao hàm nhiều ví von, nhân hóa, ẩn dụ, cực kỷ uyển chuyển và
đầy tính sáng tạo. Khẩu ngữ là một trong những phong cách diễn tả ý tình
sinh động nhất" [32, tr. 176]. Khẩu ngữ đã được Ma Văn Kháng sử dụng ở
các tiểu thuyết sử thi, nhưng chủ yếu để khắc họa cá tính, chân dung nhân vật
phản diện qua những đoạn đối thoại. Ở những tiểu thuyết giai đoạn sau này,
khẩu ngữ không chỉ hiện diện trong các đối thoại, với ý nghĩa xây dựng chiều
sâu tính cách nhân vật mà nó còn hiện diện trong ngôn ngữ trần thuật, qua lời
người kể chuyện. Đưa khẩu ngữ vào trong tiểu thuyết, Ma Văn Kháng đã
khiến cho những câu chuyện trở nên gần gũi, sinh động, hấp dẫn lạ thường.
Từ Mưa mùa hạ, sự vận động trong quan niệm nghệ thuật, cảm hứng và
đề tài đã tác động đến ngôn ngữ người kể chuyện trong các tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng. Chất sử thi nhạt dần nhường chỗ cho sự gia tăng chất thế sự đời tư.
119
Ma Văn Kháng đã sử dụng lối nói khẩu ngữ, biệt ngữ - tiếng lóng, đưa lớp từ vựng
thông tục vào tiểu thuyết như một sự cố tình của bút pháp (M.Gorki). Không chỉ
hiện diện trong các đối thoại, với ý nghĩa xây dựng chiều sâu tính cách nhân vật,
khẩu ngữ còn hiện diện trong ngôn ngữ trần thuật, qua lời người kể chuyện.
Lấy ví dụ về câu chuyện cái tên Cẩm đẽo cày giữa đường (Đám cưới không có
giấy giá thú). Cả một câu chuyện bi hài được kể lại bằng lối nói cửa miệng:
Học trò đặt tục danh cho Cẩm là đẽo cày giữa đường thật là
hóm đấy... gần tiết dạy Cẩm cho mọi người ăn cơm nguội... Cuối tiết
Cẩm lại diễn vở bi hài kịch... như thế là rất tốt... có đưa học trò không
hiểu cố tình chơi khăm không mà bỗng dưng giở quẻ giơ tay đứng dậy
khăng khăng: thầy nói thế nào chứ em chả thấy gì là hấp dẫn cả...
Cẩm lại lúng ta lúng túng, thoạt đầu nghẹn ắng, rặn chẳng thành câu,
rồi đùng đùng nổi giận, chỉ mặt tên học trò nọ, quát... [67, tr. 136].
Hay những câu chuyện trong lá thư người học trò cũ gửi thầy Tự kể về
bí thư Lại trong buổi khai giảng. những nhận định, triết lý, cảm xúc được diễn
tả bằng lối nói khẩu ngữ đầy thú vị: "Lịch sử thì hồn nhiên như thơ và đầy
tính ngẫu hứng. Người ta bảo vậy. Nhưng có kẻ lại nói: nhà ngươi mới đẻ đã
thành tội đồ của lịch sử rồi. Có khác nào khoa tử vi nói, phương trình đời mày
đã lập xong rồi, từ lúc mày còn là cái bào thai kia" [67, tr. 120], Đó còn là
những câu chuyện về buổi họp tỉnh ủy trong Một mình một ngựa. Cuộc họp
quan trọng, uy nghiêm được miêu tả bằng lối nói khẩu ngữ hài hước, thú vị
khi miêu tả nhân vật Gia, chủ tịch đoàn thỉnh thoảng:
Lại lên cơn động kinh đùng đùng chạy lên diễn đài, giật
micro, chõ xuống cử tọa sừng sừng, sộ sộ như cãi nhau: thế pa lèn
thủng trứ các đồng chí, có muốn nghe nữa không? Hay giải tán về
nhà đi lấy chuối rừng nuôi con tu mu, con lợn cho vợ nào! Và như
chỉ chờ có thế là các pa lèn thủng trứ. Tức hơn một trăm đồng chí
đại biểu các xã, các hợp tác xã được dịp vỗ đùi đánh đét và cười rốc
lên một chặp, như để giải tỏa cơn tù hãm chán chường [93, tr. 31].
120
Bên cạnh lối nói khẩu ngữ, Ma Văn Kháng còn sử dụng biệt ngữ -
tiếng lóng trong khi miêu tả đời sống của thị dân. Đó là những lớp từ vựng
đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những cảnh huống nhất định, thuộc về những
tầng lớp người nhất định. Đó là ngôn ngữ của những tên lưu manh, những kẻ
thủ ác, những cặn bã của xã hội. Chúng dùng biệt ngữ - tiếng lóng để quy ước
những cách gọi tên khác như: gioóc, cớm, cá, tây, cá ngầm, sìn, đạn, phim con
heo, chỉ chỏ, chôm chỉa, bảo kê, mafia, mặt rô, cò mồi, cửu vạn, ma cô, chân gỗ,
ghế, xế, nhốp, kính, bốc chỉ, cô ti lưa, mèo hoang, bò lạc, cave, em ún, chó lửa,
cá chìm. cá nổi, đại ca, tàu nhanh, tàu suốt, điếm chợ... Một thế giới ngôn
ngữ với những quy ước ngầm được Ma Văn Kháng sử dụng trong các tiểu
thuyết Bóng đêm, Bến bờ để miêu tả bản chất của những kẻ lưu manh, tội phạm.
Chính lớp từ vựng đặc biệt này đã tạo nên một không khí khác biệt với đời
sống bình thường, khiến cho con người có cảm giác đối diện với một đời sống
khác, ẩn ngầm dưới đáy, chứa đựng những hung hiểm, bất trắc đe dọa cuộc
sống lương thiện. Nó cũng chứng tỏ Ma Văn Kháng có một năng lực tích lũy
vốn từ ngữ đời sống và vận dụng một cách sáng tạo trong nghệ thuật trần thuật.
4.1.2.2. Ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ
Tính chất đa nghĩa là một đặc trưng quan trọng của ngôn ngữ văn
chương. Ý thức sâu sắc điều đó cho nên mỗi tiểu thuyết của ông là cả một sự
sáng tạo về ngôn từ ở phương diện chuyển nghĩa. Trong đó, ẩn dụ luôn là một
lựa chọn của để diễn tả những nội dung phong phú, phức tạp của hình tượng
nghệ thuật trong các tác phẩm. Chính Ma Văn Kháng đã đề cao giá trị của ẩn
dụ trong sáng tạo nghệ thuật: "Ẩn dụ là nguồn sống của tất cả các loại hình
nghệ thuật. Chủ đề tư tưởng... luôn được hiện hình trong trăm ngàn chi tiết
hình tượng hàm chứa... " [101, tr. 276].
Lựa chọn ẩn dụ - phương thức chuyển nghĩa để làm phong phú thế
giới nghệ thuật của mình, ngay từ cách đặt tên cho tác phẩm, Ma Văn Kháng
đã có ý thức thể hiện tính chất đa nghĩa: Trăng non, Mưa mùa hạ, Đám cưới
không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Côi cút giữa cảnh đời, Chó Bi,
121
đời lưu lạc, Một mình một ngựa, Bóng đêm, Bến bờ - đó là những nhan đề
mang tính chất ẩn dụ có sức khái quát cao, đạt đến ý nghĩa biểu trưng lớn.
Đám cưới không có giấy giá thú: cuộc hôn nhân gượng ép giữa thi nhân và lý
tưởng trong một hiện thực đời sống đầy phức tạp. Ngược dòng nước lũ - sự cô
đơn và dũng cảm đấu tranh của con người trước hiện thực nghiệt ngã. Bóng
đêm - tội ác, tăm tối, nhơ bẩn trong mỗi con người và trong hiện thực đời
sống. Bến bờ - sự giác ngộ chân lý đời sống. Đó là những ý nghĩa khái quát
nhất qua các nhan đề mang tính ẩn dụ của tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Từ
những nhan đề ấy, nhà văn triển khai một hệ thống những ẩn dụ song song
trong tác phẩm tạo nên một hệ thống mở về ý nghĩa cho các hình tượng nghệ
thuật. Ví dụ, nhan đề Mưa mùa hạ đi cùng với các hình tượng "tổ mối" và
"con đê", những "cơn mưa lũ" trong suốt độ dài tác phẩm, đan cài, liên kết
chặt chẽ với nhau. "Tổ mối" vừa là hình ảnh có thật, vừa là biểu tượng cho
những tồn tại, tiêu cực trong mỗi cá nhân và của toàn xã hội đang ngày đêm
làm mục ruỗng giá trị đời sống. "Con đê" - biểu tượng cho trí tuệ, sức mạnh
của con người Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, gắn với truyền
thuyết Sơn Tinh và Thủy Tinh, là biểu tượng cho truyền thống kiên cường của
con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên, tìm mọi cách để
dung hòa với sự khắc nghiệt của tự nhiên, bảo vệ đời sống của mình. Những
"cơn mưa lũ" mùa hạ hiện diện từ đầu đến cuối tác phẩm có ý nghĩa như một
sức mạnh thử thách con người. Ở Mùa lá rụng trong vườn, "khu vườn" qua
bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, gắn với mỗi cá nhân trong gia đình ông Bằng là
một ẩn dụ phong phú về cuộc đời. Đám cưới không có giấy giá thú với hình
ảnh "hoa phượng", "căn gác xép", "những cuốn sách"... là những ẩn dụ về nỗi
buồn đau u uất, về bi kịch nội tâm của người trí thức trước hiện thực đầy phức
tạp đang từng ngày tha hóa con người. Ngược dòng nước lũ với hình ảnh "con
sông mùa lũ", "chuyến xe ngựa", "con ngựa". Con chó trong Chó Bi, đời lưu
lạc. Một mình một ngựa với hình tượng đan cài là "con đường biên ải" với
"bến đò", "con đò", "chiếc xe"... cho ta ý nghĩa biểu tượng về người anh hùng
122
trên con đường đấu tranh cách mạng, vừa đơn độc vừa bi hùng. Trong tiểu
thuyết Bóng đêm, hình ảnh "bóng đêm" xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm
tương ứng với nhan đề là ẩn dụ cho tội ác, tấm màn che bí mật, những cái
khuất lấp. Bến bờ là ẩn dụ cho sự giác ngộ. Chính những ẩn dụ ấy đã làm nên
vẻ đẹp phong phú cho hình tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Sử dụng ẩn dụ trong tiểu thuyết với Ma Văn Kháng luôn được ông đánh giá
cao và nhuần nhuyễn. Những ẩn dụ độc đáo khiến cho tác phẩm của Ma Văn
Kháng luôn hấp dẫn và sinh động.
4.1.3. Ngôn ngữ nhân vật
"Ngôn ngữ nhân vật chính là lời ăn tiếng nói của nhân vật" [32, tr. 100].
Là một trong những phương tiện để bộc lộ nội tâm nhân vật trong tác phẩm
văn chương, ngôn ngữ nhân vật là "căn cứ đề biểu đạt phẩm chất và tính cách
của mỗi con người. Do đó, trong thể hiện nghệ thuật, các nhà văn hết sức coi
trọng tính chất phân hóa sâu sắc ấy của ngôn ngữ ở quá trình cá tính hóa nhân
vật" [32, tr. 100]. Con người là cả một thế giới bí ẩn, phong phú, phức tạp.
Khám phá thế giới ấy qua cái nhìn từ phía bên ngoài (ngoại hình) chỉ có thể
phản ánh được một phần nhỏ bé. Ý thức được điều đó, Ma Văn Kháng đã sử
dụng ngôn ngữ như là một phương tiện để khám phá nội tâm, cá tính hóa
nhân vật. Trong đó, đối thoại và độc thoại là hai hình thức tiêu biểu nhất của
ngôn ngữ nhân vật tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
4.1.3.1. Ngôn ngữ đối thoại
Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng "Lời đối thoại là lời trong cuộc
giao tiếp song phương mà lời này xuất hiện như là một phản ứng lại lời nói
trước" [37, tr. 114]. Sự phản ứng lại ấy sẽ giúp cho người đọc nhận ra tính cách
nhân vật trong mối quan hệ liên cá nhân, chiều sâu nội tâm, văn hóa ứng xử, tầng
ngôn ngữ... Từ góc độ thi pháp Nguyễn Thái Hòa cho rằng "lời thoại của nhân
vật là hình thức cá thể hóa triệt để tính cách và tình huống đối thoại" [44, tr. 65].
Khẳng định sự chọn lọc ngôn từ trong đối thoại và hành vi xử lý đối thoại của
nhân vật trong tình huống chính là dấu ấn phong cách ngôn ngữ của tác giả
123
trong sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Thái Hòa chú ý đến: chức năng cá thể hóa
tính cách nhân vật, cá thể hóa tình huống, chức năng đồng quy chiếu, chức
năng liên cá nhân... Trong phần này, căn cứ góc nhìn xem xét đối thoại nhân
vật như là "phản ứng lại lời nói trước" kết hợp với "hình thức cá thể hóa tính
cách và tình huống đối thoại", coi đó là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu ngôn ngữ
đối thoại nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Ngôn ngữ đối thoại trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng với ý nghĩa như
là lời phản ứng lại lời nói trước giúp cho ta hình dung được đầy đủ về nhân
vật, đôi lúc không cần đi kèm các chi tiết về ngoại hình hay lai lịch xuất
thân, thành phần xã hội, ta vẫn có thể trích lọc được những thông tin cần thiết
để cảm hiểu nhân vật và ý đồ tác giả. Qua ngôn ngữ đối thoại, nhân vật hiện
lên sống động hơn bất kỳ lời miêu tả ngoại hình nào. Chẳng hạn, ở các tác
phẩm sử thi, khám phá vùng thẩm mỹ dân tộc miền núi, qua các tác phẩm, Ma
Văn Kháng đã dựng hàng trăm cuộc đối thoại, qua mỗi đối thoại, nhân vật
được định hình rõ nét. Trong cuộc đối thoại giữa Lê Chính, Kiến và Hoàng A
Chao [82, tr. 179-180], qua lời thoại với những từ xưng hô có ý nghĩa đưa
đẩy: các ngài, quý ngài, dạ, ạ, những từ ngữ so sánh, ví von: Lợn lành thành
lợn què; con lợn có béo... ta thấy mối quan hệ giữa Hoàng A Chao - Lê Chính,
Hoàng A Chao - lính, thái độ của y với Lê Chính: xun xoe, khúm núm, giả
dối, với bọn lính: khinh miệt, coi rẻ... nguồn gốc xuất thân lái lợn, tính cách
gian ngoan, xảo quyệt.
Từ tiểu thuyết sử thi đến tiểu thuyết thế sự đời tư là cả một khoảng
cách ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ đối thoại trong sử thi mang tính chất trang
trọng, yếu tố liên cá nhân còn mờ nhạt, nội tâm nhân vật chưa được khai thác
sâu, ngôn ngữ đối thoại thiên về biểu lộ hành động thì ngôn ngữ đối thoại của
nhân vật trong tiểu thuyết thế sự đời tư hướng tới khám phá chiều sâu nội tâm
nhân vật ở mọi chiều kích của nó, vì thế, các nhân vật trong đối thoại "phản
ứng lại" với người đối thoại, với thông tin đối thoại, với thái độ đối thoại đã
được Ma Văn Kháng mổ xẻ rất rõ nét.
124
Ví dụ trong Mưa mùa hạ, đối thoại giữa Trọng với Hảo - hàng xóm -
thợ vẽ (Mưa mùa hạ). Chủ đề của cuộc thoại do Hảo khơi nguồn từ câu
chuyện về người điên đến ăn uống, dân mình, con người, lũ lụt... Ngôn từ của
Hảo (họa sĩ) mang màu sắc suồng sã, thông tin đưa ra tạp nham và lộn xộn
nhưng mục tiêu là để biện minh cho thái độ sống gấp và thói ham mê đời sống
vật chất và nhục dục, luôn châm biếm mỉa mai cay độc, không có niềm tin
vào con người, ích kỷ cá nhân, hiểu biết nông cạn và lỗ mỗ, thái độ ngạo
mạn và thô lỗ. "Ôi! Dân mình ba lăng nhăng, lêu lổng, chả có kỷ cương, niêm
luật gì hết, như thằng Bờm có cái quạt mo ấy. Hòn xôi bé tý tẹo trước mắt thì
gật... Cháu còn trẻ chưa hiểu đời đâu, bây giờ trên bàn thờ chỉ có đồng tiền
thôi" [94, tr. 51-52] Trọng, nóng nảy, cương trực, ngôn từ khúc chiết thẳng thắn,
tranh biện vấn đề đàng hoàng có lý có tình, phê phán thẳng thừng: "cháu còn
ít tuổi hơn bác. Nhưng, bác đừng nghĩ là cháu ít hiểu đời... bác chỉ thấy đời
bằng trực giác mà lại là một trực giác ốm o, phiến diện, sai lầm" [94, tr. 53].
Ngôn ngữ đối thoại trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng với chức năng
liên cá nhân đã giúp cho nhà văn thể hiện tính cách nhân vật qua một cái nhìn
đa chiều. Nhân vật tự bộc lộ mình qua đối thoại nên để lại những ấn tượng sâu
đậm. Ma Văn Kháng đã xử lý lời thoại của các nhân vật không hề thấy bóng
dáng kỹ thuật, rất giản dị, tự nhiên. Từ một cuộc hội thoại, qua ngôn ngữ của
nhân vật, ta thấy cả tầng văn hóa, ý thức, vô thức, những hàm ngôn đằng sau
hiển ngôn, những tâm tư và những suy tưởng mà đôi khi bình thường, chỉ
quan sát ngoại hình, cử chỉ, hành động không thể thấy hết. Ở Mùa lá rụng
trong vườn, Ma Văn Kháng đã đặt các nhân vật vào những tình huống và ngữ
cảnh cụ thể để nhân vật từ lời nói bộc lộ con người thật của mình. Từ cuộc
thoại, qua những chi tiết ngôn ngữ rất nhỏ nhưng có sức khái quát cả nhân
cách con người. Tình huống đối thoại giữa Lý và Phượng cùng làm mâm cỗ
cúng giao thừa (Mùa lá rụng trong vườn), chủ đề lan man từ lão trưởng phòng,
con mèo đen, Cừ - cậu em chồng đang lưu lạc, tình yêu, hôn nhân, Đông, mẹ
chồng... ngôn ngữ của Lý vô cùng sắc sảo, sống động, lột tả sinh động đối
tượng được nói đến dù vắng mặt. Về lão trưởng phòng, Lý miêu tả lão này
125
năm chục cái xuân xanh, chưa vợ giàu ghê gớm nhưng lại cứ hay ken két nguyên
tắc rởm. Tao bảo lão: ông ơi, ông phải biết nịnh nọt quân của ông, phải biết ra
lệnh lại phải biết bưng phở cho họ xơi. Đời phải biết nịnh nọt cưng chiều nhau
chứ... giờ lão là thần nịnh. Qua những từ ngữ ấy, người đọc có thể phán đoán
quan hệ của Lý với lãnh đạo của mình mang tính chất xuồng xã, gần gũi hơn
giới hạn cho phép. Cũng trong đoạn thoại này, thái độ của Lý lúc thì nghiến
ngấu, day dứt khi lấy Đông năm mười bảy tuổi, lúc cay độc phũ phàng với
Cừ, lúc uất ức, tức tối vì bị mẹ chồng đối xử cay nghiệt...
Qua những đối thoại ấy, ta nhận ra một đặc điểm ngôn ngữ của Lý,
tiêu biểu cho ngôn ngữ thị dân; sử dụng dày đặc khẩu ngữ, thành ngữ, biệt ngữ,
so sánh, ví von, ngôn từ luôn đặt trong trạng thái sống nhất. Chính ngôn ngữ đã
cá tính hóa nhân vật Lý với tất cả phức tạp và mâu thuẫn trong nội tâm và
khiến cho người đối thoại lúc thì ngỡ ngàng "con người này tạo ra xung quanh
mình lực lôi kéo và một trường hấp dẫn đến mê mẩn" [91, tr. 68], lúc thì tàn
nhẫn ác độc "công khai phơi bày độ sâu tận cùng mọi bất mãn" [91, tr. 271]
khiến Đông - là chồng mà "bệch bạc cả mặt mày" [91, tr. 270]. Một ví dụ
khác, trong Đám cưới không có giấy giá thú, ở cuộc đối thoại về cái trống
trường bị hỏng, Dương đạo mạo, nguyên tắc luôn có câu cửa miệng "xét theo
quan điểm toàn diện" và "như thế là rất tốt" dù không liên quan gì đến ngữ
cảnh, Thuật thì giễu nhại bằng đủ thứ chuyện tiếu lâm, pha trò, cười cợt, đáp
trả lại câu của Dương "trường phải ra trường, thầy phải ra thầy, trò phải ra
trò", Thuật nối tiếp "trống phải ra trống", lời phản ứng lại lời nói trước tạo
một hiệp quả gây cười khi kết hợp lại thành "trò trống" để anh ta bồi thêm cú
giễu nhại, "trống thế là mõ chứ là trống sao được" để mỉa mai xuất thân của
Cẩm. Yếu tố liên cá nhân và chức năng đồng quy chiếu qua ngôn ngữ thoại đã
đem đến cho ta cảm nhận về các nhân vật, Dương, Cẩm nguyên tắc vô lối,
Thuật cay cú thành độc địa.
Tình huống đối thoại xảy ra giữa Thuật, Dương, Cẩm (Đám cưới không
có giấy giá thú) trong cuộc chấm thi đã bộc lộ tất cả bi hài kịch của sự va đập
126
cá tính qua ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật. Dương "có chủ đích giáo
dục thói kiêu căng của Thuật" nên khơi mào về tranh cãi, trong đối thoại, để che
giấu sự lỗ mỗ về học thuật, Dương đã sử dụng lớp từ vựng từ đậm màu sắc chính
trị: đồng chí, kinh nghiệm, công tác nhân sự, chủ nghĩa, bản chất sự việc, chân
lý, phép biện chứng, thiết lập, mối quan hệ, quan điểm toàn diện, quán triệt, khái
niệm, hiện tượng sự vật... và lối đánh tráo khái niệm để dồn ép Thuật vào chân
tường, buộc phải tuân phục. Thuật - thông minh, sắc sảo, kiêu ngạo và bất mãn
đến cực độ, qua lời thoại, bộc lộ sự coi thường và giả dối của Dương, uất ức, cay
cú đến không thể kiềm chế, lời thoại ào ạt tuôn ra như thác lũ: chủ nghĩa, định
luật, công thức là cái gì? Nó chẳng qua là phương tiện để ta nhận thức, phương
tiện, nghĩa là nó như đôi giày tôi đang đi, để lội bùn; để đá bóng... cuộc sống con
người là muôn năm... chúng ta hành nghề như mọi người khác hành nghề, chúng
ta không phải bậc á thánh...; sự thật không có gì phải giấu giếm... học sinh rất
cần để nhận diện chân xác chúng ta...; chiếm giữ quyền lực là chiếm hữu tinh
tế... (Đám cưới không có giấy giá thú). Qua dòng thác ngôn từ ấy, không thể phủ
nhận ở Thuật một con người có óc phân tích sắc sảo, thẳng thắn đến cực đoan.
Chính sự cực đoan ấy khiến cho Thuật, khi va đập với giáo điều, cơ hội, quỷ
quyệt đội lốt chính trị đã mất thăng bằng, tự chủ, nổi khùng trong đối thoại và
với lớp ngôn từ đường phố Thuật thực sự đánh mất mình. Cái kết bi hài và đậm
mùi vị chua xót là màn đối đáp giữa Thuật với Cẩm: Cẩm nghiến răng: Về chỗ
và im đi. Ai im. Mày! Chính mày... Dương vò mái tóc làu bàu: quá trớn hết sức!
Phải chuyên chính! Phải chuyên chính! (Đám cưới không có giấy giá thú). Từ
cuộc thoại ấy, người đọc có thể hình dung ra không gian sống và làm việc của
các nhân vật, tính cách, sự mâu thuẫn trong lề thói, tư tưởng và hành động, tất
cả những điều đó khiến cho nhân vật va đập với nhau, làm tổn thương nhau,
giày vò nhau, mối quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật lỏng lẻo và sẵn sàng
tan vỡ trước một lực tác động từ hành vi ngôn ngữ.
Ở một cực trái chiều, ngôn ngữ đối thoại trong tiểu thuyết Ma Văn
Kháng lại cho ta biết về đời sống dưới đáy xã hội. Xem cuộc thoại của gia
127
đình mụ Đống (Bến bờ), các nhân vật gồm người mẹ - mụ Đống, con trai cả -
Tư, con trai thứ - Túc, con gái cả - Lụa. Chủ đề của cuộc thoại là Thảo, con
gái, em gái út của gia đình này bị bắt vì tội vô ý giết người. Qua lời thoại, các
nhân vật hiện ra, từ người mẹ đến những đứa con, tất cả thuộc một tầng văn
hóa hạ lưu, cặn bã xã hội nghề nghiệp kiếm sống bất lương: vô nghề nghiệp,
phe vé, bán dâm, ngôn ngữ giao tiếp dày đặc biệt ngữ, tiếng lóng: tiền là "đạn,
sìn", đi tù là "nghỉ mát nhà đá" chết là "toi đời", chia tiền là "cưa đôi"... Lối
nói của mụ Đống ám chỉ quan hệ tính dục của con người một cách hạ đẳng và
dựa trên quan hệ mua bán qua hàng loạt những câu ca dao phường phố tục tằn
dơ dáy (Nứng c thì vác đến nhà. L còn đau mắt chưa ra đến ngoài; Trăm năm
trăm tuổi trăm chồng, hễ ai có bạc thì bồng trên tay), chửi con bằng những lối
so sánh ví von tàn tệ, thô lậu (đẻ con khôn... đẻ con dại... cha con mẹ đẻ
chúng mày... đồ đểu, đồ ba que, tiên nhân cha chúng mày, đmẹ...). Người mẹ
lăng loàn, dâm ô, hư hỏng như thế nên lũ con khinh bỉ mẹ, hỗn láo, nhơn
nhơn xem thường, chuyện đứa em gái vô ý giết người với chúng chả có gì liên
quan, không mảy may bận lòng xúc động hay sợ hãi, lo lắng cho em, hoặc
thương xót người chết. Qua cuộc thoại, cả gia đình bộc lộ sự thất học, vô đạo
đức, không có ngôi thứ, khinh ghét, thù hận lẫn nhau và thù hận xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, Ma Văn Kháng là nhà văn có
biệt tài xử lý ngôn ngữ đối thoại. Ở từng kiểu nhân vật, có những đặc trưng
ngôn ngữ riêng không thể trộn lẫn. Ngôn ngữ đối thoại của Ma Văn Kháng
sống động, tinh tế, sắc nét, góp phần lột tả tính cách và nội tâm nhân vật, khơi
gợi cho người đọc những tưởng tượng về ngoại hình, cử chỉ, hành động của
nhân vật một cách rõ nét ở trong những thời điểm và hoàn cảnh đã cá tính hóa
nhân vật, khu biệt nhân vật với nhân vật ở trong từng tiểu thuyết, đồng thời
làm rõ kiểu nhân vật với tư cách loại hình độc đáo hấp dẫn. Ngôn ngữ đối
thoại của tiểu thuyết Ma Văn Kháng ngoài ý nghĩa cá tính hóa nhân vật còn
có một đặc điểm có ý nghĩa bao quát về ngôn ngữ của vùng miền, lối tư duy
của con người trong những không gian khác nhau.
128
4.1.3.2. Ngôn ngữ độc thoại
Những lời đối thoại, như trên đã nói chỉ phản ánh được một phần nổi
của nội tâm con người, ở tầng sâu nhất, lời độc thoại nội tâm có một ý nghĩa
quan trọng trong cá tính hóa nhân vật. Nó giúp cho người đọc tiếp tục hình dung
ra nhân vật trong những bối cảnh và sự kiện tâm lý cụ thể, mà chính ở trong
tình huống ấy tính cách của anh ta rõ nét hơn bao giờ hết. Độc thoại nội tâm
với tư cách "lời phát ngôn của nhân vật tự nói với chính mình, thể hiện trực
tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con
người trong dòng chảy trực tiếp của nó" [37, tr. 106] và "là hình thức đối thoại
của nhân vật, trong đó, người đối thoại là chính mình, nói cách khác là một sự
phân thân: mình nói chuyện với mình, một mình đóng cả hai vai người nói và
người nghe và nói lại bằng một giọng khác, một suy nghĩ khác" [44, tr. 77].
Độc thoại nội tâm của Ma Văn Kháng trong các tiểu thuyết sử thi chỉ
xuất hiện trong một số tình huống nhất định, khi tác giả muốn đẩy sự phát
triển tính cách đến cao trào. Điển hình là màn độc thoại nội tâm của nhân vật
Pao khi bị bắt trói ở nhà Giàng Súng lúc anh đến cứu Seo Ly, chính Giàng
Lử, người anh ruột của Pao đã chỉ vào mặt anh nói "Đmẹ, thằng này phải cho
ngựa kéo" [83, tr. 526], với tình huống ấy, cả một dòng thác tâm tư sôi sục
trong anh. Những dòng tâm tư phẫn uất cực độ của anh qua độc thoại nội tâm
đi thẳng vào trái tim người đọc, tác động đến tâm não người đọc, khiến người
đọc đồng cảm sâu sắc với những cảm xúc cuồng nộ ấy.
Với ý thức "rút ngắn khoảng cách của tiểu thuyết" [44, tr. 76], từ sau
Mưa mùa hạ, Ma Văn Kháng đã chuyển từ lời độc thoại của nhân vật sang
người kể trong một dòng tâm tư triền miên của ý thức, hay còn gọi là kỹ thuật
"dòng ý thức" [44, tr. 81]. Miêu tả tâm trạng bằng điểm nhìn hướng nội qua
độc thoại nội tâm để phân tích hành vi và xúc cảm của nhân vật, khám phá nội
tâm nhân vật là những bước tiến trong nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng. Với độc thoại nội tâm qua kỹ thuật dòng tâm tư,
thời gian trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng có ý nghĩa như là đối tượng của
129
những suy nghĩ trực tiếp của nhân vật và cách tổ chức thời gian cho dòng tâm
tư cũng là một sự lựa chọn đậm màu sắc cá nhân.
Lấy ví dụ, dòng tâm tư của Thiêm trong Gặp gỡ ở La Pan Tẩn. Mở đầu
tác phẩm là giấc chiêm mộng của Thiêm trong khi anh đang lạc vào mê cung của
ân ái, ký ức hiện về như ảo ảnh là bãi đá Mèo La Pan Tẩn. Từ thực tại, dòng suối
tâm tư của anh lạc về quá khứ "Một buổi sáng mùa đông kỳ lạ... anh đang ở
trong mơ, đang sống giữa gió trời và sương núi, giữa một vùng sinh thái khác,
vừa trỗi dậy một ao ước, một gắng gỏi chiếm lĩnh đỉnh cao, đạt tới một hoài
bão, còn rất mơ hồ nhưng có thực và xa lắm cao lắm..." [78, tr. 308]. Từ giấc
chiêm mộng ấy, những câu chuyện ký ức ào ạt trở về, những cảm xúc, suy tư
về con người, ngoại cảnh, thời gian cũng lần lượt triền miên tiếp nối. Qua dòng
tâm tư ấy, ta bắt gặp những sự kiện tâm lý, hồi ức về các nhân vật có kèm
theo đánh giá. Đó là hồi ức của Thiêm về Quốc Thanh, Thúy, Hố Pẩu, Giàng
Dìn Tếnh, Seo Mùa... tất cả nhưng người ấy được anh nhìn nhận, phân tích, lý
giải và từ ký ức, họ bước thẳng đến hiện tại vượt qua khoảng cách không gian,
thời gian. Tuy nhiên, một đặc điểm của dòng tâm tư trong tiểu thuyết Ma Văn
Kháng vẫn không hoàn toàn thuần túy của ý thức nội tâm nhân vật, nó còn có sự
pha trộn của các yếu tố khác như lời trữ tình ngoại đề của người kể chuyện...
Độc thoại nội tâm đã tạo nên vẻ đẹp của chất suy tưởng trong nhân vật
tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Những đoạn độc thoại nội tâm của Trọng (Mưa mùa
hạ) về con ngõ nhỏ, về tình yêu với Loan, về tổ mối trong thân đê, về Nam...
cho thấy một nhân cách trí thức đầy nhiệt huyết và lý tưởng, yêu và sống rõ
ràng chuẩn mực nhưng không khô cứng. Độc thoại nội tâm của Luận (Mùa lá
rụng trong vườn)về khu vườn, căn phòng, người vợ anh yêu quý, về những
người thân của anh cho thấy chất suy tưởng ở con người này đậm màu sắc
triết lý. Độc thoại của ông Bằng lại hướng tới những tình cảm mâu thuẫn trong
thế giới nội tâm trước cái nhìn hướng ra bên ngoài. Độc thoại của Tự (Đám
cưới không có giấy giá thú) về văn chương, về đồng nghiệp có ý nghĩa bộc lộ
nội tâm con người anh một cách chi tiết và chính xác, tỷ mỷ như là một ca phẫu
130
thuật tế vi. Từ độc thoại nội tâm, những mối quan hệ của Tự với các nhân vật
khác hiện ra, và tính cách của các nhân vật khác cũng hiện ra từ trong cảm
xúc và trí nghĩ của Tự: Xuyến hư hỏng, Thuật hoang tưởng, ông Thống trầm
uất và tự kỷ triền miên, chính Tự cũng chìm vào sự khủng hoảng tâm thần khi
anh buộc phải đối diện với quá nhiều tình huống và sự kiện tâm lý.
Đến Ngược dòng nước lũ, độc thoại của Khiêm, Hoan về tình yêu, về
đồng nghiệp, về thói lọc lừa phản trắc đã mở ra một không gian sâu thẳm trong
lòng người với vô vàn ẩn ức, ham muốn tính dục và khát vọng chế ngự để hoàn
thiện nhân cách con người. Hãy xem một đoạn độc thoại của Khiêm, trong đoạn
độc thoại nội tâm này, sự pha trộn giữa hồi ức và hiện tại của Khiêm bắt đầu
bằng câu chuyện về Giuda kẻ phản chủ bắt đầu bằng xác định thời gian "Đó là
ngày thứ nhất của Lễ Bánh không men..." [84, tr. 206], tiếp đến là hồi ức kinh
hoàng về sự phản bội của đồng đội trong chiến tranh: "hai kẻ phản bội đang tâm
bóp cổ giết chết bạn mình. Và sau đó, họ thực hiện âm mưu để thoát tội phản
trắc, sự đê hèn nhất của con người. Rồi đến lần thứ ba, hồi ức về phản bội đê
hèn của gã tiểu đoàn trưởng đầy lòng đố kỵ và thói hiểm ác đẩy Khiêm đến trước
lưỡi hái tử thần: Chỉ vì qua sóng vô tuyến, cố tình lộ cho địch biết hướng phá
vây của anh. Đường mở của anh ngập xác đồng đội. Giờ, gã đang đeo lon sĩ
quan cao cấp [84, tr. 209-210]. Từ dòng hồi ức đó, ấn tượng của nhân vật trong
những thời khắc quan trọng của cuộc đời dần được khám phá, cùng với những
thái độ đánh giá của nhân vật về con người, về thói đạo đức giả, sự phản trắc,
những bất công ngang trái vừa ngẫu nhiên vừa tất nhiên. Tâm trạng Khiêm cay
đắng xót xa đến tuyệt vọng khi nghĩ đến những xác đồng đội đã ngã xuống,
thời điểm "Giờ" có ý nghĩa là sự đối chứng cho sự tàn nhẫn, lọc lừa, phản trắc
lại khoác áo vinh quang. Độc thoại nội tâm ở đây, vì thế, đã khám phá con
người Khiêm ở một tầng sâu, một thế giới mà trước đó, anh hầu như không
bộc lộ ra và không ai nhìn thấy được nếu chỉ căn cứ vào đối thoại trực tiếp.
Ở những tiểu thuyết gần đây, kỹ thuật dòng ý thức của Ma Văn Kháng
đã tỏ ra vô cùng nhuần nhuyễn, thích hợp nhất với tiểu thuyết tự thuật. Một mình
131
một ngựa chính là một dạng "truyện tâm tư" của tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Nếu
như trong các tiểu thuyết thế sự đời tư yếu tố độc thoại nội tâm không rõ nét, đôi
khi nó bị nhòe sang trữ tình ngoại đề của người kể thì ở tiểu thuyết tự thuật, Ma
Văn Kháng đã khắc phục được nhược điểm đó. Dòng tâm tư của Toàn được
bắt đầu từ hiện tại, trở về với chuyến đò ngang quá khứ đưa anh sang một bến
bờ khác. Bước sang bờ bên kia, dòng hồi tưởng của anh bắt đầu tuôn chảy.
Một dòng hồi ức miên man bắt đầu từ cuộc chia tay, đến "câu chuyện đã manh
nha từ học kỳ hai năm trước. Nghĩa là đã hơn một năm rồi" [92, tr. 12], rồi
tiếp tục trở về với thực tại trong quá khứ. Nói một cách khác, hồi ức của Toàn
là hồi ức của hồi ức. Không xây dựng tình huống đối thoại mà chỉ kể lại lời
thoại như là trích lọc thông tin, coi đó là điểm nhấn trong diễn ngôn, thúc đẩy
sự việc diễn tiến theo dòng hồi ức, Ma Văn Kháng đã xác lập một lời kể gián
tiếp để ở đoạn sau triển khai thành lời kể gián tiếp tự do. Tiếp đến là những sự
kiện tâm lý, hồi ức về các nhân vật trong dòng suy tư bắt đầu được Toàn kể
lại trong sự vận động của thời gian hồi thuật. Có một điểm đáng chú ý đó là,
câu chuyện quá khứ của Toàn không đơn thuần là sự miêu tả hiện thực bằng
ngôn ngữ. Mà ở đây, Ma Văn Kháng đã thể hiện một sự dịch chuyển ngôn
ngữ ở điểm nhìn trần thuật qua thái độ đánh giá có ý thức của người kể với
thông tin. Đó là sự đánh giá đã được dịch lại qua chủ quan của Toàn thời hiện
tại chứ không phải là chủ quan đánh giá của Toàn ở chính thời điểm đó.
Trong Bóng đêm, dòng tâm tư của Nhâm về tội ác dã man của tên
nghiệt súc Thuyên, về "đời sống tâm linh của con người là một vùng bí ẩn"
trong lễ gọi vong, khi anh rùng mình kinh sợ trước một vũ điệu ma mị hư
huyền của người phụ nữ cầm cành phan, về sông nước phương Nam, người
đàn bà chèo thuyền đưa anh đi bắt cướp, về người con gái anh yêu, về thói
dâm dục dung dưỡng cho tội ác, về chính anh trong dòng tâm tư ấy. Tự đặt
câu hỏi rồi tự trả lời cho sự lựa chọn con đường của mình, Nhâm đã soi chiếu
tất cả trong dòng tâm tư để nhận ra mình "có một cuộc đời kịch tính và rất
đẹp" [96, tr. 302]. Đó còn là dòng tâm tư của Điền (Bến bờ) qua câu chuyện
132
con gián, như một thủ pháp để giãn cách mạch kể, làm giảm diễn tiến của câu
chuyện, Điền ở trong một tình huống trớ trêu, là đại diện cho công lý, luật
pháp nhưng anh lại phải ẩn mật trong bóng tối để truy bắt tội phạm, nằm
chung với những con gián, kinh tởm lên đến đỉnh điểm khiến cho anh nghĩ
"mình đang mọc lông lá, biến thành người nguyên thủy ăn lông ở lỗ rồi", kinh
khủng hơn, như một trò đùa của ngẫu nhiên, đúng lúc Điền ở trong trạng thái
kiềm tỏa nhất của ý thức, một con gián cụ lại thò râu ngoáy mũi anh. Ngẫu
nhiên đầy oái oăm và thử thách con người. Ở tình cảnh ấy, thần kinh căng
thẳng cực độ vì hai tên cướp có vũ khí có thể bắn chết anh bất kỳ lúc nào, cái
gì khiến cho Điền thăng bằng trở lại. Bản năng ham sống tự nhiên đã đã điều
phối ý chí, hay ngược lại đã biến anh thành vô tri, vô giác để "quy tập một
năng lượng duy nhất", chiến thắng chính mình, bắt tội phạm quy hàng.
Đó còn là dòng tâm tư của Lập (Bến bờ) khi đứng bên ngoài ngôi nhà
của chính mình, chứng kiến cảnh vợ mình, đắm trong "cuộc tính giao" với
một kẻ thủ ác vừa mãn hạn tù khi vừa rời chồng khoảng chừng một giờ đồng hồ.
Anh "muốn hét lên mà không còn hơi sức", "thân xác vô hồn", bừng dậy sau
khoảnh khắc ấy là những suy nghĩ cuồng dại, phẫn nộ, căm uất muốn giết người,
muốn hành hạ trả thù người đàn bà dâm loạn... theo tất cả các kiểu trả thù mà
anh biết. Trở về khu trại, dòng tâm tư của anh trong "đêm đen mờ, lạnh lẽo" nhớ
tới ngôi chùa làng với những cảnh tượng tra khảo nơi địa phủ, suy tưởng của anh
về tội ác muôn hình muôn vẻ, về bản chất của độc ác con người, chính lúc ấy,
trong trại giam, một vụ giết người lại xảy ra, tội ác ở chính nơi giam giữ tội
ác. Kết thúc dòng tâm tư ấy, "hai hàng nước mắt ròng ròng trên gò má" là tột
độ của đau đớn và hoang mang về con người. Mất mát này với anh lớn lao quá
"vì đó không chỉ là hạnh phúc mà dường như là toàn bộ cuộc sống, niềm tin
tưởng và chính bản thân mình". Sau dòng tâm tư ấy, là nỗi đau đớn của một
người đàn ông bị mất mát, tổn thương sâu sắc trước thói dâm loạn và sự phản bội.
Có thể nói rằng, ở thể loại tiểu thuyết Ma Văn Kháng có một bước
phát triển trong thể hiện dòng tâm tư của nhân vật. Không quá chú trọng
133
"xem lời nói của nhân vật là phương tiện xây dựng nên các hình tượng nghệ
thuật" [44, tr. 86], mà hướng tới phát triển lời kể gián tiếp tự do để biến lời kể
sang lời thoại và ngược lại, nhằm mục đích hiện tại hóa cốt truyện, Ma Văn
Kháng đã "rút ngắn khoảng cách giữa nhân vật và người đọc, rút ngắn khoảng
cách giữa cốt truyện và truyện - sự di động ấy đã làm nên khoảng cách mỹ
học" cho tiểu thuyết Ma Văn Kháng từ sử thi đến các hình thức khác của thể
loại tiểu thuyết [44, tr. 86]. Độc thoại nội tâm với kỹ thuật dòng ý thức trong
tiểu thuyết Ma Văn Kháng ở giai đoạn sau cho thấy ở nhà văn, ý thức sáng tạo
luôn luôn là nỗ lực của ông trên đường lao động nghệ thuật.
4.2. GIỌNG ĐIỆU
Vấn đề giọng điệu có vai trò đặc biệt quan trọng trong tạo lập phong
cách nhà văn. Không thể nói nhà văn có phong cách khi ông ta không tạo cho
mình một giọng điệu riêng. Giọng điệu của nhà văn cũng góp phần thể hiện bản
sắc của một trào lưu, một giai đoạn văn học, một thời đại trong văn học. Bàn về
giọng điệu, Khrapchenko cho rằng: "Do chỗ giọng điệu gắn liền với việc dùng
hình tượng để miêu tả đối tượng của sáng tác, cho nên nó có đặc điểm của các
nhìn nhận riêng của cá nhân với cuộc sống" [104, tr. 171]. Trần Đình Sử viết:
"Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn
đối với hiện tượng được miêu tả trong lời văn... Giọng điệu... có vai trò rất
lớn trong việc tạo lập phong cách nhà văn" [37, tr. 134]. Nguyễn Thái Hòa đi
từ góc nhìn thi pháp kể chuyện khẳng định: "Giọng điệu chính là mối quan hệ
giữa chủ thể và hiện thực khách quan thể hiện bằng hành vi ngôn ngữ trong
đó bao hàm cả việc đánh giá và thói quen cá nhân sử dụng ngôn ngữ trong
những tình huống cụ thể" [67, tr. 154].
Tìm hiểu giọng điệu với ý nghĩa như là một phương diện biểu hiện
phong cách cá nhân nhà văn, chúng tôi nhận thấy Ma Văn Kháng luôn có một
ý thức tìm tòi để khẳng định tiếng nói cá nhân của mình trong dòng chảy văn
học. Nhìn tổng thể, xuất phát từ quan điểm sáng tác viết để ca ngợi cái đẹp
của cuộc sống, xuyên suốt hệ thống tiểu thuyết của ông ở cả hai giai đoạn
134
sáng tác, ở các vùng thẩm mỹ khác nhau vẫn là một tình yêu tha thiết với đất
nước con người, thái độ ngưỡng vọng lịch sử và những con người có lý tưởng
sống đẹp của quá khứ và hiện tại, là khát vọng tận hiến tài năng, tâm sức, trí
lực của mình cho đất nước, cho nhân dân, là tâm niệm khát khao viết cho thật
hay, cho thật rung động. Từ xuất phát điểm ấy, trong hành trình sáng tạo tiểu
thuyết, Ma Văn Kháng đã xác lập cho mình những giọng chủ đạo ở từng giai
đoạn cụ thể: giọng hào sảng trữ tình tha thiết gắn bó với cuộc đời với con
người. Bên cạnh đó là giọng hoài nghi, trầm tư, khắc khoải, giọng triết lý
tranh biện, giọng giễu nhại bi hài. Đó là những giọng điệu chính trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng - một giọng điệu nghệ thuật tiểu thuyết độc đáo hấp
dẫn, bước đầu có tính chất đa thanh.
4.2.1. Giọng hào sảng trữ tình
Giọng điệu hào sảng trữ tình thể hiện trong cách miêu tả thiên nhiên
và cuộc sống con người qua thái độ ngưỡng vọng tự hào mãnh liệt dù ở tiểu
thuyết sử thi hay thế sự đời tư, tự thuật hay hình sự tâm lý. Giọng điệu hào
sảng trữ tình ấy có thể xem là giọng chủ âm chi phối sáng tác tiểu thuyết của
Ma Văn Kháng ở đề tài miền núi, ở các tác phẩm về đề tài thành thị, giọng
điệu này mờ đi nhường chỗ cho các giọng khác tùy thuộc vào chủ đề mà tác
giả thể hiện trong mỗi tiểu thuyết. Tuy cung bậc và cách thể hiện khác nhau,
nhưng tựu trung lại, giọng điệu ấy thể hiện một tâm hồn gắn bó sâu nặng với con
người, với cuộc đời ở mỗi đoạn đời nhà văn nếm trải nơi biên ải hay mảnh đất
Hà Nội ở giai đoạn sau này.
Giọng điệu hào sảng trữ tình tha thiết của Ma Văn Kháng trong tiểu
thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Trăng non, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn
thể hiện ở mạch chuyện đầy ắp những sự kiện lịch sử lớn lao của vùng đất
biên ải từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến những năm 70 của thế
kỷ XX. Đó là thái độ ngưỡng vọng qua cảm hứng sử thi bi hùng về những con
người mang kích thước vĩ đại trong tâm hồn và lý tưởng sống, ở tình yêu tha
thiết với miền biên viễn của đất nước vừa hoang sơ vừa tráng lệ, vừa khắc
135
nghiệt dữ dội vừa nên thơ nên họa. Chất hào sảng ấy được thể hiện ngay trong
những cách bắt đầu câu chuyện, khơi dòng mạch kể bằng những mở đầu độc
đáo về Lào Cai, từ dòng đầu tiên đã mở ra một thế giới khác, thu hút sự chú ý
của bạn đọc: "Thị trấn biên giới này đã từng nổi tiếng một thời là viên kim
cương của vùng địa đầu đất nước. Đã có biết bao trang giấy viết về nó, phủ
lên nó một vẻ đẹp huyễn hoặc..." [82, tr. 29] ở Đồng bạc trắng hoa xòe. Hay
dòng suy ngẫm của tên quan tư Pháp Phơ-rô-pông, về số phận của hắn, về
những mộng tưởng và âm mưu chiếm lại Lào Cai, về một dân tộc Mông trong
mở đầu Vùng biên ải:
Một dân tộc không đất đai, vô Tổ quốc, lang thang trong
suốt trường kỳ lịch sử, lúc nào cũng cảm thấy thiếu không gian sinh
tỏa, luôn ấm ức, không khuất phục, cuồng tín, đa nghi, do hun đúc
liên miên trong cạnh tranh mà xuất hiện tài năng chinh chiến, trải
qua bao xáo trộn càng trở nên cố chấp, cực đoan trong việc bảo lưu
nền văn hóa riêng biệt của mình [83, tr. 21].
Hay một buổi cúng gọi hồn lang thang trên núi của thầy cúng Pao Sử
với một không gian tâm linh đậm màu huyền thoại và những con người vừa
cuồng tín, vừa ngây thơ, vừa huyền bí vừa đơn giản "trong nhà, gian giữa đầy
người, khói từ hai cái bếp lò ở gian bên bốc lên mù mù, phả ra gian giữa, bay
lên, lọt qua ván gỗ thông, ủ trắng cả mái nhà... ngọn đèn" [78, tr. 8] trong
Trăng non. Và tới Gặp gỡ ở La Pan Tẩn là giấc mơ của Thiêm khi anh đang
lạc trong mê cung tình ái - hình ảnh thân thương lại trở về đánh thức anh - bãi
đá làng Mèo La Pan Tẩn.
Khơi dòng từ những mở đầu độc đáo, ấn tượng ấy, giọng điệu hào sảng
trong các tiểu thuyết sử thi đã cất lên một tiếng nói tha thiết, gắn bó, tự hào về
mảnh đất Lào Cai. Đó là giọng điệu hào sảng khi ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên
hùng vĩ bất tận núi non trùng điệp: "không gian mênh mang bỗng trở nên đằm
thắm vì làn hương quen thuộc của núi rừng, đồng ruộng... cây cỏ ngải mọc tràn
trên bờ ruộng, trên nương đồi, khóm ngải tàn, khóm ngải lại xanh" [83, tr. 47].
136
Đó còn là tình yêu tha thiết với: "những ngôi làng Mông... xa xăm, ám sương
khói có bóng núi âm u che phủ, thở ra mùi già nua vĩnh cửu... [78, tr. 223 ].
Giọng điệu hào sảng còn thể hiện ở cái nhìn ngưỡng vọng những anh
hùng chiến trận bảo vệ Lào Cai trước sự nổi loạn của thổ phỉ trong một trận
chiến "rõ ràng không cân sức. Lực lượng phỉ có hàng ngàn tên, có máy bay
Pháp yểm hộ, trong khi ấy giữ thị trấn chỉ là một trung đội bộ đội và hai trung
đội du kích... chiến đấu trên từng ngõ phố, từng căn nhà" [82, tr. 245]. Đó còn
là lời ca ngợi tư thế vùng lên, rũ bỏ xích xiềng nô lệ của những người dân bản
địa, là chân dung các chiến sĩ đã đổ máu hy sinh cho mảnh đất này, là "nước
mắt xối xả, xót xa, đau đớn" [82, tr. 590] trước sự ra đi của đồng đội. Là dáng
đứng trên trận địa "tóc Pao đầy bụi đất. Tấm áo lanh rách toạc một bên vai.
Khẩu poọc hoọc đeo chéo bên sườn. Mặt Pao căng đỏ. Hai con mắt xếch chéo
rung theo nhịp nổ của tràng đạn bay về phía địch... Đầu nòng súng phùn phụt
ánh lửa căm hờn" [82, tr. 591].
Đến tiểu thuyết thế sự đời tư, giọng điệu hào sảng ấy vẫn tiếp tục chảy
mạnh mẽ. Đó là tình yêu với thành phố "cái vầng sáng hồng hào và khỏe
mạnh" [94, tr. 139]. Là cảm xúc về màu hoa phượng chói rực sân trường: "Phượng...
chưa bao giờ giai điệu nào đẹp, trong sáng, xúc động như thế" [67, tr. 43]. Là
tâm trạng "đủ niềm vui sống, không bao giờ hết buồn nản trước cái khuyết thiếu
thiệt thòi" [67, tr. 43], là "lòng căm phẫn bị xúc phạm, ngấm nghía nỗi đau đời.
Một nỗi đau đời không thể chịu đựng nổi" [67, tr. 43] của người trí thức - giữa
bao oan trái bất công vẫn "mô phạm mà không mờ nhạt lòng nhiệt thành, tinh
thần triệt để, cùng chiều sâu tri thức và sức lan tỏa của tư duy..." [67, tr. 97], là
hình ảnh người mẹ - người bà với tấm lòng "nhẫn nhịn, là lòng hỉ xả, là tuyết
sạch giá trong, là tình thương, là lẽ phải, là sự cứng cỏi, kiên trinh" [90, tr. 275]
Giọng điệu hào sảng ấy còn là thái độ ngưỡng mộ những con người chiến đấu
trong bóng đêm chống lại tội ác, bảo vệ con người, tự nguyện dấn thân "khi ta
chết, ta chẳng còn gì ngoài những thứ ta cho kẻ khác!" [96, tr. 207], là tâm trạng
"sung sướng vì cảm nhận ra vẻ đẹp và điều kỳ vĩ của cuộc sống" [96, tr. 207].
137
Đó còn là nỗi xót xa, đau đớn trước cái chết bi hùng của Trừng, Nhâm, Điền...
những con người trẻ trung, trong sáng, rạng rỡ ở nhân cách và chiều sâu tâm
hồn, bị cái ác, sự tàn độc hủy diệt khi họ đang ở tuổi đẹp nhất của cuộc đời.
Có thể nói rằng, giọng hào sảng trữ tình tha thiết gắn bó với đất nước
con người trong tiểu thuyết một sự chọn lựa vô cùng thích hợp của Ma Văn
Kháng cho sáng tác tiểu thuyết của ông. Từ giọng chủ đạo ấy, các giọng điệu
khác có ý nghĩa như bổ sung, minh họa, làm rõ thêm cho giọng chính. Đó là
giọng phẫn nộ khi lên án tội ác hay phê phán kẻ thù. Giọng điệu xót xa
thương cảm khi hướng tới nạn nhân. Giọng hài hước giễu nhại châm biếm khi
nói về những cái tồn tại, yếu kém hay chủ quan duy ý chí khi miêu tả những
chân dung tha hóa nghịch dị. Giọng hoài nghi, trầm tư khắc khoải, giọng triết
lý hóm hỉnh nhẹ nhàng mà sâu sắc thấm thía…
Nắm được quy luật nội tại của thể loại: "tiểu thuyết là một thể loại
luôn biến chuyển" [9, tr. 66], không chấp nhận sự tĩnh tại, Ma Văn Kháng trên
đường sáng tạo đã luôn có ý thức tìm tòi trên mọi phương diện để vượt lên
chính mình. Với ý thức "luôn luôn đi tìm những con đường để tiếp cận sự thật
và tự do" [42, tr. 249], để vươn tới sự hoàn hảo "một trang tiểu thuyết viết
hay, là trang tiểu thuyết nhiều màu sắc và âm vang, người đọc sẽ thưởng thức
bằng tai và bằng mắt" [42, tr. 307]. Ma Văn Kháng đã có sự tìm tòi thay đổi
chất trong giọng điệu ngôn ngữ tiểu thuyết của mình. Từ sau Mưa mùa hạ,
tiểu thuyết đánh dấu sự chuyển mình trong tư duy nghệ thuật Ma Văn Kháng,
giọng điệu nhà văn có thêm những chất mới.
4.2.2. Giọng hoài nghi
Hoài nghi là tinh thần của tiểu thuyết hiện đại. Đó là khúc xạ của sự
khủng hoảng tâm lý con người trong một giai đoạn, một thời điểm nào đó.
Với nhu cầu nhận thức và đánh giá lại mọi xác tín bằng một cái nhìn nhiều
chiều, Ma Văn Kháng đã thể hiện một giọng điệu hoài nghi trong tiểu thuyết
của ông, bắt đầu từ Mưa mùa hạ càng về sau mức độ càng đậm đặc hơn, có
thể xem là giọng chủ âm của những tiểu thuyết thế sự đời tư giai đoạn sau.
138
Giọng hoài nghi thể hiện tâm lý hẫng hụt của con người trước thực tại cuộc
sống, đó là sự đổ vỡ niềm tin vào xác tín một thời: "chả lẽ thời Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa, có sự lãnh đạo mà lại thua kém thời phong kiến hủ bại hay
sao?" [67, tr. 183]. Trong Đám cưới không có giấy giá thú, giọng hoài nghi
thể hiện qua những dòng độc thoại nội tâm đầy khắc khoải suy tư của nhân
vật Tự. Đối mặt với một thực tại phũ phàng khi học trò viết trên bảng: "Đời là
một vại dưa muối hỏng!" [67, tr. 50], Tự bắt đầu hành trình tự vấn về mình và
những người xung quanh. Bắt đầu từ:
Cái đoạn đời hai mươi năm cuộc đời đã qua của anh? Đâu
phải bao giờ nó cũng cho anh cảm tưởng mình đẹp, mình mạnh,
như khi anh đứng trên bục giảng này, cái đoạn đời đã qua của anh,
nó lộn xộn, chắp vá, vừa đa diện, vừa giản đơn, và hình như chẳng
chịu sự chi phối của quy luật nào [67, tr. 54].
Sự khởi đầu cho dòng hoài nghi để Tự nhận thức lại chính bản thân
mình đã cho anh nhìn lại chính mình bằng một cái nhìn khác. Không lấp lánh
hào quang, Tự chỉ là một thầy giáo không lo nổi đời sống cho bản thân mình,
bị khinh miệt, bị giễu cợt bởi chính những người mà anh yêu thương. Anh đau
đớn dằn vặt trong câu hỏi: "Thời buổi tạo ra bi kịch hay bi kịch vốn nằm trong
bản thể cuộc sống?" [67, tr. 90]. Sự hoài nghi lên đến đỉnh điểm khi anh ở
trong những tình thế bi kịch không lối thoát:
Vì sao đời Tự lại như cuốn sách hay để lầm chỗ, vì sao Tự
không gặp gỡ được lý tưởng?... Vì sao? Vì sao cái xấu xa, tồi tệ, sự
lộn ngược, dẫu không là toàn cảnh, thì cũng đã lây lan, phổ biến đến
mức ở rất nhiều nơi đã phát sinh ra thứ tiên dược để dung hòa sự
khác biệt giữa lý tưởng và thực tế nham nhở là sự dối trá ngụy
tạo...Cái căn nguyên lộn ngược kia là ở đâu? [67, tr. 381].
Những câu hỏi liên tiếp chưa có trả lời ấy phản ánh một sự đổ vỡ niềm
tin, khủng hoảng tâm lý của con người vốn có lòng tin thánh thiện vào những
tín điều đã được rèn đúc trong một quãng thời gian dài. Trong giọng hoài nghi
139
ấy, có nỗi đau đớn khắc khoải của một nhân cách ý thức sâu sắc về giá trị đời
sống, về sự thật.
Ở Ngược dòng nước lũ, giọng điệu hoài nghi thể hiện trong những băn
khoăn trở: "Có nghề nghiệp nào, loại người nào mà không có những kẻ khốn
nạn?" [84, tr. 234], "có thời đại nào lại không tự cho thời đại mình là vĩ đại
quan trọng? [84, tr. 151], "có gì quan trọng hơn sức khỏe của con người...
Chết là hết. Với cái chết mọi sự chấm dứt. Cõi niết bàn Cực lạc hoặc thiên
đường, nơi hoa hồng nở chín cánh của Đăng Tơ đến giờ cũng chỉ là niềm an ủi
cho cuộc đời vốn lắm truân chuyên của con người trần thế mà thôi" [84, tr. 235].
Xã hội đương đại với những bóng đêm tăm tối trong lòng người và
những kẻ thủ ác tàn bạo, thú tính, lối sống tha hóa... đã khiến cho nhà văn luôn
có tâm trạng hoài nghi. Nó hiện diện trong nội tâm nhân vật, trong dòng suy tư
của người kể chuyện, tha thiết một nỗi niềm đau đáu trước số phận con người và
sự suy đồi của nhân cách đạo đức. Đó là dòng suy tư, chất vấn của lương tâm
người chiến sĩ công an, hiệp sĩ ánh sáng "đối mặt với bóng đêm, tội ác. Để làm
gì? tại sao ta dấn thân vào nghề nghiệp này" [95, tr. 34], con đường tiếp cận
chân lý và sự thật trong trí nghĩ các anh "về căn bản vẫn chỉ là công việc mò
mẫm được hình dung như là của một kẻ mắc chứng đui mù!" [95, tr. 56], đó
còn là những suy tư về tội ác để truy tìm căn nguyên, lý giải nó. Trước những
ngẫu nhiên tất yếu của số phận, giọng điệu hoài nghi còn thể hiện một ám ảnh
khôn nguôi "cuộc sống bao hàm cả cái ác, cái ngẫu nhiên, cái phi lý, cái mu
mơ không thể hiểu nổi!" [95, tr. 268], "vì cơn cớ gì mà cuộc sống bị đảo lộn
ghê gớm như thế?", "khoa học trị được bệnh hiểm nghèo, nhưng thói tật vô
đạo đức, đểu giả đang tràn lấn xã hội thì chữa làm sao?" [96, tr. 287].
Giọng hoài nghi gắn với ý vị chua xót đầy cảm thán về cuộc đời con
người đã bộc lộ thái độ của nhà văn trước sự tha hóa đang hoành hành trong
xã hội. Đó là thái độ phê phán nghiêm khắc, là sự trăn trở bất an của một con
người có lương tri, lương năng, lương tâm trước sự suy đồi của xã hội. Chính
giọng hoài nghi ấy đã đem đến cho tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ở giai đoạn
sau tiếng nói đa thanh, nhiều chiều khi nhìn nhận các vấn đề cuộc sống.
140
4.2.3. Giọng triết lý
Ma Văn Kháng là nhà văn ưa triết lí - một lối triết lí nhẹ nhàng mà sâu
sắc thấm thía. Để tìm hiểu giọng điệu triết lí của nhà văn ở thể loại tiểu thuyết,
chúng tôi quan tâm tới các nội dung: chủ đề, đề tài triết lí, sự thể hiện giọng
điệu triết lí qua người kể chuyện và nhân vật.
Chủ đề, đề tài triết lí trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng phong phú, đa
dạng và sâu rộng. Nội dung triết lý bao quát rộng lớn nhiều vấn đề trong cuộc
sống, thể hiện tầm tư tưởng của nhà văn, thái độ nhà văn với cuộc đời. Ở những
tiểu thuyết sử thi, nội dung hướng tới miêu tả con người trong những sự kiện
lịch sử lớn lao, chủ đề triết lí vì thế thường hướng tới những nội dung mang tính
chất chính trị như dân tộc, lịch sử, cách mạng có ý nghĩa như phân tích, giải
phẫu khái niệm nhưng được diễn đạt bằng một giọng điệu bình tĩnh, giản dị, sâu
sắc, thấm thía. Chẳng hạn, triết lí về dân tộc Mông, qua lời nhân vật A Chỉnh:
"Dân tộc anh có những ưu điểm lớn. Kiên trinh bất khuất, phóng khoáng, chịu
khó, giàu tinh thần cộng đồng. Nhưng nó chưa thoát khỏi tình trạng thấp kém
về văn hóa vì từ lâu bị dìm trong dốt nát, tối tăm" [78, tr. 223], "những con
người đã hàng nghìn năm bị quá khứ đè nặng và sùng kính quá khứ với tâm lí cố
hữu, những con người bị lôi kéo bởi lực hướng tâm và bài ngoại luôn lo sự một
cuộc sống đổi thay khác trước" [83, tr. 314]. Vẫn về dân tộc này, qua lời Thiêm,
cái nhìn từ một dân tộc khác lại thấy rõ "họ, một dân tộc không lịch sử thành
văn, không chữ viết này... khép kín trong đơn độc và nguy cơ thoái hóa biểu
hiện rõ nét nhất là cảm giác trì trệ: thời gian không có ý nghĩa, hôm nay không
khác hôm qua, và ngày mai không có bóng hình trong dự tưởng" [78, tr. 418],
"liên minh với những người bạn chân thành... dân tộc Mông mới đảm bảo an
toàn cho sự tồn tại và phát triển của bản thân mình" [83, tr. 387].
Hay triết lí về chiến tranh, cách mạng và những bài học của nó: "Chiến
tranh bao giờ cũng đi cùng với những cơn chấn động, những khúc ngoặt bất
ngờ" [83, tr. 11], "cách mạng không phải là một cuộc thí nghiệm... cách mạng
bao giờ cũng là một khoa học theo đúng nghĩa của từ này" [83, tr. 311], "cách
141
mạng là một khoa học, khoa học nghiệt ngã" [83, tr. 315], "giải phóng con người
thật là một khoa học lớn và khó khăn" [83, tr. 317], "lịch sử xã hội tuân theo
quy luật khách quan, nhưng lại phụ thuộc vào ý chí, trình độ tổ chức và năng lực
của con người" [83, tr. 358], "sai lầm đã xảy ra, sẽ xảy ra một khi người lãnh đạo
không nắm bắt, vận dụng được quy luật của cuộc sống" [83, tr. 390], "dân là lực
lượng phá phách. Dân có thể là lực lượng xây dựng vô tận" [83, tr. 391], "mọi
cuộc các mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ" [78, tr. 497]. Những triết lí ấy,
ở thời điểm tác phẩm ra đời, nó là cả một sự đánh giá mang tính tiên cảm và dự
báo những quy luật xã hội mà sau này thực tế cho thấy hoàn toàn chính xác.
Từ sau Mưa mùa hạ, những vấn đề mang tính chất chính trị, xã hội
lớn lao vẫn xuất hiện nhưng lại ở một góc nhìn khác, thể hiện một tư tưởng
triết lí khác, vì thế, không còn giọng điệu triết lí mang tính chất ca ngợi, tôn
vinh, mà bắt đầu có xu hướng hoài nghi, đôi lúc gần như giễu nhại. Chẳng hạn,
giọng điệu triết triết lí về cách mạng qua cái nhìn của ông Quyết Định: "Chính
trị là thủ đoạn, là quyền biến, là sự từng trải, là một thái độ khẳng định và khéo
léo" [92, tr. 44], "một cuộc cách mạng không thể triệt tiêu lợi ích cá nhân...
vấn đề của cách mạng là giải phóng sức mạnh cá nhân" [92, tr. 99]. Hay triết
lí mang giọng điệu phân tích mổ xẻ: "Cách mạng không chỉ nảy sinh ra những
anh hùng, cách mạng còn hàm ẩn trong nó cả sự hỗn độn... nuôi dưỡng các
thực thể hồn mang, các quái trạng, cặn bã" [92, tr. 170], cách mạng có khi
"làm hư. Hỏng con người ta. Nó làm hư hỏng... anh. Nó khiến anh trở nên nhỏ
mọn và vô cùng tầm thường" [92, tr. 312]. Và "chủ nghĩa tập thể thô sơ triệt tiêu
cá nhân là... tiền đề sinh ra tầng lớp lãnh đạo đặc quyền đặc lợi" [92, tr. 345].
Thể hiện sự vận động trong tư duy nghệ thuật, các tiểu thuyết ở giai
đoạn sau của Ma Văn Kháng đã hướng tầm triết lí tới con người và các vấn đề
xoay quanh nó ở tất cả mọi lĩnh vực đời sống. Triết lí về con người là một
trong những triết lí hiện diện đậm đặc ở các sáng tác tiểu thuyết sau này của
Ma Văn Kháng. Từ Mưa mùa hạ, con người trở thành đối tượng triết lí do nhu
cầu phản biện và tranh luận, đối thoại giữa nhà văn và bạn đọc. Có những lúc
142
giọng điệu tôn vinh giá trị người " con người ta, chỉ đích thực khi nó là một cá
nhân" [92, tr. 99], "con người ta trước hết là một cá nhân" [92, tr. 99], có lúc
lại hoang mang khi chứng kiến những bản năng thấp kém và tội ác của con
người với đồng loại: "Con người tầm thường lắm... vị kỉ hơn vị tha, tham
sinh úy tử, né tránh cực khổ", "thời nào cũng có bọn bất lương" [95, tr. 176],
"con người ngày một trở nên hung tợn, đang ở bước cuối cùng là đánh mất
nhân tính" [95, tr. 115], "con người bao giờ cũng có một loại không có chân
ngã" [95, tr. 227], "đạo đức là thứ xa lạ với con người... cái ác như một sức
mạnh tự nhiên có sẵn ở con người" [95, tr. 117], "con người... là phức tạp và vô
cùng khó hiểu. Nó vượt qua mọi răn đe. Nó tàn ác, xấu xa và ngu muội... bị dục
vọng chi phối đến mức điên rồ, đánh mất cả lí trí" [95, tr. 184]. Có hoang mang,
chua xót nhưng trên hết vẫn là một giọng điệu triết lí thể hiện niềm tin bất diệt
vào bản chất tốt đẹp của con người "con người, cái xác phàm thô giản lại cũng là
một thực thể tinh thần, gần gụi với thần linh đang chống lại thực trạng suy đốn
bằng sự sáng láng đốt lên từ thân thể tâm linh mình" [95, tr. 251], "phẩm giá
con người là cái tài sản vô giá, thiêng liêng và tình yêu là cứu cánh, năng
lượng của đời sống, cái tinh túy nhất được chắt lọc ra từ bộn bề đau đớn của
cuộc đời" [95, tr. 198].
Đi sâu giải phẫu, phân tích tâm lí con người ở khía cạnh bản năng, Ma
Văn Kháng còn hướng chủ đề triết lí tới những ngóc ngách sâu kín như đời
sống tình dục, ân ái, giọng điệu triết lí đậm chất phân tích khi đối sánh quan
hệ mang tính chất cá nhân này ở cả hai phía. Ví dụ, triết lí về quan hệ tình dục
giữa vợ chồng "vợ chồng là quan hệ trao xương, gửi thịt cho nhau... Vợ chồng
là sự sở hữu lẫn nhau, không thể chia đôi... Hành động tính giao là bữa tiệc
giữa hai người" [67, tr. 344], "con người tuyệt đối hóa tinh thần không chấp
nhận quan hệ tính giao như một hoạt động thuần túy sinh học" [84, tr. 44]...
Như trên đã nói, hứng thú đi tìm những triết lý nhân sinh qua một hiện
tượng đời sống cụ thể, nâng tầm khái quát thành những bài học cuộc sống và
đem đến cho văn chương một vẻ đẹp trần thế, chính điều này, cuối cùng
143
ngược lại, biến nhà văn thành một triết gia của đời sống hôm nay. Những điều
này đã đem đến cho giọng điệu triết lý trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng sự đa
dạng của đề tài, chủ đề triết lý. Có những triết lý mang tầm khái quát lớn lao,
xuyên suốt các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng từ tác phẩm đầu tay đến tác
phẩm gần đây nhất như triết lý về con người, triết lý về cuộc đời, về cái đẹp,
về phụ nữ. Có những triết lý về những điều mang tính chất cá nhân, đời sống
riêng tư, có triết lý về món ăn... Những đề tài triết lý ấy cho thấy Ma Văn
Kháng có một năng lực và tham vọng khái quát hiện thực và chân lý đời sống.
Giọng điệu triết lý của ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn xuất hiện ở cả
ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật. Trong ngôn ngữ người kể chuyện,
theo mạch trần thuật, Ma Văn Kháng ưa thích đưa ra những triết lí từ giải
phẫu, phân tích bộ mặt tinh thần của xã hội. Người kể chuyện ưa thích triết lí
đã làm nên giọng điệu triết lí trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Giọng điệu
triết lí thường bộc lộ qua những đoạn bình luận trữ tình ngoại đề mà chúng tôi
đã đề cập ở phần trước, ở phần này chỉ chú ý đến giọng điệu triết lí của nhân
vật bộc lộ qua đối thoại và độc thoại nội tâm mang đậm dấu ấn chủ quan.
Trong các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, từ người trí thức có học vấn uyên
thâm đến những người bình dân, qua đối thoại, đưa ra những triết lý của mình,
những chiêm nghiệm của mình về cuộc đời, về con người, về cái đẹp, thiện và
ác, về thế thái nhân tình. Một đặc điểm nổi bật trong giọng điệu triết lý của
Ma Văn Kháng qua lời nhân vật là thường vận dụng những những hình ảnh so
sánh, ví von dựa trên những thành ngữ, tục ngữ đậm chất trí tuệ dân gian, gần
gũi với đời sống con người.
4.2.4. Giọng giễu nhại
Giễu nhại, theo Bakhtin trong Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiepxki, đó
là một hình thức của tiểu thuyết đa thanh, phức điệu. Ma Văn Kháng từng nói
"hài hước, như người ta nói, là sự khôn ngoan, là hương phấn son đặc thù của
văn học, nó có tác dụng làm dịu đi sự tàn nhẫn quái đản" [103]. Giễu nhại là
một thủ pháp nghệ thuật nằm trong mạch trần thuật của tiểu thuyết Ma Văn
144
Kháng, nhưng nó không thuộc bè chính, nó là một bè khác, đan xen với
những giọng chính, nó làm nên một sức hấp dẫn cho câu chuyện. Giễu nhại là
một trong những chất giọng được nhà văn sử dụng để công khai chống lại sự
giáo điều, các nguyên tác bảo thủ, cứng đờ, những thói đạo đức giả... cái ác,
sự tàn nhẫn đang làm băng hoại xã hội. Đối tượng của giễu nhại trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng phong phú: lãnh đạo, trí thức, bình dân, nam, nữ... Nội
dung giễu nhại Ma Văn Kháng hướng tới ở trong các tiểu thuyết ban đầu là
những thói tật trong đời sống sinh hoạt của con người như ăn uống, nói năng,
ham muốn tình dục... của con người được che đậy ở một hình thức khác, lột
bỏ lớp vỏ đạo đức, vai trò mà nhân vật đang đóng như một mặt nạ carnaval,
nhà văn đã đi tới sự khám phá bản chất thật sự của đối tượng. Để từ đó đấu
tranh với cái xấu trong con người và xã hội. Ở giai đoạn sau này, giọng điệu
giễu nhại của Ma Văn Kháng hướng tới những nội dung bên trong của các đối
tượng, đó là những dòng tâm tư, những suy nghĩ thầm kín, những ẩn ức tâm lí
được che đậy bởi những thói tật, để diễn tả sự căng thẳng của cuộc sống hiện
đại. Nói cách khác, giễu nhại để khám phá những vai ngầm mà nhân vật buộc
hay tự nguyện đóng trong cuộc đời. Chất giọng giễu nhại ở mỗi tác phẩm,
mỗi giai đoạn có sự khác nhau, nhưng điểm chung nhất ở nhà văn đó là
"không có sự cay uất tức tối, gửi được phần khách quan cần thiết... đứng cao
hơn sự phẫn nộ cá nhân" [103].
Trước tiên, chúng tôi chú ý đến giễu nhại những thói tật của các chân
dung biếm họa bằng thủ pháp cường điệu, phóng đại, qua lời đối thoại (diễn
ngôn) của các nhân vật. Đây là một trong những đặc điểm tiêu biểu của giọng
điệu giễu nhại trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Có thể thấy điều này qua
chân dung Quốc Thanh, Cẩm, Dương, Lại, Thuật, Phô, Quanh, Liệu, Cái Tý
Hợi, Khoái, Hói... Những nhân vật bị buộc phải đóng vai không trùng khít với
mình. Họ, ở một vị trí quan trọng, nhưng đôi khi không thể che giấu nổi
những thói tật xấu xa, những ham muốn tầm thường. Trước tiên, đối tượng
Ma Văn Kháng giễu nhại chính là sự thô tục trong ăn uống, một trong những
145
biểu hiện của sự hạ tiện trong nhân cách con người. Xem chân dung Quốc
Thanh được miêu tả trong ăn uống:
Ông Quốc Thanh ăn khỏe lắm, ăn như người rỗng ruột, lại
háu đói, vào bữa bưng bát là và lấy và để, chưa nuốt xong miếng
này đã nuốt ngay miếng khác vào miệng. Có lúc còn lấy tay bốc cho
nhanh, như sợ người khác ăn mất phần. Ăn như ma đói ma khát ăn.
Ăn như bị bỏ đói từ tiền kiếp. Lại thêm vừa ăn vừa nhe nhe răng
như dọa nạt ai. Trông mà khiếp [78, tr. 372],
Đồng thời với giễu nhại thói ăn uống tham lam, thô tục bằng quan sát
và miêu tả những hành động cụ thể, Ma Văn Kháng còn phát hiện ra năng lực
biến hóa kỳ tài (đa nhân cách) ở nhân vật này:
Đang như một tên du thủ du thực với lớp ngôn ngữ hạ đẳng
kinh người, thoắt cái đã có bộ mặt, giọng điệu của một anh cán bộ
chính trị thâm niên đứng đắn. Đang là một gã đàn ông đàng điếm,
hoàn toàn bị bản năng tính dục chi phối, ngoảnh đi ngoảnh lại, như
trong trò chơi hóa trang, ông đã đóng trọn vai chính khách, nhà
cách mạng chuyên nghiệp, phái viên đặc biệt của huyện, mang nhãn
quan chính trị vô cùng bén nhạy và tinh quái [78, tr. 373].
Lật tẩy chân dung của y bằng một vai ngầm trơ tráo, hạ lưu, đê tiện,
dâm ô, trác trụy, tiếng cười giễu nhại đã miêu tả hành động kỳ quặc, ngôn ngữ
thô tục khi ngủ chung với Thiêm "mân mó chim anh, cười hê hê: - Bé như quả
ớt thế này lấy vợ thế đ. nào được, à này, biết mấy cái bướm rồi" [78, tr. 372].
Đặc biệt, qua quan hệ với Thúy, những cuộc làm tình, nhân vật này đã hoàn
toàn bộc lộ bản chất hoang dã, thú vật của y.
Không chỉ qua thói tật ăn uống, Ma Văn Kháng còn giễu nhại diễn
ngôn chính trị qua lời nói của nhân vật để phản ứng lại nhân sinh quan sơ
lược, giản đơn, duy ý chí về tư tưởng cách mạng, Ma Văn Kháng đã cho các
nhân vật trong tiểu thuyết, qua đối thoại, thể hiện sự ngô nghê, dốt nát, giáo
điều chủ nghĩa. Nhân vật Quốc Thanh, có lúc đang phát ngôn chính trị bỗng
146
dưng lại "yêu nhau bốc bải dần sàng, bà con nhất trí hoàn toàn với nghị quyết
chứ" [78, tr. 375]. Hay nhân vật Dương, để thể hiện quyền lực chính trị và
luôn tỏ ra mẫn cán với vai trò của mình, bất kỳ lúc nào và có cơ hội gì đều
lồng ghép tư tưởng một cách giáo điều và thiển cận khiến cho y trở nên vô
cùng lố bịch. Chẳng hạn đoạn văn sau: "cuốn phim nói về giáo dục nhà
trường chúng ta hay quá. Chủ đề tư tưởng, xét một cách toàn diện là rất sâu.
Chỉ tiếc chiếu được có hai phút thì mất điện" [67, tr. 165]. Một ví dụ khác -
lời phát biểu của Bí thư Lại: "Hôm nay thị xã ta khai giảng trường cấp ba. Rồi
đây chúng ta sẽ mở trường cấp bốn, cấp năm, cấp sáu. Cũng như hiện nay
tỉnh ta đã có giống lợn Mường Khương nhiều mỡ, rồi đây ta sẽ có giống lợn
lai kinh tế nhiều nạc, tăng trọng nhanh" [67, tr. 118]. Đó còn là giễu nhại kinh
nghiệm ứng xử văn hóa không tương xứng với vị trí: "Này, các cô cậu học
trò... chớ có mà lên mặt. Và hãy liệu hồn, chớ có nhi nhoe, cậy dăm ba cái
kiến thức để vênh váo; trí thức không bằng cục cứt chó khô đâu, các người
hãy nhớ lấy" [67, tr. 120], "các anh giáo! Xin nói để các anh biết. Tầng lớp trí
thức tiểu tư sản các anh chẳng qua chỉ là cái sinh thực khí, tức là cái vật thể
thối tha của thằng đàn ông. Nghĩa là khi xung trận, được kích thích thì nó cương
cứng lên. Rồi sau đó như thằng chết trôi" [67, tr. 120]. Một thủ pháp khác -
giễu nhại văn chương - cũng được Ma Văn Kháng sử dụng để tô đậm chân
dung biếm họa. Đó là lối ví von so sánh "cái thằng sẵn sàng diễn trò Lã Bất Vi
buôn vua" [84, tr. 62], "ba anh thợ da thành một Gia Cát Lượng" [78, tr. 380],
hay phân tích diễn giải thô thiển: "Hào khí Đông A thành hào khí Đông Nam
châu Á" [67, tr. 133].
Một cách giễu nhại khác- nhại tiếng nói địa phương, phát âm ngọng:
iem, huện, truền n thành l. Ví dụ bi hài chính là lời của cái Tý Hợi tố cáo
Khiêm: "Lão Khiêm là thằng đệ nhất dâm dê. Ló gạ gẫm tôi bao nhiêu lần...
Từ ngày có thủ trưởng Quanh tôi mới được ăn được lói. Tôi căm thù ló. Tôi
vạch tội ló" [84, tr. 323], "đời chẳng là cái chõ gì" [84, tr. 368], hay lời nhận
xét của một nhân vật về Liệu "cậu Niệu nàm việc gì cũng chu đáo... hễ rỗi nà
147
đọc sách, viết nách. Chịu khó nàm thơ nắm, nhưng chả hiểu viết nách có nên
cơm cháo gì không?" [84, tr. 91]... Giễu nhại bằng lồng giai thoại: "Có ông
giáo chính trị nói mácxít là chủ nghĩa Mác cộng với Xit stalin... có ông đại
tá... tưởng Lênin là họ Lê, thuộc dòng Lê Lợi, Lê Lai" [67, tr. 168], giai thoại
thầy giáo gặp trấn lột được chúng cho tiền ăn phở có thêm đoạn vĩ thanh "Khi
hai tên lưu manh đặt ba đồng bạc vào tay nhà giáo, nhà giáo liền lắc đầu quầy
quậy. "Lại còn sĩ à" - Một tên lưu manh hỏi gằn. Nhà giáo ngơ ngẩn: "không!
Nhưng tôi không nhớ gì nữa. Phở là gì hả hai anh?" [67, tr. 179]. Giễu nhại
bằng so sánh "Đồng bào hỏi hợp tác xã có giống cái rế bắc cái nồi thu mua
cho đỡ nóng không?" [78, tr. 377]. Có thể nói, hình thức giễu nhại trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng vô cùng phong phú, đa dạng, và hấp dẫn.
Như trên đã nói, ở các tiểu thuyết sau này, giễu nhại của Ma Văn
Kháng không hướng tới quan sát bề ngoài mà đi sâu khám phá những nội
dung bên trong của các đối tượng, đó là những dòng tâm tư, những suy nghĩ
thầm kín, những ẩn ức tâm lí được che đậy bởi những thói tật, để diễn tả sự
căng thẳng của cuộc sống hiện đại. Chẳng hạn, đi sâu khám phá nhân vật
Khoái (Bóng đêm), với tư cách đội trưởng đội trọng án, ở khía cạnh đời sống
riêng tư, qua thói tật khẩu dâm, thị dâm, thủ dâm, thói quen nghe người bị hại
kể lại những chuyện cưỡng bức tình dục một cách thích thú, Ma Văn Kháng
đã nhìn thấy ẩn ức trong nội tâm nhân vật - một kẻ phải đóng vai quá sức với
mình, y không thể nhân danh và đại diện công lý, cho nên, đối với y, vị trí chỉ
là cơ hội để y trả mối tư thù cá nhân và thỏa mãn ham muốn dục vọng xấu xa.
Một nhân vật khác, Lý Bân - tục danh Hói (Bến bờ), đó là một tên lưu manh
nhưng lại ở vị trí lãnh đạo. Y là điển hình cho một quan niệm "con người luôn
luôn không được miêu tả đúng" [96, tr. 25], không chỉ giễu nhại ngoại hình
qua chân dung biếm họa được cường điệu, phóng đại đầy dị dạng, Ma Văn
Kháng còn đi sâu khám phá nội tâm của nhân vật, đằng sau tấm áo của một
người đại diện cho pháp luật, y là một gã đàn ông đồi bại, ác tâm, một con thú
người đối với vợ con. Sự giễu nhại hướng tới cái ác với biểu hiện tận cùng
148
của thú tính qua nhân vật này. Điều chua xót nhất là ở phương diện vị trí xã
hội y lại đứng trên những con người chân chính. Đó mới là sự giễu nhại sâu
cay nhất, bi hài nhất mà giễu nhại đem lại.
Có thể nói rằng, giọng điệu giễu nhại ở tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã
làm nên một sức hấp dẫn cho nghệ thuật kể chuyện của nhà văn. Mục tiêu của
giễu nhại, cao hơn sự đào thải, nó có ý nghĩa thanh lọc con người vượt qua
ngu muội, thấp kém về nhận thức và nhân cách, hoàn thiện chính mình. Có
thể làm bật lên tiếng cười, nhưng đó không phải là tiếng cười hả hê như Vũ
Trọng Phụng, hay chua xót như Nam Cao hay gần hơn, cay độc nghiệt ngã
như Nguyễn Huy Thiệp. Tiếng cười từ giọng giễu nhại của Ma Văn Kháng
hóm hỉnh mà hồn nhiên, có chất bi nhưng không vì thế mà đen tối, u ám.
TIỂU KẾT
Nghiên cứu về ngôn ngữ và giọng điệu tiểu thuyết Ma Văn Kháng,
chúng tôi nhận thấy, ở nhà văn, dấu ấn phong cách thể hiện qua các phương
diện này rất đậm nét. Ngôn ngữ người kể chuyện của Ma Văn Kháng có
những nét riêng độc đáo, có sự vận động từ ngôn ngữ sử thi đến ngôn ngữ
thế sự đời tư. Ngôn ngữ vừa có vẻ đẹp bình dị khi miêu tả đời sống thường
nhật vừa có tính chất uyên bác sâu sắc khi chuyển tải những vấn đề chính trị
xã hội lớn lao. Ngôn ngữ nhân vật khắc họa cá tính, phân tích, miêu tả tâm
lý nhân vật rõ nét. Độc thoại nội tâm qua kỹ thuật dòng tâm tư thể hiện sự nỗ
lực và tìm tòi của nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật theo tinh thần hiện đại
hóa. Giọng điệu tiểu thuyết Ma Văn Kháng có sự vận động, biến chuyển, từ
đơn thanh nhiều bè sang đa thanh, đa giọng điệu. Giọng hào sảng trữ tình tha
thiết với các giọng điệu ca ngợi, phê phán, thương cảm ở giai đoạn đầu có
tính chất đơn âm ở giai đoạn sau đã kết hợp với các giọng hoài nghi, trầm tư
khắc khoải, giọng triết lí nhẹ nhàng mà sâu sắc, giọng giễu nhại hóm hỉnh
pha chút xuồng xã đã làm nên tính chất đa thanh trong giọng điệu tiểu thuyết
Ma Văn Kháng.
149
KẾT LUẬN
1. Phong cách tác giả, đặc biệt là những phong cách cá nhân có những ảnh hưởng lớn, có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của văn học là một
trong những phạm trù cơ bản tạo nên diện mạo của quá trình văn học. Tìm
hiểu phong cách nghệ thuật nhà văn có một vai trò quan trọng trong nghiên
cứu văn học để làm rõ dấu ấn dân tộc và dấu ấn thời đại mà anh ta đang sống.
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt
Nam hiện đại, gần tám mươi năm tuổi đời, hơn năm mươi năm lao động sáng
tạo nghệ thuật không ngừng nghỉ, cho đến hôm nay, vẫn luôn là một hiện
tượng văn học được dư luận bạn đọc quan tâm, thu hút ý kiến phê bình đánh
giá gây nhiều tranh cãi. Xuất thân từ nhà giáo, nhà báo, tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng thể hiện một nhân cách nghệ sĩ nghiêm túc, cần cù sáng tạo, dấn
thân và nhập cuộc, có ý thức trong đổi mới về tư duy và hình thức nghệ thuật.
Con đường hình thành phong cách tiểu thuyết của Ma Văn Kháng là con
đường của một nhà văn phụng sự cho lý tưởng cách mạng, cho đất nước, nhân
dân. Bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
của nhà văn là sự chuyển đổi không gian sáng tác và môi trường sống từ miền
núi về thành thị. Bước ngoặt này đã mở rộng vùng thẩm mỹ, tác động đến tư
duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng, đưa ông từ vị trí nhà văn của vùng biên ải
và người dân tộc miền núi trở thành một trong những "ngọn cờ đổi mới có sức
vẫy gọi" đi sâu và bám sát sự vận động của đời sống xã hội ở nhiều phương
diện khác nhau.
2. Song song với hành trình sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã
hình thành cho mình một hệ thống quan niệm nghệ thuật văn chương và con
người. Trong quan niệm về văn chương, Ma Văn Kháng luôn xác định đích
đến của nó là ca ngợi cuộc sống con người dựa trên ba nguyên tắc cơ bản:
"Thôi thúc tôi viết là cái đẹp cuộc sống", "Thuận theo người mà không bỏ mình"
và "Tôi viết như tôi nghĩ, tôi hiểu, tôi yêu, tôi ghét". Ma Văn Kháng là nhà
150
văn có quan niệm nghệ thuật về con người rất rõ ràng và nhất quán, bộc lộ
tính giai đoạn và có sự vận động biến đổi rất rõ nét, đó là sự vận động từ con
người xã hội đến con người đời tư đặt trong hoàn cảnh cụ thể với tất cả những
gì thuộc về chính nó. Khám phá con người ở nhiều bình diện khác nhau, từ
đó, tiểu thuyết Ma Văn Kháng thể hiện những quan niệm về con người phong
phú, sâu sắc, giàu tính nhân bản.
3. Tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã tạo dựng được một thế giới nhân vật
đa dạng, phong phú, hấp dẫn. Nhân vật của Ma Văn Kháng luôn được đặt
trong hoàn cảnh và bi kịch để thể hiện tính cách và phẩm chất con người.
Trong thế giới nhân vật tiểu thuyết đó, nổi lên những kiểu nhân vật tiêu biểu
đậm dấu ấn cá nhân: nhân vật lý tưởng, nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa.
Khám phá nhân vật bi kịch ở góc độ giới, người phụ nữ được Ma Văn Kháng
giành cho vị trí đặc biệt trong các tiểu thuyết. Nhà văn bày tỏ tình yêu thương
đối với nhân vật này, đồng cảm và chia sẻ với họ, không nghiệt ngã trước
những sai lầm mà bao dung, độ lượng, nhân ái nâng đỡ họ trước những bi
kịch cuộc sống mà họ buộc phải đối mặt và lựa chọn. Qua thế giới nhân vật,
Ma Văn Kháng đã góp phần không nhỏ trong thể hiện chân dung con người
Việt Nam ở những giai đoạn cụ thể, phân tích và lí giải một cách sâu sắc và
sáng tỏ con người ở nhiều phương diện và trong những không gian, thời gian
khác nhau. Đặc biệt, trong các tiểu thuyết thế sự đời tư, từ nhân vật bi kịch và
nhân vật tha hóa, bức tranh đời sống thị dân Hà Nội hiện ra rất chân thực, sinh
động và hấp dẫn. Bút pháp nghệ thuật miêu tả nhân vật của Ma Văn Kháng
phong phú, đa dạng. Từ cách miêu tả nhân vật qua tướng mạo, qua yếu tố tính
dục, qua yếu tố tự thuật, nhân vật của tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã có diện
mạo và chỗ đứng riêng trong văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới nhân vật
tiểu thuyết Ma Văn Kháng cho ta thấy tình yêu, niềm tin mãnh liệt của nhà
văn vào giá trị tốt đẹp của con người, thái độ đấu tranh không khoan nhượng
để bảo vệ con người trước cái ác.
151
4. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật của Ma Văn Kháng có những nét
độc đáo thể hiện dấu ấn phong cách cá nhân. Ngôn ngữ người kể chuyện và
ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng có sự gắn kết hài hòa.
Giọng điệu của tiểu thuyết Ma Văn Kháng bước đầu có tính chất đa thanh, thể
hiện ở nhiều giọng điệu đan xen trong các tác phẩm: giọng hào sảng trữ tình
tha thiết, giọng triết lí hóm hỉnh sâu sắc trong trần thuật, đối thoại và độc
thoại để đem lại những góc nhìn cuộc sống, giọng hoài nghi thể hiện những
băn khoăn, ưu tư về hiện thực và con người, giọng giễu nhại nhẹ nhàng mà
sâu sắc, thấm thía. Những giọng điệu này cho thấy Ma Văn Kháng luôn có ý
thức tìm tòi những kỹ thuật ngôn ngữ và thể hiện sự vận động tư duy nghệ
thuật. Ngôn ngữ và giọng điệu tiểu thuyết Ma Văn Kháng vừa mang vẻ đẹp
cổ điển vừa giàu tính chất hiện đại, có năng lực tái hiện đời sống và con người
trong những phạm vi không gian và thời gian khác nhau. Qua ngôn ngữ tiểu
thuyết, Ma Văn Kháng thể hiện sự giàu có vốn từ, năng lực vận dụng và sáng
tạo tài hoa và duyên dáng, nguồn mỹ cảm dồi dào, tình yêu và sự trân trọng
tiếng nói của dân tộc.
5. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, qua những giai đoạn khác nhau, Ma Văn
Kháng không ngừng trăn trở để tạo dựng cho mình một lối đi, một tư duy
nghệ thuật độc đáo và một chỗ đứng vững chắc trong lòng bạn đọc. Qua tiểu
thuyết, Ma Văn Kháng đã bộc lộ một phong cách nghệ thuật độc đáo: nhất
quán trong quan niệm nghệ thuật về văn chương và con người, biến đổi vận
động không ngừng trong tư duy và nghệ thuật thể hiện, văn phong vừa hào
sảng phóng khoáng vừa trữ tình lãng mạn, vừa giản dị hồn nhiên mà sâu sắc
thấm thía, ngôn ngữ phong phú vừa dân giã hồn nhiên vừa suy tư sâu sắc
thấm thía, giàu hình ảnh và đa nghĩa, càng về sau càng tăng cường chất liệu
đời sống và thông tin. Giọng điệu ở các tiểu thuyết giai đoạn sau có sự chuyển
biến tích cực theo xu hướng hiện đại hóa bước đầu mang màu sắc đa thanh, đa
giọng điệu.
152
Những yếu tố đặc trưng trong phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng
mà luận án đã tìm hiểu, nghiên cứu và đưa ra kết luận có mối liên hệ gắn bó
nội tại gắn bó sâu sắc với nhau. Tất cả những nghiên cứu đó đều hướng tới để
làm rõ đặc điểm một phong cách tiểu thuyết hiện đại - phong cách Ma Văn
Kháng, một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, người đi
tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học Việt Nam những thập kỷ cuối
cùng của thế kỷ XX, mở ra một chặng đường mới cho các nhà văn thế hệ sau
nối tiếp.
153
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Dương Thị Thanh Hương (2014), "Phẩm chất nhà giáo, từ văn chương đến
thực tế cuộc sống", Tạp chí Khoa học giáo dục (107), tr. 34-36.
2. Dương Thị Thanh Hương (2014), "Tiếng nói đấu tranh chống lại cái ác
trong tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ của Ma Văn Kháng", Tạp chí Diễn
đàn Văn nghệ Việt Nam (236), tr. 21-24.
3. Dương Thị Thanh Hương (2014), "Tư tưởng nghệ thuật, nguyên tắc cái
nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng", Lý luận phê bình văn
học, nghệ thuật (25) tr. 66-71.
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh (1997), Việt Nam nửa thế kỷ văn học, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
2. Thái Phan Vàng Anh (2010), "Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại", Tạp chí Nghiên cứu văn học (2), tr. 97-107.
3. Antoine Compagnon (2006), Bản mệnh của lí thuyết (Văn chương và
cảm nghĩ thông thường), Nxb Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m Hà Nội, Hà Nội.
4. Aristote - Lưu Hiệp (1999), Nghê ̣ thuật thơ ca - Văn Tâm Điêu Long,
Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Hà Ân (1988), "Đo ̣c Mùa lá rụng trong vườn ", Báo Người Hà Nội (71),
tr. 12-13.
6. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
7. Lê Huy Bắc (2008), "Cốt truyện trong tự sự", Tạp chí Nghiên cứu văn
học (7), tr. 34-43.
8. Bakhtin M. (1993), Những vấn đề thi phá p Đôtxtoiepxki, (Trần Đình Sử ,
Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn di ̣ch), Nxb Giáo du ̣c, Hà Nội.
9. Bakhtin M. (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết , (Phạm Vĩnh Cư
dịch), Nxb Hô ̣i Nhà văn, Hà Nội.
10. Barthes R. (1997), Độ không của lối viết, (Nguyên Ngo ̣c di ̣ch), Nxb Hô ̣i
Nhà văn, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Bình (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng
tháng Tám, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Nguyễn Thi ̣ Bình (2007), Văn xuôi Viê ̣t Nam 1975 - 1995 những đổi mớ i
căn bản, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nội.
13. Nguyễn Minh Châu (1993), Trang giấy trước đèn, (Tôn Phương Lan sưu
tầm, tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Bùi Kim Chi - Nguyễn Việt (1990), "Tiểu thuyết Đám cưới không có
giấy giá thú, khen và chê", Báo Văn Nghệ (21), tr. 11.
155
15. Tô Đứ c Chiêu (1999), "Gă ̣p ngườ i vừ a Ngược dò ng nướ c lũ ", Tuần bá o
Du li ̣ch (17), tr. 6.
16. Lê Văn Chính (2004), Đặc điểm tiểu thuyết về đề tài thành thị của Ma
Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
17. Trần Cương (1982), "Đo ̣c Mưa mù a hạ", Tạp chí Văn học (5), tr. 127-129. 18. Trần Cương (1985), "Mùa lá rụng trong vườn , mô ̣t đóng góp mớ i củ a
Ma Văn Kháng", Nhân dân chủ nhật (6), tr. 3.
19. Hồng Diệu (1990), "Tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú", Báo
Giáo viên nhân dân (1), tr. 10.
20. Nguyễn Lân Dũng (1989), "Số phâ ̣n ngườ i lương thiê ̣n ", Báo Lao động
(45), tr. 11.
21. Minh Dương (1990), "Bản lĩnh người thầy và ngòi bút chiến đấu của nhà
văn", Báo Giáo viên nhân dân (6), tr. 9, 11.
22. Thành Duy (1989), "Lý luận và phê bình văn học - những vấn đề gì đang
đặt ra?", Tạp chí Văn nghệ Quân đội (4), tr. 103-109.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Đặng Anh Đào (1992), "Nguồn gốc và tiền đề củ a tiểu thuyết ", Tạp chí
Văn học (6), tr. 32-38.
25. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập I, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
27. Phan Cự Đệ (1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập II, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
28. Phan Cự Đệ (1987), "Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn
học", Tạp chí Văn nghệ Quân đội (12), tr. 108-114.
29. Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức (1993), Nhà văn Việt Nam hiện đại 1945 -
1975, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
156
30. Biê ̣n Minh Điền (2008), Phong cá ch nghê ̣ thuật Nguyễn Khuyến , Nxb
Đa ̣i học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Hà Minh Đức (2002), "Những thành tựu của văn học Việt Nam trong
thờ i kì đổi mớ i", Tạp chí Văn học (7), tr. 3-6.
32. Hà Minh Đức - Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học, Tập 2, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
33. Hà Minh Đức - Phạm Quang Long - Trần Khánh Thành... (1997), Lý
luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Thiê ̣n Giáp - Đoàn Thiê ̣n Thuâ ̣t - Nguyễn Minh Thuyết (2000),
Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nội.
35. Gulaiep N.A (1982), Lý luận văn học, (Lê Ngọc Tân dịch), Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
36. Viê ̣t Hà (2009), "Một mình một ngựa , mô ̣t mình mô ̣t phong cách ", Báo
Văn nghê ̣ Công an, ngày 9/11/2009, tr. 11.
37. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
38. Minh Ha ̣nh (1990), "Đo ̣c Đá m cướ i không có giấy giá thú ", Báo Giáo
viên nhân dân (1), tr. 11.
39. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học, vấn đề
và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Hêghen (1999), Mỹ học, Tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
41. Lê Hiền (2010), "Trò chuyện về tiểu thuyết Một mình, một ngựa của Ma
Văn Kháng", Tạp chí Xuất bản Việt Nam (9), tr. 16.
42. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi phá p hiê ̣n đại, Nxb Hô ̣i Nhà văn, Hà Nội. 43. Nguyễn Thị Hoa (2008), Tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn Kháng,
Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
44. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
45. Nguyễn Thái Hòa (1998), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
157
46. Tô Hoài (1983), "Đo ̣c Mưa mù a hạ", Báo Văn nghê ̣, ngày 4/9/1983. 47. Tô Hoài (1988), Nhớ Mai Châu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 48. Tô Hoài (2007), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 49. Tô Hoài (2014), Cát bụi chân ai, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 50. Nguyễn Thị Huệ (1998), "Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của
Ma Văn Kháng những năm 80", Tạp chí Văn học (2), tr. 51-57.
51. Nguyễn Thị Huệ (2009), Văn xuôi khơi nguồn đổi mới, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
52. Hoàng Thị Huế - Nguyễn Thị Khánh Thu (2010), "Hình tượng người kể
chuyện trong tiểu thuyết mới của Ma Văn Kháng", Tạp chí Diễn đàn
Văn nghệ Việt Nam (190), tr. 25-27.
53. Trần Bảo Hưng (1984), "Ma Văn Kháng với tiểu thuyết Vùng biên ải",
Báo Tiền phong (21), tr. 6.
54. Trần Bảo Hưng (1986), "Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề của
đờ i sống gia đình hôm nay", Báo Phụ nữ Việt Nam (17), tr. 7.
55. Trần Bảo Hưng (1990), "Đám cưới không có giấy giá thú hay là những nghịch lí đau xót của thực tại", Tạp chí Văn nghệ Quân đội (6), tr. 114-118.
56. Bùi Lan Hương (2004), Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết
của Ma Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
57. Đoàn Tro ̣ng Huy (2012), "Ma Văn Kháng - ngọn cờ đổi mới có sức vẫy
gọi", Tạp chí Văn nghệ Quân đội (756), tr. 103-107.
58. Đoàn Tro ̣ng Huy , "Ma Văn Kháng - vạm vỡ kiên cường một sức văn ", http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/phe-binh/4842-ma-van-
khang- vam-vo-kien-cuon g-mot-suc-van.html.
59. Trần Thị Thanh Huyền (2007), Tiểu thuyết về đề tài miền núi của Ma
Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam, Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Hà Nội.
60. Nguyễn Khải (2002), Tuyển tập Nguyễn Khải, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
158
61. Ma Văn Kháng (1971), "Cuộc sống miền núi và những trang viết của
tôi", Báo Văn nghệ (395), tr. 5.
62. Ma Văn Kháng (1979), Đồng bạc trắng hoa xòe, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Ma Văn Kháng (1989), "Ngẫu hứng và tự do sáng tạo", Tạp chí Văn học
(2) tr. 20-23.
, Tham luận phát 64. Ma Văn Kháng (1990), Dấu hiê ̣u của dân chủ cởi mở
biểu ta ̣i Tokyo nhân chuyến đi thăm Nhâ ̣t Bản củ a Quỹ giao lưu Quốc tế - Trung Tâm Văn hóa Nhâ ̣t Bản tháng 11/1990.
65. Ma Văn Kháng (1992), "Lào Cai, những năm tháng tập rèn", Tạp chí
Văn nghệ Lào Cai (12), tr. 1-3.
66. Ma Văn Kháng (1992), Thuận theo người mà không bỏ mình, Tham luận
tại hội thảo Văn học họp tại Copenhaghen - Đan Mạch tháng 8/1992.
67. Ma Văn Kháng (1995), Đá m cướ i không giấy giá thú, Nxb Văn ho ̣c, Hà Nội. 68. Ma Văn Kháng (1995), Trăng soi sân nhỏ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
69. Ma Văn Kháng (1995), Nhà văn Việt Nam - Chân dung tự họa, Nxb Văn
học, Hà Nội.
70. Ma Văn Kháng (1995), Cao hơn cả là tình yêu, (Chưa in).
71. Ma Văn Kháng (1996), Vùng biên ải, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
72. Ma Văn Kháng (1997), Nền văn học của dân tộc, Tham luâ ̣n ta ̣i Hô ̣i thảo
Viễn Cảnh văn ho ̣c Châu Á thế kỉ 21, Washington 23-27/4/1997.
73. Ma Văn Kháng (1997), Tiểu thuyết, nghê ̣ thuật khá m phá cuộc sống , Đề cương phát biểu trong Hô ̣i thảo về tiểu thuyết củ a Hô ̣i nhà văn Vi ệt Nam 26/3/1997.
74. Ma Văn Kháng (1998), Tấm gương phản chiếu văn hó a , Tham luâ ̣n ta ̣i
hô ̣i thảo vă n hóa và chiến lươ ̣c phát triển văn hóa ta ̣i Hô ̣i nhà văn ngày 7/3/1998.
, Phát biểu tại lễ trao giải 75. Ma Văn Kháng (1998), Chân trờ i rộng mở
thưở ng văn ho ̣c ASEAN 1998 tại Băng Cốc - Thái Lan.
76. Ma Văn Kháng (1999), Ngược dòng nước lũ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
159
77. Ma Văn Kháng (2000), "Tiểu thuyết: tiếng vỗ mô ̣t bàn tay", Nhà văn (8),
tr 23- 27.
78. Ma Văn Kháng (2001), Trăng non và Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Nxb Văn
học, Hà Nội.
79. Ma Văn Kháng (2001), "Mấy suy nghĩ về tiểu thuyết", Báo Nhân dân,
ngày 26/5/2001, tr. 8.
80. Ma Văn Kháng (2002), Tiểu thuyết, một giá tri ̣ không thể thay thế , (Đổi
mới tư duy tiểu thuyết), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr 12-34.
81. Ma Văn Kháng (2003), "Đôi điều thu nhận từ một bậc thầy văn xuôi",
Báo Văn nghệ (13), tr. 6-11.
82. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết, Tập I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
83. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết, Tập II, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
84. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết, Tập VI, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
85. Ma Văn Kháng (2003), Truyê ̣n ngắ n, Tâ ̣p I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 86. Ma Văn Kháng (2003), Truyê ̣n ngắ n, Tâ ̣p II, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 87. Ma Văn Kháng (2003), Truyê ̣n ngắ n, Tâ ̣p III, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nô ̣i.
88. Ma Văn Kháng (2004), "Viết tiểu thuyết là cả một cuộc đi săn hổ dữ",
Văn nghệ (số đặc biệt tháng 8), tr. 6-11.
89. Ma Văn Kháng (2006), Chó Bi đời lưu lạc, Nxb Hô ̣i Nhà văn, Hà Nội. 90. Ma Văn Kháng (2006), Côi cú t giữa cảnh đờ i, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 91. Ma Văn Kháng (2007), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Lao đô ̣ng, Hà Nội. 92. Ma Văn Kháng (2009), Một mình một ngựa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
93. Ma Văn Kháng (2009), Năm thá ng nhọc nhằ n , năm thá ng nhớ thương ,
Nxb Hô ̣i Nhà văn, Hà Nội.
94. Ma Văn Kháng (2010), Mưa mù a hạ, Nxb Hô ̣i Nhà văn, Hà Nội. (Tái bản). 95. Ma Văn Kháng (2011), Bóng đêm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
96. Ma Văn Kháng (2012), Bến bờ , Nxb Phu ̣ nữ, Hà Nội. 97. Ma Văn Kháng (2012), Võ sĩ lên đài, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
160
98. Ma Văn Kháng (2012), "Khát vọng về một cái đẹp", Tạp chí Văn nghệ
quân đội (743), tr. 100-104.
99. Ma Văn Kháng (2013), Chuyê ̣n của Lý , Nxb Hô ̣i Nhà văn, Hà Nội. 100. Ma Văn Kháng (2013), Xa xôi thôn Ngựa Già , Nxb Phu ̣ nữ, Hà Nội. 101. Ma Văn Kháng (2013), Phút giây huyền diệu (tiểu luận và bút ký về
nghề văn), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
, 102. Ma Văn Kháng, Cao hơn cả là tình yêu, (chưa in). 103. Ma Văn Kháng , Mỗi cuốn tiểu thuyết là tâm thế một đoạn đờ i của tôi
(chưa in).
104. Khrapchenco M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
105. Khrapchenco M.B (2002), Những vấn đề lí luận và phương phá p luận
nghiên cứ u văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
106. Kundera M. (2001), Tiểu luận (Nghê ̣ thuật tiểu thuyết, Những di chú c bi ̣ phản bội), (Nguyên Ngo ̣c di ̣ch), Nxb Văn hóa thông tin - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
107. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (1995), Phong cách học tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
108. Lê Hồng Lâm (2001), "Thôi thúc tôi viết là cái đẹp của cuộc sống", Báo
Sài Gòn giải phóng (17), tr. 6-7.
109. Tôn Phương Lan (1999), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
110. Phong Lê (1999), Chuyê ̣n văn và ngườ i, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 111. Phong Lê (2005), "Trữ lượng Ma Văn Kháng", Báo Văn nghê ̣ (20), tr. 19-21.
112. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
113. Lã Thị Bắc Lí (1997), "Chó Bi đời lưu lạc ", Tạp chí Tác phẩm mới (6),
tr. 34-38.
161
114. Vi Thùy Linh (2001), "Nhà văn Ma Văn Kháng trả lời phỏng vấn: "Giá
mà dựng được phim nhiều tập về miền núi"", Báo Thể thao và văn hóa,
(47), tr. 35.
115. Hà Linh (2011), "Sống còn để mang thương tích ", An ninh cuối tháng
(120), tr. 10.
116. Hà Linh (2011), "Những ánh sao đêm trong cuộc chiến thầm lặng", Văn
nghệ công an (260), tr. 12.
117. Liviu Petrescu (2013), Thi phá p chủ nghĩa hậu hiện đại , (Lê Nguyên
Cẩn di ̣ch), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
118. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
119. Nguyễn Văn Long (2002), Lịch sử Văn học Việt Nam, Tập 3, Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
120. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 -
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
121. Nguyễn Văn Lưu (1986), "Bàn thêm về Mùa lá rụng trong vườn ", Văn
nghê ̣ (25), tr. 2.
122. Lê Lựu (2011), Thời xa vắng, Nxb Thời đại, Hà Nội.
123. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (1986), Lý luận văn học, Tập 1,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
124. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (2012), Lý luận văn học, Tập 3,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
125. Lê Khánh Mai (2009), "Vai trò của giọng điệu nghệ thuật trong sáng tạo
văn chương", Tạp chí Nha Trang (8), tr. 86-91.
126. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
127. Nguyễn Đăng Ma ̣nh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách , Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
128. Tôn Thảo Miên (2006), "Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách",
Tạp chí Nghiên cứu văn học (5), tr. 75-86.
162
129. Nguyễn Minh (2010), "Nhà văn hiện thực có phải chuyện đã cũ ?", Tạp
chí Tác phẩm và dư luận (1+2), tr. 24-27.
130. Phan Hoài Nam (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải, Luận văn
Thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
131. Cao Năm (2011), "Những ánh sao đêm trong cuộc chiến thầm lặng",
http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/lyluan/2012/2/56420.
132. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
133. Lê Thành Nghị (1984), "Đọc Vùng biên ải", Báo Văn nghệ, ngày
25/8/1984, tr. 3.
134. Lê Thành Nghị (1994), Văn học - sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
ền núi Ma Văn 135. Phạm Duy Nghĩa (2009), "Phong cách văn xuôi mi
Kháng", Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (175), tr. 38-42.
136. Phạm Duy Nghĩa (2012), "Diện mạo văn xuôi đương đại về dân tộc và
miền núi", Văn nghệ Quân đội cuối tháng (710). tr. 64-68.
137. Phạm Duy Nghĩa (2012), Văn xuôi Viê ̣t Nam hiê ̣n đại về dân tộc và miền
núi, Nxb Văn hóa dân tô ̣c, Hà Nội.
138. Phan Ngọc (2009), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
Nxb Lao động, Hà Nội.
139. Đào Thủy Nguyên - Nguyễn Thị Thu Trang (2008), ''Nét đặc sắc của lời
văn trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng viết về đề tài dân tộc
miền núi sau 1975'', Tạp chí Ngôn ngữ (10), tr. 11-18.
140. Nhiều tác giả (2008), Phê bình và văn học, Kỷ yếu khóa II, Trung Tâm
Bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du - Hội thảo truyện ngắn Ma Văn Kháng,
Hà Nội.
141. Mai Thị Nhung (2008), "Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ
đổi mới của Ma Văn Kháng", Tạp chí Nghiên cứu văn học (10), tr. 89-97.
142. Bảo Ninh (2011), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, Hà Nội.
163
143. Đỗ Hải Ninh (2002), "Nhân vâ ̣t trí thứ c trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng",
Sông Hương (10), tr. 290-299.
144. Đỗ Hải Ninh (2009), "Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết", Văn
nghệ (30), tr. 11.
145. Đỗ Hải Ninh (2010), "Tiểu thuyết 2009 trong chuyển đô ̣ng củ a tiểu
thuyết Việt Nam mườ i năm đầu thế kỷ 21", Tạp chí Văn nghê ̣ Quân đội (709), tr. 99-106.
146. Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, Nxb Thăng Long, Hà Nội.
147. Nguyễn Thị Hải Phượng (2010), "Tính mơ hồ bất định trong diễn
ngôn tiểu thuyết Việt Nam đương đại", Tạp chí Văn nghệ Quân đội
(708), tr. 102-107.
148. Pôspêlôv G.N (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Tập I, (Trần Đình
Sử, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
149. Vũ Dương Quỹ (1989), "Phải chăng đời là một vại dưa muối hỏng", Báo
Giáo viên nhân dân (2+3), tr. 10.
150. Hoàng Sơn (1985), "Trò chuyện với tác giả Mùa lá rụng trong vườn ",
Báo Tiền Phong (46), tr 4.7.
151. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực, đời sống và cá tính sáng
tạo, Nxb Văn học, Hà Nội.
152. Trần Đăng Suyền (2002), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
153. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 154. Trần Tế (2002), "Mô ̣t vài cảm nhâ ̣n sau khi đo ̣c Gặp gỡ ở La Pan Tẩn
của nhà văn Ma Văn Kháng", Tạp chí Sách (1), tr. 40-44.
155. Đỗ Ngọc Thạch (1985), "Đọc Vùng biên ải của Ma Văn Kháng", Tạp chí
Văn học (2), tr. 130-140.
156. Đỗ Ngọc Thạch (1993), "Trò chuyện với nhà văn Ma Văn Kháng", Báo
Văn hóa (9), tr. 6.
157. Hồ Anh Thái (1985), "Truyền t hống tốt đe ̣p củ a gia đình trong xã hô ̣i
hiê ̣n nay", Báo Độc lập (10), tr. 5.
164
158. Hồ Anh Thái (2003), Ma Văn Kháng "Ngược dòng nước lũ", Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
159. Hồ Anh Thái (2003), Họ trở thành nhân vật của tôi, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
160. Đỗ Phương Thảo (2008), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác Ma Văn
Kháng Nxb Văn học, Hà Nội.
161. Đoàn Cầm Thi (2008), "Tương lai tự truyện Việt Nam còn ở phía trước",
Báo Văn nghệ (42+43), tr.6.
162. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), "Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng", Báo
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (45), tr. 6.
163. Nguyễn Ngo ̣c Thiê ̣n (1999), "Về tiểu thuyết Ngược dò ng nướ c lũ " của
nhà văn Ma Văn Kháng", Tạp chí Non nướ c (24+25), tr. 82-85
164. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
165. Nguyễn Ngọc Thiện (2003), "Tiểu thuyết hướng nội trong văn xuôi hiện
đại", Tạp chí Văn học (6), tr. 28-34.
166. Nguyễn Ngọc Thiện (2005), Phong cách và đời văn, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
167. Nguyễn Ngọc Thiện (2009), "Ma Văn Kháng và cuốn hồi ký - tự truyện
mới", Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (178), tr. 20-23.
168. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lý luận phê bình đời sống văn chương, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
169. Nguyễn Ngo ̣c Thiê ̣n (2011), "Bóng đêm và nghệ thuật tự sự tổng hợp
", http://vannghequandoi.com.vn/802/news-
mớ i củ a Ma Văn Kháng detail/388431/ diem-sach/-bong-dem-va-nghe-thuat-tu-su-tong-hop-moi-
cua-ma-van-khang.html
170. Đỗ Lai Thúy (2005), "Phong cách học và phê bình văn học", Tạp chí
Văn học nước ngoài (1), tr. 124-134.
171. Lộc Phương Thủy (2004), "Andre Gide nhà viết văn tự thuật", Tạp chí
Nghiên cứu văn học (10), tr. 24-36.
165
172. Hoàng Tiến (1980), "Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe", Tạp chí Văn học
(1), tr. 139-145.
173. Nguyễn Văn Toại (1981), "Về một vài biểu hiện đặc điểm dân tộc qua
một số tiểu thuyết miền núi", Tạp chí Văn học (4), tr. 97-103.
174. Nguyễn Văn Toại (1983), " Đọc các sáng tác miền núi của Ma Văn
Kháng - Nghĩ về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn", Tạp chí
Văn học (5), tr. 129-140.
175. Lê Ngọc Trà (2007), "Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới", Tạp
chí Nghiên cứu văn học (1), tr. 35-51.
176. Đào Thanh Tùng (1990), "Đám cưới không có giấy giá thú - Một cách
nhìn nhận về người thầy", Báo Giáo viên nhân dân (16), tr. 7.
177. Xuân Tùng (1999), "Nhà văn Ma Văn Kháng trả lời phỏng vấn: Nhà văn
cần có cái tâm", Báo Giáo dục và thời đại (17), tr. 7.
178. Nghiêm Đa Văn (1979), "Chiều sâu một vùng đất biên giới", Báo Tiền
phong (2687), tr. 11.
179. Nguyễn Thái Vâ ̣n (1982), "Đo ̣c "Mưa mù a hạ " của Ma Văn Kháng ",
Báo Lao động (37), tr. 10.
180. Lê Kim Vinh (1988), "Hỏi chuyện Ma Văn Kháng", Tạp chí Văn học
(6), tr. 111-119.
181. Ngôn Vĩnh (1996) Phía bên kia cổng trời, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
182. Phượng Vũ (1982) Hoa hậu xứ Mường, Nxb Văn học, Hà Nội.
166