Luận án Tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
lượt xem 23
download
Luận án làm cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ trí thức (ĐNTT) khoa học Mác-Lênin trong các nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác-Lênin trong các nhà trường QĐNDVN vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
- LỜI CAM ĐOAN T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu cña riªng t¸c gi¶. C¸c sè liÖu, trÝch dÉn trong luËn ¸n lµ trung thùc, cã xuÊt xø râ rµng vµ kh«ng trïng lÆp víi nh÷ng c«ng tr×nh ®· c«ng bè. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trần Việt Hưng
- MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 11 Chương MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ 1 TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC LÊNIN TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 29 1.1. Quan niệm, đặc điểm, vai trò của đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam 29 1.2. Quan niệm và những vấn đề có tính quy luật xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam 50 Chương THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC 2 KHOA HỌC MÁC LÊNIN TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 70 2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam 70 2.2. Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam 99 Chương YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG ĐỘI 3 NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC LÊNIN TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 109 3.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu xây dựng đội ngũ trí 109 thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân
- đội nhân dân Việt Nam hiện nay 3.2. Những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 123 KẾT LUẬN 163 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 166 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 167 PHỤ LỤC 177 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viêt đây đu ́ ̀ ̉ Chư viêt tăt ̃ ́ ́ 1 ́ ̣ Chinh tri Quôc gia ́ CTQG 2 ̉ Chu nghia xa hôi ̃ ̃ ̣ CNXH 3 ̣ Công nghiêp hoa, hiên đai hoa ́ ̣ ̣ ́ CNH, HĐH 4 ̉ ̉ Đang uy Quân s ự Trung ương ĐUQSTƯ 5 ̣ ̃ ́ ưć Đôi ngu tri th ĐNTT 6 ́ ̣ Giao duc va đao tao ̀ ̀ ̣ GD&ĐT 7 ̣ Khoa hoc va công nghê ̀ ̣ KH&CN 8 ̣ Quân đôi nhân dân Viêt Nam ̣ QĐNDVN 9 Quân uỷ Trung ương QUTƯ
- 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” được tác giả ấp ủ trong suốt quá trình học tập, công tác và tham gia giảng dạy. Đây là một công trình khoa học độc lập, không có sự trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã được công bố. Tác giả nhận thấy rằng, vấn đề xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay là một nội dung quan trọng, bổ ích, có thể bổ sung cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của tác giả. Vì vậy, tác giả đã xin ý kiến chuyên gia, trao đổi với các thầy hướng dẫn và quyết định chọn làm vấn đề nghiên cứu trong luận án của mình. Đề tài mà tác giả trình bày có kết cấu gồm phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3 chương, 6 tiết; kết luận; các bài báo và công trình khoa học của tác giả đã công bố; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục . Với dung lượng 3 chương (6 tiết), công trình nghiên cứu bảo đảm triển khai được những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; từ đó nêu lên những yếu tố tác động, xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay. Những vấn đề được luận giải trong đề tài, một mặt, là sự kế thừa có chọn lọc một số quan điểm của các học giả trong các công trình nghiên cứu trước đó; mặt khác, chính là sự nỗ lực nghiên cứu của tác giả dưới sự định hướng của các thầy hướng dẫn. 2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Trong mọi thời đại, tri thức luôn là khởi nguồn của sự tiến bộ xã hội, ĐNTT là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, ĐNTT trở
- 6 thành một nguồn lực đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc, đánh giá cao vị trí, vai trò, đặc biệt là phát huy vai trò ĐNTT trong sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trí thức cũng cần, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa trí thức càng cần. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tôn vinh, xây dựng và phát huy vai trò của ĐNTT, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh vị trí, vai trò quan trọng của ĐNTT trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay, đồng thời đề ra yêu cầu cần phải: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” [49, tr. 241]. Đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội là một bộ phận của ĐNTT quân đội và ĐNTT Việt Nam; là lực lượng nòng cốt giảng dạy các môn lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, trang bị thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản cho học viên trong các nhà trường quân đội, góp phần quan trọng đào tạo ra các thế hệ cán bộ, sĩ quan có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, có năng lực lãnh đạo, chỉ huy và chuyên môn nghiệp vụ theo chức trách, nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Cùng với giảng dạy, ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội còn là một lực lượng nòng cốt nghiên cứu, phát triển và tuyên truyền lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống lại các luận điệu thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối,
- 7 quan điểm của Đảng; góp phần xây dựng và củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Trong những năm qua, được sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng, QUTƯ, trực tiếp là cấp uỷ các nhà trường quân đội, ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội đã có sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện, về cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội còn thiếu về số lượng; trình độ chuyên môn chưa đồng đều, một bộ phận chưa cao; còn thiếu những chuyên gia đầu ngành ở các lĩnh vực quan trọng; độ tuổi trung bình vẫn còn cao; trình độ ngoại ngữ và tin học còn hạn chế, việc tiếp cận và sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại còn khó khăn... Điều này dẫn đến chất lượng giảng dạy hạn chế; công tác nghiên cứu khoa học ở một số cơ quan, học viện, nhà trường chưa theo kịp sự phát triển của quân đội và đất nước, nhất là sự hạn chế về năng lực tư duy lý luận, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, khả năng vận dụng lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn quốc phòng, quân sự đặt ra. Hiện nay cũng như những năm tới, cùng với cả nước, các nhà trường quân đội đang đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, trong đó có giảng dạy các môn lý luận Mác Lênin nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, sĩ quan đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đất nước sau gần 30 năm đổi mới tuy đã giành được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, nhưng còn không ít khó khăn, thách thức. Nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu làm sáng tỏ. Trong khi các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, coi tư tưởng, lý luận là mặt trận hàng đầu để chống phá cách mạng nước ta. Chúng ra sức xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và luật
- 8 pháp của Nhà nước. Một trong những mũi nhọn chống phá của các thế lực thù địch là xuyên tạc bản chất và truyền thống cách mạng hòng “Phi chính trị hoá”, vô hiệu hoá quân đội ta. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong các nhà trường quân đội hiện nay cần phải đặc biệt coi trọng xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin vững mạnh, thực sự là một trong những lực lượng nòng cốt xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao phó. Đó cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN, xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. * Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ một số vấn đề lý luận về ĐNTT khoa học Mác Lênin, xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN. Khảo cứu thực tiễn xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội, làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm. Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu
- 9 Hoạt động xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN. * Phạm vi nghiên cứu Hoạt động xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng trong các nhà trường QĐNDVN bao gồm: Các giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý thuộc các chuyên ngành triết học Mác Lênin, kinh tế chính trị học Mác Lênin, CNXH khoa học đang công tác trong các học viện, nhà trường quân đội đào tạo bậc đại học và sau đại học ở khu vực miền Bắc. Khảo cứu thực tiễn từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 94 NQ/ĐUQSTW ngày 29/4/1998 của ĐUQSTƯ (nay là QUTƯ) về “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội trong tình hình mới” đến nay; đề xuất yêu cầu, giải pháp từ nay đến 2020. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Luận án được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và xây dựng ĐNTT; quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. * Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn của tác giả và của các công trình khoa học có liên quan. * Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo cứu thực tiễn, vận dụng tổng hợp các phương pháp lịch sử lôgíc, hệ
- 10 thống cấu trúc, phân tích tổng hợp, điều tra khảo sát và phương pháp chuyên gia. 6. Những đóng góp mới của luận án Phân tích làm sáng tỏ quan niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; quan niệm và những vấn đề có tính quy luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN. Khái quát những kinh nghiệm thực tiễn xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN những năm qua; đề xuất những yêu cầu, giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội vững mạnh, đáp ứng tốt nhiệm vụ trong những năm tới. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án * Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm quan niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội; đặc biệt là làm sáng tỏ quan niệm và những vấn đề có tính quy luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay. * Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học phục vụ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác GD&ĐT, nghiên cứu khoa học ở các nhà trường quân đội. 8. Kết cấu của luận án Kết cấu của luận án gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 11 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC – LÊNIN TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài Tại các nước tư bản, quá trình phát triển khu vực kinh tế tri thức (knowledge Economy) ở vào những năm 50, đặc biệt từ thập niên 90 với sự phát triển của cuộc cách mạng tin học và các xu hướng toàn cầu hoá, đã làm biến đổi tính chất lao động trí óc của tầng lớp trí thức theo hướng gắn trực tiếp với việc sản xuất và biến đổi thông tin. Năm 1973, nhà xã hội học học người Mỹ Daniel Bell trong tác phẩm: “The Coming of Post Industrial Society: A Venture in Social Forecasting” [24] (Sự xuất hiện của xã hội hậu công nghiệp: Hướng dẫn một dự đoán xã hội) lần đầu tiên đưa ra khái niệm “xã hội hậu công nghiệp” và lao động “áo cổ trắng”. Ông nhấn mạnh trong xã hội công nghiệp, vai trò cơ bản thuộc về tư bản và lao động “áo cổ xanh”, còn trong “xã hội hậu công nghiệp” vai trò cơ bản thuộc về trí thức và lao động “áo cổ trắng”. Khái niệm lao động “áo cổ trắng” đến nay được biết nhiều thông qua thuật ngữ “lao động tri thức” (knowledge Worker) và “kỹ thuật viên tri thức” (knowledge Technogist). Nhà xã hội học nổi tiếng người Mỹ gốc Áo, Peter F.Drucker trong cuốn “The Landmarks of Tomorrow” [101] (Cột mốc của ngày mai) xuất bản năm 1959 quan niệm “lao động tri thức” là những người có lượng kiến thức và sự hiểu biết đáng kể về mặt lý thuyết như các bác sĩ, các luật gia, các giáo viên, kế toán viên, các kỹ sư và nhất là các kỹ thuật viên tri thức như: kỹ thuật viên máy tính, người thiết kế phần mềm, nhân viên phân tích phòng thí nghiệm, kỹ thuật viên công nghiệp chế tạo... Nói khác đi, khái niệm trí thức
- 12 được diễn đạt thành những “lao động tri thức” và “kỹ thuật viên tri thức”. Đây cũng là lần đầu tiên ông nêu khái niệm “lao động tri thức”, “người công nhân tri thức” vì ông cho rằng thế giới đang dần dịch chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang nền kinh tế tri thức. Bây giờ những khái niệm này đã trở thành chuyện bình thường nhưng vào thời đó nền công nghiệp Mỹ đang chịu ảnh hưởng của tư tưởng sản xuất dây chuyền của Frederick Taylor, công nhân được xem như “những con rôbốt chỉ biết siết ốc”. Những quan niệm trên đây phản ánh xu hướng xích lại gần nhau giữa giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức trong quá trình phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tri thức, nhất là tại các nước tư bản phát triển. Xu hướng xích lại gần nhau này tuy thế, không thể dẫn đến chỗ sáp nhập toàn bộ trí thức vào giai cấp công nhân, và cũng không thể chuyển giai cấp công nhân thành trí thức. Bởi lẽ, bản chất lao động, vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức và giai cấp công nhân trước sau vẫn có những đặc điểm riêng. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu tầng lớp trí thức nói chung và ĐNTT các môn lý luận Mác Lênin nói riêng theo lập trường Mácxít, thì mới có những kiến giải xác thực về khoa học và thực tiễn. Tác phẩm “Về trí thức Nga” của nhiều tác giả (Nga) (2009) [110] là công trình tập hợp 12 bài viết của nhiều trí thức trước Cách mạng tháng Mười (1917) của nước Nga thuộc Liên Xô cũ và thời kỳ “hậu Xô viết”. Thời gian công bố các bài viết ấy trải dài gần một trăm năm, từ những bài trong tập Những cột mốc (Vekhi) công bố năm 1909 cho tới những bài viết thời nay. Các tác giả đã tiếp cận dưới các góc độ khác nhau: Tầng lớp trí thức là gì? Trí thức và nhận thức pháp quyền, trí thức và chủ nghĩa xã hội, bàn về phương hướng và nhiệm vụ của giới trí thức Nga, những người trí thức Nga sau năm 1917 là những người như thế nào? Ở nước Nga hiện nay có tồn tại một giới trí thức hay không? v.v... Nội dung các bài viết là những
- 13 đánh giá phê phán giới trí thức Nga của chính những người thuộc giới này với tâm thế đau xót tự kiểm điểm (ngoại trừ hai bài viết thời hiện đại của Gary Neill và Tumanov). Công trình này thể hiện được chính kiến của các trí thức rất đa dạng, có khi đối lập nhau nhưng đều ghi nhận tinh thần học thuật nghiêm túc và với ý thức xã hội đáng trân trọng. Trong khung cảnh lịch sử và hoàn cảnh xã hội của nước Nga lúc bấy giờ, người trí thức đã viết nên những trăn trở, dồn nén và phản ứng (cả tích cực và tiêu cực). Trong các bài viết, các tác giả Nga có nhiều cách hiểu khác nhau về danh xưng trí thức. Mặc dù vậy, ở họ vẫn có sự thống nhất khi cho rằng: Trí thức Nga được hiểu là một tầng lớp xã hội theo nghĩa một nhóm người tương đối đông về số lượng và có sự liên kết nội tại tương đối mật thiết và thống nhất. Đặc điểm phân biệt họ với các tầng lớp xã hội khác là họ có học thức nhất định, luôn tự ý thức về sứ mệnh của mình đối với toàn thể cộng đồng (có thể rộng hẹp khác nhau như: giai cấp vô sản, nhân dân Nga hay toàn nhân loại) và có thái độ dấn thân để thực hiện sứ mệnh đem lại tương lai tươi sáng cho cộng đồng. Tác giả Jennifer Lewingion (2011) với bài viết “Biết trọng dụng người tài, Canađa vượt lên trước “bầy sói”” [75]. Qua bài viết này tác giả nhấn mạnh: vào giữa những năm 1990, giới chức giáo dục đại học ở Canađa đã cảnh báo hậu quả của việc chính phủ cắt giảm quỹ giành cho nghiên cứu khoa học và “nguy cơ” chảy máu nhân tài. Tuy nhiên, Canađa đã trải qua một thời kỳ phục hưng mạnh mẽ trong nghiên cứu và giáo dục đại học. Các trường đại học nghiên cứu ở Canađa đã khẳng định được vị trí đứng đầu và trở thành những chiếc nam châm thu hút nhân tài quốc tế. Các chính phủ cấp thành phố và liên bang đã đổ một khoản tiền lớn chưa từng thấy cho con người và trang thiết bị nhằm thúc đẩy đổi mới, phát minh và tạo ra một giới chuyên gia đông đảo. Cuộc cách mạng về chiến lược mới đã ra đời năm 1997, khi chính phủ liên bang thành lập “Quỹ Đổi mới Canađa”, hoạt động
- 14 như một cơ quan độc lập nhằm tài trợ cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu khoa học. Các biện pháp khác được áp dụng sau đó, như lập ra các khoản trợ cấp đặc biệt cho các học giả mới nổi hoặc xuất chúng ở Canađa và nước ngoài; tạo dựng các hiệp hội nghiên cứu có sinh lời giữa các nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ ở Canađa và nước ngoài. Với chiến lược phát triển đúng đắn, hiện nay Canađa đã thu hút được các chuyên gia hàng đầu thế giới đến làm việc tại quốc gia này, trở thành quốc gia “đi từ chỗ không được xếp hạng để trở thành một nước được tham gia vào cuộc đua”. Vào những năm 90 của thế kỷ XX, ở Trung Quốc trong khuôn khổ lý luận về CNXH phát triển, đã có quan niệm coi tầng lớp trí thức là một bộ phận của giai cấp công nhân. Cơ sở xuất phát của quan niệm này là thành phần xuất thân của trí thức chủ yếu từ hai giai cấp cơ bản trong xã hội, là công nhân và nông dân. Trong bài diễn văn của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc đọc tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (0172001) đã khẳng định: “Tầng lớp trí thức với tư cách là một bộ phận của giai cấp công nhân, đã tăng cường mạnh mẽ tố chất văn hoá, khoa học, kỹ thuật cho giai cấp công nhân” [118, tr. 69]. Trung Quốc cũng là một quốc gia rất xem trọng việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng ĐNTT. Trên thực tế có nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả nghiên cứu về ĐNTT ở quốc gia này. Tiêu biểu phải kể đến: Hai tác giả Thẩm Vinh Hoa và Ngô Quốc Diệu (đồng chủ biên) (2008) với cuốn sách “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước” [65]. Các tác giả đã trình bày nhiều nội dung nổi bật trong tư tưởng của Đặng Tiểu Bình, người được coi là “Tổng công trình sư của công cuộc cải cách, mở cửa và xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc”, về những vấn đề rất cơ bản như: đường lối tổ chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ; nhân tài là then chốt của phát triển; tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng và giáo dục nhân tài; về tuyển
- 15 chọn nhân tài ưu tú; về sử dụng và bố trí nhân tài; về cải cách chế độ nhân sự trong việc sử dụng nhân tài; về tạo môi trường cho nhân tài phát triển...Qua cuốn sách này, các tác giả đã khái quát một cách tổng thể về tư tưởng của Đặng Tiểu Bình cũng như sự vận dụng các tư tưởng đó trong chiến lược xây dựng nhân tài ở Trung Quốc. Có thể nói rằng, cuốn sách này có giá trị tham khảo sâu sắc đối với việc thực hiện chính sách cán bộ nói chung và chính sách đối với trí thức, nhân tài nói riêng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tác giả Lưu Bảo Quốc (2006) với bài viết “Từ phần tử trí thức của giai cấp đến giai cấp của phần tử trí thức” [105]. Nội dung của công trình này cho rằng: “phần tử trí thức” là nhưng ng ̃ ươi co ly t ̀ ́ ́ ưởng, co hoc th ́ ̣ ưc, ́ ̃ ̣ ́ ̣ đong gop cho xa hôi, giao duc ng ́ ́ ươi khac ̀ ́ ; là sản phẩm của sự phân hoá giai cấp trong xã hội loài người. Trong các chế độ xã hội, trí thức chỉ có thể tồn tại dựa vào giai cấp nhất định với tư cách là phần tử trí thức của giai cấp đó. Tuy nhiên, khi kinh tế tri thức xuất hiện, phần tử trí thức đã thể hiện được vị trí, vai trò của mình và trở thành giai cấp độc lập. Đồng thời, trong xã hội kinh tế tri thức thì tất cả các giai cấp đều đang tiến từ phần tử trí thức hoá, trở thành giai cấp của phần tử trí thức. Đây cũng sẽ là giai cấp sau cùng của xã hội loài người để đi đến xã hội không còn giai cấp. Tác giả Lăng Tường (2002) với bài viết “Tổng quan về 5 trường đại học tổng hợp trong toàn quân” [134] đã đề cập trực tiếp đến các nhà trường của quân đội Trung Quốc, phân tích việc kiện toàn hệ thống nhà trường quân sự, đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học quân sự. Theo tác giả, hệ thống các trường quân sự của Trung Quốc được kiện toàn, đổi mới từ những năm 1980 với mục tiêu đào tạo ĐNTT chất lượng cao đáp ứng yêu cầu chiến tranh hiện đại. Các trường quân sự của Trung Quốc rất chú trọng đào tạo đội ngũ giảng viên và cán bộ
- 16 quản lý giáo dục. Đội ngũ giảng viên các trường quân sự, nhất là giảng viên có học hàm, học vị cao được quan tâm phát triển toàn diện và chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong tổng số trí thức quân đội Trung Quốc. Chẳng hạn, trường Đại học Khoa học kĩ thuật quốc phòng có 1049 Giáo sư và Phó Giáo sư; Đại học Công trình Vật lý có 543 Giáo sư và Phó Giáo sư, 276 người có học vị Sau đại học; Đại học Công trình Thông tin có trên 500 Giáo sư và Phó Giáo sư… Liên quan trực tiếp đến ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các trường quân đội về cơ bản chỉ được đề cập đến ở Liên Xô trước đây. Chẳng hạn, cuốn sách, “Phương pháp giảng dạy các môn khoa học xã hội” của X.G. Lu cônhin và V.V. Xêrêbriannicốp (chủ biên) (1981) [89]. Cuốn sách tổng kết những kinh nghiệm giảng dạy khoa học xã hội trong đó có khoa học Mác Lênin ở các trường quân sự Liên Xô, vận dụng những phương pháp và hình thức tiên tiến trong giảng dạy khoa học xã hội, nhằm phổ biến kinh nghiệm giảng dạy cho tất cả giảng viên, đặc biệt là đối với những giảng viên mới bước vào môi trường sư phạm. Tuy nhiên, đối với các chủ thể ở nhà trường quân sự phải vạch ra phương hướng phấn đấu cho họ kết hợp với kiểm tra thường xuyên quá trình thực hiện nhằm nâng cao kiến thức lý luận và nghiệp vụ sư phạm làm cơ sở để củng cố niềm tin, thế giới quan cộng sản chủ nghĩa và tâm lý vững chắc cho đội ngũ giảng viên mới ở các trường quân sự. Ngoài quan niệm và các công trình nghiên cứu đã nêu, còn một số quan niệm khác đánh giá về vai trò và tầm quan trọng của trí thức như: Lý thuyết Nhân tài 3C (3C Talent Formula) của Giáo sư Dave Ulrich Đại học Michigan (Hoa Kỳ) [25], một chuyên gia hàng đầu về nhân lực và nhân tài đề cập đến quan niệm về nhân tài với phương trình 3C (Talent =
- 17 Competence, Commitment, Contribution / Nhân tài = Năng lực, Cam kết, Cống hiến); nhân tài phải có cái đầu (năng lực sáng tạo), bàn tay và đôi chân (làm việc hết mình) và trái tim (sự viên mãn, thăng hoa, cống hiến), có khả năng làm tốt những công việc của ngày hôm nay và đặc biệt là của tương lai. Ông cũng đưa ra những giải pháp phát hiện những trí thức là “người giỏi” và bồi dưỡng, vun đắp họ thành “nhân tài”, mang lại giá trị cao cho tổ chức, xã hội. Chính sách “tam tài” của Trung Quốc (“Bồi dưỡng nhân tài, thu hút nhân tài và trọng dụng nhân tài”; “Lấy sự nghiệp để thu hút nhân tài, lấy tình đồng bào để quy tụ nhân tài, lấy chính sách để phát triển nhân tài”) [126], trong đó tập trung thực hiện các chủ trương, giải pháp: Ra sức ủng hộ sự sáng tạo của đội ngũ trí thức, thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát triển, đưa thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất; Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, động viên trí thức đóng góp vào sản xuất; Điều động nhân tài hợp lý, cạnh tranh bình đẳng, tạo cơ chế cho những người ưu tú có dịp thể hiện tài năng; Mở rộng kênh thông tin để tiếp thu ý kiến đóng góp của đội ngũ trí thức, thúc đẩy dân chủ hoá, khoa học hoá; Tăng cường công tác chính trị tư tưởng cho đội ngũ trí thức, làm cho họ kết hợp hài hoà giữa nhu cầu cá nhân và việc phục vụ Nhà nước; Hoàn thiện môi trường xã hội để trí thức phát huy được hết tài năng. 2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài Chủ đề về trí thức cũng được nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc độ và phạm vi khác nhau. Trong những năm qua, đặc biệt từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới đến nay, vấn đề trí thức được quan tâm nghiên cứu tương đối hệ thống, qua một số chương trình khoa học cấp nhà
- 18 nước, công trình nghiên cứu độc lập, luận văn, luận án và một số bài viết đáng lưu ý như: * Những công trình khoa học nghiên cứu mang tính tổng quan về trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam Tác phẩm “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước” của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười (1995) [98]. Đây là công trình được xuất bản trên cơ sở tập hợp các bài viết của tác giả về trí thức. Trong công trình này, tác giả khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước trong đánh giá về vai trò của trí thức Việt Nam đối với công cuộc phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; đề cập trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục nhằm phát huy một cách tốt nhất tiềm năng, trí tuệ của ĐNTT. Tác giả Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001) với công trình khoa học “Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [28]. Công trình đã nghiên cứu một cách toàn diện về trí thức Việt Nam. Trong đó, tác giả khẳng định vị trí, vai trò của trí thức; đi sâu phân tích đường lối CNH, HĐH của Đảng và coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời xác định những yêu cầu đặt ra trước trí thức với tư cách là nguồn nhân lực cơ bản của xã hội. Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn (1998) với công trình “Một số vấn đề về trí thức Việt Nam” [132]. Trong công trình này, một mặt tác giả trình bày những vấn đề lý luận về bản chất xã hội, vai trò của trí thức đối với tiến bộ xã hội; mặt khác, tác giả đã cung cấp cho người đọc thấy được bức
- 19 tranh chung nhất của trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, chỉ ra đặc điểm cũng như xu hướng phát triển của trí thức Việt Nam. Theo tác giả, xu hướng phát triển của ĐNTT có thể diễn ra theo hai giai đoạn: giai đoạn một, đa dạng hoá, định hình hoá các nhóm xã hội trí thức như một tầng lớp xã hội đặc thù và độc lập tương đối; giai đoạn hai, trên cơ sở đa dạng hoá và thống nhất các tính chất chung của lao động trí óc sáng tạo, các nhóm xã hội trí thức tiếp tục phát triển như một tầng lớp xã hội đặc thù và độc lập tương đối, thúc đẩy mạnh hơn quá trình trí thức hoá xã hội. Trên cơ sở phân tích những yếu tố khách quan, chủ quan việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa của ĐNTT trong xu thế phát triển của thời đại và đất nước, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp quan trọng nhằm đổi mới công tác quản lý và thực hiện chính sách xã hội đối với ĐNTT trong giai đoạn hiện nay. Tác giả Nguyễn Đắc Hưng (2005) với công trình “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước” [70]. Công trình đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng, chẳng hạn, trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về trí thức, tác giả đã phân tích những yêu cầu đặt ra đối với trí thức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Qua đó, tác giả đã khái quát thực trạng bức tranh chung của trí thức Việt Nam: từ cơ cấu, trình độ đến việc phân bố trí thức theo các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế…; đề xuất một số giải pháp phát triển trí thức trong điều kiện mới. Đề tài cấp Nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011 2020” do tác giả Đàm Đức Vượng làm chủ nhiệm (2010) [142]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính tổng thể về đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở trình bày những vấn đề lý luận chung về trí thức, đề tài đi sâu phân tích thực trạng của trí thức và sử dụng trí
- 20 thức trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Đặc biệt, để phân tích thực trạng của trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, công trình đưa ra nhiều số liệu khách quan góp phần minh chứng cho các lập luận được trình bày trong đề tài và đưa ra các phương hướng, giải pháp xây dựng ĐNTT Việt Nam giai đoạn 2011 2020. Trong đó, ngoài các giải pháp mang tính tổng thể, đề tài phân tích nhiều giải pháp có ý nghĩa để xây dựng và phát huy vai trò của trí thức trên từng lĩnh vực hoạt động. Qua đó, góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đối với ĐNTT Việt Nam trong những năm tới. Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, của hội nhập quốc tế đối với việc xây dựng, phát triển ĐNTT Việt Nam, các nhóm trí thức thuộc các lĩnh vực khác nhau; dự báo tình hình trong nước và thế giới trong những năm tới tác động đến việc xây dựng ĐNTT Việt Nam, từ đó nêu lên một số giải pháp, biện pháp cụ thể nhằm xây dựng ĐNTT Việt Nam cũng như các nhóm trí thức đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. * Những công trình khoa học nghiên cứu về xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực và các lực lượng trí thức khác nhau trong quá trình cách mạng Tác giả Ngô Thị Phượng (2007) với công trình “Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới” [103]. Công trình nghiên cứu sâu về trí thức khoa học xã hội và nhân văn. Tác giả cung cấp cho người đọc bức tranh chung về trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam; phân tích, đặc điểm, xu hướng phát triển của trí thức khoa học xã hội và nhân văn; xác định những vấn đề đặt ra đối với lực lượng này ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, tác giả đi sâu phân tích những thành tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân trong thực
- 21 hiện vai trò của ĐNTT khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam; đồng thời, trình bày nhiều quan điểm và phân tích các giải pháp phát huy vai trò của ĐNTT khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Trong các giải pháp, việc nâng cao nhận thức và tạo môi trường để phát huy khả năng sáng tạo có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy vai trò của lực lượng này. Nghiên cứu cơ bản, chuyên sâu về trí thức nữ Việt Nam, tác giả Đỗ Thị Thạch (1999) có công trình “Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay tiềm năng và phương hướng xây dựng” [111]. Trong công trình, tác giả khẳng định: với tư cách là một bộ phận quan trọng của trí thức, trí thức nữ Việt Nam có tiềm năng và đóng góp hết sức to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; trên cơ sở đó, tác giả đề xuất nhiều phương hướng có giá trị nhằm phát huy vai trò tiềm năng của trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Bàn về xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các trường đại học, nhưng không thuộc lực lượng vũ trang Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam, có công trình “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay ” của tác giả Phạm Văn Thanh (2001) [114]. Công trình này của tác giả chủ yếu là nghiên cứu về ĐNTT khoa học Mác Lênin đang trực tiếp giảng dạy trong các trường đại học (trừ các trường đại học thuộc lực lượng vũ trang) ở nước ta hiện nay. Song cũng có đề cập ở một mức độ hợp lý đến những trí thức khoa học Mác Lênin làm việc ở các lĩnh vực khác trong các trường đại học. Qua công trình này, tác giả cung cấp cho người đọc một bức tranh chung nhất về trí thức khoa học Mác Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay. Theo đó, với tư cách là một bộ phận quan trọng của
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Xây dựng và quản lý thương hiệu của các doanh nghiệp may Việt Nam
0 p | 309 | 73
-
Luận án tiến sĩ kinh doanh: Xây dựng và phát triển thương hiệu của các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến của Việt Nam
260 p | 183 | 42
-
Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng: Các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay
192 p | 101 | 28
-
Luận án Tiến sĩ: Xây dựng lối sống có văn hóa của học viên ở các trường đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
243 p | 119 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước: Thành ủy Hải Phòng lãnh đạo công tác an ninh, trật tự giai đoạn hiện nay
190 p | 56 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước: Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ giai đoạn hiện nay
191 p | 42 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước: Bồi dưỡng phong cách làm việc Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
207 p | 18 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Hồ Chí Minh học: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
184 p | 24 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước: Các tỉnh uỷ ở đồng bằng sông Cửu Long lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ là người Khmer giai đoạn hiện nay
206 p | 42 | 11
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay
162 p | 66 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước: Các đảng ủy cơ quan báo chí Trung ương lãnh đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
246 p | 18 | 8
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng: Các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay
27 p | 71 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ Quân chủng Phòng không - Không quân lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ năm 2005 đến năm 2015
242 p | 24 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước: Bồi dưỡng phong cách làm việc Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
27 p | 19 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Xây dựng lối sống có văn hóa của học viên ở các trường đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
29 p | 99 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Ứng dụng hệ thống điều chế mã có xáo trộn vị trí bit và giải mã lặp để nâng cao chất lượng ghi/đọc dữ liệu
24 p | 74 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước: Các tỉnh uỷ ở đồng bằng sông Cửu Long lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ là người Khmer giai đoạn hiện nay
27 p | 15 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn