Luận án Tiến sĩ Văn học: Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa văn học
lượt xem 4
download
Đề tài nghiên cứu nhằm các mục tiêu: Xác định khái niệm về thể loại văn du ký và giới thiệu một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn của văn du ký thế giới, chủ yếu của các tác giả Phương Tây để định hướng cho việc tiếp cận văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX; chỉ ra tiến trình vận động của văn du ký trong tiến trình chung hiện đại hóa văn học dân tộc.... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa văn học
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------- NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG VĂN DU KÝ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------- NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG VĂN DU KÝ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 62223401 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN Người hướng dẫn khoa học Chủ tịch hội đồng đánh giá Luận án Tiến sĩ PGS.TS. Trần Nho Thìn GS.TS. Trần Ngọc Vương HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu, kết quả trong luận án là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Nho Thìn, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận án. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu, tập thể giảng viên, cán bộ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu và học tập tại Trường. Tôi xin trân trọng cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã hỗ trợ, tạo điều kiện trong quá trình nghiên cứu. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới các nhà khoa học, các cán bộ quản lý, các giảng viên của Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Văn hóa Nghệ thuật, Khoa Du lịch học và Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã góp ý, tư vấn, giúp đỡ cho tôi cả về tinh thần và vật chất trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận án. Tôi xin tri ân sự động viên, khích lệ và ủng hộ của gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp tôi yên tâm và có thêm động lực để hoàn thành Luận án. Tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4 5. Đóng góp mới của luận án .................................................................................. 5 6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................... 5 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................. 6 1.1. Một số khái niệm cần xác định ........................................................................ 6 1.1.1. Khái niệm “du lịch” và du lịch hiện đại .................................................. 6 1.1.2. “Văn du ký” ............................................................................................. 8 1.1.3. Một số định nghĩa về văn du ký .............................................................. 10 1.1.4. Khái niệm “hiện đại”và “hiện đại hóa văn học” .................................. 15 1.2. Điểm qua lịch sử của văn du ký .................................................................... 19 1.2.1. Văn du ký ở Việt Nam trung đại ............................................................. 19 1.2.2. Văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ................................................. 22 1.2.3. Du ký thế giới ......................................................................................... 25 1.3. Nghiên cứu, phê bình văn du ký trong nước và thế giới ............................... 27 1.3.1. Nghiên cứu văn du ký ở Việt Nam trước năm 1945 ............................... 27 1.3.2. Nghiên cứu văn du ký ở Việt Nam trong thời gian hai thập kỷ gần đây ............................................................................................................. 31 1.3.3. Nghiên cứu văn du ký ở nước ngoài....................................................... 36 Tiểu kết ................................................................................................................. 42 CHƢƠNG 2. CƠ SỞ VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ DIỄN BIẾN CỦA VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ............................................ 43 2.1. Cơ sở văn hóa xã hội ..................................................................................... 43 2.1.1. Thời đại của những mối liên hệ Phương Đông - Phương Tây ............... 43 2.1.2. Mạng lưới giao thông - điều kiện đầu tiên cho người viết văn du ký nửa đầu thế kỷ XX ................................................................................... 48 2.1.3. Văn du ký và đời sống báo chí ............................................................... 55
- 2.1.4. Các tác phẩm dịch và sáng tác có ảnh hưởng đến du lịch và văn du ký ...................................................................................................... 58 2.2. Diễn biến của văn du ký ................................................................................ 60 Tiểu kết ................................................................................................................. 66 CHƢƠNG 3. NỘI DUNG VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC .................................................... 67 3.1. Nhận thức về “người khác” ........................................................................... 67 3.1.1. Cái nhìn đối với người Pháp và văn hóa Pháp ...................................... 70 3.1.2. Cái nhìn về người Hoa ........................................................................... 80 3.1.3. Cái nhìn người Chăm ............................................................................. 87 3.2. Khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa như một nét hiện đại của văn học ........ 89 3.2.1. Lãng mạn gắn với phiêu lưu, mạo hiểm ................................................. 89 3.2.2. Văn du ký với cái nhìn lý tưởng hóa cuộc sống thôn dã và chất hoài cổ ...................................................................................................... 95 3.3. Văn du ký về phụ nữ và phụ nữ viết văn du ký ........................................... 100 3.3.1. Văn du ký viết về phụ nữ ...................................................................... 100 3.3.2. Văn du ký của phụ nữ ........................................................................... 106 Tiểu kết ............................................................................................................... 112 CHƢƠNG 4. NGHỆ THUẬT VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC .................................................. 113 4.1. Thi pháp tả thực trong văn du ký nửa đầu thế kỷ XX ................................. 115 4.1.1. Hiện thực nhiều chiều, đa dạng, phong phú ........................................ 117 4.1.2. Hiện thực hiện ra qua các chi tiết ........................................................ 124 4.2. Hình thức thể hiện cái tôi ............................................................................ 126 4.2.1. Các hình thức kể chuyện trong văn du ký ............................................ 127 4.2.2. Các trải nghiệm và khám phá cá nhân................................................. 130 4.3. Ngôn ngữ văn du ký .................................................................................... 143 Tiểu kết ............................................................................................................... 146 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX như một thể loại của văn học hiện đại Chúng ta đều biết, trong khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của không ít các tác phẩm thuộc nhóm thể loại văn du ký1. Qua một thời gian dài ít được chú ý, trong thập niên gần đây, thể văn du ký nói chung trong đó có văn du ký nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam đã bắt đầu thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu. Thực tế trên cho thấy rằng, càng ngày, giới nghiên cứu càng quan tâm đến một kiểu thể loại vốn bị xem là cận văn học, một thể loại dường như đứng bên lề của văn học. Sự quan tâm đó có cơ sở thực tế bởi văn du ký cho đến nay, trong thế kỷ XXI, chẳng những không mất đi tính hấp dẫn và sức sống mà trái lại đang có được một vị trí nhất định trong đời sống văn học Việt Nam đương đại. Mặt khác, chủ nghĩa hậu cấu trúc đã phê phán việc đối lập văn hóa bác học và văn hóa bình dân, văn học và cận văn học. Vì thế, nghiên cứu về thể văn du ký không những có nội dung khoa học hàn lâm, thuộc nhóm vấn đề tổng kết qui luật của văn học sử, mà còn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc sáng tác, thưởng thức và nghiên cứu văn du ký đương đại. 1.2. Các nghiên cứu đã có về du ký chưa nghiên cứu sâu vấn đề văn du ký và hiện đại hóa văn học dân tộc Hầu hết các nghiên cứu về du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã có đều tập trung tìm hiểu đặc điểm du ký, một thể loại mà các ý kiến đánh giá hiện chưa phải là thống nhất. Đây chính là một hướng tiếp cận cần có để khẳng định giá trị văn học của thể loại du ký. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn, một chuyên gia về du ký trong một bài viết năm 2007 đã khẳng định ngay trong tên bài viết rằng du ký là thể tài [168]. Phạm Thị Ngọc Lan trong đề tài khoa học của mình cũng quan niệm văn du ký là thể tài [85]. Trong nhiều nghiên cứu về travel literature (dịch nguyên nghĩa: văn học du lịch) của giới nghiên cứu Phương Tây, họ dùng khái niệm genre (thể loại). Chúng tôi theo cách dùng của các nhà nghiên cứu Phương Tây vì chỉ có dùng 1 Vấn đề định danh khái niệm “văn du ký” sẽ được trình bày ở các mục dưới đây. 1
- khái niệm thể loại thì mới có căn cứ để phân loại các tiểu thể loại (subtypes) du ký thành du ký thám hiểm, du ký công vụ, du ký nghiên cứu, du ký du lịch, du ký tâm linh v.v… Các công trình nghiên cứu du ký nửa đầu thế kỷ XX thường bàn nhiều về đặc điểm mà chưa quan tâm đến những đóng góp của văn du ký cho quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Thực ra cũng có một số nghiên cứu gần đây nêu vấn đề về mối quan hệ giữa thể văn du ký và quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Chẳng hạn, Vương Trí Nhàn đã nhắc đến thể ký nói chung trong quá trình hiện đại hóa văn học. Trong luận án của Dương Thu Hằng về Trương Vĩnh Ký [55] cũng có nêu vấn đề về mối quan hệ giữa du ký với công cuộc hiện đại hóa văn học qua phân tích Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi, một áng du ký quốc ngữ đầu tiên. Đoàn Lê Giang nói rõ trong những biểu hiện của hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ XX có vị trí của du ký [43]. Tuy nhiên, các trường hợp vừa nói trên, do mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, đều chỉ mới dừng lại mức độ nhận xét ban đầu chứ chưa đi sâu nghiên cứu. Vấn đề về đóng góp của văn du ký cho quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc ở đầu thế kỷ XX hầu như chưa được chú ý nghiên cứu. Nghiên cứu văn du ký từ góc nhìn của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vì thế vẫn đang là một công việc mời gọi hấp dẫn mà cũng là thách thức. 1.3. Cần ứng dụng nhiều thành tựu nghiên cứu văn du ký của thế giới Theo sự khảo sát sơ bộ của chúng tôi, có thể nói, giới nghiên cứu quốc tế đã có nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu du ký, nhất là du ký của các nhà văn Phương Tây xuất hiện suốt từ quãng thế kỷ XVIII trở lại đây. Những thành tựu nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của văn học du ký của Phương Tây hầu như ít được phản ánh trong nghiên cứu du ký ở Việt Nam. Công trình khoa học của Phạm Thị Ngọc Lan [87] đã vận dụng một số luận điểm lý luận quan trọng của giới nghiên cứu Trung Quốc để nghiên cứu du ký trung đại Việt Nam. Bài viết của Nguyễn Hữu Lễ trình bày du ký hiện đại dưới hình thức phân loại du ký và sơ bộ nêu một vài đặc điểm chứ không nêu vấn đề hiện đại hóa văn học qua thể du ký [103]. Như vậy, có một vấn đề khác cũng khá cấp thiết là vận dụng những kết quả 2
- nghiên cứu thực tiễn và lý thuyết về văn du ký của nước ngoài để tiếp cận văn du ký Việt Nam. Đây là một khoảng trống khá rõ trong nghiên cứu du ký mà chúng tôi nhận thấy cần có những đóng góp nhất định để bổ sung. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài Văn du ký và quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nhằm đến các mục tiêu sau đây: 2.1. Xác định khái niệm về thể loại văn du ký và giới thiệu một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn của văn du ký thế giới, chủ yếu của các tác giả Phương Tây để định hướng cho việc tiếp cận văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 2.2. Chỉ ra tiến trình vận động của văn du ký trong tiến trình chung hiện đại hóa văn học dân tộc. 2.3. Luận án sẽ làm rõ, văn du ký trong nửa đầu thế kỷ XX có những đóng góp gì cho tiến trình hiện đại hóa văn học về các phương diện nội dung và nghệ thuật. 2.4. Bước đầu nhận xét về khả năng kế thừa và phát triển những thành tựu của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX đối với văn du ký Việt Nam đương đại, trong thế kỷ XXI. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Chúng tôi chọn dối tượng nghiên cứu là các tác phẩm văn du ký tiêu biểu, có giá trị về nội dung và nghệ thuật xuất hiện trên các báo và tạp chí nửa đầu thế kỷ XX, đặc biệt chú ý đến các tác phẩm du ký phản ánh quá trình vận động, thay đổi của văn du ký theo thời gian. Vì số lượng văn du ký rất lớn, in rải rác trên nhiều báo và tạp chí khác nhau qua thời gian dài, khó có thể đọc hết trong phạm vi thời gian làm luận án và mặt khác do thực tế lưu trữ của nước ta, không phải tạp chí nào hiện cũng còn đủ số trong thư viện nên chúng tôi chỉ chọn lựa một số tác phẩm văn du ký tiêu biểu nhất, có khả năng tiếp cận cao nhất. Các tác phẩm du ký bằng thơ sẽ chỉ được liên hệ so sánh khi cần thiết chứ không phải là đối tượng nghiên cứu chính. Du ký trong văn học trung đại cũng chỉ được đề cập khi cần thiết nhằm phục vụ cho mục tiêu so sánh. 3
- 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Các vấn đề lý thuyết của văn du ký, từ vấn đề định nghĩa đến các đặc trưng thể loại. Một số lý thuyết về văn du ký của Phương Tây, khái quát từ đặc trưng văn học Phương Tây cũng là một phạm vi quan tâm. 3.2.2. Những tiền đề văn hóa, xã hội của văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 3.2.3. Quá trình hình thành cũng như sự vận động của du ký trong văn học Việt Nam. So sánh du ký trung đại và du ký hiện đại, những đặc điểm tương đồng và khác biệt của hai kiểu du ký. 3.2.4. Những vấn đề của hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ XX và vị trí của văn du ký trong dòng chảy hiện đại hóa đó. 3.2.5. Tính hiện đại của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX về nội dung và nghệ thuật. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, trong luận án chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 4.1. Phương pháp lịch sử: phân tích, đánh giá văn du ký như là một đối tượng có lịch sử ra đời, vận động trong thời gian. 4.2. Phương pháp hệ thống: nhìn nhận văn du ký như là một chỉnh thể riêng có cấu trúc nội tại, có những mầm mống riêng từ văn học trung đại nhưng nằm trong một hệ thống lớn hơn là cả tiến trình hiện đại hóa của văn học dân tộc. Đến lượt mình, văn học Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa lại được xem xét trong bối cảnh chung của công cuộc tiếp xúc văn hóa và văn học Phương Đông -Phương Tây. 4.3. Phương pháp tiếp cận văn hóa học: cho phép nhìn nhận văn du ký như là sản phẩm văn hóa tinh thần của tác giả Việt Nam, tuy trong bối cảnh hội nhập, giao lưu, tiếp biến văn hóa với Phương Tây để thay đổi nhưng vẫn ít nhiều chịu sự chi phối của văn hóa Việt Nam, của những quan niệm về con người và thế giới. 4.4. Thi pháp học: các vấn đề chủ yếu về thi pháp và nghệ thuật nói chung của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX như vấn đề người kể chuyện ngôi thứ nhất và thứ ba, vấn đề tự khám phá, bộc lộ cái tôi, vấn đề tư duy tả chân. 4.5. Phương pháp nghiên cứu văn học theo thể loại: phân tích, minh chứng, đánh giá văn du ký như là một thể loại độc lập của văn học. 4
- 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Về lý luận: xác lập đặc trưng của văn du ký từ điểm nhìn của giao lưu tiếp biến văn hóa, chú ý đến những nội dung và hình thức tiếp nối truyền thống du ký trung đại đồng thời các ảnh hưởng của xu thế hiện đại hóa văn học đến văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Cụ thể là vấn đề ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn trong văn du ký Phương Tây, vấn đề con người cá nhân, cái nhìn nữ quyền và tư duy tả chân trong du ký Phương Tây đã ảnh hưởng đến văn du ký Việt Nam như thế nào. 5.2. Về thực tiễn: Chỉ ra nét tương đồng và nét khác biệt, nét kế thừa và nét mới của văn du ký hiện đại so với văn du ký Việt Nam trung đại; chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng của văn học Phương Tây trong văn du ký như một biểu hiện của quá trình hiện đại hóa văn học. Phân tích văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX với các điểm nhìn lý luận như trên cho phép đánh giá đầy đủ hơn, toàn diện hơn về vị trí, ý nghĩa của văn du ký đối với tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc nói chung ở nửa đầu thế kỷ XX, chỉ ra quan hệ tương tác của văn du ký với quan niệm đổi mới về con người, nhận thức về “người khác” (các dân tộc khác), ý thức về cái tôi, vấn đề nữ quyền, về nghệ thuật tự sự, tả chân trong văn học hiện đại. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nhiều đối tượng quan tâm về văn học Việt Nam nói chung và văn du ký nói riêng ở nửa đầu thế kỷ XX. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận án có 4 chương Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Cơ sở văn hóa xã hội và diễn biến của văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX Chương 3. Nội dung văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và hiện đại hóa văn học Chương 4. Nghệ thuật văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và hiện đại hóa văn học 5
- CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Văn du ký cả ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài có lịch sử khá lâu đời và trong bối cảnh văn hóa xã hội từ đầu thế kỷ XX phát triển rất mạnh, hiện vẫn đang được tiếp tục, thậm chí còn làm nên một mảng văn học hấp dẫn. Hiện tượng Huyền Chíp với Xách balô lên và đi gần đây [25] đã gây nên những phản ứng khác nhau của công chúng văn học cho thấy thế mạnh và những đặc điểm của thể loại này cần được chú ý hơn nữa. Phần tổng quan này được dành cho việc giới thuyết khái niệm văn du ký và các lý thuyết nghiên cứu văn du ký ở nước ngoài cũng như trong nước, trình bày khái quát lịch sử nghiên cứu với những gì giới nghiên cứu đã giải quyết và xác định nội dung cụ thể mà luận án cần giải quyết. 1.1. Một số khái niệm cần xác định 1.1.1. Khái niệm “du lịch” và du lịch hiện đại Du ký hay văn du ký do những người du lịch viết. Vì vậy chúng ta cần trước tiên bàn về các dạng du lịch khác nhau và những người đi du lịch. Theo Từ điển tiếng Việt, du lịch “đi xa cho biết xứ lạ khác với nơi mình ở” [232, 272]. Từ định nghĩa này, cuốn từ điển xác định du ký là “thể ký ghi lại những điều người viết chứng kiến trong chuyến đi chơi xa” [232, 272]. Tất nhiên đây là định nghĩa chung nhất của một cuốn từ điển phổ thông chứ chưa phải là định nghĩa chuyên sâu của sách nghiên cứu về du lịch. Và vì thế mà khái niệm du ký cũng mới chỉ được đề cập sơ bộ, chưa toàn diện. Chẳng hạn, cùng với những điều chứng kiến, người đi xa còn ghi lại các suy nghĩ, cảm xúc của bản thân, nhìn lại bản thân mình, dân tộc mình và so sánh mình với người. Và nhiều chuyến đi không hề là “đi chơi” mà thực sự là các chuyến “công vụ” như chuyến đi sứ Trung Quốc của Lê Quí Đôn được ghi lại trong Bắc sứ thông lục, hay chuyến đi sứ sang Pháp của Phạm Phú Thứ ghi trong Tây hành nhật ký. Từ điển Wikipedia (tiếng Anh) định nghĩa “du lịch” (tourism): “du lịch là cuộc đi nhằm mục đích giải trí, nghỉ ngơi, tôn giáo, gia đình hoặc kinh tế, thường 6
- diễn ra trong một quãng thời gian nhất định”. Tài liệu của Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organisation) định nghĩa du lịch là “những hoạt động của con người di chuyển đến và ở lại những địa điểm nằm bên ngoài môi trường quen thuộc của họ trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm cho các mục đích giải trí, kinh doanh hay các mục đích khác” [282, 1]. Định nghĩa này chú ý đến mục đích đi và thời gian đi. Các mục đích khác đó rất rộng, có thể bao gồm kỳ nghỉ hè, dự lễ hội, kinh doanh, hành hương tôn giáo, truyền giáo, hội nghị khoa học, thăm viếng, đi nghiên cứu, ngoại giao, kể cả hoạt động công cán của sĩ quan của đội quân thực dân xâm lược, của người thám hiểm. Cũng như các khái niệm khoa học xã hội khác, khái niệm du lịch khó có thể có được một định nghĩa bao quát hết được mọi phương diện, khía cạnh và bản thân khái niệm du lịch cũng không diễn tả hết được các kiểu đi, nội dung hoạt động và kể cả nội dung ghi chép, mục đích ghi chép. Thời gian đi du lịch bị khống chế trong phạm vi một năm cũng có thể gây phân vân. Các sứ thần Việt Nam xưa đi sứ Trung Quốc cả đi về mất gần 2 năm, các giáo sĩ Phương Tây đến Việt Nam truyền giáo có người ở lại hàng chục năm, Philiphê Bỉnh sống ở Bồ Đào Nha hàng chục năm có thể cho thấy việc hạn định thời gian du lịch một năm khó thuyết phục. Tuy vậy, một định nghĩa như vừa nêu trên có thể giúp ta hình dung đại thể du lịch như một hiện tượng văn hóa của nhân loại. Trong các sách nghiên cứu về du lịch của nước ngoài, có phân biệt tourism (du lịch) với travel (du hành). Theo Bách khoa thư về du lịch (Encyclopedia of Tourism), travel chỉ sự di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác-một khía cạnh cơ bản, không thể thiếu của du lịch. Khái niệm du hành có gợi ý về hình thức, phương tiện đi lại: đi bộ, đi ngựa, đi tàu hỏa, đi máy bay, trượt tuyết, tự lái xe v.v…Từ khái niệm travel có từ traveller-người du hành, du lữ mà có thể không hẳn là nhà du lịch- tourist, ví dụ như người nhập cư, người di tản, sinh viên diện trao đổi văn hóa thì không thể gọi là khách du lịch. Lại có trường hợp mà người đi xa tìm thấy ở việc đi xa một phương cách thể hiện quan điểm sống của mình. Nguyễn Tuân thậm chí có lúc cao hứng còn gọi mình là “đổi khách”: “Là một đổi khách chỉ muốn sống với cảnh đẹp luôn đổi thay, tôi chỉ muốn lòng tôi sớm chiều đều rung lên một điệu nhẹ nhõm, vui vẻ” [236, 284]. Thậm chí việc đi xa với ông không phải là để 7
- xem sự khác lạ so với nơi ở của mình mà chính là một cách để thay đổi cảm giác, thể hiện chủ nghĩa lãng mạn sâu đậm của mình. “Tôi chỉ là một du khách đi qua, thấy hay tôi ở lâu, thấy dở tôi lên đường đi ngay”. Phân biệt một cách tinh tế các trường hợp cụ thể, vốn rất đa dạng phong phú của những người di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác không phải là nhiệm vụ của luận án. Chúng tôi quan tâm nghiên cứu tất cả các dạng văn bản do những người lữ hành, du lịch hay du lữ. Để hiểu được tầm quan trọng của văn du ký, chúng ta cần chú ý đến sự phát triển bùng nổ của du lịch hiện đại. Việc đi từ điểm này đến điểm khác đã diễn ra từ thời cổ đại nhưng hiện nay, việc đi tăng mạnh hơn bao giờ hết do những nhân tố khác nhau. Tổ chức du lịch thế giới ghi nhận sự tăng trưởng ngoạn mục của du lịch trên toàn cầu: từ năm 1950 mới có 25 triệu người đi du lịch đến năm có 277 triệu người, qua năm 1990, con số này đạt đến 438 triệu, năm 2000 lên tới 919 triệu [283, 2]. Khi du lịch đã thành một hiện tượng toàn cầu hóa thì văn du ký tất nhiên có vị trí, ý nghĩa to lớn hơn trước vì nó nằm trong tổng thể hoạt động của con người trên phạm vi toàn cầu, phục vụ cho nhu cầu tuyên truyền, quảng bá, giải trí của ngành du lịch. 1.1.2. “Văn du ký” Thực tế, khái niệm “văn du ký” cũng đã được tòa soạn Phụ nữ tân văn dùng để giới thiệu du ký của Phạm Vân Anh (năm 1929), nhưng cho đến nay, chúng ta thường gặp khái niệm phổ biến “du ký” chứ ít khi thấy nói đến “văn du ký”. Chúng tôi lại chủ trương phải gọi là “văn du ký” vì lý do sau: Trước hết, trong lịch sử văn du ký ở nước ta, kể cả thời trung đại và hiện đại (chủ yếu là nửa đầu thế kỷ XX), có hiện tượng viết du ký bằng thơ. Đơn cử Nguyễn Tông Quai (1692-1767) có Sứ trình tân truyện -một tập thơ sứ trình dài 646 câu thơ Nôm theo thể song thất lục bát kể về chuyến Bắc sứ năm 1742 [234, 1196]. Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) viết Phụng sứ Yên Kinh tổng ca dài 472 câu thơ lục bát chữ Hán [234, 1150]. Trương Minh Ký (1855-1900), người có thể liệt vào loại tác giả văn học hiện đại, có Như Tây nhật trình (năm 1888) gồm 2000 câu thơ song thất lục bát, theo thể thức nhật ký, kể về từng ngày dẫn 10 du học sinh sang Trường trung 8
- học Angiê (Bắc Phi) và Chư quấc thoại hội (năm 1891) cũng bằng thơ. Do viết về hành trình bằng thơ nên các tác phẩm này có những điểm khác với văn xuôi du ký về thể loại. Hiển nhiên, thơ không có lợi thế ghi chép cụ thể, chi tiết các hiện tượng của cuộc sống như văn xuôi, tính tự sự mờ nhạt hơn. Trong khi đó, một trong những nội dung quan trọng của luận án này là nghiên cứu nghệ thuật tả chân của nhiều tác phẩm du ký. Gọi là “văn du ký” để phân biệt với “thơ du ký”. Chúng ta cũng cần chú ý đến thuật ngữ quốc tế về văn du ký- travel literature-khái niệm cấu tạo từ travel có nghĩa là du lữ, và literature tức văn học. Nếu dịch nguyên văn thì sẽ là “văn học du lịch”, nếu Việt hóa sẽ có “văn du ký”. Về tinh thần chung, khái niệm “văn du ký” của chúng tôi thống nhất với khái niệm “du ký” mà giới nghiên cứu hiện đang sử dụng, chỉ có điều cách gọi này có khả năng làm rõ hơn nội dung và đặc điểm của đối tượng. Nhân đây cũng cần lưu ý rằng trong lịch sử du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, có trường hợp tác giả đặt tên tác phẩm của mình dưới một tiêu mục là “lữ ký” mặc dù về hình thức và nội dung về cơ bản tương đồng với văn du ký. Đó là trường hợp Biệt Lam Trần Huy Bá trên tạp chí Tri tân với bài ký xuất bản năm 1942 Ban Mê Thuột [8] và bài ký xuất bản năm 1944 Hai tháng ở gò Óc eo hay là câu chuyện đi đào vàng [9]. Đây là áng văn du ký của một nhà khảo cổ học, không phải là một khách du lịch theo nghĩa người du lịch hiện đại. Vì vậy, lại cần phải có phân biệt kiểu tác giả viết du ký và hình thức đi. Trần Huy Bá dùng khái niệm “lữ ký” theo chúng tôi là rất chính xác. Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, du là “đi chơi”, còn lữ là “đi ra xa nhà”. Cả hai hình thức đi đều là đi xa nhà, song một bên là đi chơi, chủ động, tự nguyện; còn một bên là xa nhà có thể bất đắc dĩ, do công việc đòi hỏi hay những lý do khác. Sắc thái phân biệt rõ ràng là có. Có thể phải xét sự khác biệt giữa một bên là chủ động đi và một bên là bị động, đi ra khỏi nhà mà không phải đi chơi. Cũng có trường hợp nhà nghiên cứu đồng nhất du ký với phóng sự. Đức Dũng viết: “Ngay từ những thập niên đầu thế kỉ XX, một loạt phóng sự đã xuất hiện trên báo chí ở nước ta …Tiêu biểu cho loại này là một số phóng sự như: Mười ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật kí, Hạn mạn du kí v.v” [34, 65-66]. Nhưng việc 9
- đồng nhất này theo chúng tôi không có căn cứ khoa học. Mục đích, tính chất, chức năng của phóng sự khác du ký mặc dù có thể giữa chúng có sự giao thoa nào đó. Phóng sự thường đòi hỏi tính nhanh nhạy của tin tức cần cung cấp, còn du ký có thể là viết lại hành trình qua sự hồi tưởng dựa trên trí nhớ hay sổ ghi chép. 1.1.3. Một số định nghĩa về văn du ký - Có một giới thuyết khá sớm về văn du ký trên Phụ nữ tân văn năm 1929 khi toà soạn viết lời giới thiệu cho du ký đi sang Tây của Phạm Vân Anh, trong đó sử dụng chính khái niệm “văn du ký”: “Thể văn du ký là một thể văn ai cũng ham đọc, và nó dễ khích phát lòng người hơn là tiểu thuyết. Tiểu thuyết còn có thể tưởng tượng ra, chớ du ký là tả những sự thiệt, có khi đọc du ký mà tức là học lịch sử, học địa lý, học mỹ thuật, học phong tục, mình ngồi tựa trước bên đèn, mà hình như thấy rõ những non sông, nhân vật ở phương xa đất lạ thì còn có lợi ích gì hơn và thú vị gì hơn nữa” [2]. Ở đây, từ góc nhìn của tòa soạn báo, người viết chú ý đến tính chất tổng hợp về nội dung của văn du ký, đặc biệt quan tâm đến tính hấp dẫn (có lẽ trước hết nhờ nó mà bán được nhiều báo) của văn du ký so với tiểu thuyết, dường như để giải thích vì sao báo này lại cho đăng du ký. Đồng thời người viết cũng nhấn mạnh việc “tả sự thiệt” trong các áng du ký. - Định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học:“ Du ký - một thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân mình đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến… Dạng đặc biệt của du ký phát huy cái chất ghi chép về miền xa lạ của nó là du ký về các xứ sở tưởng tượng, có tính chất không tưởng hay viễn tưởng khoa học… Dạng du ký khác đậm đà phong vị Phương Đông là ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi danh lam thắng cảnh đất nước… Thể loại du ký có vai trò quan trọng đối với văn học thế kỷ XVIII-XIX trong việc mở rộng tầm nhìn và tưởng tượng của nhà văn. Sang thế kỷ XX, du ký mang nhiều tính chất tư liệu khoa học do các nhà địa chất, nhà dân tộc học viết. Loại du ký khoa học cũng rất thịnh hành” [233, 108]. Định nghĩa này 10
- nói rõ du ký là thể loại; trong định nghĩa ta thấy sự cố gắng bao quát cả hai mặt đồng đại và lịch đại của văn du ký trong lịch sử văn học Việt Nam và thế giới. Định nghĩa lưu ý cả điều tai nghe mắt thấy cũng như điều tưởng tượng trong các tác phẩm du ký. Tuy nhiên, có những vấn đề của lịch sử văn du ký chưa được bao quát trong định nghĩa này. Ví dụ như cái nhìn thực dân của các tác giả du ký châu Âu khi đi sang các nước Phương Đông, coi Phương Đông như là thế giới man ri, mọi rợ cần được khai hóa. Cái nhìn của các sứ thần Trung Quốc khi đến Việt Nam thời trung đại cũng mang một sắc thái thực dân tương tự. Trong khi đó, người Việt đi sang Phương Tây lại có tâm thế học hỏi. Nghĩa là văn du ký viết khi ra nước ngoài thường bao hàm một cái nhìn về “người khác”. Trần Kim Anh, Hoàng Hồng Cẩm dựa trên mảng văn học chữ Hán, lại định nghĩa “văn du ký là loại văn được viết ra trong những chuyến đi, vừa để ghi lại hành trình, vừa để bày tỏ cảm xúc về những điều mắt thấy tai nghe. Đặc điểm của du ký là chuyên lấy việc mô tả thắng cảnh núi sông, phong vật làm đề tài, cách viết đa dạng, có thể miêu tả, có thể trữ tình, có thể nghị luận, và phải là chính tác giả ghi chép, về chính chuyến đi của mình, miêu tả lại cảm thụ của bản thân trước non sông cảnh vật” [4,113]. Định nghĩa này chủ yếu áp dụng cho văn du ký chữ Hán thời trung đại mà chưa bao quát hết thực tế du ký thế kỷ XX bằng quốc ngữ, chưa nói đến một trong những yếu tố quan trọng nhất của du ký là kể về các cuộc tiếp xúc với “người khác”, “xứ khác” tức nền văn hóa khác. - Định nghĩa của giới nghiên cứu quốc tế: Định nghĩa của từ điển Từ Hải: “Du ký là một trong những thể tài văn học, là một loại của tản văn, dựa vào ngòi bút nhanh nhạy, miêu tả một cách đầy đủ và sinh động tất cả những điều tác giả tai nghe mắt thấy trên đường du lịch, như đời sống xã hội, phong tục tập quán, núi sông cảnh vật, danh thắng cổ tích, cùng với việc biểu đạt tư tưởng, tình cảm của tác giả” [dẫn theo Phạm Thị Ngọc Lan, 86, 6]. Nhà nghiên cứu Phạm Thị Ngọc Lan cũng dẫn ý kiến của nhà nghiên cứu Trung Quốc là Vương Lập Quần: “dấu tích du lịch, cảnh quan và cảm xúc cá nhân là ba yêu cầu lớn của thể văn du ký” [dẫn theo Phạm Thị Ngọc Lan, 86, 6]. Ba yếu tố nói đây nhấn mạnh khá toàn diện nội hàm của văn du ký mà các định nghĩa trên cũng đều đã đề cập. 11
- Nói đến tính chân thực về nội dung của văn du ký, một số định nghĩa trong tài liệu tiếng Việt thường dùng cụm từ “mắt thấy tai nghe”. Nhưng không hẳn là tất cả những sự kiện được ghi trong văn du ký đều có thực, đều là điều bản thân người viết trải nghiệm. Trên Phụ nữ tân văn năm 1932, Phan Khôi từng phê phán những thiên du ký thiếu chân thực, tức là chứa đựng những thông tin lấy từ nguồn tài liệu khác độn vào chứ không phải là những tư liệu do chính người viết nghe nhìn được: “Từ đôi mươi năm nay người mình mới có một số ít bước chân ra ngoại quốc, hoặc sang Tây hoặc sang Đông. Trong một số ít ấy lại có một số ít đã đem cuộc xuất dương của mình mà viết nên những tập du ký, in ra và bán cho những người ngồi nhà mua đọc. Ấy là sự có ích lắm. Nhưng mà tiếc cho những người viết du ký ấy hay có cái tánh không thiệt thà (…) Như du ký Nhật Bổn thì họ chia ra những là lịch sử, phong tục, giáo dục của nước ấy, mỗi việc làm một thiên… Đại để người ta làm cách nầy: Họ có đến Đông Kinh của Nhật Bổn thật, nhưng ở đó không lâu, hoặc là ở lâu nhưng vì cớ gì đó họ quan sát chẳng được gì mấy chút. Đến chừng họ viết du ký, lấy vài ba việc mục kích làm cái cốt rồi, ngoài ra chẳng còn gì nữa cho đầy tập. Khi ấy họ mới sanh tâm ra, làm cho lớn lối, bèn chia từng thiên một, rồi thiếu chi thứ sách nói về Đông Kinh ấy, dịch lấy một mớ mà thộn vào, nó mới thành ra thứ du ký như tôi đã thấy” [77]. Nhật Nham trên Tri tân năm 1942 có tiết lộ ông từng viết về Hồ Ba Bể và cho in năm 1941 [Tri tân số 25] nhưng ông chưa từng lên đó mà người đọc cứ tưởng ông nói sự thực, lần này ông mới thực sự đi thăm Hồ Ba Bể và chép sự thực [126]. Gần đây, ở thế kỷ XXI, cuốn Xách Ba lô lên và đi xuất bản năm 2012 của Huyền Chíp [25] đã bị bạn đọc trên các trang mạng chỉ ra một số yếu tố hư cấu, không có thực. Tóm lại, rất khó xác định liều lượng giữa sự thực và hư cấu trong du ký. Trong khi chủ yếu là ghi chép lại điều tai nghe mắt thấy, tác giả văn du ký có thể hư cấu bằng những cách khác nhau ví dụ như dựa vào du ký của người khác, thậm chí có thể là sách nghiên cứu hay tiểu thuyết để độn cho áng văn đầy lên. Hiện tượng này giới nghiên cứu gọi là kể chuyện ở ngôi thứ ba chứ không phải ngôi thứ nhất. 12
- Theo Bách khoa thư về du lịch (Encyclopedia of Tourism), khái niệm travel literature -“văn học du lịch” bao gồm nhiều loại, từ các sách hướng dẫn du lịch thuần túy cung cấp các thông tin cho du khách - khi đó không thể gọi là thể loại văn học -đến các sáng tác tưởng tượng, hư cấu cũng không thuần túy là văn du ký nữa [265, 602]. Điều nói đây có thể giúp phân biệt những tác phẩm tuy có tên là du ký nhưng không thuộc đối tượng nghiên cứu của luận án. Ví dụ như tác phẩm nổi tiếng Tây du ký của Ngô Thừa Ân tuy rất hấp dẫn song bên cạnh những quan sát, ghi chép về các xứ khác, người khác, lại tồn tại chất tiểu thuyết đậm nét, xây dựng thành công những kiểu nhân vật tiểu thuyết. Nằm ở khoảng giữa chúng là các ghi chép về một chuyến đi và các ghi chép này thực hiện một chức năng kép, vừa có thể cung cấp thông tin xác thực về các địa điểm du khách cần đến vừa thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, hiểu biết về các miền đất lạ, các nền văn hóa và con người đa dạng trên thế giới. Tức là trong văn du ký, có sự tổng hợp các chức năng thông tin cộng với chức năng dân tộc học, nhân loại học, chức năng thẩm mỹ. Bách khoa thư về du lịch quan niệm văn du ký là thể loại phi hư cấu. Theo Wikipedia (tiếng Anh), khái niệm văn học du lịch (travel literature) được giới thuyết như sau: “thể loại văn học du lịch bao gồm văn học du lữ (outdoor literature), văn học thám hiểm (exploration literature), văn học phiêu lưu (adventure literature), văn học viết về thiên nhiên (nature writing), và sách hướng dẫn du lịch (guide book), cũng như các ghi chép từ các chuyến đi ra hải ngoại”. Đây không hẳn là định nghĩa mà chỉ là một khái quát về những biến thể khác nhau có thể có của văn du ký -tức văn học du lịch Phương Tây. Ở Phương Tây bắt đầu từ thế kỷ XV, do sự phát triển của ngành hàng hải, sự phát triển của công nghiệp mà hiện tượng đi thám hiểm vòng quang trái đất phát triển, kéo theo văn học có nội dung thám hiểm thế giới rất phổ biến còn ở ta, nội dung này rất mờ nhạt, không điển hình. Trong sự đa dạng, có một nội dung chung giữa các kiểu loại văn học du lịch là ghi chép về sự di chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác với những nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc nảy sinh trong quá trình di chuyển đó. Nhà nghiên cứu Carl Thompson quan niệm du hành (travel) là cuộc thương lượng giữa bản thân (self) và người khác (other) dẫn đến việc di chuyển trong 13
- không gian. “Nếu tất cả các cuộc du hành đều bao gồm cuộc gặp gỡ giữa bản thân và người khác được thực hiện bằng việc di chuyển trong không gian thì tất cả văn du ký (travel writing) ở mức độ nào đó đều là sự ghi chép hay sản phẩm của cuộc gặp gỡ này, sản phẩm của sự thương lượng giữa cái tương đồng và cái khác biệt” [261, 10]. Ở đây nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn đến loại văn du ký của Phương Tây vốn ghi chép những quan sát, suy nghĩ về thế giới ngoài Phương Tây, về Other-người khác trong các thế kỷ thám hiểm, tiến hành thực dân hóa thế giới phi Phương Tây. Vì thế nhà nghiên cứu này quan tâm nhiều đến các cuộc tiếp xúc giữa tác giả văn du ký và Người Khác (tức là dân tộc khác, nền văn hóa khác). Đây cũng là một nội dung mà luận án chúng tôi cũng sẽ quan tâm tìm hiểu. Tất nhiên, các nhận xét trên chưa phải là định nghĩa vì theo Carl Thompson, văn du ký -travel writing- là một thể loại không thuần nhất, lai ghép. Rất khó để xác định ở chỗ nào thì du ký kết thúc và bắt đầu các thể loại khác: tự truyện, dân tộc học, miêu tả thiên nhiên, tiểu thuyết hư cấu. Ông đề nghị một cách giới thuyết khái niệm có nội hàm rộng, “có nhiều đặc điểm và dấu hiệu cho phép chúng ta xếp loại một văn bản như là văn du ký và mỗi văn bản riêng rẽ sẽ thể hiện một tiêu chí lựa chọn khác và một thế kết hợp khác các đặc điểm này”. Tiêu chí trung tâm cho thể loại văn du ký phải là “tự sự phi hư cấu ở ngôi thứ nhất” (chúng tôi nhấn mạnh). Tự sự ngôi thứ nhất hàm nghĩa rằng đây là sự ghi chép chân thực các trải nghiệm của chính tác giả - người kể chuyện. Nhưng nhà văn viết du ký lại phải đóng hai vai trò xung đột nhau: là người viết phóng sự thì phải ghi lại đúng những gì đã trải nghiệm, nhưng là người kể chuyện thì anh ta phải gây được hứng thú cho người đọc, trình bày để người đọc thưởng thức. Ranh giới giữa hư cấu và phi hư cấu không dễ gì vạch ra được. Tính hư cấu là không tránh khỏi trong tất cả các tác phẩm văn du ký. Có thể lấy dải quang phổ để hình dung chất hư cấu trong văn du ký: ở một cực của dải quang phổ là những nhà văn muốn ghi lại trung thực các trải nghiệm của mình nhưng thấy cần biên tập lại, cấu trúc lại các trải nghiệm nên làm cho chúng biến dạng. Ở cực bên kia có những nhà văn có chủ ý sáng tạo các chi tiết và tạo truyền thuyết [261, 29]. Trước một đối tượng phức tạp, đa diện như văn du ký, phương pháp của Carl Thompson là mô tả, giải thích mà tránh đưa ra một định nghĩa cụ thể. Cách làm này rất có lý. 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến 2010
175 p | 168 | 44
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại
160 p | 209 | 41
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học
156 p | 161 | 37
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
182 p | 170 | 35
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
177 p | 151 | 35
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ Loạn
158 p | 149 | 30
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Thể loại truyện trinh thám trong văn học Việt Nam hiện đại
184 p | 74 | 27
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại
156 p | 132 | 25
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
158 p | 109 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX dưới góc độ giới
187 p | 46 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
165 p | 26 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Giá trị văn hóa trong tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân
162 p | 19 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
27 p | 111 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết liên văn bản
168 p | 27 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ tích và sử thi một số dân tộc thiểu số Tây Nguyên
219 p | 28 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông
52 p | 135 | 5
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Xu hướng cách tân nghệ thuật trong thơ nữ Việt Nam đương đại (Qua các tác phẩm của một số nhà thơ tiêu biểu)
172 p | 51 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ tích và sử thi một số dân tộc thiểu số Tây Nguyên
27 p | 5 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn