intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn học: Thơ tượng trưng ở Việt Nam: Trường hợp Bích Khê

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:168

68
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của Luận án nhằm phân tích, đối chiếu, so sánh thơ tượng trưng Bích Khê với thơ truyền thống phương Đông, thơ tượng trưng Pháp, thơ lãng mạn, Trường thơ Loạn nhằm tìm ra những đóng góp của thơ tượng trưng Bích Khê trên các phương diện như: cảm quan mới về nghệ thuật, phương thức biểu hiện nghệ thuật đặc sắc. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Thơ tượng trưng ở Việt Nam: Trường hợp Bích Khê

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN THƠ TƢỢNG TRƢNG Ở VIỆT NAM: TRƢỜNG HỢP BÍCH KHÊ LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội, 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN THƠ TƢỢNG TRƢNG Ở VIỆT NAM: TRƢỜNG HỢP BÍCH KHÊ Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 9.22.01.21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ 2.TS. MAI BÁ ẤN Hà Nội, 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lưu Khánh Thơ và TS. Mai Bá Ấn. Các số liệu và trích dẫn trong luận án đảm bảo độ tin cậy, chính xác. Luận án không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN ÁN NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN
  4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 5 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU................................. 5 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về thơ tƣợng trƣng ở Việt Nam .......... 5 1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945..................................................................... 5 1.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1986 .................................................. 7 1.1.3. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay ............................................................ 9 1.2. Tình hình nghiên cứu thơ Bích Khê và thơ tƣợng trƣng Bích Khê ...... 15 1.2.1. Trước năm 1945 .................................................................................. 15 1.2.2. Từ 1945 đến 1986 ............................................................................... 17 1.2.3. Từ 1986 đến nay.................................................................................. 20 Tiểu kết chƣơng 1 .............................................................................................. 29 Chƣơng 2: CHỦ NGHĨA TƢỢNG TRƢNG VỚI THƠ MỚI ...................... 31 2.1. Khái lƣợc về chủ nghĩa tƣợng trƣng và thơ tƣợng trƣng ...................... 31 2.1.1. Chủ nghĩa tượng trưng ........................................................................ 31 2.1.2. Thơ tượng trưng .................................................................................. 34 2. 2. Ảnh hƣởng của thơ tƣợng trƣng Pháp đến Thơ mới Việt Nam ................ 39 2.2.1. Nguyên nhân ra đời của thơ tượng trưng ở Việt Nam ........................ 40 2.2.2. Thơ mới từ lãng mạn đến tượng trưng ................................................ 45 2.2.3. Bích Khê - Trường hợp điển hình của thơ tượng trưng ở Việt Nam .. 55 Tiểu kết chƣơng 2 .............................................................................................. 67 Chƣơng 3: THƠ TƢỢNG TRƢNG BÍCH KHÊ: NHỮNG CẢM QUAN NGHỆ THUẬT MỚI ........................................................................................ 69 3.1. Cảm quan về thế giới ................................................................................. 70 3.1.1. Một thế giới thanh khiết, huyền diệu .................................................. 71 3.1.2. Một thế giới tương quan giữa các đối lập ........................................... 75 3.1.3. Một thế giới đẫm màu sắc tâm linh..................................................... 77 3.2. Quan niệm về cái đẹp ................................................................................. 84 3.2.1. Cái đẹp tột cùng, tuyệt đỉnh ................................................................ 85 3.2.2. Cái đẹp gắn với màu sắc nhục thể....................................................... 89 3.3. Quan niệm về thơ ....................................................................................... 92
  5. 3.3.1. Thơ là sự giao hòa giữa “Thuần túy và tượng trưng” ......................... 92 3.3.2. Thơ là sự tích hợp giữa các loại hình nghệ thuật ................................ 95 3.3.3. Thơ là nỗi đau thương đã trở thành lạc thú sáng tạo .......................... 97 3.4. Quan niệm về nhà thơ .............................................................................. 101 3.4.1. Nhà thơ - Người chưng cất nên những điều đẹp đẽ .......................... 101 3.4.2. Nhà thơ - Người luôn khát vọng “Duy tân”...................................... 104 Chƣơng 4: THƠ TƢỢNG TRƢNG BÍCH KHÊ: NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN ............................................................... 108 4.1. Tính tƣơng giao, tƣơng hợp .................................................................... 109 4.1.1. Tương giao, tương hợp giữa các giác quan....................................... 110 4.1.2. Tương giao, tương hợp giữa vạn vật, vũ trụ và con người ............... 112 4.1.3. Tương giao, tương hợp giữa âm thanh, màu sắc, hương thơm và ánh sáng ....................................................................................................... 115 4.2. Tạo dựng những biểu tƣợng độc đáo ..................................................... 119 4.2.1. Biểu tượng về màu sắc ...................................................................... 120 4.2.2. Biểu tượng về thân thể ...................................................................... 123 4.2.3. Biểu tượng về cõi chết ...................................................................... 126 4.3. Nhạc tính nhƣ là linh hồn của thi ca ...................................................... 130 4.3.1. Nhạc được xem là đối tượng khám phá của thi ca ............................ 132 4.3.2. Nhạc được xem là cơ chế tạo nghĩa .................................................. 134 4.3.3. Nhạc được xem là nội dung quan trọng của thi ca............................ 137 4.4. Ẩn dụ, cấu trúc câu và ngôn ngữ - Những phƣơng thức nổi trội của thơ tƣợng trƣng Bích Khê .............................................................................. 139 4.4.1. Ẩn dụ - phương thức chủ đạo của thơ tượng trưng........................... 139 4.4.2. Cấu trúc câu thơ ngẫu nhiên, phi tuyến tính ..................................... 141 4.4.3. Phương ngữ - từ ngôn ngữ bình dân đến sắc thái tượng trưng ......... 143 Tiểu kết chƣơng 4 ............................................................................................ 146 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 147 DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ........................................................ 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 152
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Chủ nghĩa tượng trưng là một khuynh hướng nghệ thuật ra đời ở Pháp vào thập niên 60-70 của thế kỷ XIX. Khi vừa xuất hiện, nó trở đã thành một hiện tượng văn hóa tiêu biểu ở châu Âu, ảnh hưởng tới tất cả các loại hình nghệ thuật khác như: âm nhạc, hội họa, điện ảnh, sân khấu, điêu khắc, kiến trúc, đặc biệt là thơ ca. Hòa vào dòng chảy của chủ nghĩa tượng trưng, thơ tượng trưng ra đời gắn với những tên tuổi như: Charles Baudelaire, Mallarmé, Paul Varlaire, Arthur Rimbaud,... Thơ tượng trưng trở thành một trào lưu được ưa chuộng ở Pháp, sau đó lấn dần sang khu vực phương Đông, trong đó có Việt Nam. 1.2. Thơ tượng trưng là một trường phái thơ quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa văn học thế giới, có sức sống bền bỉ trong đời sống văn học trên toàn thế giới. Nó ảnh hưởng rất lớn đến các nhà Thơ mới Việt Nam, như: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Bích Khê... Cùng với thơ lãng mạn, thơ tượng trưng đã tác động mạnh mẽ, góp phần tạo nên một thời đại trong thi ca. 1.3. Bích Khê là một nhà thơ xuất hiện trong Phong trào Thơ mới, nhưng ở giai đoạn cuối - giai đoạn thoái trào của thơ lãng mạn và mở hướng sang tượng trưng, siêu thực. Bích Khê sáng tác không nhiều, nhưng chính cách Duy tân trong sáng tạo dựa trên những nguyên tắc cơ bản của thơ tượng trưng Pháp (tính nhạc, tương giao, biểu tượng, ngôn ngữ) đã đưa Bích Khê trở thành một nhà thơ tượng trưng nổi bật ở Việt Nam giai đoạn 1932-1945 . 1.4. Tuy vậy, quá trình tiếp nhận và nghiên cứu thơ tượng trưng chưa thật sự ngang tầm với đóng góp của nó so với thơ lãng mạn, đặc biệt là trường hợp Bích Khê. Số lượng bài viết, công trình nghiên cứu về thơ tượng trưng ở Việt Nam nói chung và thơ tượng trưng Bích Khê nói riêng khá phong phú, đặc biệt là từ năm 1986 đến nay. Nhưng, hầu hết các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh riêng lẻ, thậm chí có những ý kiến trái chiều, chủ quan, thiên về cảm tính, chưa thâm nhập nghiên cứu vào mối quan hệ, sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với Thơ mới cũng như đối với Bích Khê. Đặc biệt, tìm ra những cách tân, duy tân, cảm quan mới về nghệ thuật, phương thức biểu hiện để minh chứng Bích Khê là nhà thơ tượng trưng tiêu 1
  7. biểu ở Việt Nam vẫn là khoảng trống. Với những lý do trên, chúng tôi chọn Thơ tượng trưng ở Việt Nam: Trường hợp Bích Khê làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu - Luận án nhằm khái quát sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đến các nhà thơ Mới Việt Nam và trường hợp Bích Khê; - Luận án phân tích, đối chiếu, so sánh thơ tượng trưng Bích Khê với thơ truyền thống phương Đông, thơ tượng trưng Pháp, thơ lãng mạn, Trường thơ Loạn nhằm tìm ra những đóng góp của thơ tượng trưng Bích Khê trên các phương diện như: cảm quan mới về nghệ thuật, phương thức biểu hiện nghệ thuật đặc sắc. Từ đó, tìm ra những yếu tố tượng trưng đặc sắc trong thơ tượng trưng Bích Khê để đi đến khẳng định: Bích Khê là nhà thơ tiêu biểu của thơ tượng trưng ở Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập một số cơ sở lý thuyết bằng cách hệ thống hóa và nêu lên những khái niệm cơ bản như: chủ nghĩa tượng trưng; thơ tượng trưng; biểu tượng;... - Nêu lên được những ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến phong trào Thơ mới ở Việt Nam và trường hợp Bích Khê để thấy được sự đổi mới, cách tân của Thơ mới và thơ Bích Khê theo khuynh hướng tượng trưng; - Chỉ ra được những đóng góp của Bích Khê trong việc sử dụng yếu tố tượng trưng vào thơ. Bên cạnh đó chỉ ra được Bích Khê đã vận dụng hợp lý các nguyên tắc cơ bản của thơ tượng trưng Pháp bên cạnh vận dụng yếu tố Đường thi và thơ truyền thống Việt Nam một cách nhuần nhuyễn để tạo nên những tác phẩm thơ tượng trưng tiêu biểu ở Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Thực hiện luận án này, chúng tôi xác định đối tượng chính là thơ tượng trưng ở Việt Nam giai đoạn 1932-1945 được nghiên cứu qua trường hợp Bích Khê. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi nghiên cứu, luận án khu biệt hai phạm vi cơ bản: Phạm vi thời gian: Luận án trọng tâm khai thác thơ tượng trưng ở Việt Nam giai đoạn 1932-1945 (Vì Bích Khê là nhà thơ xuất hiện vào giai đoạn này); Phạm vi tư liệu: Tư liêu về lý thuyết, tư liệu về cuộc đời - sự nghiệp Bích Khê, đặc biệt là 2 tập thơ Tinh huyết (1939), Tinh hoa (1997) của Bích Khê cùng một số tác phẩm tiêu biểu của thơ truyền 2
  8. thống và Thơ mới. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Nhằm đặt thơ tương trưng Pháp, thơ tượng trưng Việt Nam, thơ tượng trưng Bích Khê trong sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội và lịch sử thi ca; - Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Study): Sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp nhằm nêu bật đối tượng điển hình mà luận án đang đề cập, cụ thể là trường hợp Bích Khê; - Phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả: Nghiên cứu tiểu sử, cuộc đời của tác giả nhằm tìm ra những nét riêng góp phần tạo nên phong cách thơ tượng trưng Bích Khê; - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học được vận dụng nhằm nhận diện thơ tượng trưng Bích Khê qua ngôn ngữ, biểu tượng, tính nhạc, thuyết tương giao....; - Phương pháp thống kê: Dùng để khảo sát, thống kê nguồn tư liệu theo những vấn đề chi tiết: tần số xuất hiện, phương thức sử dụng,…; - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng phương pháp này chúng tôi nhằm so sánh thơ tượng trưng Việt Nam với thơ tượng trưng Pháp; thơ Bích Khê với một số nhà Thơ mới, như: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Quách Tấn;… nhằm nêu bật những cách tân của thơ tượng trưng Việt Nam và thơ tượng trưng Bích Khê; - Phương pháp phân tích: Phương pháp này được vận dụng một cách thường xuyên trong quá trình nghiên cứu của luận án, cụ thể luôn đưa ra dẫn chứng thơ nhằm phân tích, lập luận trên mọi chiều cạnh dựa trên các luận cứ, luận điểm mà tác giả luận án đưa ra; Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng sự các phương pháp nghiên cứu như: khảo sát văn bản; phân loại, tổng hợp, phê bình văn học,… để khám phá đặc trưng của thơ tượng trưng thế giới; thơ tượng trưng ở Việt Nam; thơ tượng trưng Bích Khê. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án xác lập các khái niệm, sự ra đời của chủ nghĩa tượng trưng và thơ tượng trưng; phân biệt thơ tượng trưng và thơ mang yếu tố tượng trưng; - Luận án chỉ ra sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng phương Tây, đặc biệt là thơ tượng trưng Pháp đến Thơ mới Việt Nam và trường hợp Bích Khê; - Luận án tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác của Bích Khê; 3
  9. - Luận án phân tích, đối chiếu, so sánh sự chuyển động trong cảm quan nghệ thuật của thơ tượng trưng Bích Khê thông qua cảm quan về thế giới, quan niệm về cái đẹp, quan niệm về thơ và nhà thơ; - Luận án tìm ra những nét đặc trưng trong phương thức biểu hiện nghệ thuật của thơ tượng trưng Bích Khê: tính tương giao, tương hợp; nhạc tính; phương thức ẩn dụ, cấu trúc câu thơ và ngôn ngữ; làm sáng rõ đặc điểm thơ tượng trưng Bích Khê trong việc vận dụng, sự kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc thơ tượng trưng Pháp với các yếu tố Đường thi và thơ Việt Nam truyền thống; - Qua phân tích, đối sánh, minh chứng, luận án khẳng định: Bích Khê là trường hợp điển hình của thơ tượng trưng ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tổng thể và hệ thống về sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đến Thơ mới Việt Nam và trường hợp Bích Khê; - Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy về chủ nghĩa tượng trưng, thơ tượng trưng, Thơ mới và thơ tượng trưng Bích Khê. 7. Cơ cấu của Luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án được chia thành 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Chủ nghĩa tượng trưng với Thơ mới Chương 3: Thơ tượng trưng Bích Khê: Những cảm quan nghệ thuật mới Chương 4: Thơ tượng trưng Bích Khê: Những đặc sắc về phương thức biểu hiện 4
  10. PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về thơ tƣợng trƣng ở Việt Nam Ở nước ta, việc nghiên cứu thơ tượng trưng Pháp và thơ tượng trưng ở Việt Nam diễn ra khá sớm. Năm 1917, trên Tạp chí Nam Phong, số 6, Phạm Quỳnh đã có bài khảo luận khá công phu về thơ Baudelaire. Kể từ đó tới nay, vấn đề nghiên cứu về thơ tượng trưng Pháp và thơ tượng trưng ở Việt Nam vẫn nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Có thể chia vấn đề nghiên cứu này thành 3 giai đoạn như sau: 1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 Có thể thấy, Phạm Quỳnh là người đầu tiên đưa thơ tượng trưng và những tác phẩm của Baudelaire đến gần với bạn đọc Việt Nam. Mặc dù, trong giới thiệu đó, Phạm Quỳnh không gọi Baudelaire là nhà thơ tượng trưng, nhưng ông đã nhận ra “Baudelaire là một nhà thơ có tài nhất ở nước Pháp vào thế kỉ XIX” [146, tr. 381]. Với con mắt của một trí thức Tây học, ông không chỉ ngưỡng mộ con người, văn hóa, văn học Pháp mà còn nhìn thấy ở thơ Baudelaire sự mới mẻ, độc đáo, nhạy bén với thời cuộc. Với sự “tiếp cận” bước đầu này, Phạm Quỳnh mong muốn và hy vọng các nhà thơ Việt Nam học tập “để thay vào mấy cái sáo cũ xưa nay”. Là người dịch thơ Baudelaire ra tiếng Việt, đồng thời cũng là người đầu tiên tìm hiểu yếu tố tượng trưng trong thơ Việt Nam nên công trình Luận giải văn học và triết học học mang một ý nghĩa lịch sử, đánh dấu việc ý thức về sự xuất hiện của trường phái tượng trưng trong thơ ca Việt Nam để các nhà nghiên cứu chú ý. Tuy nhiên, bài khảo luận của Phạm Quỳnh mới chỉ dừng lại ở sự giới thiệu mà chưa hề có ý thức bàn về việc các nhà thơ Việt Nam tiếp nhận thơ Baudelaire như thế nào. Năm 1941, Nhà xuất bản Những mảnh gương Tân Việt - Sài Gòn cho ra mắt cuốn sách đề cập tới sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với thơ Việt Nam mang tên Hàn Mặc Tử - Thân thế và thi văn của Trần Thanh Mại. Đây được xem là cuốn sách đầu tiên đề cập tới sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đến các nhà Thơ mới Việt Nam. Trong sách, tác giả nêu: “Hàn Mặc Tử cùng với các môn đệ của chàng chủ trương trường thơ tượng trưng, theo lối Mallarmé và Valéry bên Pháp” [112, tr.7]. Những nhận xét, đánh giá của Trần Thanh Mại về thơ tượng trưng lúc bấy giờ không nhiều, có phần dè dặt, cực đoan và không mấy thiện cảm với các nhà thơ tượng trưng Pháp, thậm chí còn tỏ ra coi thường, khinh 5
  11. rẻ,... Điều này cho thấy, Trần Thanh Mại chưa thấu hiểu mục đích sáng tạo đầy tính nổi loạn của các nhà thơ tượng trưng. Song, đây cũng là nghiên cứu đáng lưu tâm trong hành trình tìm hiểu, đánh giá và nghiên cứu về thơ tượng trưng. Khác với cảm nhận, đánh giá về thơ tượng trưng của Trần Thanh Mại, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã nhận xét: “Mỗi nhà thơ Việt Nam đều mang trên đầu năm, bảy nhà thơ Pháp... Thơ tượng trưng được người thích hơn nhất, đặc biệt là Baudelaire, người đã khơi nguồn thơ ấy...”; “Xuân Diệu học được ở C. Baudelaire “một nghệ thuật tinh vi”, Huy Cận chịu “ảnh hưởng Verlaine”, Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên “Chịu rất nặng ảnh hưởng của Baudelaire”, còn Bích Khê và Nguyễn Xuân Sanh “muốn đi đến chỗ người ta thường cho là cao nhất trong thơ tượng trưng: Mallarmé, Valéry” [16, tr.33]. Hoài Thanh cho rằng: “Ảnh hưởng của thơ Pháp trong thơ Xuân Diệu là cực điểm” [16, tr.327]. Có thể thấy, bằng lối cảm nhận tinh tế, toàn diện, tác giả của Thi nhân Việt Nam đã góp phần quan trọng trong cách gợi mở để các nhà Thơ mới Việt Nam tiếp cận với thơ tượng trưng ngày càng rõ. Cuốn sách được xem như một định hướng, giúp cho các nhà nghiên cứu có thể tiếp bước để tìm hiểu sâu về yếu tố tượng trưng trong thơ. Tuy vậy, Thi nhân Việt Nam cũng chỉ mới dừng lại ở sự ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn nói chung chứ chưa bàn sâu về chủ nghĩa tượng trưng ở Thơ mới Việt Nam. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1942 -1945), tập 2 cũng có lời bàn về vấn đề này, ông đã chỉ ra một số nhà Thơ mới tiếp nhận thơ tượng trưng như: Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương... Khi đề cập đến mối quan hệ giữa các nhà thơ Việt Nam và thơ tượng trưng Pháp, tác giả thấy có sự gần gũi giữa Xuân Diệu và Rimbaud,Verlaire; một số bài của Thế Lữ “có cái ý phảng phất như của Baudelaire” [136, tr. 125]; còn, “Tiếng thu của Lưu Trọng Lư thật không khác gì những tiếng đàn thu não nùng của Verlaine trong Bài hát thu về [136, tr.103]. Tuy nhiên, trong công trình này, tác giả không chỉ rõ sự ảnh hưởng, cách tiếp nhận thơ tượng trưng Pháp của các nhà thơ Việt Nam thông qua quan niệm tương ứng các giác quan của Baudelaire. Qua nguồn tài liệu thu thập được, có thể thấy, việc nghiên cứu thơ tượng trưng ở Việt Nam đã diễn ra từ những năm 40 của thế kỷ XX, song bấy giờ đang trong giai đoạn phôi thai, hình thành, các học giả chủ yếu “điểm mặt”, “ghi tên” những thi sĩ, thi phẩm có dấu ấn tượng trưng mà ít đề cập đến thực tiễn tiếp nhận của dòng thơ này. Đây có thể coi là giai đoạn có tính chất tiên phong trong việc nghiên cứu về thơ tượng trưng ở Việt Nam. 6
  12. Trong các công trình kể trên thì Thi nhân Việt Nam có nhiều đóng góp hơn cả. Một số nhận định của Hoài Thanh - Hoài Chân về nỗi “ám ảnh” của thơ C. Baudelaire, P. Verlaine, S. Mallarmé, P. Valéry tới các nhà thơ ở Việt Nam thực sự có giá trị, đồng thời làm tiền đề cho các nghiên cứu sau này về thơ tượng trưng ở việt Nam. 1.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1986 Giai đoạn 1954-1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền; vậy nên, việc nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng diễn ra không mấy suôn sẻ, thậm chí còn phức tạp vì có sự phân hóa rõ rệt về thể chế chính trị, văn hóa. Ở miền Nam, thơ tượng trưng được đánh giá khá cao và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu; họ không chỉ nghiên cứu sâu yếu tố tượng trưng trong Thơ mới mà còn mở rộng ra cả thơ ca đương thời lúc đó. Ngược lại, ở miền Bắc, người ta rất ít đề cập đến yếu tố tượng trưng trong Thơ mới; nếu có, chủ yếu phê phán hơn là đồng tình, ngợi khen. Năm 1956, Nguyễn Hiến Lê trong bài Đuổi bắt ảo ảnh cũng gây được sự chú ý của giới nghiên cứu và độc giả. Khi đề cập đến vấn đề tượng trưng, Nguyễn Hiến Lê cũng có những quan niệm và cho rằng, nhạc điệu trong thơ tượng trưng gắn với xúc cảm cá nhân và có khả năng khơi gợi: “Muốn gọi là thơ tượng trưng thì nhạc điệu của thơ phải thay đổi tùy theo cảm xúc của mình, câu thơ dài ngắn tùy ý, sự bố cục vô dụng, ý nghĩa của mỗi tiếng cũng không quan trọng, quan trọng là thanh âm (nhạc trước hết): nó gợi cho ta hình ảnh, ý tưởng, cảm xúc” [100, tr.413]. Tuy nhiên, ông nhận xét khá chủ quan, “mới thấy có Xuân Diệu là áp dụng kỹ thuật tượng trưng (tính nhạc) trong mỗi một bài Nguyệt cầm” [100, tr.417]. Dẫu vậy, những nhận xét mang tính phát hiện chủ quan của Nguyễn Hiến Lê cũng đáng quan tâm và xem là một cứ liệu được “điểm danh” trong các công trình nghiên cứu về thơ tượng trưng ở Việt Nam. Năm 1963, Minh Huy với Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam bàn về thơ tượng trưng trên một bình diện sâu rộng hơn, mới mẻ hơn. Đối tượng mà ông nghiên cứu không chỉ là các nhà thơ tiền chiến mà cả hậu chiến. Với các nhà thơ tiền chiến, ông cho rằng, “Phạm Hầu đã tỏ rõ khuynh hướng tượng trưng” [89, tr.129]; “Đoàn Phú Tứ mang nhiều dấu vết của khuynh hướng tượng trưng” [89, tr.130]; Xuân Diệu, Huy Cận “thoáng không khí tượng trưng của Verlaine và Rimbaud” [89, tr.130]; Lưu Trọng Lư có “một bài thơ tượng trưng rất nổi tiếng - Tiếng Thu” [89, tr.134]; “Chế Lan Viên không hẳn là tượng trưng mà là một lối thơ lãng mạn có khi tầm 7
  13. thường, vẩn đục” [ 89, tr.132]; còn Hàn Mặc Tử và Bích Khê được ông ưu ái gọi là “hai nhà lý thuyết của khuynh hướng thơ tượng trưng” [89, tr.122]. Với Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam, Minh Huy đã phân tích, lý giải về các cấp độ tượng trưng của các nhà Thơ mới rất tỉ mỉ, thấu đáo trong việc chỉ ra các mức độ trong việc tiếp nhận yếu tố tượng trưng của các nhà Thơ mới. Bên cạnh đó, ông đặc biệt lưu ý đến hai trường hợp Hàn Mặc Tử và Bích Khê: “Với Hàn Mặc Tử và Bích Khê, thi ca tượng trưng Việt Nam đã đến một cao độ thật tuyệt vời, đến một nơi thật cao siêu và khả kính, mà cho đến ngày nay chưa một nhà thơ tượng trưng tiền và hậu thế nào có thể vượt đến được” [89, tr.127]. Những nhận định ấy tuy có chỗ cần bàn thêm, nhất là đối với Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, song nhìn chung, công trình của Minh Huy có những đóng góp tích cực về khoa học và sâu rộng về nội dung. Chuyên luận Phong trào Thơ mới 1932-1945 của Phan Cự Đệ đề cập sự ảnh hưởng của thơ Pháp, đặc biệt là sự ảnh hưởng của Baudelaire, Rimbeau đến các nhà Thơ mới Việt Nam. Ông khẳng định, từ năm 1936 trở đi, Thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng nhiều hơn thơ lãng mạn và thừa nhận những tác động tích cực của thơ Pháp đối với các nhà thơ Việt Nam: “Ảnh hưởng của Baudelaire sâu sắc phải kể đến Bích Khê, Hàn Mặc Tử. Còn nhóm thi sĩ trong Xuân thu nhã tập thì đã đi đến độ chót của thơ tượng trưng Verlaire, Mallarme” [35, tr.574]; “Bích Khê và Nguyễn Xuân Sanh muốn đi đến chỗ người ta coi là cao nhất trong thơ tượng trưng Mallarme, Verlaire...còn Xuân Diệu, Huy Cận chỉ dừng ở mức độ có tính cách của thơ Pháp với tượng trưng” [35,tr. 106]. Hơn nữa, với công trình này, tác giả cũng đã đề cập đến mối quan hệ giữa Thơ mới và thơ tượng trưng Pháp, đặc biệt là với Baudelaire: “Dấu vết của Baudelaire còn có thể tìm thấy trong thơ Huy Cận, Chế Lan Viên, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương...” [35, tr. 243]. Với Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Phan Canh đã có những kiến giải mới về khuynh hướng tượng trưng. Ở đây, tác giả mới chỉ tập trung bàn luận về mối quan hệ giữa “thực thể” và “hư thể”, giữa “ngoại vật” và “tâm tư”, giữa “khách quan” và “chủ quan” để làm nên thế giới tượng trưng chứ không đề cập sự ảnh hưởng của thi phái tượng trưng Pháp đối với các nhà Thơ mới Việt Nam. Theo họ: “Tượng trưng bắt nguồn từ thực thể đi vào hư thể ..., là thế giới phản ánh giữa ngoại vật và tâm tư, là hình bóng cấu tạo giữa hai địa hạt chủ quan và khách quan .... Các nghệ sĩ phái tượng trưng đã đi tìm cái đẹp trong thế giới ấy” [104, tr.449]. Những phát hiện mới trong công trình này đã góp thêm một tiếng nói khác, một cách nhìn 8
  14. khác về thơ tượng trưng, đặc biệt là thơ Bích Khê: “con người của thế giới tượng trưng sống bằng rung chuyển của tâm linh qua sự va chạm tuyệt đối của cảm giác với sự vật” [104, tr.451]. Đánh giá mối quan hệ giữa thơ tượng trưng Pháp và thơ hiện đại Việt Nam, ngoài các tác giả kể trên còn có Tạ Tỵ, Phan Lạc Phúc, Phạm Đán Bình, Lê Huy Oanh, Võ Long Tê, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Kim Chương, Tam Ích... Tuy nhiên, những bài viết này chủ yếu hướng tới hai gương mặt tượng trưng tiêu biểu là Đinh Hùng và Hàn Mặc Tử mà chưa có cái nhìn bao quát, tổng thể về các nhà Thơ mới Việt Nam qua yếu tố tượng trưng. Trong số báo đặc biệt tưởng niệm thi sĩ Đinh Hùng có tên Thương nhớ Đinh Hùng (Tạp chí Văn, số 91, ra ngày 01/10/1967). Tại đây, nhiều người đã khẳng định, tác giả Mê hồn ca chịu ảnh hưởng rõ nét của thơ tượng trưng. Tạ Tỵ viết: “Thơ Đinh Hùng chịu ảnh hưởng của dòng thơ tượng trưng phương Tây. Lúc sinh thời Đinh Hùng không phủ nhận Đinh Hùng say mê Baudelaire, Mallarmé, Rimbaud ....” [190, tr.20]. Còn Phan Lạc Phúc cho rằng: “Tuy không đặt ý niệm trường phái rõ ràng như ở Pháp nhưng ta tìm thấy khuynh hướng tượng trưng rõ rệt nơi các nhà thơ Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Huy Cận và gần gũi chúng ta hơn là thi sĩ Đinh Hùng” [139, tr.87]. Nhìn chung, giai đoạn này, các nghiên cứu về thơ tượng trưng ở Việt Nam có bước phát triển đáng kể so với giai đoạn trước 1945, nhưng vẫn dừng lại ở mức khiêm tốn. Một điều thấy rõ, các nhà nghiên cứu lúc bấy giờ không chỉ đi tìm sự ảnh hưởng của thi phái tượng trưng đối với các nhà Thơ mới mà còn mở rộng tới các nhà thơ thời hậu chiến ở miền Nam. Nhờ sớm tiếp xúc các thành tựu của nền lý luận văn học hiện đại phương Tây như: Văn học so sánh, phân tâm học, các kiểu phê bình mới... nên kết quả nghiên cứu của họ có những phát hiện mới mẻ. Chẳng hạn, chuyên luận Khảo cứu các khuynh hướng thi ca Việt Nam của Minh Huy, Nguyễn Tấn Long, Phan Canh có những kiến giải về thơ tượng trưng khá thuyết phục; qua đó, thấy rằng, trong nền thơ hiện đại nước nhà đã xuất hiện khuynh hướng tượng trưng. Tuy nhiên, những biện giải, luận giải, nhận định của các nhà nghiên cứu, phê bình giai đoạn này còn mang tính chủ quan, suy diễn và không ít bài viết còn ở mức độ sơ khởi, gián tiếp. 1.1.3. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay Bẵng qua một thời gian dài kể từ năm 1975 đến năm 1986, hầu như không có nghiên cứu mới về thơ tượng trưng xuất hiện ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc. Phải đến sau thời kỳ Đổi Mới - năm 1986,xu hướng nghiên cứu phê bình văn học có những 9
  15. chuyển biến tích cực, vấn đề nghiên cứu thơ tượng trưng mới được quay trở lại và được nhìn nhận, đánh giá một cách đầy đủ, tích cực và thỏa đáng. Sau hơn một thập kỷ, vấn đề nghiên cứu về tượng trưng gần như bị bỏ quên trên đất Bắc, mãi đến năm 1986 Phạm Văn Sĩ đã mạnh dạn quay trở lại nghiên cứu văn học phương Tây với công trình Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, trong đó có bàn đến Baudelaire và chủ nghĩa tượng trưng. Viết về Baudelaire cũng như trường phái tượng trưng Pháp, Phạm Văn Sĩ có những nhận định mang tính phát hiện và khái quát được một số đặc trưng thẩm mỹ, thi pháp học và sự ảnh hưởng của của trường phái này đến các nhà Thơ mới Việt Nam: “Ảnh hưởng của Baudelaire trong thơ Việt Nam là một hiện tượng có tính đột xuất và phức tạp” [151, tr.47]. Nhận định đó tuy không có gì mới mẻ, nhưng đặt trong hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, đây có thể coi là một tín hiệu tích cực cho việc nghiên cứu về thơ tượng trưng sau này. Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trong không khí đổi mới của đất nước, nhất là đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, văn học đã có nhiều cuộc hội thảo được diễn ra. Nhân kỉ niệm 60 năm ra đời của Phong trào Thơ Mới (1932 – 1992), nhiều bài viết trong Hội thảo được Huy Cận và Hà Minh Đức chọn lọc in thành sách với nhan đề Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (1993). Trong sự “nhìn lại” đó, không ít người thừa nhận Thơ mới chịu ảnh hưởng đậm chất thơ tượng trưng Pháp. Trong đó, Hoàng Ngọc Hiến - tác giả bài viết Baudelaire, chủ nghĩa tượng trưng và Thơ mới cho rằng: “Các nhà Thơ mới rất “tâm đắc” quan niệm tương ứng các giác quan của C. Baudelaire. Song, nếu hiểu quan niệm ấy một cách giản đơn là sự tương ứng giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh thì chỉ để lại trong Thơ mới vài ba tổ hợp từ lạ; Sự tương ứng cốt yếu là tương ứng giữa âm thanh và ý nghĩa, từ đây Valéry đưa ra một định nghĩa trứ danh: Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa” [14, tr.137]. Các nhà Thơ mới chủ yếu tiếp nhận đặc điểm này của thơ tượng trưng và “trở thành một nguyên tắc sáng tạo quan trọng” của họ “Không phải ngẫu nhiên Thơ mới đạt tới sự tuyệt tác ở những bài thơ nội dung trực tiếp là nhạc cảm” [14, tr.137]. Cũng trong cuốn sách này, Hoàng Hưng - tác giả bài viết Thơ mới và thơ hôm nay khẳng định: “Đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Xuân Thu nhã tập, Thơ mới đã đi vào quỹ đạo thơ tượng trưng Âu, Mỹ” [14, tr.52]. Các bài viết trong cuốn sách cho thấy, các tác giả đã tiếp cận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau, góp phần làm phong phú thêm những kiến giải về thơ tượng trưng ở Việt Nam. Trong bài Baudelaire, chủ nghĩa tượng trưng 10
  16. của Thơ mới, Hoàng Ngọc Hiến đại ý rằng, mỗi một nhà thơ tượng trưng là những cá tính sáng tạo rất khác nhau, nhưng họ có chung một quan điểm là đều quan tâm đến chất nhạc trong thơ - dấu hiệu tiêu biểu của thơ tượng trưng. Bên cạnh đó, tác giả cuốn sách cũng đề cập đến sự ảnh hưởng sâu rộng của thi pháp thơ tượng trưng Pháp đối với các nhà Thơ mới Việt Nam, nhất là ảnh hưởng quan niệm tương ứng các giác quan của Baudelaire. Bài viết Thơ mới - cuộc nổi loạn ngôn từ của Đỗ Đức Hiểu xuất phát từ việc tìm hiểu cụ thể của Phong trào Thơ mới, tác giả đã đi dến khẳng định sự hiện diện và tác động tích cực của thơ tượng trưng Pháp vào thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt là quan niệm về sự tương ứng các giác quan của Baudelaire: “...là sự kết hợp nhịp nhàng của ngôn từ thơ Đông và Tây, là sự tương hợp âm thanh, màu sắc, hương thơm, con người- vũ trụ của Đường thi với thơ Pháp, trên cơ sở ngôn từ thơ Việt Nam” [79, tr.128]. Viết về mối quan hệ giữa văn học Pháp và văn học Việt Nam còn có Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam, giao lưu, gặp gỡ (1994) của Trần Thị Mai Nhi và Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học hiện đại Việt Nam (1998) của Hoàng Nhân. Cả hai chuyên luận này tuy có cách giải quyết vấn đề khác nhau nhưng chung mục đích đó là cùng khẳng định văn học hiện đại Việt Nam đã tiếp biến văn học Pháp, đặc biệt thơ tượng trưng: “Huy Cận không chỉ thấy sự hòa hợp giữa hương thơm và màu sắc. Xuân Diệu thấy khúc nhạc thơm. Bích Khê thấy điệu nhạc mát như xuân mà ngọt tợ hương [126, tr.110]. Cuốn Phác thảo quan hệ văn hóa Pháp và văn hóa Việt Nam hiện đại của Hoàng Nhân (1998), nghiên cứu sự đóng góp của văn học Pháp với văn học Việt Nam hiện đại, tác giả chỉ ra rằng, văn học Việt Nam 1932 - 1945 đã diễn ra quá trình hiện đại hóa mạnh mẽ và được thể hiện ở hầu hết các thể loại. Theo Hoàng Nhân, khi du nhập thành tựu thơ phương Tây vào Việt Nam, các nhà thơ Việt Nam không chỉ tiếp thu một mà nhiều dòng khác nhau: “...có tính chất tổng hợp như chủ nghĩa tượng trưng, nghệ thuật vị nghệ thuật, chủ nghĩa siêu thực…” [123, tr.52]. Trong sách, nhà thơ Xuân Diệu được coi là trường hợp tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ hiện đại, biết tiếp thu một cách hợp lí những tinh hoa thơ Pháp, để làm tăng khả năng biểu đạt của thơ Việt. Với Mắt thơ của Đỗ Lai Thúy, tác giả đã có những nhận định mang sắc sảo khi soi chiếu vào một số gương mặt tiêu biểu của Phong trào Thơ mới: “...nếu Xuân Diệu, và nhất là Huy Cận, là dòng lãng mạn được cườm vào những yếu tố tượng trưng, còn Đinh Hùng, Bích Khê chủ yếu là tượng trưng, thì Hàn Mặc Tử là sự hòa sắc của cả lãng mạn lẫn tượng trưng, thậm chí siêu thực nữa” [179, tr.215]. Bằng lối phê bình phong cách học 11
  17. và thi pháp học, Đỗ Lai Thúy mang đến một góc nhìn mới mẻ về Phong trào Thơ mới nói chung và sự tiếp nhận thơ tượng trưng Pháp của các nhà Thơ mới nói riêng. Năm 2000, Nguyễn Đăng Mạnh ra mắt cuốn Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, trong đó có dề cập sâu về Phong trào Thơ mới. Theo ông, “Thơ mới phát triển phong phú với nhiều phong cách đa dạng... Nó vận dụng một cách phổ biến kinh nghiệm của thơ tượng trưng của Pháp, đặc biệt là của Baudelaire, Verlaine” [115, tr.44]. Đặc biệt, “nhiều nhà thơ trẻ hiện nay đã có ý thức đưa thơ đến vô thức, tiềm thức, tâm linh, vận dụng những yếu tố tượng trưng siêu thực... tạo cho thơ khả năng biểu hiện những cảm giác mơ hồ thuộc tầng sâu của tâm hồn con người” [55, tr. 400]. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm của khuynh hướng thơ tượng trưng; từ đó, đưa ra lời khuyên về sự tiếp thu mắt tích cực của nó. Đặc biệt, trong Những thế giới nghệ thuật thơ (1995), Trần Đình Sử đã có những kiến giải thú vị về thơ tượng trưng cũng như sự ảnh hưởng của nó đối với Thơ mới: “Thơ tượng trưng là một hiện tượng khác hẳn thơ cổ điển và đặc biệt là thơ lãng mạn, đồng thời có ảnh hưởng sâu rộng tới thơ ca toàn thế giới” [162, tr.60]. Ông còn cho rằng, “Thơ tượng trưng hiện đại Việt Nam chỉ bắt đầu với Xuân Thu nhã tập” [162, tr.80]. Từ việc đánh giá, bàn luận về thơ tượng trưng và sự tiếp nhận của các nhà Thơ mới, ông đưa ra kết luận: “Thơ tượng trưng, nếu gạt bỏ được cái nhìn định kiến, thì vẫn là một tìm tòi sáng tạo mới mẻ trong quỹ đạo nghệ thuật trên hành trình thơ nhân loại” [162, tr.83]. Nhà nghiên cứu Trần Huyền Sâm khẳng định, các nhà Thơ mới, cụ thể là Xuân Diệu chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm tương ứng các giác quan của Baudelaire [49, tr. 151]. Tác giả còn nhấn mạnh, các nhà Thơ mới còn học tập cách tạo nhạc của thi phái tượng trưng Pháp. Vì thế, nhạc trong Thơ mới “được cất lên một cách tự nhiên từ cõi lòng sâu thẳm của nhà thơ. Luật bằng trắc bị đẩy xuống hàng thứ yếu” [149, tr.156]. Khác với những nhà nghiên cứu đi trước, khi đề cập tới thơ tượng trưng, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp tiếp cận yếu tố tượng trưng từ một phương diện khác - giọng điệu. Ông nhận ra: “Giọng điệu Thơ mới có nhiều tiếng vọng: âm hưởng lãng mạn không loại trừ âm hưởng tượng trưng và siêu thực, yếu tố phương Tây không loại trừ ảnh hưởng Đường thi và thơ ca truyền thống” [40, tr.49]. Ông còn cho rằng, “Nếu Thế Lữ là lãng mạn thuần tuý thì Xuân Diệu, Huy Cận đã bắt đầu ngân lên những nốt nhạc tượng trưng, còn Hàn Mặc Tử, Bích Khê... đã bắt đầu bước vào cái rộng rinh vô bờ bến của 12
  18. miền đất siêu thực” [40, tr.48]. Bên cạnh đó, ông cũng tán đồng với quan điểm của một số nhà lý luận, phê bình đi trước khi cho rằng: “Siêu thực hay tượng trưng trong Thơ mới chỉ mới là cấp yếu tố. Căn cốt của nó vẫn là lãng mạn” [40, tr.48]. Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 – 1945, luận án của Nguyễn Hữu Hiếu (2005) đã giải quyết được những vấn đề mà trước đây các nhà nghiên cứu chưa bàn đến hoặc đã bàn đến nhưng chưa sâu. Để xác định những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới, Nguyễn Hữu Hiếu “truy tìm” từ gốc rễ, sự khởi nguồn của chủ nghĩa tượng trưng thông qua “sự mở đầu của xu hướng thẩm mỹ mới trong văn học hiện đại” [75, tr.33]. (Thầy Thành góp ý nên bổ sung đoạn này vì LA này liên quan đến LA của mình). Bằng phương pháp so sánh tương đồng cũng như sự khác biệt, Lê Thị Anh đã mang đến một góc nhìn khác về Thơ mới đặt trong sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng. Trong quá trình khảo cứu sự ảnh hưởng thơ Đường mang những đặc điểm tương đồng với thơ tượng trưng Pháp, tác giả rút ra: “...ta vẫn thấy có sự giao hòa giữa thơ Đường và thơ tượng trưng Pháp trong cả quan niệm nghệ thuật lẫn sáng tác của họ” [8, tr.197]. Loại hình Thơ mới Việt Nam 1932-1945 (2015) của Nguyễn Thanh Tâm thiên về mô tả, lý giải và khẳng định Thơ mới là một loại hình thơ trong tiến trình thơ trữ tình Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại. Xuất phát từ mục đích nêu trên, tác giả đã tập trung mô tả lịch sử nghiên cứu vấn đề loại hình Thơ mới; giới thiệu và vận dụng khung lý thuyết loại hình trong nghiên cứu văn học và thơ ca, đồng thời mô tả và lý giải để minh chứng tư cách loại hình của Thơ mới. Loại hình Thơ mới Việt Nam 1932-1945 được đánh giá là công trình nghiên cứu chuyên sâu trên phương diện là một loại hình thơ, đóng góp vào lịch sử diễn giải, nghiên cứu và định vị Thơ mới Việt Nam nói chung. Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại (2016) - Luận án của Hồ Văn Quốc là công trình nghiên cứu về khuynh hướng tượng trưng ở Việt Nam một cách hệ thống, toàn diện, có ý nghĩa và nền tảng sâu rộng. Tác giả đã kiến giải những vấn đề liên quan đến thơ tượng trưng như: Nguyên nhân ra đời, sự hình thành, phát triển và các đặc trưng thẩm mỹ, thi pháp,... Trên cơ sở đó, tác giả lý giải vì sao thơ tượng trưng có thể “nhập tịch” vào Việt Nam và có sức sống bền bỉ đến vậy? “Mặc dù ở Việt Nam, thơ tượng trưng không tồn tại với tư cách là một trường phái, chủ nghĩa như ở Pháp nhưng không thể phủ nhận, nó đã trở thành một khuynh hướng trong nền thơ hiện đại” [142, tr.149]. Bên cạnh đó, tác giả cũng làm sáng rõ những đặc trưng thi học tượng trưng, quan niệm 13
  19. về nghệ thuật thơ, thế giới và con người, cách sử dụng biểu tượng cũng như ý thức khai thác sức mạnh vi diệu của âm nhạc và ngôn ngữ của các nhà thơ Việt Nam hiện đại theo khuynh hướng tượng trưng. Những kỷ niệm tưởng tượng, tác phẩm và dư luận - Nguyễn Thanh Tâm và Vũ Thị Thu Hà đã tập hợp những bài viết, nhận xét, đánh giá về tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung. Tất cả các bài viết đều nhấn mạnh tư tưởng trong sáng tác của nhà thơ là sự mâu thuẫn, phi lý của thời gian, của trò chơi, là sự ám ảnh của thời gian; là một thế giới ngổn ngang, trống rỗng và xơ xác. Thế giới ấy, thời gian ấy được nhà thơ “giải phẫu” bằng tư duy trái ngược, phi lý, phi logic,... đẫm chất tượng trưng. Chuyên luận Khuynh hướng tượng trưng & siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại (2016) của Trần Khánh Thành (chủ biên) là công trình nghiên cứu khá công phu về quan niệm, cơ sở hình thành, đặc trưng của khuynh hướng của chủ nghĩa tượng trưng và những hiểu hiện của nó trong hành trình thơ Việt Nam hiện đại. Cụ thể, tác giả đã mở ra một hệ quy chiếu tổng quan về chủ nghĩa tượng trưng trong quá trình tiếp nhận quan điểm thẩm mỹ và nguyên tác sáng tạo của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Việt Nam hiện đại. Chuyên luận khẳng định, những thập niên gần đây, cách nhìn nhận các trào lưu hiện đại có phần cởi mở hơn, có lẽ vì thế mà yếu tố tượng trưng xuất hiện dày đặc hơn trong thơ Việt Nam đương đại: “Chính quá trình giao lưu, tiếp biến ấy đã đánh thức tiềm năng sáng tạo của thi nhân, làm nổi rõ bản lĩnh, bản sắc văn hóa, sức sống ngôn ngữ dân tộc và góp phần tạo nên những thi phẩm có giá trị cho thơ ca nước nhà” [117, tr.9]. Trường thơ Loạn trong tiến trình Thơ mới (2018) - luận án của Chu Lê Phương đưa ra cách tiếp cận đối với Trường thơ Loạn (một trong những trường thơ mang đậm màu sắc tượng trưng). Xuất phát từ cơ sở hình thành, quan niệm sáng tác, đặc điểm tư duy, cảm hứng của các nhà “thơ loạn” và thi pháp “thơ loạn”, tác giả đã đặt trường thơ này trong toàn bộ tiến trình vận động phát triển của cả phong trào Thơ mới để thấy được diện mạo, đặc trưng và cách tân của trường thơ này. Bên cạnh đó, tác giả còn hệ thống hóa và khu biệt những đặc điểm về tư tưởng, nghệ thuật của Trường thơ Loạn so với các trường phái thơ khác cùng ra đời từ phong trào Thơ mới. Năm 2019, luận án Những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực trong Thơ mới Việt Nam hiện đại của Vũ Thị Lan Anh đã có những đóng góp trong việc chỉ ra những biểu hiện cho thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực đến thơ Việt 14
  20. Nam hiện đại từ 1932 đến sau 1975. Bên cạnh đó, luận án còn góp phần quan trọng trong việc nhận diện, làm rõ về chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại. Gần đây (2019), luận án Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng trưng của Trần Thị Kim Hạnh đã góp phần chỉ ra yếu tố tượng trưng và nhận diện nó trong Thơ mới trong việc ảnh hưởng, sự tác động của quá trình giao lưu văn hóa thế giới với văn học Việt Nam. Có thể thấy, giai đoạn từ 1986 đến nay, đời sống văn học nước nhà đã trở lại quy luật vận động bình thường của nó. Theo đó, việc đánh giá sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt là phong trào Thơ mới có bước chuyển biến tích cực, mạnh mẽ và gặt hái được những thành tựu đáng kể. Bởi lẽ, giờ đây, các nhà nghiên cứu, phê bình không chỉ được sống trong không khí cởi mở, dân chủ, mà còn có sự hỗ trợ đắc lực của nền lý luận tân tiến trong và ngoài nước. Với cái nhìn đa chiều, các học giả đã gợi mở cho chúng tôi những hướng tiếp cận mới về thơ tượng trưng ở Việt Nam. 1.2. Tình hình nghiên cứu thơ Bích Khê và thơ tƣợng trƣng Bích Khê Việc khảo sát tình hình nghiên cứu thơ Bích Khê nói chung và thơ tượng trưng Bích Khê nói riêng, nhìn một cách tổng thể, chúng tôi chia làm ba giai đoạn: trước năm 1945; từ năm 1945 đến năm 1986; từ năm 1986 đến nay. 1.2.1. Trước năm 1945 Bích Khê từng sáng tác thơ theo thể Hát nói và Đường luật ở giai đoạn đầu, sau đó bước vào Thơ mới nhưng lại “đốt cháy giai đoạn” lãng mạn để sang thơ tượng trưng. Trước năm 1936, thơ Bích Khê được in rải rác trên các báo Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới, ... Các bài thơ theo thể truyền thống được tập hợp lại thành Mấy dòng thơ cũ do Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình xuất bản. Năm 1939, Bích Khê cho ra đời tập Tinh huyết do Trọng Miên xuất bản tại Hà Nội. Tinh huyết gồm 4 phần với 34 mục bài; tuy nhiên, thời kỳ này, người ta bàn về thơ Bích Khê chưa nhiều, chưa sâu. Có thể kể đến các bài viết của các tác giả như: Phan Khôi, Hàn Mặc Tử, Trọng Miên, Hoài Thanh- Hoài Chân. Trước hết, phải kể đến Hàn Mặc Tử. Khi nhận được ba bài thơ Bích Khê gửi tặng vào ngày mồng Tám Tết năm 1938, Hàn Mặc Tử đã vô cùng ngạc nhiên và thốt lên: “...ba bài ấy đã làm cho tôi sửng sốt với cái khởi điểm của một thiên tài sắp sửa...” [132, tr.100]. Rồi nhân dịp xuất bản tập thơ đầu tay Tinh huyết của Bích Khê, ông viết Lời tựa Bích Khê - Thi sĩ thần linh với những nhận xét tinh tế: “Một bông lạ nở hương, 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2