1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ---------------------*---------------------
NGUYỄN THỊ THANH TÂM
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP LÀM MẸ AN TOÀN Ở CÁC BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 2 TUỔI TẠI 5 TỈNH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2012
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
Hà Nội - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ---------------------*---------------------
NGUYỄN THỊ THANH TÂM
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP LÀM MẸ AN TOÀN Ở CÁC BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 2 TUỔI TẠI 5 TỈNH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2012
Chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế
Mã số: 62.72.01.64
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Nguyễn Viết Tiến
2. GS. Đào Văn Dũng
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
3
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và nhóm nghiên
cứu thực hiện tại 5 tỉnh Hà Giang, Hòa Bình, Phú Thọ, Kon Tum và Ninh
Thuận. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thanh Tâm
LỜI CẢM ƠN
4
Để hoàn thành bản luận án này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
và hỗ trợ chân thành, hiệu quả của nhiều đơn vị, cá nhân, các thày, cô giáo,
các đồng nghiệp, bạn bè, người thân trong gia đình.
Tôi xin bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc, Phòng Đào tạo
sau đại học – Khoa Đào tạo và Quản lý khoa học, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung
ương luôn tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận án.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Viết
Tiến và GS. TS Đào Văn Dũng, đặc biệt cố PGS. TS Lê Anh Tuấn những
người thầy có nhiều kiến thức, kinh nghiệm đã giúp đỡ tôi lựa chọn, định
hướng, tận tình giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, thực
hiện đề tài cũng như hoàn thành luận án.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các cơ quan ban ngành của 5
tỉnh: Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Y tế, Chi cục Dân số/Kế hoạch hóa gia đình
tỉnh, Cục Thống kê tỉnh, Phòng Thống kê các huyện, các bệnh viện tỉnh,
Trung tâm CSSKSS tỉnh, Trung tâm Y tế của các huyện và Trạm y tế xã trong
tỉnh đã tích cực ủng hộ và hợp tác với các cán bộ điều tra trong quá trình thu
thập số liệu thực địa tại các địa phương.
Tôi vô cùng biết ơn những người cung cấp dịch vụ sức khoẻ sinh sản ở
các cơ sở y tế, những cán bộ của Chi cục Dân số/Kế hoạch hóa gia đình, Hội
Phụ nữ, Hội Nông dân, những bà mẹ đã chấp thuận tham gia nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến các chuyên gia và các nhà quản
lý chương trình từ trung ương đến địa phương về những bình luận sắc sảo, sự
góp ý nhiệt tình và có tính xây dựng cho luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám đốc và các cán bộ của
Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, đặc biệt các cán bộ của phòng Tổ chức cán
5
bộ nơi tôi làm việc đã tạo điều kiện, quan tâm và động viên tôi hoàn thành
luận án này.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn cha mẹ, chồng, hai con, anh chị em, những
người thân trong gia đình và bạn bè đã hết lòng ủng hộ, động viên tôi trong
suốt quá trình học tập và là động lực giúp tôi vượt qua những khó khăn để đạt
được kết quả khoa học và hoàn thành luận án.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thanh Tâm
6
MỤC LỤC
Lời cam đoan Lời cảm ơn Danh mục chữ viết tắt Mục lục Danh mục bảng Danh mục biểu đồ ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN .......................................................................... 17
1.1. Chăm sóc trước, trong và sau sinh ..................................................... 20
1.1.1. Chăm sóc trước sinh (CSTS) ................................................................ 20
1.1.2. Chăm sóc trong khi sinh ........................................................................ 23
1.1.3. Chăm sóc sau sinh ................................................................................. 26
1.1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận các dịch vụ y tế làm mẹ an toàn 28
1.2. Một số can thiệp về làm mẹ an toàn ................................................... 39
1.2.1. Nâng cấp cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị và thuốc cần thiết .... 39
1.2.2. Đào tạo cán bộ y tế cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn và chăm sóc sức
khỏe sinh sản ......................................................................................... 42
1.2.3. Xây dựng và thực hiện các chính sách và các Hướng dẫn Chuẩn Quốc
gia về SKSS và LMAT......................................................................... 45
1.2.4. Truyền thông nâng cao nhận thức của người dân về LMAT .............. 49
1.2.5. Mô hình chăm sóc liên tục bà mẹ và trẻ sơ sinh từ nhà đến bệnh viện 54
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến chương trình can thiệp làm mẹ an toàn 28
1.3.1. Nguồn nhân lực y tế .............................................................................. 28
1.3.2. Cở sở vật chất ........................................................................................ 34
1.3.3. Công tác theo dõi và giám sát ............................................................... 36
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 57
2.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 57
7
2.2. Thời gian và địa điểm can thiệp và thu thập số liệu ........................... 57
2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 59
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu ............................................................................... 59
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu và chọn mẫu ......................................................... 59
2.3.3. Kỹ thuật và công cụ thu thập số liệu ..................................................... 62
2.3.4. Qui trình can thiệp ................................................................................. 62
2.3.5. Một số định nghĩa, khái niệm ............................................................... 69
2.3.6. Bảng biến số nghiên cứu ....................................................................... 71
2.3.7. Phân tích số liệu .................................................................................... 74
2.3.8. Sai số, giới hạn và hạn chế của nghiên cứu .......................................... 75
2.3.9. Đạo đức trong nghiên cứu ..................................................................... 75
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................... 76
3.1. Một số đặc trưng cá nhân của các bà mẹ ............................................ 76
3.1.1 Tuổi và trình độ học vấn: ....................................................................... 76
3.1.2 Dân tộc và tôn giáo: ............................................................................... 77
3.1.3. Số con sống: .......................................................................................... 78
3.2. Hiệu quả can thiệp về kiến thức chăm sóc trước trong và sau sinh ở các
bà mẹ ................................................................................................. 79
3.2.1. Hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức và thực hành chăm sóc
trước sinh .................................................................................... 79
3.2.2. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc trong sinh .... 90
3.2.3. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh ....... 98
3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp.............................. 108
3.3.1. Thiếu nhân lực y tế .............................................................................. 108
3.3.2. Thiếu trang thiết bị .............................................................................. 111
3.3.3. Công tác theo dõi giám sát còn chưa được đồng bộ .......................... 114
3.3.4. Sử dụng dịch vụ tuyến dưới ................................................................ 115
8
Chương 4: BÀN LUẬN ............................................................................ 122
4.1. Hiệu quả can thiệp về chăm sóc trước trong và sau sinh ở các bà mẹ122
4.1.1. Đặc trưng cá nhân của các bà mẹ. ...................................................... 122
4.1.2. Hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức và thực hành chăm sóc
trước sinh .................................................................................. 122
4.1.3. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc trong sinh .. 130
4.1.4. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh ..... 136
4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp.............................. 142
4.2.1. Thiếu nhân lực y tế .............................................................................. 142
4.2.2. Công tác theo dõi giám sát còn chưa được đồng bộ .......................... 149
4.2.3. Sử dụng dịch vụ tuyến dưới ngày càng ít ........................................... 151
4.2.4. Khả năng tiếp cận dịch vụ làm mẹ an toàn ......................................... 152
KẾT LUẬN ............................................................................................... 160
KIẾN NGHỊ .............................................................................................. 162
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
9
Bảng 3.1. Phân bố nhóm tuổi, trình độ học vấn của các bà mẹchung cho 5 tỉnh
trước và sau can thiệp ......................................................................... 76
Bảng 3.2. Phân bố dân tộc, tôn giáo của các bà mẹchung cho 5 tỉnh trước và sau
can thiệp ............................................................................................. 77
Bảng 3.3. Phân bố số con sống của các bà mẹchung cho cho 5 tỉnh trước và sau
can thiệp ............................................................................................. 78
Bảng 3.4. Thay đổi kiến thức về số lần khám thai trước và sau can
thiệpchungcho 5 tỉnh ........................................................................... 79
Bảng 3.5. Thay đổi kiến thức về khám thai ít nhất 3 lần cho 1 lần mang thai
trước và sau can thiệp theo tỉnh ........................................................... 81
Bảng 3.6. Thay đổi kiến thức về số lần tiêm phòng uốn ván trước và sau can
thiệpchung cho 5 tỉnh .......................................................................... 81
Bảng 3.7. Thay đổi kiến thức về tiêm phòng uốn ván ít nhất 2 lần cho 1 lần
mang thai trước và sau can thiệp phân tích theo tỉnh .......................... 82
Bảng 3.8. Thay đổi kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai trước và
sau can thiệpchung cho 5 tỉnh ............................................................. 83
Bảng 3.9. Thay đổi kiến thức vềít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai
trước và sau can thiệp phân tích theo tỉnh ........................................... 84
Bảng 3.10. Thay đổi kiến thức về xử trí các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai
trước và sau can thiệp chung cho 5 tỉnh ............................................... 85
Bảng 3.11. Thay đổi kiến thức về xử trí các dấu hiệu nguy hiểm tại cơ sở y tế
côngkhi mang thai trước và sau can thiệpphân tích theo tỉnh ............... 86
Bảng 3.12. Thay đổi về thực hành khám thaiđủ từ 3 lần trở lên phân tích theo
tỉnh ..................................................................................................... 87
Bảng 3.13. Thay đổi thực hành của cácbà mẹ về nơi khám thai chung cho 5
tỉnh ..................................................................................................... 87
Bảng 3.14 . Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiêm phòng uốn ván đủ
mũi trước và sau can thiệp phân tích theo tỉnh..................................... 89
Bảng 3.15. Thay đổi kiến thức của các bà mẹ về ai là người đỡ đẻ tốt nhất trước
và sau can thiệp chung cho 5 tỉnh ........................................................ 90
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.16. Thay đổi kiến thức về cán bộ y tế là người đỡ đẻ tốt nhất trước và
sau can thiệp phân tích theo tỉnh ........................................................ 91
Bảng 3.17. Thay đổi kiến thức biết các dấu hiệu nguy hiểm khi sinh trước và sau
can thiệpchung cho 5 tỉnh ................................................................... 91
Bảng3.18. Thay đổi kiến thức của các bà mẹ về biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy
hiểm trong khi sinh trước và sau can thiệp phân tích theo tỉnh ............ 93
Bảng 3.19 . Thay đổi về nơibà mẹ sinh con trước và sau can thiệp chung cho 5
tỉnh ..................................................................................................... 93
Bảng 3.20. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ sinh con tại cơ sở y tế trước và sau can
thiệp phân tích theo tỉnh ..................................................................... 94
Bảng 3.21. Thay đổi về người đỡ đẻ cho bà mẹ sinh con trước và sau can thiệp
chung cho 5 tỉnh.................................................................................. 95
Bảng 3.22. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ sinh con được cán bộ y tế đỡ đẻ trước và
sau can thiệp phân tích theo từng tỉnh ................................................ 96
Bảng 3.23. Tỷ lệ phụ nữ mang thai được chồng đưa đi đẻ trong lần sinh gần đây
nhất theo từng tỉnh .............................................................................. 97
Bảng 3.24. Tỷ lệ PN được người nhà giúp đỡ chuẩn bị lần sinh đẻ gần đây nhất
chung cho 5 tỉnh.................................................................................. 98
Bảng 3.25. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về khám lại sau sinh cho từng
tỉnh ..................................................................................................... 99
Bảng 3.26. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về từng dấu hiệu nguy hiểm
sau sinh chung cho 5 tỉnh .................................................................. 100
Bảng 3.27. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức đầy đủ về 5dấu hiệu nguy
hiểm sau sinh theo từng tỉnh ............................................................. 101
Bảng 3.28. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về thời gian cho trẻ bú lần đầu
tiên sau sinh chung cho 5 tỉnh ........................................................... 101
Bảng 3.29. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về các biện pháp tránh thai
phân tích theo từng tỉnh..................................................................... 102
Bảng 3.30. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về ít nhất 3 quyền của khách
hàng .................................................................................................. 104
Bảng 3.31. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về các quyền của khách hàng
trong CSSKSS chung cho 5 tỉnh ....................................................... 105
Bảng 3.32. Thay đổi về thực hành khám lại sau sinh trong vòng 6 tuần từng tỉnh 106
10
Bảng 3.33. Thay đổi về thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 30 phút sau sinh
cho 5 tỉnh ......................................................................................... 107
Bảng 3.34. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ áp dụngcác biện pháp tránh thai sau khi
sinh theo từng tỉnh ............................................................................ 108
Bảng 3.35. Tỷ lệ các trạm y tế có các phòng theo chuẩn quốc gia ........................ 111 Bảng 3.36. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến việc khám thai đầy
đủ (>=3 lần) trước khi sinh của bà mẹ ............................................... 118
Bảng 3.37. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến nơi sinh tại cơ sở y tế
của bà mẹ .......................................................................................... 119 Bảng 3. 38. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến cán bộ y tế đỡ đẻ ..... 120 Bảng 4.1. Phân bố thực trạng nhân lực cán bộ y tế tại 5 tỉnh ................................ 142 Bảng 4.2. Các chỉ số theo dõi chăm sóc sản khoa thiết yếu .............................. 146 Bảng 4.3. Phân bố tình hình trang thiết bị của 5 tỉnh ............................................ 147
11
12
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Thay đổi kiến thức về khám thai ít nhất 3 lần cho một lần
mang thai trước và sau can thiệp chung cho cho 5 tỉnh ............ 80
Biểu đồ 3.2. Thay đổi kiến thức về ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm khi mang
thai trước và sau can thiệp chung cho 5 tỉnh ............................ 84
Biểu đồ 3.3. Thay đổi thực hành khám thai đủ từ 3 lần trước và sau can
thiệp ........................................................................................ 86
Biểu đồ 3.4. Thay đổi thực hành tiêm phòng uốn ván đủ mũi trước và sau
can thiệp .................................................................................. 88
Biểu đồ 3.5. Thay đổi kiến thức biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm khi sinh
trước và sau can thiệp chung cho các tỉnh ................................ 92
Biểu đồ 3.6. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ sinh con được cán bộ y tế đỡ đẻ
trước và sau can thiệp chung cho 5 tỉnh ................................... 95
Biểu đồ 3.7. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ mang thai được chồng đưa đi đẻ
trong lần sinh gần đây nhất theo tỉnh chung cho 5 tỉnh ............ 97
Biểu đồ 3.8. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về khám lại sau sinh
chung cho 5 tỉnh ...................................................................... 98
Biểu đồ 3.9. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về về 5 dấu hiệu nguy
hiểm sau khi sinh chung cho 5 tỉnh .......................................... 99
Biểu đồ 3.10. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về các biện pháp
tránh thai chung cho 5 tỉnh .................................................... 102
Biểu đồ 3.11. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về ít nhất 3 quyền của
khách hàng trong CSSKSS chung cho 5 tỉnh ......................... 103
Biểu đồ 3.12. Thay đổi về thực hành khám lại sau sinh trong vòng 6 tuần
chung cho 5 tỉnh ................................................................... 106
Biểu đồ 3.13. Thay đổi về tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai sau
sinh/5 tỉnh .............................................................................. 107
Biểu đồ 3.14. Tỷ lệ trang thiết bị được cung cấp theo chuẩn Quốc gia tại 5
tỉnh ........................................................................................ 112
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
13
BLTQĐTD Bệnh lây truyền qua đường tình dục
BSCK Bác sĩ chuyên khoa
BV Bệnh viện
BYT Bộ Y tế
BHYT Bảo hiểm y tế
CBYT Cán bộ y tế
CBQL Cán bộ quản lý
CQG Chuẩn Quốc gia
CLCSSKSS Chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản
CSSKBMTE Chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em
CSSKSS Chăm sóc sức khỏe sinh sản
CSSS Chăm sóc sau sinh
CSTS Chăm sóc trước sinh
DS - KHHGĐ Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
HDCQGVN Hướng dẫn chuẩn Quốc gia Việt Nam
IMR Tỷ suất tử vong trẻ dưới 1 tuổi (Infant Motarlity Rate)
KT – TĐ – TH Kiến thức – Thái độ - Thực hành
LMAT Làm mẹ an toàn (Safe Motherhood)
MMR Tỷ suất tử vong mẹ (Maternal Mortality Rate)
NHS Nữ hộ sinh
NKĐSS Nhiễm khuẩn đường sinh sản
PVS Phỏng vấn sâu
SC Tổ chức cứu trợ Trẻ em Quốc tế (save the children)
14
SKSS Sức khỏe sinh sản
SKSSVTN Sức khỏe sinh sản vị thành niên
SKTD Sức khỏe tình dục
TFR Tổng tỷ suất sinh (Total Fertility Rate)
TT – GD – TT Thông tin - Giáo dục - Truyền thông
TTGDSK Truyền thông giáo dục sức khỏe
TTB Trang thiết bị
TTYT Trung tâm y tế
TYT Trạm y tế
UBDS&KHHGĐ Ủy ban Dân số & Kế Hoạch Hóa Gia Đình
UBDS-GĐ-TE Ủy ban Dân Số, Gia Đình và Trẻ Em (VCPFC)
UNFPA
UNICEF
Quĩ Dân số Liên hiệp quốc (United Nations Population Fund Quĩ Nhi đồng Liên hiệp quốc (United Nations Children's Fund)
YSSN Y sĩ Sản Nhi
YTTB Y tế thôn bản
WHO Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)
ĐẶT VẤN ĐỀ
15
Chăm sóc bà mẹ khi mang thai, khi sinh đẻ và sau sinh có vai trò quan
trọng góp phầnnâng cao sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, đặc biệt là làm
giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật cho cả mẹ lẫn con. Làm mẹ an toàn (LMAT) là
chương trình theo dõi, phát hiện những biểu hiện bất thường trong quá trình bắt
đầu từ mang thai, sinh đẻ cho đến 42 ngày sau sinh. Chăm sóc trước, trong và
sau sinh là các yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo cho sức khoẻ bà mẹ cũng như
đứa trẻ được sinh ra hoàn toàn bình thường. Hội nghị quốc tế về dân số và phát
triển tại Cairo năm 1994 tập trung chủ yếu vàosóc sức khỏe sinh sản
(CSSKSS), trong đó “Làm mẹ an toàn” là nội dung hàng đầu của chăm sóc sức
khỏe sinh sản. Ở Việt Nam, một trong những ưu tiên của Đảng và Nhà nước
trong chiến lược Quốc gia bảo vệ và chăm sóc Sức khỏe nhân dân giai đoạn
2011-2020tầm nhìn đến năm 2030 “Cần đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe sinh sản,
dân số kế hoạch hóa gia đình…”[25]. Điều này cũng đã được thể hiện trong
mục tiêu cụ thể của Chiến lược Dân số và chăm sóc sức khỏe Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 là “Nâng cao sức khỏe bà mẹ, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về
các chỉ báo sức khỏe bà mẹ giữa các vùng miền” [24].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), ước tính mỗi năm cókhoảng
585.000 phụ nữ tử vong do những nguyên nhân có liên quan đến thai sản,
99% số tử vong nàyxuất hiện ở các nước đang phát triển, chủ yếu ở Châu Phi,
Trung Á, Tây Á và Đông Nam Á. Cũng theo TCYTTG, cứ mỗi phút có một
phụ nữ tử vong do các tai biến liên quan đến quá trình thai sản. Có ít nhất 7
triệu phụ nữsau khi sinh có những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng và hơn 50
triệu phụ nữ có những hậu quả về sức khoẻ sau khi sinh [74]. Khoảng 8 triệu
trẻ em chết trong năm đầu, có khoảng 4,3 triệu trẻ sơ sinh chết trong 28 ngày
đầu sau sinh [74]. Tại các nước đang phát triển, mang thai và sinh đẻ là
16
nguyên nhân chính dẫn đến tử vong, bệnh tật và tàn phế cho phụ nữ, chiếm
khoảng 18% gánh nặng bệnh tật ở nhóm tuổi này[79]. Tử vong sơ sinh chủ
yếu xảy ở các nước đang phát triển, chiếm 96% trẻ sơ sinh chết hàng năm trên
thế giới [79].
Ba tỉnh miền núi phía Bắc là Hà Giang, Hòa Bình, Phú Thọ và hai tỉnh Tây
Nguyên và ven biển miền Trung là Kon Tum và Ninh Thuận là những tỉnh có
tỷ suất chết của trẻ em <1 tuổi và tỷ số tử vong mẹ rất cao trong cả nước.
Chính vì vậy, các tỉnh trên đã được chọn để can thiệp trong chương trình
CSSKSS do Chính phủ Việt Nam và Quỹ Dân số Liên hiệp quốc tài trợ trong
giai đoạn 2006-2010. Các tỉnh này được cung cấp trang thiết bị y tế, đào tạo
nâng cao năng lực cán bộ y tế, giám sát hoạt động CSSKSS và tăng cường
công tác truyền thông tại cộng đồng để nhằm mục đích nâng cao chất lượng
cán bộ y tế, hiểu biết của người dân tiến tới giảm tỷsuất tử vong mẹ và trẻ sơ
sinh.Một nghiên cứu đánh giá hiệu quả can thiệp tác động tới nhóm các bà mẹ
có con dưới 2 tuổi tại các tỉnh trên là thực sự cần thiết, vì vậy nghiên cứu:
“ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP LÀM MẸ AN TOÀN Ở CÁC BÀ
MẸ CÓ CON DƯỚI 2 TUỔI TẠI 5 TỈNH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2006-2010”được tiến hành với các mục tiêu sau:
1. Đánh giá sự thay đổi vềkiến thức, thực hành sau can thiệp của
chương trình làm mẹ an toàncủa các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5
tỉnh Hà Giang, Hòa Bình, Phú Thọ, Kon Tum và Ninh Thuận giai
đoạn 2006-1010.
2. Xác địnhnhững yếu tốvềcung cấp dịch vụ ảnh hưởng đến kết quả can
thiệp làm mẹ an toàn ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh trên giai
đoạn 2006-2010.
Chương 1
TỔNG QUAN
17
Làm mẹ an toàn (LMAT) là một lĩnh vực ưu tiên trong chăm sóc sức
khoẻ của các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Tại
Việt Nam, LMAT tập trung vào giảm tỷsố tử vong mẹ và tử vong sơ sinh.
Làm mẹ an toànđảm bảo cho tất cả các phụ nữ và trẻ sơ sinh đều được nhận
sự chăm sóc cần thiết để được hoàn toàn khoẻ mạnh trong suốt thời gian
mang thai, sinh đẻ và sau đẻ, bao gồm cả điều trị cấp cứu sản khoa khi có tai
biến xảy ra [6], [16].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), mỗi năm có khoảng 585.000
phụ nữ bị tử vong trong lúc mang thai hoặc khi sinh, hơn 3 triệu trẻ sơ sinh bị
tử vong chu sinh, hơn 4 triệu trẻ sơ sinh tử vong trong tháng đầu tiên sau sinh,
640 triệu phụ nữ ốm yếu do liên quan đến thai nghén, 64 triệu phụ nữ phải
chịu đựng những biến chứng khi sinh [92].Tỷ số tử vong mẹ (MMR) ở Việt
Nam năm 2009 là 69 ca trên 100.000 trẻ đẻ sốngtheo báo cáo của Tổng Điều
tra Dân số và Nhà ở trên phạm vi toàn quốc và Vụ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ em
[22], [64]. Tỷ suất tử vong của trẻ dưới 1 tuổi là 16/1000 trẻ sinh sống
[64].Quản lý chăm sóc trong suốt thời kỳ mang thai sẽ giúp làm giảm tỷ lệ tử
vong mẹ và tử vong sơ sinh, đặc biệt giảm 5 tai biến sản khoa: băng huyết sau
sinh, tiền sản giật, nhiễm trùng hậu sản, vỡ tử cung và uốn ván rốn. Tỷ suất tai
biến sản khoa trên tổng số đẻ năm 2005 là 2,45‰. Trong đó, tỷ lệ nguyên
nhân chết trong tổng số chết do các tai biến sản khoa: băng huyết 68,1%, uốn
ván sơ sinh 13,1%, vỡ tử cung 4,5%, sản giật 7,7%, nhiễm trùng 6,6% [19].
Biến chứng sản khoa luôn là nỗi ám ảnh của các phụ nữ trong quá trình sinh
nở. Các biến chứng chảy máu đa số bắt nguồn từ nguyên nhân rau tiền đạo,
rau cài răng lược, rau bong non, thai chết lưu, thuyên tắc ối...Ngày nay tỷ lệ
18
nhau cài răng lược ngày càng tăng do tỷ lệ mổ lấy thai và nạo phá thai có xu
hướng tăng (năm 1998 là 1/1.900, thì 2011 là 1/1.100) [69].
Theo khuyến cáo của TCYTTG mỗi phụ nữ mang thai ít nhất phải được
khám thai ít nhất 4 lần vào cả 3 tháng đầu, 3 tháng giữa và 3 tháng cuối khi
mang thai [3], [9]. Tỷ lệ phụ nữ có thai khám thai ít nhất 1 lần trên toàn thế
giới là 68%, thấp nhất là ởchâu Phi 63%, châu Á 65%, châu Mỹ La Tinh 73%,
cao nhất là Bắc Mỹ và châu Âu 97%. Ở một số quốc gia, việc sử dụng dịch vụ
này còn thấp như ở Nepal 15%, Pakistan 26%; trong khi đó, một số nước có
tỷ lệ khám thai khá cao như Srilanka là 97%, Mexico 91% [112], [113].
Cũng theo khuyến cáo của TCYTTG và Bộ Y tế Việt Nam, mỗi phụ nữ
mang thai ít nhất phải được tiêm phòng uốn ván 2 lần để phòng bệnh uốn ván
cho mẹ và trẻ sơ sinh [9].Theo báo cáo tổng kết của Vụ Sức khỏe sinh sản có
88,5% thai phụ tiêm phòng uốn ván đủ 2 mũi [11]. Một số nghiên cứu trong
những năm gần đây về tỷ lệ khám thai đủ tại các địa phương cho kết quả như
sau: tại Hương Long, Huế 83,3% (2002) [37], [38].Tại Chí Linh-Hải Dương
85,4% (2002), tại Tiên Du, Bắc Ninh 90,5% (2002) [39], [40], [41].
Để giảm tử vong và nâng cao sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh, tại nhiều
nước trên thế giới đã có những chương trình can thiệp về LMAT. Một số mô
hình can thiệp được triển khai phối hợp như chương trình LMAT, trong đó
tập trung chủ yếu vào giải quyết khâu “3 chậm trễ” (chậm trễ do bà mẹ và gia
đình không biết vấn đề cần phải cấp cứu; chậm trễ do phải vận chuyển bà mẹ
đến cơ sở y tế cung cấp dịch vụ cấp cứu sản khoa cơ bản vàtoàn diện;chậm trễ
trong việc cấp cứu sản khoa toàn diện)[32],[61]. Theo báo cáo tổng hợp của
nhiều chuyên gia trên thế giới do tạp chí Lancet xuất bản năm 2007 [89], cho
tới thời điểm này có 3 chiến lược can thiệp được cho là hiệu quả trong
LMAT, đặc biệt là để giảm tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh là:
19
(1) Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình
(2) Chăm sóc tốt trước, trong và sau khi sinh
(3) Tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ cấp cứu sản khoa.
Can thiệp giảm tử vong mẹ trong lúc đẻ có thể giúp giảm tử vong trẻ
chu sinh tới 30-45% và giảm tỷ lệ chết lưu tới 25-62%. Chiến lược giảm tử
vong mẹ nhằm hướng tới đảm bảo mỗi ca đẻ đều có người đỡ đẻ có kỹ năng
hỗ trợ, mỗi người phụ nữ được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sản khoa thiết
yếu và toàn diện khi cần [103]. Điều này càng chỉ rõ rằng phải đánh giá nhu
cầu và xác định thực trạng địa phương trước khi tiến hành can thiệp. Kiến
thức về thực trạng cơ sở y tế địa phương (nhân lực, cơ sở vật chất, dịch vụ
chăm sóc sức khỏe thiết yếu) cung và cầu, mối liên hệ giữa gia đình với cộng
đồng, với cơ sở y tế (trạm y tế, bệnh viện huyện và tỉnh) và hệ thống chuyển
tuyến tại cộng đồng là những kiến thức bắt buộc phải có trước khi tiến hành
can thiệp giảm tử vong mẹ.
Như vậy, các hoạt động can thiệp chủ yếu bao gồm: truyền thông giáo
dục sức khoẻ về chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh, các dấu hiệu nguy hiểm khi
mang thai, khi sinh và sau khi sinh, xây dựng mô hình chuyển tuyến tại cộng
đồng, đào tạo cán bộ y tế, tăng cường giám sát các cơ sở cung cấp dịch vụ
LMAT và cung cấp trang thiết bị CSSKSS. Những mô hình này đã được Quỹ
Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA), TCYTTG, các tổ chức chính phủ và các tổ
chức phi chính phủ quốc tế và trong nước triển khai tại nhiều nước trên thế
giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam [84]. Các mô
hình được triển khai đã chứng minh được hiệu quả làm giảm tử vong và tai
biến trước, trong và sau khi sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Việt Nam, Nepal,
Pakistan, Ấn Độ và một số nước trong khu vực cũng như ở châu Phi đã tổng
kết và nhân rộng các mô hình này trên phạm vi toàn quốc[61].
20
1.1. Chăm sóc trước, trong và sau sinh
1.1.1. Chăm sóc trước sinh(CSTS)
Chăm sóc trước sinh tập trung chủ yếu vào một số hoạt động như khám
thai, tiêm phòng uốn ván, phát hiện các dấu hiệu nguy hiểm và kịp thời điều
trị, truyền thông về dinh dưỡng và giữ vệ sinh cho phụ nữ trong quá trình
mang thai [42]. Bổ sung viên sắt thường xuyên để phòng tránh thiếu máu do
thiếu sắttrong khi có thailà một trong những nhiệm vụ của chương trình dinh
dưỡng quốc gia cung cấp viên sắt hàng tuần cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
ở Việt Nam [81].
Theo báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) giai đoạn
2003-2007, tỷ lệ phụ nữ độ tuổi 15-49 có thai được cán bộ y tế khám thai ít
nhất 1 lần trên toàn thế giới là 77%, thấp nhất là khu vực Nam Á là 68%, cao
nhất là khu vực Mỹ Latinh và khu vực Caribe là 94%, các nước đang phát
triển là 77% và các nước kém phát triển là 64%[112], [113]. Tỷ lệ khám thai
còn thấp hơn nhiều như ở các quốc gia có xung đột sắc tộc và chiến tranh như
Afghanistan 16%. Tỷ lệ khám thai khác nhau ở các quốc gia khác nhau như
Somalia (26%), Ethiopia(28%), Lào (35%), Nepal (44%), Ấn Độ(74%), Miến
Điện (76%), Ma-lai-xi-a (79%), Philippin (88%), Thái Lan (98%), Australia
(100%) và Việt Nam (91%)[113].Tuy nhiên, các con số thống kê trên ở các
quốc gia đang phát triển chỉ mang tính ước lượng và nhiều khi thiếu chính xác
do hệ thống báo cáo y tế còn nhiều hạn chế.
Nghiên cứu tại 1 tỉnh của Trung Quốc cho thấy hơn một nửa số người
phụ nữ khám thai lần đầu tiên vào tuần thứ 13 của thai kỳ, 36% khám thai ít
hơn 5 lần và khoảng 9% không khám thai lần nào và lý do chính của việc
không khám thai là do người phụ nữ cho rằng việc khám thai là không cần
thiết [116]. Theo báo cáo của TCYTTG, tại các nước đang phát triển, tỷ lệ
phụ nữ khám thai đủ 3 lần khoảng từ 10% đến hơn 90%; đặc biệt phụ nữ
21
nghèo ở các vùng nông thôn không khám thai đủ theo quy định [121]. Tuy
nhiên, báo cáo này không đề cập đến chất lượng của khám thai như có đảm
bảo khám thai vào mỗi thai kỳ hoặc nội dung của khám thai có đảm bảo hay
không. Nhìn chung, các nghiên cứu trên thế giới thường chỉ đề cập đến số
lượng chứ không đề cập đến chất lượng của khám thai. Việc phát hiện chất
lượng khám thai đòi hỏi những nghiên cứu hết sức phức tạp và tốn nhiều
nguồn lực.
Theo báo cáo tổng quan các nghiên cứu về chăm sóc SKSS tại Việt
Nam giai đoạn 2000-2005 của Quỹ Dân số Liên Hiệp quốc thì có khoảng 1/10
đến 1/3 số phụ nữ không đi khám thai khi mang thai, số phụ nữ khám thai ít
nhất 3 lần thay đổi từ 1/5 cho đến 1/3 phụ thuộc vào tôn giáo và nơi ở của phụ
nữ. Tính bình quân, số lần khám thai trung bình của một phụ nữ khi mang thai
là 2,7 lần ở khu vực miền núi và 3,7 lần ở khu vực đồng bằng [58]. Tỷ lệ phụ
nữ làm nghề nông khám thai đủ 3 lần thấp hơn so với các phụ nữ làm nghề
khác, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Trình độ học vấn, thu
nhập và kiến thức về chăm sóc trước sinh có ảnh hưởng rõ rệt đến việc sử
dụng các dịch vụ chăm sóc trước sinh (khám thai, tiêm phòng uốn ván, và
uống viên sắt) [58].
Theo Giám đốc điều hành Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc, một trong
những nguyên nhân làm cho phụ nữ mang thai ít nhận được các dịch vụ chăm
sóc trước sinh là do họ chưa hiểu được tầm quan trọng và tính cần thiết của
công tác chăm sóc trước sinh. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này như
trình độ học vấn thấp, người dân tộc, điều kiện kinh tế có hạn, khả năng tiếp
cận của họ đến các cơ sở chăm sóc trước sinh (tiếp cận về địa lý, kinh tế và
văn hóa), phân bố của các cơ sở y tế và sự hài lòng của họ đối với các cơ sở
cung cấp dịch vụ trước sinh [61].
22
Theo kết quả của một nghiên cứu tại Ấn Độ cho thấy có khoảng 60%
phụ nữ trả lời rằng chăm sóc trước sinh là không cần thiết [104]. Báo cáo
tổng quan các nghiên cứu về SKSS ở các nước đang phát triển từ năm 1990-
2006 cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ chăm sóc trước sinh
của các bà mẹ bao gồm: trình độ học vấn của bà mẹ và người chồng, tình
trạng hôn nhân, tính sẵn có của dịch vụ, chi phí y tế, thu nhập hộ gia đình,
nghề nghiệp của bà mẹ, khả năng tiếp cận các phương tiện truyền thông và
tiền sử sinh sản phức tạp của bà mẹ. Ngoài ra yếu tố tín ngưỡng, văn hóa và
phong tục tập quán, tuổi tác và tôn giáo cũng có ảnh hưởng đến sử dụng dịch
vụ chăm sóc trước sinh của các bà mẹ [120].
Theo báo cáo công tác chăm sóc sức khỏe năm 2009 và phương hướng
nhiệm vụ năm 2010 của Vụ Sức khoẻ Bà mẹ và Trẻ em, Bộ Y tế, tỷ lệ phụ nữ
mang thai được khám thai ít nhất 1 lần năm 2009 là 96,4% , tỷ lệ này ở vùng
Tây Bắc là 86,3% thấp nhất trong cả nước. Tỷ lệ phụ nữ khám thai trên 3 lần
trung bình toàn quốc là 88,3%. Vùng Tây Bắc và Tây Nguyên vẫn là 2 vùng
khó khăn hơn mới chỉ đạt 70,1% và 79,2% [72].So với năm 2005 Việt Nam
có tỷ lệ phụ nữ khám thai ít nhất 1 lần là 84,14% thì tỷ lệ phụ nữ khám thai ít
nhất 1 lần cũng đã có sự gia tăng [70] Như đã phân tích ở trên, các số liệu
thống kê nhiều khi là chưa thật chính xác, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa,
vùng có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống. Hiện nay, tại các vùng này đã có
hệ thống “cô đỡ thôn bản” và y tế cơ sở đã được củng cố nhiều hơn, tỷ lệ
khám thai ở các bà mẹ mang thai cũng đã được cải thiện nhiều [12].
Uốn ván sơ sinh là một trong 5 tai biến sản khoa có thể phòng chống
được nếu trong thời gian mang thai người phụ nữ được tiêm đủ vắc xin
phònguốn ván. Tiêm phòng uốn ván là một thành phần rất quan trọng của
công tác chăm sóc trước sinh. Hiện nay, tỷ lệ trẻ sơ sinh mắc uốn ván thấp
nhưng tỷ lệ tử vong do uốn ván rất cao. Theo báo cáo năm 2009 và phương
23
hướng nhiệm vụ năm 2010 của Bộ Y tế, trong những năm gần đây tỷ lệ phụ
nữ mang thai được tiêm 2 mũi vắc xin phòng uốn ván đều đạt ở mức cao trên
94%. Theo số liệu chưa đầy đủ trong năm 2008, cả nước vẫn còn 19 trường
hợp uốn ván sơ sinh, trong đó có 9 tử vong và trong 9 tháng đầu năm 2009
vẫn có 12 trường mắc và 8 tử vong [72].
Bổ sung viên sắt trong thời kỳ mang thai cũng là một trong những nội
dung chăm sóc trước sinh. Trước đây, viên sắt được cung cấp miễn phí cho
phụ nữ mang thai nhưng trong những năm gần đây phụ nữ mang thai phải
mua viên sắt để uống, trừ một vài địa phương có các dự án do quốc tế tài trợ
thì được cấp miễn phí [78]. Tỷ lệ phụ nữ được bổ sung viên sắt chưa thật cao
do nhiều yếu tố như hay quên không sử dụng hàng ngày, mùi vị của viên
thuốc và tác dụng phụ gây táo bón là những nguyên nhân chính. Tỷ lệ tử vong
khi đẻ ở những bà mẹ thiếu máu cao hơn hẳn ở những bà mẹ bình thường. Do
đó người ta coi thiếu máu là một yếu tố nguy cơ trong sản khoa. Đối với con
thiếu máu gây tình trạng đẻ non và tử vong sơ sinh cao. Dinh dưỡng trong
thời kỳ mang thai là rất quan trọng, nếu bà mẹ không được cung cấp không
đầy đủ các chất dinh dưỡng đầy đủ trẻ có thể bị suy dinh dưỡng bào thai.
Theo thống kê của Bộ Y tế năm 2003, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng bào thai toàn
quốc tại Việt Nam là 6,5% [4], [48], [97]. Trẻ suy dinh dưỡng bào thai sẽ có
nguy cơ tử vong cao hơn gấp 10-20 lần so với trẻ đủ cân nặng phù hợp với
tuổi thai [75].Công tác truyền thông về dinh dưỡng hợp lý, giữ vệ sinh và
nhận biết các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai cũng là những nội dung quan
trọng của chăm sóc trước sinh.
1.1.2. Chăm sóc trong khi sinh
Tổ chức Y tế Thế giới ước tính mỗi năm trên toàn thế giới có khoảng
136 triệu ca sinh; tại các nước đang phát triển có dưới hai phần ba số ca sinh
do cán bộ y tế đỡđẻ [120]. Năm 2007, UNICEF công bố ở một số quốc gia
24
châu Á, tỷ lệ phụ nữ mang thai được cán bộ y tế đỡ đẻ chiếm khoảng 31- 40%
trong giai đoạn 1995-2005[113], [119].
Tại Trung Quốc, tỷ lệ phụ nữ sinh con tại các cơ sở y tế công chiếm
87%, còn lại các bà mẹ sinh tại các phòng khám tư nhân hoặc tại nhà riêng
[116]. Việc sinh con tại các cơ sở y tế phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, những
phụ nữ có điều kiện kinh tế khá giả thường sinh con tại các bệnh viện và
những phụ nữ nghèo thường sinh con tại nhà, chính vì vậy đã có khoảng cách
lớn giữa tình trạng sức khỏe của những phụ nữ giàu và nghèo [83]. Nguy cơ
tử vong của phụ nữ mang thai do các tai biến trong thời kỳ mang thai hoặc khi
sinh tại Nigiêria là 1/7 trong khi tại Ailen chỉ là 1/48.000. Ngoài ra, tử vong
mẹ cao ở các vùng nông thôn, vùng nghèo và cộng đồng có học vấn thấp. Tại
vùng sa mạc Sahara châu Phi, nơi có tình trạng kinh tế và văn hóa thấp nhất
châu Phi, tỷ số tử vong mẹ cao nhất thế giới. Tại đây chỉ có khoảng 40% ca
sinh do nữ hộ sinh, y tá hoặc bác sĩ đỡ [102]. Những người phụ nữ mang thai
sống gần các bệnh viện, những người có học vấn cao hơn, những người có
khả năng chi phí cho đi lại để đến cơ sở y tếcó xu hướng đẻ tại cơ sở y tế
công. Các bà mẹ đã từng sinh con hoặc mẹ chồng có ảnh hưởng rất nhiều đến
sự lựa chọn nơi sinh của bà mẹ [115], [117], [120]. Một nghiên cứu tại Ấn Độ
phần lớn các bà mẹ sinh tại nhà 37%, tại y tế tư nhân chiếm 32% và chỉ có
31% là đẻ tại cơ sở y tế công [104].
Khi lựa chọn nơi sinh, phụ nữ sống ở khu vực nông thôn và miền núi
cao, vùng sâu vùng xa và các bà mẹ sinh nhiều con có xu hướng sinh tại nhà,
trong khi bà mẹ nhiều tuổi có tiếp xúc với phương tiện truyền thông thường
xuyên và khám thai ≥3 lần thì sinh tại y tế công nhiều hơn[106]. Kết quả của
nghiên cứu tại Zimbabwechỉ có 50% phụ nữ khám thai tại trạm y tế sinh con
tại cơ sở y tế công.
25
Một số nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển cho thấy số lượng
bà mẹ sinh con tại các cơ sở y tế công giảm là do họ không bị quấy rầy trong
chuyển dạ hoặc khi sinh (do có các sinh viên hoặc thầy thuốc thực tập), phải
tuân thủ các phong tục tập quán của dân tộc. Họ cũng cho rằng khi sinh tại
các cơ sở y tế công phải chi phí đi lại, phải có thêm nhiều người người chăm
sóc và không tuân theo các phong tục tập quán của địa phương hoặc của dân
tộc [106], [109].
Tại Tanzania các bà mẹ giàu được đỡ đẻ bởi người có chuyên môn cao
gấp 2,5 lần so với người nghèo [98]. Tuy nhiên, ở một số quốc gia phát triển
cũng có những bà mẹ mong muốn sinh con tại nhà. Một nghiên cứu tại
Zurich, Thụy Sĩ cho thấy những phụ nữ khỏe mạnh có mong muốn được sinh
tại nhà không làm tăng nguy cơ có hại cho cả bà mẹ và trẻ[77], [91].
ỞViệtNamcó hai lựa chọn của người phụ nữ khi sinh: sinh ngoài cơ sở
y tế (sinh tại nhà hoặc sinh ở nhà các bà mụ vườn) và sinh tại cơsở y tế (y tế
tư nhân hoặc trạm y tế xã và các cơ sở y tế tuyến cao hơn). Theo cuộc điều tra
về thực trạng tình hình dịch vụ làm mẹ an toàn ở nông thôn Việt Nam cho
thấy tỷ lệ sử dụng dịch vụ y tế cho cuộc đẻ khác nhau ở các tỉnh khác nhau,
trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất vẫn là trạm y tế xã và bệnh viện huyện; người
đỡ đẻ cho các sản phụ cũng khác nhau ở các tỉnh khác nhau [88]. Tỷ lệ sản
phụ được người có chuyên môn đỡ đẻ cao nhất ở những tỉnh đồng bằng (Hà
Tây trước đây, Kiên Giang) và thấp nhất ở những tỉnh miền núi (Đắc Lắc) và
còn một tỷ lệ khá lớn các bà mẹ sinh con với sự giúp đỡ của các bà mụ vườn
(14,3% ở Đắc Lắc và 13,3% ở Cao Bằng). Theo báo cáo công tác chăm sóc
sức khỏe năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010 của Vụ Sức khoẻ
Bà mẹ và Trẻ em – Bộ Y tế, toàn quốc vẫn còn 20% số bà mẹ ở các tỉnh miền
núi Tây Bắc khi đẻ chưa được cán bộ y tế được đào tạo hỗ trợ, chăm sóc [23].
Bộ Y tế đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng chăm sóc sơ sinh tại các cơ
26
sở y tế công nhằm giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh thực hiện tiêm vitamin K cho trẻ
sơ sinh ngay sau đẻ để phòng chống xuất huyết não, màng não ở trẻ ngay sau
đẻ [20]. Báo cáo tổng quan các nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe sinh sản tại
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005 của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc có nhận xét
rằng khoảng 80% phụ nữ Việt Nam sinh tại các cơ sở y tế hay tại nhà với
người đỡ được đào tạo [26]. Tỷ lệ sinh tại nhà dao động từ khoảng 2%-16,7%
ở các khu vực đồng bằng và 50-58% tại các khu vực vùng sâu, vùng xa và
miền núi [26]. Ở một số vùng nông thôn, phần lớn các ca đẻ diễn ra ở nhà với
sự giúp đỡ của nữ hộ sinh hoặc bà đỡ dân gian [26]. Nguyên nhân chính do
việc tiếp cận với các cơ sở y tế có nhiều khó khăn và quan trọng là vẫn còn
tồn tại tập tục lạc hậu nên bà mẹ thường đẻ tại nhà và không cho người ngoài
đỡ. Trong các phụ nữ đẻ tại nhà thì 35,4% số người được nhận gói đẻ sạch,
song họ chỉsử dụng được một số dụng cụ trong gói đẻ sạch này [66]. Một
nghiên cứu về đẻ tại nhà ở tỉnh Thái Nguyên chỉ ra tỷ lệ băng huyết là 3,3%,
trẻ được cắt rốn với dụng cụ không hợp vệ sinh là 30,6% và 41,7% trường
hợp không đạt tiêu chuẩn vệ sinh khác [27].
Các tai biến được báo cáo còn cao hơn nhiều trong số các phụ nữ dân
tộc ở các vùng miền núi vì điều kiện thiếu vệ sinh, thiếu người đỡ đẻ được
đào tạo và các phong tục lạc hậu. Thực trạng SKSS của các phụ nữ dân tộc
cũng không hề lạc quan, tỷ lệ sinh tại các cơ sở y tế không cao; dù đã có
những hoạt động tích cực thay đổi hành vi SKSS tốt hơn trong nhóm dân tộc
thiểu số, vẫn tồn tại những tập quán lạc hậu ảnh hưởng có hại đến sức khỏe
bản thân họ [65].
1.1.3. Chăm sóc sau sinh
Phần lớn những phụ nữ Palestine coi việc thăm khám sau sinh là cần
thiết chiếm 66,1% nhưng chỉ có 36,6% có khám lại sau sinh. Bởi vì 85% phụ
nữ cho rằng họ không bị bệnh, họ hoàn toàn khỏe mạnh do đó không cần phải
27
khám lại sau sinh; 15,5% không khám lại sau sinh vì không được bác sĩ dặn
phải khám lại [85]. Theo kết quả phân tích đa biến những phụ nữ đã gặp khó
khăn trở ngại trong khi sinh con những lần trước, phụ nữ đã bị sinh mổ hoặc
có can thiệp thủ thuật trong khi sinh, có xu hướng khám lại sau sinh cao hơn
những phụ nữ sinh thường; các phụ nữ sinh tại y tế tư nhân khám lại sau sinh
cao hơn sinh tại y tế công. Điều này cũng có sự khác biệt trong các khu vực
khác nhau.
Tại Nepal, tỷ lệ phụ nữ khám lại sau sinh ở mức thấp chiếm 34%, chỉ
19% được khám lại trong vòng 48 giờ sau sinh. Ý thức quan tâm đến sức
khỏe của người phụ nữ kém là trở ngại chính cho việc sử dụng dịch vụ chăm
sóc sau sinh. Nghề nghiệp, dân tộc, số lần mang thai, số con của bà mẹ và tình
trạng kinh tế - xã hội, nghề nghiệp và giáo dục của người chồng là những yếu
tố có liên quan có ý nghĩa thống kê đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sau
sinh của các bà mẹ [86]. Kết quả phân tích đa biến cho thấy các yếu tố như
tình trạng kinh tế, nghề nghiệp và khám thai đầy đủ là những yếu tố quan
trọng có liên quan đến việc khám lại sau sinh. Ngoài ra, phụ nữ gặp những
vấn đề sức khỏe trong khi sinh có xu hướng tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sau
sinh [86].
Một nghiên cứu tại vùng nông thôn của Tanzania, phụ nữ thường rất
tích cực trong việc khám thai và khám lại sau khi sinh. Lý do phổ biến mà các
phụ nữ vùng này thường khám thai lần đầu muộn là để giảm số lần đi lại vì họ
lo sợ gặp động vật hoang dã trên đường đến bệnh viện, cũng như giảm chi phí
vì họ không đủ tiền. Sợ hãi phải bị mổ sinh cũng là một yếu tố gây trở ngại
khi chọn sinh tại bệnh viện. Vấn đề chăm sóc sau sinh cho các bà mẹ tại đây
chưa đầy đủ. Cộng đồng hay than phiền về việc thiếu nhân viên y tế, thiếu
trang thiết bị và các khoản tiền trợ cấp [98].
28
Một nghiên cứu tiến hành tại Bangladesh, tỷ lệ bà mẹ có khám thai là
93% và khám lại sau sinh là 28%. Có một số yếu tố ảnh hưởng đến sự công
bằng trong sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ như khoảng cách địa lý,
khu vực cư trú và học vấn của cả bà mẹ và chồng [79]. Có sự khác biệt trong
việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ giữa người nghèo và người
giàu như người giàu khám lại sau sinh cao gấp 1,5 lần so với người nghèo
(95% CI: 1,05-2,25). Biến chứng trong thời gian mang thai và số lần khám
thai có ảnh hưởng việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sau sinh [79].
Báo cáo tổng quan các nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe sinh sản tại
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005 của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc thì hầu hết
các phụ nữ tử vong ở trong giai đoạn sau sinh hơn 4/5 (80-83%) là chết ngay
trong ngày đầu tiên sau đẻ. Số còn lại chủ yếu chết trong tuần lễ đầu tiên
[58]. Tỷ lệ phụ nữ khám lại sau sinh thấp hơn nhiều nếu so sánh với tỷ lệ
khám thai, dao động từ 1/4 (23,8%) cho đến 2/3 (70%) phụ thuộc từng tỉnh.
Chất lượng của chăm sóc sau sinh cũng không đáp ứng nhu cầu của bà mẹ.
Chỉ 1/3 (31%) được khuyến khích nhận các thăm khám thường xuyên trong
vòng 42 ngày sau đẻ. Sau khi sinh tại cơ sở y tế, các bà mẹ trở về nhà và
phải tuân theo rất nhiều các phong tục truyền thống theo gia đình và cộng
đồng [57].
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chương trình can thiệp làm mẹ an toàn
1.2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận các dịch vụ y tế làm mẹ an toàn
1.2.1.1.Tiếp cận về địa lý
Tiếp cận địa lý không chỉ bao gồm khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế
mà còn là chất lượng của đường xá, sự sẵn có của các loại phương tiện giao
thông. Sự khan hiếm của các phương tiện đi lại, đặc biệt ở những vùng sâu
vùng xa và điều kiện đường xá không đảm bảo đã ảnh hưởng đến việc tiếp
cận cơ sở y tế của phụ nữ. Ở nhiều nơi khó khăn, phụ nữ thường đi bộ đến cơ
29
sở y tế là việc thường gặp. Nhìn chung, khoảng cách đến cơ sở y tế thường
được đo lường bằng thời gian đến cơ sở y tế bởi các phương tiện thông
thường. Theo UNFPA, các yếu tố ảnh hưởng đến việc tìm kiếm dịch vụ
chăm sóc trước sinh là địa điểm của cơ sở y tế và sự sẵn có của phương tiện đi
lại. Nếu thời gian đến cơ sở y tế trên 30 phút bằng các phương tiện đi lại
thông thường tại địa phương tình hình
Chung các bà mẹ sẽ không đến cơ sở y tế mặc dù họ ốm nặng. Điều này
được giải thích bởi vấn đề tài chính và chi phí cơ hội quá cao. Thêm vào đó
người phụ nữ phải bỏ thời gian để đi một quãng đường quá dài mà có thể cán
bộ y tế lại không có mặt tại cơ sở y tế. Yếu tố địa lý có ảnh hưởng trực tiếp tới
tiếp cận dịch vụ; tại Bình Định có những địa bàn từ thôn đi tới trạm y tế phải
mất 4 tiếng đi bộ; các xã càng xa trung tâm, tỷ lệ bà con tiếp cận tới cơ sở y
tế, đặc biệt là dịch vụ đẻ tại trạm càng thấp vì không thể vận chuyển sản phụ
đến trạm vì điều kiện đường xá, đi lại khó khăn [36], [51], [113].
1.2.1.2.Tiếp cận về kinh tế
Đo lường bằng khả năng chi trả các loại chi phí trực tiếp (bằng tiền túi
của cá nhân) để được chăm sóc y tế (gồm các loại chi phí chính thức và không
chính thức, phí vận chuyển, ăn ở, chi phí cho người chăm sóc...).Nghiên cứu
ở CodeD’Voire và Peru chon thấy chi phí là một yếu tố cản trở hầu hết phụ
nữ ở đây sử dụng dịch vụ chămsóc sức khoẻ bà mẹ và những người nghèo
hơn thì thường tìm đến những cơ sở kém chất lượng hơn. Điều đó cũng có
nghĩa là những người có thu nhập cao thì đến những cơ sở y tế có chấtlượng
chăm sóc tốt cho dù khoảng cách có xa hơn [55], [110], [111].
Những người phụ nữ nghèo thường ở nhà và tự điều trị bằng những
thuốc y học cổ truyền hoặc đến các y tá tư gần nhà. Ở nhiều vùng của châu
Phi, điều kiện kinh tế là yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới việc tiếp cận dịch vụ
30
y tế. Bên cạnh đó, mùa màng và vụ thu hoạch cũng phần nào ảnh hưởng tới
việc sử dụng dịch vụ y tế. Ở Zimbabwe, số bà mẹ chết là 13 trên tổng số 20
ngườ ithường xảy ra vào vụ mùa thu hoạch, đó là thời gian mà phụ nữ phải
làm việc vất vả trên đồng ruộng không có thời gian đến cơ sở y tế [99].
Nghiên cứu định tính tiến hành tại Việt Nam cho thấy “nghèo” ảnh
hưởng trực tiếp tới quyết định sử dụng dịch vụ y tế của người dân tộc thiểu
số. Mặc dù họ đã được miễn viện phí, tuy nhiên để đến được bệnh viện họ
phải tự bỏ tiền trả cho việc đi lại từ nhà tới bệnh viện và các chi phí ăn ở cho
người vận chuyển sản phụ, cho người nuôi sản phụ. Tại cơ sở y tế đôi khi cán
bộ y tế còn yêu cầu họ trả tiền cho việc mua bỉm, tã, sữa cho trẻ sơ sinh điều
mà họ không phải làm khi sinh tại nhà [29], [34].
1.2.1.3. Tiếp cận về văn hóa
Tỷ lệ tử vong mẹ thường bị tác động bởi hủ tục truyền thống và văn
hóa mà thường cản trở phụ nữ có được sự chăm sóc sức khỏe trước trong và
sau sinh [32]. Sự tiếp cận văn hóa được đo lường bằng sự phù hợp về văn
hoá, phong tục tập quán và khả năng giao tiếp với các nhóm thiểu số không
nói được ngôn ngữ phổ thông. Niềm tin văn hoá, cấu trúc xã hội và đặc tính
của mỗi cá nhân cũng rất quan trọng. Một cuộc điều tra ở Ấn Độ cho thấy
khoảng 60% phụ nữ cảm thấy chăm sóc thai nghén là không cần thiết. Ở một
số nơi, mang thai được xem như vấn đề sức khoẻ bình thường không cần phải
chăm sóc y tế, hoặc sự chăm sóc chỉ cần thiết khi người phụ nữ mang thai
cảm thấy có vấn đề. Sự thiếu hiểu biết của phụ nữ về thai sản là một vấn đề
chính. Sự mang thai ngoài ý muốn cũng là lý do làm cho các bà mẹ không đi
khám thai. Số người mang thai ngoài ý muốn không nhận được chămsóc thai
nghén là 60% [31].
31
Một số yếu tố kinh tế-xã hội được kể đến như học vấn thấp, tuổi trẻ, tín
ngưỡng (thiên chúa giáo), dân tộc thiểu số và thu nhập thấp của bà mẹ có tác
động rõ rệt đến các thực hành sau sinh [27], [28]. Một số yếu tố khác có thể
cản trở phụ nữ tiếp cận chăm sóc trước sinh và sau sinh như hiểu biết kém,
khoảng cách mỗi lần sinh, xấu hổ khi tiếp cận với dịch vụ và yếu tố về di cư.
Yếu tố bình đẳng giới cũng là một vấn đề quan trọng ở nhiều vùng trên
thế giới. Việc quyết định sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ nhiều
khi được quyết định bởi mẹ chồng, chồng hoặc các thành viên khác trong gia
đình, còn tiếng nói của bản thân người phụ nữ lại rất ít trọng lượng. Ở nhiều
nơi trên thế giới, phụ nữ thích sinh con ở nhà với sự giúp đỡ của các bà mụ
vườn hoặc người thân. Một trong những nguyên nhân đó là do yếu tố văn hoá.
Bên cạnh đó, còn có một vài lý do khác như môi trường chăm sóc y tế không
thân thiện hoặc sự thiếu cảm thông của nhân viên y tế. Ở một vài nơi khác sự
có mặt của các nam nhân viên y tế là điều không thể chấp nhận được đối với
nền văn hoá của một số dân tộc [46], [55], [59].
Chất lượng dịch vụ thấp cũng là rào cản đối với tiếp cận của thai phụ.
Phụ nữ có chăm sóc trước sinh tốt sẽ có thực hành tốt hơn khi sinh và phụ nữ
có chăm sóc trước sinh và khi sinh tốt sẽ có hành vi chăm sóc sau sinh tốt hơn.
Với các tập quán chăm sóc sau sinh truyền thống, các thực hành này được tạo
ra do văn hóa và các yếu tố xã hội. Niềm tin tại địa phương, tập quán, phụ nữ
có quan hệ thân thuộc có ảnh hưởng quyết định việc các bà mẹ tuân thủ những
hành vi này. Các yếu tố ảnh hưởng bao gồm cả việc thiếu nhân lực, do
khoảng cách xa, đường xá khó đi hay thiếu các phương tiện vận chuyển (đặc
biệt ở vùng sâu và vùng xa) và thói quen, phong tục của người dân địa
phương trong việc chăm sóc bà mẹ tại nhà. Thêm vào đó, văn hóa, truyền
thống, gia đình và các yếu tố kinh tế cũng là yếu tố thuận lợi cản trở sự tiếp
cận của phụ nữ đến dịch vụ chăm sóc SKSS. Quyết định về địa điểm sinh bị
32
chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau như truyền thống đẻ tại nhà, đường đến
các cơ sở y tế xa, thiếu người trông coi gia đình khi phụ nữ sinh tại cơ sở y tế,
chi phí và quan niệm về dịch vụ y tế còn kém tại trạm y tế xã. Sau khi sinh tại
các cơ sở y tế, các bà mẹ trở về nhà và phải tuân theo rất nhiều các phong tục
truyền thống theo thiết chế gia đình và cộng đồng [58], [63]. Nhiều nghiên
cứu định tính và định lượng về các tập quán truyền thống chăm sóc sau sinh
đã được thực hiện. Tập quán này bao gồm rất nhiều các thực hành như chế độ
ăn, vệ sinh, nghỉ ngơi và chăm sóc … Nhiều các tập quán này được thực hiện
với niềm tin là “tránh gió” như ngồi hơ lửa, tránh ra khỏi nhà, không tắm sau
sinh. Thời gian cho mỗi tập quán theo mô tả có thể từ 7 đến 100 ngày. Các
thực hành sau khi sinh có khác biệt giữa các dân tộc. Một số thực hành được
xếp là có lợi, tuy thế, rất nhiều các tập quán khác là trung tính hoặc có hại
[66], [114].
Kết quả nghiên cứu “Đánh giá hành vi tìm kiếm và sử dụng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu số tại Việt Nam” cho
thấy kiến thức, hiểu biết của phụ nữ dân tộc thiểu số Tây Nguyên về chăm sóc
sức khoẻ trước, trong và sau sinh còn rất hạn chế, mơ hồ, thậm chí còn hiểu
sai. Mô hình hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ còn mang tính bị
động. Tại đây còn tồn tại nhiều phong tục tập quán, thói quen có ảnh hưởng
xấu đến hành vi chăm sóc sức khoẻ, coi việc sinh nở là chuyện kín đáo, cúng
bái, tin vào các bà đỡ. Bên cạnh đó khoảng cách địa lý, điều kiện kinh tế xã hội
của địa phương, năng lực kinh tế của gia đình, trình độ học vấn, ngôn ngữ cũng
ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức, thái độ và hành vi tìm kiếm dịch vụ CSSK bà
mẹ của phụ nữ dân tộc thiểu số. Ngoài ra, sự tham gia của cộng đồng như
chồng, người thân đối với hoạt động chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, chưa khuyến
khích được phụ nữ tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế [62].
33
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc cấp cứu sản khoa cơ bản và toàn diện
1.2.2.1 Nguồn nhân lực y tế:
Theo Bộ Y tế, đội ngũ bác sĩ trong những năm qua đã phát triển mạnh
mẽ cả về số lượng và chất lượng. Tỷ lệ 7 bác sĩ, 1 dược sĩ/ 1 vạn dân đã vượt
chỉ tiêu trong quyết định số 153/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020. Tuy nhiên, tỷ lệ đó còn thấp so với các nước trên thế giới.
Ngoài ra còn có sự chênh lệch về số lượng, chất lượng và phân bố thiếu đồng
đều cán bộ y tế giữa các vùng, miền. Những cán bộ có trình độ chuyên môn
cao thường tập trung tại các thành phố lớn. Bên cạnh đó cũng có sự mất cân
đối về nhân lực y tế; nhất là bác sĩ, dược sĩ đại học, giữa các tuyến y tế. Tỷ lệ
cán bộ y tế ở tuyến xã và huyện vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ; mất cân đối về nhân lực y tế giữa các chuyên ngành.
Ðể làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe và đáp ứng nhu cầu triển khai các hoạt
động của dự án thì việc đào tạo cán bộ y tế cơ sở là hết sức cần thiết.
Khó khăn lớn nhất của các chương trình can thiệp là thiếu nguồn nhân
lực y tế tại địa phương. Do tình trạng thiếu nhân lực nên nhiều khi chương
trình triển khai cũng không đủ bác sĩ đi xuống các địa bàn. Đây là tình hình
chung của các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện có hiệu
quả các chương trình, đề án đào tạo cán bộ cho các địa phương thuộc vùng
khó khăn. Ðồng thời đề ra nhiều chính sách ưu tiên về giáo dục, đào tạo,
tuyển dụng và sử dụng nhân lực y tế cho các chuyên khoa khó tuyển và vùng
khó khăn y tế các tuyến huyện, xã. Cải thiện môi trường, điều kiện làm việc
cho cán bộ y tế của chuyên ngành khó tuyển, ở vùng khó khăn và y tế cơ
sở.Duy trì các đề án bệnh viện tuyến trên, cử cán bộ chuyên môn luân phiên
về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa
bệnh.Ðây là giải pháp quan trọng trong thời gian hiện tại và có thể kéo dài
34
trong nhiều năm tới, khi mà nguồn nhân lực y tế cònthiếu về số lượng và hạn
chế chất lượng giữa các tuyến y tế.
Bên cạnh đó cần có những giải pháp khắc phục tình trạng dịch chuyển
cán bộ y tế có trình độ từ vùng khó khăn đến vùng thuận lợi; từ cơ sở y tế
công lập sang dân lập; từ tuyến dưới lên tuyến trên. Ðồng thời điều chỉnh chế
độ động viên, khuyến khích, tăng thu nhập và điều kiện sống, làm việc để giữ
cán bộ y tế ở tuyến dưới, nhất là tuyến xã.
1.2.2.2. Cở sở vật chất:
Đối với một số quốc gia phát triển, ở đó các cơ sở y tế đã được trang bị
tốt về cả cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế và thuốc thì biện pháp này không
được đề cập nhiều. Ngược lại, với các quốc gia đang phát triển thì đây là một
vấn đề hết sức cần thiết. Tổ chức y tế thế giới (WHO), Quỹ dân số liên hiệp
quốc (UNFPA) cùng một số quốc gia đã qui định về các tiêu chí cho cơ sở
cấp cứu sản khoa cơ bản và cơ sở cấp cứu sản khoa toàn diện. Bảng 1.1 dưới
đây sẽ nêu rõ các tiêu chuẩn của 2 loại cơ sở này [117].
Bảng 1.1: Chức năng của Cấp cứu sản khoa cơ bản và Cấp cứu sản khoa
toàn diện [117]
Thuốc Kháng sinh qua đường tĩnh mạch
Chức năng của Cấp cứu sản khoa cơ bản (Được thực hiện tại các trung tâm y tế không có phòng mổ)
Thuốc co tử cung qua đường tĩnh mạch
Chức năng của Cấp cứu sản khoa toàn diện (Yêu cầu có phòng mổ và thường được thực hiện tại các bệnh viện huyện) Có tất cả 6 chức năng của
Thuốc chống co giật qua đường tĩnh mạch
EmOC cơ bản có bổ sung
Bóc nhau thai bằng tay
Mổ đẻ
Loại bỏ (bằng cách hút) tổ chức thai còn lưu lại
Truyền máu
Đẻ có hỗ trợ đường dưới
thêm
35
Những chức năng của cấp cứu sản khoa cơ bản bao gồm điều trị thuốc
bằng đường tiêm. Thường tiêm kháng sinh để điều trị nhiễm trùng, thuốc
chống co giật để điều trị co giật, hoặc thuốc làm tăng co tử cungngăn sự chảy
máu ồ ạt bằng việc giúp cho tử cung co lại. Hỗ trợ đẻ đường dưới đề cập đến
việc sử dụng dụng cụ hút chân không thay vì dùng phoóc-xép. Nhau thai
không bong tự nhiên ra được có thể gây ra chảy máu ồ ạt hoặc nhiễm trùng.
Hậu quả cũng xẩy ra tương tự nếu tổ chức thai còn lưu lại do sẩy thai hoặc
nạo phá thai không hoàn toàn. Bóc nhau thai thường có thể thực hiện bằng
tay. Loại bỏ các tổ chức thai còn lưu lại có thể tiến hành bằng gây mê và
thường cần phải có thủ thuật tiểu phẫu như hút chân không bằng xi lanh. Tại
Việt Nam, theo Chuẩn Quốc gia về Sức khỏe sinh sản thì cơ sở cấp cứu sản
khoa cơ bản được coi là trạm y tế xã. Tuy nhiên, chức năng thứ 6 là chức
năng đẻ có hỗ trợ đường dưới tuyến trạm y tế xã không được làm mà phải
được làm ở cơ sở y tế tuyến trên. Điều cần thiết là phải đánh giá tính sẵn có
của các cơ sở y tế cho một quần thể để xác định liệu có đủ các cơ sở y tế để
phục vụ không. Nhìn chung, các nghiên cứu cho thấy 15% các trường hợp
thai nghén có nguy cơ có những tai biến đe doạ tính mạng.Điều quan trọng
hơn là tính chất của một cơ sở cấp cứu sản khoa thiết yếu: chăm sóc sản khoa
cơ bản hay chăm sóc sản khoa toàn diện. Rõ ràng là một cơ sở y tế chỉ được
coi là một “chăm sóc cơ bản” nếu tất cả 6 chức năng chính được thực hiện
trong 3 tháng gần đây. Tương tự như vậy, một cơ sở chỉ được coi là “chăm
sóc toàn diện” khi cả 6 chức năng trên và thêm 2 chức năng nữa như đã mô tả
ở phần trên được thực hiện trong vòng 3 tháng trở lại đây. Đối chiếu với
những quy định trong CQG, kết quả điều tra tại 12 tỉnh cho thấy các cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị và thuốc thiết yếu phục vụ CSSKSS còn chưa đầy đủ [63].
Tạituyến xã phần lớn các trạm y tế không có đủ 6 phòng, chỉ có 37%
trạm y tế có ít nhất 4 phòng (trong đó chỉ có 10% số trạm y tế có 4 phòng theo
CQG). Nhiều trạm y tế xã không có phòng khám phụ khoa và phòng
36
KHHGĐ.Trang thiết bị và dụng cụ thiết yếu cho CSSKSS ở các trạm y tế còn
thiếu nhiều, trung bình số bộ dụng cụ đầy đủ (7 bộ) cho mỗi trạm y tế không quá
0,8 bộ, thấp hơn nhiều so với CQG. Tại tuyến tỉnh và huyện phần lớn các dụng
cụ và trang thiết bị cho CSSKSS đều có nhưng số lượng các bộ phẫu thuật thiếu
nghiêm trọng, trung bình không đủ 1 bộ/1 cơ sở y tế [63].
Trang thiết bị phòng chống nhiễm khuẩn: chỉ các cơ sở tuyến tỉnh có đầy
đủ 6 loại trang thiết bị/dụng cụ và 5 loại văn bản hướng dẫn qui trình phòng
chống nhiễm khuẩn. Ở tuyến huyện, đặc biệt là tuyến xã, phần lớn các cơ sở y
tế thiếu 3 trong số 5 loại văn bản hướng dẫn và kính bảo hộ cho người cung cấp
dịch vụ.
Thuốc thiết yếu phục vụ CSSKSS tại các trạm y tế không được cung
cấp đầy đủ, phần lớn trạm y tế không đủ 10 nhóm thuốc thiết yếu, các loại
thuốc trong mỗi nhóm cũng không đầy đủ hoặc quá hạn sử dụng. Phần lớn
các trạm y tế xã không có thuốc giảm đau có opi và thuốc an thần.
Đây là một trong những khó khăn thách thức lớn vì việc cung cấp trang
thiết bị phải dựa vào kế hoạch chỉ tiêu ngân sách hàng năm nên việc thực hiện
không thể đồng bộ cùng mục tiêu chương trình dự án. Các tỉnh được trang bị
theo chương trình dự án thì việc đánh giá trang bị cho phù hợp tình hình thực
tiễn là cần thiết, tránh hiện tượng cơ sở được trang bị nhưng không có cán bộ
sử dụng hoặc điều kiện bảo quản, bảo dưỡng trang thiết bị dẫn đến lãng phí và
không hiệu quả.
1.2.2.3. Công tác theo dõi và giám sát:
Trong những năm vừa qua, với sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng
và nhà nước cùng với nỗ lực của toàn thể ngành y tế, hệ thống chăm sóc sức
khỏe sinh sản đã có những tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới cung cấp dịch vụ được
mở rộng và phát triển, chất lượng dịch vụ từng bước được nâng cao. Với mục
đích góp phần tăng cường chất lượng dịch vụ, công tác theo dõi, giám sát,
đánh giá trong ngành y tế nói chung và trong hệ thống CSSKSS nói riêng đã
37
được đầu tư nhiều hơn và có khá nhiều cải thiện. Hệ thống sổ sách, báo cáo đã
cung cấp những thông tin chính xác và có giá trị để theo dõi, đánh giá việc
thực hiện chỉ tiêu kế hoạch của các cơ sở cung cấp dịch vụ CSSKSS. Thông
qua các cuộc giám sát, người cung cấp dịch vụ ở cơ sở cũng được hỗ trợ trực
tiếp để họ có thể thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đúng theo Chuẩn quốc gia.
Mục đích chính của công tác TDGSĐG là góp phần đảm bảo chất lượng
dịch vụ cung cấp và tăng giá trị sử dụng các dịch vụ hiện có của CSSKSS.
TDGSĐG sẽ cho biết chất lượng hiện đang ở mức độ nào so với quy định theo
Chuẩn quốc gia về CSSKSS của Bộ Y tế, đồng thời cho biết đơn vị nào, tuyến
nào, nơi nào đang làm tốt hay chưa tốt, và lý do tại sao. Tuy nhiên, các hoạt
động theo dõi, giám sát, đánh giá hiện tại hầu hết mới cung cấp những thông tin
để đánh giá việc hoàn thành chỉ tiêu về số lượng hơn là về chất lượng. Quá trình
theo dõi, giám sát, đánh giá cũng chưa tuân thủ một quy trình thống nhất, đặc
biệt là trong hệ thống cung cấp dịch vụ CSSKSS.
Trên cơ sở các qui định về cơ sở vật chất, trang thiết bị, vật tư y tế,
thuốc men và qui trình kỹ thuật chuyên môn được soạn thảo công phu trong
Hướng dẫn Chuẩn Quốc gia về dịch vụ CSSKSS, Hướng dẫn theo dõi, đánh
giá, giám sát hướng dẫn phát triển và sử dụng các bảng kiểm về cơ sở vật
chất, trang thiết bị, thuốc men, quy trình thực hiện các kỹ thuật chuyên môn.
Hướng dẫn Chuẩn Quốc gia là căn cứ để phát triển các công cụ theo dõi, giám
sát các dịch vụ CSSKSS, ngược lại phát triển và sử dụng các công cụ theo
dõi, giám sát là động lực thúc đẩy các cơ sở y tế thực hiện nghiêm túc Chuẩn
Quốc gia và giúp các nhà quản lý có đủ thông tin để quản lý chất lượng và
đánh giá mức độ thực hiện Chuẩn Quốc gia, từ đó đưa ra các quyết định kịp
thời để chỉ đạo thực hiện thành công Chuẩn Quốc gia và Chiến lược CSSKSS.
Tuy nhiên, hiện nay công tác theo dõi, giám sát, đánh giá trong quá
trình thực hiện các chương trình, dự án đều còn nhiều khó khăn và cần phải
khắc phục trong giai đoạn tới:
38
1. Hoạt động giám sát đã được tiến hành ở mọi tuyến, tuy nhiên hiện nay
vẫn chưa có quy định rõ ràng về quy chế giám sát và hệ thống báo cáo
kết quả hoạt động giám sát ở các tuyến. Kết quả giám sát chưa được sử
dụng đầy đủ cho công tác quản lý nâng cao chất lượng dịch vụ. Các công
cụ giám sát chưa được phát triển hoàn chỉnh và thống nhất. Giám sát là
biện pháp thiết thực để quản lý chất lượng chuyên môn nhưng vẫn thiếu
văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện giám sát cho các tuyến.
2. Trong những năm qua đánh giá thực hiện kế hoạch hàng năm được các cơ
sở cung cấp dịch vụ CSSKSS tiến hành, nhưng đánh giá chưa theo bài bản,
độ tin cậy của kết quả đánh giá chưa cao. Tập huấn về công tác đánh giá
chưa được tổ chức đầy đủ cho cán bộ quản lý, các chỉ số đánh giá chưa
thống nhất ở các tuyến. Nhiều nhà quản lý còn ít quan tâm đến lập kế
hoạch và sử dụng nguồn lực cho đánh giá. Cũng như theo dõi và giám sát,
chưa có đủ các văn bản pháp lý quy định và hướng dẫn cụ thể nhiệm vụ
đánh giá, cách tiến hành và sử dụng kết quả đánh giá vào quản lý chất
lượng dịch vụ CSSKSS.
3. Trong hệ thống CSSKSS từ trước tới nay tuy chưa thực hiện được theo
dõi, giám sát, đánh giá một cách thường xuyên và theo những hướng dẫn
thống nhất, nhưng trên thực tế các công tác này cũng đã được thực hiện
phối hợp dưới một hình thức quen thuộc gọi là: Công tác chỉ đạo tuyến.
Công tác chỉ đạo tuyến được tiến hành từ tuyến trên xuống tuyến dưới.
Chỉ đạo tuyến nhằm thống nhất và triển khai các hoạt động quản lý,
chuyên môn, kỹ thuật trong ngành phù hợp với kế hoạch hoạt động ưu
tiên trong từng giai đoạn. Các cán bộ được phân công chỉ đạo tuyến có
nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ cán bộ tuyến dưới thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn, kỹ thuật, triển khai đúng các yêu cầu nhiệm vụ mới. Cán bộ chỉ đạo
tuyến đồng thời cũng thu thập các thông tin và xem xét tiến độ thực hiện
các chỉ tiêu kế hoạch của tuyến trước, tìm hiểu các khó khăn, đề xuất các
39
biện pháp giúp tuyến dưới giải quyết các vấn đề còn vướng mắc.
Mặc dù những năm gần đây công tác quản lý các dịch vụ CSSKSS đã
được Bộ Y tế, Vụ SKBMTE và các cơ sở cung cấp dịch vụ CSSKSS quan
tâm nhiều hơn, nhưng để thực hiện thành công Chiến lược Quốc gia về
CSSKSS, Qui định về nhiệm vụ kỹ thuật của các tuyến do Bộ Y tế ban hành
và đặc biệt là thực hiện Chuẩn Quốc gia về CSSKSS thì cần có hướng dẫn
thực hiện hoạt động theo dõi, giám sát, đánh giá một cách toàn diện và thống
nhất cho các tuyến.
1.3. Một số can thiệp về làm mẹ an toàn
Mục tiêu của can thiệp về LMAT là hướng tới làm giảm các yếu tố cản
trở các bà mẹ tiếp cận và nhận dịch vụchăm sóc sản khoa và chăm sóc sơ sinh
(CSSS). Nhìn chung các giải pháp can thiệp LMAT trên thế giới và Việt nam
đều tập trung vào một số giải pháp sau đây [8]:
- Hỗ trợ các cơ sở LMAT nâng cấp cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị
y tế và thuốc cần thiết nhằm nâng cao chất lượng và số lượng cơ sở
LMAT.
- Đào tạo cán bộ y tế cung cấp dịch vụ LMAT và CSSKSS.
- Xây dựng và thực hiện nghiêm túc các chính sách và các hướng dẫn
chuẩn quốc gia về SKSS và LMAT.
- Truyền thông nâng cao nhận thức của người dân về LMAT và SKSS
cùng các loại hình dịch vụ y tế cung cấp tại các cơ sở y tế địa phương.
- Xây dựng, vận hành và duy trì hệ thống chuyển tuyến cộng đồng, đặc
biệt cho những vùng xa xôi, có nhiều khó khăn trong vận chuyển bệnh
nhân.
1.2.1. Nâng cấp cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị và thuốc cần thiết
Đối với một số quốc gia phát triển, ở đó các cơ sở y tế đã được trang bị
tốt về cả cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế và thuốc thì biện pháp này không
40
được đề cập nhiều. Ngược lại, với các quốc gia đang phát triển thì đây là một
vấn đề hết sức cần thiết.
Tăng cường tính sẵn có của các dịch vụ là bước quan trọng đầu tiên để
tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ cấp cứu sản khoa. Trong nhiều trường
hợp, chỉ cần ít nguồn lực đầu vào cho việc mở rộng các cơ sở y tế hiện có và
tạo điều kiện cho các cơ sở này cung cấp các dịch vụ cấp cứu sản khoa.
Những can thiệp này bao gồm: cải tạo các phòng mổ hiện có, cung cấp các
thiết bị cho các phòng mổ mới; sửa chữa hoặc mua sắm các trang thiết bị phẫu
thuật và tiệt trùng; đào tạo các bác sĩ và điều dưỡng, hộ sinh về các kỹ năng
hồi sức cấp cứu sản khoa và tăng cường năng lực quản lý các dịch vụ y tế.
Nâng cao năng lực quản lý các dịch vụ y tế bao gồm tuyển đầy đủ nhân viên
cho các cơ sở y tế, cung ứng thuốc và các loại vật tư , bảo trì các thiết bị và cơ
sở hạ tầng của cơ sở y tế, hệ thống y tế lúc nào cũng sẵn sàng 24/ 24 giờ và
chính sách công bằng về giá cả của các dịch vụ y tế. Nâng cao năng lực quản
lý các dịch vụ y tế cũng có nghĩa là phải thực hiện theo dõi và đánh giá
thường xuyên nâng cao chất lượng dịch vụ.
Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, ngành Y tế đã phối hợp với một
số tổ chức quốc tế tiến hành can thiệp về LMAT trên nhiều tỉnh thành trong
cả nước. Theo hướng dẫn Chuẩn Quốc gia (CQG), lý tưởng nhất là mỗi trạm
y tế (TYT) xã có đủ 6 phòng riêng cho dịch vụ CSSKSS [9]. Ở những địa
phương không đủ điều kiện nguồn lực thì ít nhất phải bố trí 4 phòng, bao gồm
phòng khám thai + tư vấn, phòng đẻ + thủ thuật, phòng khám phụ khoa và
phòng nằm của sản phụ[8].
Theo Hướng dẫn CQG về các dịch vụ CSSKSS, trang bị thiết yếu cho
CSSKSS của một TYT xã gồm có 7 loại dụng cụ. Một TYT được coi là đạt
CQG vềtrang thiết bịchăm sóc sức khỏe sinh sản (TTB CSSKSS) cần có đủ 3
bộ đỡ đẻ, 1 bộ cắt khâu tầng sinh môn, 1 bộ kiểm tra cổ tử cung, 1 bộ hồi sức
41
sơ sinh, 1 bộ đặt và tháo DCTC, 3 bộ khám phụ khoa, 1 bộ bơm hút thai chân
không bằng tay 1 van [9].
Nếu chỉ có đủ các cơ sở cấp cứu sản khoa thì vẫn chưa đảm bảo cho
công tác chăm sóc sản khoa thiết yếu mà người ta còn phải quan tâm đến
phân bố các cơ sở y tế này theo địa lý. Nếu tất cả các cơ sở cấp cứu sản khoa
đều tập trung ở vùng thành thị, thì nhiều phụ nữ đặc biệt là những người sống
ở nông thônsẽ không thể tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sản khoa
thiết yếu kịp thời. Khác với các chỉ số khác đưa ra trong phần tài liệu này, chỉ
số này chỉ có thể tính toán được thông qua phân tích không gian với việc sử
dụng bản đồ hoặc sử dụng hệ thống thông tin địa lý.Ở nhiều nước đang phát
triển, địa hình không bằng phẳng và các điều kiện thông tin liên lạc, đường xá
và phương tiện giao thông còn kém. Thông thường, khoảng cách được coi là
chỉ số để tính toán khả năng tiếp cận về mặt vật lý đến các dịch vụ chăm sóc
trên. Trong thực tế thời gian để đến một cơ sở cấp cứu sản khoa là chỉ số
chính xác hơn để tiếp cận các dịch vụ ấy. Để đến được có sở y tế qua những
đoạn đường tương đối ngắn nhưng có khi lại mất rất nhiều thời gian. Người ta
thường đi bộ, đi bằng xe ngựa hay các phương tiện thô sơ đến các cơ sở y tế.
Do đó chỉ số đại diện hữu ích chính là tỷ lệ các gia đình trong một khoảng
thời gian nhất định có thể đến với cơ sở cấp cứu sản khoa. Tốt nhất tất cả phụ
nữ chỉ nên sống cách cơ sở cấp cứu sản khoa trong vòng hai giờ đi lại. Con số
này được chọn là giới hạn tối đa về mặt thời gian vì tai biến băng huyết - biến
chứng gây tử vong nhanh nhất trong thai nghén, có thể gây tử vong mẹ trong
vòng hai giờ. Để cứu được nhiều bà mẹ nhất, các cơ sở y tế phải có khả năng
cứu sống bà mẹ trong khoảng thời gian này. Tai biến này có thể giải quyết
ngay tại một cơ sở cấp cứu sản khoa cơ bản mặc dù trong một số trường hợp
cần phải chuyển bà mẹ tới cơ sở chăm sóc sản khoa toàn diện để truyền máu.
Do đó, phân bố các cơ sở y tế theo mặt địa lý một cách hợp lý sẽ đảm bảo các
42
sản phụ sống trong khoảng cách có thể đến được cơ sở chăm sóc sản khoa cơ
bản trong vòng 2 giờ và đến cơ sở chăm sóc sản khoa toàn diện trong vòng 12
giờ theo hướng dẫn của UNFPA [113]. Đây thực sự là một mục tiêu rất khó
khăn liên quan đến việc cải thiện các hệ thống thông tin liên lạc, giao thông
và đường xá.
Dễ dàng nhận thấy lý do dẫn đến tỷ lệ thấp TYT đạt CQG về TTB thiết
yếu CSSKSS là do tỷ lệ rất thấp TYT có đủ 3 bộ đỡ đẻ và 3 bộ khám phụ
khoa (trên dưới 10%) hoặc có đủ số bộ dụng cụ nhưng trong mỗi bộ có thể
thiếu 1 hoặc 2 dụng cụ. Loại TTB có tỷ lệ đạt cao nhất và cải thiện nhiều nhất
là TTB phục vụ dịch vụ KHHGĐ và phá thai, đó là bộ đặt tháo DCTC và bơm
hút Karman 1 van. Bộ kiểm tra CTC và bộ hồi sức sơ sinh cũng đã nhận được
sự quan tâm đầu tư tại nhiều TYT. Tuy nhiên, cho đến nay, trừ bộ đặt tháo
DCTC, bộ đỡ đẻ và bộ khám phụ khoa, các loại TTB khác chỉ đạt CQG ở
khoảng trên dưới 1/3 số TYT [57].
1.2.2. Đào tạo cán bộ y tế cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn và chăm sóc
sức khỏe sinh sản
Việc đào tạo cán bộ y tế cho công tác làm mẹ an toàn ở các cơ sở y tế là
rất quan trọng. Có thể nói rằng trong bất kỳ lĩnh vực công tác nào thì việc đào
tạo cán bộ nâng cao kiến thức và kỹ năng chuyên môn cũng mang tầm quan
trọng hàng đầu.Kinh nghiệm tại nhiều nước trên thế giới đặc biệt là công tác
chăm sóc sức khỏe bà mẹ (CSSKBM) và trẻ sơ sinh cho thấy muốn nâng cao
sức khỏe bà mẹ và trẻ em thì yếu tố con người là quan trọng nhất.Tại Thụy
Điển trước khi xây dựng được mạng lưới nữ hộ sinh từ trước thế kỷ18, tỷ số
tử vong mẹ và sơ sinh rất cao. Nhận thức được vấn đề này Chính phủ Thụy
Điển đã tiến hành đào tạo và thiết lập mạng lưới nữ hộ sinh từ cộng đồng đến
bệnh viện, kết quả đã cho thấy tỷ số tử vong mẹ và trẻ sơ sinh giảm một cách
đáng kể (MMR dao động từ hàng chục/100.000 trẻ đẻ sống xuống chỉ còn
43
khoảng dưới 10/100.000 trẻ đẻ sống và IMR chỉ còn khoảng 7/100.000 trẻ đẻ
sống cho trẻ dưới 1 tuổi).Những kinh nghiệm này đã được UNFPA tổng kết
lại trong chương trình quản lý giám sát và đánh giá năm 2009 [113].
Điều này đặc biệt quan trọng ở Việt Nam, do công tác đào tạo chưa đạt
được theo chuẩn mực quốc tế, hàng năm rất ít có cơ hội đào tạo cho các cán
bộ y tế nói chung và cán bộ y tế làm công tác CSSK bà mẹ và trẻ sơ sinh, hệ
thống chuyển tuyến gặp rất nhiều khó khăn nên chất lượng chăm sóc y tế vẫn
còn nhiều hạn chế. Tỷ số tử vong mẹ còn cao (69/100.000 trẻ đẻ sống) và tỷ
suất tử vong trẻ sơ sinh còn khá cao (16/1.000 trẻ đẻ sống) [50].Năm 2011,
theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế số tử vong sơ sinh trên toàn
quốc là 15.104 trẻ, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân dưới 5 tuổi (cân
nặng/tuổi) là 16,8% [49]. Nếu so sánh với các nước có cùng thu nhập thì 2 tỷ
số tử vong mẹ vẫn là thấp nhưng so với mục tiêu thiên niên kỷ (MDG) thì
những tỷ số này vẫn còn cao và khó có thể đạt được vào năm 2015, là năm
cam kết đạt chỉ tiêu của Việt Nam.
Tại Việt Nam, trong giai đoạn qua, Bộ Y tế đã có nhiều nỗ lực trong
công tác xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa
học nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ y tế. Vụ sức khỏe Bà mẹ và trẻ em
(SKBMTE) phối hợp với Vụ Khoa học Đào tạo, BYT đã nỗ lực xây dựng
chương trình đào tạo hộ sinh trung học dựa vào năng lực và hiện đang xây
dựng chương trình cao đẳng hộ sinh. Đặc biệt đã có một chương trình đào tạo
cô đỡ thôn bản do bệnh viện Từ Dũ khởi xướng đang được các dự án lớn của
UNFPA, LMAT nhân rộng, nhằm cung cấp nhân lực y tế cho những vùng
miền núi khó khăn, khi người dân không có điều kiện đẻ tại cơ sở y tế do hạn
chế về đường xá xa xôi, khó khăn về kinh phí và phong tục tập quán không
thích đẻ tại TYT xã. Hiện nay, Vụ SKBMTE đang thí điểm tiến hành đào tạo
loại hình cán bộ cung cấp dịch vụ này cho một số tỉnh có dự án hỗ trợ kinh
44
phí và Vụ Tổ chức Cán bộ đang có kế hoạch chính thức hoá loại hình và xây
dựng chế độ đãi ngộ CBYT này trong hệ thống chức danh cán bộ y tế.Có
nhiều lớp đào tạo ngắn hạn được tổ chức, với nhiều chủ đề khác nhau và từ
nhiều nguồn kinh phí khác nhau.Kinh phí chính là nguồn ngân sách từ chương
trình mục tiêu quốc gia dành cho DS-KHHGĐ và SKSS, từ các nguồn tài trợ
của các dự án và từ kinh phí đào tạo lại. Trong các chương trình đào tạo, phải
nói đến chương trình đào tạo chuẩn quốc gia về CSSKSS bao gồm các cấu
phần về hướng dẫn chung, làm mẹ an toàn, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc
sức khỏe sinh sản vị thành niên, nhiễm khuẩn đường sinh sản/ bệnh lây truyền
qua đường tình dục, phá thai an toàn đã được thực hiện ở rất nhiều tỉnh trên cả
nước. Dựa trên chuẩn quốc gia, các chương trình tập huấn khác nhau đã được
thiết kế cho các nhóm đối tượng người cung cấp dịch vụ CSSKSS khác nhau
và tùy thuộc vào từng nhóm đối tượng cụ thể mà thời gian của chương trình
đào tạo thay đổi từ 5-22 ngày. Hiện nay chương trình đào tạo mới có cập nhật
thêm một số nội dung quan trọng ví dụ như chăm sóc sản khoa tích cực ở giai
đoạn 3 khi sinh, chuyển tuyến sản khoa và chuyển tuyến sơ sinh, sức khỏe
sinh sản vị thành niên (SKSSVTN), nhiễm khuẩn đường sinh sản và bệnh lây
truyền qua đường tình dục (NKĐSS/ LTQĐTD). Mục đích của các chương
trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho người cung cấp dịch
vụ tại tất cả các tuyến để cung cấp dịch vụ CSSKSS có chất lượng thông qua
việc giúp người cung cấp dịch vụ tuân thủ các CQG mới được ban hành [8].
Nhìn chung về đào tạo lại trong CSSKSS là một điểm mạnh, chất lượng giáo
trình và tổ chức đào tạo tăng lên nhiều, đem lại hiệu quả chăm sóc SKSS ở
nhiều địa phương.
Tuy nhiên, công tác đào tạo vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hầu như chỉ
có những tỉnh có dự án hỗ trợ thì cán bộ y tế (CBYT) mới có khả năng tiếp
cận đầy đủ các chương trình đào tạo ngắn hạn về các nội dung đã nêu trên. Ví
45
dụ do hạn chế về nguồn lực cho nên chỉ những tỉnh có dự án hỗ trợ thì CBYT
mới có khả năng được tham gia các khoá hoàn chỉnh về CQG (22 ngày). Còn
ở những tỉnh khác, tùy theo kinh phí và nhu cầu địa phương thì CBYT sẽ
được tham gia các khoá học ngắn hạn hơn theo một (vài) chủ đề thuộc
CQG.Những người hành nghề y tế tư nhân mặc dù có tham gia cung cấp dịch
vụ SKSS nhưng chưa được tham gia các lớp đào tạo lại về SKSS. Do hạn chế
về nguồn lực nên các chương trình đào tạo đều thực hiện theo phương pháp
đào tạo giảng viên cho các tuyến (TOT): đào tạo giảng viên trung ương, giảng
viên tuyến tỉnh và thực hiện tại địa phương. Theo nhận định của cán bộ quản
lý các chương trình, nhiều khi chất lượng đào tạo còn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Giám sát sau đào tạo chưa thực hiện được do thiếu kinh phí và nguồn
lực. Đặc biệt việc mời CBYT có trình độ chuyên môn cao từ Bệnh viện Phụ
sản Trung ương và Bệnh viện Từ Dũ rất khó khăn do không có thời gian [71].
1.2.3. Xây dựng và thực hiện các chính sách và các Hướng dẫn Chuẩn
Quốc gia về SKSS và LMAT
Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) tổ chức tại Cairo năm
1994 đã đưa ra chương trình hành động mới, đánh dấu một bước ngoặt trong
định hướng các chính sách về dân số, từ chỗ chỉ tập trung vào các dịch vụ kế
hoạch hoá gia đình, chuyển sang quan tâm tới các nhu cầu về sức khoẻ sinh
sản (SKSS), sức khoẻ tình dục (SKTD) của con người và quyền sinh sản [21].
Sau hội nghị Cairo, Chính phủ Việt Nam cũng thể hiện cam kết mạnh
mẽ trong việc thực hiện chương trình hành động của ICPD. Năm 2000, Bộ Y
tế đã xây dựng và ban hành Chiến lược Quốc gia về Chăm sóc sức khỏe sinh
sản (CSSKSS) trong giai đoạn 2001-2010nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa VII) về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp bảo vệ và chăm
sóc sức khỏe nhân dân, các định hướng Chiến lược về Chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe nhân dân và Chiến lược Dân số Việt Nam trong giai đoạn 2001-
46
2010, trong đó có các Chính sách về Dân số và kế hoạch hoá gia đình
(KHHGĐ) [16].Tiếp theo Chính phủ đã ban hành Chiến lược Quốc gia bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn
đến năm 2030, Chiến lược Dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn
2011-2020 [25].
Chiến lược thể hiện các quan điểm chỉ đạo, những mục tiêu và hoạt
động ưu tiên trong công tác CSSKSS ở Việt Nam trong 10-20 năm, đồng thời
giúp các bộ, ngành liên quan, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ và tư nhân
triển khai thực hiện các hoạt động thuộc chức năng nhiệm vụ của mình nhằm
nâng cao chất lượng và tính bền vững của công tác CSSKSS, góp phần thực
hiện thành công chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước.
Chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản đã giúp định hướng hoạt động của hệ
thống CSSKBMTE. Chiến lược CSSKSS ra đời năm 2000 đã giúp chuyển
dịch định hướng hoạt động của ngành từ KHHGĐ-SKBMTE sang SKSS, tập
trung nhiều vào lĩnh vực chất lượng dịch vụ, quyền khách hàng và tiến tới hội
nhập toàn cầu, tiếp cận nhiều với các hoạt động của quốc tế.
Văn bản chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản (CLCSSKSS) là kim
chỉ nam giúp Bộ Y tế định hướng những hỗ trợ quốc tế và trong nước vào
những lĩnh vực cụ thể. Trọng tâm của chiến lược là đáp ứng các nhu cầu
SKSS/SKTD của cá nhân từng người phụ nữ, nam giới và các cặp bạn tình
thay vì chỉ đạt các mục tiêu dân sốvà thực hiện cách tiếp cận SKSS lồng ghép
và toàn diện nhằm đẩy mạnh việc thực hiện các mục tiêu của Hội nghị quốc tế
về dân số và phát triển (ICPD) mà Việt Nam đã cam kết. Ở địa phương,
CLCSSKSS đã đưa ra định hướng để giúp các địa phương có thể lập kế hoạch
và triển khai các hoạt động. Nhận thức của mọi tầng lớp, từ lãnh đạo đến
người dân đều tốt hơn và do vậy việc thực hiện các hoạt động CSSKSS đã có
nhiều tiến bộ.
47
Vụ SKBMTE đã chủ trì để xây dựng nhiều văn bản chính sách quan
trọng, hướng tới đạt mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) về giảm tử vong mẹ và
trẻ sơ sinh xuống còn ¾ so với năm 2000.Sau sự ra đời của CLCSSKSS năm
2000 và mới nhất vào năm 2011, Vụ SKBMTE đã ban hành quy định về phân
tuyến kỹ thuật 385/2001/QĐ-BYT ngày 13/2/2001Qui định Nhiệm vụ Kỹ
thuật trong lĩnh vực Chăm sóc Sức khoẻ sinh sản tại các cơ sở y tế công lập
và các cơ sở y tế ngoài công lập [4]. Trong đó đã nêu rõ những chức năng,
nhiệm vụ kỹ thuật nào được thực hiện theo từng tuyến. Đây là văn bản pháp
lý có tính chất phân định nhiệm vụ rõ ràng cho từng tuyến một trong việc thực
hiện cung cấp dịch vụ CSSKSS ở Việt Nam.Hiện nay tài liệu này đang được
cập nhật bao gồm cả hệ thống dịch vụ Sức khỏe bà mẹ trẻ em và dân số phát
triển.
Một văn bản chính sách có vai trò quan trọng nữa được ban hành tại
QĐ số 3367/QĐ-BYT ngày 12/9/2002 về Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các
dịch vụ CSSKSS tại Việt Nam [9]. Chuẩn Quốc gia (CQG)gồm 5 chương:
Làm mẹ an toànvà chămsóc sơ sinh, kế hoạch hoá gia đình, cácbệnh nhiễm
khuẩn đườngsinh sản bao gồm các bệnh lây truyền qua đường tình dục và
HIV/AIDS, SKSSVTN và phá thai an toàn. Các hướng dẫn về tư vấn được
xây dựng lồng ghép trong từng nội dung. Sự ra đời của CQG về dịch vụ
CSSKSS đã giúp định hình được chất lượng dịch vụ vừa được sử dụng là
công cụ pháp lý để yêu cầu các cơ sở, các tổ chức trong và ngoài nước sử
dụng và tuân thủ khi thực hiện cung cấp dịch vụ CSSKSS ở Việt Nam, vừa là
một tài liệu để giúp đào tạo nâng cao chất lượng dịch vụ SKSS. Hiện nay
chuẩn Quốc gia mới về dịch vụ SKSS (CQG về SKSS) đã được ban hành theo
Quyết định số 4620/QĐ-BYT ngày 25/11/2009của Bộ trưởng Bộ Y tế, trong
đó có thêm một số nội dung mới liên quan đến chăm sóc sơ sinh, nam học và
48
người cao tuổi và một số yếu tố như văn hóa, HIV/AIDS, chuyển tuyến và tư
vấn trong phòng chống bạo lực gia đình [7].
Trong giai đoạn vừa qua, có nhiều văn bản chính sách có vai trò định
hướng quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của chương trình
LMAT.Đáng kể nhất là Kế hoạch quốc gia về LMAT năm 2003 [17]. Đây là
một bước quan trọng trong việc thực hiện CLSKSS, hướng tới giảm tỷ số tử
vong mẹ và tỷ suất chết sơ sinhtheo mục tiêu mà CLCSSKSS đã đề ra. Những
giải pháp then chốt đã được đưa ra như tăng tính sẵn có; khả năng tiếp cận
của các dịch vụ CSSS và SKTD; cải thiện chất lượng CSSS và sản khoa; kiện
toàn nhân lực và công tác quản lý; cải thiện các điều kiện có liên quan đến sức
khoẻ BMTE như phòng chống HIV/AIDS. Kế hoạch cũng nhấn mạnh sự cần
thiết của việc tăng tính sẵn có và khả năng tiếp cận của dịch vụ ở vùng núi và
vùng sâu vùng xa, nơi chủ yếu có người dân tộc thiểu số sinh sống. Tuy
nhiên, việc triển khai kế hoạch LMAT cũng mới chỉ hạn chế được ở 14 tỉnh
do thiếu nguồn lực.
Bên cạnh những văn bản chính sách có vai trò định hướng như đã nêu
trên, việc tiếp cận với các chương trình và kỹ thuật khoa học công nghệ do
toàn cầu hóa mang lại đã giúp Bộ Y tế (BYT) ban hành được nhiều văn bản
chính sách có liên quan về chuyên môn kỹ thuật, ví dụ sinh con theo phương
pháp khoa học (thông tư 07/2003/TT-BYT), hướng dẫn chẩn đoán và xử trí
cấp cứu 05 tai biến sản khoa (QĐ 3519/2000/QĐ-BYT), Chỉ thị 04/2003/CT-
BYT về tăng cường công tác chăm sóc trẻ sơ sinh nhằm giảm tỷ lệ tử vong sơ
sinh, “Chăm sóc sức khỏe sinh sản” tài liệu giảng dạy dùng cho các cán bộ y
tế [2], “Chăm sóc bà mẹ sau đẻ” tài liệu đào tạo hộ sinh trung học năm 2005
[18]. Trong giai đoạn qua, đã có nhiều văn bản hướng dẫn cải tổ bộ máy tổ
chức ở một số lĩnh vực như:
49
- Thành lập đơn nguyên sơ sinh ở các bệnh viện huyện để giảm tử vong
sơ sinh
- Thành lập các bệnh viện Sản Nhi ở các tuyến.
- Thành lập khoa vị thành niên (VTN) và nam học ở Trung tâm CSSKSS
tỉnh nhằm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản vị thành niên.
Những văn bản chính sách hỗ trợ việc thực hiện CLCSSKSS có tác
dụng tạo dựng hành lang pháp lý cho công tác CSSKS, thực hiện thành công
Chiến lược CSSKSS 2001-2010. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế liên quan
đến việc thực hiện các chính sách đã được ban hành. Nhiều chính sách đã
được ban hành chưa được triển khai do thiếu nguồn lực (kinh phí, con người,
cơ sở vật chất). Chương trình CSSKSS đã được đưa vào chương trình mục
tiêu quốc gia (CTMTQG) một cách chính thức từ năm 2008 và bắt đầu có
kinh phí chính thức để thực hiện một số chương trình có chính sách như
SKSSVTN, phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản/ bệnh lây truyền qua
đường tình dục. Phân tích việc thực hiện cho thấy rằng đối với chính sách
tăng cường SKSSVTN thì do không có kinh phí nên chưa triển khai được
cung cấp dịch vụ trên diện rộng.
Các văn bản hướng dẫn thực hiện về CSSKSS đôi khi còn chưa thống
nhất vớihướng dẫn của các vụ, cục khác nhau.Ví dụ,trong hướng dẫn CQG về
CSSKSS cho phép sử dụng thuốc tiêm để giải quyết những trường hợp tiền
sản giật, nhưng văn bản về sử dụng danh mục thuốc thiết yếu không có thuốc
này được sử dụng ở tuyến xã. Do vậy, hiện nay Vụ SKBMTE đang có những
rà soát để phối hợp với Cục QLKCB và Cục Quản lý Dược để đưa ra những
điều chỉnh cho phù hợp [20].
1.2.4. Truyền thông nâng cao nhận thức của người dân về LMAT
Công tác truyền thông giáo dục sức khỏe có một ví trí đặc biệt trong
công tác CSSK nói chung cũng như trong công tác CSSK cho bà mẹ và trẻ sơ
50
sinh nói riêng. Đó chính là lý do mà Tuyên ngôn Alma Ata từ năm 1978 của
thế kỷ trước đã đặt công tác TTGDSK là công tác trọng tâm của CSSKBĐ.
Đẩy mạnh và nâng cao công tác thông tin-giáo dục-truyền thông (TT-GD-TT)
là một trong những giải pháp quan trọng trong Chiến lược Quốc gia về Chăm
sóc sức khỏe sinh sản 2001-2010.
Tại Việt Nam, công tác TTGDSK đã được tiến hành từ lâu tuy nhiên
kết quả vẫn còn nhiều hạn chế. Trong lĩnh vực CSSKSS, Bộ Y tế đã xây dựng
“Tài liệu tuyên truyền vận động thực hiện Chiến lược quốc gia CSSKSS
2001-2010” [73].
Ở Trung ương tập trung vào TT-GD-TT trên các phương tiện truyền
thông đại chúng, nhằm chuyển tải những thông điệp chủ chốt trong toàn quốc,
đến cộng đồng với các hình thức:
- Xây dựng và phát sóng trên truyền hình các phóng sự và thông điệp về
chăm sóc sức khỏe sinh sản như: chăm sóc trước, trong và sau khi sinh;
phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản/ nhiễm khuẩn lây qua đường
tình dục; sử dụng các biện pháp tránh thai, thực hiện kế hoạch hóa gia
đình, ngăn ngừa có thai ngoài ý muốn, chăm sóc sức khỏe vị thành niên
và thanh niên.
- Xây dựng những bộ phim cổ động tuyên truyền về nuôi con bằng sữa
mẹ.
- Tổ chức diễn đàn và phóng sự trên đài truyền hình Việt Nam về tầm
quan trọng nuôi con bằng sữa mẹ
- Các bài viết về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, làm mẹ an toàn, chăm sóc
sức khỏe sơ sinh trên báo “Sức khỏe và đời sống”, đồng thời có chuyên
mục riêng về làm mẹ an toàn trên mặt báo.
- Xây dựng và cung cấp trong toàn quốc các loại tài liệu giáo dục truyền
thông về làm mẹ an toàn, nuôi con bằng sữa mẹ, chăm sóc trẻ sơ sinh,
51
phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con; chăm sóc trẻ HIV/AIDS tại gia
đình, phá thai an toàn [73].
Các trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản ngoài việc phổ biến các tài
liệu, thông điệp do vụ SKSS (nay là vụ SKBMTE) cung cấp còn tổ chức các
đợt chiến dịch tập trung truyền thông theo từng chủ đề nội dung CSSKSS.
Bên cạnh các chiến dịch còn thường xuyên tổ chức TT-GD-TT trên các
phương tiện truyền thông đại chúng của địa phương về các nội dung về chăm
sóc thai nghén, KHHGĐ, sức khỏe vị thành niên, bệnh phụ khoa, bệnh lây
truyền qua đường tình dục, nuôi con bằng sữa mẹ, phòng chống suy dinh
dưỡng…Một số trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh còn xây dựng tạp
chí chuyên san về SKSS để phố biến kiến thức cho cộng đồng [72].
Một nghiên cứu vừa được triển khai năm 2008 tại một số tỉnh cũng cho
thấy kết quả đáng mừng là hiểu biết của các cán bộ lãnh đạo các cấp gồm
tỉnh, huyện và xã là tương đối tốt về một số chính sách SKSS nói chung,
trong đó có Chiến lược quốc gia về CSSKKS. Đây là một tín hiệu tốt, bởi vì
trong số cán bộ lãnh đạo được phỏng vấn của nghiên cứu này không chỉ có
cán bộ quản lý trong ngành y tế - cơ quan chuyên môn trực tiếp chịu trách
nhiệm mà còn có cả đại diện lãnh đạo ủy ban nhân dân tỉnh – cơ quan chịu
trách nhiệm thi hành pháp luật. Chính vì lẽ đó công tác chăm sóc sức khỏe
sinh sản đã nhận được sự quan tâm ủng hộ nhất định của các cán bộ lãnh đạo
của cả cấp tỉnh và huyện.
TTGDTT luôn là một giải pháp được ưu tiên đưa lên hàng đầu để có
thể tăng cường nhận thức và chuyển đổi hành vi của người dân. Trong giai
đoạn qua, nội dung về SKSS đã được chuyển tải rộng rãi tới người dân như
KHHGĐ, LMAT, phòng bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, vị thành niên,
bình đẳng giới...thông qua nhiều kênh TTGDTT khác nhau. Các kênh
TTGDTT được sử dụng nhiều như ti vi, đài, báo ở cấp quốc gia và địa
52
phương. Bên cạnh đó, rất nhiều các loại hình tài liệu mang nội dung về SKSS
như tranh tuyên truyền, tờ rơi, băng đĩa đã được phát triển và phân phát cho
các nhóm đối tượng đích. Hàng trăm ngàn người đã và đang tham gia truyền
thông về SKSS/SKTD và bình đẳng giới tại Việt Nam. Ở những địa phương
có điều kiện kinh tế, có điện thìti vivà radio là những kênh quan trọng. Bên
cạnh đó những hình thức truyền thông khác như pano, áp phích hoặc photo
dán ở nhà họp thôn, tư vấn tại cơ sở y tế là những hình thức cung cấp thông
tin không kém phần quan trọng. Tại một số tỉnh thì những cuộc họp, thi hát về
SKSS cũng đóng vai trò lớn trong các kênh truyền thông về SKSS.
Nhận thức được tầm quan trọng của TTGDTT, là yếu tố tạo nhu cầu và
nâng cao chất lượng chương trình dân số, SKSS, Chiến lược TTGD chuyển
đổi hành vi về dân số, SKSS, KHHGĐ đã được xây dựng và phê duyệt. Đây
là một văn bản chính sách góp phần tạo môi trường pháp lý - xã hội và điều
kiện thuận lợi trực tiếp thúc đẩy việc triển khai hiệu quả Chiến lược dân số và
Chiến lược CSSKSS. Chính sách truyền thông chuyển đổi hành vi được thiết
kế thành hai giai đoạn: Chiến lược truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi
về DS-SKSS, KHHGĐ giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 2006-2010.Chiến
lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020
tầm nhìn 2030 với mục tiêu là “Xây dựng hệ thống y tế Việt Nam theo hướng
công bằng, hiệu quả và phát triển, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa ngành y tế,
phát triển dịch vụ y tế đạt trình độ ngang tầm các nước trong khu vực, nâng cao
sức khỏe, tăng tuổi thọ và chất lượng cuộc sống”.
Có những tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh vực SKSS nhưng chưa
phải đã được phổ biến và biết rõ về Chiến lược ngay sau khi văn bản có hiệu
lực mà phải một thời gian sau, thông qua làm việc trực tiếp với Bộ Y tế thì
mới biết về Chiến lược này và cùng phối hợp với các bên liên quan để triển
khai. Mọi người cho rằng cần hiểu được mối liên quan giữa những chỉ tiêu
53
đưa ra và mục tiêu của chiến lược. Rõ ràng là việc sử dụng các sản phẩm và
các kênh truyền thông phù hợp để phổ biến về chính sách nhằm có được sự
ủng hộ và cam kết thực hiện các mục tiêu của chiến lược ngay từ đầu và
thường xuyên đặc biệt với các đối tượng quản lý ở tuyến cơ sở cần được quan
tâm hơn và cải thiện trong thời gian tới… Có như vậy mới có thể huy động sự
tham gia tích cực và thường xuyên của các bên liên quan khác nhau trong
triển khai các hoạt động CSSKSS, vốn là một điều kiện không thể thiếu, để
đảm bảo việc triển khai hiệu quả các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược.
Hiện nay chưa có sự khác biệt rõ rệt về nội dung tài liệu và hình thức
truyền thông giữa các tỉnh đồng bằng và tỉnh miền núi.Nhiều sản phẩm truyền
thông, như tờ rơi, áp phích, băng rôn, tranh lật, tranh gấp… được sản xuất từ
Trung ương và chuyển xuống tuyến dưới, nhưng chất lượng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu. Nội dung thông điệp, ngôn ngữ nhiều khi cũng chưa phù hợp
với văn hóa địa phương và đặc điểm của đối tượng truyền thông.Trong khi đó
năng lực chuyên môn và nguồn lực của tuyến dưới chưa đủ để có thể điều
chỉnh sao cho phù hợp với đặc thù của địa phương.Vì vậy đã hạn chế hiệu quả
sử dụng các sản phẩm truyền thông.
Tư vấn là hình thức được đánh giá là có hiệu quả vì vậy năm 2007
được tiếp tục quan tâm triển khai và nâng cao chất lượng tại các cơ sở cung
cấp dịch vụ CSSKSS. Việc tổ chức đào tạo và triển khai mô hình tư vấn lồng
ghép KHHGĐ/nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục thông qua việc sử dụng
tập tranh lật tư vấn đã hỗ trợ cán bộ y tế tăng cường kỹ năng tư vấn, cập nhật
kiến thức về làm mẹ an toàn, KHHGĐ, tự tin khi thực hành tư vấn cho khách
hàng, thông tin cung cấp toàn diện, chính xác, tin cậy đặc biệt là lồng ghép
nội dung của các chương trình trong Chiến lược Quốc gia về chăm sóc sức
khỏe sinh sản [13].
54
1.2.5. Mô hình chăm sóc liên tục bà mẹ và trẻ sơ sinh từ nhà đến bệnh viện
Đây là một sáng kiến củaTổchức Cứu trợ Trẻ em Mỹ (Save the
Children, US) trước kia và Tổ chức Cứu trợ Trẻ em quốc tế hiện nay trên toàn
cầu trong đó có Việt Nam. Mô hình này đã được áp dụng ở nhiều nước trên
thế giới cả ở châu Á và châu Phi. Tại Việt Nam, mô hình này đã được áp
dụng tại 3 tỉnh Khánh Hòa, Đà Nẵng và Quảng Trị giai đoạn 2002-2005, sau
đó được mở rộng thêm tại Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế và Vĩnh Long giai
đoạn 2006-2010 và hiện nay đang được thực hiện ở Yên Bái, Đắc Lắc và Cà
Mau [35].
Save the Children /USA đã phát triển một hình toàn diện nhằm nâng
cao sức khỏe của trẻ sơ sinh và bà mẹ, hoạt độngtrong hệ thống chăm sóc sức
khỏe sẵn có và huy động sự tham gia của cộng đồng trên toàn thế giới trong
đó có Việt Nam. Mô hình “Chăm sóc liên tục từnhà tới bệnh viện” (HHCC)
đảm bảo sự sẵn có và tiếp cận chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh có chất lượng
được cung cấp một cách liền mạch liên tục từ gia đình, cộng đồng, trung tâm
chăm sóc sức khỏe và bệnh viện. Sự liên tục lưu tâm tới các dịch vụ sẵn có
ngoài cộng đồng, giới thiệu hiệu quả, sự phát triển và chất lượng kỹ năng cán
bộ được cải thiện,sử dụng những thực hành và thái độ của những hộ gia đình
mẫu để cải thiện và đạt được một tình trạng sức khỏe tốt nhất cho bà mẹ và trẻ
sơ sinh. Mô hình này đã được áp dụng thành công tại Khánh Hòa và Đà Nẵng
2005-2008 (giai đoạn 1) và tại Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế, Vĩnh Long
2008-2011 (giai đoạn 2) [47].
Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Mỹ đang được hỗ trợ bởi Athlantic
Philanthropies cho việc triển khai những can thiệp và dự án nghiên cứu giai
đoạn 3 (2012-2015) nhằm giảm tử vong ở bà mẹ và tử vong chu sinh trẻ sơ
sinh ở các tỉnh Yên Bái, Đắc Lắc và Cà Mau. Mục tiêu của dự án này là:
55
(1) Tăng cường khả năng tiếp cận tới dịch vụ cơ bản sẵn có, các trang
thiết bị và cung cấp cho bà mẹ và trẻ em ở tất cả các cơ sở y tế từ xã-huyện-
tỉnh.
(2) Tăng cường chất lượng sự chăm sóc khẩn cấp và thiết yếu cho bà
mẹ và trẻ sơ sinh ở các cơ sở y tế từ xã-huyện-tỉnh.
(3) Nâng cao kiến thức,kỹ năng và thực hành chăm sóc sức khỏe cho
bà mẹ, trẻ sơ sinh tại nhà, cộng đồng và tăng yêu cầu đối với dịch vụ chăm
sóc sức khỏe.
(4) Tăng cường quản lý, sự ủng hộ của xã hội và tạo môi trường sống
cho bà mẹ và trẻ sơ sinh ở cả 3 tỉnh trên.
Kết quả của 2 giai đoạn đầu đã tỏ ra rất hiệu quả trong công tác LMAT
ở 6 tỉnh, đã làm giảm tỷ số tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh. Đồng thời mô
hình này đã thu hút được sự chú ý và đầu tư của Ngành Y tế Việt Nam cũng
như các cấp chính quyền ở các tỉnh tham gia vào mô hình [35], [47].
Tóm lại: LMAT tập trung vào CSSKBM trước, trong và sau sinh là một
trong những ưu tiên trong CSSKSS đã được TCYTTG xác định cho các quốc
gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Việc cung cấp các dịch vụ LMAT
giữa các quốc gia rất khác nhau cả về số lượng cũng như về chất lượng. Tại
Việt Nam, việc cung cấp và sử dụng dịch vụ LMAT trong những năm gần đây
đã có những tiến bộ nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn có sự chênh lệch quá lớn giữa
các nhóm đối tượng dân số khác nhau, khác nhau giữa các vùng miền, giữa các
nhóm dân tộc khác nhau.
Các mô hình can thiệp về LMAT đã được triển khai và có được những kết
quả tốt ở một số địa điểm khác nhau trên thế giới cũng như trong toàn quốc.
Các biện pháp can thiệp tập trung chủ yếu vào người cung cấp dịch vụ, người
sử dụng dịch vụ và môi trường chính sách thuận lợi cho cung cấp và sử dụng
dịch vụ LMAT. Các biện pháp can thiệp bao gồm:
56
(1) nâng cấp cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị y tế và thuốc cần thiết
nhằm nâng cao chất lượng và số lượng cơ sở LMAT
(2) đào tạo cán bộ y tế cung cấp dịch vụ LMAT và CSSKSS
(3) xây dựng và thực hiện nghiêm túc các chính sách và các hướng dẫn
chuẩn quốc gia về SKSS và LMAT
(4) truyền thông nâng cao nhận thức của người dân về LMAT và SKSS
cùng các loại hình dịch vụ y tế cung cấp tại các cơ sở y tế địa phương
(5) Xây dựng, vận hành và duy trì hệ thống chuyển tuyến cộng đồng, đặc
biệt cho những vùng xa xôi, có nhiều khó khăn trong vận chuyển bệnh nhân.
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
57
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các bà mẹ đang nuôi con nhỏ.
- Các cán bộ y tế.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Các bà mẹ có con dưới 2 tuổi trong thời gian triển khai nghiên cứu tại 5
tỉnh Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Kon Tum và Ninh Thuận giai đoạn
2006 - 2010.
- Tự nguyện tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Các bà mẹ có con trên 2 tuổi
- Không tự nguyện tham gia nghiên cứu
2.2. Thời gian và địa điểm can thiệp và thu thập số liệu
- Điều tra ban đầu bắt đầu được tiến hành trong năm 2006 tại 5 tỉnh Hà
Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Ninh Thuận, Kon Tum.
- Thiết kế và lập kế hoạch can thiệp cuối năm 2005 tại Hà Nội và 5 tỉnh
Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Ninh Thuận, Kon Tum.
- Tiến hành can thiệp từ 2007-2010 tại 5 tỉnh Hà Giang, Phú Thọ, Hòa
Bình, Ninh Thuận, Kon Tum.
- Điều tra sau can thiệp tại tỉnh Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Ninh
Thuận, Kon Tumnăm 2010.
58
Hình 2.1. Bản đồ các tỉnh nghiên cứu
59
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu
Là một thiết kế nghiên cứu can thiệp trên cộng đồng không đối chứng
về làm mẹ an toàn sử dụng mô hình đánh giá hiệu quả “trước-sau” can thiệp
(Quasi-experimental study). Nghiên cứu sử dụng cả hai kỹ thuật thu thập số
liệu định lượng (phỏng vấn các bà mẹ là đối tượng nghiên cứu) và kỹ thuật
định tính (phỏng vấn sâu cán bộ y tế).
Nâng cao kiến thức và kỹ năng LMAT cho CBYT
Bà mẹ có con <2 tuổi Bà mẹ có con <2 tuổi
Cung cấp TTB Giám sát
Truyền thông LMAT cho bà mẹ Y tế
2006
2010
Đánh giá hiệu quả can thiệp về làm mẹ an toàn
Sơ đồ 2.1. Thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng không đối chứng về
làm mẹ an toàn
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu và chọn mẫu
2.3.2.1 Chọn mẫu và cỡ mẫu cho nghiên cứu định lượng:
- Công thức tính cỡ mẫu: Cỡ mẫu áp dụng cho nghiên cứu can thiệp
2
[
Z
p 1(2
p
)
Z
[
)
p
1(
p
])
1(
)2/
p 1
2
2
n
n 1
2
1( 2
(
p
p 1 )
1 p 1
2
trước – sau được tính theo công thức [6]:
60
Trong đó:
n1 = Số bà mẹ có con dưới 2 tuổi được phỏng vấn trước can thiệp
Số bà mẹ có con dưới 2 tuổi được phỏng vấn sau can thiệp n2 =
1( Z
)2/
= Hệ số tin cậy với mức xác suất 95% = 1,96
1( Z )
= Lực mẫu (80%)
Tỷ lệ bà mẹ khám sau sinh trước can thiệp ước tính là 30%[57] p1=
Tỷ lệ bà mẹ khám sau sinhsau can thiệp ước 50% [57] p2 =
P = p1 + p2 /2 là tỷ lệ trung bình của bà mẹ được khám sau sinh trước
và sau can thiệp. Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu là 103. Nhưng chọn mẫu trong
nghiên cứu này là chọn mẫu ngẫu nhiên chùm (random cluster sampling) nên
cần nhân với hệ số hiệu ứng thiết kế (design effect) là 2, do vậy cỡ mẫu là 206
cho 1 tỉnh. Do chọn 30 chùm/tỉnh nên ước số chung nhỏ nhất chia hết cho 30
chùm là 210. Vậy cỡ mẫu tính được cho nghiên cứu can thiệp đánh giá trước
sau cho 1 tỉnh là n1= n2 = 210 đối tượng nghiên cứu/tỉnh. Tổng số bà mẹ có
con dưới 2 tuổi trong nghiên cứu tại 5 tỉnh là 210 x 5 tỉnh = 1050.
Chọn mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 5 tỉnh, mẫu nghiên cứu được chọn là
mẫu 30 chùm (xã) ngẫu nhiên. Lý do không chọn 2 huyện can thiệp trực tiếp
mà chọn 30 chùm trong toàn tỉnh là do (1) nghiên cứu đầu vào trước dự án
năm 2006 là nghiên cứu trên toàn tỉnh; (2) quan điểm của Bộ y tế và UNFPA
là can thiệp điểm và trên cơ sở đó sẽ ảnh hưởng lan toả cho toàn tỉnh; (3)
Trong số 4 hoạt động chính của dự án thì hoạt động đào tạo cán bộ y tế theo
chuẩn quốc gia về CSSKSS, hoạt động truyền thông thay đổi hành vi cho các
bà mẹ và giám sát chất lượng dịch vụ được triển khai trên phạm vi toàn tỉnh,
chỉ có hoạt động cung cấp trang thiết bị và đào tạo cho cán bộ y tế về cấp cứu
sản khoa và cấp cứu sơ sinh là được triển khai trên các huyện can thiệp (mỗi
tỉnh chỉ có 2 huyện can thiệp).
61
Mỗi tỉnh chọn ra 30 chùm ngẫu nhiên (mỗi chùm là một xã), tại mỗi xã
có 7 bà mẹ có con < 2 tuổi được lựa chọn theo phương pháp “cổng liền
cổng”.Mẫu được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu chùm ngẫu nhiên theo
2 bước [54]:
Bước 1: Chọn ngẫu nhiên 30 xã trong số tất cả các xã của tỉnh dựa trên
danh sách của tất cả các xã do UBND tỉnh cung cấp và dân số trong từng xã.
Tính dân số cộng dồn sau đó tính hệ số K = Tổng dân số cộng dồn/30 chùm.
Dựa vào bảng số ngẫu nhiên chọn 1 số ngẫu nhiên nhỏ hơn hệ số K, đối
chiếu lại với dân số cộng dồn con số ngẫu nhiên này nằm ở xã nào thì xã đó là
xã thứ nhất được chọn. Chọn xã thứ 2 như sau: lấy số ngẫu nhiên vừa bắt
được trên bảng số ngẫu nhiên cộng với hệ số K và đối chiếu lại trên cột dân số
cộng dồn để xác định xã thứ 2 tiếp tục cho tới đủ số mẫu.
Bước 2: Chọn đối tượng phỏng vấn, quá trình được thực hiện như sau:
Tại mỗi xã đã được chọn ở bước 1 chọn ngẫu nhiên một hộ gia đình
đầu tiên của xã bằng cách bắt thăm ngẫu nhiên dựa trên danh sách tất cả các
hộ gia đình (danh sách này do ủy ban nhân dân xã cung cấp). Hộ đầu tiên có
thể có đối tượng nghiên cứu hoặc không nhưng vẫn được ghi nhận là hộ gia
đình đầu tiên. Hộ gia đình tiếp theo là hộ gần nhất với hộ gia đình đầu tiên
(cổng liền cổng).Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi chọn đủ hộ gia đình có đủ 7
bà mẹ có con dưới 2 tuổi/xã.
2.3.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu định tính
Cũng theo 3 lý do trên mà nghiên cứu định tính cũng chọn ra 2 xã chủ
đích cho một tỉnh: một xã gần trạm y tế xã và một xã cách xa trạm y tế xã để
thực hiện nghiên cứu định tính. Chọn như vậy để đảm bảo kết quả nghiên cứu
có cả những khó khăn, thuận lợi trong việc sử dụng dịch vụ CSSKSS cả
những nơi gần và xa cơ sở y tế [53]. Như vậy chọn 10 xã để nghiên cứu định
tính cho 5 tỉnh. Tại mỗi xã tiến hành phỏng vấn sâu 1 cán bộ chuyên trách về
62
CSSKSS (đã phỏng vấn sâu được tổng số 10 nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi).
Tại mỗi tỉnh nghiên cứu phỏng vấn sâu 2 cán bộ tại Trung tâm CSSKSS tỉnh
(đã phỏng vấn sâu được tổng số 10 cán bộ y tế).
2.3.3. Kỹ thuật và công cụ thu thập số liệu
2.3.3.1. Kỹ thuật thu thập số liệu
Bao gồm một số kỹ thuật thu thập số liệu sau đây:
- Phỏng vấn trực tiếp (face to face) các bà mẹ có con <2 tuổi theo bộ câu
hỏi có cấu trúc để thu thập các thông tin kiến thức về đặc trưng cá
nhân, gia đình và các kiến thức, thực hành về LMAT của họ.
- Phỏng vấn sâu cán bộ y tế xã và tỉnh để tìm hiểu thực trạng khó khăn và
thuận lợi trong quá trình triển khai dịch vụ và cung cấp dịch vụ
CSSKSS.
2.3.3.2. Công cụ thu thập số liệu
- Bộ câu hỏi phỏng vấn bà mẹ có con dưới 2 tuổi bao gồm các phần sau:
phần hành chính, đặc trưng cá nhân, kiến thức và thực hành liên quan
đến chăm sóc bà mẹ và trẻ em [phụ lục 1].
- Phiếu phỏng vấn sâu các cán bộ y tế về khó khăn, thuận lợi trong quá
trình triển khai các dịch vụ liên quan đến chương trình làm mẹ an toàn
tại địa phương [phụ lục 2].
2.3.3.3. Qui trình thu thập và đảm bảo chất lượng số liệu
Cả hai cuộc điều tra năm 2006 và năm 2010 đều được thực hiện giống
nhau về phương pháp nghiên cứu cũng như thu thập số liệu. Nghiên cứu sinh
cùng các giám sát viên và điều tra viên tham gia điều tra ở tuyến tỉnh, tuyến
huyện là những cán bộ của Trung tâm Nghiên cứu dân số và Sức khoẻ nông
thôn có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa phụ sản, dịch tễ, y tế cộng
đồng, xã hội học. Thêm vào đó còn có các giám sát viên của Trường Đại học
Y Hà Nội và UNFPA cùng tham gia giám sát cuộc điều tra.
63
Các điều tra viên và giám sát viên được tập huấn các kỹ năng cần thiết
về thu thập thông tin và điền phiếu điều tra, bảng kiểm trong 3 ngày. Ngoài
việc tập huấn trên hội trường, các cán bộ điều tra đã điều tra thử tại thực địa
để rút kinh nghiệm trước khi điều tra chính thức.
Điều tra viên tham gia điều tra ở cộng đồng được lựa chọn ngay tại địa
phương, trong đó có 3 người có trình độ bác sỹ chuyên ngành sản khoa được
lựa chọn từ Trường Trung học y tế tỉnh và 9 cán bộ điều tra hộ gia đình khác
được lựa chọn từ cục thống kê tỉnh. Tất cả điều tra viên này đều được tập
huấn mọi kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc điều tra thu thập số liệu trong
vòng 3 ngày (trong đó có ½ ngày đi phỏng vấn thử tại cộng đồng).
Nhóm điều tra thực địa tại mỗi tỉnh bao gồm một nhóm trưởng, 2 giám
sát viên về kỹ thuật, 2 điều tra viên cao cấp từ Trung ương, 3 bác sỹ của
trường trung học y tế tỉnh và 9 điều tra viên từ Cục thống kê tỉnh. Toàn bộ
cuộc điều tra thực địa được tiến hành trong 10 ngày/tỉnh.
Nhóm trưởng chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý, thực hiện toàn bộ cuộc
đánh giá ở tỉnh. Hai giám sát viên về kỹ thuật hỗ trợ và giám sát tất cả các
công việc thực địa. Kiểm tra lại ít nhất 5% công việc của điều tra viên, giải
quyết tất cả các vấn đề nảy sinh, và xem lại toàn bộ bảng hỏi, bảng kiểm trước
khi gửi cho nhóm xử lý số liệu.
Chín điều tra viên từ Cục thống kê tỉnh thực hiện điều tra cộng đồng.
Các điều tra viên chia làm 3 tổ, mỗi điều tra viên chuyên trách điều tra 1 đối
tượng và mỗi tổ điều tra tại 10 xã.
Chất lượng của việc thu thập số liệu đã được đảm bảo thông qua việc
giám sát chặt chẽ một cách có hệ thống của các giám sát viên độc lập của Vụ
SKBMTE, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế và UNFPA. Tất
cả các bước tập huấn điều tra viên/giám sát viên, chọn hộ hộ đầu tiên trong
quá trình điều tra đã được giám sát chặt chẽ. Các giám sát viên, lãnh đạo các
64
đội điều tra và các điều tra viên đã phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện
công việc để nâng cao chất lượng điều tra.
2.3.4. Qui trình can thiệp
2.3.4.1. Thành lập ban chỉ đạo tại các tỉnh và huyện
Tại tất cả các tỉnh can thiệp đều thành lập ban chỉ đạo về LMAT của
tỉnh. Thành viên của ban chỉ đạo bao gồm 1 phó chủ tịch, giám đốc sở y tế, đại
diện cho bệnh viện, trung tâm CSSKSS tỉnh và các đại diện của hội phụ nữ
(tuyến tỉnh). Tại tất cả các huyện can thiệp đều thành lập ban chỉ đạo về LMAT
của huyện. Thành viên của ban chỉ đạo bao gồm 1 phó chủ tịch huyện, đại diện
cho bệnh viện huyện, trung tâm y tế huyện và các đại diện của hội phụ nữ
(tuyến huyện). Nhiệm vụ của ban chỉ đạo là đầu mối của địa phương trong
công tác hợp tác với chương trình can thiệp, cung cấp nguồn nhân lực tại chỗ
cho hoạt động LMAT và điều hành các hoạt động LMAT tại địa phương.
2.3.4.2.Điều tra trước can thiệp (năm 2006)
Điều tra phỏng vấn các đối tượng nhóm các bà mẹ từ 15-49 tuổi có con
dưới 2 tuổi bằng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn. Điều tra phỏng vấn các cán bộ
y tế về những khó khăn và thuận lợi trong công tác cung cấp dịch vụ làm mẹ
an toàn. Kết quả của cuộc điều tra ban đầu nhằm cung cấp bằng chứng cho
các hoạt động can thiệp sau này. Việc thu thập các số liệu đầu vào về kiến
thức chăm sóc trước, trong và sau sinh của các nhóm nghiên cứu được thực
hiện tại 5 tỉnh Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Kon Tum và Ninh Thuận.
Phỏng vấn sâu các nhóm đối tượng các cán bộ y tế làm công tác
CSSKSS về việc cung cấp dịch vụ LMAT, những khó khăn và thuận lợi.
2.3.4.3. Tổ chức các cuộc hội thảo nhằm phổ biến các kết quả và lập kế hoạch
can thiệp
Các kết quả nghiên cứu đầu vào được báo cáo tại Sở y tế của 5 tỉnh.
Tham gia vào các hội thảo này là các cán bộ từ các bệnh viện tỉnh, trung tâm
65
CSSKSS tỉnh, các bệnh viện huyện và đại diện từ các trạm y tế xã cùng một
số tổ chức xã hội như hội phụ nữ tham gia vào hoạt động truyền thông về
LMAT cho người dân sau này.
Trên cơ sở các kết quả và khuyến cáo của hội thảo các tỉnh đã lập được
kế hoạch can thiệp riêng phù hợp cho hoàn cảnh thực tế của từng tỉnh. Tổng
số 5 cuộc hội thảo như vậy đã được thực hiện tại 5 tỉnh can thiệp. Tương tự,
các huyện và các xã đều lập kế hoạch cho riêng xã và tỉnh.
2.3.4.4. Các hoạt động can thiệp chính
Phần này chúng tôi chỉ trình bày những nhóm hoạt động can thiệp
chính liên quan đến nghiên cứu. Các hoạt động can thiệp tập trung chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng cung cấp và sử dụng dịch vụ LMAT tại các tuyến.
Các nhóm hoạt động can thiệp chính bao gồm:
(1) Đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ năng cung cấp dịch vụ LMAT
chất lượng cho cán bộ y tế, giáo trình sử dụng là cuốn Chuẩn Quốc gia về
Chăm sóc Sức khỏe sinh sản. Năm 2009, tuyến trung ương đã tổ chức đào tạo
24 giảng viên tuyến tỉnh về LMAT, đào tạo bổ sung giảng viên cho các cán
bộ y tế tỉnh, sau đó các tỉnh đã tổ chức 47 lớp đào tạo lại cho trên 1.500 cán
bộ cung cấp dịch vụ tuyến tỉnh, huyện. Đào tạo giảng viên cho tỉnh Hà Giang,
Hòa Bình, Phú Thọ và BV Phụ sản trung ương để giảng dạy cho các khoá đào
tạo cô đỡ thôn bản. Phối hợp với hai bệnh viện đầu ngành đào tạo 20 giảng
viên và 225 cán bộ cung cấp dịch vụ tuyến tỉnh về xử trí tích cực giai đoạn 3
của chuyển dạ. Đào tạo 22 giảng viên cho Hà Giang, Ninh Thuận, Kon Tum
và bệnh viện Từ Dũ để giảng dạy cho các khoá đào tạo Cô đỡ thôn bản. Nội
dung đào tạo sử dụng toàn bộ cuốn Chuẩn Quốc gia về CSSKSS do Bộ Y tế
ban hành lần 1 năm 2003 và có bổ xung thêm một số nội dung của cuốn
Chuẩn Quốc gia về CSSKSS ban hành năm 2009. Các cán bộ y tế xã được
học lý thuyết và thực hành tại Bệnh viện Huyện, tổng thời gian đào tạo là 2
66
tuần. Cán bộ CSSKSS của tất cả các tỉnh/huyện/xã của 5 tỉnh tham gia nghiên
cứu đều được đào tạo.
(2) Cung cấp một số trang thiết bị thiết yếu cho công tác LMAT.
Chương trình cung cấp trang thiết bị, thuốc thiết yếu cần thiết theo chuẩn
Quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giai đoạn 2006-2010 các hoạt động
cung cấp trang thiết bị cho các cơ sở y tế địa phương là rất ít, tập trung chủ
yếu vào 2 huyện can thiệp của mỗi tỉnh. Trang thiết bị và thuốc chủ yếu là
trang thiết bị và thuốc thiết yếu cho CSSKSS. Hoạt động này chủ yếu tập
trung vào các xã khó khăn chưa đảm bảo đủ các trang thiết bị và thuốc thiết
yếu.
(3) Giám sát hỗ trợ cho cán bộ y tế làm công tác CSSKSS. Sau các
khóa đào tạo, Vụ SKBM-TE và các Bệnh viện PSTW, Nhi TW, Từ Dũ đã tiến
hành 75 chuyến giám sát hỗ trợ tới các tỉnh. Các địa phương cũng đã tiến
hành 525 chuyến giám sát nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ CSSKSS. Các
tỉnh đã áp dụng Hướng dẫn theo dõi - giám sát - đánh giá do Bộ Y tế ban hành
trong việc triển khai hoạt động giám sát. Các giám sát được thực hiện theo
tuyến, tuyến trung ương giám sát tuyến tỉnh, tuyến tỉnh giám sát tuyến huyện
và tuyến huyện giám sát tuyến xã. Tuy nhiên, cũng có những chuyến giám sát
vượt tuyến như giám sát viên tuyến trung ương và tỉnh cũng giám sát trực tiếp
tuyến xã. Nội dung giám sát bao gồm giám sát việc thực hiện các kỹ thuật,
giám sát công tác quản lý, ghi chép sổ sách, sử dụng và bảo quản trang thiết
bị y tế và thuốc. Hoạt động giám sát cũng được triển khai trên toàn tỉnh nhưng
cũng tập trung vào các huyện can thiệp của 5 tỉnh.
(4) Truyền thông nâng cao kiến thức và thực hành về LMAT cho
người dân (tập trung vào 3 nhóm đối tượng chính là phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ, nam giới và vị thành niên). Chủ động, linh hoạt tổ chức triển khai truyền
thông vận động phù hợp với nhóm đối tượng đích, với điều kiện, hoàn cảnh
67
kinh tế - văn hóa - xã hội của địa phương. Ngoài việc sử dụng tài liệu truyền
thông do trung ương cung cấp, Trung tâm CSSKSS các tỉnh còn vận động
kinh phí để in bổ sung và cấp phát đến các cơ sở cung cấp dịch vụ và trong
các chiến dịch truyền thông lồng ghép. Tổ chức TTGDTT trên các phương
tiện truyền thông đại chúng của địa phương về chăm sóc thai nghén,
KHHGĐ, sức khoẻ VTN/TN, bệnh phụ khoa, bệnh lây truyền qua đường tình
dục, nuôi con bằng sữa mẹ, phòng chống suy dinh dưỡng... Trung tâm
CSSKSS một số tỉnh còn xây dựng tạp chí chuyên san về SKSS để phổ biến
kiến thức cho cộng đồng. Tại tuyến huyện, xã, thôn bản ngoài việc tổ chức
truyền thông trực tiếp theo nhóm còn tổ chức và sinh hoạt định kỳ các Câu lạc
bộ bà mẹ trẻ, Câu lạc bộ gia đình không có con suy dinh dưỡng… với sự tham
gia của Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, già làng trưởng bản. Hoạt động truyền
thông thay đổi hành vi cũng được triển khai trên toàn tỉnh nhưng cũng tập
trung vào các huyện/xã can thiệp của 5 tỉnh.
2.3.4.5. Tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo giảng viên theo Hướng dẫn Quốc
gia về dịch vụ sức khoẻ sinh sản cho các tuyến
Trước hết là Chương trình can thiệp đã tiến hành tuyển chọn và đào tạo
các giảng viên tuyến trung ương. Chương trình can thiệp đã đào tạo được 15
giảng viên tuyến trung ương. Các giảng viên tuyến trung ương là các cán bộ
sản và nhi có kiến thức và kinh nghiệm sâu về LMAT từ Bệnh viện Phụ sản
Trung ương, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Trung
ương Huế. Các giảng viên được tập huấn và thống nhất về chương trình đào
tạo và các hoạt động giám sát LMAT cho tuyến tỉnh.
Tiếp theo là các giảng viên trung ương tiến hành đào tạo cho mỗi tỉnh từ
4-6 giảng viên tuyến tỉnh/tỉnh. Các giảng viên tuyến tỉnh là các cán bộ sản và
nhi có kiến thức và kinh nghiệm sâu về LMAT từ bệnh viện tỉnh. Các giảng
viên cũng được tập huấn và thống nhất về chương trình đào tạo và các hoạt
68
động giám sát LMAT tại tuyến huyện sau này.
Các giảng viên tỉnh tiến hành đào tạo cho mỗi huyện từ 10-12 giảng viên
tuyến huyện/huyện. Các giảng viên tuyến tỉnh là các cán bộ sản và nhi có kiến
thức và kinh nghiệm sâu về LMAT từ bệnh viện huyện. Các giảng viên cũng
được tập huấn và thống nhất về chương trình đào tạo và các hoạt động giám
sát các hoạt động LMAT cho tuyến xã.
2.3.4.6. Triển khai chương trình can thiệp Làm mẹ an toàn:
a, Tiến hành đào tạo về Chuẩn quốc gia về CSSKSS các hoạt động LMAT tại
các tuyến tỉnh, huyện và xã. Các hoạt động đào tạo do các giảng viên đã được
đào tạo thực hiện. Nội dung đào tạo chủ yếu là được thực hiện tại các bệnh
viện, phối hợp giữa đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ năng. Tài liệu sử dụng
cho đào tạo là cuốn Chuẩn Quốc gia về CSSKSS năm 2003 và có sửa đổi do
Bộ y tế ban hành năm 2009. Kết quả đào tạo tại 5 tỉnh can thiệp cho thấy tất cả
cán bộ y tế làm công tác CSSKSS tại trạm y tế xã/phường, khoa sản và nhi,
bệnh viện huyện và bệnh viện tỉnh, trung tâm y tế huyện, trung tâm CSSKSS
tuyến tỉnh (nữ hộ sinh, y sỹ sản nhi và bác sỹ sản và bác sỹ nhi khoa) đều được
đào tạo về kiến thức và kỹ năng về CSSKSS tập trung chủ yếu vào LMAT.
b, Tăng cường giám sát các hoạt động LMAT tại tất cả các tuyến tỉnh, huyện
và xã. Hàng tháng, các giảng viên tuyến trung ương bố trí thời gian đi giám
sát các hoạt động cung cấp dịch vụ LMAT tại các bệnh viện tỉnh là chính, tuy
nhiên các giảng viên này cũng tham gia giám sát tại bệnh viện huyện và trạm
y tế xã nhưng không thường xuyên. Các giảng viên tuyến tỉnh đi giám sát
thường xuyên các bệnh viện huyện và trạm y tế xã và các giảng viên tuyến
huyện đi giám sát hoạt động LMAT tại các trạm y tế xã.
c, Cung cấp trang thiết bị theo qui định của Chuẩn và Hướng dẫn Quốc gia về
dịch vụ sức khoẻ sinh sản cho các tuyến tại 5 tỉnh nghiên cứu. Dựa trên cuộc
kiểm kê về trang thiết bị y tế trong CSSKSS (trong cuộc điều tra ban đầu), Y
69
tế tỉnh, huyện và xã lập kế hoạch mua sắm để Chương trình cung cấp những
trang thiết bị thật sự cần thiết cho các hoạt động LMAT. Trang thiết bị y tế
chủ yếu được cung cấp cho trạm y tế xã là chủ yếu.
d, Tổ chức các hoạt động can thiệp cộng đồng tại điểm được chọn dự kiến mô
hình can thiệp. Xây dựng và phát các vật liệu tuyên truyền giáo dục dễ hiểu
phù hợp với nhu cầu của đối tượng tác động. Tiến hành đẩy mạnh hoạt động
thông tin giáo dục truyền thông thông qua các cuộc họp cộng đồng, câu lạc
bộ, họp đoàn thể và các cuộc thi tại cộng đồng. Tổ chức các lớp tập huấn cho
những người tham gia thực hiện hoạt động can thiệp, đặc biệt nâng cao kiến
thức và kỹ năng, hỗ trợ cho mạng lưới cộng tác viên (hội phụ nữ, đoàn thanh
niên, hội chữ thập đỏ...). Thông qua hoạt động của nhóm cộng tác viên hỗ trợ
kiến thức về chăm sóc trước, trong và sau sinh của các bà mẹ.
2.3.4.7. Điều tra đánh giá sau can thiệp (năm 2010)
Điều tra đánh giá sau thời gian triển khai chương trình can thiệp, sẽ được
thực hiện trên các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại các xã của 5 tỉnh tham gia
nghiên cứu. Các nội dung điều tra, phỏng vấn được tiến hành tương tự như
điều tra lần đầu, tìm ra sự hiểu biết kiến thức trong các nhóm quần thể nghiên
cứu, trước và sau khi can thiệp. Kết quả của các can thiệp cộng đồng, các yếu
tố ảnh hưởng sẽ được đánh giá thông qua so sánh sự khác biệt về các biến số
giữa trước và sau can thiệp, kết hợp với phỏng vấn sâu để tìm hiểu kỹ thêm
khó khăn và thuận lợi trong quá trình thực hiện các can thiệp từ đó đề xuất
khuyến nghị can thiệp phù hợp.
2.3.5. Một số định nghĩa, khái niệm
Chăm sóc trước sinh: Là những chăm sóc sản khoa cho người phụ nữ tính từ
thời điểm có thai cho đến trước khi đẻ nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai
được an toàn, sinh con khỏe mạnh. Bao gồm chế độ ăn, chế độ làm việc, khám
thai, tiêm phòng uốn ván và uống viên sắt/folic, uống vitamin A [1], [2].
70
Khám thai đủ 3 lần: là khám thai 3 lần vào 3 tháng đầu, 3 tháng giữa và 3
tháng cuối của thai kỳ [68].
Tiêm đủ 2 mũi uốn ván: là tiêm 2 mũi vaccin uốn ván cho phụ nữ có thai đúng
lịch (mũi 1: tiêm càng sớm càng tốt khi biết có thai, mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 30
ngày và trước đẻ ít nhất1tháng) hoặc chỉ tiêm 1 mũi tăng cường nếu trước đó họ
đã được tiêm 2 mũi và mũi tiêm này cách mũi 2 ít nhất 6 tháng [8].
Chăm sóc khi sinh: Các bà mẹ có rất nhiều lựa chọn về địa điểm sinh con mà
thống nhất là đẻ ở tại cơ sở y tế, do cán bộ y tế đỡ đẻ. Một số điểm cần lưu ý
đến chăm sóc khi đẻ như sau: các điều kiện và phương tiện đỡ đẻ sạch, đỡ đẻ
kịp thời phòng tránh và xử trí kịp thời tai biến, con đẻ ra luôn được ở cạnh
mẹ, được hỗ trợ tinh thần và thể lực trong lúc sinh con [33].
Chăm sóc sau sinh: Chăm sóc cho sản phụ mới đẻ trong 6 giờ đầu đẻ, phát
hiện ra những biến chứng đặc biệt là chảy máu, trong giai đoạn chăm sóc sau
đẻ này phải chú ý đến công tác thông tin giáo dục các kiến thức cơ bản về vệ
sinh sau đẻ, bà mẹ cho con bú sớm sau đẻ, bà mẹ và con đi khám lại 2 lần
trong vòng 42 ngày sau đẻ, chăm sóc rốn sơ sinhvà phát hiện sớm dấu hiệu
nhiễm trùng rốn [14].
Khả năng tiếp cận: Là những điều kiện để đảm bảo khách hàng có thể đến
được cơ sở y tế cần thiết:
- Khả năng tiếp cận về địa lý được tính bằng 2 chỉ số hoặc là độ dài
quãng đường hoặc là khoảng thời gian từ nhà đến cơ sở y tế. Thời gian
thường được sử dụng nhiều hơn
- Khả năng tiếp cận về kinh tế được tính bằng khả năng về tài chính
(tiền) để đảm bảo cho khách hàng có thể đến được cơ sở y tế cần thiết
- Khả năng tiếp cận về văn hóa chính là các rào cản về văn hóa như
phong tục tập quán, trình độ văn hóa ngăn cản khách hàng đến cơ sở y
tế cần thiết.
71
Nhân viên y tế thôn bản: làm công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em
(còn gọi là cô đỡ thôn, bản) ở thôn, bản có nhiều người dân tộc thiểu số sinh
sống, còn tồn tại phong tục, tập quán không đến khám thai, quản lý thai và đẻ
tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn, có diện tích rộng, giao thông khó khăn, phức tạp, khả năng
tiếp cận của người dân với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hạn chế (là thôn, bản
còn có khó khăn về công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em) [12].
2.3.6. Bảng biến số nghiên cứu
2.3.6.1. Đánh giá kết quả sau can thiệp làm mẹ an toàn
a, Một số đặc trưng cá nhân của các bà mẹ
- Tuổi
- Trình độ học vấn
- Dân tộc
- Tôn giáo
- Số con sống của các bà mẹ
b, Kiến thức và thực hành của các bà mẹ trước và sau can thiệp
- Kiến thức về khám thai
- Kiến thức về tiêm phòng uốn ván
- Kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai
- Thực hành về khám thai
- Thực hành về tiêm phòng uốn ván
- Thực hành về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai
- Kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm khi sinh
- Kiến thức về nơi sinh
- Kiến thức về lựa chọn người đỡ đẻ
- Thực hành khi có dấu hiệu nguy hiểm khi sinh
- Thực hành về nơi sinh
72
- Thực hành về lựa chọn người đỡ đẻ
- Kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm sau sinh
- Kiến thức về cho con bú
- Kiến thức về khám lại sau sinh
- Thực hành khi có dấu hiệu nguy hiểm sau sinh
- Thực hành về khám lại sau sinh
2.3.6.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả can thiệp làm mẹ an toàn (phỏng
vấn sâu):
- Nhân lực y tế
- Công tác giám sát
- Sử dụng dịch vụ LMAT
- Khả năng tiếp cận về địa lý đến dịch vụ LMAT
- Khả năng tiếp cận kinh tế đến dịch vụ LMAT
- Khả năng tiếp cận văn hóa đến dịch vụ LMAT
73
Gia đình và xã hội: - Số con - Tỉnh - Khoảng cách địa lý
Đặc trưng cá nhân: - Tuổi - Học vấn - Tôn giáo - Khả năng nói tiếng việt - Số lần mang thai
Đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ năng cung cấp dịch vụ LMAT
Khung lý thuyết can thiệp làm mẹ an toàn
Cơ sở
Giám sát hỗ trợ cho CBYT làm CSSKSS
Can thiệp làm mẹ an toàn
y tế
Cán bộ Kiến thức và thực hành của các bà mẹ
Cung cấp trang thiết bị thiết yếu LMAT
Chăm sóc khi sinh: -Đẻ tại cơ sở y tế -Khi sinh có CBYT đỡ
Chăm sóc sau khi sinh: -Khám lại sau sinh -Sử dụng các biện pháp tránh thai -Cho trẻ bú sớm sau khi sinh
Chăm sóc trước sinh: -Khám thai đủ 3 lần -Tiêm phòng uốn ván đủ 2 lần -Nơi khám thai
y tế
74
2.3.7. Quản lý và phân tích số liệu
2.3.7.1. Phân tích số liệu định lượng
Toàn bộ số phiếu nhận từ thực địa đã được nhóm xử lý số liệu kiểm tra
lại trước khi nhập vào máy tính. Ngoài kiểm tra bằng chương trình EPI-INFO
6.04 để hạn chế những sai sót khi nhập số liệu, tất cả phiếu đều được vào máy
hai lần do hai cán bộ nhập số liệu, sau đó sử dụng chương trình kiểm tra phát
hiện và sửa những sai sót do nhập số liệu. Số liệu được phân tích, tính toán và
trình bày theo bảng, biểu đồ, sử dụng phối hợp các chương trình phần mềm
của EPI- INFO 6.04, Visual FOXPRO Version 7.0, Microsoft Excel.
Số liệu được phân tích và trình bày dưới dạng tần số và tỷ lệ % và phân
tích trên mô hình hồi qui tuyến tính đa biến để xác định mối liên quan, ảnh
hưởng giữa các biến trong nghiên cứu.
Hiệu quả của chương trình can thiệp được đo lường bằng chỉ số hiệu
quả can thiệp. Cách tính chỉ số hiệu quả như sau:
Tỷ lệ sau can thiệp (P2) - Tỷ lệ trước can thiệp (P1) CSHQ (%) = ------------------------------------------------------- x100
Tỷ lệ trước can thiệp (P1)
Khi nhận định đánh giá hiệu quả của nghiên cứu can thiệp dựa trên sự
phối hợp chặt chẽ giữa giá trị p và chỉ số hiệu quả. Đôi khi chỉ số hiệu quả rất
cao nhưng lại không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa trước và sau
can thiệp. Chỉ số hiệu quả có giá trị thực sự khi sự khác biệt trước và sau can
thiệp có ý nghĩa thống kê.
2.3.7.2. Phân tích số liệu định tính
Số liệu định tính thông qua các cuộc phỏng vấn sâu được phân tích
theo kỹ thuật “phân tích nội dung” (content analysis). Các thông tin được
phân tích, tổng hợp và khái quát lại và kết luận theo nội dung nghiên cứu đã
đề ra.
75
2.3.8. Sai số, giới hạn và hạn chế của nghiên cứu
- Sai số do thu thập thông tin:Bỏ sót thông tin, khi ghi chép các câu trả
lời của đối tượng trong quá trình phỏng vấn. Cán bộ tiến hành phỏng vấn sâu
chưa có đủ kinh nghiệm để khai thác thêm đối tượng phỏng vấn. Bà mẹ không
hợp tác hoặc cung cấp các số liệu sai lệch do giữ thể diện, hoặc vì các yếu tố
mang tính tập quán.
Cách khắc phục: tập huấn kỹ bộ câu hỏi, giám sát quá trình lấy thông
tin. Lựa chọn các nghiên cứu viên có kinh nghiệm và trách nhiệm. Tổ chức
rút kinh nghiệm trong nhóm nghiên cứu và giám sát sau mỗi đợt điều tra.
- Sai số do nhập số liệu: Lỗi số liệu do người nhập liệu bỏ sót hoặc vào
nhầm số liệu.
Cách khắc phục: làm sạch bảng hỏi trước khi xử lý, chỉ những bảng hỏi
được điền đủ thông tin mới được chuyển giao cho nhóm nghiên cứu.
2.3.9. Đạo đức trong nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu đã được sự phê duyệt và hội đồng đánh giá của
Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương thông qua vấn đề y đức.
Đối tượng nghiên cứu đã được thông báo về mục đích của nghiên cứu và
hoàn toàn tự nguyện tham gia nghiên cứu, được đảm bảo quyền lợi.
Giữ hoàn toàn bí mật thông tin của những người tham gia và chỉ sử
dụng cho mục đích nghiên cứu.
Không được sử dụng bất cứ thông tin nghiên cứu cho bất cứ mục đích
nào khác và số liệu thu thập được hoàn toàn chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu
khoa học.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
76
3.1. Một số đặc trưng cá nhân của các bà mẹ
3.1.1 Tuổi và trình độ học vấn:
Bảng 3.1. Phân bố nhóm tuổi, trình độ học vấn của các bà mẹchung cho
5 tỉnh trước và sau can thiệp
Trước can thiệp Sau can thiệp Đặc trưng cá nhân P Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Nhóm tuổi
≤ 18 tuổi 38 >0,05 4,8 50 3,6
19-29 795 >0,05 71,4 750 75,8
30-39 204 >0,05 22,2 233 19,4
≥ 40 13 >0,05 1,6 17 1,2
Tổng 1050 100 1050 100
Học vấn
Không biết chữ 133 >0,05 11,6 122 12,7
Tiểu học 284 >0,05 28,1 295 27,0
Trung học cơ sở 439 >0,05 42,9 450 41,8
Trung học phổ thông 153 >0,05 11,5 121 14,6
Cao đẳng/đại học 41 >0,05 5,9 62 3,9
Tổng 1050 100 1050 100
Kết quả bảng trên cho thấy phân bố nhóm tuổi trước và sau nghiên cứu
không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Tương tự, không có sự khác
77
biệt mang ý nghĩa thống kê giữa trình độ học vấn của bà mẹ trước và sau can
thiệp.Trong số 1050 bà mẹ được nghiên cứu, phần lớn các bà mẹ ở độ tuổi 19-
29, chiếm 75,8%, tiếp theo là độ tuổi 30-39 chiếm 19,4%. Đặc biệt, tỷ lệ bà
mẹ có con dưới 18 tuổi chiếm 3,6%. Tuổi trung bình của các bà mẹ là 26,2 ±
5,58, thấp nhất 15 tuổi và cao nhất 49 tuổi.
Tỷ lệ bà mẹ có trình độ học vấn ở mức trung học cơ sở chiếm 41,8%,
tiếp theo là trình độ tiểu học, chiếm 27%. Đặc biêt, tỷ lệ mù chữ của các bà
mẹ chiếm tỷ lệ không nhỏ, chiếm 12,7%. Trình độ học vấn trung bình của các
bà mẹ là 7,2± 1,5 lớp.
3.1.2 Dân tộc và tôn giáo:
Bảng 3.2. Phân bố dân tộc, tôn giáo của các bà mẹchung cho 5 tỉnh trước
và sau can thiệp
Trước can thiệp Sau can thiệp Đặc trưng cá nhân P Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Dân tộc
490 46,7 510 >0,05 48,6 Kinh
560 53,3 540 >0,05 51,4 Thiểu số
1050 100 1050 100 Tổng
Tôn giáo
916 87,2 850 >0,05 81,0 Không
134 12,8 200 >0,05 19,0 Khác
1050 100 1050 100 Tổng
Kết quả bảng trên cho thấy phân bố người dân tộc trước và sau nghiên
cứu không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Tương tự, không có sự
khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa tôn giáo của bà mẹ trước và sau can
thiệp. Tỷ lệ bà mẹ là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao hơn so với bà mẹ
78
là người Kinh (51,4% so với 48,6%). Các bà mẹ là người dân tộc phổ biến là
người Mường ở Hòa Bình, người H’mông ở Hà Giang, người Chăm ở Ninh
Thuận và người Ba Na ở Kon Tum. Tỷ lệ bà mẹ là không theo tôn giáo nào
mà chủ yếu là thờ ông bà tổ tiên chiếm 81,0% và có 19,0% bà mẹ theo các
đạo như Thiên chúa và Tin lành.
3.1.3. Số con sống:
Bảng 3.3. Phân bố số con sống của các bà mẹchung cho cho 5 tỉnh trước và
sau can thiệp
Trước can thiệp Sau can thiệp P Số con sống Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
897 85,4 920 86,6 >0,05 1-2 con
153 14,6 130 12,4 >0,05 Từ 3 con trở lên
1050 100 1050 100 Tổng
Tỷ lệ bà mẹ có từ 1-2 con chiếm tỷ lệ rất cao 85,4% và tỷ lệ bà mẹ có
từ 3 con trở lên chiếm 14,6%. Số con trung bình của 1 bà mẹ là 1,8 ± 1,1 con.
Số con thấp nhất/bà mẹ là 1 con và số con cao nhất/bà mẹ là 10 con.Tuy
nhiên, không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa số con/bà mẹ trước
và sau can thiệp.
79
3.2. Hiệu quả can thiệp về kiến thức chăm sóc trước trong và sau sinh ở
các bà mẹ
3.2.1. Hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức và thực hành chăm sóc trướcsinh
3.2.1.1. Hiệu quả can thiệp về kiến thức chăm sóc thai trước sinh
Khám thai trước khi sinh
Bảng 3.4. Thay đổi kiến thức về số lần khám thai trước và sau can
thiệpchungcho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Kiến thức về CSHQ số lần khám p Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ (%) thai lượng lượng % %
Một lần 15 1,4 8 53,3 >0,05 0,8
Hai lần 79 7,5 43 45,3 >0,05 4,1
Ba lần + 886 84,4 949 90,4 12,1 <0,05
Không cần 7 0,7 10 12,5 >0,05 0,9
Không biết 63 6,0 40 36,6 >0,05 3,8
Tổng 1050 100 1050 100
Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về cần được khám thai ít nhất 1 lần trước can
thiệp chiếm 93,3% tăng lên sau can thiệp là 95,3%. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về cần được khám thai
đủ từ 3 lần trở lên trước can thiệp chiếm 84,4% tăng lên sau can thiệp là
90,4%, sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê với p<0,05 và CSHQ=12,1%. Tỷ
lệ bà mẹ cho rằng không biết hoặc không cần khám thai giảm từ 6,7% xuống
4,7%.
100
95
90,4
90
84,4
85
80
75
Trước can thiệp
Sau can thiệp
80
* CSHQ:7,1%
Biểu đồ 3.1.Thay đổi kiến thức về khám thai ít nhất 3 lần cho một lần mang
thai trước và sau can thiệp chung cho cho 5 tỉnh
Biểu đồ trên cho thấy hiệu quả thay đổi kiến thức về khám thai đủ từ 3
lần trở lên cho một lần mang thai theo Chuẩn Quốc gia về sức khỏe sinh sản
của Bộ Y tế. Trước can thiệp, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức khám thai từ 3 lần trở
lên chiếm 84,4% và sau can thiệp tỷ lệ bà mẹ có kiến thức khám thai từ 3 lần
trở lên chiếm 90,4%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 và CSHQ
là 7,1%. Số lần khám thai trung bình/bà mẹ khi mang thai là 2,7±0,82 lần.
81
Bảng 3.5. Thay đổi kiến thức về khám thai ít nhất 3 lần cho 1 lần mang
thai trước và sau can thiệp theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Địa phương CSHQ p
lượng % lượng %
Phú Thọ 202 96,2 204 97,1 0,9 >0,05
Hà Giang 137 65,2 154 73,3 12,4 <0,05
Hòa Bình 195 92,9 208 99,0 6,6 >0,05
Ninh Thuận 181 86,2 205 97,6 13,2 <0,05
Kon Tum 171 81,4 178 84,8 4,2 >0,05
Bảng trên so sánh hiệu quả can thiệp làm tăng tỷ lệ hiểu biết của các bà mẹ
về khám thai từ 3 lần trở lên giữa các tỉnh. Ở 2 tỉnh Hà Giang và Ninh Thuận,
tỷ lệ khám thai đủ từ 3 lần trở lên tăng mang ý nghĩa thống kê với p<0,05
(tương ứng 65,2% lên 73,3% và 86,2% lên 97,6%). Tại ba tỉnh Phú Thọ, Hòa
Bình và Kon Tum, tỷ lệ này cũng tăng nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Tiêm phòng uốn ván
Bảng 3.6. Thay đổi kiến thức về số lần tiêm phòng uốn ván trước và sau
can thiệpchung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Kiến thức về số Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ p (%) lần tiêm lượng % lượng %
58 5,5 57 5,4 0,1 >0,05 Một mũi
734 69,9 725 69,0 0,9 >0,05 Hai mũi
258 24,6 268 25,6 1,0 >0,05 Không biết
1050 100 1050 100 - Tổng
82
Sau can thiệp tỷ lệ bà mẹ hiểu biết cần tiêm ít nhất 1 mũi vắc xin dự
phòng uốn ván giảm từ5,4% xuống 4,4% và tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về tiêm
phòng 2 mũi vắc xin giảm từ 69,9% xuống còn 69,0%. Sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 3.7. Thay đổi kiến thức về tiêm phòng uốn ván ít nhất 2 lần cho 1 lần
mang thai trước và sau can thiệp phân tích theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Địa phương CSHQ p
lượng % lượng %
Phú Thọ 169 80,5 174 82,9 3,0 >0,05
Hà Giang 104 49,5 100 47,6 3,8 >0,05
Hòa Bình 172 81,9 162 77,1 5,9 >0,05
Ninh Thuận 158 75,2 168 80,2 6,6 >0,05
Kon Tum 131 62,4 121 57,6 7,7 >0,05
Tại 3 tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình và Ninh Thuận, tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về tiêm
đủ 2 mũi vắc xin phòng uốn ván là khá cao trước can thiệp cũng như sau can
thiệp. Tại 2 tỉnh còn lại là Hà Giang và Kon Tum, tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về
tiêm đủ 2 mũi vắc xin phòng uốn ván là khá thấp trước can thiệp cũng như
sau can thiệp và có xu hướng giảm sau can thiệp. Tuy nhiên, sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
83
Bảng 3.8. Thay đổi kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai
trước và sau can thiệpchung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Dấu hiệu nguy CSHQ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ p hiểm trước sinh (%) lượng % lượng %
Sốt cao kéo dài 207 19,7 9,5 <0,001 307 29,2
87 8,3 197 18,8 10,5 <0,001 Đau đầu
84 8,0 234 22,3 14,3 <0,001 Phù
380 36,2 623 59,3 23,1 <0,001 Chảy máu
36 3,4 179 17,0 13,6 <0,001 Co giật
390 37,1 594 56,6 19,4 <0,001 Đau bụng
61 5,8 66 6,3 0,5 >0,05 Khác
351 33,4 214 20,4 13 <0,001 Không biết
Trước can thiệp có đến 33,4% bà mẹ không biết bất kỳ một dấu hiệu
nguy hiểm nào trong khi mang thai nhưng sau can thiệp chỉ còn 20,4% bà mẹ
không biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào trong khi mang thai (giảm
13%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Kiến thức của bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm nhất có thể ảnh hưởng
lớn đến sức khỏe bà mẹ và thai nhi cần phải đi khám tại cơ sở y tế như chảy
máu âm đạo, phù, co giật, đau bụng, đau đầu sốt cao kéo dài tăng nhanh sau
can thiệp (Chỉ số hiệu quả tăng từ 9,5%-23,1%). Những sự khác biệt đều có ý
nghĩa thống kê với p<0,001.
100
80
60
31,2
40
20
8,1
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
84
Biểu đồ 3.2.Thay đổi kiến thức về ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai
trước và sau can thiệp chung cho 5 tỉnh
Hiểu biết của bà mẹ về ít nhất từ 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên cũng
tăng nhanh sau can thiệp (chỉ số hiệu quả tăng 32,1%). Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,001. Ba dấu hiệu rất nguy hiểm này là sốt cao kéo dài,
chảy máu và co giật.
Bảng 3.9. Thay đổi kiến thức vềít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai
trước và sau can thiệp phân tích theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Địa phương CSHQ p
lượng % lượng %
Phú Thọ 56 26,7 134 63,8 139,0 <0,05
Hà Giang 2 0,9 3 1,4 55,5 >0,05
Hòa Bình 15 7,1 128 61,0 747,2 <0,05
Ninh Thuận 9 4,3 18 8,6 100,0 >0,05
Kon Tum 3 1,4 45 21,4 1428,6 <0,05
Hiểu biết của bà mẹ về 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên tăng khác nhau
theo tỉnh. Tỷ lệ này tăng nhanh và có ý nghĩa thống kê ở 3 tỉnh Phú Thọ, Hòa
85
Bình và Kon Tum (p<0,05). Tuy nhiên, ở 2 tỉnh còn lại là Hà Giang và Ninh
Thuận, tỷ lệ này tăng rất ít và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 3.10. Thay đổi kiến thức về xử trí các dấu hiệu nguy hiểm khi mang
thai trước và sau can thiệp chung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Kiến thức về xử
trí dấu hiệu nguy Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ CSHQ p
lượng % lượng % hiểm
Để tự khỏi 393 37,4 22,0 41,2 <0,01 231
Tự chữa 15 1,4 16 15,2 985,4 <0,01
Mời thầy thuốc 81 7,7 118 11,2 45,5 <0,01
Đến CSYT công 793 628 59,8 75,5 26,8 <0,01
Đến thầy thuốc tư 60 5,7 103 9,8 71,9 <0,05
1 0,1 1 0,1 0 - Đến khám thầy lang
Tỷ lệ các bà mẹ hiểu biết về cách xử trí đúng các dấu hiệu nguy hiểm
khi mang thai nếu mắc là đi khám chữa bệnh tại cơ sở y tế công tăng từ 58,9%
trước can thiệp lên 75,5% sau can thiệp. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,01.
Các cách xử trí khác như mời thầy thuốc đến nhà khám chữa bệnh, đến
thầy thuốc tư cũng tăng rõ rệ có ý nghĩa thống kê (tương ứng từ 7,7% lên
45,5% và 5,7% lên 9,8%). Đặc biệt, các bà mẹ trả lời để tự khỏi giảm từ
37,4% trước can thiệp xuống còn 22% sau can thiệp với p<0,01.
86
Bảng 3.11. Thay đổi kiến thức về xử trí các dấu hiệu nguy hiểm tại cơ sở y
tế côngkhi mang thai trước và sau can thiệpphân tích theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Địa phương CSHQ p
lượng % lượng %
10,6 >0,05 Phú Thọ 160 76,2 177 843
Hà Giang 83 39,5 119 56,7 43,5 <0,05
Hòa Bình 165 78,6 198 94,3 19,9 <0,05
Ninh Thuận 114 54,3 151 71,9 32,4 <0,05
Kon Tum 106 50,5 148 70,5 39,6 <0,05
Hiểu biết của bà mẹ hiểu biết về cách xử trí đúng khi mắc các dấu hiệu
nguy hiểm khi mang thai cũng gia tăng cho cả 5 tỉnh. Tuy nhiên, sự gia tăng
có ý nghĩa thống kê chỉ có ở 4 tỉnh Hà Giang, Hòa Bình, Ninh Thuận và Kon
Tum với p<0,05, trừ tỉnh Phú Thọ.
100
84,8
77,2
80
60
40
20
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
3.2.1.2. Hiệu quả can thiệp về thực hành chăm sóc thai trước sinh
* p<0,05
Biểu đồ 3.3. Thay đổi thực hành khám thai đủ từ 3 lần trước và sau can thiệp
87
Biểu đồ trên cho thấy tỷ lệ các bà mẹ được khám thai đầy đủ từ 3 lần
trở lên/lần mang thai tăng từ 77,2% trước can thiệp tăng lên 84,8% sau can
thiệp. Sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.12. Thay đổi về thực hành khám thaiđủ từ 3 lần trở lên phân tích
theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Địa phương p (%) lượng % lượng %
Phú Thọ 198 94,3 198 94,3 0 >0,05
Hà Giang 123 58,6 146 69,5 18,6 <0,05
Hòa Bình 195 92,9 208 99,0 6,6 >0,05
Ninh Thuận 165 78,6 190 90,5 15,1 <0,05
Kon Tum 129 61,4 148 70,5 14,8 <0,05
Tỷ lệ các bà mẹ được khám thai đủ từ 3 lần trở lên tăng ở 3 tỉnh Hà
Giang, Ninh Thuận và Kon Tum trước và sau can thiệp. Sự thay đổi này có ý
nghĩa thống kê với p<0,05. Tại 2 tỉnh Phú Thọ và Hòa Bình vẫn duy trì được
tỷ lệ khám thai đầy đủ từ 3 lần trở lên trên 90%.
Bảng 3.13. Thay đổi thực hành của cácbà mẹ về nơi khám thai chung cho
5 tỉnh
Trước can thiệp
Nơi khám thai p (%)
Trạm y tế xã Số lượng 819 Tỷ lệ % 78,0 Sau can thiệp CSHQ Tỷ lệ Số % lượng 78,2 821 0,2 >0,05
Cơ sở y tế tuyến trên 367 34,9 520 49,5 41,8 <0,05
NVYT thôn, bản 20 1,9 38 3,6 89,5 >0,05
Cơ sở chữa bệnh tư 182 17,3 349 33,2 91,9 <0,05
Thầy thuốc mụ vườn 1 0,1 4 0,4 >0,05
88
Tỷ lệ phụ nữ đi khám thai tại trạm y tế xã không thay đổi trước và sau
can thiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ đi khám thai ở cơ sở y tế tuyến huyện và
tỉnh tăng nhanh sau can thiệp (tăng từ 34,9% lên 49,5%). Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05 và chỉ số can thiệp tăng 41,8%.
Tương tự, tỷ lệ phụ nữ đi khám thai ở cơ sở y tế tư nhân tăng nhanh sau
can thiệp (tăng từ 17,3% lên 33,2%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
100
80
71,8
68,6
60
40
20
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
p<0,05 và chỉ số can thiệp tăng 91,9%.
* p>0,05
Biểu đồ 3.4. Thay đổi thực hành tiêm phòng uốn ván đủ mũi trước và sau
can thiệp
Tỷ lệ phụ nữ tiêm phòng uốn ván giảm từ 71,8% trước can thiệp xuống
còn 68,6% sau can thiệp. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
với p>0,05 và chỉ số can thiệp thay đổi theo chiều hướng giảm đi 4,5%.
89
Bảng 3.14 . Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiêm phòng uốn ván
đủ mũi trước và sau can thiệp phân tích theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Số Số Địa phương p Tỷ lệ % Tỷ lệ % (%) lượng lượng
176 83,8 149 71,0 15,2 >0,05 Phú Thọ
125 59,5 105 50,0 16,0 >0,05 Hà Giang
155 73,8 149 71,0 3,7 >0,05 Hòa Bình
156 74,3 160 76,2 2,6 >0,05 Ninh Thuận
142 67,6 157 74,8 10,7 >0,05 Kon Tum
Tỷ lệ các bà mẹ được tiêm phòng uốn ván tại 3 tỉnh Phú Thọ, Hà Giang
và Hòa Bình đều giảm không nhiều sau can thiệp, tuy nhiên sự suy giảm này
không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Tỷ lệ các bà mẹ được tiêm phòng uốn ván tại 2 tỉnh còn lại là Ninh
Thuận và Kon Tum đều gia tăng không nhiều sau can thiệp, sự gia tăng này
không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
90
3.2.2. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc trong sinh
3.2.2.1. Hiệu quả can thiệp về kiến thức chăm sóc trong sinh
Bảng 3.15. Thay đổi kiến thức của các bà mẹ về ai là người đỡ đẻ tốt nhất
trước và sau can thiệp chung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Người đỡ đẻ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ p (%) lượng % lượng %
12,6 <0,01 CBYT công 858 81,7 966 92,0
83,7 <0,01 45 4,3 7 0,7 Bà đỡ địa phương
30,0 >0,05 31 3,0 22 2,1 Chồng
35,8 >0,05 60 5,7 23 2,2 Người thân
25,0 >0,05 4 0,4 5 0,5 Tự mình
48,0 >0,05 52 5,0 27 2,6 Không biết
Tổng 1050 100 1050 100
Tỷ lệ các bà mẹ thay đổi kiến thức về cán bộ y tế công là người đỡ đẻ
tốt nhất trước và sau can thiệp tăng từ 81,7% lên 92%. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,01. Tỷ lệ các bà mẹ thay đổi kiến thức về bà đỡ địa
phương là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau can thiệp giảm từ 4,3% xuống
0,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Tỷ lệ các bà mẹ thay đổi
kiến thức về những người khác là chồng, người thân, tự mình đỡ và không
biết ai là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau can thiệp đều giảm, tuy nhiên,sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
91
Bảng 3.16. Thay đổi kiến thức về cán bộ y tế là người đỡ đẻ tốt nhất trước
và sau can thiệp phân tích theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ p Địa phương (%) Tỷ lệ % Tỷ lệ %
Số lượng 210 100,0 Số lượng 210 100,0 0 - Phú Thọ
144 68,6 172 81,9 19,1 <0,05 Hà Giang
207 98,6 210 100,0 1,4 >0,05 Hòa Bình
175 83,3 201 95,7 14,9 <0,05 Ninh Thuận
122 58,1 173 82,4 41,7 <0,01 Kon Tum
Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về cán bộ y tế là người đỡ đẻ tốt nhất trước và
sau can thiệp tăng rõ rệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) tại 3 tỉnh Hà Giang
(tăng từ 68,6% lên 81,9%), Ninh Thuận (tăng từ 83,3% lên 95,7%) và Kon
Tum (tăng từ 58,1% lên 82,4%).Tỉnh Hòa Bình tăng ít từ 98,6% lên 100% và
không tăng tại tỉnh Phú Thọ nhưng không có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Bảng 3.17. Thay đổi kiến thức biết các dấu hiệu nguy hiểm khi sinh trước
và sau can thiệpchung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Dấu hiệu nguy CSHQ p hiểm khi sinh (%)
Đau bụng dữ dội Số lượng 294 Tỷ lệ % 28,0 Số lượng 435 Tỷ lệ % 41,4 47,9 <0,01
Chảy nhiều máu 385 36,7 563 53,6 46,0 <0,01
Sốt 43 4,1 204 19,4 373,2 <0,01
Co giật 45 4,3 176 16,8 290,7 <0,01
Vỡ ối sớm 187 17,8 370 35,2 97,8 <0,01
Khác 25 2,4 38 3,6 50,0 >0,05
Không biết 405 38,6 283 27,0 30,1 <0,01
92
Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết các dấu hiệu nguy hiểm trong khi chuyển dạ tăng
rõ rệt sau can thiệpcó ý nghĩa thống kê với p<0,01. Tỷ lệ bà mẹ hiểu triệu
chứng đau bụng dữ dội khi chuyển dạ tăng từ 28% trước can thiệp lên 41,4%
sau can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ hiểu triệu chứng ra nhiều máu khi chuyển dạ tăng
từ 36,7% trước can thiệp lên 53,6% sau can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ hiểu triệu
chứng co giật, vỡ ối sớm khi chuyển dạ tăng từ 4,3% và 17,8% trước can
thiệp lên 16,8% và 35,2% sau can thiệp. Đặc biệt tỷ lệ bà mẹ không biết một
100
80
60
40
28.1
20
5.7
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
triệu chứng nào giảm từ 38,6% xuống còn 27% sau can thiệp (p<0,01).
Biểu đồ 3.5. Thay đổi kiến thức biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm khi sinh
trước và sau can thiệp chung cho các tỉnh
Trước can thiệp, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về ít nhất 3 dấu hiệu nguy
hiểm khi chuyển dạ chiếm 5,7% và tăng lên 28,1% sau can thiệp. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,01 và CSHQ =393%.
93
Bảng3.18. Thay đổi kiến thức của các bà mẹ về biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy
hiểm trong khi sinh trước và sau can thiệp phân tích theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Địa phương p (%) Tỷ lệ % Tỷ lệ %
Phú Thọ Số lượng 28 13,3 Số lượng 122 366,8 58,1 <0,01
Hà Giang 3 1,4 16 442,9 7,6 <0,05
Hòa Bình 8 3,8 90 42,9 1028,9 <0,01
Ninh Thuận 12 5,7 10 4,8 15,8 >0,05
Kon Tum 9 4,3 57 27,1 530,2 <0,05
Sự thay đổi của các bà mẹ về biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm trong
khi sinh trước và sau can thiệp khác nhau giữa các tỉnh. Sự khác biệt đều có ý
nghĩa thống kê cho 4 tỉnh Phú Thọ, Hà Giang, Hòa Bình và Kon Tum (p dao
động từ <0,05 - <0,01). Chỉ riêng tỉnh Ninh Thuận sự gia tăng về tỷ lệ các bà
mẹ biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm trong khi sinh thì sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê (p>0,05). Ba dấu hiệu nguy hiểm này là ra máu nhiều, đau
bụng dữ dội và co giật.
3.2.2.2. Hiệu quả can thiệp về thực hành chăm sóc trong sinh
Bảng 3.19 . Thay đổi về nơibà mẹ sinh con trước và sau can thiệp chung
cho 5 tỉnh
Trước can thiệp
p Nơi sinh con (%) Tỷ lệ % Tỷ lệ %
Số lượng 771 73,4 Sau can thiệp CSHQ Số lượng 848 10,1 80,8 >0,05 CSYT nhà nước
1 0,1 5 0,5 - >0,05 CSYT tư nhân
278 26,5 197 18,8 29,1 >0,05 Tại nhà
1050 100 1050 100 Tổng
94
Nơi bà mẹ sinh con là cơ sở y tế nhà nước tăng cao hơn sau can thiệp
(73,4% trước can thiệp so với 80,8% sau can thiệp). Tuy nhiên, sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Nơi bà mẹ sinh con tại nhà cũng giảm
sau can thiệp (26,5% trước can thiệp so với 18,8% sau can thiệp). Tuy nhiên,
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
Bảng 3.20. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ sinh con tại cơ sở y tế trước và sau can
thiệp phân tích theo tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Địa phương p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % (%)
Phú Thọ 197 93,8 209 99,5 >0,05 6,1
Hà Giang 108 51,4 118 56,2 >0,05 9,3
Hòa Bình 200 95,2 205 97,6 >0,05 2,5
Ninh Thuận 180 85,7 191 91,0 >0,05 6,2
Kon Tum 86 41,0 125 59,5 45,1 <0,05
Tại cả 5 tỉnh, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại cơ sở y tế đều gia tăng sau can
thiệp. Tuy nhiên, sự gia tăng này chỉ có ý nghĩa thống kê ở tỉnh Kon Tum, nơi
có tỷ lệ bà mẹ sinh con thấp nhất trước can thiệp (tăng từ 41,0% lên 59,5%)
với p<0,05.
95
Bảng 3.21. Thay đổi về người đỡ đẻ cho bà mẹ sinh con trước và sau can
thiệp chung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Người đỡ đẻ p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % (%)
877 83,5 930 88,5 3,7 >0,05 Cán bộ y tế
Bà mụ vườn 52 4,9 21 2,0 59,2 <0,05
Người chồng 29 2,8 29 2,8 - -
Người trong gia đình 81 7,7 51 4,9 36,4 <0,05
Người khác 8 0,8 1 0,1 - -
Không có ai 3 0,3 18 1,7 >0,05 -
Tổng 1050 100 1050 100
Tỷ lệ các bà mẹ được cán bộ y tế đỡ đẻ tăng nhẹ sau can thiệp (từ
83,5% lên 88,6%). Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ
các bà mẹ được các bà mụ vườn và người thân trong gia đình đỡ đẻ giảm rõ
rệt sau can thiệp (từ 4,9% xuống 2% và từ 7,7% xuống 4,9%). Sự khác biệt có
88,5
83,5
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10
Trước can thiệp
Sau can thiệp
ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Biểu đồ 3.6. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ sinh con được cán bộ y tế đỡ đẻ trước
và sau can thiệp chung cho 5 tỉnh
96
Kết quả chung cho cả 5 tỉnh, trước can thiệp chỉ có 83,5% phụ nữ sinh
con được cán bộ y tế đỡ đẻ nhưng sau khi can thiệp tỷ lệ phụ nữ sinh con
được đỡ đẻ đã cải thiện tăng lên 88,6%. Sự khác biệt khôngcó ý nghĩa thống
kê với p>0,05.
Bảng 3.22. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ sinh con được cán bộ y tế đỡ đẻ trước
và sau can thiệp phân tích theo từng tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Địa phương p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % (%)
Phú Thọ 208 99,0 209 99,5 0,5 >0,05
Hà Giang 154 73,3 154 73,3 20,0 >0,05
Hòa Bình 202 96,2 208 99,0 2,9 >0,05
Ninh Thuận 180 85,7 193 91,9 7,2 >0,05
Kon Tum 133 63,3 166 79,0 24,8 <0,05
Khi tính hiệu quả can thiệp về tỷ lệ phụ nữ sinh con do cán bộ y tế đỡ
đẻ cho từng tỉnh, chỉ có tỉnh Kon Tum trước can thiệp chỉ có 63,3% phụ nữ
sinh con được cán bộ y tế đỡ đẻ nhưng sau khi can thiệp tỷ lệ phụ nữ sinh con
được đỡ đẻ đã cải thiện nhiều tăng lên 79%. Sự khác biệt mang ý nghĩa thống
kê với p<0,05 và chỉ số hiệu quả là 24,8%. Bốn tỉnh còn lại, tỷ lệ phụ nữ sinh
con do cán bộ y tế đỡ đẻ có tăng nhẹ sau can thiệp nhưng khôngcó ý nghĩa
thống kê với p>0,05.
100
80,8
76,2
80
60
40
20
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
97
Biểu đồ 3.7. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ mang thai được chồng đưa đi đẻ trong
lần sinh gần đây nhất theo tỉnh chung cho 5 tỉnh
Kết quả chung cho cả 5 tỉnh, trước can thiệp chỉ có 76,2% phụ nữ mang
thai được chồng đưa đi đẻ nhưng sau khi can thiệp tỷ lệ phụ nữ mang thai
được chồng đưa đi đẻ đã cải thiện tăng lên 80,8%. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 3.23. Tỷ lệ phụ nữ mang thai được chồng đưa đi đẻ trong lần sinh
gần đây nhất theo từng tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Địa phương p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % (%)
Phú Thọ 191 91,0 200 95,2 >0,05 4,6
Hà Giang 140 66,7 129 61,4 >0,05 7,9
Hòa Bình 199 94,8 197 93,8 >0,05 1,7
Ninh Thuận 160 76,2 183 87,1 14,3 <0,05
Kon Tum 110 52,4 139 66,2 26,3 <0,05
Khi tính hiệu quản can thiệp về tỷ lệ phụ nữ mang thai được chồng đưa
đi đẻ cho từng tỉnh, chỉ có tỉnh Kon Tum và Ninh Thuận trước can thiệp chỉ
có 52,4% và 76,2% phụ nữ mang thai được chồng đưa đi đẻ nhưng sau khi
can thiệp tỷ lệ phụ nữ mang thai được chồng đưa đi đẻ đã cải thiện nhiều tăng
98
lên 66,2% và 87,1%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 và chỉ số
hiệu quả là 26,3% và 14,3%. Ba tỉnh còn lại, tỷ lệ phụ nữ sinh con do cán bộ
y tế đỡ đẻ có tăng hoặc giảm nhẹ sau can thiệp và không mang ý nghĩa thống
kê với p>0,05.
Bảng 3.24. Tỷ lệ PN được người nhà giúp đỡ chuẩn bị lần sinh đẻ gần đây
nhất chung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Người giúp CSHQ p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % đỡ (%)
Chồng 856 81,5 827 78,8 3,4 >0,05
Mẹ chồng 482 45,9 513 48,9 6,5 >0,05
Mẹ đẻ 388 37,0 454 43,2 16,8 >0,05
Khác 166 15,8 151 14,4 8,8 >0,05
Khi tính hiệu quản can thiệp về tỷ lệ phụ nữ mang thai được người nhà
giúp đỡ chuẩn bị cho lần sinh đẻ cho từng tỉnh, tỷ lệ phụ nữ mang thai được
người nhà giúp đỡ chuẩn bị cho lần sinh đẻ có tăng hoặc giảm nhẹ sau can
thiệp và không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
3.2.3. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh
100
77,8
80
53,7
60
40
20
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
3.2.3.1. Hiệu quả can thiệp về kiến thức chăm sóc sau sinh
Biểu đồ 3.8. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về khám lại sau sinh chung
cho 5 tỉnh
99
Kết quả chung cho cả 5 tỉnh, trước can thiệp chỉ có 53,7% phụ nữ sinh
đẻ được khám lại sau sinh nhưng sau khi can thiệp tỷ lệ sinh đẻ được khám lại
sau sinh đã được cải thiện tăng lên 77,8%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,05 và chỉ số hiệu quả đạt 44,9%.
Bảng 3.25. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về khám lại sau sinh cho
từng tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Địa phương p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % (%)
Phú Thọ 136 64,8 170 80,9 24,8 <0,05
Hà Giang 108 51,4 162 77,1 50,0 <0,05
Hòa Bình 127 60,5 178 84,8 46,2 <0,05
Ninh Thuận 107 51,0 166 79,0 54,9 <0,05
Kon Tum 86 40,9 141 67,1 64,1 <0,05
Khi tính hiệu quảcan thiệp về tỷ lệ phụ nữ sinh con được khám lại sau
sinh cho từng tỉnh, tại cả 5 tỉnh tỷ lệ các bà mẹ được khám lại sau sinh đều
100
80
60
40
29,1
20
5,5
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
tăng có ý nghĩa thống kê với p<0,05 và CSHQ tăng từ 24,8-64,1%.
Biểu đồ 3.9. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về 5 dấu hiệu nguy hiểm
sau khi sinh chung cho 5 tỉnh
Kết quả chung cho cả 5 tỉnh, trước can thiệp chỉ có 5,5% phụ nữ sau
100
sinh biết các dấu hiệu nguy hiểm sau sinh nhưng sau can thiệp tỷ lệ phụ nữ
sau sinh biết các dấu hiệu nguy hiểm sau sinh tăng lên 29,1%. Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p<0,001 và chỉ số hiệu quả đạt 429%.Năm dấu hiệu
nguy hiểm sau sinh bao gồm: chảy máu kéo dài và tăng lên, ra dịch âm đạo có
mùi hôi, sốt cao kéo dài, đau bụng kéo dài và tăng lên và một số dấu hiệu
khác.
Bảng 3.26. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về từng dấu hiệu nguy
hiểm sau sinh chung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Dấu hiệu CSHQ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ p nguy hiểm (%) lượng lượng % %
Đau bụng dữ dội 31,4 433 41,2 31,2 <0,001 330
Chảy nhiều máu 36,7 542 51,6 40,6 <0,001 385
Sốt cao 6,4 186 17,7 176,5 <0,001 67
Co giật 5,0 194 18,5 270,0 <0,001 52
Khác 3,4 58 5,5 61,7 >0,05 36
Cho từng dấu hiệu nguy hiểm riêng biệt, sau can thiệp tất cả 4 dấu
hiệu nguy hiểm sau sinh là đau bụng dữ dội, chảy nhiều máu, sốt cao, co
giật đều gia tăng có ý nghĩa thống kê. Trước can thiệp chỉ có 36,7% biết
chảy máu nhiều và sau can thiệp có 51,6% phụ nữ biết dấu hiệu này. Trước
can thiệp chỉ có 5% biết dấu hiệu co giật và sau can thiệp có 18,5% phụ nữ
biết dấu hiệu này.
101
Bảng 3.27. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức đầy đủ về 5dấu hiệu nguy
hiểm sau sinh theo từng tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Số Số Địa phương p Tỷ lệ % Tỷ lệ % (%) lượng lượng
41 19,5 114 54,3 177,0 <0,01 Phú Thọ
5 2,4 10 4,8 100,0 <0,05 Hà Giang
3 1,4 112 53,3 3678,0 <0,001 Hòa Bình
5 2,4 11 5,2 116,7 <0,05 Ninh Thuận
4 1,9 59 28,1 1378,9 <0,01 Kon Tum
Khi tính hiệu quả can thiệp về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức đầy đủ về 5
dấu hiệu nguy hiểm sau sinh cho từng tỉnh, tại cả 5 tỉnh tỷ lệ phụ nữ có kiến
thức đầy đủ về 5 dấu hiệu nguy hiểm sau sinhđều tăng có ý nghĩa thống kê
với p<0,05 và CSHQ tăng từ 100-3678%.
Bảng 3.28. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về thời gian cho trẻ bú lần
đầu tiên sau sinh chung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Thời gian cho bú CSHQ Số Số Tỷ lệ p Tỷ lệ % sau khi sinh (%) lượng lượng %
788 75,0 775 73,8 2,6 >0,05 Trong vòng 30'
136 13,0 213 20,3 56,2 <0,05 Từ trên 30' đến 1h
59 5,6 39 3,7 33,9 >0,05 Khác
67 6,4 23 2,2 65,6 <0,05 Không biết
1043 100 1050 100 Tổng
Sau can thiệp, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức cho trẻ bú ngay trong vòng 30’
sau sinh có giảm nhẹ từ 75,0% xuống 73,8% nhưng không có ý nghĩa thống
102
kê. Tỷ lệ bà mẹcó kiến thức cho trẻ bú ngay từ trên 30’ đến 1 giờ sau sinh
tăng nhanh từ 13% lên20,3%, sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê với p<0,05
100
80,.3
77,7
80
60
40
20
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
và CSHQ đạt 56,2%.
Biểu đồ 3.10. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về các biện pháp tránh
thai chung cho 5 tỉnh
Kết quả chung cho cả 5 tỉnh, trước can thiệp chỉ có 77,7% phụ nữ biết
các biện pháp tránh thai nhưng sau khi can thiệptỷ lệ này đã được cải thiện
tăng lên 80,3%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05 và chỉ số
hiệu quả chỉ đạt 3,4%.
Bảng 3.29. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về các biện pháp tránh
thai phân tích theo từng tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Địa phương p (%) Tỷ lệ % Tỷ lệ %
Số lượng 178 92,9 >0,05 8,7 84,8 Phú Thọ Số lượng 195
137 63,8 >0,05 2,2 65,2 Hà Giang 134
201 89,5 >0,05 6,9 95,7 Hòa Bình 188
169 81,0 >0,05 0,6 80,5 Ninh Thuận 170
157 62,4 74,8 19,9 >0,05 Kon Tum 131
103
Khi tính hiệu quả can thiệp về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về các biện
pháp tránh thai cho từng tỉnh, tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về các biện pháp tránh
thai có tăng hoặc giảm nhẹ sau can thiệp và đều không có ý nghĩa thống kê
100
80
60
40
31,2
16
20
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
với p>0,05.
Biểu đồ 3.11. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về ít nhất 3 quyền của
khách hàng trong CSSKSS chung cho 5 tỉnh
Kết quả chung cho cả 5 tỉnh, trước can thiệp chỉ có 16% phụ nữ biết ít
nhất 3 quyền của khách hàng trong CSSKSS nhưng sau khi can thiệp tỷ lệ tỷ
lệ này đã được cải thiện tăng lên 31,2%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05 và chỉ số hiệu quả chỉ đạt 95%.
104
Bảng 3.30. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về ít nhất 3 quyền của
khách hàng
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Số Số Địa phương p Tỷ lệ % Tỷ lệ % (%) lượng lượng
49,0 45,2 7,8 >0,05 95 103 Phú Thọ
23,3 16,2 30,5 <0,05 34 49 Hà Giang
5,2 52,9 91,7 <0,001 111 11 Hòa Bình
1,0 11,9 109,0 <0,001 25 2 Ninh Thuận
1,4 30,0 204,3 <0,001 63 3 Kon Tum
Tại 3 tỉnh Hòa Bình, Ninh Thuận và Kon Tum, tỷ lệphụ nữ biết ít nhất
3 quyền của khách hàng trong CSSKSS sau can thiệp đều tăng nhanh và có ý
nghĩa thống kê. Ngược lại, 2 tỉnh Phú Thọ và Hà Giang, tỷ lệphụ nữ biết ít
nhất 3 quyền của khách hàng trong CSSKSS sau can thiệp đều giảm, đặc biệt
ở tỉnh Hà Giang (giảm từ 23,3% trước can thiệp xuống còn 16,2%) tuy nhiên
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
105
Bảng 3.31. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về các quyền của khách
hàng trong CSSKSS chung cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Quyền của CSHQ p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % khách hàng (%)
Cung cấp thông tin 243 23,1 407 38,8 70,0 <0,05
Tiếp cận DVCSSKSS 197 18,8 383 36,5 94,1 <0,05
184 17,5 273 26,0 48,6 <0,05 Tự do lựa chọn, từ chối sử dụng các BPTT
Nhận dịch vụ an toàn 113 10,8 174 16,6 53,7 >0,05
Được giữ bí mật 106 10,1 184 17,5 73,3 >0,05
Tôn trọng riêng tư 19>0,05 1,8 62 5,9 227,7 <0,05
Thoải mái nhận DV 61 5,8 97 9,2 58,6 >0,05
Được tôn trọng 78 7,4 168 16,0 116,2 <0,05
52 4,9 122 11,6 136,7 <0,05 Được tiếp tục nhận DV như mong muốn
100 9,5 144 13,7 44,2 >0,05 Bày tỏ ý kiến về dịch vụ
Kết quả điều tra 5 tỉnh cho thấy, khách hàng cũng đã có kiến thức về
quyền được cung cấp thông tin, tiếp cận DVCSSK, tự do lựa chọn các biện
pháp tránh thai, chỉ số hiệu quả tăng từ 48,6 đến 227,7. Tuy nhiên có một số
kiến thức về quyền được nhận dịch vụ an toàn, được giữ bí mật thoải mái
nhận dịch vụ, bày tỏ ý kiến về dịch vụ sự thay đổi chỉ số hiệu quả không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05).
106
3.2.3.2. Hiệu quả can thiệp về thực hành chăm sóc sau sinh
100
80
56,8
60
38,2
40
20
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
Khám lại sau sinh
Biểu đồ3.12. Thay đổi về thực hành khám lại sau sinh trong vòng 6 tuần
chung cho 5 tỉnh
Kết quả điều tra chung cho cả 5 tỉnh cho thấy, tỷ lệ phụ nữ có thay đổi
về thực hành khám lại sau sinh tăng từ 38,2% lên đến 56,8%. Sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), chỉ số hiệu quả 48,7%
Bảng 3.32. Thay đổi về thực hành khám lại sau sinh trong vòng 6 tuần
từng tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ p Địa phương Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % (%)
126 60,0 159 75,7 26,2 >0,05 Phú Thọ
52 24,8 78 37,1 49,6 >0,05 Hà Giang
115 54,8 157 74,8 36,5 <0,05 Hòa Bình
65 31,0 82 39,0 25,8 >0,05 Ninh Thuận
43 20,5 120 57,1 178,5 <0,05 Kon Tum
Sau can thiệp thực hành về khám lại sau sinh trong vòng 6 tuần của các
phụ nữtại 5 tỉnh đều có sự thay đổi tăng lên từ 26,2 đến 178,5, nhưng chỉ có 2
tỉnh Hòa Bình và Kon Tum sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p< 0,05).
107
Bú sớm
Bảng 3.33. Thay đổi về thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 30 phút sau
sinh cho 5 tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp Thời gian cho bú CSHQ Số Tỷ lệ Số p Tỷ lệ % sau khi sinh (%) lượng % lượng
Trong vòng 30' 2,5 >0,05 682 65,0 666 63,4
Từ trên 30' đến 1h 32,9 >0,05 173 16,4 229 21,8
Khác 7,3 >0,05 157 15,0 146 13,9
Không biết 78,3 <0,05 38 3,6 9 0,8
Tổng 1050 100 1050 100
Thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh của phụ nữ tại 5 tỉnh sau can thiệp,
chỉ số hiệu quả từ 2,5% thay đổi theo chiều âm tính và những phụ nữ không
13,7
10
cho bú ngay sau sinh có chiều hướng tăng( p>0.05).
100 80 60 40 20 0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
Biểu đồ 3.13. Thay đổi về tỷ lệ sử dụngcác biện pháp tránh thai
sau sinh/5 tỉnh
Kết quả cho thấy tỷ lệ phụ nữ áp dụng các biện pháp tránh thai sau khi
sinh chung tại 5 tỉnh tăng từ 10% lên 13,7%, không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05), chỉ số hiệu quả là 37,0%.
108
Bảng 3.34. Thay đổi về tỷ lệ phụ nữ áp dụngcác biện pháp tránh thai sau
khi sinh theo từng tỉnh
Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ Địa phương p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % (%)
40 19,0 20 50,0 >0,05 9,5 Phú Thọ
22 10,5 40 80,9 >0,05 19,0 Hà Giang
37 17,5 51 38,9 >0,05 24,3 Hòa Bình
4 1,9 12 5,7 200,0 >0,05 Ninh Thuận
2 1,0 21 10,0 900 >0,05 Kon Tum
Sự thay đổi về tỷ lệ các bà mẹ áp dụng các biện pháp tránh thai sau khi
sinh có chiều hướng tăng lên ở 3 tỉnh Hòa Bình, Ninh Thuận và Kon Tum chỉ
số hiệu quả tăng từ 38.9% đến 900%. Tại 2 tỉnh Phú Thọ và Hà Giang tỷ lệ áp
dụng các biện pháp tránh thai sau sinh có giảm đi nhưng sự tăng và giảm đều
không có ý nghĩa thông kê với p>0,05.
3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp
3.3.1. Thiếu nhân lực y tế
Qua khảo sát thực tế tại các tỉnh nghiên cứu, thiếu nhân lực y tế là một
trong những điểm khó khăn chính được cán bộ y tế nêu lên thông qua các
cuộc phỏng vấn sâu. Số lượng CBYT còn rất thiếu ở tất cả các tuyến, đặc biệt
là tuyến xã và tuyến huyện. Ở một xã thuộc huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ,
dân số là 11.760 người, tuy nhiên số lượng biên chế CBYT xã chỉ có 6
người,không được tăng thêm do cấp trên cho rằng địa bàn xã gần với bệnh
viện đa khoa huyện, khiến cho việc triển khai công việc gặp khó khăn, Trạm y
tế xã phải ký hợp đồng thêm với CBYT để thực hiện công việc. Tương tự như
thế ở một xã khác của huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ cũng như tại các 4 tỉnh
109
còn lại việc thiếu y sỹ/ bác sỹ, đặc biệt là các CBYT làm việc trong lĩnh vực
làm mẹ an toàn cũng được nêu lên rõ ràng.
“Ở trạm y tế xã chúng em bây giờ có hơn 6.000 dân mà hiện đang có
là 6 cán bộ và một cán bộ đi học, một cán bộ dược không tham gia trực
được, chỉ còn lại 4 người trực rất vất vả. Nếu mà cho chúng em thêm về con
người thì tuyệt vời. Nếu được bác sỹ thì tốt, không thì cho chúng em y sỹ đa
khoa hoặc y sỹ sản nhi, đừng cho chúng em y tá, điều dưỡng nữa và đừng
cho chúng em nữ hộ sinh, vì thực ra ở cơ sở em cần phải đa năng, tổng hợp,
công tác làm mẹ an toàn là cần thiết nhất” (Y sỹ sản nhi tỉnh Phú Thọ).
Ở những địa phương như Kon Tum, việc thiếu CBYT còn trầm
trọng hơn. Cán bộ của các trạm y tế thì không đủ để đi xuống hết các
địa bàn các thôn để thực hiện các việc hỗ trợ cho các sản phụ khi sinh
con, và nhiều trường hợp rất đau xót khi có những sản phụ đến khi trở
dạ thì không kịp đưa ra trạm y tế và cuối cùng là dẫn đến tử vong cả
mẹ lẫn con (Y sỹ sản nhi tỉnh Kon Tum).
Theo nhận định của CBQL bệnh viện huyện, do thiếu bác sỹ cho nên
bệnh viện không thể có người bố trí đi đào tạo thêm một kíp mổ và gây mê.
Cả bệnh viện chỉ có một kíp mổ và gây mê. Nếu vắng 1 người trong kíp mổ
thì bệnh viện bắt buộc phải chuyến tuyến. Ở huyện Tumorong (tỉnh Kon
Tum), Trung tâm y tế huyện chỉ có 5 bác sỹ, trong đó có 4 bác sĩ ở khu điều
trị và khu phòng khám chỉ có một bác sỹ.
110
Thiếu cán bộ y tế nhất hiện nay là bác sỹ chuyên khoa nhi, hầu như các
bệnh viện huyện không có bác sỹ chuyên khoa nhi. Điều này dẫn đến những
khó khăn cho việc triển khai các công tác chăm sóc sơ sinh, chủ yếu là do bác
sỹ sản khoa đảm nhiệm.
Bên cạnh thiếu nhân lực, trình độ cán bộ y tế yếu cũng được xác định là
một trong những rào cản trong triển khai các dịch vụ y tế tại cơ sở. Đại đa số
bác sỹ ở tuyến dưới là cán bộ được đào tạo theo chế độcử tuyển và theo địa
chỉ, chuyên tu, trình độ chuyên môn có hạn và không có bác sỹ chuyên khoa
sản và nhi, cho nên trình độ hạn chế trong công tác cung cấp dịch vụ LMAT.
Nhân lực thiếu và yếu là lý do cơ bản khiến cho nhiều địa phương
không có đủ điều kiện để triển khai các dịch vụ LMAT, đặc biệt là cấp cứu
sản khoa toàn diện (như truyền máu tại chỗ và mổ đẻ).
Lý do được xác định thiếu bác sỹ theo ý kiến của các cán bộ quản lý y
tế tuyến huyện và tuyến tỉnh là chưa có chính sách thu hút bác sỹ ở tuyến
dưới. Các CBQL mong muốn Nhà nước có chính sách thu hút có hiệu quả thì
sẽ giúp tăng cường việc cung cấp dịch vụ ở tuyến dưới.
“Đặc biệt là đối với tỉnh KonTum của chúng tôi chưa có bất kỳ một
chính sách và chưa có ưu đãi nào đối với cán bộ ngành y tế. Do vậy, ngoài
những nỗ lực của anh em thì cần phải có những hỗ trợ về mặt chuyên môn
cũng như hỗ trợ về mặt điều kiện, những hỗ trợ về mặt phương tiện để cho
anh em công tác thì hỗ trợ của ngành y tế tôi nghĩ hết sức là cần thiết và hết
sức là có ý nghĩa” (Bác sỹ, TYT xã tại tỉnh Kon Tum).
Một điểm cần nhấn mạnh đối là việc đào tạo ra một CBYT có khả năng
thực hiện được cấp cứu sản khoa (mổ đẻ, mổ cắt tử cung bán phần, mổ cấp
cứu, mổ chửa ngoài tử cung) là cần phải thời gian đào tạo và rèn luyện tay
111
nghề. Bác sỹ mới ra trường chưa có khả năng thực hiện được những công việc
đó. Do vậy thiếu nhân lực y tế ở cơ sở khiến cho việc cử người đi đào tạo để
thực hiện được những kỹ thuật đó là rất khó khăn, do vậy cơ sở đã khó khăn
lại càng khó khăn trong việc triển khai cung cấp dịch vụ CCSKSS.
Một bất cập nữa ở địa phương là việc điều động cán bộ y tế sau khi
được đào tạo chuyên khoa sang làm những công việc quản lý khác. Có những
địa phương có cán bộ sau tập huấn được nâng cao trình độ thì lại được điều
chuyển sang làm ở các vị trí quản lý khác như ở trung tâm y tế dự phòng hoặc
ở vị trí quản lý như Phó Chủ tịch huyện. Do vậy cơ sở y tế lại quay về vị trí là
không có người để thực hiện dịch vụ và lại phải mất vài năm để đào tạo được
người có thể thực hiện được công việc.
3.3.2. Thiếu trang thiết bị
Bảng 3.35. Tỷ lệ các trạm y tế có các phòng theo chuẩn quốc gia
Phòng kỹ thuật p
CSHQ (%)
Phòng khám thai Trước can thiệp (%) 15,2 Sau can thiệp (%) 27,1 11,9 <0,01
Phòng khám phụ khoa 31,9 54,3 22,4 <0,001
Phòng kỹ thuật KHHGĐ 9,0 20,0 11,0 <0,01
Phòng đẻ 31,0 68,1 37,1 <0,001
Phòng nằm của sản phụ 51,0 66,2 15,2 <0,001
Phòng truyền thông tư vấn 26,7 44,8 18,1 <0,001
3,3 6,2 2,9 >0,05 Số trạm y tế có ít nhất 4 phòng kỹ thuật
Điều kiện cơ sở vật chất, TTBYT còn thiếu và sử dụng chưa hiệu quả.
Khó khăn về cơ sở vật chất, không đủ khoa phòng để bố trí theo đúng yêu
cầu, phải kết hợp nhiều phòng với nhau: phòng đẻ với phòng kỹ thuật và
khám phụ khoa (TYT xã Thạch Khoán, Thanh Sơn, Phú Thọ) hoặc thậm chí
112
kết hợp cả 3 phòng: khám phụ khoa, khám thai và phòng sản vào cùng một
phòng (Huyện Tumorong, tỉnh Kon Tum) là những bất cập chính trong triển
68.1
52.4
42.9
200 39 5
33.8
31.4
30.5
22.9
17.1
11
8.6
7.1
3.3
33.8
100 80 60 40 20 0
Bộ đỡ đẻ
Bộ HSSS
Bộ cắt khâu TSM
Bộ kiểm tra CTC
Bộ khám phụ khoa
Bộ đặt tháo DCTC
Bộ bơm hút Karman 1 van
khai cung cấp dịch vụ chăm sóc sản khoa, trẻ sơ sinh.
Biểu đồ 3.14. Tỷ lệ trang thiết bị được cung cấp theo chuẩn Quốc gia
tại 5 tỉnh
Mặc dù đã hỗ trợ nhiều về TTB, tuy nhiên khảo sát thực tế vẫn cho thấy
rằng nhiều địa phương còn thiếu một số TTB hết sức cơ bản như thiếu tủ
thuốc, bàn chăm sóc trẻ sơ sinh hoặc đã bị hỏng trong quá trình sử dụng chưa
được thay thế. Đặc biệt, bộ ống nghe tim thai cần được bảo đảm cung cấp đầy
đủ và tốt nhất nên được thay thế bằng máy Doppler tim thai vì quá cần thiết
và không quá đắt.
Vật tư thay thế cũng rất khó khăn, như cái đèn gù thì không có, bóp
bóng thì không có, đèn gù hư.
“Theo em thì xin 1 bộ nghe tim thai,1 cái bàn chăm sóc trẻ sơ sinh này,một tủ thuốc cấp cứu này.Nói chung là trang thiết bị tối thiểu thì vẫn
chưa có gì đầy đủ cả ngoài bộ đỡ đẻ và cái nồi luộc.Trạm y tế vẫn không có Bên cạnh thiếu TTB, vấn đề sử dụng TTBYT còn chưa hiệu quả, chưa gì hết.Cho nên những gì cần thiết thì ngành y tế nên cấp” (PVS nữ hộ sinh đồng bộ (cung cấp, bảo dưỡng và sửa chữa) cũng là một điểm cần lưu ý. tỉnh Kon Tum).
113
Nhiều khi TTB hỏng lại không được sửa chữa kịp thời khiến cho việc vận
hành để cung cấp dịch vụ bị đình trệ.
Ở một số địa phương, do điều kiện khó khăn cho nên nếu không bố trí
kinh phí để có máy điều hòa, máy sưởi ấm thì cũng không có khả năng vận
hành hoạt động. Do vậy cần phải đảm bảo được điều kiện cơ sở vật chất của
địa phương cho đồng bộ với trang thiết bị máy móc ngành y tế trang bị thì
mới phát huy được hiệu quả của TTB.
Việc cung cấp TTB tại cơ sở cũng chưa đồng bộ. Các bộ phận của
máy CPAP (máy thở) không đồng bộ cho nên sử dụng được một thời gian
thì khó vận hành. Bộ hồi sức sơ sinh được cung cấp chưa được hoàn chỉnh,
thiếu bóng bóp, mặt nạ, lò sưởi sơ sinh (Nữ hộ sinh tỉnh Phú Thọ).
Số lượng cung cấp thấp hơn với đề xuất thực tế, chỉ có 3 đèn chiếu
vàng mà có 4 giường sơ sinh. Dụng cụ không đúng kích cỡ, như dụng cụ
dùng cho sơ sinh thì quá to, không sử dụng được.
Tính đồng bộ về cơ sở vật chất và nhân lực cũng là một điểm cần lưu ý.
Mặc dù dự án đã chú trọng vào đào tạo nhân lực ngay từ khi triển khai, nhưng
trên thực tế nhân lực thiếu khiến cho TTB được cung cấp không phát huy
được hiệu quả.
Ở Kon Tum, TTB đã được trang bị đầy đủ ở góc sơ sinh, BV huyện
nhưng không sử dụng được vì không có nhân lực để sử dụng. Do vậy giám sát
viên đã đề xuất điều chuyển sang nơi khác vì trong giai đoạn tới cũng chưa có
khả năng dùng được sớm.
Bên cạnh những bất cập liên quan đến cung cấp và sử dụng TTB, việc
thiếu dự trữ máu ở các bệnh viện huyện khiến cho công tác triển khai truyền
máu còn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa những hướng dẫn về công tác truyền
114
máu lại do ngành huyết học trực tiếp đưa ra và Vụ SKBMTE không có khả
năng hỗ trợ nhiều về lĩnh vực đó, khiến cho việc triển khai công tác thực hiện
truyền máu ở địa phương có những điểm còn bất cập.
Như vậy, điều kiện cơ sở vật chất, TTB thiếu thốn và sử dụng chưa
hiệu quả là một trong những rào cản khiến cho việc triển khai cung cấp dịch
vụ còn gặp nhiều khó khăn. Điều này cần phải tiếp tục nỗ lực trong giai đoạn
còn lại của dự án.
3.3.3. Công tác theo dõi giám sát còn chưa được đồng bộ
Mặc dù dự án đã cố gắng thiết lập được hệ thống theo dõi giám sát khá
hiệu quả trong đào tạo tập huấn cán bộ y tế, tuy nhiên một số điểm vẫn còn
bất cập. Hiện nay vẫn chưa đưa ra được những chỉ số để theo dõi giám sát tiến
độ, đặc biệt là các chỉ số quá trình. Điều này cũng là một khó khăn trong việc
đánh giá kết quả can thiệp.
Việc huy động được đội ngũ giám sát viên cam kết vì công việc hiện
nay còn gặp nhiều khó khăn, khiến cho việc hỗ trợ tuyến dưới triển khai công
việc rất khó, đặc biệt những kỹ thuật yêu cầu phải có CBYT nằm vùng lâu
ngày. “Cũng khó đấy, khó ở chỗ là giám sát viên, những giám sát viên mà
tâm huyết ít lắm, đưa xuống mà mời người ta, những giám sát viên hàng
đầu mà bảo người ta nằm lại hàng tuần thì người ta không ở được đâu,
người ta ở đến 2 ngày, 3 ngày là cùng, mà toàn các bác về hưu, sắp về hưu
thôi nên phải chịu. Chị Khanh, cô Thanh Mai ở sơ sinh này, rồi cô Hoa
Hồng này, chứ còn như ở trong Từ Dũ, Nhi Đồng II thì người ta cũng đi
được ít, không đi được nhiều (PV NHS Kon Tum).
Mặc dù là công tác giám sát hỗ trợ kỹ thuật từ tuyến trên xuống tuyến
dưới được ghi nhận là rất có hiệu quả, tuy nhiên, về tính khả thi trong nhân
115
rộng thì còn nhiều băn khoăn do chi phí quá cao. Nếu không có kinh phí thì
khó có khả năng thực hiện được.
“Em thấy cái mô hình này nó hơi đắt tiền, đắt tiền không phải ở chỗ
cơ sở vật chất, trang thiết bị mà nó đắt tiền ở chỗ giám sát hỗ trợ, nó yêu
cầu giám sát hỗ trợ rất nhiều, những yêu cầu ban đầu khi các bác đi học về
là phải có người đứng cạnh, không là các bác không mổ được, cái giám sát
cầm tay chỉ việc là phải triển khai khá là thường xuyên, 1 tháng phải xuống
1 lần nằm 1 tuần, nếu không phải tiền UNFA thì chịu, tiền nhà nước là chịu,
nên mô hình này không phải là không có những nhược điểm (CBQL tỉnh
Kon Tum).
Như vậy những hạn chế về theo dõi giám sát này cần phải được lưu ý
để khắc phục trong giai đoạn tới.
3.3.4. Sử dụng dịch vụ tuyến dưới
Xu thế ít sử dụng dịch vụ tuyến cơ sở đã được xác định ở các địa bàn
dự án. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc ít sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến cơ
sở. Một trong những yếu tố chính có liên quan tới địa bàn sống. Người dân
sống ở các vùng miền xa xôi, đường giao thông chưa thuận tiện có xu hướng
ít sử dụng dịch vụ y tế do họ sống xa các trung tâm y tế.
Tương tự như vậy, ở những địa bàn khi có địa hình phức tạp, đi lại khó
khăn (Kon Tum), thì người dân cũng ít sử dụng dịch vụ y tế ở các cơ sở y tế.
“Như anh cũng biết đấy Kon Tum là một cái địa bàn, cái địa hình nó
rất phức tạp về giao thông đi lại hết sức là khó khăn. Đặc biệt là chúng tôi có
những cái xã mà vào mùa mưa thì phương tiện giao thông không thể đi đến
được. Cái trạm y tế xã thì cái đầu tư cũng chưa được bài bản, chưa đủ các
điều kiện để thực hiện các chương trình hỗ trợ cái chương trình chăm sóc sức
khoẻ bà mẹ. Thế thì đặc biệt nữa là cái nguồn nhân lực của các trạm y tế xã
thì không đảm bảo (PVS CBYT xã, tỉnh Kon Tum).
116
Điều kiện kinh tế khó khăn cũng hạn chế việc sử dụng dịch vụ y tế tại
các tuyến y tế cơ sở.
Có những huyện như Tu mơ rông và KonPLong có trên 90% bà con là
người dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó việc đi lại rất là khó khăn và không có
tiền chi trả dịch vụ là những rào cản chính khiến cho người dân không sử
dụng dịch vụ tại cơ sở y tế.
Ngược lại với xu hướng trên, ở những khu vực có điều kiện giao thông
thuận tiện giữa xã và huyện, người dân có điều kiện kinh tế thì thường có xu
hướng sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến cao hơn do tin rằng chất lượng dịch vụ y
tế ở đó tốt hơn tuyến cơ sở.
“Mặc dù tuyến xã có chương trình LMAT tốt những người dân ít đẻ
tại xã do đường giao thông thuận tiện giữa xã và tỉnh nên họ lên thẳng
huyện và tỉnh để đẻ và không ai đẻ tại nhà” (PVS CBQLYT tỉnh Phú Thọ).
Những năm trở về trước thì đường xá hoặc phương tiện người ta
không có người ta đến sinh ở đây. Mỗi tháng nếu mà sinh thấp nhất ở đây
là 10 ca, sinh cao nhất 25 ca. Những năm trở về trước các chị em sinh thì
khoảng 90% là sinh tại đây. Những năm trở lại đây, điều kiện phương tiện
đi lại thuận tiện hơn, con ít nên người ta sinh thì đi tuyến huyện là nhiều. Ở
đây, tụi em chủ yếu là quản lý, khám định kỳ và tiêm chủng(PVS CBQLYT
tỉnh Phú Thọ).
Bên cạnh yếu tố về kinh tế, đường giao thông thì phong tục tập quán có
ảnh hưởng nặng tới hành vi CSSKSS của người dân địa phương. Ở những địa
phương như Tomorong thì việc đi khám và đẻ tại cơ sở y tế còn gặp nhiều rào
cản. Người dân cảm thấy xấu hổ, không muốn khám và cho rằng đẻ tại nhà thì
thoải mái hơn.
117
“Cái vấn đề ý, thứ nhất là họ ngại họ xấu hổ với phong tục tập quán
sao nữa thì em cũng… không hiểu được. Có những cái người đang trong
giai đoạn chuyển dạ đấy, tới đây khám, em nói là ở lại khám nhưng mà họ
cũng viện cớ lý do nọ, lý do kia họ trốn về, cũng khó giữ được họ” (PVS
CBQL xã Mang Ri, Tumorong, tỉnh Kon Tum)
“Nhưng mà đẻ ở nhà thì dễ hơn. Người dân tộc ở đây đẻ ở nhà bà,
mẹ đỡ thì dễ hơn” (PVS CBQL xã Mang Ri, Tumorong, tỉnh Kon Tum
“Chỉ những ca đẻ thường thì mới tới TYT để đẻ mà thôi (PVS CBQL
tỉnh Kon Tum”
Bên cạnh đó, việc không biết tiếng Kinh cũng là một rào cản khiến cho
phụ nữ không đi khám và đẻ tại cơ sở y tế.
Một lý do khác được xác định liên quan đến địa điểm đăng ký BHYT.
Hiện nay, BHYT cho người nghèo mới bắt buộc phải khám ở tuyến xã. Còn
những loại BHYT khác thì người dân chủ động đăng ký sử dụng dịch vụ y tế
ở tuyến trên. Điều này cũng ảnh hưởng tới việc cung cấp dịch vụ tại TYT.
Ở Kon Tum, thì đại đa số người dân lại đăng ký sử dụng BHYT tại
tuyến xã, rất ít ca đăng ký khám chữa bệnh tại tuyến huyện. Những người có
BHYT thì được thanh toán 100%.
Như vậy, xu hướng ít sử dụng dịch vụ y tế (khám thai, sinh con) ngày
càng ít tại tuyến xã xuất hiện gần đây và có thể tạo ra các ảnh hưởng không
tốt như lãng phí nguồn lực, đầu tư không đúng tại các khu vực dự án ở xã. Do
vậy, ngay cả những nhà quản lý cũng đưa ra các băn khoăn cơ cấu danh mục
trang thiết bị cho trạm y tế xã trong chương trình này cũng cần cân đối lại.
118
“Không sinh nhiều. Một số cá biệt thì một năm sinh tại trạm y tế xã
được vài trường hợp là nhiều. Thậm chí có nhiều xã còn không có người
sinh. Vậy nên đầu tư về thiết bị hoặc kiến thức về chuyên môn cho cán bộ
tuyến xã cũng nên xem xét. Có thể một năm không đỡ ca nào. Nhiều khi mình
trang bị đầy đủ hết nhưng người ta không đến.Thậm chí người ta còn chê
tỉnh. Người ta lên bệnh viện tỉnh.Tốn tiền nhưng người ta vẫn lên” (PVS
QLDA, Tỉnh Phú Thọ).
3.3.5. Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ của các bà mẹ
Bảng 3.36. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến việc khám thai
đầy đủ (>=3 lần) trước khi sinh của bà mẹ
Các yếu tố Trước can thiệp Sau can thiệp
OR 95% CI OR 95% CI
Tuổi (=<25/>25) 2,3 0,35-14,22 1,7 0,31-9,45
Dân tộc (Kinh/dân tộc) 5,6 1,34-9,35 0,8 0,13-5,23
Khả năng nói tiếng Việt (không tốt/ 0,6 0,23-0,94 1,1 0,08-1,93
tốt)
Lần mang thai (1 lần/2 lần trở lên) 0,18-2,58 1,14 0,24-7,59 0,7
Tỉnh (Hà Giang, Kon Tum/Hoà Bình, 0,02-0,74 0,9 0,80-2,89 0,3
Phú Thọ, Ninh Thuận)
Khoảng cách (xa/gần) 0,2 0,01-0,86 0,9 0,19-6,18
Hài lòng về TYTX (có/không) 1,1 0,08-3,26 3,5 1,15-6,34
Hài lòng về BV huyện (có/không) 1,8 0,34-12,94 4,7 1,45-9,97
Hài lòng về BV tỉnh (có/không) 1,2 0,14-4,79 4,3 1,16-9,06
119
Bảng trên cho thấy trên phương trình hồi qui đa biến phân tích một số
yếu tố về phía bà mẹ ảnh hưởng đến việc khám thai trước sinh. Trước khi can
thiệp có một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng dịch vụ khám thai
trước sinh của các bà mẹ. Những bà mẹ người Kinh, có khả năng hiểu tiếng
Việt tốt, các tỉnh có điều kiện kinh tế và văn hoá tốt hơn, có khoảng cách tới
cơ sở y tế gần hơn sử dụng dịch vụ khám thai tốt hơn các bà mẹ khác. Nhưng
sau can thiệp các yếu tố trên đều không ảnh hưởng đến việc khám thai của các
bà mẹ. Tuy nhiên, một số yếu tố khác như mức độ hài lòng của các bà mẹ đối
với các cơ sở y tế tuyến huyện lại ảnh hưởng tốt hơn đến thực hành khám thai
của các bà mẹ.
Bảng 3.37. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến nơi sinh tại cơ
sở y tế của bà mẹ
Trước can thiệp Sau can thiệp
Các yếu tố OR 95% CI OR 95% CI
Tuổi (=<25/>25) 0,53-4,27 1,1 0,64-7,23 1,5
Dân tộc (Kinh/dân tộc) 2,46-12,64 0,9 0,31-4,21 5,2
1,63-8,76 0,8 0,02-1,87 4,4
Khả năng nói tiếng Việt (không tốt/ tốt)
Lần mang thai (1 lần/2 lần trở lên) 0,11-6,21 1,3 0,34-6,21 0,3
0,02-0,94 0,7 0,02-9,31 0,4
Tỉnh (Hà Giang, Kon Tum/Hoà Bình, Phú Thọ, Ninh Thuận)
Khoảng cách (xa/gần) 0,05-0,76 0,9 0,34-4,76 0,3
Hài lòng về TYTX (có/không) 0,28-7,34 5,1 1,34-8,98 1,2
Hài lòng về BV huyện (có/không) 0,24-11,31 11,9 2,51-18,32 1,1
0,34-6,72 6,4 1,87-12,63 0,9
Hài lòng về BV tỉnhTYTX (có/không)
120
Bảng trên cho thấy trên phương trình hồi qui đa biến phân tích một số
yếu tố của bà mẹ đến nơi sinh con. Trước khi can thiệp có một số yếu tố ảnh
hưởng đến nơi sinh con là cơ sở y tế của các bà mẹ. Những bà mẹ người
Kinh, có khả năng hiểu tiếng Việt tốt, các tỉnh có điều kiện kinh tế và văn hoá
tốt hơn, có khoảng cách tới cơ sở y tế gần hơn đẻ tại các cơ sở y tế nhiều hơn
các bà mẹ khác. Nhưng sau can thiệp các yếu tố trên đều không ảnh hưởng
đến nơi sinh của các bà mẹ tại cơ sở y tế. Tuy nhiên, một số yếu tố khác như
mức độ hài lòng của các bà mẹ đối với các cơ sở y tế tuyến huyện lại ảnh
hưởng tốt hơn đến việc sinh con của các bà mẹ tại các cơ sở y tế.
Bảng 3. 38. Phân tích đa biến một số yếu tố ảnh hưởng đến cán bộ y tế đỡ
đẻ
Các yếu tố Trước can thiệp Sau can thiệp
OR 95% CI OR 95% CI
0,7 Tuổi (=<25/>25) 0,02-9,31 0,9 0,56-6,43
6,2 Dân tộc (Kinh/dân tộc) 1,32-14,54 1,1 0,24-5,36
3,1 1,46-9,56 1,2 0,47-5,64
Khả năng nói tiếng Việt (không tốt/ tốt)
1,1 0,04-9,67 1,1 0,08-7,12
Lần mang thai (1 lần/2 lần trở lên)
0,3 0,07-0,87 0,9 0,21-7,12
Tỉnh (Hà Giang, Kon Tum/Hoà Bình, Phú Thọ, Ninh Thuận)
Khoảng cách (xa/gần) 0,2 0,05-0,09 1,5 0,26-7,34
Hài lòng về TYTX (có/không) 0,7 0,12-9,21 2,9 1,12-5,74
1,1 0,39-8,44 2,6 1,09-5,79
Hài lòng về BV huyện (có/không)
1,3 0,45-7,31 3,5 1,15-8,90
Hài lòng về BV tỉnhTYTX (có/không)
121
Bảng trên cho thấy trên phương trình hồi qui đa biến phân tích một số
yếu tố của bà mẹ đến người đỡ đẻ là cán bộ y tế. Trước khi can thiệp có một
số yếu tố ảnh hưởng đến người đỡ đẻ là cán bộ y tế. Những bà mẹ người
Kinh, có khả năng hiểu tiếng Việt tốt, các tỉnh có điều kiện kinh tế và văn hoá
tốt hơn, có khoảng cách tới cơ sở y tế gần hơn được cán bộ y tế đỡ đẻ nhiều
hơn các bà mẹ khác. Nhưng sau can thiệp các yếu tố trên đều không ảnh
hưởng đến người đỡ đẻ là cán bộ y tế. Tuy nhiên, một số yếu tố khác như mức
độ hài lòng của các bà mẹ đối với các cơ sở y tế tuyến huyện lại ảnh hưởng
tốt hơn đến người đỡ đẻ là cán bộ y tế.
Chương 4
BÀN LUẬN
122
4.1. Hiệu quả can thiệp về chăm sóc trước trong và sau sinh ở các bà mẹ
4.1.1. Đặc trưng cá nhân của các bà mẹ.
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện tại 5 tỉnh Hà Giang, Phú
Thọ, Hòa Bình, Ninh Thuận và Kon Tum với tổng số 1050 bà mẹ trong thời
gian từ năm 2006 -2012, sự khác biệt về lứa tuổi và trình độ của các bà mẹ
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trước và sau can thiệp.
Trong đó lứa tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất tham gia phỏng vấn của nghiên cứu là
độ tuổi 19-29 chiếm tỷ lệ 71,4%. Điều này là phù hợp vì phần lớn các bà mẹ
có con nhỏ đang trong độ tuổi sinh đẻ là thường dưới 30 tuổi. Trong đó,
trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống chiếm tỷ lệ cao 82,6% và trình
độ cao đẳng, đại học chỉ có 5,9%, dân tộc kinh chiếm tỷ lệ chưa đến ½. Điều
này cũng là một trong các yếu tố phần nào ảnh hưởng đến việc tiếp nhận
kiến thức và hiểu biết về việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của các bà mẹ tại
5 tỉnh tham gia nghiên cứu.
4.1.2. Hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức và thực hành chăm sóc trước sinh
4.1.2.1.Kiến thức về khám thai
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về
cần được khám thai đủ từ 3 lần trở lên trước can thiệp chiếm 84,4% tăng lên
sau can thiệp là 90,4% và hiểu biết về số lần khám thai trung bình/bà mẹ khi
mang thai là 2,7±0,82 lần.Theo Chuẩn Quốc gia về sức khỏe sinh sản năm
2009 của Bộ Y tế ban hành mỗi phụ nữ cần được khám thai ít nhất 3 lần vào 3
thai kỳ: 3 tháng đầu, 3 tháng giữa và 3 tháng cuối[9]. Gần đây theo khuyến
cáo của TCYTTG thì mỗiphụ nữ mang thai cần được khám thai ít nhất 4
lần[120]. Như vậy, hiểu biết của các phụ nữ trong nghiên cứu của chúng tôi
123
có hiểu biết tương đối đầy đủ và cải thiện nhiều so với trước can thiệp. Tuy
nhiên, hiệu quả can thiệp làm tăng tỷ lệ hiểu biết của các bà mẹ về khám thai
từ 3 lần trở lên có khác nhau giữa các tỉnh. Ở tỉnh Hà Giang và Ninh Thuận,
tỷ lệ khám thai đủ từ 3 lần trở lên tăng có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (tương
ứng 65,2% lên 73,3% và 86,2% lên 97,6%). Tại ba tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình
và Kon Tum, tỷ lệ này cũng tăng nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả
nghiên cứu định tính và quan sát của nhóm nghiên cứu cho thấy ở Phú Thọ và
Hòa Bình thì tỷ lệ phụ nữ hiểu biết về khám thai đã cao cho nên sự gia tăng
sau can thiệp là khó hơn ở các tỉnh khác. Tỉnh Kon Tum thì tỷ lệ hiểu biết về
khám thai thấp trước can thiệp nhưng sau can thiệp có tăng nhưng khác biệt
không có ý nghĩa thống kê do địa bàn xa, hiểu tiếng Kinh không nhiều, trình
độ cán bộ y tế có hạn đã hạn chế sự hiểu biết này.
Tương tự như kết quả nghiên cứu can thiệp của chúng tôi, kết quả
nghiên cứu can thiệp về LMAT của Tổ chức Cứu trợ trẻ em quốc tế (SC) năm
2012 tại 1 số tỉnh cũng cho thấy có sự cải thiện rất tốt về tỷ lệ hiểu biết khám
thai ở 3 tỉnh Thái Nguyên, Thừa thiên-Huế và Vĩnh Long. Tỷ lệ bà mẹ hiểu
về khám thai đủ 3 lần sau can thiệp là 91,1%, cao hơn trước can thiệp là
84,3% [47], [105].
Kết quả nghiên cứu tại tỉnh Boli Khăm Xay tại nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào (năm 2013) cho thấy, trong nhóm đối chứng kết quả các phụ
nữ có kiến thức khám thai từ 3 lần trở lên không khác biệt trước và sau nghiên
cứu nhưng ở nhóm can thiệp sự khác biệt hiểu biết về khám thai >3 lần trở lên
rất khác biệt giữa trước và sau can thiệp (p<0,001). Chỉ số hiệu quả giữa 2
nhóm can thiệp và đối chứng trước và sau can thiệp tăng 121%, nhóm can
thiệp (tăng từ 82,0%-100% p<0,001), tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về khám thai
>3 lần trở lên sau can thiệp ở nhóm đối chứng là 88,5% và 100% ở nhóm can
124
thiệp, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm trước và
sau can thiệp [30].
4.1.2.2. Kiến thức về tiêm phòng uốn ván
Tiêm phòng uốn ván cho các bà mẹ là một can thiệp rất có hiệu quả
trong công tác dự phòng uốn ván cho cả mẹ lẫn trẻ sơ sinh. Theo Chuẩn quốc
gia về Chăm sóc Sức khỏe Sinh sản năm 2009 đối với những phụ nữ chưa
được tiêm phòng uốn ván cơ bản trước khi có thai thì mỗi lần có thai cần phải
được tiêm phòng 2 lần, càng sớm càng tốt khi mang thai, mũi 1 cách mũi 2 là
1 tháng và tiêm mũi 2 cách khi đẻ là 1thángvà nếu tiêm 2 mũi trước 5 năm chỉ
tiêm thêm 1 mũi, trên 5 năm thì cần tiêm thêm 2 mũi[9]. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy tại 3 tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình và Ninh Thuận, tỷ lệ hiểu
biết của các bà mẹ về việc tiêm đủ 2 mũi uốn ván là khá cao trước cũng như
sau can thiệp (trên 75%). Tại 2 tỉnh còn lại là Hà Giang và Kon Tum, tỷ lệ bà
mẹ hiểu biết về tiêm đủ 2 mũi vắc xin phòng uốn ván là khá thấp trước can
thiệp cũng như sau can thiệp. Giống như hiểu biết về khám thai, các bà mẹ ở
2 tỉnh Hà Giang và Kon Tum cũng có chung những đặc điểm là địa bàn miền
núi, đi lại khó khănxa cơ sở y tế, hiểu tiếng Kinh không nhiều, trình độ cán bộ
y tế có hạn đã hạn chế sự hiểu biết này.
Tương tự như kết quả nghiên cứu can thiệp của chúng tôi kết quả
nghiên cứu can thiệp về LMAT của tác giả Khamphanh (năm 2013) tại Lào
cho thấy trong nhóm đối chứng kết quả các phụ nữ có hiểu biết về tiêm phòng
uốn ván thêm từ 2 lần trở lên khi mang thai không khác biệt trước và sau
nghiên cứu nhưng ở nhóm can thiệp sự khác biệt hiểu biết về tiêm phòng uốn
ván > 2 lần trở lên rất khác biệt giữa trước và sau can thiệp (p<0,001). Chỉ số
hiệu quả giữa 2 nhóm can thiệp và đối chứng trước và sau can thiệp tăng
3589%, nhóm can thiệp (tăng từ 58,5%-99,5% p<0,001).Tỷ lệ phụ nữ có kiến
thức về tiêm phòng uốn ván thêm từ 2 lần trở lên sau can thiệp ở nhóm đối
125
chứng là 54,5% và 99,5% ở nhóm can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa 2 nhóm trước và sau can thiệp[30].
Kết quả nghiên cứu của Tổ chức Cứu trợ trẻ em quốc tế (SC) năm 2012
cũng cho thấy có sự cải thiện rất tốt về kiến thức tiêm phòng uốn ván ở 3 tỉnh
Thái Nguyên, Thừa thiên-Huế và Vĩnh Long. Các tỉnh có sự cải thiện nhẹ so
với đầu kỳ và đạt tỷ lệ phụ nữ hiểu biết tiêm phòng uốn ván đủ mũi cao hơn
các tỉnh khác ở cuối kỳ, tăng từ 77,3% lên 90% sau can thiệp [47].
4.1.2.3.Thay đổi kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai và xử trí
Trong quá trình mang thai, các bà mẹ có thể có các dấu hiệu nguy hiểm
báo trước có thể gây nguy hiểm cho các bà mẹ và thai nhi. Theo TCYTTG,
nguy cơ mắc tai biến sản khoa của các bà mẹ là 15%, có nghĩa là cứ 100 phụ
nữ mang thai thì có thể có đến 15 người có nguy cơ mắc tai biến sản khoa, tỷ
lệ này hằng định cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Nói như vậy không có
nghĩa là có 15% các bà mẹ sẽ mắc tai biến sản khoa mà chỉ là nguy cơ mắc tai
biến sản khoa. Tỷ lệ mắc tai biến sản khoa còn phụ thuộc vào việc cung cấp
dịch vụ CSSKSS và hiểu biết của phụ nữ. Ở các nước phát triển, tỷ lệ mắc tai
biến sản khoa rất thấp, ước lượng khoảng dưới 2% nhưng ở các nước đang
phát triển tỷ lệ này có thể từ 5-10% [121].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trước can thiệp có đến 33,4% bà mẹ
không biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào trong khi mang thai nhưng sau
can thiệp chỉ còn 20,4% bà mẹ không biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào
trong khi mang thai (giảm 13%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,001.Kiến thức của bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm nhất có thể ảnh
hưởng lớn đến sức khỏe bà mẹ và thai nhi cần phải đi khám tại cơ sở y tế như
chảy máu âm đạo, phù, co giật, đau bụng, đau đầu sốt cao kéo dài tăng nhanh
sau can thiệp (Chỉ số hiệu quả tăng từ 9,5%-23,1%). Hiểu biết của bà mẹ về
từ 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên cũng tăng nhanh sau can thiệp (chỉ số hiệu
126
quả tăng 23,1%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Ba dấu hiệu
rất nguy hiểm này là sốt cao kéo dài, chảy máu và co giật. Theo kết quả
nghiên cứu định tính thì không phải tất cả các bà mẹ đều không nhận biết
được các triệu chứng này mà chủ yếu là không nhận thức được mức độ nguy
hiểm của các dấu hiệu này ảnh hưởng thế nào đến sức khỏe bà mẹ và thai nhi.
Hiểu biết của bà mẹ về từ 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên tăng khác nhau theo
tỉnh. Tỷ lệ này tăng nhanh và có ý nghĩa thống kê ở 3 tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình
và Kon Tum (p<0,05). Tuy nhiên, ở 2 tỉnh còn lại là Hà Giang và Ninh
Thuận, tỷ lệ này tăng rất ít và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Nghiên
cứu của chúng tôi cùng phù hợp với kết quả công bố trong bài báo của tác giả
Nguyễn Viết Tiến có khoảng 31,5% phụ nữ không biết các dấu hiệu nguy
hiểm khi mang thai và 33,7% phụ nữ không biết các dấu hiệu nguy hiểm khi
sinh [44]. Giải thích cho các kết quả này có thể thấy là trình độ nhận thức của
các bà mẹ ở trong nghiên cứu là thấp hơn so với các vùng đồng bằng và thành
phố, khả năng tiếp cận các thông tin về chăm sóc sức khỏe sinh sản còn hạn
chế, và đây cũng là những yếu tố ảnh hưởng và cản trở trong quá trình can
thiệp của chương trình làm mẹ an toàn tại 5 tỉnh nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu tại Lào cho thấy, trong nhóm đối chứng kết quả
các phụ nữ có hiểu biết về dấu hiệu nguy hiểm sốt cao và phù khi mang thai
không khác biệt trước và sau nghiên cứu nhưng ở nhóm can thiệp sự khác
biệt hiểu biết về dấu hiệu sốt cao và phù rất khác biệt giữa trước và sau can
thiệp (p<0,001). Chỉ số hiệu quả giữa 2 nhóm can thiệp và đối chứng trước
và sau can thiệp tăng 311%, nhóm can thiệp (tăng từ 72,0%-99,5%
p<0,001), tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm sốt cao và phù
sau can thiệp ở nhóm đối chứng là 88,0% và 99,5% ở nhóm can thiệp, tuy
nhiên sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm trước và sau can thiệp.
Đa số các phụ nữ trong nhóm đối chứng có hiểu biết về dấu hiệu nguy hiểm
127
ra máu âm đạo khi mang thai không khác biệt trước và sau nghiên cứu
nhưng ở nhóm can thiệp sự khác biệt hiểu biết về dấu hiệu nguy hiểm ra
máu âm đạo rất khác biệt giữa trước và sau can thiệp (p<0,001). Tỷ lệ các
phụ nữ trong nhóm đối chứng có hiểu biết về dấu hiệu nguy hiểm không
thấy cử động thai hoặc thai lưu khi mang thai không khác biệt trước và sau
nghiên cứu nhưng ở nhóm can thiệp sự khác biệt hiểu biết về dấu hiệu nguy
hiểm không thấy cử động thai hoặc thai lưu rất khác biệt giữa trước và sau
can thiệp (p<0,001). Chỉ số hiệu quả giữa 2 nhóm can thiệp và đối chứng
trước và sau can thiệp tăng 1004%, tuy nhiên sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa 2 nhóm trước và sau can thiệp [30].
Theo TCYTTG, có 6 dấu hiệu nguy hiểm trong quá trình mang thai có
thể gây nguy hiểm cho thai phụ và thai nhi. Những dấu hiệu này cần được bản
thân người phụ nữ và/hoặc chồng của họ phát hiện sớm để được cấp cứu kịp
thời. Theo báo cáo cuối kỳ sau can thiệp của UNFPA, ở cuối kỳ, số phụ nữ
biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ mang thai tăng mạnh (8,1%-
31,2%, p<0,001) [57]. Hai dấu hiệu được nhiều phụ nữ đề cập đến nhất có sự
cải thiện mạnh nhất là “đau bụng” (tăng từ 37,1% lên 56,6%) và “sốt cao kéo
dài” (từ 19,7% lên 29,2%).
4.1.2.4. Thay đổi về thực hành khám thai
Trong phần trên chúng tôi đã phân tích hiểu biết các bà mẹ về khám
thai, trong phần này chúng tôi phân tích thực hành khám thai của các bà mẹ
tại 5 tỉnh nghiên cứu. Trên thực tế có sự khác biệt giữa kiến thức và thực hành
khám thai của các bà mẹ. Thông thường tỷ lệ các bà mẹ hiểu biết về khám
thai cao hơn thực hành. Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam cũng đã chỉ
ra sự khác biệt này [41], [45], [46], [52], [113], [116]. Thay đổi kiến thức bao
giờ cũng nhanh hơn thay đổi về thực hành, đặc biệt là các bà mẹ ở các tỉnh
miền núi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ các bà mẹ được
128
khám thai đầy đủ từ 3 lần trở lên/lần mang thai tăng từ 77,2% trước can thiệp
tăng lên 84,8% sau can thiệp chung cho cả 5 tỉnh. Sự thay đổi này có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Kết quả phân tích hồi qui đa biến cũng cho thấy trước
can thiệp có một số yếu tố như: bà mẹ dân tộc kinh, có khả năng hiểu tiếng
Việt, sống ở khu vực gần cơ sở y tế và ở các tỉnh có điều kiện kinh tế và hóa
tốt hơn ảnh hưởng đến số lần khám thai của bà mẹ. Nhưng sau can thiệp các
yếu tố trên đều không ảnh hưởng đến việc khám thai chứng tỏ rằng việc can
thiệp đã phần nào tác động tới các bà mẹ ở các tỉnh của nghiên cứu. Tuy tỷ lệ
khám thai đủ 3 lần cao ở cả 5 tỉnh sau can thiệp nhưng chất lượng khám thai
và khám đúng thai kỳ là rất quan trọng. Trong nghiên cứu này chúng tôi
không nghiên cứu chất lượng khám thai như quan sát khám thai có đủ 9 bước
như Chuẩn quốc gia về Sức khỏe Sinh sản qui định nhưng thông qua quan sát
và phỏng vấn sâu các cán bộ y tế ở một số cơ sở y tế tại 5 tỉnh chúng tôi nhận
thấy sau can thiệp chất lượng khám thai đã được cải thiện nhiều hơn. Số lần
khám thai và chất lượng khám thai được cải thiện nhờ một số yếu tố như:
(1) Các cán bộ y tế tại các địa bàn nghiên cứu đều được đào tạo về
Chuẩn quốc gia về Chăm sóc Sức khỏe Sinh sản,
(2) Được giám sát hỗ trợ từ tuyến trên thông qua hình thức “cầm tay
chỉ việc”,
(3) Trang thiết bị y tế được bổ xung đầy đủ.
Tỷ lệ các bà mẹ được khám thai đủ từ 3 lần trở lên tăng ở 3 tỉnh Hà
Giang, Ninh Thuận và Kon Tum trước và sau can thiệp. Sự thay đổi này có ý
nghĩa thống kê với p<0,05. Tại 2 tỉnh Phú Thọ và Hòa Bình vẫn duy trì được
tỷ lệ khám thai đầy đủ từ 3 lần trở lên trên 90%.Tỷ lệ phụ nữ đi khám thai tại
trạm y tế xã không thay đổi trước và sau can thiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ đi
khám thai ở cơ sở y tế tuyến huyện và tỉnh tăng nhanh sau can thiệp (tăng từ
34,9% lên 49,5%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 và chỉ số can
129
thiệp tăng 41,8%. Đặc biệt, tỷ lệ phụ nữ đi khám thai ở cơ sở y tế tư nhân tăng
nhanh sau can thiệp (tăng từ 17,3% lên 33,2%). Như vậy, hiệu quả can thiệp
của chương trình không chỉ cho y tế công lập mà còn làm tăng vai trò của y tế
tư nhân trong công tác khám thai cho phụ nữ. Có được kết quả này là do
chương trình không chỉ can thiệp vào y tế công mà còn can thiệp cho cả y tế
tư nhân. Kết quả nghiên cứu của nghiên cứu can thiệp cộng đồng trong mô
hình chăm sóc sức khỏe sinh sản liên tục từ gia đình đến bệnh viện của Tổ
chức Cứu trợ Trẻ em quốc tế cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của
chúng tôi [47].
4.1.2.5. Thay đổi về thực hành tiêm uốn ván
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ phụ nữ tiêm phòng uốn
ván chung cho 5 tỉnh nghiên cứu giảm từ 71,8% trước can thiệp xuống còn
68,6% sau can thiệp. Tỷ lệ này thấp hơn so với tỷ lệ tiêm phòng uốn ván
chung của cả nước năm 2013 là 80% [4]. Tuy nhiên, sự khác biệt không mang
ý nghĩa thống kê với p>0,05 và chỉ số can thiệp giảm 4,5%. Tỷ lệ các bà mẹ
được tiêm phòng uốn ván tại 3 tỉnh Phú Thọ, Hà Giang và Hòa Bình đều giảm
không nhiều sau can thiệp, tuy nhiên sự suy giảm này không có ý nghĩa thống
kê với p>0,05. Sự suy giảm này có thể được cắt nghĩa ở những lý do sau:
(1) Tỷ lệ các bà mẹ đã được tiêm phòng đủ liều uốn ván đã cao nên
việc nâng cao tỷ lệ tiêm phòng uốn ván là khó khăn hơn;
(2) Ở một số vùng núi khả năng tiếp cận của phụ nữ tới dịch vụ tiêm
phòng uốn ván thấp. Tỷ lệ các bà mẹ được tiêm phòng uốn ván tại 2 tỉnh còn
lại là Ninh Thuận và Kon Tum đều gia tăng không nhiều sau can thiệp, sự gia
tăng này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
(3) Sau can thiệp, không có sự tăng hiểu biết kiến thức về tiêm phòng
uốn ván trong khi mang thai của các bà mẹ do đó việc thực hành tiêm phòng
uốn ván đều giảm là có thể giải thích được. Điều quan trọng rút ra trong vấn
130
đề này là chúng ta cần nâng cao vai trò của công tác tư vấn và truyền thông
cho các bà mẹ để có thể tăng khả năng hiểu biết nhận thức để rồi từ đó chuyển
sang thực hành, thay đổi hành vi.
Uốn ván sơ sinh là một trong 5 tai biến sản khoa có thể phòng chống
được nếu trong thời gian mang thai người phụ nữ được tiêm đủ 2 mũi uốn
ván. Tiêm phòng uốn ván là một yếu tố quan trọng của việc chăm sóc thai
sản, vì bệnh uốn ván là một trong 5 tai biến sản khoa thường gặp, đây là một
bệnh nặng liên quan đến tỷ lệ tử vong cao cho mẹ và trẻ sơ sinh [121]. Theo
TCYTTG, khoảng 550.000 trẻ sơ sinh chết vì uốn ván rốn mỗi năm, trong đó
có 220.000 trường hợp ở khu vực Đông Nam Á, chiếm 37% uốn ván rốn trên
thế giới [121]. Theo Giám đốc điều hành UNICEF, một trong những nguyên
nhân làm cho phụ nữ mang thai ít nhận được các dịch vụ chăm sóc trước sinh
là do những ưu điểm của nó chưa được nhấn mạnh và chịu ảnh hưởng của
trình độ văn hoá cũng như điều kiện kinh tế của bà mẹ [112].
4.1.3. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc trong sinh
4.1.3.1 Thay đổi kiến thức về người đỡ đẻ là cán bộ y tế
Theo qui định của Chuẩn quốc gia về CSSKSS cũng như theo khuyến
cáo của TCYTTG, phụ nữ mang thai ở những vùng xa xôi, cách xa các trung
tâm y tế, không cần thiết phải đẻ tại các cơ sở y tế mà chỉ cần có người đỡ đẻ
là cán bộ y tế[9]. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ các bà mẹ thay đổi
kiến thức về cán bộ y tế là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau can thiệp tăng từ
81,7% lên 92%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Tỷ lệ các bà mẹ
thay đổi kiến thức về bà đỡ địa phương là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau
can thiệp giảm từ 4,3% xuống 0,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,01. Tỷ lệ các bà mẹ thay đổi kiến thức về những người khác là chồng,
người thân, tự mình đỡ và không biết ai là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau
can thiệp đều giảm, tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với
131
p>0,05.Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết cán bộ y tế là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau
can thiệp tăng rõ rệt có ý nghĩa thống kê tại 3 tỉnh Hà Giang (tăng từ 68,6%
lên 81,9%), Ninh Thuận (tăng từ 83,3% lên 95,7%) và Kon Tum (tăng từ
58,1% lên 82,4%).Hai tỉnh còn lại là Phú thọ, Hòa Bình là 2 tỉnh miền bắc là
2 tỉnh có kiến thức về người đỡ đẻ tốt nhất là cán bộ y tế đều giữ ở mức cao
xấp xỉ 100%. Như vậy, hiểu biết của người dân đã được nâng cao sau can
thiệp. Hiểu biết về vấn đề này sẽ giúp cho phụ nữ mang thai và gia đình của họ
sẽ có thực hành chọn lựa người đỡ đẻ tốt đảmbảochocuộcđẻantoàn và dẫn đến
giảm tử vong mẹ và trẻ sơ sinh. Các phụ nữ mang thai có hai lựa chọn: sinh
ngoài cơ sở y tế (sinh tại nhà và sinh ở nhà các bà mụ vườn) và sinh tại cơsở y
tế (TTYT và các cơ sở y tế tuyến cao hơn). Hiện nay ở các tỉnh miền núi
ngành y tế đã xây dựng được hệ thống “cô đỡ thôn bản” được đào tạo 6-9
tháng. Hệ thống “cô đỡ thôn bản” đã hoạt động tốt ở những tỉnh này và đã
đóng góp tích cực cho việc nâng cao kiến thức cho phụ nữ mang thai [13].
4.1.3.2. Thay đổi kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm khi sinh và xử trí
Trong quá trình mang thai và sinh đẻ thì chuyển dạ là một quá trình quan
trọng nhất. Quá trình này rất dễ xảy ra các tai biến nhất cho cả mẹ và thai nhi,
đặc biệt là các bà mẹ có nguy cơ mắc tai biến sản khoa.Vì vậy kiến thức của
các bà mẹ về cần được theo dõi chuyển dạ tại cơ sở y tế để được chăm sóc
chu đáo nhằm hạn chế tối đa các biến cố như chảy máu, sa dây rau, vỡ ối
sớm, kiệt sức khi chuyển dạ. Sự hiểu biết về các dấu hiệu nguy hiểm xảy ra
với người mẹ trong quá trình chuyển dạ là rất quan trọng, giúp phát hiện sớm
và kịp thời xử trí các dấu hiệu nguy hiểm có thể xảy ra, tránh những hậu quả
đáng tiếc cho mẹ và con. Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đều cho
các kết quả dự phòng tai biến sản khoa tốt khi bà mẹ hiểu được các dấu hiệu
nguy hiểm khi sinh [27], [29], [38], [77], [80], [100].Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cũng cho thấy tỷ lệ bà mẹ hiểu biết các dấu hiệu nguy hiểm trong
132
khi chuyển dạ tăng rõ rệt sau can thiệp có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Tỷ lệ
bà mẹ hiểu triệu chứng đau bụng dữ dội khi chuyển dạ tăng từ 28% trước can
thiệp lên 41,4% sau can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ hiểu triệu chứng ra nhiều máu khi
chuyển dạ tăng từ 36,7% trước can thiệp lên 53,6% sau can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ
hiểu triệu chứng co giật, vỡ ối sớm khi chuyển dạ tăng từ 4,3% và 17,8%
trước can thiệp lên 16,8% và 35,2% sau can thiệp. Đặc biệt tỷ lệ bà mẹ không
biết một triệu chứng nào giảm từ 38,6% xuống còn 27% sau can thiệp.Trước
can thiệp, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển
dạ chiếm 5,7% và tăng lên 28,1% sau can thiệp.So sánh với kết quả trong bài
báo của tác giả Nguyễn Viết Tiến cũng cho kết quả tương tự với 31,4% phụ
nữ hiểu về dấu hiệu đau bụng dữ dội khi sinh, và 33,7% phụ nữ không biết
dấu hiệu nguy hiểm nào [44].
Kết quả nghiên cứu của Khamphanh năm 2013 tại Lào cho thấy có
9,3% bà mẹ biết từ 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên xảy ra đối với sản phụ trong
khi chuyển dạ, cao hơn so với kết quả điều tra về thực trạng cung cấp dịch vụ
và chăm sóc sức khỏe tại 7 tỉnh do UNFPA tiến hành vào năm 2005 tại Việt
Nam với 7,9% nam giới và 4,7% nữ giới biết từ 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên
[30], [114]. Tuy nhiên,nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có 48,5% bà mẹ không
biết bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào xảy ra trong chuyển dạ, cao hơn so với
nghiên cứu của UNFPA tại Việt Nam năm 2005 với tỷ lệ này ở nam giới là
44,3%, nữ giới là 33,7% [114]. Kết quả này cao hơn báo cáo điều tra cơ bản
về chương trình tử vong mẹ và tử vong sơ sinh với tỷ lệ 41,9% phụ nữ không
biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào khi chuyển dạ [31]. Mặc dù tỷ lệ các
bà mẹ biết từ 3 dấu hiệu trở lên cao hơn một số nghiên cứu nhưng số bà mẹ
không biết bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào trong nghiên cứu này còn rất cao
(chiếm gần 1/2 số bà mẹ). Việc trang bị các kiến thức cơ bản về dấu hiệu
nguy hiểm trong chuyển dạ cho các bà mẹ là một can thiệp rất có hiệu quả
133
giúp các bà mẹ có thể tự nhận biết sớm được một số dấu hiệu nguy hiểm có
thể xảy ra, góp phần hạn chế tối đa các tai biến đối với bà mẹ và thai nhi trong
khi chuyển dạ. Kết quả nghiên cứu tại Lào cho thấy dấu hiệu nguy hiểm khi
chuyển dạ mà nhiều bà mẹ biết đến là ngôi thai bất thường chiếm tỷ lệ cao
nhất (27,9%); tiếp đến là chảy máu nhiều (17,7%), sa dây rau (12,8%) và đau
đầu, mờ mắt, co giật (9,9%). Trong khi đó, tỷ lệ các bà mẹ biết dấu hiệu nguy
hiểm khác xảy ra khi chuyển dạ chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều đó cho thấy, kiến
thức của các bà mẹ về từng dấu hiệu nguy hiểm xảy ra trong chuyển dạ còn
rất thấp. Đặc biệt, chỉ có 17,7% các bà mẹ biết chảy máu nhiều đó là một
trong những dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ, trong khi đây chính là
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong của mẹ trong khi sinh [30]. Các
nghiên cứu trên thế giớicho thấy tỷ lệ này là từ 37% đến 55,0% [95], [96].
Kết quả các nghiên cứu tại Lào cho thấy dấu hiệu nguy hiểm sau sinh
mà bà mẹ biết đến nhiều nhất là chảy máu nhiều chiếm 33,0%, thấp hơn kết
quả nghiên cứu tại Ethiopia (50%) và tại 14 tỉnh ở Việt Nam (50,7%) [30].
Đây là dấu hiệu nguy hiểm quan trọng nhất trong giai đoạn sau sinh và là
nguyên nhân dẫn đến khoảng 30% tử vong mẹ trên toàn thế giới [92]. Tại các
nước đang phát triển rất cần những chương trình can thiệp có hiệu quả để giúp
nâng cao nhận thức cho các bà mẹ về vấn đề này. Cần triển khai các chương
trình giáo dục sức khỏe sinh sản nhằm nâng cao kiến thức và thực hành của
các bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm nghiêm trọng có thể xảy ra sau sinh kết
hợp với chăm sóc trước và trong sinh. Từ đó giúp họ có thể phát hiện sớm các
biến cố bất lợi và có được thực hành tốt trong chăm sóc sức khỏe mẹ và con.
4.1.3.3.Thay đổi về thực hành chăm sóc trong khi sinh
Nghiên cứu tại 5 tỉnh chúng tôi nghiên cứu nơi bà mẹ sinh con là cơ sở
y tế nhà nước tăng cao hơn sau can thiệp (73,4% trước can thiệp so với 80,8%
sau can thiệp). Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
134
Nơi bà mẹ sinh con tại nhà cũng giảm sau can thiệp (26,5% trước can thiệp so
với 18,8% sau can thiệp). Tại cả 5 tỉnh, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại cơ sở y tế đều
gia tăng sau can thiệp. Tuy nhiên, sự gia tăng này chỉ có ý nghĩa thống kê ở
tỉnh Kon Tum, nơi có tỷ lệ bà mẹ sinh con thấp nhất trước can thiệp (tăng từ
41,0% lên 59,5%) với p<0,05. Trước can thiệp, các yếu tố: bà mẹ là dân tộc
Kinh, khả năng nói tiếng Việt tốt, ở gần các cơ sở y tế và sinh sống tại các
tỉnh có điều kiện kinh tế và văn hóa tốt hơn có xu hướng đẻ tại các cơ sở y tế
cao hơn. Tuy nhiên, sau can thiệp các yếu tố trên không còn ảnh hưởng đến
việc lựa chọn nơi sinh của các bà mẹ tại 5 tỉnh nghiên cứu. Đây cũng là một
minh chứng việc can thiệp về làm mẹ an toàn đã có hiệu quả trên các bà mẹ.
Sinh con tại cơ sở y tế, đặc biệt là ở các bệnh viện đang là một lựa chọn
phổ biến, đặc biệt ở những khu đô thị, có điều kiện kinh tế và đường xá đi lại
thuận tiện. Mặt khác, sinh con tại nhà còn gặp ở các khu vực miền núi,
xa xôi và có nhiều người dân tộc sinh sống. Kết quả nghiên cứu tại
Lào cho thấy tỷ lệ bà mẹ đã sinh con tại cơ sở y tế chiếm 54,7%; trong đó hầu
hết là sinh con tại cơ sở y tế nhà nước (54,5%) [30]. Tại các nước khác như
Ấn Độ, tỷ lệ này là 31% [108], Zimbabwe là 50% [99]. Một số nghiên cứu
khác tại tỉnh Khăm Muồn và Chăm Pa Sắc chiếm tỷ lệ 17,2% [80], tại tỉnh ở
miền Bắc của Lào chiếm tỷ lệ 8,4% [30], tại các quốc gia Nam Á dao động từ
50-70% [76], [79], [85], [86], và tại các nước châu Phi dao động từ 30-60%
[98], [99], [101] [106]. Tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ bà mẹ sinh con tại cơ sở y
tế nhà nước là 81,7% (năm 2003) và 88,2% (năm 2005) [57], [58],tại Trung
Quốc là 87% [116], tại Nam Phi là 55,9% [102].Hiện nay, tại đa số quốc gia
trên thế giới sinh con ở tại cơ sở y tế hiện trở thành lựa chọn phổ biến, vì đây
là nơi có đủ các trang thiết bị y tế cần thiết và đội ngũ cán bộ y tế có đủ trình
độ để chăm sóc tốt nhất cho sức khỏe của bà mẹ cũng như của thai nhi.
135
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy tỷ lệ các bà mẹ được cán bộ y
tế đỡ đẻ tăng nhẹ sau can thiệp (từ 83,5% lên 88,5%). Tuy nhiên sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ các bà mẹ được các bà mụ vườn và người
thân trong gia đình đỡ đẻ giảm rõ rệt sau can thiệp (từ 4,9% xuống 2% và từ
7,7% xuống 4,9%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết quả
chung cho cả 5 tỉnh, trước can thiệp chỉ có 83,5% phụ nữ sinh con được cán
bộ y tế đỡ đẻ nhưng sau khi can thiệp tỷ lệ phụ nữ sinh con được đỡ đẻ đã cải
thiện tăng lên 88,6%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.Khi
tính hiệu quản can thiệp về tỷ lệ phụ nữ sinh con do cán bộ y tế đỡ đẻ cho
từng tỉnh, chỉ có tỉnh Kon Tum trước can thiệp có 63,3% phụ nữ sinh con
được cán bộ y tế đỡ đẻ nhưng sau khi can thiệp tỷ lệ phụ nữ sinh con được đỡ
đẻ đã cải thiện nhiều tăng lên 79%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05 và chỉ số hiệu quả là 24,8%. Bốn tỉnh còn lại, tỷ lệ phụ nữ sinh con do
cán bộ y tế đỡ đẻ có tăng nhẹ sau can thiệp và không có ý nghĩa thống kê với
p>0,05. Phân tích trên mô hình hồi qui đa biến cũng cho thấy việc chọn nơi
sinh là cơ sở y tế có xu hướng cao hơn ở các bà mẹ người Kinh, khoảng cách
đến các cơ sở y tế gần hơn và các tỉnh có điều kiện văn hóa và kinh tế cao
hơn, sau can thiệp các yếu tố trên đều không ảnh hưởng và điều đó đã chứng
tỏ việc can thiệp đã góp phần tác động tới các bà mẹ và gia đình trong công
tác làm mẹ an toàn.
Việc sinh con tại nhà có thể là bình thường khi có cán bộ y tế đỡ đẻ.
Một nghiên cứu tại các nước phát triển cho thấy những phụ nữ khỏe mạnh có
mong muốn được sinh tại nhà không làm tăng nguy cơ có hại cho cả bà mẹ và
trẻ sơ sinh[77], [91].Lý do của việc mong muốn sinh con tại nhà là do khi phụ
nữ sinh con ở nhà đều có các bác sỹ và nữ hộ sinh chăm sóc, mặt khác khi có
bất thường thì việc chuyển sản phụ đến nhà cũng rất dễ dàng và nhanh
chóng.Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà trong nghiên cứu tại nước Ấn
136
Độ 37% bà mẹ sinh con tại nhà, 32% sinh tại phòng khám tư nhân và 31%
sinh con tại cơ sở y tế [104], [108]. Nghiên cứu tại Lào cũng chỉ ra rằng chỉ
có 56,3% bà mẹ đã được các nhân viên y tế đỡ đẻ trong lần sinh vừa qua,
trong khi đó tỷ lệ bà mẹ được mụ vườn đỡ đẻ là 13,6% và còn tỷ lệ lớn bà mẹ
được người khác đỡ đẻ (như mẹ, chồng, bạn bè…), chiếm 30,1% [30].
Nguyên nhân chủ yếu là do hiểu biết, kiến thức của người dân tại Lào về vấn
đề này còn thấp, mặt khác có thể do các cơ sở y tế tại đây chưa đáp ứng được
nhu cầu của người dân. Vì vậy cần giáo dục nâng cao kiến thức cho người
dân, cũng như xây dựng hệ thống cơ sở y tế để đáp ứng nhu cầu dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản cho người dân tại địa phương[30].
Tổ chức Y tế Thế giới ước tính mỗi năm trên toàn thế giới có khoảng
136 triệu ca sinh; tại các nước đang phát triển có ít hơn hai phần ba ca sinh do
cán bộ y tế có chuyên môn đỡ sinh còn tại các nước ít phát triển nhất chỉ có
một phần ba ca sinh do cán bộ y tế có chuyên môn đỡ sinh [118].
Kết quả của các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ các bà mẹ đã được các nhân
viên y tế đỡ đẻ trong lần sinh vừa qua tại Tanzanialà 17,6% năm 2002, và
30% năm 2005[98], Thừa Thiên Huế là 80,2% [37],Bắc Ninh là 90% [39], tại
Đà Nẵng là 99% [45], và tại Bình Định năm 2005 là 95,6% [55]. Một số
nghiên cứu khác tại Việt Nam cũng cho thấy tỷ lệ này dao động từ 60-99%
[26], [27], [29], [34], [48].
4.1.4. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh
4.1.4.1.Khám lại sau sinh
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ các bà mẹ ở cả 5 tỉnh có kiến
thức đi khám lại sau sinh đã tăng từ 53,7% lên 77,8% sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Điều này thực sự phù hợp với tỷ lệ thay đổi về thực
hành khám lại sau sinh của kết quả điều tra chung cho cả 5 tỉnh cho thấy, tỷ lệ
phụ nữ có thay đổi về thực hành khám lại sau sinh tăng từ 38,2% lên đến
137
56,8%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05), chỉ số hiệu quả48,7%. Sau
can thiệp thực hành về khám lại sau sinh trong vòng 6 tuần của các phụ nữtại
5 tỉnh đều có sự thay đổi tăng lên từ 26,2 đến 178,5, nhưng chỉ có 2 tỉnh Hòa
Bình và Kon Tum, sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Trong nghiên
cứu của trường đại học y tế công cộng về việc đánh giá việc cung cấp và sự
dụng dịch vụ làm mẹ an toàn thì tỷ lệ phụ nữ khám lại sau sinh luôn thấp hơn
so với tỷ lệ phụ nữ khám thai dao động từ 23,8% đến 70% phụ thuộc từng
tỉnh [90]. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ khám thai đủ 3 lần trước sinh
là 84,8% và khám sau sinh là 77,8%. Tỷ lệ khám sau sinh trong nghiên cứu
của chúng tôi tuy có thấp hơn so với khám thai trước sinh nhưng cả 2 tỷ lệ
này đều cao hơn so với kết quả của nghiên cứu trên.
Khám lại cho các bà mẹ và trẻ sơ sinh sau khi sinh có vai trò rất quan
trọng, giúp theo dõi chặt chẽ và chăm sóc sản phụ nhằm phát hiện sớm những
bất thường của cả sản phụ và sơ sinh, đồng thời giúp cấp cứu sớm các tai biến
sản khoa. Trên thế giới có khoảng 4 triệu trẻ sơ sinh chết hàng năm, trong đó
75% trẻ sơ sinh chết trong tuần đầu tiên sau khi sinh. Các trường hợp tử vong
có liên quan chặt chẽ đến chăm sóc trẻ sơ sinh như ủ ấm trẻ để phòng giảm
thân nhiệt, cho trẻ bú sớm và tắm cho trẻ 24 giờ sau đẻ; Bệnh tật và tỷ lệ tử
vong trẻ sơ sinh phụ thuộc vào việc chăm sóc trẻ rất nhiều. Ở các nước đang
phát triển, tỉ lệ tử vong mẹ xảy ra cao nhất ở thời điểm sau sinh chiếm 60,6%
[121].
Tại Việt Nam hầu hết các phụ nữ tử vong trong giai đoạn sau sinh chết
ngay trong ngày đầu tiên sau đẻ dao động trong khoảng 80-83%; số còn lại
chủ yếu chết trong tuần lễ đầu tiên [26]. Những can thiệp đơn giản, giá thành
thấp nhưng góp phần đáng kể trong việc hạ thấp tỷ lệ tử vong mẹ và bé sơ
sinh đó là theo dõi sát tình trạng bà mẹ và bé, cho trẻ tiêm vitamin K để dự
138
phòng xuất huyết não màng não [42], thăm khám lại bà mẹ sau sinh, ủ ấm trẻ,
cho bú sớm, tắm trẻ sau 24 giờ sau sinh.
Tại Lào, theo báo cáo thống kê năm của Viện Bà mẹ và trẻ em Trung
ương Lào 2008 cho thấy số thai phụ được khám thai là 222.198 ca trong khi
đó số bà mẹ được thăm khám và theo dõi sau sinh chỉ có 30.016 ca. Riêng ở
tỉnh Bo Lị Khăm Xay số phụ nữ có thai được khám là 9.515 và thăm khám và
theo dõi sau sinh là 2.014 bà mẹ[80].
Kết quả nghiên cứu tại Lào cho thấy tỷ lệ bà mẹ đi khám lại trong vòng
42 ngày sau sinh là 25,3%, thấp hơn so với một số nghiên cứu tại Ấn Độ là
44% [80], [104], tại Palestin là 36,6% [89], tại Nepal là 34% [86], tại
Bangladesh là 28% [79]. Tỷ lệ bà mẹ được khám lại sau sinh ở một số tỉnh tại
Việt Nam như Thừa Thiên Huế là 74,9% [38], Thái Nguyên là 52,9% [27],
Đà Nẵng là 71,5% [45], tại Bình Định năm 2005 là 75,3% [55], và tại Long
An, Bến Tre và Quảng Ngãi là 88,4% [87].
Kết quả chung cho cả 5 tỉnh, trước can thiệp chỉ có 5,5% phụ nữ sau
sinh biết các dấu hiệu nguy hiểm sau sinh nhưng sau can thiệp tỷ lệ phụ nữ
sau sinh biết các dấu hiệu nguy hiểm sau sinh tăng lên 29,1%.Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p<0,001 và chỉ số hiệu quả đạt 429%.Năm dấu hiệu
nguy hiểm sau sinh bao gồm: chảy máu kéo dài và tăng lên, ra dịch âm đạo có
mùi hôi, sốt cao kéo dài, đau bụng kéo dài và tăng lên và một số dấu hiệu
khác. Cho từng dấu hiệu nguy hiểm riêng biệt, sau can thiệp tất cả 4 dấu hiệu
nguy hiểm sau sinh là đau bụng dữ dội, chảy nhiều máu, sốt cao, co giật đều
gia tăng có ý nghĩa thống kê. Trước can thiệp chỉ có 36,7% biết chảy máu
nhiều và sau can thiệp có 51,6% phụ nữ biết dấu hiệu này. Trước can thiệp chỉ
có 5% biết dấu hiệu co giật và sau can thiệp có 18,5% phụ nữ biết dấu hiệu
này.Khi tính hiệu quả can thiệp, tại cả 5 tỉnh tỷ lệ phụ nữ có kiến thức đầy đủ
139
về 5 dấu hiệu nguy hiểm sau sinhđều tăng mang ý nghĩa thống kê với p<0,05
và CSHQ tăng từ 100-3.678%.
4.1.4.2. Kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh và quyền khách hàng
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phụ nữ chung của cả 5 tỉnh đều có
tăng hiểu biết về các dấu hiệu nguy hiểm sau sinh lên 29,1%, sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p<0,001 và chỉ số hiệu quả đạt 429%. Trong 5 dấu hiệu
nguy hiểm thì chảy máu nhiều sau sinh được các bà mẹ biết nhiều nhất tăng từ
36,7% lên 51,6% với chỉ số hiệu quả là 40,6%. Kết quả bài báo của tác giả
Nguyễn Viết Tiến cũng cho thấy tỷ lệ phụ nữ không biết về dấu hiệu nguy
hiểm sau khi sinh là 29,7% tương tự nghiên cứu của chúng tôi [44]. Sự tăng
hiểu biết của bà mẹ sau can thiệp trong nghiên cứu đã phản ánh được hiệu quả
của chương trình và điều này sẽ tác động thay đổi hành vi của các phụ nữ
trong việc thực hành tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Điều
này góp phần củng cố thêm cho các kết quả nghiên cứu “Đánh giá hành vi tìm
kiếm và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu
số tại Việt Nam” cho thấy kiến thức, hiểu biết của phụ nữ dân tộc thiểu số
Tây Nguyên về chăm sóc sức khoẻ trước, trong và sau sinh còn rất hạn chế,
mơ hồ, thậm chí còn hiểu sai và chưa thật cụ thể sát với thực tế tại các địa
phương, vùng miền, dân tộc [62], cần có những chương trình can thiệp để
nâng cao và đẩy mạnh sự hiểu biết và thực hành của người dân trong cộng
đồng về chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Bên cạnh các kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm sau sinh, các bà mẹ
tham gia nghiên cứu tại 5 tỉnh đều tăng lên hiểu biết về quyền khách hàng và
sự gia tăng thể hiện cải thiện đáng kể từ 16% lên 31,2% có ý nghĩa thống kê
với chỉ số hiệu quả đạt 95%. Kết quả bài báo của tác giả Nguyễn Viết Tiến
cho thấy đánh giá sự hiểu biết chung về quyền khách hàng khi chưa có can
thiệp sự hiểu biết của các cán bộ quản lý chương trình là cao nhất chiếm tỷ lệ
140
21,3 %, của nhóm đối tượng trong cộng đồng rất thấp 3% [43]. Nghiên cứu
cũng đồng thời chỉ ra rằng các bà mẹ trong nghiên cứu đã có nhận thức cao về
quyền được cung cấp thông tin, tiếp cận dịch vụ chăm sóc sản khoa, tự do lựa
chọn các biện pháp tránh thai, chỉ số hiệu quả tăng từ 48,6% đến 227,7%.
Hiện nay nghiên cứu quan tâm tới quyền khách hàng chưa được thực hiện
nhiều và vì vậy chưa có nhiều số liệu để cho chúng ta so sánh thấy được bức
tranh tổng thể giúp Bộ Y tế sẽ xây dựng các chiến lược, chính sách cho thực
sự đi vào thực tiễn và giúp cho người dân sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ các
dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam. Với việc nghiên cứu định tính
phỏng vấn trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng kỳ vọng sẽ tìm hiểu sâu thêm
những yếu tố ảnh hưởng giúp cho các nhà hoạch định chính sách có những
bằng chứng cụ thể hơn trong việc đưa ra các chính sách phù hợp thực tiễn
nước ta.
4.1.4.3 Thời gian cho trẻ bú sớm lần đầu ngay sau sinh:
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ bà mẹ có kiến thức cho trẻ bú
ngay từ trên 30’ đến 1 giờ sau sinh tăng nhanh từ 16,4% lên 21,8%, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p>0,05, chỉ số hiệu quả đạt 32,9%. Rõ ràng các
bà mẹ đã nhận thức được tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ và tỷ
lệ trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với điều tra của Viện Dinh
dưỡng Quốc gia cho thấy, tỷ lệ trẻ được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu đời chỉ đạt 19,4 %[75]. Tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức cho trẻ bú
ngay trong vòng 30’ sau sinh có giảm nhẹ từ 75,1% xuống 73,8% nhưng
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bên cạnh tỷ lệ các bà mẹ tăng hiểu biết
về cho con bú sau sinh, tỷ lệ các bà mẹ chung cho cả 5 tỉnh thực hành cho trẻ
bú sớm sau đẻ lại có chiều hướng thay đổi âm tính chỉ số hiệu quả giảm trong
khoảng từ -2,5% xuống -7,3% nhưng không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Điều này có thể giải thích vì tuy có kiến thức về tầm quan trọng của việc cho
141
trẻ bú sớm khi sinh nhưng các bà mẹ nếu muốn cho trẻ bú ngay sau sinh 30’
là khó thực hiện vì lúc này các bà mẹ chưa được đưa về giường cũng như trẻ
còn đang được làm rốn và ủ ấm.
Kết quả nghiên cứu tại Bình Định cho thấy hầu hết các bà mẹ dân tộc
Bana, Chăm và Hrê tại Bình Định đều cho trẻ bú sớm ngay sau sinh đây là
thực hành phổ biến thường gặp cũng giống như các bà mẹ dân tộc Hmông tại
Hà Giang [60]. Kết quả nghiên cứu cho trẻ bú sớmtại Nghệ An 70,6% [56],
Đà Nẵng là 67,7% [45], Thái Nguyên là 67,9% [67], Huế là 39,4% [105]và
Hà Nội là 46% [82]. Nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm sau
sinh là 63,4% thấp hơn so với các nghiên cứu tại Nghệ An, Đà Nẵng, Thái
Nguyên nhưng cao hơn so với tại Huế và Hà Nội [56], [93].Kết quả nghiên
cứu tại Thái Nguyên, bà mẹ dân tộc vắt bỏ sữa non cao gấp 3,3 lần bà mẹ
người kinh (CI: 1,7 - 6,1) [27]. Nghiên cứu tại Huế, bà mẹ học vấn dưới trung
học phổ thông vắt bỏ sữa non cao gấp 10 lần các bà mẹ khác (CI: 0,01 - 0,9).
Lý do của thực hành không tốt này trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù
hợp với nghiên cứu tại Đà Nẵng vì các bà mẹ thiếu hiểu biết về lợi ích của sữa
non và do phong tục tập quán cũ và lâu đời của địa phương [28],[45].
4.1.4.4. Áp dụng các biện pháp tránh thai ngay sau sinh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức về việc áp
dụng các biện pháp tránh thai chung cho cả 5 tỉnh đã có sự cải thiện khi tăng
từ 77,7% lên 80,3% nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
với chỉ số hiệu quả đạt 3,3%. So sánh với tỷ lệ bà mẹ có thực hành áp dụng
các biện pháp tránh thai chung cho cả 5 tỉnh cũng tăng từ 10% lên 13,7% với
chỉ số hiệu quả đạt 37% và có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này là một
minh chứng cho việc chuyển đổi từ thay đổi nhận thức đã thực sự dẫn đến sự
thay đổi hành vi của các bà mẹ. Trong các tỉnh tham gia nghiên cứu thì Hòa
Bình là tỉnh có tỷ lệ các bà mẹ áp dụng các biện pháp tránh thai sau sinh cao
142
nhất là 24,3% và thấp nhất là Kon Tum 6,2%. Năm 2012, cả nước có 76,9%
số người trong độ tuổi sinh đẻ đang sử dụng biện pháp tránh thai [35], tỷ lệ
trong nghiên cứu của chúng tôi là thấp hơn so với tỷ lệ chung của toàn
quốc.Các kết quả này cũng là một gợi ý cho công tác dân số kế hoạch hóa gia
đình của tỉnh Kon Tum cần chú trọng hơn trong việc tuyên truyền, tư vấn cho
các bà mẹ về vấn đề áp dụng các biện pháp tránh thai để giảm việc có thai
ngoài ý muốn và giãn khoảng cách giữa các lần sinh.
4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp
4.2.1. Thiếu nhân lực y tế
Trong bất kỳ chương trình can thiệp nào dù ở lĩnh vực y tế cũng như ở
các lĩnh vực kinh tế xã hội khác, nhân lực là một trong những yếu tố quan
trọng nhất đóng góp vào sự thành công của chương trình can thiệp. Theo niên
giám thống kê y tế năm 2008, số nhân lực cán bộ y tế của các tỉnh phân bố tại
tuyến xã của 5 tỉnh nghiên cứu [5]:
Bảng 4.1. Phân bố thực trạng nhân lực cán bộ y tế tại 5 tỉnh
Tỉnh Bác sĩ Y sĩ
Hà Giang Dân số (nghìn) 705 Diện tích (km2) 7945 Y tá, NHS 275 406 Y tá, NHS sơ học 53 64
Phú Thọ 1365 3528 161 765 86 262
Hòa Bình 817 4595 208 552 186 122
Kom Tum 401 9690 93 190 145 19
Ninh Thuận 583 3358 48 157 66 28
Tình hình cán bộ y tế ở 5 tỉnh nghiên cứu trên, ở tỉnh Ninh Thuận mật
độ dân số khá thưa và tình trạng cán bộ y tế tuyến xã là mỏng hơn so với các
tỉnh còn lại tỷ lệ điều dưỡng, nữ hộ sinh, y sĩ là 9/100.000 dân. Tại Kon Tum
và Ninh Thuận có tỷ lệ bác sĩ rất thấp so với các tỉnh nghiên cứu chỉ có
5/100.000 dân so với Hòa Bình là 20/100.000, Hà Giang là 9/100.000, Phú
143
Thọ là 19/100.000. Dễ nhận thấy là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa việc
thiếu nhân lực y tế là một thực trạng đáng chú ý. Điều này cũng do các chính
sách đãi ngộ, điều kiện làm việc đã không thu hút và làm cho các cán bộ y tế
khi được phân công về công tác tại địa bàn khó khăn. Một số ít bỏ nghề làm
công tác khác thu nhập cao hơn.Thống kê tình hình y tế thôn bản cho thấy Hà
Giang và Kon Tum là 2 tỉnh có tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ thấp nhất chỉ có
31,8% và 27,8%, 2 tỉnh chiếm tỷ lệ trong bình là Hòa Bình và Ninh Thuận
51,9% và 53,9%. Trên 90% các xã trong nghiên cứu đều có y sĩ sản nhi hoặc
nữ hộ sinh làm việc. Tuy nhiên tại 2 tỉnh Hòa Bình và Kon Tum số trạm y tế
xã đạt chuẩn còn rất thấp dưới 10%, Hòa Bình có 9% số xã và KonTum chỉ
có 5,15 số xã đạt chuẩn quốc gia [5].
Qua các cuộc phỏng vấn sâu với lãnh đạo y tế các cấp, thiếu nhân lực y
tế là một trong những điểm khó khăn chính được nêu lên ở địa phương. Số
lượng CBYT còn rất thiếu ở tất cả các tuyến. Ở một xã thuộc huyện Thanh
Sơn, tỉnh Phú Thọ, dân số đông tới 11.760 người, tuy nhiên số lượng biên chế
CBYT xã không được tăng thêm do phía trên cho rằng địa bàn xã gần với
bệnh viện đa khoa huyện, khiến cho việc triển khai công việc gặp khó khăn,
trạm y tế phải ký hợp đồng thêm với CBYT để thực hiện công việc. Tương tự,
ở một xã khác của huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ cũng như tại các 4 tỉnh còn
lại việc thiếu y sỹ/ bác sỹ, đặc biệt là các CBYT làm việc trong lĩnh vực làm
mẹ an toàn cũng được nêu lên rõ ràng. Theo báo cáo cuả Vụ SKBMTE, trung
bình mỗi TYT có chưa đến 6 cán bộ hiện đang làm việc (bao gồm cả cán bộ
chuyên môn và những cán bộ khác). Cán bộ có ở nhiều TYT nhất là YSĐK
(gần 80% số TYT), tiếp đến là NHS trung học (70,6%). Số BSĐK có ở 52,3%
TYT. YSSN có ở 41,7% TYT. Cán bộ y tế làm công tác khám chữa bệnh
trong hệ thống Sản Nhi đặc biệt là nhi khoa còn thiếu về số lượng và hạn chế
về chất lượng, đặc biệt là ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
144
khó khăn [10], [15]. Cũng theo báo cáo trên 62,9% TYT hiện đã có bác sỹ.
Bác sỹ được nói đến ở đây là bất kể cán bộ nào có trình độ đại học y trở lên,
bao gồm: BSĐK, BSCK I, II hoặc chuyên khoa định hướng Sản/Nhi, và BS
chuyên khoa khác. Tỷ lệ TYT trên cả nước có NHS trung học trở lên là
73,3%. Tỷ lệ TYT có NHS hoặc YSSN là 93,7% và TYT có NHS trung học
trở lên hoặc YSSN là 91,3% [11], [10].
Ở những địa phương như Kon Tum, việc thiếu CBYT còn trầm trọng
hơn. Cán bộ của các trạm y tế không đủ để đi xuống hết các địa bàn các thôn
để thực hiện các việc hỗ trợ cho các sản phụ khi sinh con và nhiều trường hợp
rất đau xót khi mà có những sản phụ đến khi mà trở dạ thì không kịp đưa ra
trạm y tế và cuối cùng là dẫn đến tử vong cả mẹ lẫn con.
Theo nhận định của CBQL bệnh viện huyện, do thiếu bác sỹ cho nên
bệnh viện không thể có người bố trí đi đào tạo thêm một kíp mổ và gây mê.
Cả bệnh viện chỉ có một kíp mổ và gây mê. Nếu vắng thì bắt buộc phải
chuyến tuyến. Ở Tumorong, trung tâm y tế huyện chỉ có 5 bác sỹ, trong đó có
4 bác sĩ ở khu điều trị và khu phòng khám có một bác sỹ.
Thiếu nhất hiện nay là bác sỹ nhi, hầu như các bệnh viện huyện không
có bác sỹ nhi. Khiến cho việc triển khai các công tác chăm sóc sơ sinh hiện
nay chủ yếu là do bác sỹ sản khoa đảm nhiệm.
Bên cạnh thiếu nhân lực, trình độ cán bộ y tế yếu cũng được xác định là
một trong những rào cản trong triển khai các dịch vụ y tế tại cơ sở. Đại đa số
bác sỹ ở tuyến dưới là đào tạo cử tuyển và theo địa chỉ, chuyên tu, không có
bác sỹ chuyên khoa sản, cho nên trình độ yếu.Theo báo cáo thống kê y tế năm
2008, tình hình đào tạo cán bộ địa phương của 5 tỉnh tham gia nghiên cứu cho
thấy Hà Giang (1.310 học sinh), Hòa Bình (1.552 học sinh) và Kon Tum (942
học sinh) có số học sinh đang được đào tạo tại các trường y tế tương đối cao
so với cả nước. Tuy nhiên tại 2 tỉnh còn lại Phú Thọ chỉ có 91 học sinh đang
145
được đào tạo về y tế và tỉnh Ninh Thuận là 121 học sinh. Đây là số liệu phản
ánh bức tranh về công tác phát triển nhân lực y tế trong tương lai tại các tỉnh
trên. Các nhà quản lý, lãnh đạo của tỉnh cần chú trọng, dành nguồn ngân sách
và đưa ra các chính sách đãi ngộ nhằm thu hút và phát triển nguồn nhân lực
tại các địa phương.
Theo báo cáo về cung cấp dịch vụ CSSKSS của Bộ Y tế chỉ có 33,5%
số xã trong toàn quốc có YTTB được tập huấn cả 5 nội dung chuyên môn tính
từ tháng 1 năm 2008 đến thời điểm điều tra. Nội dung mà YTTB ở nhiều xã
nhất được đào tạo lại là “phòng chống suy dinh dưỡng” (80% xã có YTTB
được đào tạo); tiếp đến là “kỹ năng truyền thông, tư vấn” (63,1% xã có). Ba
nội dung cũng quan trọng khác là “chăm sóc bà mẹ, trẻ sơ sinh”, “kế hoạch
hóa gia đình” và “thống kê, báo cáo số liệu hàng năm về sức khỏe bà mẹ, trẻ
em” nhưng chỉ có trên dưới 50% xã có YTTB được đào tạo [10].
Nhân lực thiếu và yếu là lý do cơ bản khiến cho nhiều địa phương
không có đủ điều kiện để triển khai các dịch vụ LMAT (như truyền máu tại
chỗ và mổ đẻ). Đây là những dịch vụ cấp cứu sản khoa toàn diện, quyết định
tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh. Theo TCYTTG và Quỹ Dân số Liên hiệp quốc
muốn làm giảm được tỷ số tử vong mẹ và tỷ suất tử vong sơ sinh thì cần phải
thỏa mãn các yêu cầu ở bảng 4.2.
146
Chỉ số
Mức độ tối ưu
1. Tỷ lệ các ca đẻ được cán bộ y tế đỡ
Theo ICPD: 60% các ca đẻ
Theo MDG: 90% các ca đẻ
2. Số lượng các cơ sở cấp cứu sản khoa
Với mỗi 500,000 người, nên có:
cơ bản và toàn diện sẵn có/số dân
- Ít nhất 4 cơ sở cấp cứu sản khoa cơ bản
- Có ít nhất 1 cơ sở cấp cứu sản khoa toàn diện
3. Phân bố theo địa lý của các cơ sở chăm
Lý tưởng nhất là các cơ sở cấp cứu sản
sóc sản khoa thiết yếu (các chỉ số nhỏ:
khoa cơ bản nên đặt tại nơi mà người dân
thời gian để đi đến các cơ sở chăm sóc
mất nhiều nhất là 2 tiếng để đi đến nơi. Cơ
sản khoa thiết yếu và tỷ lệ hộ gia đình đi
sở cấp cứu sản khoa toàn diện nên đặt tại
đến cơ sở chăm sóc sản khoa thiết yếu
nơi mà người dân mất nhiều nhất là 12
cơ bản trong vòng 2 tiếng)
tiếng để đi đến nơi.
4. Tỷ lệ sinh tại các cơ sở cấp cứu sản
Ít nhất là 15%các ca sinh đẻ tại cộng
khoa cơ bản và toàn diện
đồng được thực hiện tại các cơ sở cấp cứu
sản khoa cơ bản hoặc toàn diện
5. Đáp ứng được yêu cầu về chăm sóc
100% phụ nữ gặp các tai biến được điều trị
sản khoa thiết yếu: tỷ lệ phụ nữ gặp các
tại các cơ sở chăm sóc sản khoa thiết yếu
tai biến được điều trị tại các cơ sở chăm
sóc sản khoa thiết yếu
6. Tỷ lệ mổ đẻ/tổng các ca đẻ
Số mổ đẻ không nên dưới5% và không
nên quá 15% trong tổng số ca đẻ
7. Tỷ lệ chết/mắc biến chứng sản khoa
Tỷ lệ chết của những phụ nữ gặp tai biến
tại các cơ sở chăm sóc sản khoa thiết yếu
nên dưới 1%.
Bảng 4.2. Các chỉ số theo dõi chăm sóc sản khoa thiết yếu [113]
Lý do được xác định thiếu bác sỹ là chưa có chế độ thu hút bác sỹ và
tuyến dưới. Các CBQL mong muốn nhà nước có chính sách thu hút hiệu quả
thì sẽ giúp tăng cường việc cung cấp dịch vụ ở tuyến dưới.Việc đào tạo ra một
CBYT có khả năng thực hiện được cấp cứu sản khoa (mổ đẻ, mổ cắt tử cung
bán phần, mổ cấp cứu, mổ chửa ngoài tử cung) là cần phải thời gian đào tạo
và rèn luyện tay nghề. Bác sỹ mới ra trường chưa có khả năng thực hiện được
147
những công việc đó. Do vậy thiếu nhân lực y tế ở cơ sở khiến cho việc cử
người đi đào tạo để thực hiện được những kỹ thuật đó là rất khó khăn, do vậy
cơ sở đã khó khăn lại càng khó khăn trong việc triển khai cung cấp dịch vụ
LMAT.
Một bất cập nữa ở địa phương là việc điều động cán bộ y tế sau đào tạo
chuyên khoa sang làm những công việc quản lý khác. Theo nhận xét của
chuyên gia, có những địa phương có cán bộ sau tập huấn được nâng cao trình
độ thì lại được điều chuyển sang làm ở các vị trí quản lý khác như ở trung tâm
y tế dự phòng hoặc ở vị trí quản lý như Phó Chủ tịch huyện. Do vậy cơ sở y tế
lại quay về vị trí là không có người để thực hiện dịch vụ và lại phải mất vài
năm để đào tạo được người có thể thực hiện được công việc. Điều kiện cơ sở
vật chất, TTBYT còn thiếu và sử dụng chưa hiệu quả. Theo thống kê tình hình
trang thiết bị tại 5 tỉnh nghiên cứu cho thấy:
Bảng 4.3. Phân bố tình hình trang thiết bị của 5 tỉnh
Lồng ấp Xe cứu X Tỉnh Siêu âm Monitor Máy thở quang sơ sinh thương
9 Hà Giang 8 0 7 14 15
20 Phú Thọ 29 1 11 18 34
12 Hòa Bình 20 10 15 12 21
16 Kom Tum 12 3 23 26 42
Qua đó chúng ta cũng có thể thấy rằng 2 tỉnh Hòa Bình và Kon Tum
lãnh đạo tỉnh rất quan tâm và trang thiết bị y tế đã được cung cấp khá đủ so
với các tỉnh khác, tuy nhiên số trạm y tế xã đạt chuẩn tại 2 tỉnh này lại chưa
cao, Hòa bình 9,1% và Kon Tum là 5,2%. Điều này chỉ ra rằng công tác đào
tạo, giám sát chỉ đạo trong việc thực hiện còn chưa đạt hiệu quả và đây là
những yếu tố ảnh hưởng mà chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh trong nghiên
cứu này.
148
Đi sâu phỏng vấn và phân tích các khó khăn về cơ sở vật chất, các trạm
y tế không đủ khoa phòng để bố trí theo đúng yêu cầu, phải kết hợp nhiều
phòng với nhau: phòng đẻ với phòng kỹ thuật và khám phụ khoa (Thạch
Khoán, Thanh Sơn – Phú Thọ) hoặc thậm chí kết hợp cả 3 phòng: khám phụ
khoa, khám thai và phòng sản vào cùng một phòng (Tumorong – Kontum) là
những bất cập chính trong triển khai cung cấp dịch vụ chăm sóc sản khoa và
trẻ sơ sinh. Mặc dù dự án đã hỗ trợ nhiều về TTB, tuy nhiên khảo sát thực tế
vẫn cho thấy rằng nhiều địa phương còn thiếu một số TTB hết sức cơ bản như
thiếu tủ thuốc, bàn chăm sóc trẻ sơ sinh hoặc đã bị hỏng trong quá trình sử
dụng chưa được thay thế. Đặc biệt, bộ ống nghe tim thai cần được bảo đảm
cung cấp đầy đủ và tốt nhất nên được thay thế bằng máy Doppler tim thai vì
quá cần thiết và không quá đắt.
Bên cạnh thiếu TTB, vấn đề sử dụng TTBYT còn chưa hiệu quả, chưa
đồng bộ (cung cấp, bảo dưỡng và sửa chữa) cũng là một điểm cần lưu ý.
Nhiều khi TTB hỏng lại không được sửa chữa kịp thời khiến cho việc vận
hành để cung cấp dịch vụ bị đình trệ. Ở một số địa phương, do điều kiện khó
khăn cho nên nếu dù có bố trí kinh phí để trang bị máy điều hòa, máy sưởi ấm
thì cũng không có khả năng kinh phí vận hành hoạt động. Do vậy cần phải
đảm bảo được điều kiện cơ sở vật chất của địa phương cho đồng bộ với trang
thiết bị máy móc ngành y tế trang bị thì mới phát huy được hiệu quả của TTB.
Việc cung cấp TTB tại cơ sở cũng chưa đồng bộ. Các bộ phận của máy
CPAP không đồng bộ cho nên sử dụng được một thời gian thì hỏng hoặc khó
vận hành. Bộ hồi sức sơ sinh được cung cấp chưa được hoàn chỉnh, thiếu
bóng bóp, mặt nạ, lò sưởi sơ sinh (Thạch Khoán, Thanh Sơn – Phú Thọ). Số
lượng cung cấp thấp hơn với đề xuất thực tế, chỉ có 3 đèn chiếu vàng mà có 4
giường sơ sinh. Dụng cụ không đúng kích cỡ, dụng cụ dùng cho sơ sinh thì
quá to, không sử dụng được.
149
Theo kết quả khảo sát của Bộ Y tế cho thấy: Hai loại bộ trang thiết bị
có đầy đủ ở nhiều TYT nhất là bộ đỡ đẻ và bộ đặt, tháo dụng cụ tử cung (trên
dưới 50% TYT có đủ ít nhất 1 bộ mỗi loại). Tiếp đến là bộ cắt khâu tầng sinh
môn (30,2% TYT có). Bộ hồi sức sơ sinh, do chỉ cần thiếu một vài chi tiết
nhỏ như ống hút, đầu nối… thì cũng không vận hành được, nên tỷ lệ TYT có
đủ bộ chiếm rất thấp (17,5%). Bộ khám thai, bộ kiểm tra cổ tử cung và bộ
khám phụ khoa có ở đa số TYT nhưng không đầy đủ (trên 78% TYT). Còn
hai loại khác, bộ hồi sức sơ sinh và bộ hút thai chân không bằng tay 01 van,
thiếu ở nhiều TYT nhất (trên 46% TYT không có) [10].
Tính đồng bộ về cơ sở vật chất và nhân lực cũng là một điểm cần lưu ý.
Mặc dù dự án đã chú trọng vào đào tạo nhân lực ngay từ khi triển khai, nhưng
trên thực tế nhân lực thiếu khiến cho TTB được cung cấp không phát huy
được hiệu quả.Ví dụ như ở Kon Tum, TTB đã được trang bị đầy đủ ở góc sơ
sinh của BV huyện nhưng không sử dụng được vì không có nhân lực để sử
dụng. Do vậy giám sát viên đã đề xuất điều chuyển sang nơi khác vì trong giai
đoạn tới cũng chưa có khả năng dùng được sớm.
Bên cạnh những bất cập liên quan đến cung cấp và sử dụng TTB, việc
thiếu ngân hàng máu ở các bệnh viện huyện khiến cho công tác triển khai
truyền máu trong các cấp cứu sản khoa còn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa
những hướng dẫn về công tác truyền máu lại do ngành huyết học trực tiếp đưa
ravà Vụ SKBMTE không có khả năng hỗ trợ nhiều về lĩnh vực đó, khiến cho
việc triển khai công tác thực hiện truyền máu ở địa phương có những điểm
còn bất cập và do tỉnh chủ động triển khai và không chịu sự điều phối trực
tiếp của ban quản lý dự án trung ương [10]. Như vậy điều kiện cơ sở vật chất,
TTB thiếu thốn và sử dụng chưa hiệu quả là một trong những rào cản khiến
cho việc triển khai cung cấp dịch vụ còn gặp nhiều khó khăn.
4.2.2. Công tác theo dõi giám sát còn chưa được đồng bộ
150
Mặc dù chương trình can thiệp đã cố gắng thiết lập được hệ thống theo
dõi giám sát khá hiệu quả, tuy nhiên vẫn còn một số điểm còn bất cập. Mặc
dù đã có nhiều cố gắng nhưng ngành y tế hiện nay vẫn chưa đưa ra được một
cách toàn diện các chỉ số để theo dõi giám sát tiến độ thực hiện của các
chương trình can thiệp về LMAT, đặc biệt là các chỉ số quá trình. Điều này
cũng là một khó khăn trong việc đánh giá kết quả thực hiện của chương trình.
Việc huy động được đội ngũ giám sát viên có cam kết cao còn gặp
nhiều khó khăn vì công việc của họ quá bận, chúng ta chưa có hệ thống giám
sát riêng biệt cho CSSKSS, các cán bộ giám sát vẫn chính là các cán bộ y tế
đang công tác tại các bệnh viện hoặc các cơ sở y tế. Mặt khác trình độ chuyên
môn cũng như kỹ năng giám sát của các cán bộ y tế hiện nay còn nhiều hạn
chế khiến cho việc hỗ trợ tuyến dưới triển khai công việc rất khó, đặc biệt
những kỹ thuật yêu cầu người giám sát phải có thời gian và trình độ trong
công tác giám sát.
Mặc dù là công tác giám sát hỗ trợ kỹ thuật từ tuyến trên xuống tuyến
dưới được ghi nhận là rất có hiệu quả, tuy nhiên, về tính khả thi trong nhân
rộng thì còn nhiều băn khoăn do chi phí quá cao. Nếu không có kinh phí dự
án thì khó có khả năng thực hiện được.
Công tác giám sát của chương trình can thiệp về LMAT tại 5 tỉnh được
thực hiện theo các tuyến khác nhau. Chương trình can thiệp đào tạo các cán
bộ giám sát tuyến trung ương. Các cán bộ giám sát tuyến này thường là các
cán bộ của các bệnh viện trung ương. Họ có nhiệm vụ đào tạo cán bộ giám sát
tuyến tỉnh và trực tiếp giám sát dịch vụ LMAT tại tuyến tỉnh là chính nhưng
cũng có tham gia các hoạt động giám sát tuyến huyện và tuyến xã nhưng
không thường xuyên. Các cán bộ giám sát tuyến tỉnh thường là các cán bộ của
các bệnh viện tỉnh. Họ có nhiệm vụ đào tạo cán bộ giám sát tuyến huyện và
trực tiếp giám sát dịch vụ LMAT tại tuyến huyện là chính nhưng cũng có
151
tham gia các hoạt động giám sát tuyến xã nhưng không thường xuyên. Tương
tự, các cán bộ giám sát tuyến huyện thường là các cán bộ của các bệnh viện
huyện hoặc trung tâm y tế huyện. Họ có nhiệm vụ trực tiếp giám sát dịch vụ
LMAT tại tuyến xã và phối hợp với cán bộ y tế xã giám sát các hoạt động của
“cô đỡ thôn bản”.
4.2.3. Sử dụng dịch vụ tuyến dưới ngày càng ít
Xu thế ít sử dụng dịch vụ tuyến cơ sở đã được xác định ở các địa bàn
dự án. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc ít sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến cơ
sở. Một trong những yếu tố chính có liên quan tới địa bàn sống. Người dân
sống ở các vùng miền xa xôi, đặc biệt là các huyện vùng núi phía bắc, đường
giao thông chưa thuận tiện có xu hướng ít sử dụng dịch vụ y tế do điều kiện
kinh tế thấp, trình độ dân trí thấp cũng như đường xá đi lại khó khăn ít đi
khám chữa bệnh. Tương tự như vậy, ở những địa bàn khi có địa hình phức
tạp, đi lại khó khăn (Kon Tum), thì người dân cũng ít sử dụng dịch vụ y tế ở
các cơ sở y tế, theo nhận định của cán bộ xã tại tỉnh Kon Tum.
Điều kiện kinh tế khó khăn cũng hạn chế việc sử dụng dịch vụ y tế tại
các cơ sở y tế địa phương. Có những huyện như Tu mơ rông và Kon PLong
có trên 90% bà con là người dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó việc đi lại rất là
khó khăn và không có tiền chi trả dịch vụ là những rào cản chính khiến cho
người dân không sử dụng dịch vụ tại cơ sở y tế.
Ngược lại với xu hướng trên, ở những khu vực có điều kiện giao thông
thuận tiện giữa xã và huyện, người dân có điều kiện kinh tế thì thường có xu
hướng sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến cao hơn do tin rằng chất lượng dịch vụ y tế ở
đó tốt hơn là tuyến cơ sở - theo nhận định của CBQL tuyến tỉnh ở Phú Thọ.
Bên cạnh yếu tố về kinh tế, đường giao thông thì phong tục tập quán,
ngôn ngữ có ảnh hưởng nặng nề tới hành vi CSSKSS của người dân địa
152
phương. Ở những địa phương như Tu mơ rông thì việc đi khám và đẻ tại cơ
sở y tế còn gặp nhiều rào cản. Người dân cảm thấy xấu hổ, không muốn
khám, và cho rằng đẻ tại nhà thì thoải mái và thuận tiện hơn, phỏng vấn cán
bộ quản lý xã Mang Ri, Tumorong, tỉnh Kon Tum.
Một lý do khác được xác định liên quan đến địa điểm đăng ký BHYT.
Hiện nay, BHYT cho người nghèo mới bắt buộc phải khám ở tuyến xã. Còn
những loại BHYT khác thì người dân chủ động đăng ký sử dụng dịch vụ y tế
ở tuyến trên. Điều này cũng ảnh hưởng tới việc cung cấp dịch vụ tại TYT,
mặc dù chất lượng rất tốt như ở Phú Thọ.
Ở Kon Tum, thì đại đa số người dân lại đăng ký sử dụng BHYT tại
tuyến xã, rất ít ca đăng ký khám chữa bệnh tại tuyến huyện. Những người có
BHYT thì được thanh toán 100%.
Như vậy, xu hướng ít sử dụng dịch vụ y tế (khám thai, sinh con) ngày
càng ít tại tuyến xã xuất hiện gần đây và có thể tạo ra các ảnh hưởng không
tốt như lãng phí nguồn lực, đầu tư không đúng tại các khu vực dự án ở xã. Do
vậy, ngay cả những nhà quản lý cũng cần đưa ra những yêu cầu thiết thực cơ
cấu danh mục trang thiết bị cho trạm y tế xã để phù hợp với tình hình thực tế
trong giai đoạn hiện nay.
4.2.4.Khả năng tiếp cận dịch vụ làm mẹ an toàn
4.2.4.1. Tiếp cận về địa lý
Tiếp cận về địa lý tới các dịch vụ LMAT không chỉ bao gồm khoảng
cách từ nhà đến cơ sở y tế mà còn phụ thuộc vào chất lượng của đường xá, sự
sẵn có của các loại phương tiện giao thông. Sự khan hiếm của các phương
tiện đi lại, đặc biệt ở những vùng sâu vùng xa và điều kiện đường xá không
đảm bảo đã ảnh hưởng đến việc tiếp cận cơ sở y tế của phụ nữ. Ở nhiều nơi
khó khăn, phụ nữ đi bộ đến cơ sở y tế là việc thường gặp. Nhìn chung,
khoảng cách đến cơ sở y tế thường được đo lường bằng thời gian đến cơ sở y
153
tế bởi các phương tiện thông thường. Bảng 4.1. ở trên đã cho thấy vai trò của
khả năng tiếp cận đến các cơ sở y tế có giá trị như thế nào đến giảm tử vong
mẹ và giảm tử vong trẻ sơ sinh. Theo TCYTTG và UNFPA tại tất cả các quốc
gia, chương trình làm mẹ an toàn chỉ có thể có hiệu quả nếu như các cơ sở cấp
cứu sản khoa cơ bản nên đặt tại nơi mà người dân mất nhiều nhất là 2 tiếng để
đi đến nơi. Cơ sở cấp cứu sản khoa toàn diện đặt tại nơi mà người dân mất
nhiều nhất là 12 tiếng để đi đến nơi [113]. Phân tích đa biến bảng 3.36, 3.37.
3.38 đều cho thấy khoảng cách đến các cơ sở y tế là một trong các yếu tố có
ảnh hưởng đến số lần khám thai, sinh tại các cơ sở y tế và sau can thiệp của
nghiên cứu thì các yếu tố trên đã không ảnh hưởng tới các bà mẹ nữa.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tìm kiếm dịch vụ chăm sóc trước sinh là
địa điểm của cơ sở y tế và sự sẵn có của phương tiện đi lại. Nếu thời gian
đến cơ sở y tế trên 30 phút bằng các phương tiện đi lại thông thường tại
địa phương thì nhìn chung các bà mẹ sẽ ít đến cơ sở y tế mặc dù họ có nhu
cầu chăm sóc thật sự [113]. Điều này được giải thích bởi vấn đề tài chính và chi
phí cơ hội quá cao. Thêm vào đó người phụ nữ phải bỏ thời gian để đi một
quãng đường quá dài mà có thể cán bộ y tế lại không có mặt tại cơ sở y tế. Yếu
tố địa lý có ảnh hưởng trực tiếp tới tiếp cận dịch vụ. Bảng 4.1. cho chúng ta cũng
cho diện tích của 2 tỉnh Hà Giang và Kon Tum là những tỉnh có địa bàn rộng và
đi lại khó khăn, đây cũng là một minh chứng về yếu tố tiếp cận địa lý ảnh hưởng
đến tiếp cận dịch vụ. Tỷ lệ phụ nữ sinh con tại cơ sở y tế ở 2 tỉnh này sau can
thiệp vẫn ở mức thấp Hà Giang 57,1% và Kon Tum 61,0% (Bảng 3.22.).Tại Hà
Giang và Ninh Thuận có những địa bàn từ thôn đi tới trạm y tế phải mất 4 tiếng
đi bộ; các xã càng xa trung tâm, tỷ lệ bà con tiếp cận tới cơ sở y tế, đặc biệt là
dịch vụ đẻ tại trạm càng thấp vì không thể vận chuyển sản phụ đến trạm vì điều
kiện đường xá, đi lại khó khăn [90].
4.2.4.2. Tiếp cận về kinh tế
154
Khả năng tiếp cận về mặt kinh tế được đo lường bằng khả năng chi trả
các loại chi phí trực tiếp (bằng tiền túi của mình) để được chăm sóc y tế (gồm
các loại chi phí chính thức và không chính thức, phí vận chuyển, ăn ở, chi phí
cho người theo nuôi...). Phân tích đa biến bảng 3.36, 3.37. 3.38 đều cho thấy
các bà mẹ ở tỉnh có điều kiện kinh tế và văn hóa tốt hơn có xu hướng khám
thai trên 3 lần, sinh tại các cơ sở y tế cao hơn các bà mẹ ở các tỉnh có điều
kiện kém hơn. Sau can thiệp của nghiên cứu thì các yếu tố trên đã không ảnh
hưởng tới việc khám thai cũng như lựa chọn nơi sinh.
Một số nhà nghiên cứu còn đề nghị ngoài việc đo lường khả năng chi
trả cho chăm sóc sức khỏe còn cần phải dựa vào thu nhập cá nhân và gia đình
của người chi trả. Nghiên cứu ở các nước khác trên thế giới cho thấy chi phí
là một yếu tố cản trở hầu hết phụ nữ sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà
mẹ và những những người nghèo hơn thì thường tìm đến những cơ sở kém
chất lượng hơn. Điều đó cũng có nghĩa là những người có thu nhập cao thì
đến những cơ sở y tế có chất lượng chăm sóc tốt cho dù khoảng cách có xa
hơn [95], [96], [109], [115].Trong nghiên cứu này đặc trưng của các phụ nữ
tham gia nghiên cứu nói chung là những phụ nữ có trình độ trung học phổ
thông trở xuống (chiếm trên 96%), chỉ có 3,9% có trình độ cao đẳng và đại
học cho thấy việc có đủ khả năng để chi trả chi phí chăm sóc sức khỏe cao
của các phụ nữ ở đây khó khăn và vì thế tỷ lệ phụ nữ vẫn sinh con tại nhà do
các bà mụ, chồng và người trong gia đình đỡ đẻ là vẫn còn nhiều chiếm tỷ lệ
16,2% trước can thiệp và sau can thiệp giảm là 9,8%. Thu nhập bình quân đầu
người ở Kon Tum đạt 22,12 triệu đồng/năm, và tỷ lệ hộ nghèo giảm còn
22,7% số hộ gia đình [49].Điều này giúp cho việc lý giải tại sao tỷ lệ phụ nữ
sinh con tại nhà vẫn còn cao.Tại Ninh Thuận các yếu tố có liên quan đến sự
tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSKSS tại trạm y tế của bà mẹ là khu vực,
khoảng cách từ trung tâm xã đến trung tâm y tế, bệnh viện tỉnh, trạm y tế xã
155
đã đạt Chuẩn Quốc gia về y tế, dân tộc và trình độ văn hoá của bà mẹ [63].
Những người phụ nữ nghèo thường ở nhà và tự điều trị bằng những thuốc y
học cổ truyền hoặc đến các y tá tư gần nhà. Ở nhiều vùng của Châu Phi,điều
kiện kinh tế là yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới việc tiếp cận dịch vụ y tế. Bên
cạnh đó, mùa màng và vụ thu hoạch cũng phần nào ảnh hưởng tới việc sử
dụng dịch vụ y tế. Ở châu Phi, 13 bà mẹ chết trên tổng số 20 người thường
xảy ra vào vụ mùa thu hoạch, đó là thời gian mà phụ nữ phải làm việc vất vả
trên đồng ruộng không có thời gian đến cơ sở y tế [115].
Nghiên cứu định tính tiến hành tại Bình Định cho thấy “nghèo” ảnh
hưởng trực tiếp tới quyết định sử dụng dịch vụ y tế của người dân tộc thiểu
số. Mặc dù họ đã được miễn viện phí không phải chi trả, tuy nhiên để đến
được bệnh viện họ phải tự bỏ tiền trả cho việc đi lại từ nhà tới bệnh viện và
các chi phí ăn ở cho người vận chuyển sản phụ, cho người nuôi sản phụ. Tại
cơ sở y tế đôi khi cán bộ y tế còn yêu cầu họ trả tiền cho việc mua bím, tả, sữa
cho trẻ sơ sinh điều mà họ không phải làm khi sinh tại nhà [55].Tuy nhiên khi
mà điều kiện đi lại thuận tiện thì người dân lại có xu hướng tìm đến các cơ sở
y tế chất lượng cao hơn và thực tế này diễn ra không chỉ ở các huyện ở gần thị
xã như Phú Thọ, Hòa Bình mà còn là tình trạng phổ biến ở nhiều nơi gần các
khu vực thành phố, trung tâm văn hóa. Chất lượng dịch vụ thấp cũng là rào
cản đối với tiếp cận dịch vụ sức khỏe của thai phụ.
4.2.4.3. Tiếp cận về văn hoá
Tỷ lệ tử vong mẹ thường bị tác động bởi hủ tục truyền thống và văn hóa
mà thường cản trở phụ nữ có được sự chăm sóc sức khỏe trước trong và sau
sinh [29]. Sự tiếp cận văn hóa được đo lường bằng sự phù hợp về văn hoá,
phong tục tập quán và khả năng giao tiếp với các nhóm thiểu số không nói
được ngôn ngữ phổ thông. Niềm tin văn hoá, cấu trúc xã hội và đặc tính của
mỗi cá nhân cũng rấ tquan trọng. Một cuộc điều tra ở Ấn Độ cho thấy khoảng
156
60% phụ nữ cảm thấy chăm sóc thai nghén là không cần thiết. Ở một số nơi,
mang tha được xem như vấn đề sức khoẻ bình thường không cần phải chăm
sóc y tế, hoặc sự chăm sóc chỉ cần thiết khi người phụ nữ mang thai cảm thấy
có vấn đề. Sự thiếu hiểu biết của phụ nữ về thai sản là một vấn đề chính. Sự
mang thai ngoài ý muốn cũng là lý do làm cho các bà mẹ không đi khám thai.
Số người mang thai ngoài ý muốn không nhận được chăm sóc thai nghén là
60% [104]. Yếu tố bình đẳng về giới cũng là một vấn đề quan trọng ở nhiều
vùng trên thế giới. Việc quyết định sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho bà
mẹ nhiều khi được quyế tđịnhbởi mẹ chồng, chồng hoặc các thành viên khác
trong gia đình, còn tiếng nói của bản thân người phụ nữ lại rất ít trọng lượng.
Ở nhiều nơi trên thế giới, phụ nữ thích sinh con ở nhà với sự giúp đỡ của các
bà mụ vườn hoặc người thân [94]. Một trong những nguyên nhân đó là do yếu
tố văn hoá. Bên cạnh đó, còn có một vài lý do khác như môi trường chăm sóc
y tế không thânthiện hoặc sự thiếu cảm thông của nhân viên y tế. Ở một vài
nơi khác sự có mặt của các nam nhânviên y tế là điều không thể chấp nhận
được đối với nền văn hoá của một số dân tộc[107]. Theo nhận định của cán
bộ y tế xã Mang Ri, Tumorong, tỉnh Kon Tum, nhiều gia đình do ảnh
hưởng của phong tục, xấu hổ nên rất ngại đến thăm khám tại các trạm y
tế, một lý do nữa là do đồng bào dân tộc bất đồng ngôn ngữ, không nói
được tiếng Kinh nên học chỉ muốn mời các bà mụ hoặc người thân trong gia
đình đỡ đẻ. Trong nghiên cứu cũng đã được thấy rõ ràng là trước can thiệp,
khoảng cách đến các cơ sở y tế xa, sinh sống tại các tỉnh có điều văn hóa và kinh
tế thấp hơn, việc hiểu không tốt tiếng Việt của các bà mẹ tham gia nghiên cứu đã
ảnh hưởng tới việc đi khám thai, lựa chọn nơi sinh và người đỡ đẻ. Sau can
thiệp làm mẹ an toàn tại 5 tinh nghiên cứu kết quả đã thực sự tác động tới các bà
mẹ, sự hài lòng của các bà mẹ tại các cở sở y tế tuyến xã, huyện, tỉnh (bảng
3.35, 3.36, 3.37) đều ảnh hưởng đến việc tăng số bà mẹ đi khám thai đủ 3 lần,
157
chọn sinh có cán bộ y tế đỡ và chọn nơi sinh là các cơ sở y tế. Qua phân tích trên
đã chứng minh cho thấy yếu tố văn hóa là một trong những yếu tố tác động đến
các bà mẹ và được quan tâm chú trong công tác tuyên truyền trong chương trình
làm mẹ gan toàn trong thời gian tới.
Một số yếu tố kinh tế - xã hội được kể đến như học vấn thấp, tuổi trẻ, tín
ngưỡng (thiên chúa giáo), dân tộc thiểu sốvà thu nhập thấp của bà mẹ có tác
động rõ rệt đến các thực hành sau sinh. Các yếu tố khác được coi là cản trở
cho phụ nữ có thể tiếp cận chăm sóc trước sinh và chăm sóc sau sinh như
hiểu biết kém, khoảng cách giữa các lần sinh, xấu hổ khi tiếp cận dịch vụ và
yếu tố về di cư, thói quen, phong tục của người dân địa phương trong việc
chăm sóc bà mẹ tại nhà [94]. Với các tập quán chăm sóc sau sinh truyền
thống, các thực hành sinh tại nhà này được tạo ra do văn hóa và các yếu tố xã
hội. Niềm tin tại địa phương, tập quán, phụ nữ có quan hệ thân thuộc có ảnh
hưởng quyết định việc các bà mẹ tuân thủ những hành vi này. Thêm vào đó,
văn hóa, truyền thống, gia đình và các yếu tố kinh tế cũng là yếu tố thuận lợi
cản trở sự tiếp cận của phụ nữ đến dịch vụ chăm sóc SKSS. Quyết định về địa
điểm sinh bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau như truyền thống đẻ tại nhà,
đường đến các cơ sở y tế xa, thiếu người trông coi gia đình khi phụ nữ sinh
tại cơ sở y tế, chi phí và quan niệm về dịch vụ y tế còn kém tại trạm y tế xã.
Sau khi sinh tại các cơ sở y tế, các bà mẹ trở về nhà và phải tuân theo rất
nhiều các phong tục truyền thống theo thiết chế gia đình và cộng đồng. Nhiều
nghiên cứu định tính và định lượng về các tập quán truyền thống chăm sóc
sau sinh đã được thực hiện. Tập quán này bao gồm rất nhiều các thực hành
như chế độ ăn, vệ sinh, nghỉ ngơi và chăm sóc… Nhiều các tập quán này
được thực hiện với niềm tin là “tránh gió” như ngồi hơ lửa, tránh ra khỏi nhà,
không tắm sau sinh. Thời gian cho mỗi tập quán theo mô tả có thể từ 7 đến
100 ngày. Các thực hành sau khi sinh có khác biệt giữa các dân tộc. Một số
158
thực hành được xếp là có lợi, tuy thế, rất nhiều các tập quán khác là trung tính
hoặc có hại [26].Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tại 5 tỉnh
trên được người nhà giúp đỡ chuẩn bị cho lần sinh đẻ gần nhất cũng tăng sau
can thiệp với chỉ số hiệu quả tăng từ 3,4% lên 16,8%, tuy nhiên sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả nghiên cứu “Đánh giá hành vi tìm kiếm và sử dụng dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu số” cho thấy kiến thức, hiểu biết
của phụ nữ dân tộc thiểu số Tây Nguyên về chăm sóc sức khoẻ trước, trong và
sau sinh còn rất hạn chế, mơ hồ, thậm chí còn hiểu sai. Mô hình hành vi tìm
kiếm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ còn mang tính bị động. Tại đây còn tồn tại
nhiều phong tục tập quán, thói quen có ảnh hưởng xấu đến hành vi chăm sóc
sức khoẻ, coi việc sinh nở là chuyện kín đáo, cúng bái, tin vào các bà đỡ. Bên
cạnh đó thì khoảng cách địa lý, điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, năng
lực kinh tế của gia đình, trình độ học vấn, ngôn ngữ cũng ảnh hưởng rất lớn
đến nhận thức, thái độ và hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ
của phụ nữ dân tộc thiểu số. Ngoài ra, sự tham gia của cộng đồng như chồng,
người thân đối với hoạt động chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, chưa khuyến khích
được phụ nữ tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế [62]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỷ lệ phụ nữ mang thai được chồng đưa đi đẻ sau can tăng thiệp
lên từ 76,2% lên 80,8% và 2 tỉnh đạt tỷ lệ cao cả trước và sau can thiệp là Hòa
Bình và Phú Thọ đều trên 90%. Tuy nhiên chỉ 2 tỉnh Ninh Thuận và Kon Tum
tỷ lệ phụ nữ được chồng đưa đi đẻ trong lần sinh gần nhất là tăng lên có ý nghĩa
thống kê với chỉ số hiệu quả đạt 13,7% và 62,0%, có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Kết quả can thiệp thông tin – giáo dục – truyền thông của chương trình
phần nào đã tác động đến các phụ nữ và cả người chồng trong gia đình.Những
hình thức truyền thông phong phú và đa dạng, dưới nhiều hình thức phù hợp là
cần thiết để tác động đến không chỉ các bà mẹ mà cả những thành viên trong
159
gia đình nhất là người chồng, mẹ chồng sẽ góp phần tác động đến việc thay đổi
hành vi và tiến tới thay đổi thực hành của các bà mẹ.
Một nghiên cứu định tính tiến hành tại đây cho thấy người dân tộc chọn
góc nhà làm nơi sinh đẻ, tư thế khi sinh của người dân tộc là quỳ gối; bếp lửa
đóng vai trò quan trọng trong cuộc đẻ; tục cúng lễ được thực hành phổ biến
trước và trong lúc sản phụ sinh đẻ; tục uống nước sắc từ một số rễ cây, thảo
dược; người phụ nữ dân tộc e ngại phải để lộ bộ phận sinh dục khi khám thai
hay khi đẻ tại cơ sở y tế trước sự có mặt của người ngoài gia đình, nhất là
nam giới trong quá trình sinh nở; họ còn e ngại khi sinh tại cơ sở y tế vì sợ bị
cắt và khâu tầng sinh môn [63].
Tuy nhiên,nghiên cứu của chúng tôi mới chỉ dừng lại trong việc tiếp cận
với đối tượng định là phía cung cấp dịch vụ. Đây là một hạn chế của nghiên
cứu và chúng tôi cũng mong muốn trong thời gian tới sẽ có những nghiên
cứu tiếp theo đi sâu theo hướng quan tâm tới đối tượng sử dụng dịch vụ là các
bà mẹ để giúp các nhà hoạch định chính sách có một cách nhìn tổng quát hơn
trong việc đưa ra các chính sách trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
bà mẹ và trẻ em.
KẾT LUẬN
160
1. Hiệu quả can thiệp về chăm sóc trước trong và sau sinh ở các bà mẹ
- Chương trình can thiệp đã có hiệu quả rất rõ nâng cao kiến thức và
thực hành chăm sóc trước sinh: tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về cần được khám
thai đủ từ 3 lần trở lên tăng lên sau can thiệp (tăng từ 84,4% lên 90,4%), dấu
hiệu nguy hiểm (8,1% lên 31,2%). Tỷ lệ bà mẹ thực hành khám thai đủ 3 lần
tăng lên sau can thiệp (72,2% lên 84,8%).
- Hiệu quả can thiệp cũng đã tác động tăng kiến thực và thực hành
chăm sóc trong khi sinh: tỷ lệ các bà mẹ thay đổi kiến thức về cán bộ y tế là
người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau can thiệp (tăng từ 81,7% lên 92%), kiến
thức của các bà mẹ về dấu hiệu nguy hiểm khi sinh như đau bụng dữ dội khi
chuyển dạ (tăng từ 28% lên 41,4%), chảy máu khi chuyển dạ (36,7% lên
53,6%), co giật (4,3% và 16,8%), vỡ ối sớm trước chuyển dạ (17,8% và
35,2%). Sau can thiệp, thực hành của bà mẹ về nơi sinh tại cơ sở y tế tăng cao
từ 73,4% lên 80,7%, tỷ lệ các bà mẹ được cán bộ y tế đỡ đẻ tăng nhẹ từ 83,5%
lên 88,6%, tỷ lệ phụ nữ được chồng đưa đi đẻ tăng từ 76,2% lên 80,8.
- Kiến thức và thực hành của các bà mẹ về chăm sóc sau khi sinh đã
tăng lên sau can thiệp: tỷ lệ các bà mẹ biết các dấu hiệu nguy hiểm sau khi
sinh tăng từ 5,5% 29,1%, tỷ lệ bà mẹ biết về các biện pháp tránh thai hiện đại
tăng từ 77,7% lên 80,3%, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức cho trẻ bú ngay trong vòng
30’ đến 1 giờ sau sinh tăng từ 13% lên 20,3%. Thực hành khám lại sau khi
sinh trongvòng 6 tuần của các bà mẹ tăng nhanh từ 38,2% lên 56,8%.
161
2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp
- Thiếu nhân lực y tế, trang thiết bị, đặc biệt là nhân lực y tế tuyến cơ
sở (y tế xã và huyện) là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
can thiệp.
- Ít sử dụng dịch vụ tuyến cơ sở (trạm y tế xã và bệnh viện huyện), đặc
biệt là ở các vùng núi vùng sâu vùng xa cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu quả can thiệp.
- Công tác theo dõi giám sát các hoạt động can thiệp chưa thật đồng bộ
đã ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp. Nguyên nhân chính của giám sát chưa
đồng bộ là do thiếu nhân lực và thiếu các chỉ số giám sát đầy đủ.
KIẾN NGHỊ
162
Mặc dù hiệu quả của chương trình can thiệp làm mẹ an toàn đã được
chứng minh, tuy nhiên vẫn cần có những kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả can thiệp:
- Tăng cường nhân lực cho tuyến y tế cơ sở (trạm y tế xã và khoa sản và
nhi bệnh viện huyện), đặc biệt ở các xã và huyện vùng núi vùng sâu
vùng xa để đáp ứng được nhu cầu cung cấp dịch vụ LMAT cho người
dân.
- Tăng cường công tác đào tạo chuyên sâu về cấp cứu sản khoa, cấp cứu
sơ sinh cho tuyến y tế cơ sở
- Cung cấp một số trang thiết bị cần thiết, đặc biệt là các trang thiết bị
cấp cứu sản khoa và sơ sinh. Nên tập trung đào tạo và cung cấp trang
thiết bị y tế cho các vùng sâu vùng xa nhưng cần phù hợp với thực
trạng tình hình địa phương.
- Tăng cường công tác giám sát hoạt động LMAT, đặc biệt cho tuyến xã
và tuyến huyện.
- Cần tập trung tăng cường công tác truyền thông thay đổi hành vi cho
phụ nữ tuổi sinh đẻ trên các khía cạnh tài liệu truyền thông cần có cả
tiếng dân tộc, với nhiều hình thức truyền thông phù hợp, phong phú
hơn cho những vùng sâu vùng xa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ môn BVSKBMTE-DS/KHHGĐ (2000), Trường cán bộ quản lý y tế,
Giáo trình Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em, Nhà xuất bản Y học, tr 60-69.
2. Bộ Y tế (2001), Chăm sóc sức khỏe sinh sản, Tài liệu dùng cho cán bộ y
tế cơ sở, Nhà xuất bản Y học - Hà Nội, tr. 4 - 5, 145 - 178.
3. Bộ Y tế (2001), Chiến lược Quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản giai
đoạn 2001 - 2010, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr 20-23.
4. Bộ Y tế (2003), Niên giám thống kê năm 2002, Nhà xuất bản Y học, Hà
Nội, tr 33-34.
5. Bộ Y tế (2004), Niên giám thông kê năm 2003, Nhà xuất bản Y học, Hà
Nội, tr 35-36.
6. Bộ Y tế (2007), Xác định cỡ mẫu trong các nghiên cứu y tế, Nhà xuất
bản y học.
7. Bộ Y tế (2009), Chăm sóc sau đẻ. Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản, Nhà xuất bản y học.
8. Bộ Y tế (2009), Chương trình chăm sóc sức khỏe ưu tiên (Làm mẹ an
toàn), Hà Nội.
9. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn chuẩn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ sinh sản, tr.31-44, 52-65, 191 - 193, 261 - 262, 374 - 375.
10. Bộ Y tế (2011), Báo cáo tổng kết công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản
năm 2010, phương hướng nhiệm vụ năm 2011, Hà Nội, tr 1-5.
11. Bộ Y tế (2012), Niên giám thông kê năm 2010, Nhà xuất bản Y học, Hà
Nội, tr. 34-36.
12. Bộ Y tế (2013), "Thông tư 07/2013/TT-BYT ngày 08/3/2013 qui định
tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn bản", Hà Nội,
tr 1-2.
13. Bộ Y tế - Dự án VNM7G0010 và UNFPA (2007), Hướng dẫn thực hiện
mô hình can thiệp chăm sóc sản khoa và sơ sinh thiết yếu tại các tỉnh
được UNFPA hỗ trợ - chu kỳ VII, Hà Nội.
14. Bộ Y tế, Pathfinder International, Engender Health và Ipas (2003), Tư
vấn toàn diện về SKSS, Giáo trình lồng ghép, Sách dành cho giảng viên,
tr 78.
15. Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê (2003), Đánh giá hiệu quả sử dụng dịch
vụ y tế, Điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002, Hà Nội.
16. Bộ Y tế và Vụ sức khỏe Bà mẹ - trẻ em (2001), Kế hoạch hành động
Quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản tập trung vào Làm mẹ an toàn
và chăm sóc sơ sinh gia đoạn 2001-2010, Hà Nội.
17. Bộ Y tế và Vụ BVBMTE-KHHGĐ (2003), Hội thảo vùng xây dựng kế
hoạch quốc gia về làm mẹ an toàn, tr 2-21.
18. Bộ Y tế và Vụ Khoa học đào tạo (2005), Chăm sóc bà mẹ sau đẻ, Tài
liệu đào tạo hộ sinh trung học, Nhà xuất bản y học.
19. Bộ Y tế và Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (2006), Báo cáo tổng kết công
tác chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2005 và phương hướng năm 2006,
Hà Nội.
20. Bộ Y tế và Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (2007), Hội nghị chiến lược
quốc gia chăm sóc sức khỏe sinh sản và tiểu dự án 7.1 năm 2007,
phương hướng năm 2008, Hà Nội.
21. Bộ Y tế và Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (2008). Chăm sóc bà mẹ mang
thai và trẻ sơ sinh, Hà Nội.
22. Bộ Y tế và Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (2009), Báo cáo tổng kết công
tác chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ
năm 2009, Hà Nội.
23. Bộ Y tế và Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (2010), Báo cáo công tác chăm
sóc sức khỏe sinh sản năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010,
tr13-14.
24. Chính Phủ (2011), Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam
giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.
25. Chính phủ (2013), Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến 2030, Hà Nội.
26. Bùi Thị Thu Hà, Nguyễn Công Nghĩa và Ngô Thị Khánh (2011), Báo
cáo Đánh giá kết quả thực hiện can thiệp về LMAT, chú trọng vào cấp
cứu sản khoa và chăm sóc trẻ sơ sinh giai đoạn 2006 -2010.
27. Lương Thu Hà, Đàm Khải Hoàn và Lý Văn Cảnh (2006), "Thực trạng
chương trình làm mẹ an toàn ở xã Tân Long huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái
Nguyên", Tạp chí thông tin Y Dược số 11 - 2006, tr. 25-26.
28. Lưu Ngọc Hoạt, Lê Thị Hương và Lê Thị Thanh Xuân (2010), "Kiến
thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ và các rào cản và
yếu tố thúc đẩy", Tạp chí y học thực hành, 6(273).
29. Dương Thu Hương và Đinh Thanh Huề (2002), "Tìm hiểu sự hiểu biết
và thực hành chăm sóc trước sinh của phụ nữ mang thai xã Hương Long,
thành phố Huế", Tạp chí Y học thực hành số 1-2004, tr. 29-32.
30. Khamphanh Prasbourson (2013), Kiến thức, thực hành về làm mẹ an
toàn của phụ nữ có con dưới 2 tuổi và hiệu quả truyền thông tại tỉnh Bo
Lị Khăm Xay, năm 2010-2012; Luận án tiến sỹ y học, Đại học Y tế Công
cộng.
31. Trần Thị Phương Mai (2004), "Nghiên cứu tử vong mẹ tại Việt Nam
năm 2000 - 2001", Tạp chí Y học thực hành số 4 - 2004, tr. 23-26.
32. Trần Thị Phương Mai, Victor Cole, Vũ Thị Thành và Đào Huy Đáp
(2000), Báo cáo kết quả khảo sát nguyên nhân 3 chậm chễ trong chăm
sóc sản khoa dẫn đến tăng tỷ lệ tai biến sản khoa và tử vong mẹ ở địa
bàn triển khai dự án, Dự án làm mẹ an toàn - Vụ BMTE, Bộ y tế.
33. Trần Thị Phương Mai và Nguyễn Thị Ngọc Phượng (2001), Làm mẹ an
toàn, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh trọn gói, Nhà xuất bản Y Học, Hà
Nội, tr 7-71.
34. Nguyễn Hữu Minh và Lê Phượng (2001), "Về thực trạng và nhận thức
về chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ ở các xã nghèo miền núi phía
bắc", Tạp chí khoa học về phụ nữ, 2(45), tr. 50-56.
35. Tổ chức Cứu trợ Trẻ em quốc tế (2012), Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ
sơ sinh liên tục từ cộng đồng đến bệnh viện, Save the Children
International,Việt Nam.
36. Hà Anh Thạch (2006), Nghiên cứu thực trạng công tác chăm sóc sức khoẻ
sinh sản tại các trạm y tế xã tỉnh Bình Định năm 2005, tr 17, 43, 74-76.
37. Võ Văn Thắng và Đào Văn Dũng (2003), "Thực trạng sử dụng dịch vụ
chăm sóc thai sản và KHHGĐ ở 7 xã nghèo huyện miền núi Nam Đông,
tỉnh Thừa Thiên - Huế", Tạp chí Y học thực hành, 12(470), tr. 45- 48.
38. Võ Văn Thắng và Đào Văn Dũng (2005), "Hiệu quả can thiệp nâng cao
sử dụng dịch vụ chăm sóc thai sản tại 7 xã nghèo huyện Nam Đông, tỉnh
Thừa Thiên - Huế", Tạp chí Y học thực hành, 8(517), tr. 70-73.
39. Phan Lạc Hoài Thanh (2003), Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng
đến công tác chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ có thai tại huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh năm 2002-2003, Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng, trường
Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
40. Phan Lạc Hoài Thanh (2004), "Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến
chăm sóc trước sinh của các bà mẹ tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh",
Nghiên cứu Y học 6(32), tr. 106-110.
41. Phan Lạc Hoài Thanh (2005), "Kiến thức, thực hành chăm sóc trước
sinh của các bà mẹ và thực hành khám thai của nhân viên y tế xã tại
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh", Nghiên cứu Y học, 6(39), tr. 78-83.
42. Cung Thị Thu Thủy (2012), Vitamin K và tình trạng thiếu vitamin K ở
Trẻ sơ sinh, Nhà xuất bản Y học, tr13, 120-123, 149.
43. Nguyễn Viết Tiến (2009), "Hiểu biết của khách hàng trong chăm sóc sức
khỏe sinh sản", Tạp chí Y học thực hành số, 3(650), tr. 60-62.
44. Nguyễn Viết Tiến (2009), "Hiểu biết về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang
thai, khi sinh và sau sinh của các bà mẹ và ông bố có con nhỏ dưới 24 tháng
tuổi tại 7 tỉnh", Tạp chí y học thực hành, 4(656), tr. 60-62.
45. Ngô Văn Toàn (2006), "Kiến thức và thực hành chăm sóc khi sinh tại
thành phố Đà Nẵng năm 2005", Tạp chí thông tin Y Dược số 4 - 2006, tr.
19-22.
46. Ngô Văn Toàn (2007), "Phân tích đa biến mối liên quan giữa các yếu tố
ảnh hưởng và thực hành chăm sóc trước và trong khi sinh tại tỉnh Quãng
Trị năm 2005", Tạp chí Y học thực hành số 1 - 2007, tr. 25-27.
47. Ngô Văn Toàn, Tổ chức cứu trợ trẻ em quốc tế (2012). Báo cáo đánh giá
hiệu quả của mô hình can thiệp chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh
liên tục từ nhà đến bệnh viện, Tổ chức cứu trợ Trẻ em Quốc tế, Báo cáo
chuyên đề, Hà Nội, Việt Nam.
48. Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế (2003), "Báo cáo chuyên đề: Đánh giá
hiệu quả sử dụng dịch vụ y tế", Điều tra y tế quốc gia.
49. Tổng cục Thống kê và UNICEF (2012), Điều tra các mục tiêu trẻ em và
phụ nữ 2011 (MIC4), Nhà xuất bản Thống kê.
50. Tổng cục Thống kê Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam (2009), Mức
sinh, mức chết - thực trạng, xu hướng và những khác biệt.
51. Trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản tỉnh Bình Định (2005), Báo cáo
tổng kết công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản tỉnh Bình Định năm 2005
và phương hướng năm 2006.
52. Tống Viết Trung (2002), Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến
việc sử dụng dịch vụ chăm sóc trước sinh tại huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương năm 2001-2002, Luận văn Thạc sỹ Y tế Công cộng, trường Đại
học Y tế công cộng, Hà Nội.
53. Trường đại học Y Hà Nội (1997), Phương pháp nghiên cứu định tính
trong các chương trình y tế, Hà Nội.
54. Trường Đại học Y Hà Nội (2010), Thống kê cơ bản trong y sinh học,
Nhà xuất bản y học.
55. Lê Anh Tuấn, Ngô Văn Toàn và cs (2009), "Mối liên quan giữa một số
yếu tố ảnh hưởng và thực hành khám lại sau sinh của bà mẹ tại tỉnh Bình
Định năm 2008", Tạp chí nghiên cứu y học, tr 64(5).
56. Phan Văn Tường và cộng sự (2007), "Nghiên cứu hiểu biết, thực hành về
sức khoẻ sinh sản và mức độ tiếp cận thông tin của các bà mẹ, tại huyện
Tương Dương, tỉnh Nghệ An năm 2006", Tạp chí y học thực hành, tr
8(575).
57. UNFPA (2003), Báo cáo điều tra ban đầu Thực trạng cung cấp và sử
dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại 12 tỉnh, tr 36 - 42.
58. UNFPA (2007), Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản tại Việt Nam - Báo cáo
rà soát các nghiên cứu giai đoạn 2000-2005, tr 9.
59. UNFPA (2008), Sinh đẻ của cộng đồng dân tộc thiểu số nghiên cứu định
tính tại Bình Định, tr.2 - 14.
60. UNFPA (2008), Sức khỏe sinh sản của đồng bào dân tộc Hmông tỉnh Hà
Giang, Hà Nội.
61. UNICEF (2008), "Báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp quốc nhấn
mạnh nguy cơ tử vong bà mẹ ở các nước đang phát triển", Dân số và
phát triển, tr. 25-26.
62. Trịnh Hữu Vách (2003), Đánh giá hành vi tìm kiếm và sử dụng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu số, tr. 26.
63. Trịnh Hữu Vách, Lưu Thị Hồng và cộng sự (2009), Báo cáo kết quả:
Nghiên cứu thực trạng tử vong mẹ và tử vong sơ sinh tại 14 tỉnh tham
gia chương trình, Trung tâm nghiên cứu dân số và sức khỏe nông thôn
trường đại học Y Thái Bình, tr. 1-5.
64. Tổng cục Thống kê (2010). Báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở, Nhà
xuất bản thống kê, Hà Nội.
65. Đào Quang Vinh (2007), Các yếu tố nguy cơ liên quan đến tai biến sản
khoa tại cộng đồng và thử nghiệm một số giải pháp can thiệp, Luận án
tiến sĩ y học cấp cơ sở, Trường Đại học Y Hà Nội.
66. Hạc Văn Vinh, Đào Văn Dũng và Đàm Khải Hoàn (2010), "Thực trạng
kiến thức, thái độ và thực hành của phụ nữ (15-49 tuổi) có con dưới 5
tuổi về chăm sóc sức khỏe sinh sản tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái
Nguyên", Tạp chí Y học thực hành, 9(732), tr. 118-123.
67. Hạc Văn Vĩnh, Đào Văn Dũng và Đàm Khải Hoàn (2006), "Thực hành,
kiến thức, thái độ của phụ nữ (15-49) có con dưới 5 tuổi về chăm sóc sức
khỏe sinh sản ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Y học Thực
hành.
68. Vụ Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em - Kế hoạch hóa gia đình Bộ Y tế -Dự
án VIE/93/P12-UNFPA (1996), Sức khỏe sinh sản, Tài liệu dùng cho bác
sỹ tuyến tỉnh và huyện, tập II, Hà Nội.
69. Vụ Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em - Kế hoạch hóa gia đình Bộ Y tế
(1998), "Những nguy cơ trong khi có thai lúc chuyển dạ và sau đẻ",
Chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em tại các tuyến y tế.
70. Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em Bộ Y tế (2006), Báo cáo tổng kết công tác
chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2005 và phương hướng năm 2006, tr 6-
7.
71. Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em Bộ Y tế (2009), Báo cáo công tác chăm
sóc sức khỏe sinh sản năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010,
tr13-14.
72. Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em Bộ Y tế (2009), Báo cáo tổng kết công tác
chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2008.
73. Vụ Sức khỏe sinh sản Bộ Y tế (2007), Hội nghị chiến lược quốc gia
chăm sóc sức khỏe sinh sản và tiểu dự án 7.1 năm 2007, phương hướng
năm 2008.
74. WHO, UNICEF, UNPFA và Hội đồng dân số thế giới (1994), Làm mẹ
an toàn. Hội nghị Cairo, Ai Cập.
75. Vũ Thị Vân Yến, Phạm Thị Xuân Tú và Nguyễn Viết Tiến (2011), "Trẻ
suy dinh dưỡng bào thai", Tạp chí Y học thực hành, 5(763), tr. 32-35.
Tiếng Anh
76. Abhishek Singh et al (2012), "Socio-economic inequalities in the use of
postnatal care in India", journal.pone.0037037. 7 (5), pp. 12-21.
77. Ackermann-Liebrich, Thomas Voegeli, Kathrin Gunter-Witt and et al.
(1996), "Home versus hospital deliveries: follow up study of matched
pairs for procedures and outcome", BMJ, 313(7068), pp.1313-1318.
78. Aikawa R, M. Jimba, K. C. Nguen and et al. (2006), "Why do adult
women in Vietnam take iron tablets?", BMC Public Health, pp. 6- 144.
79. Anwar I, M. Sami, N. Akhtar and et al (2008), "Inequity in maternal
health-care services: evidence from home-based skilled-birth-attendant
programmes in Bangladesh", Bull World Health Organ, 86(4), pp. 252-9.
80. Barrenes H and et al. (2007), "Postpartum traditions and nutrition
practices among urban Lao women and their infants in Vientiene, Lao
PDR, European", Journal of Clinical Nutrition, pp. 1-9.
81. Berger J, H. T. Thanh, T. Cavalli-Sforza and et al. (2005), "Community
mobilization and social marketing to promote weekly iron-folic acid
supplementation in women of reproductive age in Vietnam: impact on
anemia and iron status", Nutr Rev, pp.63(12 Pt 2), S95-108.
82. Chien TTT(2002), Trial Results of Population Family Health Worker
Model in Northern Lowland and Coast, Center for Information Research
and Population Documents, pp. 172.
83. Deave T and et al. (2008), "Transtion to parenthood: the needs of parents
in pregnancy and early parenthood", BMC Pregnancy and Childbirth,
pp. 8:27.
84. Department of Reproductive Health M.O.H (2003), Situation of safe
motherhood services provision in Vietnam.
85. Dhaher E, R. T. Mikolajczyk, A. E. Maxwell and et al. (2008), "Factors
associated with lack of postnatal care among Palestinian women: a cross-
sectional study of three clinics in the West Bank", BMC Pregnancy
Childbirth, pp. 8 - 26.
86. Dhakal S, G. N. Chapman, P. P Simkhada and et al. (2007), "Utilisation
of postnatal care among rural women in Nepal", BMC Pregnancy
Childbirth, pp. 7- 19.
87. Dibley T and J. Byles (2005), Factor Related to Antenatal Care
Utilization in Three Provinces of Vietnam: Long An, Ben Tre and Quang
Ngai, Asia Pacific Conference on Sexual and Reproductive Health,
Kuala Lumpur, Malaysia, in 3rd pp. 5.
88. Duong DV, Colin W. Binns and Andy H. Lee (2004), "Utilization of
Delivery Services at the Primary Health Care Level in Rural Vietnam",
Social Science and Medicine, pp. 59.
89. Jones G, Steketee RW, Black RE, Bhutta ZA and Morris SS (2003),
"How many child deaths can we prevent this year?", Lancet (362 ),
pp.65-71.
90. Hanoi School of Public Health (2004), Safe Motherhood: Assessment of
Service Provision and Client's Needs in 3 Provinces: HaTay, Quang Tri
and Kien Giang, in Safe motherhood, pp. 67-69.
91. Kurtz Landy, Wendy Sword và Donna Ciliska (2008), Urban womens’
socioeconomic status, health service need and utilization in the four
weeks after postpartum hospital discharge: findings of a Canadian cross
sectional survey.
92. Leowski J. (1986), Mortality in children under 5 years of age: global
estimates. World Health Stat Q.;39(2):138-44.
93. Let Li and et al (2002), "Prevalence of Breast - Feeding and its
Correlates in Ho Chi Minh City Vietnam", Pediatrics International (44),
pp.47-54.
94. Luong LH (2006), "Situation of Home Delivery and Influenced Factors
in Yen Mo, Ninh Binh in 2006", Hanoi School of Public Health, pp. 56-
59.
95. Maclean GD (2003), "The challenge of preparing and enabling 'skilled
attendants' to promote safer childbirth", Midwifery, 19(3), pp. 163-9.
96. Matteson PS (2001), Women’s health during the childbearing years-A
community-based approach.
97. Ministry of health- Maternal and child health an family planning (2002),
Reseach on maternal mortality in Việt Nam the year 2000 - 2003.
98. Mrisho M, B. Obrist, J. A. Schellenberg and et al. (2009), "The use of
antenatal and postnatal care: perspectives and experiences of women and
health care providers in rural southern Tanzania", BMC Pregnancy
Childbirth, pp. 9- 10.
99. Mugweni E, V. J. Ehlers and J. H. Roos (2008), "Factors contributing to
low institutional deliveries in the Marondera district of Zimbabwe",
Curationis, 31(2), pp. 5-13.
100. Oanh D.K , K.T.H Van, N.T.K. Lien et al (2002), Report on KAPB
Study on Safe Motherhood in CCF Project Sites" Institude for Social
Development Studies”. WHO, Geneva, pp 31..
101. Olukemi Ogundipe et al (2012), "Factors associated with prenatal folic
acid and iron supplementation among 21,889 pregnant women in
Northern Tanzania: A cross-sectional hospital-based study", Published
online. 12 (481), pp. 1471- 2458.
102. Peltzer K, T. Mosala, O. Shisana and et al (2006), "Utilization of
delivery services in the context of prevention of HIV from mother-to-
child (PMTCT) in a rural community, South Africa", Curationis, 29(1),
pp.54-61.
103. Quyen BT (2003), Maternal and Child Health Care Practices among
Mothers of under 2 Years Children and Related Factors in DaKrong and
Huong Hoa, Quang Tri 2002, pp. 68-72.
104. Raj P (2005), "Health-seeking Behavior among Pregnant Women in Uttar
Pradesh India", Research and Practice in Social Sciences, pp. 48-63.
105. Save the Children USA (2008), Baseline Report: Household Survey of
knowledge, practice and coverage of maternal and newborn care among
mothers giving birth in 2007, Vinh Long province, pp. 45-48, 67-68.
106. Simkhada B, E. R. Teijlingen, M. Porter và et al. (2008), "Factors
affecting the utilization of antenatal care in developing countries:
systematic review of the literature", J Adv Nurs., 61(3), pp. 244-60.
107. Thi LM (2004), Traditional Postpartum Practices and Related Socio -
Cultural Factors in a Community in Hung Yen Province, pp. 56-57.
108. Thind A, A. Mohani, K. Banerjee and et al (2008), "Where to deliver?
Analysis of choice of delivery location from a national survey in India",
BMC Public Health, pp. 8 - 29.
109. Titaley Christina R, Cynthia L. Hunter, Heywood Peter and Michael J
Dibley (2009), Why don’t some women attend antenatal and postnatal
care services: a qualitative study of community member’s perspectives in
Garut, Sukabumi and Ciamis district of West Java province, Indonesia.
110. Toan NV and A. Rosenbloom (2006), The Capacity and Use of Maternal
and Neonatal Health Services in Khanh Hoa, Vietnam, Save the
Children, pp. 84.
111. Toan NV and L.T. Huong (2001), Report on MCH and Nutrition Program
Conducted by Save the children US in Vietnam from 1998-2001.
112. UNICEF (2007), Percentage of women aged 15-49 years attended at
least once during pregnancy by skilled health personnel (doctor, nurse,
midwife), 2000 -2007.
113. UNFPA (2009), Program manager's planning, monitoring and
evaluation toolkits, March 2004. New York.
114. United Nations Population Fund (2005), Provision and Utilization of
Reproductive Health Care Services in 7 provinces in Vietnam, UNFPA,
pp. 117.
115. Van Teijlingen ER Simkhada B, Porter M and Simkhada P (2008),
"Factors affecting the utilization of antenatal care in developing
countries: Systematic review of the literature", Journal of Advanced
Nursing, 61(3),pp. 244-260.
116. Viisainen K Wu Z, Li X and Hemminki E (2008), "Maternal care in rural
China: a case study from Anhui province", BMC Health Serv Res, pp.
55.
117. WHO (1998), Safe Motherhood is a Vital Social and Economic
Investment. Safe Motherhood. Division of Reproductive Health
(Technical Support), WHO, Geneva, Switzerland.
118. WHO, UNFPA and UNICEF (1999), Women - friendly health
service:Experience in maternal care", Report of a WHO, UNFPA,
UNICEF Workshop, Mexico city, p.6.
119. WHO (2005), The world health report 2005 - make every mother and
child count. WHO Library Cataloguing-in-Publication Data. Geneva,
Switzerland.
120. World Health Organisation (2008), 10 facts on maternal health 2008.
Geneva, Switzerland.
121. WHO, UNICEP, UNFPA and WB (2012), Trend in maternal mortality:
1990-2010. WHO Library Cataloguing-in-Publication Data. Geneva,
Switzerland.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Viết Tiến, Đào Văn Dũng, (2013),
Hiệu quả can thiệp về thực hành chăm sóc thai trước sinh của các bà
mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh miền núi. Tạp chí Y học Thực hành, số
9 (879) tr 31-34.
2. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Viết Tiến, Đào Văn Dũng (2013),
Hiệu quả can thiệp về thực hành chăm sóc thai trong sinh của các bà
mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh miền núi. Tạp chí Y học Thực hành, số
10 (881) tr 35-38.
3. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Viết Tiến, Đào Văn Dũng, (2013),
Hiệu quả can thiệp chăm sóc sau sinh của các bà mẹ có con dưới 2 tuổi
tại 5 tỉnh miền núi Việt Nam. Tạp chí Y học Dự phòng, số 7 (143) tr
117-22.
PHỤ LỤC I Mã phiếu:..........................
CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHOẺ SINH SẢN
(NHÓM PHỤ NỮ TUỔI TỪ 15- 49 ĐANG NUÔI CON DƯỚI 24 THÁNG TUỔI)
_______________________________________________________________________________
Mã số Tỉnh Mã số Huyện c
Mã số Xã
Ngày phỏng vấn /
/
Họ và tên điều tra viên: ................................................. Mã số Chữ ký:..................................
Họ và tên giám sát viên: ................................................ Mã số Chữ ký:..................................
_______________________________________________________________________________ _
Xin chào chị,
Nhóm nghiên cứu đang và đã hỗ trợ tỉnh nhà một chương trình về nâng cao chất lượng, tăng cường sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và Làm mẹ an toàn. Tôi là ............ đang công tác tại ........................... được mời tham gia tiến hành cuộc khảo sát lần này.
Chúng tôi mong chị vui lòng dành thời gian trả lời các câu hỏi của chúng tôi. Chúng tôi xin bảo đảm rằng: các thông tin chúng ta trao đổi sẽ được giữ bí mật và chỉ phục vụ cho đợt đánh giá nhanh lần này (không ghi tên chị trong lần phỏng vấn này).
Rất mong chị hợp tác để đợt đánh giá lần này đạt kết quả tốt.
Xin cảm ơn chị.
Thời gian bắt đầu cuộc phỏng vấn lúc: giờ, phút
Thời gian kết thúc cuộc phỏng vấn lúc: giờ, phút
Lưu ý đối với điều tra viên (ĐTV):
- Cùng giám sát viên chọn ngẫu nhiên thôn và hộ đầu tiên của xã;
- Nếu không được sự đồng ý trả lời các câu hỏi của đối tượng thì cảm ơn và chuyển sang
đối tượng khác;
- Phỏng vấn ở nơi yên tĩnh, trong khoảng thời gian dưới 35 phút;
- Nơi phỏng vấn chỉ có hai người, trừ trường hợp cần phải có phiên dịch;
- Không để đối tượng phỏng vấn xem bảng hỏi này.
ĐÁNH GIÁ NHANH VỀ
A. ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN
1 9
A.1 Chị sinh năm nào?
1. Có
A.1a Chị và gia đình đã sống
2. Không
liên tục ở địa phương này từ 6 tháng trở lên phải không?
1. Kinh
A.2 Chị người dân tộc nào?
2. Dân tộc khác (ghi rõ) ....................
1. Đạo Phật
A.3 Chị theo tôn giáo nào?
2. Đạo Thiên chúa
3. Đạo Tin lành
4. Tôn giáo khác, (ghi rõ) ..................
5. Không theo tôn giáo nào
1. Thành thạo
A.4 Khả năng nói tiếng Việt?
(ĐTV tự điền)
2. Có khó khăn
3. Không nói được
A.5 Chị học lớp mấy?
(Điền số 0 nếu không đi học; số 1 cho cấp 1 hay tiểu học; số 2 cho cấp 2 hay THCS; số 3 cho cấp 3 hay THPT; số 4 cho cao đẳng trở lên)
A.6 Chị đã mang thai mấy lần tất cả? (không nhớ ghi số 99)
A.7 Hiện chị có mấy con?
Trai
Gái
- Con thứ nhất là (đánh dấu 'X' vào một ô thích hợp)
- Con thứ 2 là (đánh dấu 'X' vào một ô thích hợp)
- Con thứ 3 là (đánh dấu 'X' vào một ô thích hợp)
- Con thứ 4 là (đánh dấu 'X' vào một ô thích hợp)
B. TIẾP CẬN THÔNG TIN
B.1 Chị đã từng nghe nói đến các chủ đề sức khoẻ nào dưới đây?
(ĐTVđọc lần lượt và đánh dấu X vào ô thích hợp)
Các chủ đề về sức khoẻ sinh sản
Có nghe nói
Chưa nghe bao giờ(**)
Cách chăm sóc phụ nữ khi có thai
Sinh đẻ và chăm sóc sau sinh
1 2
** Chuyển sang câu B3, nếu người trả lời không nêu được bất kỳ một chủ đề nào.
1. Chồng
B.2
1 2
2. Gia đình
Nếu chị đã nghe nói về các chủ đề đó thì chị đã nghe từ ai hoặc từ phương tiện nào?
3. Bạn bè/hàng xóm
c
(ĐTV đọc lần lượt, có thể đánh dấu nhiều ô)
4. Cán bộ hội (phụ nữ, nông dân, đoàn thanh niên…) 5. Nhân viên y tế
6. Cộng tác viên dân số/ y tế thôn bản
7. Thầy, cô giáo
8. Vô tuyến/radio (đài)
9. Đài truyền thanh xã
10. Sách, báo
11. Phim, ảnh, kịch
1. Có
B.3
sang câu B5a
2. Không
c c c
1. Có
B.4
Chị có biết hiện nay ai là cộng tác viên dân số hoặc nhân viên y tế thôn/bản ở địa phương mình không? Đã bao giờ chị được nghe họ nói chuyện về các vấn đề sức khoẻ sinh sản chưa?
2. Chưa
2. Không
c c c c c c c c c
2. Không
c c c
E. KHÁM THAI
1. Sốt cao kéo dài
E.1
c
2. Đau đầu
Theo chị, những dấu hiệu nào cho thấy người phụ nữ mang thai có thể đang gặp nguy hiểm?
3. Phù
4. Chảy máu ở cửa mình
c
c c c
5. Co giật
6. Đau bụng
7. Khác (ghi rõ)........................................
c c
(ĐTV không đọc, có thể đánh dấu nhiều ô - có thể hỏi còn gì nữa)
8. Không biết
c
sang câu E2a
1. Để tự khỏi
E.2
c
2. Tự chữa
c
Nếu gặp các dấu hiệu bất thường/nguy hiểm đó, chị sẽ xử lý như thế nào?
3. Mời thầy thuốc đến nhà
c
(ĐTV đọc lần lượt, có thể đánh dấu nhiều ô)
4. Đến cơ sở y tế nhà nước
c
5. Đến phòng khám tư
c
6. Đến thầy lang khám và chữa
c
7. Cúng
c
1. Một lần
E.2a Theo chị, trong khi mang
c
2. Hai lần
c
thai, người phụ nữ cần được đi khám thai ít nhất mấy lần?
3. Ba lần trở lên
c
4. Không cần
c
(ĐTV không đọc, chỉ đánh dấu vào một ô thích hợp)
5. Không biết
c
1. Một lần
E.3
c
2. Hai lần
c
Trong lần có thai vừa rồi chị đã đi khám thai mấy lần?
3. Ba lần trở lên
c
(ĐTV không đọc, chỉ đánh dấu vào một ô thích hợp)
4. Không lần nào
c
sang câu E6
5. Có đi khám, nhưng không nhớ mấy lần
c
1. Trạm y tế xã
E.4
c
Trong lần có thai đó chị đã đi khám thai ở đâu?
2. Cơ sở y tế tuyến trên (huyện, tỉnh, trung ương)
c
3. Tại nhà nhân viên y tế xã/thôn/bản
c
4. Cơ sở khám chữa bệnh tư
c
(ĐTV đọc lần lượt, có thể đánh dấu nhiều ô)
5. Thày thuốc dân tộc/thày lang/mụ vườn
c
1. Với chồng
E.5
c
Sau khi khám thai, chị đã nói kết quả khám thai với
2. Với người thân trong gia đình
c
c
ai?
3. Người khác (ghi rõ)..........................
4. Không nói với ai
c
(ĐTV không đọc, có thể đánh dấu nhiều ô)
1. Có
E.6
c
Chị có cho rằng việc khám thai là cần thiết không?
2. Không biết
c
3. Không, tại sao? (ghi rõ)................................
c
1. Một mũi
c
2. Hai mũi
c
E.6a Theo chị lần mang thai đầu tiên người phụ nữ cần tiêm phòng uốn ván ít nhất mấy mũi?
3. Khác (ghi rõ ……………………….)
c
E.7
c
1. Có tiêm tổng số mũi đã tiêm c (không nhớ ghi số 9)
Trong lần mang thai vừa rồi, chị có tiêm phòng uốn ván không?
2. Không tiêm mũi nào
c
3. Không nhớ
c
(Nếu có, ghi tổng số mũi uốn ván đã tiêm đến thời điểm điều tra)
F. SINH ĐẺ 1. Đau bụng dữ dội
c
2. Chảy nhiều máu
c
F.1 Những dấu hiệu nào cho thấy người phụ nữ trong khi chuyển dạ đang gặp nguy hiểm?
3. Sốt
c
4. Co giật
c
(ĐTV không đọc, có thể đánh dấu nhiều ô)
5. Vỡ ối sớm trước khi đẻ
c
6. Khác (ghi rõ) .................................
c
7. Không biết
c
1. Cơ sở y tế nhà nước
F.2
c
Lần vừa rồi chị sinh con ở đâu?
2. Cơ sở y tế tư nhân
c
(ĐTV đọc lần lượt, chỉ đánh dấu một ô)
3. Cơ sở y tế bán công
c
4. Tại nhà
c
c
1. Nhân viên y tế
F.3
Theo chị, ai là người đỡ đẻ tốt nhất?
2. Bà mụ vườn
c
(ĐTVđọc lần lượt, chỉ đánh dấu một ô)
3. Chồng chị
c
4. Người trong gia đình
c
5. Không cần ai
c
6. Không biết
c
1. Nhân viên y tế
F.4
c
Trong lần chị sinh con vừa qua, ai đã đỡ đẻ cho chị?
2. Bà mụ vườn
c
(ĐTV đọc lần lượt, chỉ đánh dấu một ô - người đỡ đẻ chính)
3. Chồng chị
c
sang câu F6
4. Người trong gia đình
c
sang câu F6
5. Người khác (ghi rõ)..........................
c
sang câu F6
6. Không có ai
c
sang câu F6
1. Theo dõi sức khỏe của mẹ và con
F.5 Người đỡ đẻ đã dặn dò/
c
2. Nuôi con bằng sữa mẹ
khuyên bảo chị những gì sau khi đẻ?
c
3. Tiêm chủng cho em bé
c
(ĐTV đọc lần lượt, có thể đánh dấu nhiều ô)
c
4. Nên sử dụng các biện pháp tránh thai khi có quan hệ tình dục trở lại
5. Có dặn nhưng không nhớ
c
6. Khác (ghi rõ) ....................................
c
7. Không dặn dò gì
c
c
1. Có
F.6
2. Không
Trong lần chị sinh con gần đây nhất, chồng chị có đưa chị đi đẻ không?
c
(ĐTV không đọc, chỉ đánh dấu 1 ô)
3. Không nhớ
c
4. Sinh tại nhà nên chồng không phải đưa đi
c
1. Chồng
F.7
c
2. Mẹ chồng
Trong lần chị sinh con vừa rồi, ai là người giúp đỡ chị chuẩn bị cho việc sinh đẻ?
c
3. Mẹ đẻ
c
(ĐTV không đọc, có thể đánh dấu nhiều ô)
4. Người khác, (ghi rõ).........................
c
5. Không có ai
c
1. Chảy máu kéo dài và tăng lên
c
2. Ra dịch âm đạo có mùi hôi
F.8 Chị cho biết những biểu hiện nào sau khi sinh của bà mẹ là báo hiệu nguy hiểm?
c
3. Sốt cao kéo dài
c
4. Đau bụng kéo dài và tăng lên
c
(ĐTV không đọc, có thể đánh dấu nhiều ô)
5. Co giật
c
6. Khác..............................................
c
7. Không biết
c
sang câu F10
1. Để tự khỏi
c
2. Tự chữa
F.9 Nếu một phụ nữ sau khi sinh mà gặp những dấu hiệu nguy hiểm đó thì nên làm gì?
c
3. Mời cán bộ y tế đến nhà
c
(ĐTV không đọc, có thể đánh dấu nhiều ô)
4. Đến cơ sở y tế nhà nước
c
5. Đến phòng khám tư
c
c
6. Đến thầy lang khám và chữa
7. Cúng
c
8. Khác (ghi rõ)………………………
c
9. Không biết
c
1. Càng sớm càng tốt (trong vòng 30 phút)
c
2. Từ 30 phút đến 1 giờ
F.10 Theo chị, sau khi sinh được bao lâu thì bắt đầu cho con bú?
c
(ĐTV không đọc, đánh dấu 1 ô)
3. Khác (ghi rõ ………………………)
c
4. Không biết
c
1. Trong vòng 30 phút
F.11 Trong lần sinh cháu vừa rồi,
c
2. Từ 30 phút đến 1 giờ
sau khi sinh bao lâu thì chị cho cháu bú lần đầu tiên?
c
(ĐTV không đọc, đánh dấu 1 ô)
3. Khác (ghi rõ ………………………)
c
4. Không nhớ
c
F.12 Theo chị, trẻ cần được bú sữa
1. Tháng thứ:............... cc
mẹ hoàn toàn đến tháng thứ mấy?
2. Không biết
c
F.13 Chị cho con nhỏ nhất của
1. Tháng thứ:............... cc
mình bú sữa mẹ hoàn toàn đến tháng thứ mấy?
2. Không nhớ
c
(ĐTV không đọc, đánh dấu 1 ô)
3. Đang bú sữa mẹ hoàn toàn
c
1. Lao
F.14 Chị cho biết trẻ dưới 1 tuổi cần
c
được tiêm phòng những bệnh gì?
2. Bạch hầu
c
3. Ho gà
c
(ĐTV không đọc, có thể đánh dấu nhiều ô)
4. Uốn ván
c
5. Bại Liệt
c
6. Sởi
c
7. Khác (ghi rõ ……………………….)
c
c
8. Không biết
7. Dễ bị ung thư tử cung
8. Khác (ghi rõ ………………….)
9. Không biết
c
I. Ý KIẾN VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHOẺ SINH SẢN
1. Dưới 30 phút
I.1
2. Từ 30 phút đến dưới 1 tiếng
3. Từ 1- dưới 2 tiếng
Từ nhà chị đến cơ sở y tế nhà nước gần nhất đi hết bao lâu? (bằng phương tiện thông dụng nhất)
4. Từ 2- dưới 5 tiếng
5. Trên 5 tiếng
I.2 Xin chị cho biết ý kiến về trạm y tế xã mình (Điều tra viên đọc lần lượt từng ý kiến nhận định, hỏi đúng hay không đúng, và đánh dấu 'X' vào một ô thích hợp)
Đúng
Sai
1. Cán bộ y tế luôn có mặt tại trạm y tế
2. Cán bộ y tế luôn ân cần, cởi mở
3. Người dân không phải chờ lâu
4. Trạm y tế sạch sẽ, gọn gàng
5. Có một khu vực dành riêng cho người chưa có gia đình 6. Cán bộ y tế có tay nghề vững
Không phải luôn đúng
Không biết
7. Cán bộ y tế có dành thời gian để nói chuyện với khách hàng về các vấn đề sức khoẻ 8. Mọi thông tin của người đến khám/chữa bệnh tại cơ sở y tế được giữ kín 9. Trang thiết bị y tế đầy đủ và sạch sẽ
10. Có tranh/ảnh tuyên truyền về các biện pháp tránh thai 11. Có tờ thông tin phát cho khách hàng hoặc bệnh nhân khi đến trạm y tế 12. Có các loại thuốc thông thường tại trạm y tế xã
13. Chị hài lòng về chất lượng phục vụ của TYT
I.3 Xin chị cho biết ý kiến của mình về bệnh viện huyện (nếu chưa đến sẽ không hỏi câu này).
(Điều tra viên đọc lần lượt từng ý kiến nhận định, hỏi đúng hay không đúng, và đánh dấu X vào 1 ô thích hợp)
c c c
Đúng
Sai
1. Cán bộ y tế luôn có mặt tại bệnh viện huyện
2. Cán bộ y tế luôn ân cần, cởi mở
3. Người dân không phải chờ lâu
4. Bệnh viện huyện sạch sẽ, gọn gàng
7. Cán bộ y tế có dành thời gian để nói chuyện với
5. Có một khu vực dành riêng cho người chưa có gia đình 6. Cán bộ y tế có tay nghề vững
Không phải luôn đúng
Không biết
khách hàng về các vấn đề sức khoẻ
8. Mọi thông tin của người đến khám/chữa bệnh tại cơ
sở y tế được giữ kín
9. Trang thiết bị y tế đầy đủ và sạch sẽ
10. Có tranh/ảnh tuyên truyền về các biện pháp tránh thai 11. Có tờ thông tin phát cho khách hàng hoặc bệnh
nhân khi đến bệnh viện huyện
12. Có các loại thuốc thông thường tại bệnh viện huyện 13. Chị hài lòng về chất lượng phục vụ của Bệnh viện
huyện
I.3A Xin chị cho biết ý kiến về CSYT tư nhân tại địa phương mình (nếu chưa đến sẽ không hỏi câu này)
(Điều tra viên đọc lần lượt từng ý kiến nhận định, hỏi đúng hay không đúng, và đánh dấu X vào 1 ô thích hợp)
Sai
1. Cán bộ y tế luôn có mặt tại CSYT
2. Cán bộ y tế luôn ân cần, cởi mở
3. Người dân không phải chờ lâu
4. Cơ sở y tế sạch sẽ, gọn gàng
5. Có một khu vực dành riêng cho người chưa có
Đúng Không phải luôn đúng
Không biết
gia đình
6. Cán bộ y tế có tay nghề vững
7. Cán bộ y tế có dành thời gian để nói chuyện với khách hàng về các vấn đề sức khoẻ
8. Mọi thông tin của người đến khám/chữa bệnh
tại cơ sở y tế được giữ kín
Sai
9. Trang thiết bị y tế đầy đủ và sạch sẽ
10. Có tranh/ảnh tuyên truyền về các biện pháp tránh
Đúng Không phải luôn đúng
Không biết
thai
11. Có tờ thông tin phát cho khách hàng hoặc
bệnh nhân khi đến trạm y tế
12. Có các loại thuốc thông thường tại CSYT
13. Chị hài lòng về chất lượng phục vụ tại đây
1. Được cung cấp thông tin
I.4 Theo chị, người dân có
2. Được tiếp cận tới dịch vụ chăm
quyền gì trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản?
sóc sức khoẻ và cung cấp thông tin
3. Tự do lựa chọn, từ chối hoặc
(ĐTV không đọc và tìm ý trả lời đúng, đánh dấu vào ô thích hợp)
ngừng sử dụng các biện pháp tránh thai
4. Được nhận dịch vụ an toàn
5. Được giữ bí mật
6. Có sự riêng tư
7. Được thoải mái trong khi nhận
dịch vụ
8. Được tôn trọng
9. Được tiếp tục nhận dịch vụ như
mong muốn
10. Được bày tỏ ý kiến về dịch vụ
12. Không biết
11. Khác (ghi rõ)...............................
********************************************************* Xin cảm ơn chị đã dành thời gian trả lời các câu hỏi
PHỤ LỤC II
PHỎNG VẤN BÁN CẤU TRÚC
CÁN BỘ QUẢN LÝ CHƯƠNG TRÌNH CẤP KHU VỰC VÀ CẤP TỈNH
I. THÔNG TIN CHUNG:
Họ tên người trả lời phỏng vấn: …………………………………………………….
Đơn vị công tác: ……………………………………………………………………..
Chức vụ: ……………………………………………………………………………..
Thời gian phỏng vấn: Từ …..…… đến ………… ngày ….. tháng ….. năm 2011…
Người phỏng vấn: ……………………………………………………………………
II. NỘI DUNG PHỎNG VẤN
Nội dung tham vấn
Các câu hỏi gợi ý
Chương trình can thiệp làm mẹ an toàn được triển khai từ
năm nào?
1. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
Ai/đơn vị nào xây dựng chương trình? Ai/Đơn vị nào góp
ý kiến sửa đổi bổ sung?
Vai trò của Tổ chức và cá nhân ông/bà trong quá trình xây dựng chương trình (Trực tiếp xây dựng/là người đi lấy ý kiến tham vấn của các bên liên quan/góp ý kiến sửa đổi bổ sung/được biết thông tin/không có vai trò gì)? .
2.1. Hoạt động xây dựng mạng lưới Làm mẹ an toàn của chương trình
2. QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH
Mạng lưới LMAT bao gồm các cấp quản lý/đơn vị nào? Vai trò, chức năng của từng đơn vị? (hỏi lần lượt đối với từng hệ thống)
Kế hoạch hoạt động và kế hoạch ngân sách hàng năm/quý/tháng có được xây dựng không? Nếu có, ai xây dựng/đề xuất? Ai/đơn vị nào phê duyệt? Kế hoạch này được hoàn thành bao lâu trước/sau khi năm/quý/tháng đó bắt đầu?
Các quy định về chế độ báo cáo? (định kỳ và đột xuất?
Nội dung tham vấn
Các câu hỏi gợi ý
Ai/cấp nào phải gửi báo cáo và gửi cho ai?).
Các quy định về theo dõi giám sát, hỗ trợ hoạt động? (cấp nào phải giám sát/hỗ trợ cấp nào? Tần xuất? Phương thức?). Thực tế thực hiện các quy định này?
Các quy định về quản lý tài chính (Báo cáo, kiểm toán?).
Thực tế thực hiện các quy định này? Phụ cấp/trợ cấp cho các bên tham gia? Đánh giá năng lực tổ chức, quản lý của các bên liên
quan?
Những điểm chưa hợp lý trong công tác quản lý, tổ chức mạng lưới LMAT hiện nay? Cần làm gì/có thay đổi gì để mạng lưới hoạt động hiệu quả hơn?
Những thuận lợi/khó khăn trong việc xây dựng, quản lý
mạng lưới LMAT?
2.2. Hoạt động biên tập, sản xuất các tài liệu chuyên môn, tài liệu đào tạo và tuyên truyền mẫu sử dụng trong các hoạt động chuyên môn, đào tạo, tuyên truyền
Quá trình biên tập (Ai/đơn vị nào biên tập, sản xuất? Ai/đơn vị nào tư vấn kỹ thuật? Tài liệu được chỉnh sửa bao nhiêu lần trước khi phát hành?)
Các dạng tài liệu (sách, tờ rơi, áp phích, tranh ảnh)? Màu sắc (in màu, đen trắng)? Chất liệu giấy in? Cỡ chữ (to, nhỏ…)?
Có bao nhiêu dạng tài liệu khác nhau cho mỗi đối tượng (cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ tuyên truyền ở từng cấp? người dân)?
Đánh giá của ông/bà về chất lượng/số lượng tài liệu chuyên môn, tài liệu đào tạo và tuyên truyền? Năng lực của nhóm cán bộ biên soạn tài liệu? Cần làm gì/thay đổi như thế nào để hoàn thiện hơn?
2.3. Hoạt động đào tạo kỹ thuật, chuyên môn về LMAT
Có bao nhiêu khóa tập huấn kỹ thuật, chuyên môn cơ bản/nâng cao do cơ quan ông/bà tổ chức/năm? Tập huấn viên được lựa chọn như thế nào? (chỉ định/đấu thầu…?) Học viên được lựa chọn như thế nào? (bệnh viện tuyến tỉnh chỉ định hay học viên tự đăng ký?)
Số lượng học viên/khóa? (Số lượng học viên như vậy có
phù hợp/quá nhiều/ít)?
Thời điểm tập huấn? (khóa tập huấn được tổ chức khi
Nội dung tham vấn
Các câu hỏi gợi ý
nào? Tại sao lại chọn thời điểm đó? Thời điểm có phù hợp không? cần thay đổi như thế nào?)
Thời lượng tập huấn? (Mỗi khóa tập huấn trong bao nhiêu ngày? Thời lượng tập huấn như vậy có phù hợp/quá nhiều/quá ít? Cần thay đổi như thế nào?)
Địa điểm tập huấn (khóa tập huấn được tổ chức ở đâu? Tại sao lựa chọn địa điểm đó? Địa điểm có thuận tiện cho học viên/giảng viên? Nếu không phù hợp, nên tổ chức tập huấn ở đâu?)
Phương pháp tập huấn (tập huấn theo phương pháp có sự
tham gia/thuyết trình?)
o Học viên có được thực hành không? Thời gian thực hành/thời gian học lý thuyết chiếm bao nhiêu % tổng thời gian tập huấn?);
o Học viên có được đánh giá năng lực và nhu cầu trước khóa tập huấn hay không? Nếu có, đánh giá như thế nào?
o Học viên có được đánh giá sau khóa tập huấn
không? Đánh giá bằng cách nào?
o Có cần thay đổi phương pháp tập huấn không?
Nếu có, thay đổi như thế nào?
Tài liệu/học liệu tập huấn
o Kế hoạch bài giảng do ai/đơn vị nào biên soạn?
Ai/đơn vị nào phê duyệt?
o Học viên được cung cấp những tài liệu/học liệu gì? (Sách/CD, VCD, DVD/tờ rơi/poster/dụng cụ thực hành?).
o Đánh giá của ông/bà về số lượng/chất lượng tài liệu/học liệu của các khóa tập huấn? Nếu có điểm nào chưa hoàn thiện, cần thay đổi như thế nào?
Các hỗ trợ về mặt tài chính cho tập huấn viên (phí tư vấn/ngày? Mức phí tư vấn như vậy có thỏa đáng không?) Các hỗ trợ về mặt tài chính/hành chính cho học viên?
(Ăn/ở/đi lại…)
Đánh giá của ông/bà về năng lực của tập huấn viên/giảng
viên?
o Về chuyên môn (Kỹ năng chuyên môn, khám,
tư vấn)?
o Về kỹ năng sư phạm (xây dựng kế hoạch bài giảng, biên soạn tài liệu tập huấn, truyền đạt,
Nội dung tham vấn
Các câu hỏi gợi ý
hướng dẫn thực hành)? Đánh giá của ông/bà về năng lực của học viên?
o Về khả năng tiếp thu/áp dụng chuyên môn? o Về kỹ năng sư phạm (học viên có thể tập huấn lại những kiến thức, kỹ năng được tập huấn cho người khác không?)
Các hoạt động hỗ trợ sau tập huấn? (tập huấn nâng cao, trả lời qua email, điện thoại, trực tiếp hỗ trợ trong quá trình học viên triển khai hoạt động thực tế)
2.4. Hoạt động tuyên truyền về LMAT
Đào tạo cán bộ truyền thông (Hỏi tương tự như đào tạo,
tập huấn cán bộ kỹ thuật ở mục 2.3)
Tài liệu truyền thông: Nếu chưa phỏng vấn về tài liệu truyền thông trong phần hoạt động biên soạn tài liệu, hỏi lại tương tự như mục 2.2 cho tài liệu truyền thông.
Các hình thức truyền thông được áp dụng? (hội thảo, hội nghị, xây dựng các phóng sự/chuyên đề phát sóng trên đài phát thanh truyền hình, các bài viết trên báo chí…) Đánh giá của ông/bà về khả năng tiếp cận của các bên
liên quan tới các chương trình truyền thông?
Đánh giá của ông/bà về năng lực của cán bộ truyền thông
các cấp?
Những khó khăn trong công tác truyền thông và giải
pháp đề xuất?
2.5. Hoạt độngkhám phát hiện, xử trí những trường hợp thai nguy cơ cao, thai bệnh lý
Những thuận lợi/khó khăn trong việc khám phát hiện, điều trị thai nguy cơ tại bệnh viện khu vực? (về trình độ, trang thiết bị, số lượng bệnh nhân có quá lớn so với số lượng bác sỹ/máy móc)
Đối với các trường hợp phát hiện thai nguy cơ, bệnh lý , quá trình tư vấn/hỗ trợ điều trị thai được thực hiện như thế nào? Có khó khăn/thuận lợi gì? Giải pháp?
2.6. Hoạt động cung cấp trang thiết bị
Những trang thiết bị được cung cấp cho các cấp (khu
vực/tỉnh/huyện/xã)?
Đánh giá của ông/bà về chất lượng, số lượng của các
trang thiết bị cho từng cấp?
3. KHẢ NĂNG
Trước khi chương trình được triển khai, trong khu vực có
Nội dung tham vấn
Các câu hỏi gợi ý
dự án, chương trình… nào hoạt động với mục đích tương tự không?
NHÂN RỘNG VÀ TÍNH BỀN VỮNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH
Trước khi triển khai chương trình, hoạt động tuyên truyền chăm sóc trước, trong và sau sinh trên địa bàn có được thực hiện không? Những thai phụ nào thường thực hiện (đối tượng, khu vực), những thai phụ nào không thực hiện?
Theo ông/bà, tại sao chương trình được triển khai trên địa bàn? Lý do lựa chọn các tỉnh đã thí điểm? Lý do không lựa chọn các tỉnh còn lại? (đặc điểm kinh tế, xã hội, tôn giáo, phong tục tập quán, thực trạng … trên địa bàn)
Ông/bà đánh giá như thế nào về khả năng duy trì hoạt động chương trình LMAT khi không còn nguồn kinh phí hỗ trợ từ đề án? (cấp nào/khu vực nào có thể duy trì? cấp nào/khu vực nào không thể duy trì? Tại sao? Giải pháp?) Nếu quay lại thời điểm chương trình bắt đầu được xây dựng/triển khai, theo ông bà, cần thực hiện những thay đổi gì để chương trình đạt được kết quả tốt hơn và tại sao?
Ông/bà có góp ý gì cho đề án giai đoạn II (về hoạt động,
tổ chức…)
Những ý kiến khác của ông/bà về chương trình LMAT?
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà!