ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LÊ THỊ THANH XUÂN
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000 - 2015
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Huế, 2020
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LÊ THỊ THANH XUÂN
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000 - 2015
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS Hồ Thế Hà
Huế, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận án được thực hiện tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Thế Hà.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tư liệu trong
luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu khoa học nào.
Tác giả luận án
Lê Thị Thanh Xuân
LL??ii CC??mm ?? nn
Để hoàn thành luận án này, tôi xin gửi lời câm ơn chân thành và
såu sắc đến:
- PGS.TS Hồ Thế Hà, người thæy đã tận tình hướng dẫn cho
tôi trong quá trình viết và hoàn thiện luận án.
- Khoa Ngữ văn, Tổ bộ môn Văn học Việt Nam; Phòng Đào täo
Sau Đäi học Trường Đäi học Khoa học Huế và các thæy cô đã trực
tiếp giâng däy, giúp đỡ và täo mọi điều kiện tốt nhçt để tôi hoàn thành
luận án.
- Gia đình, bän bè, đồng nghiệp vì đã täo mọi điều về vật chçt và
tinh thæn, giúp tôi hoàn thành khóa học và luận án đúng thời gian.
Huế, tháng 03 năm 2020 NNgghhiiêênn cc??uu ssiinnhh LLêê TThh?? TThhaannhh XXuuâânn
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 2
3. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................ 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4
5. Đóng góp của luận án .................................................................................. 5
6. Bố cục luận án .............................................................................................. 5
NỘI DUNG ............................................................................................................ 7
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................. 7
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới ................... 7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền ở Việt Nam .................. 13
1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền .............................................. 7
1.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn phê bình
1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 2000 ......................................................... 20
1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 2000 ............................................................ 23
văn học nữ quyền ........................................................................................... 19
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu ....................................................... 28
1.3.2. Hướng triển khai của đề tài ............................................................ 30
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hƣớng triển khai đề tài ................. 28
Tiểu kết ............................................................................................................ 32
Chƣơng 2. LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN
VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ........................ 33
2.1.1. Vấn đề nữ quyền - nguồn gốc và khái niệm .................................. 33
2.1.2. Sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền và sự phát triển của quyền phụ nữ .. 36
2.1. Vấn đề nữ quyền và sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền ....................... 33
2.2.1. Lý thuyết nữ quyền ........................................................................ 39
2.2.2. Phê bình văn học nữ quyền ............................................................ 43
2.2. Lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền ............................ 39
2.3.1. Ý thức nữ quyền trong văn học truyền thống ................................ 48
2.3.2. Ý thức nữ quyền trong văn học hiện đại ........................................ 55
2.3. Ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam ............................................ 48
Tiểu kết ............................................................................................................ 62
Chƣơng 3. CÁC KIỂU NHÂN VẬT NỮ MANG ĐẶC TRƢNG GIỚI
TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000 - 2015 TỪ GÓC NHÌN
PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN ................................................................ 63
3.1.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống ............................... 64
3.1.2. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền tự do .............................. 67
3.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do .......... 63
3.2.1. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ ................................................. 71
3.2.2. Nhân vật nữ với khát vọng tình yêu ............................................... 74
3.2. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ và khát vọng tình yêu .................. 71
3.3.1. Nhân vật nữ với bản năng tính dục ................................................ 79
3.3.2. Nhân vật nữ với nhu cầu giải phóng tính dục ................................ 84
3.3. Nhân vật nữ với bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục . 79
3.4.1. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái............................................... 90
3.4.2. Nhân vật nữ với ý thức giải phóng bản thân .................................. 94
3.4. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái và ý thức giải phóng bản thân ... 90
Tiểu kết .......................................................................................................... 103
Chƣơng 4. PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT
NAM 2000 - 2015 TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN .. 104
4.1.1. Điểm nhìn bên trong..................................................................... 104
4.1.2. Điểm nhìn bên ngoài .................................................................... 109
4.1. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................ 104
4.2.1. Giọng xót xa, thương cảm ............................................................ 113
4.2.2. Giọng triết luận, chiêm nghiệm.................................................... 117
4.2.3. Giọng hài hước, châm biếm ......................................................... 122
4.2. Giọng điệu nghệ thuật .......................................................................... 113
4.3.1. Diễn ngôn tự thuật ........................................................................ 126
4.3.2. Diễn ngôn thân phận .................................................................... 129
4.3.3. Diễn ngôn thân thể ....................................................................... 133
4.3. Diễn ngôn mang ý thức giới ................................................................. 126
Tiểu kết .......................................................................................................... 135
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 137
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ........................ 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 142
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong trào đấu tranh nữ quyền đã xuất hiện từ lâu trong đời sống xã hội và
trong văn học. Cuộc đấu tranh giành lại vị thế đã mất để tạo dựng lại sự bình
đẳng và vị thế mới của nữ giới, dần về sau được các nhà nữ quyền luận đúc kết
lại thành lý thuyết nữ quyền và cuối cùng người ta gọi là nữ quyền luận hay chủ
nghĩa nữ quyền (feminism). Phong trào này xuất phát từ ý thức về bản thân của
giới nữ, được manh nha vào thời kỳ Khai sáng và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ
thế kỷ XIX đến nay. Gắn liền với những đổi thay to lớn ấy, âm hưởng nữ quyền
đã ngấm sâu vào văn học, tạo thành thế giới hình tượng và diễn ngôn giới mới
mẻ trong văn chương hiện đại và hậu hiện đại. Về sau, để đi sâu nghiên cứu văn
học, các nhà lý luận hình thành phương pháp riêng, gọi là phê bình văn học nữ
quyền với hệ thống lý thuyết cụ thể riêng.
Sự thay đổi liên tục của truyện ngắn nói riêng và trong văn học nói chung
góp phần dẫn đến tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam diễn ra một cách mạnh
mẽ, nhất là giai đoạn từ sau đổi mới 1986 đến nay. Đây là thời điểm quan trọng,
có tính chất tiền đề để các thể loại văn học phát triển vững chắc. Cùng với tiểu
thuyết, truyện ngắn cũng bắt đầu được “ươm mầm” để tạo thành những mảnh đất
màu mỡ cho mùa vụ bội thu về sau, trong đó, có thành tựu của các nhà văn nữ với
những phong cách, cá tính sáng tạo riêng như: Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Dạ Ngân,
Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu, Phạm Thị Hoài, Võ
Thị Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Bùi Như Lan, Trần Thùy Mai, Thùy Dương…
Họ đã đem đến cho văn đàn sự cách tân mới mẻ, được độc giả ái mộ. Nhiều nhà
văn nam giới cũng lên tiếng ủng hộ và thừa nhận nhà văn nữ là chủ thể tư duy, chủ
thể trải nghiệm và chủ thể thẩm mỹ có địa vị quan trọng thông qua những tác
phẩm xuất sắc của họ. Như vậy, văn học Việt Nam hiện đại ngày càng phát triển
và đạt thành quả mạnh mẽ một phần nhờ vào vai trò của các nhà văn nữ với tiếng
nói dân chủ, đấu tranh cho quyền bình đẳng giới một cách hiệu quả. Có thể nói
rằng, truyện ngắn nữ đã có bước tiến “chậm mà chắc” trong quá trình cùng phát
1
triển của nhiều thể loại văn học đương đại hiện nay ở nước ta.
Nếu như giai đoạn 1986 trở về trước, các nhà văn nam đóng vai trò chủ yếu
về thể loại truyện ngắn thì sau đổi mới, truyện ngắn nữ đã dần chiếm địa vị đáng
kể trên văn đàn, tạo nên tiếng vang với những tác phẩm giàu thiên tính nữ, xuất
phát từ bản thân nữ giới, đặc biệt là có sự cộng hưởng thành tựu từ phê bình văn
học nữ quyền.
Phê bình văn học nữ quyền có xuất phát điểm từ phương Tây. Các nhà văn
Việt Nam, ít nhiều đều có chịu ảnh hưởng từ lý thuyết nữ quyền và phê bình văn
học nữ quyền nên đã để lại dấu ấn “quyền lực giới” trong những tác phẩm của
mình ngày càng sâu sắc.
Nghiên cứu về lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền đã được
nhiều người chọn làm đề tài nghiên cứu của mình ở từng tác giả, tác phẩm, nhưng
để vận dụng phê bình văn học nữ quyền trong truyện ngắn nữ hiện đại Việt Nam thì
vẫn còn ít và chưa có những đề tài tính chuyên sâu. Để hoàn thành luận án, chúng
tôi chú trọng phân tích các tác phẩm về nữ quyền dựa trên nền tảng lý thuyết phê
bình văn học nữ quyền của phương Tây khi áp dụng vào truyện ngắn nữ Việt Nam
để tìm hiểu những đặc thù riêng về tâm lý, văn hóa dân tộc thông qua hình tượng và
diễn ngôn tác phẩm. Đặc biệt, chúng tôi nhấn mạnh mốc thời gian 2000 – 2015 như
là một điểm nhấn trong luận án, bởi mốc 15 năm đầu thế kỷ, truyện ngắn có nhiều
thành tựu nổi bật. Truyện ngắn nữ góp phần thúc đẩy nền văn học Việt Nam trong
quá trình “đổi mới”, trong đó, có sự đổi mới về hình tượng nhân vật nữ từ góc nhìn
hiện đại, đương đại và từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền. Chính vì vậy, chúng
tôi chọn Truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những tác phẩm truyện ngắn nữ giai
đoạn 2000 - 2015 thể hiện nhu cầu và sự tự nhận thức về giới và nữ quyền sâu sắc,
đa dạng với vẻ đẹp và lối viết nữ mang bản sắc riêng. Cụ thể là những tác phẩm
2
tiêu biểu của các tác giả như: Lê Minh Khuê, Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban, Võ Thị
Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu, Mai Thy, Lê
Thị Hoài Nam, Ngân Hoa, Quế Hương, Đỗ Bích Thúy, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi
Như Lan, Nguyễn Thị Anh Thư...
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện Luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích những bình
diện nổi bật thuộc nội dung và hình thức truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt
Nam tiêu biểu giai đoạn 2000 - 2015 để chỉ ra những đặc điểm nổi bật mang yếu
tố phái tính và âm hưởng nữ quyền ở từng tác phẩm. Để có cái nhìn liền mạch và
tiếp nối, chúng tôi có mở rộng so sánh trong chừng mực với các truyện ngắn nữ
Việt Nam trước năm 2000 và sau năm 2015 để thấy sự cách tân và vị thế của
truyện ngắn nữ trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Vì điều kiện giới
hạn về tư liệu, nên những truyện ngắn nữ Việt Nam hải ngoại giai đoạn này không
được chúng tôi chọn để nghiên cứu trong luận án.
3. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Hướng tiếp cận
Hướng tiếp cận của luận án là vận dụng lý thuyết phê bình văn học nữ
quyền, soi rọi vào truyện ngắn nữ Việt Nam tiêu biểu giai đoạn 2000 - 2015 để
tìm ra giá trị nhân văn và giá trị thẩm mỹ ẩn chứa bên trong ngôn từ, hình tượng
tạo thành tư tưởng nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
Từ đó, luận án hướng tới giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất: Từ việc nắm vững lý thuyết cơ bản của phê bình văn học nữ
quyền, luận án chỉ ra được những hiệu quả về mặt nội dung và nghệ thuật biểu
hiện của truyện ngắn nữ hiện đại Việt Nam 2000 - 2015.
Thứ hai: Luận án đi sâu nghiên cứu đề tài trong sự liên hệ đa dạng với các
hình thái ý thức xã hội, đặc biệt là chính trị, lịch sử, xã hội học, mỹ học... để làm
rõ đặc trưng và bản chất của chủ nghĩa nữ quyền được thể hiện trong văn học. Từ
đó, có thể thấy được nét đẹp thẩm mỹ và nhân văn trong đời sống thông qua hình
3
tượng nhân vật nữ trong tác phẩm với những đặc điểm giới tính đa dạng: dịu dàng,
lãng mạn nhưng cũng đầy cá tính, phóng khoáng. Đó là nét đẹp hồn hậu của người
phụ nữ Việt Nam: chân thành, sâu sắc, thủy chung với thiên chức làm vợ, làm mẹ;
và thể hiện quyền được sống, quyền được yêu và được hạnh phúc.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
Từ hướng tiếp cận Phê bình văn học nữ quyền, để triển khai đề tài,
chúng tôi vận dụng các lý thuyết nghiên cứu hỗ trợ như phân tâm học, tự sự
học, phê bình nữ quyền sinh thái để cộng hưởng giải mã truyện ngắn nữ Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2015. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp
chuyên ngành sau:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: đây là phương pháp có tính xuyên suốt
trong toàn bộ luận án để phân tích và so sánh, chỉ ra tinh thần và âm hưởng nữ
quyền trong ý thức nghệ thuật của từng tác giả và tác phẩm tiêu biểu.
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: đây là phương pháp đặc biệt có ý nghĩa
trong việc mô hình hóa và hệ thống hóa các quan điểm về nữ quyền trong truyện
ngắn nữ Việt Nam từ trung đại cho đến hiện đại.
- Phương pháp loại hình: đây là phương pháp cơ bản để xác định được đặc
trưng của lối viết nữ, cá tính sáng tạo của một số cây bút nữ tiêu biểu thông qua
đặc trưng truyện ngắn - thể loại có nhiều yếu tố tích hợp nghệ thuật mới mẻ của
thời hiện đại.
- Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng lý thuyết Thi pháp học làm phương
pháp hỗ trợ để nghiên cứu các yếu tố nổi trội của nội dung và hình thức, hai bình
diện tạo nên chỉnh thể tự trị của truyện ngắn nữ Việt Nam giai đoạn này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm bản chất về nội dung và hình thức tác phẩm phản ánh
ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền mạnh mẽ nhất mà các nhà văn nữ đã ý
thức thể hiện qua từng quan hệ và bước ngoặt chuyển mình của đời sống xã hội.
- Nghiên cứu đặc điểm của lối viết nữ khi thể hiện các chủ đề giới và nội
dung giới trong nhiều mối quan hệ bản chất và tương tác để làm thành đặc sắc và
4
thi pháp riêng của truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Kế thừa nền tảng lý thuyết nữ quyền/ phê bình văn học nữ quyền, luận án
đi sâu nghiên cứu về lối viết nữ thông qua đặc trưng thể loại. Từ đó, xác lập vị
thế, đóng góp nổi bật của từng nhà văn nữ trong việc thể hiện ý thức phái tính và
âm hưởng nữ quyền hiện đại của truyện ngắn nữ giai đoạn 2000 – 2015.
- Bên cạnh đó, luận án còn so sánh, đối chiếu, phân tích âm hưởng nữ quyền,
làm rõ sự khác biệt cũng như những đóng góp của truyện ngắn nữ đương đại
2000 – 2015 so với truyện ngắn nữ giai đoạn trước năm 2000 và sau năm 2015.
5. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau đây:
- Hệ thống và lý giải một cách có cơ sở những vấn đề về nữ quyền trong
văn hóa và văn học, đặc biệt là trong truyện ngắn nữ Việt Nam giai đoạn 2000 –
2015. Từ đó, luận án khẳng định ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong
văn học đương đại là một bước tiến/ hệ quả tất yếu của xu hướng bình đẳng hóa,
dân chủ hóa trong xã hội và trong văn học mà các nhà văn nữ đã ý thức sâu sắc
và thể hiện rất có hiệu quả trong sáng tạo.
- Đề tài nghiên cứu thực tiễn sáng tác truyện ngắn của các nhà văn nữ, đặc
biệt là trong giai đoạn từ 2000 - 2015 để thấy được sự cách tân trong việc thể
hiện nội dung và hình thức tác phẩm. Qua đó, chỉ ra những đóng góp nổi bật của
các nhà văn nữ Việt Nam trong việc phát huy và phát triển dòng văn học nữ
quyền đã hiện diện từ trước đến nay.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án được
chia thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ở chương này, chúng tôi sẽ đi sâu vào tình hình nghiên cứ lý thuyết nữ
quyền ở thế giới và ở Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi còn tổng thuật, làm sáng rõ
về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ
5
quyền từ trước đến nay qua các giai đoạn, qua đó, khẳng định những thành tựu
và hạn chế của các công trình đi trước. Từ đó, đề xuất những hướng nghiên cứu
mới và hướng nghiên cứu bổ sung cho luận án của chúng tôi, chủ yếu ở hướng
tiếp cận phê bình văn học nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền sinh thái.
Chương 2: Lý thuyết nữ quyền, Phê bình văn học nữ quyền và ý thức nữ
quyền trong văn học Việt Nam
Ở chương này, chúng tôi quan tâm và đi sâu tìm hiểu lý thuyết nữ quyền và
phê bình văn học nữ quyền, đặc biệt là sự gắn bó mật thiết của phê bình văn học
nữ quyền với truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Trong đó, cần làm rõ vấn đề nữ
quyền, nguồn gốc và khái niệm; sự xuất hiện của chủ nghĩa nữ quyền và sự phát
triển của quyền lực nữ quyền; lịch sử phát triển của chủ nghĩa nữ quyền đồng
thời, làm rõ bản chất của lý thuyết giới, lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học
nữ quyền. Sau cùng là tìm hiểu khái quát sự thể hiện ý thức nữ quyền trong văn
học Việt Nam từ truyền thống cho đến hiện đại.
Chương 3: Các kiểu nhân vật nữ mang đặc trưng giới trong truyện ngắn nữ
Việt Nam 2000 - 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền
Trong chương này, chúng tôi trình bày hệ thống thế giới nhân vật đa dạng,
phong phú đầy “thiên tính nữ” đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ ý thức
phái tính trong văn học hiện đại Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền. Đó là nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do; thiên
tính làm mẹ và khát vọng tình yêu; bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính
dục; khát vọng giải phóng bản thân cùng mối liên hệ với môi trường sinh thái.
Chương 4: Phương thức nghệ thuật của truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 -
2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền
Ở chương này, chúng tôi đi sâu phân tích về giọng điệu nghệ thuật; điểm nhìn
trần thuật; diễn ngôn nghệ thuật có liên quan đến nữ quyền trong các truyện ngắn
tiêu biểu của các tác giả nữ Việt Nam 2000 - 2015. Từ đó, khẳng định lối viết nữ
cùng phương thức nghệ thuật trần thuật đã và đang chiếm một vị trí đặc biệt quan
6
trọng trong việc cách tân thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại và đương đại.
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới
Nghiên cứu về lý thuyết nữ quyền là nghiên cứu về sự đấu tranh để đạt
được quyền bình đẳng giới trên tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội và
tinh thần. Nói một cách khác: “Lý thuyết nữ quyền tập trung phân tích sự bất
bình đẳng giới. Chủ đề khám phá trong phong trào nữ quyền bao gồm phân biệt
đối xử, áp bức, chế độ phụ hệ, rập khuôn, lịch sử nghệ thuật và nghệ thuật đương
đại, và thẩm mỹ” [115].
Ở phương Tây, ngoài những tác phẩm viết về nữ quyền nổi tiếng như Giới
thứ hai (1949) của Simone de Beauvoir, Một căn phòng riêng của Virginia
Woolf (1929), Sự xác minh về các quyền của phụ nữ (A Vindication of the Right
of Women, 1792) của Marie Wollstonerast, Cuốn sổ tay vàng (The Golden
Notebook, 1979) của Doris Lesing, thì còn phải kể đến học thuyết Phân tâm học
của Sigmund Freud và Phân tâm học cấu trúc của Jacques Lacan. Freud với
“mặc cảm Oedipus” đã phân định ra đặc trưng trong tính cách nam và nữ: nam
giới chủ động và chiếm hữu còn nữ giới thì bị động, lệ thuộc.
Có thể nói, Marie Wollstonerast đã mở ra một chương mới với lý thuyết nữ
quyền trong cuốn Sự xác minh về các quyền phụ nữ năm 1972 bao gồm các
nghiên cứu sau: “Phụ nữ đang thay đổi”, “Không phải tôi là một phụ nữ”,
“Speech sau khi bắt giữ bất hợp pháp cho quyền biểu quyết”. Còn Nancy Cott
thì tuyên truyền cho quyền bầu cử của phụ nữ vào năm 1920. Và như vậy, người
phụ nữ trong xã hội đã được tôn trọng và đóng vai trò như một thực thể với các
quyền lợi về chính trị như nam giới. Tác giả Jean Baker Miller thì nổi tiếng với
tâm lý học nữ quyền. Bà xem lý thuyết nữ quyền luôn gắn với tâm lý người phụ
7
nữ, nó quyết định mọi hành động sau này.
Ở Mỹ, cuốn A handbook of Critical Approaches to Literature (1979) (Sổ
tay về các phương pháp phê bình văn học) của tác giả Wilfried L. Guerin, Earle
Larbor, Morgan do nhà xuất bản Oxford ấn hành giúp người đọc hiểu về các
khuynh hướng phê bình nữ quyền cụ thể và sâu sắc.
Tác phẩm The New Feminist Criticism (1985) (Lý thuyết phê bình nữ quyền
mới) của Elaine Showalter với hơn 300 bài tiểu luận và nghiên cứu có giá trị về phê
bình nữ quyền ở Mỹ được đánh giá cao. Theo tác giả, nghiên cứu lý thuyết nữ quyền
bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau như “phê bình nữ quyền”, “lý thuyết giới”...
Nhà nghiên cứu Robert Con Davis với Contemporary Literary Criticism (Phê
bình văn học đương đại) với phần “Biện chứng giới” về nữ quyền được phân tích một
cách sâu sắc. Cuốn Feminism and Autobiography (Nữ quyền và tự truyện) do Tess
Cosslett, Celia Lury và Penny Summerfield biên soạn, được xuất bản năm 2000 tại
Anh, Mỹ và Canada là công trình nghiên cứu về nữ quyền sâu sắc, có giá trị.
Đối với phê bình nữ quyền thì chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) ra đời là hệ
quả tất yếu của phong trào cách mạng tư sản cận đại, có bề dày phát triển hơn hai
trăm năm. Một số phong trào về nữ quyền có sức ảnh hưởng lan tỏa rộng lớn đến
khắp thế giới. Tiêu biểu, khi Đại cách mạng tư sản Pháp bùng nổ, vào tháng 10
năm 1789, một nhóm phụ nữ xông thẳng vào trụ sở Quốc dân đại hội, đòi quyền
nam nữ bình đẳng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đa số các nước đều xác
nhận nam nữ bình quyền trong Hiến pháp. Chủ nghĩa nữ quyền giai đoạn này có
ảnh hưởng to lớn đến văn học. Tiêu biểu, năm 1964, nữ tác gia người Anh Mary
Astell với tác phẩm Một đề nghị nghiêm túc cho quý bà. Năm 1970, nữ tác gia
Pháp Olympe de Gouges đã phát biểu Tuyên ngôn quyền lợi phụ nữ bao gồm 17
điều yêu cầu của giới phụ nữ. Đến năm 1792, nữ kịch tác gia người Anh Mary
Wollstonecraft viết công trình Biện hộ cho nữ quyền. Năm 1872, nhà văn Pháp
Alexandre Dumas công bố luận văn Bàn về phụ nữ với những nội dung mới mẻ,
cập nhật. Bên cạnh đó là những công trình có giá trị khác: Judith Sargent Murray
với tiểu luận Bàn về sự bình đẳng giới năm 1790; Virginia Woolf với Căn phòng
8
riêng (1929), Ba đồng ghi nê (1938)...
Chủ nghĩa nữ quyền chỉ thực sự trở nên có sức lan tỏa mạnh mẽ thông qua
tác phẩm “kiệt xuất” của nữ văn sĩ người Pháp Simone de Beauvoir: Giới thứ hai
(1949). Trong tác phẩm của mình, Beauvoir chỉ trích gay gắt nền văn hóa phụ hệ
đã đẩy người phụ nữ ra ngoài lề của xã hội cũng như của văn học nghệ thuật. Và
trong tư tưởng của nền văn hóa ấy, nam giới luôn gắn liền với nhân loại, lịch sử,
còn phụ nữ thì bị nhìn nhận như một “kẻ khác” (the Other), luôn ở thế bị động,
phụ thuộc, phải dựa hoàn toàn vào nam giới. Với nội dung phân tích sự áp bức
và yêu cầu cao hơn nữa để giải phóng phụ nữ trong đời sống xã hội, Giới thứ hai
đóng vai trò quan trọng thúc đẩy phong trào phụ nữ chuyển sang một bước tiến
mới. Nhờ vậy, Liên hiệp quốc đã tuyên bố năm 1975 là Năm quốc tế phụ nữ. Với
tiêu đề công trình của mình, bà không dùng Giới nữ mà lại dùng Giới thứ hai.
Theo bà, Giới nữ gắn liền với những quan niệm tất yếu của xã hội: đó là mềm
yếu, dễ thuyết phục... và đó là sản phẩm của xã hội và văn hóa, của thế giới đàn
ông cố tạo nên quy chuẩn ngầm cho phụ nữ. Simone de Beauvoir phải dùng Giới
thứ hai để giảm nhẹ thiên kiến của xã hội gán ghép cho giới nữ. Do đó, bà kêu
gọi các văn sĩ hãy dùng sức mạnh ngôn từ đấu tranh chống lại sự khống chế của
nam giới, của định kiến xã hội, chứ không chịu an phận trong những ngôn từ quy
thuận của mình.
Giới thứ hai được xem là một “bản tuyên ngôn nữ quyền” của giới nữ, vốn
không được xem trọng trong xã hội thời bấy giờ. Nội dung của tác phẩm nói về
những vấn đề mà phụ nữ bị áp bức, kìm hãm lâu dài dẫn đến trở thành giới ít
quan trọng hơn (giới thứ hai) so với nam giới (giới thứ nhất). Đối với Beauvoir,
trong Giới thứ hai, bà xem phụ nữ như là tha nhân và giới đóng vai trò quan
trọng trong xã hội. Bên cạnh đó, bà đã khám phá ra được thân phận phụ nữ,
người phụ nữ có một vai trò bất di bất dịch trong xã hội chính là “tha nhân” của
đàn ông. Từ đó, tạo nên một quan hệ bất bình đẳng (phụ nữ bị áp bức một cách
phổ biến) và cần phải giải quyết sự bất công trong quan hệ đó.
Cái hay của Beauvoir trong Giới thứ hai là bà vận dụng nhiều kiến thức về
9
triết học, sinh học, thần thoại học, nhân loại học, lịch sử, phân tâm học để chứng
minh cho luận điểm của mình. Ví như, khi bàn luận về sinh học và lịch sử, bà chỉ
ra phụ nữ phải trải qua một số hiện tượng đặc thù như kinh nguyệt, thai nghén,
cho con bú. Điều này khiến cho phụ nữ khác biệt so với nam giới.
Nói tóm lại, Simone de Beauvoir được xem là người đi tiên phong, đặt nền
móng đầu tiên cho phong trào nữ quyền mới, mở ra một hướng đi tiến bộ cho
công cuộc giải phóng phụ nữ mà không hề lặp lại các phương pháp đấu tranh
truyền thống đã có trong quá khứ.
Hưởng ứng tinh thần của Beauvoir, hàng loạt bài viết về đấu tranh giành
quyền bình đẳng cho nữ giới ra đời, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của phong
trào phê bình nữ quyền. Các nhà văn nữ kêu gọi, thúc đẩy chủ trương “lấy thân
phận của phụ nữ để đọc”, khi đó tác phẩm văn học mới hạn chế được những
thiên kiến về nam quyền.
Tác giả Elaine Showalter, nhà phê bình văn học nữ quyền người Mỹ là người
đưa ra khái niệm “phê bình phụ nữ” vào những năm cuối thập niên 70. Theo bà,
khái niệm phê bình nữ quyền bao gồm nhiều yếu tố như lịch sử, thể loại, phong
cách, cấu trúc, tư tưởng… có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối viết nữ. Bà đã phân chia
lịch sử lối viết nữ thành 3 giai đoạn cơ bản ứng với 3 thời kỳ phát triển ý thức hệ
đặc trưng của nữ giới. Đó là:
1. Giai đoạn tính nữ: đây là giai đoạn các tác giả nữ bị ảnh hưởng bởi văn học
truyền thống của nền sáng tác nam quyền từ năm 1840 đến năm 1880.
2. Giai đoạn nữ quyền: là giai đoạn các nhà văn nữ đứng lên đấu tranh
mạnh mẽ cho giới của mình, đồng thời thể hiện tiếng nói phản kháng những giá
trị truyền thống văn chương của nam giới từ năm 1880 đến năm 1920.
3. Giai đoạn văn học nữ: là giai đoạn giới nữ thể hiện những đặc trưng riêng
về lối viết, chống lại sự phụ thuộc nam giới và hình thành nên nền văn học nữ.
Đây là thời kỳ văn học quan tâm đến cuộc đời và số phận của nhân vật nữ để thấy
rõ vai trò của giới nữ từ lâu đã bị xem thường và lãng quên. Giai đoạn này kéo dài
từ năm 1920 trở về sau. Như vậy, phê bình văn học nữ quyền chính là sự công
nhận và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người phụ nữ đáng được hưởng.
Ở phương Đông, tiêu biểu là Nhật Bản, những nghiên cứu về nữ quyền vẫn
10
còn hạn chế dưới thời Minh Trị Duy Tân. Người phụ nữ Nhật rất chiều chuộng,
nhường nhịn phái nam. Tiêu biểu người vợ khi đón chồng về thường bắt đầu
bằng câu: “Anh muốn ăn tối ngay hay đi tắm trước?”. Như vậy, ngay cả trong
quan hệ gia đình, người phụ nữ cũng phải dùng kính ngữ, luôn hạ thấp mình
xuống một bậc so với đàn ông, người trụ cột trong gia đình. Người phụ nữ Nhật
Bản được xem là cam chịu, luôn ứng xử theo “tam tòng, tứ đức”, họ phải luôn
phục tùng đàn ông dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Theo Nguyễn Nam Trân, nhà nghiên cứu và dịch giả văn học Nhật Bản, trong
bản thảo biên khảo Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, chương "Khi văn học Nhật
Bản nhìn ra thế giới" thì: "Từ năm Showa 50 (1975) trở đi, trong bầu không khí của
phong trào tìm cách nới rộng quyền sống phụ nữ, các nhà văn phái nữ đã có những
hoạt động đáng kể. Đó là dòng văn học tranh đấu cho nữ quyền (women rights), hay
mạnh mẽ hơn nữa, thiên trọng phụ nữ (feminism)." [92, tr. 318]. Tiêu biểu là các
nhà văn như Kono Taeko: "từ chối mẫu tính", đào sâu chủ đề "thế giới của những
dục vọng thầm kín và lệch lạc của con người", hay Tsushima Yuko: "hình ảnh
người đàn bà đơn độc nuôi con"...
Tuy vậy, có vẻ những tiếng nói ấy cũng chỉ là những lời ta thán về thân
phận người phụ nữ, kiểu "Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng
là lời chung" (Truyện Kiều - Nguyễn Du), hay táo tợn lắm cũng chỉ là những lời
phản kháng đối với xã hội còn dung dưỡng duy trì những bất công về phái tính,
tạo ra những bi kịch, thảm kịch của phụ nữ. Những ta thán, phản kháng như thế
vẫn tiếp tục xuất hiện bàng bạc, không nhiều thì ít, trong tác phẩm của các nhà
văn phái nữ Nhật Bản thời nay.
Văn học Nhật Bản từng có dòng văn học nữ tính từ thời trung đại (thế kỉ
XI, thời Heian/ Bình an) cho đến thế kỉ XIII thì lắng xuống, mãi đến thế kỉ XIX
dưới thời đại Minh Trị mới trỗi dậy. Nhiều nhà văn nữ đóng góp đáng kể thành
tựu của mình cho nền văn học hiện đại và đương đại Nhật. Sono Avako, nữ tác
giả nổi tiếng với tác phẩm Người khách từ phương xa (1954). Trong đó, Sono
miêu tả nhân vật thiếu nữ 19 tuổi tỏ thái độ khinh thường những tên lính Mỹ
11
ngang tàng v.v..
Ở Trung Quốc, do ảnh hưởng Nho giáo nên người phụ nữ cũng bị áp chế
bởi những chế độ, định kiến xã hội rất hà khắc. Hiểu rõ hoàn cảnh ấy, những nhà
văn nữ trước Cách mạng Văn hóa như Đinh Linh, Băng Tâm… đã viết những tác
phẩm về nữ quyền, tạo ra được tiếng vang mạnh mẽ trong lịch sử văn học Trung
Quốc nhưng mới chỉ phát triển thành những xu hướng nhỏ lẻ. Theo nhà nghiên
cứu văn học Trung Quốc Tưu Tư Khiêm thì khái niệm “văn học nữ tính” là trào
lưu văn học ra đời từ sau phong trào văn hóa mới Ngũ Tứ, lấy nữ tính làm chủ
thể ngôn từ, chủ thể trải nghiệm, chủ thể tư duy, chủ thể thẩm mỹ. Hiện nay, văn
học nữ Trung Quốc đương đại với nhiều trào lưu như “Tiểu thuyết nữ tính chủ
nghĩa” (các nhà văn nữ ở lứa tuổi trung niên) và dòng văn học “linglei” (dòng
văn học nữ đầy phá cách, khác biệt so với dòng văn học chính thống) với những
nhà văn trẻ “bảo chứng” cho sự thành công của tác phẩm như: Xuân Thụ,
Trương Duyệt Nhiên, Trịnh Tiểu Quỳnh, Lý Sỏa Sỏa, nhà văn mạng Tào Đình…
Hầu hết các nhà văn đã thể hiện sự đa dạng, cách tân về thể loại như lồng vào tác
phẩm yếu tố tự truyện, đề tài tính dục, hình tượng người phụ nữ ở thành thị và
nông thôn với bút pháp tự do, phóng khoáng giúp cho các tác phẩm của họ mang
“hơi thở thời đại”, tạo cảm giác gần gũi với người đọc.
Cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc cũng là nơi bị ảnh hưởng nặng nề bởi Nho
giáo, nam giới vẫn đóng vai trò trụ cột và nắm giữ các vị trí quyền lực trong xã
hội, còn phụ nữ thì luôn bị xem thường, đối xử bất công. Cuối năm 1990 là thời
kỳ khủng hoảng kinh tế châu Á, nhiều người đàn ông bị mất việc. Người phụ nữ
đã dần độc lập, tự chủ về kinh tế, không còn lệ thuộc vào đàn ông. Đây cũng
chính là giai đoạn mà quyền bình đẳng giữa hai giới được nhấn mạnh, không
phân biệt giới tính, có quyền cống hiến và làm việc như nhau. Làn sóng nữ
quyền có thể nói đã trỗi dậy và tạo được tiếng vang, hiệu ứng mạnh mẽ nhất ở
Hàn Quốc là thông qua phim ảnh, băng hình, quảng cáo... Giới showbiz Hàn đã
có nhiều bộ phim tuyên truyền, ủng hộ cho bình đẳng giới. Những nhân vật nữ
không còn quá yếu đuối, nhu mì mà thay vào đó là những cô gái nghèo khó
12
nhưng mạnh mẽ, cá tính, luôn mang trong mình ước mơ, hoài bão vượt lên số
phận, thành công trong cuộc sống. Ở Hàn Quốc, tư tưởng trọng nam khinh nữ
vẫn còn tồn tại rất lớn, hầu như mọi công việc từ lớn đến nhỏ như dọn dẹp nhà
cửa, nội trợ, đưa đón, chăm sóc con cái, chăm sóc gia đình… đều do một tay
người phụ nữ quán xuyến, lo liệu. Người đàn ông về đến nhà chỉ việc đọc báo,
xem tivi hoặc chơi với con. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng về giới, trong khi
cả hai giới đều làm việc, nhưng xem ra người phụ nữ xứ sở kim chi phải chịu vất
vả và nhiều thiệt thòi hơn đàn ông.
Tóm lại, tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới đã có những
bước phát triển đáng ghi nhận cùng nhiều tác phẩm viết về phê bình nữ quyền có
giá trị, làm nền tảng cho những công trình nghiên cứu về lý thuyết cũng như
công tác lý luận, phê bình về giới sau này ở Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu nữ quyền cũng diễn ra khá sớm, nhất là từ những
năm đầu thế kỷ XX.
Năm 1907 trên Đăng cổ tùng báo đã có mục “Nhời đàn bà” xuất hiện như
một diễn đàn của phụ nữ. Bà Đào Thị Loan, trong chuyên mục này, đã lên tiếng
về sự bất công trong hành xử của nam giới đối với phụ nữ. Cụ thể, bà cho rằng:
“Làm đàn ông phải ăn ở thế nào, cho đàn bà biết suy hơn quản thiệt, mà trọng
mình thì mới xướng (sướng), chớ cứ dốt (nhốt) vợ một só (xó) nhà, hơi lạc con
mắt đã lo nghĩ, là người hèn, chỉ muốn dùng sự trói buộc, mà thủ lấy tình riêng
một mình” [101].
Năm 1916, trên Trung Bắc Tân Văn trong mục “Nhời đàn bà”, Nguyễn Văn
Vĩnh cho rằng việc coi thường phụ nữ của người đàn ông Việt Nam là tự làm thiệt
mình bởi người phụ nữ được sinh ra để làm bạn, cùng chia sẻ công việc chứ không
phải làm “thân trâu ngựa”. Cũng trong năm 1916, Phạm Quỳnh cũng đánh giá cao
người phụ nữ trong gia đình với bài “Sự giáo dục đàn bà con gái” trên Đông
Dương tạp chí. Ông cho rằng phụ nữ bị đánh giá thấp bởi không có học thức, đó
13
chính là sự thiệt thòi của nữ giới, từ đó sinh ra các hệ quả khác trong xã hội.
Người quan tâm và thường xuyên viết về các vấn đề giải phóng phụ nữ, đó
chính là nhà báo Phan Khôi (1887 - 1959). Ông ủng hộ tinh thần giải phóng phụ
nữ thông qua một loạt bài như “Về văn học của phụ nữ Việt Nam” (Phụ nữ Tân
Văn số 1, ngày 2/5/1929), “Văn học với nữ tánh” (Phụ nữ Tân Văn số 2,
9/5/1929), “Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thạnh” (Phụ nữ Tân
Văn số 3, 16/5/1929)... Trong bài “Tống Nho với phụ nữ” in trên Phụ nữ tân văn
(1931), ông kêu gọi sự bình đẳng cho giới nữ trong hôn nhân, gia đình: “Cái luật
cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì
cho phong hóa, nên phế trừ đi là phải” [57].
Bên cạnh đó, đấu tranh vì những bình đẳng về giới đã được các danh sĩ, các
nhà trí thức yêu nước thời đó đặc biệt quan tâm, trong đó có Phan Bội Châu với
Vấn đề phụ nữ được in ở Nxb Duy Tân thư xã, Huế (1929) đã chỉ ra những bất
bình đẳng của phụ nữ suy cho cùng là do nguyên nhân lịch sử - xã hội. Cũng
trong thời điểm đó, những vấn đề về phụ nữ của một số tác giả tiếp thu lý thuyết
tiên tiến từ phương Tây được quan tâm như: Trần Thiện Ty và Bùi Thế Phúc với
khuynh hướng phê bình nữ quyền “Âu hóa” trong Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam
(1932); Vấn đề phụ nữ của Nguyễn Thị Kim Anh (Nguyễn Thị Minh Khai), Nhà
xuất bản Tân Dân (1938); Bộ sách Đời chị em và Chị em gái làm gì của Cựu
Kim Sơn và Văn Huệ, Nxb Dân chúng (1938)... Nhìn chung, những bài viết trên
đều lên tiếng bảo vệ quyền phụ nữ, chỉ ra nguyên nhân của sự bất bình đẳng giới,
tuy rằng quan niệm của họ còn nằm trong phạm trù cũ, chưa thật sự mang tinh
thần nữ quyền hiện đại như sau này của các nhà nữ quyền hiện đại, cấp tiến.
Giai đoạn 1945 - 1975, cả nước bước vào hai cuộc chiến tranh thần thánh
của dân tộc: kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã định hình rõ hai miền
Nam Bắc. Chính vì thế, công tác nghiên cứu lý thuyết và phê bình nữ quyền đã
có sự khác nhau ở hai miền: miền Bắc thường gắn liền đời sống hiện thực và
cách mạng còn đối với miền Nam thì đó chính là phê bình về văn xuôi đô thị,
14
gắn với đời sống thực dụng của xã hội tiêu dùng lúc bấy giờ.
Sau năm 1986, văn học giai đoạn Đổi mới đã chứng kiến những bước phát
triển “nhảy vọt” trong công tác nghiên cứu, phê bình về lý thuyết nữ quyền được
tiếp thu có chọn lọc từ phương Tây và vận dụng linh hoạt vào công tác phê bình
ở Việt Nam. Có thể thấy rằng, số lượng các tác giả với những công trình nghiên
cứu chuyên sâu và có chất lượng được “trẻ hóa”, không ngừng gia tăng về số
lượng và chất lượng từ sau năm 2000. Có thể kể đến một số tác giả đã thể hiện
những góc nhìn tham chiếu khác nhau trên nhiều lĩnh vực như về vấn đề nữ
quyền trong hôn nhân, gia đình. Tiêu biểu là tác giả Lê Ngọc Văn với “Nghiên
cứu gia đình - Lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới” (2005) được in bởi Viện
Khoa học xã hội nhân văn đã giới thiệu lịch sử hình thành tư tưởng nữ quyền,
một số quan điểm cơ bản, ứng dụng lý thuyết mới, lý thuyết nữ quyền... Tác giả
Hoàng Bá Thịnh trong tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới số 4 (2008) với bài
viết “Về các làn sóng nữ quyền và ảnh hưởng của nữ quyền đến địa vị của phụ
nữ Việt Nam” đã đi sâu phân tích về các làn sóng nữ quyền và địa vị của phụ nữ
Việt Nam hiện nay trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Tác giả khẳng
định: “Địa vị của người phụ nữ - dù trong xã hội truyền thống hay trong xã hội
hiện đại - đều chịu tác động của các yếu tố cơ bản như: chính trị, kinh tế, văn
hóa, tôn giáo. Tùy thuộc những yếu tố này phát triển như thế nào mà người phụ
nữ ở các nước khác nhau có được địa vị cao hay thấp trong đời sống gia đình và
xã hội” [119]. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các phong trào nữ quyền chính là
một phần, chứ không phải duy nhất quyết định mọi vấn đề về bình đẳng giới và
giải phóng phụ nữ ở Việt Nam. Yếu tố cốt lõi quyết định bình đẳng giới đó là
các chính sách, đường lối của Đảng về giới.
Tác giả Nguyễn Đăng Điệp với bài nghiên cứu nổi tiếng: “Vấn đề phái tính
và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại” (2006) đi sâu vào
một vấn đề phức tạp: vấn đề giới tính bởi nó có liên quan đến ý thức, chính trị,
tôn giáo trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Những yếu tố theo tác giả có ảnh
hưởng trực tiếp đến âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại:
15
ngôn ngữ có yếu tố nữ tính với những câu chuyện đời thường gần gũi, góc nhìn
cá nhân, đề tài tính dục và “lối viết bản năng”, “lối viết thân thể” thể hiện sự
“xông pha” của nữ giới trước những đề tài “nóng”, “cấm kỵ” nhất…
Ngoài ra, một cây bút phê bình văn học nữ quyền với tuổi đời còn trẻ đã đi
sâu phân tích ý thức nữ quyền trong đầu thế kỷ XX, một giai đoạn quan trọng
trong tiến trình phê bình về giới: tác giả Hồ Khánh Vân với bài nghiên cứu đáng
chú ý như: “Ý thức nữ quyền và sự phát triển của văn học nữ Nam Bộ trong tiến
trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX” (Tạp chí Nghiên cứu văn học,
tháng 7/2010). Theo tác giả, ý thức nữ quyền đã có sự manh nha từ đầu thế kỷ
XX, phụ nữ chính là đối tượng trung tâm và trọng yếu mà văn học hướng đến bởi
phụ nữ chính là đối tượng và phương thức sáng tác. Nữ tính và văn chương có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau trên nhiều phương diện, đặc biệt được thể hiện
rõ trong văn học. Đáng chú ý, bài viết đã thể hiện rõ những đặc trưn, diện mạo văn
học nữ Nam Bộ giai đoạn đầu thế kỷ XX đầy sôi nổi với các cây bút nữ trên nhiều
mặt trận văn học lẫn thi ca như Phan Thị Bạch Vân, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Nguyễn
Thị Manh Manh… Các tác giả nữ đã tạo nên một trào lưu văn học đầy mới mẻ,
thúc đẩy sự phát triển của các thể loại văn học mới, góp thêm tiếng nói về giới
trong quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học. Ngoài ra, tác giả Hồ Khánh Vân
còn có những bài nghiên cứu đáng chú ý khác như: “Từ quan niệm lối viết nữ
(L’ecriture féminine) đến việc xác lập một phương pháp nghiên cứu trong phê
bình nữ quyền” - Niên giám Bình luận văn học 2011 - Tạp chí Đại học Sài Gòn;
“Một vài lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ
Việt Nam từ năm 1990 đến nay” - Niên giám Bình luận văn học 2012 - Tạp chí
Đại học Sài Gòn… Cả hai bài viết này đều đề cập đến sức hấp dẫn của lối viết nữ
và hiện tượng tự thuật, đã dần trở nên phổ biến trong những sáng tác của nữ giới.
Đối với trào lưu văn học hậu hiện đại, văn học Việt Nam hiện nay đã có sự
cách tân, chọn lọc trong việc tiếp thu nền tảng lý thuyết hậu hiện đại từ phương
Tây, đặc biệt là về phê bình nữ quyền. Tác giả Phương Lựu với công trình Lý
thuyết văn học hậu hiện đại xuất bản năm 2011, đã chỉ ra những tiền đề, sự phát
16
triển của lý thuyết và phê bình nữ quyền, đặc biệt là phê bình nữ quyền da đen.
Tác giả Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Việt Phương với bài viết “Lý thuyết đạo
đức về sự quan tâm - một điển hình của cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức
học”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, 2011 cho rằng hướng tiếp cận nghiên cứu
nữ quyền thông qua lý thuyết đạo đức là một hướng đi mới ở phương Tây nửa sau
thế kỷ XX. Đó chính là lý thuyết đạo đức của sự quan tâm (ethics of care) mà các
tác giả đã đưa vào trong công trình nghiên cứu của mình. Từ sự nghiên cứu các
công trình nữ quyền về đạo đức, người viết đã chỉ ra được sự khác biệt trong việc
tiếp nhận lý thuyết đạo đức có sự khác biệt giữa hai phái. Vấn đề đạo đức được nữ
giới quan tâm và chú trọng hơn trong khi xu hướng bạo lực gia đình, cưỡng bức
tình dục, hôn nhân bất bình đẳng lại nghiêng về nam giới nhiều hơn. Khái niệm về
“sự quan tâm” bao gồm cả những vấn đề về tình cảm và nhận thức, nữ giới vẫn có
những đặc tính và những giá trị vượt trội riêng biệt. Nghiên cứu về lý thuyết đạo
đức là một hướng đi đúng đắn và phù hợp bởi “Lý thuyết này không chỉ đòi hỏi sự
bình đẳng cho nữ giới trong cấu trúc xã hội, mà xa hơn đòi hỏi một sự nhìn nhận
đúng đắn hơn, công bằng hơn và nhân văn hơn từ phía nam giới về những trải
nghiệm đặc trưng của nữ giới, để từ đó có thể khám phá những giá trị phong phú,
tầm quan trọng và ý nghĩa đạo đức của sự quan tâm” [44].
Tác giả Nguyễn Thị Bình với “Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương
đại”, tạp chí Nghiên cứu văn học, 2011; tác giả Phan Tuấn Anh với Quá trình
giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật từ góc nhìn mỹ học tính dục.
Cả hai bài viết của Nguyễn Thị Bình và Phan Tuấn Anh đều nghiên cứu chuyên
sâu về yếu tố thiên tính nữ và yếu tố tính dục trong văn học.
Tác giả Đặng Thị Vân Chi với “Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX”, được in trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam lần thứ nhất (2012). Bài
viết đã chỉ ra được những vấn đề cốt yếu, trọng tâm làm nền tảng của sự xuất
hiện tư tưởng nữ quyền ở Việt Nam cùng sự phát triển nhận thức của người phụ
nữ Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thông qua bài viết, tác giả đã đúc kết được những
kết luận có giá trị. Thứ nhất, vấn đề phụ nữ ở Việt Nam là một vấn đề được lưu
tâm từ những năm đầu thế kỷ XX chứng tỏ vai trò quan trọng của người phụ nữ
17
trong gia đình và xã hội. Thứ hai, vấn đề phụ nữ ở Việt Nam, vấn đề nữ quyền
luôn gắn với vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp. Thứ ba, nữ giới đã sớm nhận thức
được vai trò của mình thông qua sự xuất hiện của những tờ báo dành riêng cho
giới của mình. Thứ tư, quá trình tự nhận thức của người phụ nữ đã dẫn đến
những biến chuyển tích cực về các phong trào đòi quyền bình đẳng, giải phóng
phụ nữ, giải phóng dân tộc lúc bấy giờ.
Tác giả Bùi Thị Tỉnh với sách tham khảo Phụ nữ và giới đã đi sâu phân tích
về chủ nghĩa hiện sinh, đi tìm ngọn nguồn về giới trong lịch sử, những sự khác
biệt mang tính huyền thoại về giới. Trong hầu hết các trang viết trong sách tham
khảo của mình, tác giả Bùi Thị Tỉnh đều nhắc đến vai trò của giới, các cuộc cách
mạng về giới và chủ nghĩa giới chính là luân lý của chủ nghĩa hiện sinh, sự gắn
bó mật thiết của chủ nghĩa hiện sinh đối với những mục tiêu của sự giải phóng
phụ nữ. Simone de Beauvoir chính là đại diện tiêu biểu của luân lý hiện sinh, là
người mở đầu cho luân lý hiện đại về giới và nữ quyền. Chính luân lý về sự lo âu
đã làm nền tảng hướng tới tự do và con người phải được tự do. Ngoài ra, các vấn
đề về tự do, tính độc đáo của “Cái tôi” nhân vị (“cái tôi” độc đáo, độc lập, không
lặp lại bất kỳ ai) cũng chính là những yếu tố cơ bản để giải phóng phụ nữ. Như
vậy, Phụ nữ và giới chính là một tài liệu tham khảo về giới, bình đẳng giới và
giải phóng phụ nữ đầy tính trọn vẹn và hiệu quả. Một công trình nghiên cứu xuất
hiện trong thời gian gần đây cũng đã tạo tiếng vang: Nữ quyền luận ở Pháp và
tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại (2016) của Trần Huyền Sâm. Đây là một
công trình nghiên cứu về nữ quyền luận tương đối chi tiết, công phu từ tiểu
thuyết - một thể loại được thể hiện tương đối toàn diện, đa dạng các sắc thái nữ
quyền nhìn từ phương diện diễn ngôn và các dạng thức trần thuật. Tính chất tự
thuật được nghiên cứu sâu trong công trình như là một hình thức giải phóng cái
tôi nữ giới. Trong đó, có thể thấy được rằng diễn ngôn thân thể là một phạm trù
thuộc về nữ quyền, cần có hướng nghiên cứu chuyên sâu hơn từ sự gợi mở của
công trình này.
Ngoài những công trình nghiên cứu về phê bình lý thuyết nữ quyền còn có
18
một số luận án, luận văn văn học có liên quan đến vấn đề ý thức về giới như:
Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua
sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu (Nguyễn Thị Thanh Xuân, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội, 2013); Nhân vật nữ trong tác phẩm của Ernest
Hemingway từ góc độ nữ quyền luận (Lê Lâm, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Hà
Nội, 2015); Ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay
(qua một số trường hợp tiêu biểu) (Nguyễn Thị Hưởng, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Hà Nội, 2016); Ý thức nữ quyền trong văn xuôi Võ Thị Xuân Hà (Dương
Mai Liên, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đà Nẵng, 2004); Âm hưởng nữ quyền
trong truyện ngắn các nhà văn nữ thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thị Oanh, Luận văn
Thạc sĩ Ngữ văn, Vinh, 2007); Vấn đề bình đẳng giới trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 (qua tuyển tập truyện ngắn 1975 - 1995) (Lê Thị Thúy Hằng,
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đà Nẵng, 2017)…
Nhìn chung, các luận án, luận văn này đều có chung mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu vấn đề phái tính và nữ quyền trong văn xuôi nữ Việt Nam hiện đại ở
các cấp độ bản chất thuộc nội dung và hình thức của tác phẩm. Từ đó, chỉ ra nhu
cầu thể hiện cái tôi cá nhân nữ giới một cách dân chủ, mạnh mẽ thông qua các
mối quan hệ nhân sinh khác nhau. Điều đó xuất phát từ ý thức của toàn nữ giới
trong đó, có ý thức của các tác giả nữ hiện đại.
Như vậy, có thể thấy rằng, với những công trình nghiên cứu có chất lượng
và số lượng về lý thuyết giới/ lý thuyết nữ quyền, các tác giả đã đưa bạn đọc đến
một hướng tiếp cận về phê bình nữ quyền đầy đa dạng, hiệu quả và sáng tạo.
Đây chính là một hướng đi mới của nghiên cứu và tiếp nhận văn học từ phê bình
văn học nữ quyền.
1.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn phê bình
văn học nữ quyền
Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền
hiện nay đang trở thành một hướng đi đầy mới lạ, hấp dẫn. Bởi lẽ, học thuyết nữ
quyền không chỉ ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều bộ môn, nhiều lĩnh vực khác
19
nhau của cuộc sống mà nó còn chi phối đến đời sống của phê bình văn học, đến
mỗi cá nhân thưởng thức văn học. Văn học Việt Nam đã có sự cách tân và đổi
mới toàn diện từ sau năm 1986. Sự tiếp nhận và phát triển học thuyết nữ quyền
dựa trên nền tảng lý thuyết có sẵn đã giúp cho các tác giả nữ có cơ hội vận dụng
linh hoạt vào trong đời sống sáng tạo và phê bình. Họ là những người tiên phong
đi đầu cho phong trào nữ quyền trong văn học và đã tạo được những tiếng vang
mạnh mẽ với những nội dung được đề cập rất gần gũi, bình dị nhưng lại mang
những giá trị nhân văn sâu sắc. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến: Y Ban
với I’am đàn bà, Đỗ Hoàng Diệu với Bóng đè, Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng
bất tận, Nguyễn Thị Thu Huệ với Minu xinh đẹp, Võ Thị Hảo với Bàn tay lạnh...
và nhiều tác phẩm tiêu biểu của nhiều tác giả thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Tất
cả đã làm nên những sắc thái đa dạng về thiên tính nữ trong văn chương, tạo nên
những hiệu ứng nghệ thuật đặc sắc, mới lạ.
1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 2000
So với tiểu thuyết, truyện ngắn được ưa chuộng bởi tính ngắn gọn, hàm súc,
đại chúng. Và với địa hạt này, các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình cũng bắt đầu
vào cuộc với những bài phê bình sắc sảo từ thành công của truyện ngắn. Như
vậy, so với các thể loại văn học khác thì truyện ngắn đương đại Việt Nam đã có
“bứt phá” mạnh mẽ, đã dần khẳng định được vai trò và sức hút của mình đối với
độc giả. Không còn những đề tài xưa cũ, phổ quát như đề tài chiến tranh mà thay
vào đó, văn học đi sâu vào hiện thực đa dạng, phản ánh những nỗi đau hậu chiến,
những vấn đề mang tính nhân sinh, con người và số phận cá nhân trong thời kỳ
đó. Vấn đề hạnh phúc của con người, những trăn trở, khao khát về tình yêu được
đặt lên hàng đầu. Yếu tố nữ quyền được lồng ghép vào tác phẩm tuy chỉ mang tính
chất “manh nha”, nhưng đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả. Đi
sâu vào những góc khuất trong tâm hồn con người nên những vấn đề “vụn vặt”,
đời thường của cuộc sống cũng được các nhà văn nữ khai thác có hiệu quả.
Về tình hình nghiên cứu, trong giai đoạn 1945 - 1975, các nhà nghiên cứu và
phê bình cho rằng văn chương đô thị miền Nam có những bước khởi sắc, đặc biệt
20
là văn xuôi mang sắc thái nữ tính, hiện đại của các nhà văn nữ. Tiêu biểu là tác giả
Nguyễn Văn Sâm với những công trình nghiên cứu như Văn chương tranh đấu
miền Nam (1969) và Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945 - 1950
(1972) đã chỉ ra sự tranh đấu của những người dân quê và đặc biệt là nghiên cứu
các tác giả với “sứ mệnh giai đoạn của phụ nữ ý thức” gắn với sự trưởng thành
trong tư tưởng của người phụ nữ miền Nam Việt Nam.
Ngoài ra, còn có những tác giả với những công trình nghiên cứu chính về
văn xuôi đô thị miền Nam tạo được những dấu ấn nhất định như: Doãn Quốc Sỹ
với cuốn Đồ biểu văn xuôi Việt Nam (1973) đã thống kê và nhận định các cây
bút nữ tuy chiếm số lượng hạn chế nhưng đã từng bước tạo nên tiếng vang ở mỗi
tác phẩm được đầu tư chỉnh chu, sáng tạo. Các tác phẩm đều thể hiện nỗi niềm
của người phụ nữ về mái ấm hạnh phúc, gia đình. Đôi khi là khao khát đầy mạnh
mẽ, dục tính vừa hồn nhiên vừa từng trải đầy “chất đàn bà”. Cuộc sống hiện sinh
của họ được các nhà văn nữ thể hiện đa dạng theo từng mối quan hệ với từng
không gian, thời gian cụ thể của xã hội miền Nam tạm chiếm lúc bấy giờ.
Tác giả Võ Phiến với cuốn Tổng quan văn học miền Nam (1986) đã thể hiện
rõ bước tiến trong hệ ý thức nữ đầy hiện đại, cá tính trong văn xuôi đô thị miền
Nam. Mỗi một tác giả nữ định hình một phong cách riêng đầy màu sắc và cung
bậc: Nhã Ca với tiếng nói đầy tự do, phóng khoáng, độc lập; Trùng Dương đầy
tính hiện sinh và triết lý; Nguyễn Thị Thụy Vũ và Túy Hồng bạo dạn, táo bạo
trong ngôn ngữ tả và ngôn ngữ kể về thân thể người phụ nữ cũng như yếu tố tính
dục; Nguyễn Thị Hoàng đầy nổi loạn và có sức hút với những đề tài tình yêu “cấm
kỵ” theo sự vận dụng những phức cảm phân tâm học của S. Freud, …
Ở miền Bắc, trong giai đoạn trước năm 2000, tình hình nghiên cứu truyện
ngắn nữ từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền ít được các nhà phê bình quan tâm
vì lý thuyết này chưa du nhập vào Việt Nam. Phê bình truyện ngắn nữ giai đoạn
này chủ yếu được nhìn nhận và đánh giá từ góc nhìn xã hội học nhiều hơn, đặt
truyện ngắn nữ trong mối quan hệ với lịch sử, xã hội và nhiệm vụ cách mạng để
nói lên vai trò, nghĩa vụ và sự đóng góp của người nữ vào công cuộc chiến đấu
21
giành độc lập của dân tộc. Phương pháp phê bình hiện thực xã hội chủ nghĩa
chiếm địa vị quan trong trong nghiên cứu văn học giai đoạn này. Hơn nữa, các
nhà văn nữ trong hai cuộc kháng chiến ở miền Bắc trước năm 2000 cũng không
nhiều. Tác phẩm của họ được các nhà lý luận và phê bình văn học gộp nghiên
cứu thành diện mạo và phong trào chung. Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy có một
số bài nghiên cứu chung và riêng về sáng tác của các nhà văn nữ ở miền Bắc
giả Nguyên Ngọc với bài viết “Đôi nét về tư duy văn học mới đang hình
thành” in trên Tạp chí Văn học, số 4 đã nhận định văn học về giới nữ cùng
các yếu tố về thiên tính nữ, các đặc điểm trong cá tính, điều kiện cá nhân,
phong cách sáng tạo riêng biệt ở mỗi cây bút nữ đã tạo thành một tổng thể đầy
màu sắc trong việc đổi mới tư duy văn học hiện đại Việt Nam. Năm 1995, tác
giả Hà Minh Đức có bài viết “Những tác giả nữ trong nền văn xuôi cách
mạng” trong cuốn sách Truyện ngắn của các tác giả nữ (tuyển chọn 1945 –
1975) đã đánh giá văn học giai đoạn nữ từ sau năm 1975 “hứa hẹn” sẽ có
nhiều bước phát triển khởi sắc bên cạnh các cây bút nữ mới nổi, đông đảo về
số lượng và chất lượng ở miền Bắc. Năm 1996, tác giả Bùi Việt Thắng trong
cuốn sách 50 năm văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đã đánh
giá những bước đi, quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam từ
sau Cách mạng tháng Tám có những thay đổi, sáng tạo tích cực. Góp phần
thành công không nhỏ chính là các cây bút nữ hậu chiến với những tác phẩm
mang đậm dấu ấn nhân sinh. Đặc biệt, năm 1999, tác giả Bùi Việt Thắng
trong cuốn sách Bình luận truyện ngắn đã dày công nghiên cứu với rất nhiều
bài viết về truyện ngắn nữ, yếu tố nữ tính trong văn học cũng như sự đối
thoại, độc thoại về giới nữ của chính các cây bút nữ. Điều đó giúp cho độc giả
dường như tiếp cận gần hơn với văn học giới mà truyện ngắn nữ về sau thể
hiện ngày càng rõ nét và đa sắc thái.
trước năm 2000 thu hút sự chú ý của độc giả như sau: Tiêu biểu năm 1990, tác
Tóm lại, tình hình nghiên cứu về truyện ngắn nữ từ góc nhìn phê bình văn
học nữ quyền trước năm 2000 không nhiều và chủ yếu tập trung vào các nhà
22
văn xuôi nữ ở đô thị miền Nam, nhưng cũng đã thể hiện mốc phát triển khởi đầu
đầy ấn tượng, cụ thể trong tiến trình phê bình văn học và hiện đại hóa văn học
Việt Nam. Đồng thời, là cơ sở để các tác giả nữ thể hiện đậm nét ý thức nữ
quyền trong từng sáng tác của mình giai đoạn sau khi hoàn cảnh và các mối quan
hệ thuận lợi giữa người nữ và xã hội xuất hiện trong cuộc sống thời bình.
1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 2000
Chuyển sang giai đoạn hòa bình, đặc biệt là từ thời kỳ Đổi mới (1986), tình
hình nghiên cứu, phê bình văn học nữ quyền đã có sự khởi sắc. Các nhà phê bình
có ý thức đi sâu nghiên cứu truyện ngắn nữ từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền. Từ đầu thế kỷ XXI cho đến nay, xuất hiện nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu về văn xuôi hậu chiến cũng như phê bình nữ quyền cuối thế kỷ XX
như là một xu thế đổi mới tất yếu của nước nhà với sự vận động, phát triển theo
thể loại, tư duy mới của văn học. Tiêu biểu là nhà văn Nguyên Ngọc với bài viết
“Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, đôi nét về tư duy
văn học mới đang hình thành”, Hồ Thế Hà với cách tiếp cận truyện ngắn từ góc
độ phân tâm học: “Hướng tiếp cận phân tâm học trong truyện ngắn Việt Nam
sau 1975”; Hỏa Diệu Thúy với bài “Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam sau
1975 qua những cách tân về hình thức”; Nguyễn Thị Bình với cuốn Văn xuôi
Việt Nam sau 1975, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội (2012). Đặc biệt,
phê bình nữ quyền về truyện ngắn sau năm 1975 đã có những bước phát triển
đầu tiên với các bài viết được đầu tư chuyên sâu như: Phạm Thị Thu Hiền với “Ý
thức phái tính trong sáng tác văn xuôi nữ từ sau năm 1975”, Đại học Đà Nẵng
(2012); Thái Phan Vàng Anh với “Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn
từ diễn ngôn giới”, Hội thảo Khoa học quốc gia “Thế hệ nhà văn sau 1975” (Đại
học Văn hóa, Hà Nội, 2016)… Có thể thấy rằng, các bài viết của các tác giả đã
đi sâu vào mảng truyện ngắn/ văn xuôi dành cho nữ giới và đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể. Điều đó chứng minh được rằng, sức hút về giới tính và vẻ đẹp
về giới không chỉ được thể hiện trong đời sống thường nhật mà nó còn có sức
“lan tỏa” mạnh mẽ trong các áng văn thơ. Văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau
1975 không chỉ thể hiện những biến thiên của lịch sử, xã hội mà còn kể những
23
câu chuyện gắn liền đời sống người phụ nữ vô cùng bình dị, đời thường và gần
gũi. Ở bất kỳ mảng nào, truyện ngắn, tiểu thuyết hay tản văn thì các tác giả đều
có cách cảm nhận hết sức tinh tế và sâu sắc về thời cuộc, về cuộc sống với những
trải nghiệm khác nhau của người phụ nữ trước những thăng trầm của cuộc sống.
Nghiên cứu ý thức nữ quyền từ năm 1980 trong sự đối sánh với văn học
Trung Quốc, có thể kể đến bài viết phê bình văn học nữ quyền chuyên sâu và có
giá trị của tác giả Hồ Khánh Vân: “Ý thức về địa vị “giới thứ hai” trong một số
sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1980 đến
nay” (số tháng 4 năm 2015, Tạp chí Nghiên cứu văn học). Bài viết thể hiện được
vai trò và tầm quan trọng của người phụ nữ, ý thức về giới trong cả văn xuôi Việt
Nam và Trung Quốc. Ý thức về giới thể hiện sự đa sắc thái trong việc đánh giá,
nhìn nhận hà khắc của xã hội và ngay chính trong con người bản thể của “giới thứ
hai”. Đó chính là sự đấu tranh mạnh mẽ cho vấn đề bình đẳng giới dù sâu thẳm
tâm hồn họ vẫn còn những “rào cản” tâm lý bởi họ “vừa phơi bày, vừa phản kháng
những quan niệm và cách thức hành xử mang lại sự bất bình đẳng giới trong xã
hội, mặt khác, họ bị ám ảnh bởi những mặc cảm tự ti về giới của mình và khao
khát vượt thoát, cởi trói mình ra khỏi những sợi dây mặc cảm đó” [127]. Tác giả
đã làm rõ được nguyên nhân dẫn đến sự phân biệt rạch ròi về giới, ý thức về giới
và thân phận của người phụ nữ, đó chính là yếu tố xã hội và yếu tố con người. Chỉ
khi người phụ nữ tự ý thức và vượt qua những định kiến xưa cũ, lỗi thời của xã
hội, bỏ lại những mặc cảm tự ti, thấp hèn về giới tính, thể hiện được tiếng nói về
giới của mình trong xã hội thì mới vươn lên được “ánh sáng siêu nghiệm” của sức
mạnh bình đẳng giới. Ngoài ra, tác giả Hồ Khánh Vân còn đề cập đến ý thức nữ
quyền của văn xuôi đô thị miền Nam với những phát hiện thú vị trong lĩnh vực
báo chí và giới nữ: “Vấn đề nữ quyền trên báo chí ở đô thị miền Nam giai đoạn
1945 - 1975” (Báo cáo các kết quả nghiên cứu giới và xã hội - Đại học Hoa Sen,
tháng 8/2016). Hồ Khánh Vân còn đi sâu phân tích lối viết tự thuật trong văn xuôi
nữ với bài “Một vài lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các
tác giả nữ Việt Nam từ 1990 đến nay” (Tạp chí Đại học Sài Gòn, 2012) đã chỉ ra
được hiện tượng tự thuật trong tiểu thuyết và truyện ngắn là một xu hướng mới để
24
biểu đạt tinh thần nữ quyền và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Bên cạnh đó, tiếng nói của giới nữ là một phương tiện quan trọng trong
việc đấu tranh cho quyền lợi phụ nữ. Tác giả Trần Thiện Khanh trong báo cáo
tham luận “Kháng cự tình trạng mất tiếng nói: Tiếng nói như một thân phận
và như một hành động” tại Tọa đàm “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học
Việt Nam đương đại” (Viện Văn học tổ chức năm 2012) đã cho rằng thể hiện
tiếng nói của giới nữ trong văn học chính là sự đấu tranh mạnh mẽ nhất,
kháng cự tình trạng mất tiếng nói đã diễn ra trong xã hội cũ. Tác giả đã đưa ra
được tầm quan trọng của tiếng nói đối với người phụ nữ bởi nó gắn với những
quy chuẩn, luật lệ của cộng đồng. Và đối với phụ nữ, tiếng nói cao hơn hết chính
là “thân phận” và “hành động”, chống lại tính áp đặt cố hữu của nam quyền. Đối
với công tác nghiên cứu, phê bình, tác giả lưu ý việc phân định rõ nội hàm văn
học nữ, văn học nữ quyền văn văn học nữ tính. Văn học nữ chính là một thành tố
quan trọng để biểu thị các phương diện khác nhau của văn học nghệ thuật…
Yếu tố tính dục cũng như ngôn ngữ thân thể được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm vì đó cũng là phương diện chính để biểu đạt tinh thần nữ quyền, khát khao nhục
cảm “bị bỏ quên” của người phụ nữ. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp với “Tính dục
trong văn học hôm nay” (2006, http://vietbao.vn); Nguyễn Đình Tú với “Khuynh
hướng tính dục trong sáng tác văn học gần đây” (2009, http://m.anninhthudo.vn)...
Cả hai tác giả đều quan tâm đến yếu tố tính dục trong việc biểu đạt về giới, thường
có sự liên quan mật thiết đến các hình thái văn học. Riêng Nguyễn Thanh Tâm với
bài viết “Công chúng với vấn đề tính dục trong văn chương” (2017,
http://vanvn.net) đã khẳng định mức độ quan tâm rất lớn đối với văn chương có
yếu tố tính dục. Tác giả khẳng định: “Sex trong văn chương chỉ là một phương
cách, một lối ra của những ẩn ức, những dồn nén từ nhu cầu tự thân chủ thể sáng
tạo nhưng lại hướng đến nhu cầu của cộng đồng. Sự kìm nén quá lâu trong những
cương vực của lễ giáo, đạo lý đã khiến cho nhu cầu bày tỏ những rung cảm thân
thể trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn” [99]. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Thanh Tâm
còn quan tâm và làm rõ khái niệm nữ tính trong văn chương. Theo tác giả, văn học
25
của giới nữ luôn gắn liền thiên tính nữ với bài viết tiêu biểu: “Sắc thái nữ tính
trong văn chương” (2010). Các tác giả với những nghiên cứu chuyên sâu của
mình đã xem xét các vấn đề liên quan đến nữ quyền như: giới nữ với vấn đề tính
dục trong văn học, hiện tượng tự thuật, tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại Việt
Nam… đã làm cho “không khí” nghiên cứu và phê bình văn học nữ quyền ngày
càng đa dạng và sinh động. Những vấn đề tế nhị như tính dục trong văn học được
đi sâu khai thác một cách đầy hiệu quả và nghệ thuật, truyền tải được những giá trị
cốt lõi, mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Tất cả những điều đó đã tạo nên một diện
mạo mới cho phê bình nữ quyền đương đại.
Võ Thị Thoa với bài viết “Vấn đề tình dục trong văn học Việt Nam sau
1975 (2013, http://quenhacarolina.com), Bùi Thị Kim Phượng với bài viết “Chủ
đề tính dục trong văn học đổi mới” (2014, http://vanhoc.vn) quan niệm tính dục
chính là sự đổi mới - dấu ấn về một quan niệm mới trong văn học. Tác giả đã chỉ
ra được những sự “thay da đổi thịt” về chất liệu ngôn ngữ, phong cách và lối viết
nữ trong việc biểu đạt đầy mạnh bạo về vẻ đẹp thân thể cũng như những nhu cầu
về tính dục của các cây bút nữ thời kỳ đổi mới.
Ngoài ra, một số bài nghiên cứu, phê bình về nữ quyền thể hiện rõ dấu ấn và
tầm ảnh hưởng của tinh thần nữ quyền trong văn học đương đại như: Lý Lan với
“Phê bình văn học nữ quyền” (2009, http://viettems.com/index); Bùi Thị Thủy với
“Dấu hiệu nữ quyền trong văn học nữ đương đại” (2009, http://vanhoconline.com);
Đặng Thị Thái Hà với bài “Con đường chính thống hóa lý thuyết - phê bình nữ
quyền” (2012, http://phebinhvanhoc.com.vn). Các tác giả đã đi sâu phân tích về
tầm ảnh hưởng của học thuyết nữ quyền đến mọi phương diện trong đời sống xã
hội, đặc biệt là phê bình văn học ở Việt Nam; Nguyễn Thị Thanh Xuân với “Xét
lại thế giới đàn ông bằng cái nhìn đàn bà” (2012, http://phebinhvanhoc.com.vn)
đã định hình rõ nét dấu ấn nữ quyền từ sau 1986, đặc biệt là ở truyện ngắn nữ
một cách “phi giới tính”. Theo tác giả, các nhà văn nữ đã thể hiện được mình
chính là “khách thể thẩm mỹ” đầy mới lạ, độc đáo bên cạnh sự “bất toàn” của
người đàn ông. Sự “bất toàn” cũng chính là sự lên án, công kích người đàn ông
26
trên mọi phương diện gia đình, xã hội qua cái nhìn tinh tế của đàn bà.
Bên cạnh đó, truyện ngắn đề tài lịch sử gắn với giới được quan tâm như Lê
Thị Hường với bài viết “Thành tựu của truyện ngắn đề tài lịch sử sau 1986 - từ
góc nhìn giới” (2017, http://www.khoanguvandhsphue.org) đã đóng góp thêm
một cách nhìn nhận mới mẻ về bình đẳng giới thông qua thể tài đặc biệt: truyện
ngắn lịch sử. Theo tác giả, thông qua loại hình mới, truyện ngắn đề tài lịch sử đã
giúp cho người đọc hình dung rõ hơn về các vấn đề về giới. Từ đó, khẳng định
mối quan hệ giữa văn học - văn hóa - lịch sử không thể tách rời, biểu đạt rõ thân
phận người phụ nữ qua từng giai đoạn lịch sử thông qua thể loại truyện ngắn.
Về phê bình nữ quyền sinh thái, đã có rất nhiều bài viết bàn đến vấn đề này
như: Nguyễn Thị Tịnh Thy với “Phê bình từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái: sự
kết hợp giữa “cách mạng giới” và “cách mạng xanh” trong nghiên cứu văn
học” (Tạp chí Sông Hương, số 340, 2017), Trần Thị Ánh Nguyệt với “Phê bình
sinh thái - vài nét phác thảo” (Tạp chí Sông Hương, số 350, 2018)... Các bài viết
về phê bình nữ quyền sinh thái trên đã giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về khái niệm
và nhiệm vụ của phê bình sinh thái, vai trò quan trọng nối kết giữa phê bình sinh
thái và chủ nghĩa nữ quyền vừa để khẳng định, đề cao, bảo vệ quyền lợi của giới
nữ trong xã hội; bên cạnh đó là vấn đề bảo vệ môi trường trước các vấn nạn ngày
càng gia tăng của con người và trái đất.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu, phê bình về nữ quyền có giá trị, là
tài liệu không thể thiếu khi nghiên cứu về giới nữ được đánh giá cao như: Văn
chương và cảm nhận (năm 2005) của Tôn Phương Lan, Truyện ngắn hiện đại Việt
Nam 1945 - 1975 (các năm 2007, 2010) của Hỏa Diệu Thúy; Lý luận phê bình văn
học đổi mới và sáng tạo (năm 2013) của Cao Thị Hồng, Văn học Việt Nam hiện
đại - sáng tạo và tiếp nhận (năm 2015) của Nguyễn Bích Thu;... Ngoài ra, còn
phải kể đến những cây bút lý luận phê bình nữ chuyên sâu như Mai Hương, Lưu
Khánh Thơ, Lý Hoài Thu, Hoàng Thụy Anh, Trần Thị Trâm… Với tình hình phê
bình văn học hiện nay tại Việt Nam, theo tác giả Trần Huyền Sâm thì phê bình nữ
quyền đóng vai trò quan trọng, là “một hướng nghiên cứu đầy tiềm năng” bởi cái
27
nền tảng, căn nguyên của phê bình nữ quyền “là một thái độ phản ứng của giới nữ
đối với triết học nói riêng và các thiết chế xã hội lấy nam quyền làm vị trí trung
tâm nói chung. Sự quyết liệt, mạnh mẽ của các cây bút phê bình nữ quyền đã góp
phần thay đổi căn bản quan niệm về giới nữ” [89, tr.272].
Chính nhờ sự đa dạng trong cách phê bình, thể hiện cách nhìn nhận chuyên
sâu và hiện đại, các nhà nghiên cứu phê bình nữ thật sự đã làm cho “không gian”
văn chương trở nên tươi mới, sống động, đa sắc thái hơn. Trần Huyền Sâm với thế
mạnh nghiên cứu nữ quyền trong tiểu thuyết, Hồ Khánh Vân thể hiện lối tư duy sắc
bén về ý thức tự thuật của nữ giới trong văn chương, Chu Thị Thơm với phê bình
văn học báo chí… Các nhà phê bình nữ với nhiệm vụ và sứ mệnh “cao cả”, là việc
“không chỉ khám phá cái đẹp, tìm ra những nét đặc sắc, khẳng định phẩm tính của
đối tượng, của khách thể thẩm mỹ mà còn ở phía chủ thể cảm thụ và tiếp nhận. Bởi
không chỉ với những người sáng tác mà với những người nghiên cứu, phê bình cũng
phải đổi mới tư duy nghiên cứu cùng đổi mới lối viết cho phù hợp với tâm thế thời
đại, với ngữ cảnh sáng tạo và cộng đồng tiếp nhận đương đại” [113].
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu, phê bình văn học nữ quyền ở Việt Nam
đã “lột tả” được “diện mạo” mới mẻ, hiện đại thông qua cảm quan tư duy đầy
nhạy bén, tinh tế với xu thế hiện đại hóa của văn học nước nhà. Nói như nhà phê
bình Nguyễn Bích Thu thì “Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới và hội nhập,
các chị đã “không chịu đi những lối mòn”, tự tìm cho mình một “khuôn mặt
mới”. Các chị đều cố gắng bắt kịp những vấn đề học thuật mới mẻ, đổi mới cách
tiếp cận và tiếp nhận ngõ hầu có được những công trình, những cuốn sách, bài
viết mang tinh thần đổi mới, trong không khí dân chủ của đời sống văn học, văn
hóa hiện nay” [113].
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hƣớng triển khai đề tài
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Có thể nhận thấy rằng, phê bình nữ quyền là hướng nghiên cứu đầy
chuyên sâu và khả dụng đối với văn học Việt Nam và đã đạt được những thành
28
công và hiệu quả trong việc khắc họa và phản ánh hình tượng trung tâm là
người phụ nữ xung quanh với những vấn đề bình đẳng giới. Lý thuyết nữ
quyền/ phê bình văn học nữ quyền đã thể hiện một cách khách quan các hệ
thống, quan điểm đánh giá phụ nữ từ trước đến nay. Phê bình nữ quyền có
hướng nghiên cứu sâu rộng bởi không chỉ được ứng dụng trong văn học mà còn
trong cả các khối ngành khoa học xã hội nhân văn khác… Chính nhờ sức lan
tỏa mạnh mẽ trong tất cả các mặt của xã hội, phê bình nữ quyền với hệ thống lý
thuyết đa dạng, phong phú từ phương Tây đã được nhiều tác giả chọn làm
hướng nghiên cứu chủ đạo của mình.
Có một thực tế là ngày càng có sự phát triển về số lượng các cây bút nữ
với những tác phẩm mang đậm âm hưởng, sắc thái nữ quyền trong nền văn học
đương đại Việt Nam. Ở nước ta, lý thuyết nữ quyền và phương pháp phê bình
vẫn còn mới mẻ và dè dặt trong ứng dụng do lý thuyết này mới du nhập và
đang trên quá trình định hình. Dù vậy, vẫn có một số bài viết đi sâu phân tích
âm hưởng về nữ quyền/ lý thuyết nữ quyền/ phê bình văn học nữ quyền bài bản
và đã thu được nhiều thành tựu nổi bật như “Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ
đương đại” của tác giả Nguyễn Thị Bình; “Con đường chính thống hóa lý
thuyết nữ quyền - phê bình văn học nữ quyền” của tác giả Đặng Thị Thái Hà;
“Về các làn sóng nữ quyền và ảnh hưởng của nữ quyền đến địa vị của người
phụ nữ Việt Nam” của tác giả Hoàng Bá Thịnh; “Sự vận động của các thể loại
văn học trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Lý Hoài Thu… Các tác giả đã giới
thiệu, phân tích, lý giải về con đường hình thành, tầm quan trọng và sự vận
động tất yếu của lý thuyết phê bình nữ quyền được ứng dụng vào trong văn học
Việt Nam bằng nhiều thể loại khác nhau như lý luận văn học, thơ, truyện ngắn,
tiểu thuyết… Tuy số lượng các công trình nghiên cứu chưa nhiều nhưng nhìn
chung, các bài viết đã có cái nhìn toàn diện về lý thuyết phê bình nữ quyền,
giúp nâng tầm địa vị và quan tâm đến quyền lợi của người phụ nữ Việt Nam,
29
được thể hiện sinh động và tinh tế trong văn học.
Về tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn
học nữ quyền, các nhà phê bình văn học đã có nhiều bài viết tiêu biểu như:
“Truyện ngắn nữ Việt: một vài phác thảo” của Phạm Thị Thanh Phượng; “Ba
mươi năm truyện ngắn nữ trong xu thế hội nhập” của Nguyễn Thị Hường; “Sự
vận động của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua những cách tân về hình thức”
của Hỏa Diệu Thúy… Nhìn chung, các nhà phê bình đều nhận định truyện ngắn
nữ là “mảnh đất màu mỡ” trong việc ứng dụng phê bình văn học nữ quyền vào
trong đó. Số lượng và chất lượng các tác phẩm truyện ngắn về giới đã tăng nhiều
lên theo thời gian, bảo chứng cho thành công của các ngòi bút nữ.
Từ những công trình nghiên cứu, bài viết về phê bình nữ quyền càng cho
thấy xu hướng nghiên cứu về âm hưởng nữ quyền đã bắt đầu “nở rộ” và “thu
hoạch” được những thành tựu ấn tượng. Mỗi tác giả đều có một sở trường và
hướng đi riêng, cá biệt trong việc nghiên cứu về nữ quyền. Có người thì thiên về
âm hưởng nữ quyền trong thơ ca, có người lại nghiên cứu về âm hưởng nữ
quyền trong truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Điều đó cho thấy âm hưởng nữ quyền
đã bắt đầu có tầm ảnh hưởng mới không chỉ trong lĩnh vực sáng tác mà còn
trong nghiên cứu, phê bình văn học. Dòng văn học nữ quyền đã dần có một chỗ
đứng và vị thế riêng trong dòng chảy của văn học Việt Nam đương đại.
1.3.2. Hướng triển khai của đề tài
Từ việc nghiên cứu về nữ quyền và các vấn đề có liên quan về giới đã được
một số tác giả chọn làm hướng nghiên cứu trọng tâm của mình, chúng tôi nhận
thấy rằng, nghiên cứu về hệ thống lý thuyết phê bình nữ quyền và áp dụng trong
việc nghiên cứu văn học đã và đang mang lại những giá trị khả quan. Vấn đề về
bình đẳng giới là một vấn đề được xã hội quan tâm, có ảnh hưởng trực tiếp đến
vị thế của giới nữ trên nhiều phương diện. Do đó, cần có những nhận định khách
quan và tầm khái quát cao trong việc nghiên cứu giới và nữ quyền ở nhiều cấp
30
độ, nhiều bình diện và nhiều lĩnh vực.
Nghiên cứu lý thuyết phê bình nữ quyền từ góc độ văn xuôi, đặc biệt với
truyện ngắn nữ là một hướng đi mới và có ý nghĩa thời sự, mang tính nhân văn sâu
sắc. Chúng tôi muốn tiếp cận một hướng đi riêng biệt hơn, nên đã chọn truyện
ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015, làm đối tượng chính để nghiên cứu từ góc nhìn
phê bình văn học nữ quyền. Từ việc nắm vững những lý thuyết cơ bản của phê
bình văn học nữ quyền, luận án chỉ ra được những hiệu quả về mặt nội dung và
hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Đồng thời, khẳng định sự đóng góp những
thành tựu của truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015 vào thành tựu chung của văn
học Việt Nam với góc nhìn ý thức phái tính và nữ quyền thông qua Phương pháp
phê bình văn học nữ quyền.
Thứ đến, chúng tôi còn đi sâu, phân tích, hệ thống hóa các kiểu nhân vật nữ
mang đặc trưng giới trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học
nữ quyền (nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do; nhân vật
nữ với thiên tính làm mẹ và khát vọng tình yêu; nhân vật nữ với bản năng tính dục
và nhu cầu giải phóng tính dục; nhân vật nữ với cảm quan sinh thái và ý thức giải
phóng bản thân). Tinh thần giải phóng về giới đã được “định hình” trong chính
những kiểu dạng nhân vật nữ một cách chân thật và sống động như thế!
Cuối cùng, hệ thống diễn ngôn mang ý thức giới đã được các tác giả nữ
khéo léo lồng vào càng thể hiện được những thanh âm trong trẻo, cá tính và hồn
hậu, đầy yêu thương của giới nữ. Truyện ngắn mang âm hưởng nữ quyền đã tạo
được dấu ấn đậm màu sắc về giới từ chiều sâu hình tượng. Từ đó, chúng tôi đi
sâu phân tích về lối viết nữ trong truyện ngắn, có nhiều điểm khác biệt so với
nam giới, từ đặc trưng thể loại cho đến phong cách, ngôn ngữ, giọng điệu, cách
hành văn… Ngoài ra, luận án còn khẳng định bản thể, màu sắc riêng biệt của lối
viết nữ và vị thế, chỗ đứng vững chắc của các cây bút nữ trên văn đàn trong việc
góp phần thúc đẩy sự phát triển thể loại, nhất là về mặt diễn ngôn giới theo đặc
trưng của lối viết nữ.
Với hướng triển khai đề tài như vậy, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm được
tiếng nói riêng biệt và có giá trị trong việc nghiên cứu và phổ biến ưu thế của
31
dòng văn học nữ quyền đa dạng, phong phú hiện nay.
Tiểu kết
Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền
diễn ra với quá trình kéo dài, đặc biệt phát triển “rực rỡ” và thành tựu từ sau năm
1986. Quá trình hiện đại hóa văn học đã kéo theo sự thay đổi, cách tân về thể
loại. Nhờ sự phát triển của các tác giả, tác phẩm về nữ quyền kết hợp cùng sự
“trỗi dậy” của các nhà phê bình văn học nữ quyền đã tạo nên một tiền đồ vô
cùng đặc sắc và ấn tượng trong việc sáng tạo và tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam
mang âm hưởng nữ quyền một cách đa diện, đa chiều. Đó chính là thành công, là
sự đóng góp công sức không nhỏ của các nhà văn nữ và các nhà phê bình văn
học nữ quyền, nhằm góp phần tạo nên tiếng nói riêng đầy mạnh mẽ, cá tính của
văn học nữ giới.
Nghiên cứu về phê bình nữ quyền nói chung và lý thuyết nữ quyền nói
riêng là một hướng đi đầy triển vọng, mới mẻ ở Việt Nam, được tiếp nhận
một cách có chọn lọc, hệ thống hóa những tinh hoa, sáng tạo từ phê bình nữ
quyền thế giới, đặc biệt của phương Tây. Có thể nói, việc ứng dụng phê bình
nữ quyền vào trong truyện ngắn nữ đương đại là một hướng tiếp thu có ý thức
và có hiệu quả, giúp chúng tôi triển khai linh hoạt và có cơ sở trong việc phân
tích, nghiên cứu, “giải mã” truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015 một cách
32
chuyên sâu và cập nhật.
Chƣơng 2
LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN
VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
2.1. Vấn đề nữ quyền và sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền
2.1.1. Vấn đề nữ quyền - nguồn gốc và khái niệm
Người đề cập đến cụm từ “chủ nghĩa nữ quyền” chính là Charles Fourier,
một triết gia người Pháp chuyên về chủ nghĩa xã hội không tưởng. Lần đầu tiên
thuật ngữ “nữ quyền” (feminism) hay “nhà hoạt động nữ quyền” (feminist) xuất
hiện ở Pháp và Hà Lan năm 1872, ở Vương quốc Anh trong những năm 1890, và
Hoa Kỳ vào năm 1910. Từ điển Oxford English Dictionary đưa từ “feminist” lần
đầu vào năm 1894, feminist được dịch là “người theo nữ quyền”. Các phong trào
nữ quyền xuất hiện chủ yếu để đòi quyền lợi chính đáng, công bằng cho phụ nữ.
Phong trào đấu tranh vì nữ giới thường liên quan đến các quyền lợi cơ bản,
tối thiểu của người phụ nữ như: cơ thể toàn vẹn và tự chủ; quyền được giáo dục
và làm việc; được trả lương như nhau; quyền sở hữu tài sản; tham gia vào các
hợp đồng hợp pháp, tổ chức các cơ quan công quyền; quyền bầu cử; quyền tự do
kết hôn, bình đẳng trong gia đình và tự do tôn giáo. Ngoài ra, chủ nghĩa nữ
quyền còn là sự đấu tranh cho những quyền lợi thiết thực hàng ngày như quyền
sinh đẻ và hạn chế sinh đẻ, quyền hưởng lợi từ chăm sóc y tế, quyền chống bạo
lực, chống hãm hiếp phụ nữ và trẻ em.
Theo tác giả Trần Huyền Sâm trong cuốn sách Nữ quyền luận ở Pháp và
tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại thì “Chủ nghĩa nữ quyền là một phong trào
hoạt động xã hội rộng lớn nhằm gắn vấn đề nữ tính với nhân quyền. Đó là cuộc
hành trình “câm lặng và giông bão” trong lịch sử nhân loại, với mục đích đấu
tranh cho một xã hội bình đẳng giới” [89, tr.19]. Hoạt động đấu tranh vì quyền
lợi của phụ nữ diễn ra mạnh mẽ nhất là ở Pháp, đặc biệt là vào thập niên 1960,
1970 của thế kỷ XX. Phong trào nữ quyền tập hợp được rất nhiều phụ nữ từ các
nước như Anh, Pháp, Mỹ tham dự. Sau đó, phong trào này lan rộng ra cộng đồng
33
với nhiều người da đen và người Do Thái tham gia.
Khái niệm nữ quyền và chủ nghĩa nữ quyền có nhiều cách hiểu khác nhau
nhưng không mâu thuẫn nhau:
Theo Judith Lorber, chủ nghĩa nữ quyền hiểu một cách đơn giản “là một
phong trào xã hội mà mục đích căn bản là sự bình đẳng giữa đàn bà và đàn ông”
[66]. Bình đẳng ở đây, theo bà là có sự bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ về tất cả các
mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa. Người phụ nữ có quyền được học tập, làm
việc, quyền sở hữu tài sản, quyền được tự do bầu cử, quyền được tự do kết hôn,
tự do về tín ngưỡng, tôn giáo… được xã hội và luật pháp bảo hộ, cho phép.
Theo Kamla Bhasin: “Nữ quyền là sự nhận thức về sự thống trị gia trưởng, sự
bóc lột và áp bức ở các cấp độ vật chất và tư tưởng đối với lao động, sự sinh sản và
tình dục của phụ nữ trong gia đình, ở nơi làm việc và trong xã hội nói chung, là
hành động có ý thức của phụ nữ và nam giới làm thay đổi tình trạng đó” [131].
Còn theo Hoàng Bá Thịnh: “Nữ quyền là quyền phụ nữ và hiểu đầy đủ thì
đó là đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ. Với niềm tin dựa trên nguyên
tắc cho rằng phụ nữ phải có các quyền và cơ may trong cuộc sống như nam giới
về chính trị, kinh tế, luật pháp…” [131].
Như vậy, thuật ngữ “Nữ quyền” có thể được hiểu qua những bình diện sau:
- Về phương diện lý luận: nữ quyền được xem như là một tiền đề lý thuyết đấu
tranh cho sự bình đẳng của giới nữ.
- Về phương diện hoạt động thực tiễn: phong trào nữ quyền đóng vai trò quan
trọng giành quyền cho phụ nữ trên các phương diện chính trị, kinh tế, đặc biệt là
việc bảo vệ và đề cập đến các quyền cơ bản của con người.
- Về góc độ nghề nghiệp: nữ quyền đấu tranh hướng tới các mục tiêu bình
đẳng Nam và Nữ (bình đẳng giới) trong hoạt động nghề nghiệp xã hội, đoàn thể
và cá nhân.
Có thể nói, khái niệm “Nữ quyền” luôn gắn liền với ý thức giới và bình
đẳng giới, nhân vị giới và tính mẫu của người phụ nữ. Từ khi phong trào đấu
tranh vì quyền lợi của phụ nữ xuất hiện, nữ giới đã bắt đầu tự ý thức về giới tính
của mình. Ý thức giới được quan tâm, lan tỏa sâu rộng hơn trong xã hội và ngay
34
chính bản thể nữ giới đã tự nhận thức được quyền lợi, địa vị của mình bởi tư
tưởng này đã “đề cập nhiều ở phương diện xã hội học, xuất phát từ nỗ lực đem
lại bình đẳng giới, bảo vệ giới nữ trước những định kiến xã hội, những quan
niệm truyền thống vốn coi thường phụ nữ, mặc định phụ nữ phải yếu kém hơn
nam giới” [96, tr.279]. Các hình thức đấu tranh bình đẳng giới của nữ giới được
thể hiện đa dạng thông qua nhiều “kênh” khác nhau và đạt được những hiệu ứng
tích cực: biểu tình, mít tinh, sách báo, văn chương... Nữ giới đang dần làm chủ
mình trên nhiều phương diện và điều đó chứng mình rằng, đấu tranh vì nữ quyền
chính là cuộc đấu tranh vì nhân vị giới tiêu biểu nhất. Như vậy, luận án của
chúng tôi quan tâm và làm rõ khái niệm nữ quyền gắn liền với sự bình đẳng giới
trên tất cả mọi mặt và phương diện của đời sống xã hội giới thông qua những tác
phẩm truyện ngắn tiêu biểu của các tác giả nữ mang đậm âm hưởng nữ quyền.
Ở Việt Nam, hầu như không có sự phân biệt giữa hai khái niệm quyền phụ
nữ (women’s right) và chủ nghĩa nữ quyền (feminism). Lần đầu tiên ở Việt Nam
xuất hiện một phong trào khai trí nhân dân, khuyến khích phụ nữ tham gia vào
chính trị, xã hội, văn hóa, đó chính là phong trào Đông kinh nghĩa thục (1907).
Đấu tranh không biết mệt mỏi vì quyền lợi và sự bình đẳng của phụ nữ, đó chính
là những nhà tiên phong về nữ quyền ở Việt Nam, cùng các công trình tiêu biểu
như: Phạm Quỳnh với Sự giáo dục đàn bà con gái đăng trên tạp chí Nam Phong
(1917), Phan Bội Châu với sách giáo khoa Nữ quốc dân tu tri (1926), Đặng Văn
Bảy với tác phẩm Nam nữ bình quyền (1928)… Tác giả Đặng Văn Bảy đã công
khai ủng hộ giới nữ trong tác phẩm của mình bởi: “Tôi đề xướng nam nữ bình
quyền là do thấy phần nhiều đàn bà con gái bị chê bỏ, hiếp đáp, còn đàn ông con
trai lại quá tự do. Phép công bằng là đôi bên phải đồng, không khinh không
trọng, không thấp không cao” [12]. Tờ báo đầu tiên ở Việt Nam bàn về vấn đề
phụ nữ đó chính là tờ Nữ giới chung của Sương Nguyệt Anh, phát hành ngày
1/2/1918 đã được người dân, đặc biệt là nữ giới nhiệt liệt ủng hộ bởi tinh thần
đấu tranh vì quyền dân chủ, tiến bộ cho phụ nữ. Người phụ nữ dần được bình
đẳng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với những quyền cơ bản như
35
quyền được giáo dục, chính trị, lao động, hôn nhân. Đây cũng là giai đoạn vấn
đề nữ quyền được ý thức và làm sáng rõ kể từ khi có sự lãnh đạo của Đảng. Từ
đó, người phụ nữ đã được đối xử bình đẳng, vai trò, vị thế và tiếng nói của họ
trong xã hội được công nhận.
Trên tạp chí Nam Phong số 4/1917, Phạm Quỳnh có bài viết “Sự giáo dục
đàn bà con gái” đã đề cập sự liên quan mật thiết giữa vấn đề giáo dục và quyền
lợi của phụ nữ. Ông bày tỏ những e ngại về vấn đề giáo dục bởi có quá nhiều tư
tưởng hà khắc của Nho giáo cũng như tư tưởng nam quyền vẫn còn ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển của nữ giới. Cũng trên tờ Nam Phong số 23 với bài
“Bàn sự học con gái bây giờ nên thế nào”, Phạm Quỳnh đã đề ra biện pháp rõ
ràng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học đối với người phụ nữ trong xã hội:
“Nay có con gái nên cho học thế nào? Thưa rằng cũng nên trước học phổ thông,
rồi sau mới rút vào thực dụng mà riêng phần con gái” [108]. Hưởng ứng tinh
thần nữ học của Phạm Quỳnh, trên Nam Phong số 49/1921, bà Đạm Phương cho
rằng người phụ nữ không được học là nguồn gốc của mọi khổ đau mà người phụ
nữ phải hứng chịu: “Bởi vì cớ làm sao mà người đàn bà lại không được trực tiếp
với xã hội? Là vì sự học vấn còn chưa được phổ thông và thời kỳ chưa được hiệu
dụng cho nên nữ ngôn không được kiến trọng với đời” [108].
Có thể thấy rằng, khái niệm nữ quyền ở Việt Nam, đối với vấn đề giải
phóng phụ nữ, theo các tác giả vẫn là sự đấu tranh về vấn đề bình đẳng giáo dục
đối với phụ nữ bởi nó có liên quan mật thiết đến những yếu tố khác trong xã hội.
Đó chính là tư tưởng nữ học quan trọng, mở ra tiền đề mới để người phụ nữ
tham gia vào các công việc khác trong xã hội, không còn quẩn quanh trong gia
đình với công việc bếp núc đơn điệu, tẻ nhạt thường ngày nữa. Cũng chính từ đó,
người phụ nữ có tiếng nói trong xã hội thì các quyền lợi khác về chính trị, hôn
nhân, lao động sẽ được bảo đảm và vững chắc hơn.
2.1.2. Sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền và sự phát triển của quyền phụ nữ
Như đã đề cập ở trên, người đặt tên gọi cho “chủ nghĩa nữ quyền” là
Charles Fourier, một nhà nghiên cứu người Pháp chuyên sâu về chủ nghĩa không
tưởng. Năm 1872, từ “chủ nghĩa nữ quyền” xuất hiện lần đầu ở Pháp và Hà Lan.
36
Sau đó, xuất hiện năm 1890 ở Anh, ở Hoa Kỳ vào năm 1910. Từ “feminist”
(người theo nữ quyền) đã được Oxford English Dictionary lược dịch năm 1852,
và năm 1895 đối với từ “feminism” (chủ nghĩa nữ quyền). Kể từ thời điểm đó,
các phong trào nữ quyền đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ bao gồm:
quyền được giáo dục, quyền làm việc và được trả lương như nhau, quyền tranh
cử và bầu cử, quyền hôn nhân, quyền tự do tôn giáo, quyền sở hữu tài sản, tham
gia vào các cơ quan công quyền... diễn ra mạnh mẽ ở phương Tây và sau này
dần lan rộng ra trên toàn thế giới.
Một nhà nữ quyền lừng danh người Pháp khác có đóng góp lớn lao cho nhân
loại, đặc biệt là giới nữ: Simone de Beauvoir (1908 - 1986), người đi đầu trong
việc giải phóng người phụ nữ thoát khỏi những tư tưởng áp chế của nam quyền.
Những tác phẩm của bà thể hiện tiếng nói đấu tranh mạnh mẽ đối với tình trạng áp
bức phụ nữ và đề tài bình đẳng giới. Những tác phẩm kinh điển của bà: She Came
to Stay, The Mandarins, Le Deuxième Sexe… đều có nội dung, tư tưởng chính là
đề cập đến quyền phụ nữ.
Tư tưởng mới của Beauvoir trong Giới thứ hai được bà vận dụng nhiều kiến
thức về triết học, sinh học, thần thoại học, nhân loại học, lịch sử, phân tâm học để
chứng minh cho luận điểm của mình. Ví như, khi bàn luận về sinh học, bà chỉ ra
phụ nữ phải trải qua một số hiện tượng đặc thù như kinh nguyệt, thai nghén, cho
con bú. Điều này khiến cho phụ nữ khác biệt so với nam giới, cuộc sống của họ
thường mang tính trách nhiệm về gia đình và con cái nhiều hơn đàn ông. Đó cũng
chính là sự thiệt thòi của người phụ nữ ngay chính ở nguồn gốc sinh học.
Beauvoir cũng chỉ ra rằng, phụ nữ có khả năng lựa chọn như nam giới và
có thể nâng tầm vị thế của mình lên. Phụ nữ cần giải phóng mình và phục hồi cái
tôi để có được những bước chuyển mình mạnh mẽ như nam giới. Bà còn đặt ra
những yêu cầu cơ bản để hướng tới xã hội bình đẳng giới, đó là cần phải cải tổ
lại cấu trúc xã hội như luật pháp, giáo dục, phong tục…
Sự bất bình đẳng giới còn thể hiện ở chỗ phụ nữ không được có vị thế ngang
bằng đàn ông trong lao động và sáng tạo, mà ngược lại, họ phải ở nhà nội trợ, lo cơm
37
nước, sinh con, chăm sóc con và đáp ứng nhu cầu tình dục của đàn ông - những công
việc theo bà rất đơn điệu và bị mặc định dành cho nữ giới chứ không phải đàn ông.
Theo bà, mọi nguồn cơn cho sự đau khổ, mặc cảm, tự ti về địa vị của giới nữ không
phải xuất phát từ chế độ xã hội mà chính là do sự thống trị của nam giới.
Do những tư tưởng mới mẻ và táo bạo trong tác phẩm nên nó đã bị Vatican
liệt vào danh sách những cuốn sách bị cấm. Những tư tưởng của Beauvoir có sức
mạnh thúc đẩy ý thức vươn lên của phụ nữ và khiến cho những người có tư
tưởng trọng nam khinh nữ không hài lòng. Giới thứ hai có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến phong trào đấu tranh nữ quyền khắp nơi trên thế giới. Đây được xem là một
tài liệu cơ bản phục vụ nghiên cứu triết học và phụ nữ. Sang thế kỷ XXI, tác
phẩm vẫn thu hút được nhiều độc giả nữ bởi tinh thần và tư tưởng tiến bộ đi
trước thời đại của Beauvoir.
Nói tóm lại, Simone de Beauvoir được xem là “người đặt nền móng đầu
tiên cho phong trào nữ quyền mới, mở ra một hướng đi tiến bộ cho công cuộc
giải phóng phụ nữ mà không hề lặp lại các phương pháp đấu tranh truyền thống
sự phát triển của quyền phụ nữ ngày càng được cải thiện và khẳng định.
trong quá khứ” [102, tr.216]. Chủ nghĩa nữ quyền từ đây được hình thành và
Luận bàn về thuyết nữ quyền, không thể bỏ qua vấn đề về quyền lực.
Quyền lực được hiểu là “khả năng hành động, gây ảnh hưởng” đến một cá nhân
hay một nhóm người trong xã hội. Hay hiểu một cách đơn giản theo quan niệm
của các nhà nữ quyền thì “quyền lực là sự thống trị (power as domination), bao
gồm cả sự áp bức, nam trị hay sự khuất phục. Họ đặc biệt nhấn mạnh đến sự mất
cân bằng quyền lực giữa nam và nữ” [43].
Vấn đề quyền lực xuất phát điểm từ sự mất cân bằng về vị thế xã hội và vị
trí trong gia đình của người phụ nữ, trong đó, người đàn ông luôn chiếm lợi thế
về quyền lực hơn so với người phụ nữ. Người đàn ông trong gia đình luôn được
mặc định là “kẻ mạnh”, “trụ cột gia đình”, trái lại, người phụ nữ thì đóng vai trò
như “kẻ yếu”, “kẻ bị phụ thuộc”, “nô lệ”.
Các nhà nữ quyền đều có quan niệm phân chia về sự thống trị quyền lực
38
riêng. Các nhà nữ quyền xã hội chủ nghĩa xem vấn đề quyền lực xuất phát từ chế
độ nam trị và gia đình trị. Có thể nói: “Sự áp bức này được thể hiện ở 5 mặt: bóc
lột về kinh tế, cách ly khỏi phát triển kinh tế xã hội, thiếu quyền tự chủ, bá quyền
về văn hóa và bạo lực có hệ thống (Young, 1992)” [43].
Trong khi các nhà nữ quyền xã hội chủ nghĩa xem nguồn gốc của vấn đề
quyền lực là chế độ nam trị thì các nhà nữ quyền hậu cấu trúc nghiên cứu vấn đề
từ góc độ khuất phục theo quan niệm quyền lực của M. Foulcault. Một số nhà nữ
quyền khác lại xem “quyền lực là khả năng thực hiện một việc hay một lựa chọn
hay quyền lực là sự tạo quyền (power as empowerment)” [43]. Quan niệm về
quyền lực rất đa dạng. Theo các nhà nữ quyền thì nó không hẳn là sự thống trị,
mà nó còn là cách để thể hiện uy quyền, cái tôi, hay nói cách khác là sức mạnh
tiềm ẩn cá nhân của người phụ nữ: “Phụ nữ muốn có quyền lực theo cách đồng
thời nâng cao chứ không hạn chế quyền lực của người khác (Miller, 1992)” [43].
Như vậy, người phụ nữ muốn có sự cải thiện về đời sống vật chất và tinh
thần thì cần phải quan tâm đến những vấn đề như thu nhập, công việc và học
vấn, tri thức. Nếu trong một gia đình, người phụ nữ hoàn toàn sống phụ thuộc
vào đàn ông, không việc làm, không tri thức thì họ sẽ không có tiếng nói cả
trong gia đình và ngoài xã hội. Và ngược lại, nếu họ có công việc và nguồn thu
nhập ổn định thì họ sẽ có tiếng nói mạnh mẽ và có quyền lực để quyết định.
Ngày nay, xã hội càng phát triển, người phụ nữ càng thể hiện được quyền lực
của mình trong tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội... một cách sâu
rộng và mang nhiều dấu ấn cá nhân đậm nét.
2.2. Lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền
2.2.1. Lý thuyết nữ quyền
Lý thuyết giới/ lý thuyết nữ quyền được nhìn nhận như sự nhận thức và
hạn chế tình trạng áp bức, bóc lột, hành hạ phụ nữ trong công việc, trong đời
sống xã hội cũng như đời sống gia đình. Đồng thời tiến đến chấm dứt hoàn toàn
sự thống trị gia trưởng, sự áp bức, bóc lột sức khỏe sinh sản và tình dục của phụ
nữ, lên tiếng cho quyền được cống hiến, làm việc và được đối xử bình đẳng với
39
nam giới trong mọi công việc và quan hệ.
Ngoài ra, chủ nghĩa nữ giới, chủ nghĩa nữ quyền hay chủ nghĩa duy nữ là
sự tập hợp các phong trào nữ quyền nhằm bảo vệ cho quyền lợi và bình đẳng của
phụ nữ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa… Đặc biệt, ưu tiên các vấn đề giáo
dục và việc làm cho người phụ nữ.
Trong luận án của chúng tôi, khái niệm về nữ quyền mà chúng tôi mạo
muội đưa ra, đó chính là ý thức cũng như sự “tự nhận thức” của nữ giới. Điều đó
được thể hiện qua sự đấu tranh của cá nhân hay tập thể, phong trào thông qua
nhiều hình thức khác nhau nhằm đạt được sự bình đẳng, tự do và được tôn trọng
cho phụ nữ trên tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội.
Hệ thống lý thuyết về nữ quyền ra đời là sự phủ nhận hoàn toàn các lý
thuyết đầy tính chủ quan, áp đặt về mặt khoa học của nam giới. Điển hình như
những nhà lập thuyết nữ quyền Lacan và Derrida đã hoàn toàn bị thuyết phục
bởi lý thuyết hậu cấu trúc mà họ đề xuất vì “chúng thật sự từ chối xác nhận một
quyền uy hay chân lý “nam tính” [131].
Điều quan trọng, Giới thứ hai (Le Deuxième Sexe) (1949) của Simone de
Beauvoir đã chỉ ra được sự bất bình đẳng ngay trong thuật ngữ “nam tính” và “nữ
tính”. Đó là lý do mà “Đàn bà bị tạo thành những kẻ dưới và sự áp bức được phức
hợp bởi niềm tin của đàn ông rằng đàn bà là những kẻ dưới bởi bản tính” [96]. Cả
Beauvoir và Virginia Woolf đều thừa nhận ảnh hưởng, hạn chế của nguồn gốc
sinh học, giới tính đến sự bất bình đẳng này. Tác phẩm Giới thứ hai “thấm đẫm”
chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa hiện sinh với câu nói mang giá trị tuyên ngôn
của lý thuyết nữ quyền: “Thái độ đối với tự do là giá trị cao nhất của con người, là
thước đo về đạo đức và phi đạo đức của họ về chính con người” [96]. Theo
Beauvoir, phụ nữ phải tự nhận thức được mình không phải là một “người khác”,
độc lập với “cái tôi” của nam giới, thì mới thực hiện được bình đẳng giới. Câu nói
của Beauvoir đã “làm thay đổi số phận hàng trăm triệu người”: “Người ta không
phải sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ”. Còn Virginia trong tác phẩm Căn
phòng riêng (1929) đã chỉ ra được sự lệ thuộc của nữ giới là kinh tế, theo bà người
phụ nữ nếu có sự độc lập về kinh tế thì có thể tự tạo dựng hạnh phúc riêng cho
40
mình. Bà nổi tiếng với câu nói: “Nếu viết văn, người đàn bà phải có tiền và một
căn phòng riêng”. Tác phẩm Căn phòng riêng đã trở thành “hiện tượng” bởi nó đã
đi tiên phong với trường phái phê bình nữ quyền trong văn học. Nhờ đó, các
phong trào nữ quyền càng có sức lan tỏa rộng rãi khắp thế giới, người ta gọi đó là
“khúc ngoặt văn hóa” hay “khúc ngoặt nữ quyền” (feminist turn) bởi chính sự
thay đổi, tiến trình vận động, phát triển theo hướng tích cực trong tư tưởng con
người. Và như vậy, lý thuyết nữ quyền chính là “sự đấu tranh cho quyền tự do,
bình đẳng của người phụ nữ, đòi hỏi mở ra một không gian xã hội rộng lớn hơn để
người phụ nữ được can dự, định nghĩa lại về người phụ nữ, giải cấu trúc những
biểu tượng định kiến về phụ nữ vốn thống trị nhận thức xã hội” [38].
Bên cạnh đó, lý thuyết phân tâm học của Lacan và Kristeva đã phủ định
hoàn toàn chủ nghĩa sinh học và sự khẳng định vai trò không thể chối cãi của
“quyền uy giống cái”. Các nhà nữ quyền cấp tiến đều thông qua lý thuyết của
mình cuối cùng đều muốn khẳng định quan niệm “đàn ông là kẻ mạnh”, “đàn bà
là kẻ yếu” không phải lúc nào cũng đúng. Họ xem “Tính dục giống cái là cách
mạng, lật đổ, dị chủng và “mở rộng” [96].
Một số tác phẩm xuất hiện ở Mỹ đã vạch trần sự bất công đối với giới nữ về
chế độ xã hội lúc bấy giờ cũng như tình trạng giáo dục, lao động và những bất
công trong lĩnh vực kinh tế. Hơn hết, đó chính là sự phụ thuộc mà giới nữ buộc
phải “quy thuận” trong đời sống tình cảm và gia đình của người đàn ông. Báo
cáo về tình trạng phụ nữ trong bản báo cáo Phụ nữ Mỹ (American women)
(1963) của Margaret Mead và Frances Balgey Kaplan đã chỉ ra được những bất
cập trên mọi phương diện xã hội mà người phụ nữ phải gánh chịu. Bên cạnh đó,
tác phẩm Sự huyền bí của tính nữ (The Feminine Mystique) (1963) của Betty
Friedan đã tố cáo hệ tư tưởng gia trưởng của chế độ nam quyền đầy áp đặt với
giới nữ cũng như sự lệ thuộc kinh tế của họ.
Đối với sự đàn áp đẳng cấp - giới tính (sex - class oppression), lý thuyết nữ
quyền đã lên án bằng những cuốn sách có giá trị như: Tình chị em mãnh liệt
(Sisterhood is Powerful) (1970) của Robin Morgan và Người phụ nữ trong xã
41
hội kỳ thị giới tính: Nghiên cứu về Quyền lực và Sự không có Quyền lực
(Women in Sexist Society: Studies in Power and Powerlessness) (1971) của
Vivian Gornick và Barbara K. Moran. Hai tác giả Gornick và Moran bằng tác
phẩm của mình đã chỉ ra được sự đàn áp, áp bức phụ nữ bắt nguồn từ gốc rễ sâu
xa, lâu đời và “không dễ bị tác động” của chế độ gia trưởng.
Về lý thuyết nữ quyền chính trị không thể không nhắc đến hai đại diện tiêu
biểu: Kate Millet và Michèle Barret. Chính tác phẩm Chính trị về giới tính
(Sexual Politics) (1970) của Kate Millet đã dẫn ra nguyên nhân của sự áp bức bất
công có nguồn gốc từ chính trị mà nữ giới buộc phải chấp nhận từ khi còn thơ
ấu. Bà đã chỉ ra sự khác nhau của các khái niệm như “giới tính” (sex) và “phái
tính” (gender), do vậy theo bà, “giới tính” đã bị thống trị, áp đặt của chính trị.
Các chuyên khảo, sách và công trình về giới nữ của một số tác giả khác cũng đã
thể hiện tiếng nói và sự công khai ủng hộ, bênh vực cho quyền lợi chính trị của
phụ nữ như: Bay lên từ bệ phóng (Up from the Pedestal) (1968) của Aileen
Kraditor, Nghĩ về phụ nữ (Thinking about Women) (1968) của Mary Ellmann,
Phụ nữ và Luật pháp (Women and the Law) (1969) của Leo Kanowitz, Ai cũng
đã dũng cảm (Everyone was Brave) (1971) của William O’Neil…
Đối với lý thuyết nữ quyền về tính dục, các nhà nữ quyền đã đưa ra
những luận điểm của mình trong các tác phẩm nổi tiếng: Shulamith Firestone
với Biện chứng về tính dục (The Dialectic of Sex) (1979) đã thừa nhận mối
quan hệ với đàn ông như là “sự đấu tranh giai cấp” với mối quan hệ của phái
tính - tính dục - sinh học.
Ngoài ra, đối với lý thuyết nữ quyền hậu cấu trúc, nổi bật có đại diện
tiêu biểu đầu tiên là Luce Irigaray với hai tác phẩm: Ảo ảnh về người phụ nữ -
tha nhân (Speculum of the Other - woman) (1974) và Giới tính này không chỉ
là Một (This sex which is not One) (1977) đã nhấn mạnh đến yếu tố “đa” tính
dục và khả năng cảm nhận giữa hai giới về tính dục là hoàn toàn khác nhau.
Thứ hai là Hélène Cixous với tác phẩm tạo được nhiều tiếng vang: Tiếng cười
của nàng Méduse (Le Rire de la Méduse) đã lần đầu tiên đề cập đến lối viết
nữ (l’écriture feminine), đối lập hệ thống quan niệm lấy ngôn từ dương vật
42
làm trung tâm (phallogocentric system) của nam giới.
Như vậy, các nhà nữ quyền như Beauvoir, Woolf, Ellmann, Firestone,
Flexner, Moers, O’Neill… cùng với học thuyết của mình đã có ảnh hưởng sâu
rộng đến phê bình văn học, dẫn đến việc hình thành phê bình văn học nữ quyền
với nhiều cách tiếp cận, định nghĩa, quan điểm, đánh giá khác nhau. Điều đó
cũng dễ hiểu đối với tiến trình phát triển của xã hội hiện đại, mọi sự đánh giá,
phê bình đều có ảnh hưởng đến sự tiếp nhận văn học nữ quyền của độc giả.
2.2.2. Phê bình văn học nữ quyền
Chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) đã có một quá trình phát triển hơn hai
trăm năm, là hệ quả tất yếu của phong trào cách mạng tư sản cận đại. Các phong
trào về nữ quyền, đòi quyền nam nữ có ảnh hưởng to lớn đến văn học. Tiêu biểu,
năm 1694, nữ tác gia người Anh Mary Astell viết tác phẩm Một đề nghị nghiêm
túc cho quý bà. Năm 1970, nữ tác gia Pháp Olympe de Gouges đã phát biểu Tuyên
ngôn quyền lợi phụ nữ bao gồm 17 điều yêu cầu của giới phụ nữ. Đến năm 1792,
nữ kịch tác gia người Anh Mary Wollstonecraft viết công trình Biện hộ cho nữ
quyền. Năm 1872, nhà văn Pháp Alexandre Dumas công bố luận văn Bàn về phụ
nữ. Bên cạnh đó, Judith Sargent Murray được đông đảo công chúng biết đến với
tiểu luận Bàn về sự bình đẳng giới năm 1790…
Phê bình nữ quyền chỉ thực sự trở nên có sức lan tỏa mạnh mẽ thông qua
tác phẩm “kiệt xuất” của nữ văn sĩ người Pháp Simone de Beauvoir: Giới thứ hai
(1949). Trong tác phẩm của mình, Beauvoir chỉ trích gay gắt nền văn hóa phụ hệ
đã đẩy người phụ nữ ra ngoài lề của xã hội cũng như của văn học nghệ thuật. Và
trong tư tưởng của nền văn hóa ấy, nam giới luôn gắn liền với nhân loại, lịch sử,
còn phụ nữ thì bị nhìn nhận như một “kẻ khác” (The Others), luôn ở thế bị động,
phụ thuộc, phải dựa hoàn toàn vào nam giới. Với nội dung phân tích nhiều mặt
bị áp bức và yêu cầu cao hơn nữa để giải phóng phụ nữ trong đời sống xã hội,
Giới thứ hai (The Second Sex) đóng vai trò quan trọng thúc đẩy phong trào phụ
nữ chuyển sang một bước tiến mới. Nhờ vậy, Liên hiệp quốc đã tuyên bố năm
1975 là Năm quốc tế phụ nữ. Trong tiêu đề công trình của mình, bà không dùng
43
Giới nữ mà lại dùng Giới thứ hai. Theo bà, Giới nữ gắn liền với những quan
niệm tất yếu của xã hội: đó là mềm yếu, dễ thuyết phục... và đó là sản phẩm của
xã hội và văn hóa, của thế giới đàn ông cố tạo nên quy chuẩn ngầm cho phụ nữ.
Simone de Beauvoir phải dùng Giới thứ hai thay cho Giới nữ để giảm nhẹ thiên
kiến của xã hội gán ghép cho giới nữ. Do đó, bà kêu gọi các văn sĩ hãy dùng sức
mạnh ngôn từ đấu tranh chống lại sự khống chế của nam giới, của định kiến xã
hội, chứ không chịu an phận trong những ngôn từ quy thuận của mình.
Đối với phê bình văn học nữ quyền, tác phẩm “để đời” và là “sách gối đầu
giường” của phê bình văn học nữ quyền, đó chính là Căn phòng riêng (1929)
của Virginia Woolf vì “Nhờ Woolf mà các tác giả nữ ngày nay có những khái
niệm gợi mở về cách suy nghĩ lùi thông qua người mẹ, về ý kiến của đàn bà, và
về tinh thần song giới (dung hòa cả hai giới tính)” [62]. Trong giai đoạn hình
thành phê bình văn học nữ quyền, từ thập niên 1960 kéo dài đến thập niên 1990,
là giai đoạn hình thành và xác lập những vấn đề cơ bản của lý thuyết nữ quyền:
“Hành trình này cho thấy sự phát triển dần dà của khái niệm phê bình văn học nữ
quyền đã từ sự phản kháng ban đầu chống lại lý tưởng nam là trung tâm trong
nghiên cứu văn học, đến một hệ thống đa dạng và phức tạp những luận đề nhằm
chất vấn những giả định không chỉ về giới tính, mà cả về chủng tộc, giai cấp, dục
tính” [62]. Tiếng nói đã bị vùi dập của các tác giả nữ, ngay trong giai đoạn này
đã được khôi phục mạnh mẽ trong văn chương, đặc biệt là các nữ tác giả da đen,
đồng tính nữ… Phê bình văn học nữ quyền chính là sự giao thoa của cái mới và
cái cũ, truyền thống và hiện đại khi có sự kết hợp chủ nghĩa hậu cấu trúc và chủ
nghĩa hậu thuộc địa, thuyết phân tâm học, thuyết phi giới tính.
Phê bình văn học nữ quyền thường gắn với yếu tố thẩm mỹ, giá trị nhân văn
tốt đẹp ẩn chứa đằng sau mỗi tác phẩm. Nhà phê bình đóng vai trò quan trọng
chuyển tải những điều tốt đẹp, giàu giá trị nhân sinh đó, nói như Albert Bergin thì
“Nhà phê bình phải gắn với mình một cách đầy đủ vào thời đại cũng như vào các
giá trị mỹ học; người đó phải đi tới chỗ tự hỏi mình tiêu chí thẩm mỹ trí tuệ và
tinh thần của mình có giá trị gì đối với hiện trạng của xã hội, đối với sự sống động,
đối với sự biến đổi của nền văn minh, đối với những tiến bộ ước mong của tư
44
tưởng loài người hoặc đối với những truyền thống cần duy trì” [62].
Phê bình văn học nữ quyền theo thời gian đã có những bước phát triển đáng
kể đối với sự tiến bộ của nữ giới. Năm 1979, phê bình nữ quyền đã vạch trần chế
độ gia trưởng hà khắc và những bất công, áp đặt về tình dục đối với giới nữ.
Những năm 1980, hệ thống lý thuyết, phê bình nữ quyền đã bắt đầu được hệ thống
hóa và trở nên gần gũi, quen thuộc trong một số khối ngành khoa học – xã hội như
văn học, triết học, xã hội học… Kể từ đây, phê bình văn học nữ quyền quan tâm
nhiều hơn đến “bản chất tự nhiên” và những “trải nghiệm” của nữ giới; đồng thời
định hình lối viết nữ trong văn chương. Elaine Showalter là người đưa ra khái
niệm “phê bình phụ nữ”, cùng với Hélène Cixous, đã làm rõ đặc trưng trong lối
viết nữ. Khái niệm phê bình nữ quyền, theo bà, đó chính là: “lịch sử, thể loại, thể
tài, phong cách, và cấu trúc của lối viết nữ; tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của phụ
nữ; Những ảnh hưởng từ nghề nghiệp và điều kiện cá nhân; và sự phát triển cũng
như những quy luật của văn học nữ truyền thống” [62]. Đối với văn học nữ quyền,
bà quan tâm đến những cảm xúc và trải nghiệm chân thật của giới nữ được thể
hiện thông qua văn học. Từ đây, phê bình văn học nữ quyền dần được xem như
một thuật ngữ khoa học quen thuộc, là một hướng đi mới có ý nghĩa trong việc
đấu tranh, bảo vệ và công nhận các quyền chính đáng của phụ nữ.
Trong tiến trình phát triển mạnh mẽ và vững chắc của phê bình văn học nữ
quyền, đã hình thành các khuynh hướng và nội dung phê bình chủ yếu sau:
- Phê bình về hình tượng người phụ nữ (Women’s image criticsm)
Khuynh hướng phê bình này thịnh hành vào những năm 1960 với những
cây bút như T. Moi, E. Showalter, K. Millett, A. Kolodny. Phê bình về hình
tượng người phụ nữ không chỉ miêu tả đối tượng chính là nhân vật nữ mà còn đi
sâu vào những bất bình đẳng về giới tính: phê phán sự bất công của nam quyền,
làm sâu sắc thêm chủ nghĩa bình quyền vốn có.
- Phê bình lấy hình tượng người phụ nữ làm trung tâm (Women - centered
criticism)
Khuynh hướng phê bình này thịnh hành vào những năm 1970 với chủ nghĩa
độc tôn nữ quyền. Những cây bút tiêu biểu của giai đoạn này: S. Gilbert,
45
P.M.Spack... Phê bình lấy hình tượng người phụ nữ làm trung tâm phủ nhận triệt
để vai trò của nam quyền. Họ tiến lên xây dựng môn học Thi học nữ tính tìm
nguồn (Female poetics of affiliation). Tìm nguồn có nghĩa là tìm về nguồn cội của
những giá trị mẫu quyền xa xưa tốt đẹp mà ở đó chỉ có sự dưỡng dục, thân ái đối
lập với sức mạnh, bạo lực của Thi học nam tính đầy những mưu toan cạnh tranh,
xâm lược. Ngoài ra, họ còn thiết lập môn Mỹ học nữ tính (Female aesthetics) với
chủ trương vận dụng ý thức nữ tính vào các mặt văn học, ngôn ngữ...
- Phê bình nhận diện (Identity criticism)
Khuynh hướng phê bình này xuất hiện vào những năm 1980 với những cây
bút tiêu biểu như M. Eagleton, L. Robinson... Phê bình nhận diện có nghĩa là
nhìn nhận một cách toàn diện thân phận của người phụ nữ. Đa số phụ nữ đều có
những nỗi đau khổ riêng, không ai giống ai bởi vì “Nỗi đau khổ của tuyệt đại đa
số người phụ nữ cụ thể ở ngoài đời, đâu phải chỉ là vấn đề giới tính” [57]. Đây là
khuynh hướng phê bình luận bàn những nỗi đau khổ mà những người phụ nữ da
màu, những nữ công nhân và những người phụ nữ đồng tính luyến ái phải hứng
chịu bởi những định kiến hà khắc của xã hội. Cũng từ đây, khuynh hướng phê
bình nữ quyền của người da đen bắt đầu phát triển sâu rộng, đặc biệt là ở Hoa
Kỳ. Trong hướng phát triển của phê bình nữ quyền, phê bình nữ quyền sinh thái
là hướng thành tựu nổi bật trong nghiên cứu khoa học.
Từ những thực tế lý luận - phê bình nêu trên, chúng tôi mạo muội xác định
nội hàm thuật ngữ phê bình văn học nữ quyền ở các nội dung khái quát có tính
tương đối ứng với truyện ngắn nữ 2000-2015 như sau: Phê bình văn học nữ
quyền là việc đi sâu phân tích, đề cập tất cả các mặt cấu trúc, nội dung, thể tài,
văn phong riêng của từng tác giả nữ trong từng giai đoạn cụ thể thông qua “lối
viết nữ” đặc thù - thường được viết dựa trên mọi suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc
của nữ giới bao gồm tất cả mọi phương diện trong đời sống như hôn nhân, gia
đình, kinh tế, luật pháp, các thể chế xã hội... để đấu tranh cho quyền tự do, bình
đẳng, quyền được tôn trọng đối với giới nữ luôn trở thành đối tượng, nội dung
của phê bình văn học nữ quyền thể hiện một cách sáng tạo và có hiệu quả.
Cùng với phê bình văn học nữ quyền, phê bình nữ quyền sinh thái
46
(ecofeminist criticism) là một khuynh hướng nghiên cứu mới và đầy tính khả
dụng. Nói như nhà phê bình Nguyễn Thị Tịnh Thy thì “phê bình văn học từ chủ
nghĩa nữ quyền sinh thái - kết tinh của cuộc hôn phối giữa “cách mạng giới” và
“cách mạng xanh” trong phê bình văn học” [118]. Đây chính là một sự kết hợp
thể hiện sợi dây vô hình gắn bó chặt chẽ của thiên tính nữ/ giới nữ và thiên
nhiên. Người khởi đầu cho phong trào này là Francoise d’Eaubonne, sau đó lan
rộng ra các nước phương Tây vào những năm 90 của thế kỷ XX.
Thuật ngữ về sinh thái, sinh thái học, sinh thái văn học được phổ biến tại Mỹ
từ năm 1974, sau đó lan rộng ra khắp thế giới với những đại diện tiêu biểu như
Joseph W. Meeker, Cheryll Glotfelty, Johnathan Bate, Carolyn Merchant… Theo
các nhà nghiên cứu, cái hay của phê bình sinh thái, đó là có sự kết hợp với phê bình
văn học với môi trường tự nhiên để tạo nên “đứa con tinh thần” vừa có giá trị nhân
văn vừa có ý nghĩa trong việc kêu gọi bình đẳng giới, dần lấy lại được vai trò và vị
trí trung tâm của giới nữ và tự nhiên trong xã hội hiện đại. Có thể thấy rằng: “Phê
bình sinh thái vận dụng quan điểm sinh thái học hiện đại khảo sát quan hệ giữa văn
học và nghệ thuật và tự nhiên, xã hội và trạng thái tinh thần con người; chất vấn
quan hệ giữa ba yếu tố: con người, tự nhiên, nghệ thuật, qua đó thể hiện tính nhân
văn, tái cấu trúc quan niệm mới của lý thuyết này” [104, tr. 141].
Cũng theo nhà phê bình Nguyễn Thị Tịnh Thy, chủ nghĩa nữ quyền sinh
thái đi sâu vào các vấn đề trọng tâm như:
- Khẳng định và đề cao vai trò của phụ nữ trong mối quan hệ với tự nhiên,
giữa phụ nữ và nam giới có sự gắn bó khác nhau với tự nhiên (nữ giới thích gắn
liền tự nhiên, còn nam giới thì ngược lại).
- Sự gắn kết khách quan giữa các giống loài khác nhau trên trái đất.
- Xây dựng và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên, trong đó, có con
người và các giống loài khác.
- Bài trừ quan điểm gây cản trở, chia rẽ con người và tự nhiên, coi trọng
nam giới, xem thường phụ nữ…
Như vậy, phê bình nữ quyền sinh thái đang dần trở thành một trào lưu
phát triển bởi sự kết hợp của việc bảo vệ môi trường và dần nâng cao, khẳng
47
định vai trò của giới nữ trong xã hội: “Phê bình nữ quyền sinh thái hướng tới
nhiều vấn đề, nhưng nó xoay quanh vấn đề phụ nữ và tự nhiên, kết hợp góc
nhìn sinh thái và góc nhìn tự nhiên, tạo ra một không gian nghiên cứu đặc thù”
[118]. Nghiên cứu về phê bình nữ quyền sinh thái cũng có nghĩa là loại trừ sự
thống trị và vai trò trung tâm của chủ nghĩa nam quyền bởi “lý luận của chủ
nghĩa chủ thể sinh thái và chủ nghĩa nữ quyền sinh thái đều lấy việc xóa bỏ sự
đối lập nhị nguyên làm cơ sở triết học” [118]. Có thể thấy rằng, chủ nghĩa nữ
quyền sinh thái đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống văn học bởi đã đi sâu
vào “nội hàm phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái bao gồm tôn
trọng sự khác biệt, khôi phục thiên tính nữ đã từng bị đè nén và chôn vùi, xây
dựng và xiển dương vẻ đẹp của thiên tính nữ như ý thức hợp tác, tinh thần
khoan dung, tình yêu cuộc sống, ước vọng hòa bình…” [118]. Hiện nay, vấn đề
bảo vệ môi trường được quan tâm hàng đầu bên cạnh vấn đề bảo vệ, giải
phóng, đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ. Phê bình văn học kết hợp với nữ
quyền sinh thái đã tạo nên những tác phẩm truyện ngắn trong văn học Việt
Nam có dấu ấn về giá trị nhân văn và ý nghĩa giáo dục sâu sắc, là hướng đi mới
nhằm giáo dục nhận thức về bình đẳng giới. Và như vậy, phê bình sinh thái còn
có sứ mệnh “tác động đến nhận thức, văn hóa của con người hiện đại theo
hướng kìm hãm những dục vọng cùng suy nghĩ và hành động phi lý của con
người hiện đại trong quan hệ với tự nhiên” [104, tr.138].
2.3. Ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam
2.3.1. Ý thức nữ quyền trong văn học truyền thống
Nhắc đến ý thức nữ quyền trong văn học truyền thống, không thể không nhắc
đến hệ thống ca dao, tục ngữ rất đa dạng, phong phú về hình tượng người phụ nữ:
“Thân em làm lẽ chẳng nề
Có như chính thất, ngồi lê giữa đường”
Khởi nguồn với ca dao tục ngữ, người phụ nữ đã bước đầu ý thức cho sự
đấu tranh bình đẳng giới, tuy rằng sự đấu tranh đó chưa được “bạo dạn”, “triệt
để”. Có lẽ một phần do hệ tư tưởng lỗi thời của Nho giáo đã đẩy người phụ nữ
48
vào hoàn cảnh sống tủi nhục, bi ai nhưng họ vẫn giữ được tâm hồn đầy tươi trẻ,
thủy chung, son sắt. Và điều quan trọng là họ không bao giờ từ bỏ hy vọng về
một tương lai tươi sáng phía trước:
“Hồng Hà nước đỏ như son
Chết thì chịu chết, sống còn yêu anh”
Tuy nhiên, khi cuộc sống không được như ý muốn, những người phụ nữ
đức hạnh ấy sẵn sàng phản kháng để nói lên tiếng nói dù là nhỏ nhoi, yếu ớt của
mình chứ không cam chịu, an phận thủ thường theo lễ giáo xưa:
“Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”
Hay:
“Khi xưa anh bủng anh beo
Tay bưng chén thuốc, tay đèo múi chanh
Đến khi anh khỏi, anh lành
Anh mê nhan sắc anh tình phụ tôi
Đất xấu nặn chẳng nên nồi
Anh đi lấy vợ còn tôi lấy chồng
Anh đi lấy vợ cách sông
Thiếp tôi lấy đại con ông lái đò
Phòng khi sóng lớn gió to
Sông sâu nước cả thiếp lo cho chàng!”
Nỗi đau khổ khi bị chồng phản bội vì mê nhan sắc dường như là động lực
để người phụ nữ sống mạnh mẽ hơn và luôn phấn đấu vượt lên trên những
nghịch cảnh: “Anh đi lấy vợ còn tôi lấy chồng”. Cái kết cho những kẻ phụ tình
dường như đã được dự báo từ trước: “Phòng khi sóng lớn gió to” và tấm lòng
bao dung, vị tha, chung thủy của người vợ càng được khẳng định, ca ngợi ở cuối
bài ca dao: “Sông sâu nước cả thiếp lo cho chàng”.
Có thể nói, theo thời gian, hình tượng người phụ nữ ở những giai đoạn đầu
tiên của văn học truyền thống mới chỉ xuất hiện lẻ tẻ, sự đấu tranh vẫn còn mang
49
tính “tự phát”, chưa phải là đối tượng trọng yếu của văn học. Ở những giai đoạn
sau, đã định hình rõ nét hơn hình ảnh về những người phụ nữ có tiếng nói mạnh
mẽ, “đại diện” cho một thời kỳ đỉnh cao trong văn học xưa.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, văn học bằng chữ Hán phát triển, người phụ
nữ xuất hiện trong một số truyện với vị thế trung tâm như Việt điện u linh (Lý Tế
Xuyên), Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp). Hình ảnh hai người phụ nữ tài ba
Trưng Trắc và Trưng Nhị được xem như những “anh hùng dân tộc của người
Việt” vì đã lập công xóa bỏ ách đô hộ của Đông Hán. Họ chính là những người
phụ nữ “làm nên lịch sử” bởi đã giành được thắng lợi lớn, đánh đuổi được quân
thù ra khỏi lãnh thổ dân tộc.
Từ thế kỷ XV trở về sau, số lượng những tác phẩm viết bằng chữ Hán gia
tăng, hình tượng người phụ nữ xuất hiện đa dạng trong một số tác phẩm, nhưng
tạo dấu ấn và thành công nhất vẫn là tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ. Đây chính là thời điểm Nho giáo đã có những áp chế gay gắt, hà khắc đối
với người phụ nữ. Nho giáo không cho phép người phụ nữ đi bước nữa khi
chồng mất, phải ở vậy thờ chồng, nuôi con suốt đời. Hình ảnh những người vợ/
người mẹ thủ tiết thờ chồng, thường được gọi là liệt nữ xuất hiện khá nhiều trong
văn học Trung Quốc và Việt Nam. Điển hình như Nam Xương nữ tử truyện trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng,
Đại Nam liệt truyện… Đề tài chiến tranh với hình ảnh nàng Vũ Nương trong
Truyền kỳ mạn lục xuất hiện từ thế kỷ XVI của Nguyễn Dữ chính là sự đề cao
những người phụ nữ thùy mị, nết na, chung thủy, kiên trinh một lòng một dạ chờ
chồng, hiếu đạo với mẹ chồng nhưng cuối cùng phải hứng chịu bi kịch. Cái chết
của nàng Vũ Nương là do sự ghen tuông mù quáng, sự áp đặt, tư tưởng bảo thủ
của chế độ nam quyền trong thời phong kiến. Văn học trung đại hướng đến sự ca
ngợi những người phụ nữ luôn giữ gìn tiết hạnh, trinh tiết thủy chung chờ chồng,
mà Lê Văn Tấn đã nhận định khái quát: “Đây là lần đầu tiên trong văn học,
người phụ nữ đã chiếm một địa vị danh dự” [97]. Hình tượng người phụ nữ
50
trong văn học trung đại được đề cao bởi sự kiên trinh, quyết tâm bảo vệ phẩm
hạnh đến cùng, sẵn sàng tìm đến cái chết để chứng minh sự trinh nguyên và
oan sai của mình một cách ý thức và quyết liệt. Điều đó bắt nguồn từ “Khát
vọng tình yêu, khát vọng giải phóng nhu cầu tình cảm bản năng và khát vọng
hạnh phúc gia đình” [97].
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ chính là một “thiên cổ kỳ bút” với
hình ảnh chủ đạo, xuyên suốt trong 20 truyện viết bằng chữ Hán của ông đã thể
hiện sự cảm thông sâu sắc đối với người phụ nữ trong chế độ phụ quyền phong
kiến. Theo nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh thì sự băng hoại đạo đức, bi
kịch của nữ giới chính là từ chế độ hà khắc xưa cũ: “Trong một xã hội rối ren
như thế… người phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái
cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông, họ đều là những thiếu phụ
xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số
phận bi thảm. Đến cả loạt nhân vật “phản diện” như nàng Hàn Than (Đào thị
nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn ma (Tây viên
kỳ ngộ ký) và “yêu quái ở Xương Giang” cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì
“nghiệp oan” mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng
đáng thương” [117].
Các nhân vật liệt nữ như nàng cung phi Bích Châu (Truyền kỳ tân phả), Vũ
Thị Thiết (Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân truyện), Mị Ê (Việt điện u linh)… đã
thể hiện được “sức sống mới” tiềm tàng của các nhân vật nữ, là đối tượng chính
của các nhà văn nam hướng tới dù họ chỉ là những liệt nữ nhỏ bé. Đây chính là
bước tiến đầu tiên để hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong những áng thơ văn
nhiều hơn và thể hiện được hình ảnh nữ quyền sau này.
Từ thế kỷ XVIII trở đi, văn học chữ Nôm phát triển mạnh với những thể
loại mới đa dạng như thơ Nôm Đường luật, Hát nói, Ngâm khúc và truyện thơ.
Giai đoạn này cùng với sự gia tăng số lượng các tác giả và tác phẩm viết về hình
tượng người phụ nữ đã “bảo chứng” cho sự thành công của văn học chữ Nôm.
Nhắc đến đại diện của thơ Nôm Đường luật không thể không nhắc đến nữ sĩ Hồ
51
Xuân Hương (cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX). Bà chính là nữ tác gia tiêu
biểu với phong cách mang đậm hơi hướng cá nhân, tạo nên “hơi thở mới” cho
văn học Việt Nam. Những tác phẩm tiêu biểu mang đậm dấu ấn ý thức nữ quyền
trong văn học trung đại của Hồ Xuân Hương có thể kể đến như: Bánh trôi nước,
Làm lẽ, Không chồng mà chửa, Thiếu nữ ngủ ngày, Lấy chồng chung…Hình ảnh
người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại có thể nói được thể hiện đa
dạng, thậm chí còn manh nha vấn đề “xưa nay hiếm”: “ẩn ức tính dục”, “cảm
quan tính dục”... Hồ Xuân Hương là một ví dụ điển hình tiêu biểu với những
cảm quan đầy tính “thách thức” và “mới lạ” như thế.
Trong Bánh trôi nước, tác giả đề cao những người phụ nữ thủy chung, son sắt,
với số phận khắc nghiệt “Bảy nổi ba chìm với nước non”, “Rắn nát mặc dầu tay kẻ
nặn” nhưng họ “vẫn giữ tấm long son”. Hay sự mạnh mẽ, kiên định chống lại chế
độ đa thê trong thời phong kiến, đòi quyền sống, công bằng, hạnh phúc cho người
phụ nữ trong bài thơ Làm lẽ của Hồ Xuân Hương. Lần đầu tiên trong văn học trung
đại, tác giả đã “chửi thẳng” cái kiếp “chung chạ”, “hèn mọn”, không tình yêu, hạnh
phúc với tư tưởng của một người phụ nữ tiến bộ đi trước thời đại:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
Và sự “tự nhận thức lại”, đổi mới trong suy nghĩ, hành động của một người
phụ nữ trí thức, một điều khá mới mẻ, lạ lẫm trong thơ văn các giai đoạn trước.
Người phụ nữ không còn bị ép buộc, chi phối bởi lễ giáo xưa mà họ đã mạnh dạn
chọn lựa một cuộc sống tốt đẹp hơn:
“Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong”
Mong ước một xã hội bình đẳng, bình quyền thể hiện rất rõ trong văn học
trung đại với đại diện tiêu biểu là Hồ Xuân Hương. Bà chỉ trích chế độ phong
kiến trọng nam khinh nữ tồn tại lâu đời. Theo bà, người phụ nữ vẫn có thể tạo
dựng được sự nghiệp “lừng lẫy” không thua kém gì nam giới. Điều đó cho thấy
52
tư tưởng “an phận thủ thường” đã dần bị dẹp bỏ vì không còn hợp thời:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống - Hồ Xuân Hương)
Có thể nói, so với văn học dân gian, bắt đầu từ thời kỳ văn học trung đại trở đi,
trong tư tưởng và hành động của nhân vật nữ đã có sự thay đổi, biến chuyển rất lớn.
Đó là họ đã dám phản kháng chống lại lễ giáo phong kiến, nhằm mưu cầu hạnh
phúc, tự do và bình đẳng cho bản thân. Hồ Xuân Hương chính là đại diện tiêu biểu
cho giai đoạn này với những sự phản kháng đầu tiên về giới. Như tác giả Đặng
Thanh Lê trong bài “Góp thêm một tiếng nói trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân
Hương” đã nhận định: “Hồ Xuân Hương phủ định, phản kháng không phải để lùi lại
mà là để tiến lên một bước, dù bước đi có chập chững chăng nữa” [130, tr.260].
Về thể loại Ngâm khúc về hình tượng người phụ nữ, thế kỷ XVIII còn đánh
dấu sự xuất hiện nhiều hình ảnh những người phụ nữ xuất thân trong những hoàn
cảnh đặc biệt. Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, xoay quanh
chủ yếu hình tượng “người chinh phụ, người cung nữ và người kỹ nữ” [109]. Đó
chính là những sáng tác điển hình của các nhà Nho trí thức yêu nước, có tư
tưởng tiến bộ, tiên phong trong việc khắc họa những nỗi niềm đau khổ, tủi hổ mà
nữ giới xưa phải gánh chịu. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
(Đoàn Thị Điểm dịch) đã nói lên được nỗi lòng cô đơn tái tê, nhớ mong khắc
khoải của người phụ nữ có chồng đi đánh trận. Nàng vừa lo lắng cho chồng với
những nguy hiểm ở trận địa, vừa thương cho số phận hẩm hiu của mình. Bài thơ
đã thể hiện tiếng nói tố cáo chiến tranh phi nghĩa, khiến bao gia đình vợ chồng
phải chia ly, đề cao khát vọng tự do, hòa bình, được sống trong bầu trời hạnh
phúc và tình yêu của giới nữ:
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
53
(Chinh phụ ngâm)
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều thể hiện nỗi đau tột cùng của
người cung nữ đã từng được vua hết mực yêu thương, sủng ái sau đó cũng chính
vua đã xa lánh, ruồng bỏ họ. Nỗi cô đơn bủa vây, người cung nữ thương cho
thân phận nữ nhi trong sáng, bị giam hãm, chặt đứt những khát vọng, mơ ước
chính đáng về tuổi thanh xuân tươi đẹp, quyền được sống và hạnh phúc của
mình. Tác phẩm là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến đã đối xử bất công, chà
đạp mọi danh dự, phẩm giá trong sáng, tình cảm thanh cao, chung thủy, trước
sau như một của người phụ nữ:
“Vì đâu nên nỗi dở dang
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình”
(Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều)
Không còn những giọt nước mắt ủy mị, than thân trách phận, người cung
nữ lần đầu tiên “bùng nổ” trong những câu thơ phản kháng dữ dội, đầy căm hận.
Đây chính là sự phản kháng mãnh liệt, tố cáo chế độ đa thê và sự tù túng, giam
hãm của những người phụ nữ trẻ trong thời phong kiến:
“Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không?
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!”
(Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều)
Yếu tố tính dục trong văn học truyền thống lần đầu tiên được manh nha và
thể hiện qua những nỗi nhớ nhung “chăn đơn gối chiếc” của nàng chinh phụ
hàng đêm. Hay một không gian hẹp là chiếc buồng của nàng cung nữ đã lưu dấu
bao kỷ niệm, nhưng buồn thay “Đêm phong vũ lạnh lùng có một” để rồi chính
nàng lại luyến tiếc bồi hồi nhớ về những ân ái mặn nồng đã xa “Một đêm nhớ
cảnh biết bao nhiêu tình”. Có thể thấy rằng, những nhục cảm về thể xác chưa
được thể hiện rõ, chỉ là gián tiếp thông qua nỗi nhớ mong, nhưng đây chính là
những tác phẩm đầu tiên đã nói lên được khát vọng thầm kín của phụ nữ trong
54
xã hội phong kiến xưa.
Đối với truyện thơ Nôm bác học giai đoạn này, hình tượng người phụ nữ
xuất hiện đầy ấn tượng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu. Đó chính là những người phụ nữ có đức, có tài nhưng lại có
thân phận “thấp cổ bé họng” trong chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Tiêu biểu là
hình ảnh nàng Thúy Kiều xinh đẹp, công dung ngôn hạnh trong tác phẩm Truyện
Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Nàng Kiều đã có những bước phản kháng đầu
tiên đối với lễ giáo phong kiến, nhằm mưu cầu hạnh phúc, tự do và bình đẳng
cho giới nữ. Với xuất thân “cành vàng lá ngọc”, “tiểu thư đài các” nhưng Thúy
Kiều đã bất chấp mọi lễ giáo, quy tắc, không “hổ thẹn” vì mình là “thân gái” vẫn
“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tìm đến tình yêu đích thực của đời
mình. Nàng Kiều Nguyệt Nga (Lục Vân Tiên) đã thể hiện được vẻ đẹp của người
phụ nữ Việt Nam: trọng tình nghĩa, trọng ân tình, luôn hướng đến những giá trị
truyền thống tốt đẹp trong cuộc sống.
Và cuối cùng, hệ thống truyện thơ Nôm bình dân viết về hình tượng người
phụ nữ đã tạo nên những tác phẩm có giá trị, tiêu biểu là các truyện thơ Nôm nổi
tiếng được công chúng nồng nhiệt tiếp nhận rộng rãi như Phạm Tải - Ngọc Hoa,
Phạm Công - Cúc Hoa, Nhị độ mai…
Tóm lại, từ sự phát triển chủ đề/ hình tượng người phụ nữ với giai đoạn đầu
là văn học dân gian, cho đến văn học trung đại đã chứng kiến “sự manh nha” của
giới nữ. Họ đã biết đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh
phúc. Ý thức và sự tự nhận thức về giới tính đã dần được thể hiện rõ nét hơn trong
văn học trung đại. Đây cũng chính là giai đoạn nền tảng cho sự xuất hiện ý thức
nữ quyền, ý thức phái tính và thiên tính nữ được thể hiện mạnh mẽ và trực diện
hơn, được độc giả đón nhận trong nhiều tác phẩm văn học hiện đại sau này.
2.3.2. Ý thức nữ quyền trong văn học hiện đại
Chuyển sang đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện chữ quốc ngữ và sự phát
triển của làn sóng “Âu hóa”, đã xuất hiện những ngòi bút sắc sảo với những bài
báo bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của người phụ nữ trong chế độ phong kiến
55
hà khắc. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã có nhận định: “Qua hoạt động báo
chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn.
Phan Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề: phê phán Khổng giáo, tiếp
nhận tư tưởng Âu Tây, nữ quyền” [5]. Luận bàn về mối quan hệ giữa văn học và
nữ giới, theo Phan Khôi, yếu tố thẩm mỹ rất quan trọng. Người ta thường nói
“Văn học là nhân học”, nữ giới chính là nhân tố tiệm cận với cái đẹp nhất, yếu tố
thiên tính nữ, hệ tư tưởng Mẫu hệ đã giúp cho văn học trở nên gần gũi với giới nữ.
Thế nên, không có gì lạ khi chị em phụ nữ sáng tác văn chương đạt đến ngưỡng
cảm xúc thăng hoa, cơ bản là do đặc trưng hướng nội, nhạy cảm, tinh tế của giới
nữ. Đó chính là ưu điểm của giới nữ mà Phan Khôi cho rằng, chủ thể nam giới với
những sáng tác của mình không thể thiếu hình tượng trung tâm là người phụ nữ:
“Tôi rất lấy làm lạ rằng xưa nay bất kỳ nước nước nào cũng vậy, văn học là phần
đàn ông, đàn ông đứng vào trung tâm của văn học, thì làm sao trong văn học, cứ
hay nói đến chuyện đàn bà. Càng làm những áng văn chương hay chừng nào thì
lại càng nói tinh tế chuyện đàn bà chừng nấy” [5]. Thế nên, sẽ không có gì là lạ
nếu phụ nữ xác lập được vị thế của mình trong đời sống xã hội và trong địa hạt
văn chương: “Nếu vậy thì nữ tánh trở thành ra trung tâm của văn học hay sao? Nữ
lưu sau này sẽ trở nên người chủ trương nền văn học hay sao? Biết đâu!” [5].
Cùng với Phan Khôi, Manh Manh nữ sĩ (Nguyễn Thị Kiêm) chính là người
phụ nữ đầu tiên đã có những bài thơ, bài báo với ngòi bút đầy sắc sảo, tinh tế. Bà
là người ủng hộ và đề cao vai trò của nữ giới trong văn học, trong cuốn Việt Nam
thi nhân tiền chiến (quyển thượng) có đoạn ca ngợi bà: “Trong hồi dậy men của
nền thơ mới, nữ sĩ Manh Manh là người đàn bà đầu tiên đáp ứng tiếng gọi đàn
của nhà tiên phong Phan Khôi…” [61]. Manh manh đã có những bài diễn thuyết
nổi tiếng: “Phụ nữ và văn học” tại Hội chợ phụ nữ năm 1932; “Dư luận nam giới
đối với phụ nữ tân tiến” tại Hội Quảng Tri, Huế năm 1934; “Có nên tự do kết
hôn hay không?” tại Nam Định năm 1934; “Một ngày của một người đàn bà tân
tiến” tại Hà Nội năm 1934; “Có nên bỏ chế độ đa thê không?” tại Hải Phòng
năm 1934. Có thể thấy, Manh Manh nữ sĩ là người phụ nữ “gan dạ” vì bà đã dám
56
nói lên tiếng nói tố cáo thời cuộc, cổ vũ nhiệt tình cho sự đấu tranh của nữ giới.
Bà cho rằng: “Nữ lưu của thế kỷ XX vượt ra khỏi buồng the, đi học đi làm như
đàn ông, tự do đi đứng, nói cười, đá cầu, vợt banh, lập hội hè, tranh cãi… Ngang
hàng với đàn ông, bình đẳng phẩm giá trong xã hội” [23].
Cũng trong giai đoạn này, chứng kiến sự ra đời của những tờ báo như Nữ
giới chung, Phụ nữ tân văn… do Sương Nguyệt Anh làm chủ bút. Ngoài ra,
Đạm Phương nữ sử đã thay đổi những “quan niệm lỗi thời” với phát ngôn ca
ngợi vai trò của đàn bà và tầm quan trọng của giáo dục: “Đàn bà là người, đàn bà
là phần nửa nhơn loại… Nếu tất cả đàn bà thế giới không có học thức, thì một
nửa nhân loại có lẽ là thú cả” [85]. Có thể nói, đây là một giai đoạn để lại nhiều
“dấu ấn” về giới. Tác giả Nguyễn Kim Anh trong bài “Vài đặc điểm của văn thơ
Nam Bộ thế kỷ XX” đã chỉ ra rằng: “Nhờ tiếp xúc với văn hóa, văn học Tây
phương sớm và sớm bước vào hoạt động văn học với một đội ngũ đáng kể những
thập niên đầu thế kỷ, lại có được đất dụng võ là hai tờ báo Nữ giới chung và Phụ
nữ tân văn, các nhà văn nữ Nam Bộ có điều kiện để bày tỏ những suy nghĩ của
họ về bản thân, về giới, mong muốn được sự đồng cảm của người đọc về những
vấn đề còn chưa thật sự thoát ra khỏi những quan niệm chật hẹp, lỗi thời của một
cách sống đã hằn thành vết từ hàng trăm năm” [80, tr.13].
Trước năm 1945, sự xuất hiện của nhóm Tự lực văn đoàn năm 1934 do
Nhất Linh, Khái Hưng làm chủ biên đã làm dấy lên một trào lưu mới trong việc
tiếp nhận văn hóa phương Tây, ảnh hưởng tích cực đến lối viết hiện đại của một
số nhà văn sau 1945. Điều đó chứng tỏ, những lề thói xưa cũ đã không còn phù
hợp với thời đại, xu thế mới nữa. Thay vào đó là hình ảnh những người trí thức
Tây học, những cô gái tân thời… Sự xuất hiện của nhóm Tự lực văn đoàn kéo
theo sự phát triển của loại hình tiểu thuyết lúc bấy giờ. Nhân vật nữ trong các tác
phẩm của Tự lực văn đoàn được thể hiện mang hơi hướm của nhân vật nữ “nổi
loạn” - nhân vật tự thức tỉnh. Họ đã vượt qua được vòng luân lý khắc nghiệt của
lễ giáo phong kiến để vươn đến tự do, hạnh phúc trong tình yêu, cuộc sống. Do
vậy, yếu tố cá nhân và ý thức tự giải phóng cá nhân luôn được đề cao trong tiểu
57
thuyết của Tự lực văn đoàn. Đó là Mai (Nửa chừng xuân), một cô gái xinh đẹp,
chính trực đã tự giải phóng mình ra khỏi chế độ đa thê, đã dõng dạc tuyên bố
hùng hồn: “Nhà tôi không có mả lấy lẽ”. Đó còn là Tuyết (Đời mưa gió) dám
thách thức và làm trái ngược lại những quy chuẩn, giáo lý về trinh tiết xưa. Đó là
Lan (Hồn bướm mơ tiên) đã tự mình tìm đến tự do, tình yêu, tự giải phóng mình
trước sức mạnh vô hình, sự hạn chế và khổ hạnh của Phật pháp, tôn giáo. Có thể
thấy rằng, thế giới nhân vật nữ đa dạng, phong phú của tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn đều có điểm chung: họ là những “con người mới” từ diện mạo bên ngoài
đến ý thức tân tiến bên trong nên không chấp nhận một cuộc sống tù túng, khuôn
phép, mất tự do. Họ sẵn sàng đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến hủ lậu để
trở thành một cá thể bản ngã riêng trong xã hội lúc bấy giờ.
Từ năm 1945 - 1975, là thời điểm cả nước bước vào hai cuộc kháng chiến
cứu nước, hình tượng những người phụ nữ trung hậu, đảm đang, bất khuất trong
thời chiến được thể hiện chân thật, sống động thông qua hình ảnh những người
phụ nữ Việt Nam anh hùng. Từ truyện ngắn cho đến tiểu thuyết, hình ảnh người
mẹ dũng cảm, chịu nhiều mất mát, hy sinh, đã tạo nên nhiều xúc cảm cho độc
giả. Đó là hình ảnh của chị Út Tịch trong truyện ngắn Người mẹ cầm súng cho
đến hình ảnh chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn đất của Anh Đức, cô du kích Mẫn
trong tiểu thuyết Mẫn và tôi của Phan Tứ. Hình ảnh những người mẹ, người vợ,
người chị đó khiến cho chúng ta thêm khâm phục về nghị lực sống và sức chiến
đấu gan dạ, dũng cảm, không đầu hàng, bi lụy trước số phận và thử thách. Họ là
những người phụ nữ nhỏ nhắn, mảnh mai nhưng lại có sức sống tiềm tàng như
xương rồng trước sa mạc, càng nắng gió cuộc đời thì càng tỏa hương sắc rực rỡ.
Có thể nói, văn học giai đoạn này nhấn mạnh đến “phương diện tạo sinh, làm
mẹ, nuôi nấng, đùm bọc… của giới nữ được các nhà văn chú trọng khai thác và
nâng lên thành một tầm vóc vĩ đại bởi nó gắn liền với hoạt động đấu tranh cách
mạng, gắn với sứ mệnh thiêng liêng mà lịch sử dân tộc đặt lên vai mỗi công dân
đất Việt, trong đó có người phụ nữ” [1].
Từ văn học yêu nước ở miền Bắc, văn xuôi đô thị miền Nam trước năm
1975 đã chứng kiến sự trưởng thành và phát triển của các cây bút nữ giai đoạn
58
này như Túy Hồng, Nhã Ca, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị
Hoàng, Trùng Dương, Trần Thị NgH… Nhà văn Võ Phiến trong Tổng quan văn
học miền Nam cũng nhận định, giai đoạn 1954 - 1975, văn học càng ngày càng
“nghiêng về nữ phái”.
Nguyễn Thị Hoàng nổi tiếng với những sáng tác mang hơi hướm “nổi loạn”
như tình yêu “vô luân” của mối quan hệ cô - trò trong Vòng tay học trò (1966).
Ngoài ra, những tác phẩm khác của tác giả cũng đã để lại tiếng vang lớn như
Trên thiên đường ký ức (1967), Về trong sương mù (1970), Bây giờ và mãi mãi
(1974)… Trùng Dương tạo ấn tượng bởi chủ nghĩa hiện sinh với Mưa không ướt
đất (1967) và Lập đông (1972). Đặc biệt, yếu tố tính dục lần đầu tiên xuất hiện
đầy bạo dạn với văn phong của Nguyễn Thị Thụy Vũ trong tác phẩm Mèo đêm,
Nắng chiều vàng cùng các nhân vật nữ chân quê, tỉnh lẻ, thậm chí là gái bar đầy
bản năng. Trần Thị NgH với Lạc đạn (1973) đã thể hiện sự bùng nổ đối với cuộc
cách mạng về tình dục của các nhân vật nữ.
Có thể thấy rằng, đây là giai đoạn các nhà văn nữ văn xuôi miền Nam tự
tạo cho mình phong cách và bản thể riêng trong văn chương, theo như nhà văn
Thụy Khuê “đã thể hiện tâm linh táo bạo của người phụ nữ thời đại, chao đảo
trước một thứ nữ quyền vừa hình thành qua sự nhận diện thân xác, và bị dằn vặt
trong một xã hội vẫn còn chưa hẳn thoát khỏi đạo lý Khổng Mạnh…” [54].
Sự “trỗi dậy” mạnh mẽ nhất của văn học nước nhà phải kể đến công cuộc
Đổi mới năm 1986. Nếu như giai đoạn trước, các nhà văn nam chiếm địa vị
“thống trị” trong lĩnh vực sáng tác truyện ngắn thì sau năm 1986, nhiều cây bút nữ
dần xuất hiện và tạo nên một “trào lưu mới”, “hiện tượng mới” trong nền văn học
nước nhà. Số lượng truyện ngắn nữ có chất lượng, được độc giả đánh giá cao cũng
tăng dần theo thời gian. Nhiều cây bút nữ dù chỉ mới xuất hiện trên văn đàn nhưng
đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc cả về nội dung và chất lượng
nghệ thuật như: Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Y Ban, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu... Họ đã “thổi hồn” vào tác phẩm, tiếng nói nữ quyền
đầy quyền uy, cá tính, phong cách viết văn mang đậm dấu ấn hiện đại và “hơi
59
hướm” mới của thời đại. Tất cả những yếu tố đó đã mang lại thành công cho văn
học Việt Nam hiện đại mà ở đó chủ thể tiêu biểu trong các sáng tác, chính là hình
tượng nữ giới. Những chủ đề quen thuộc vẫn là tình yêu và hôn nhân, hạnh phúc
gia đình. Dù các tác phẩm của các nhà văn nữ phần lớn phản ánh bi kịch của giới
nữ, nhưng ngược lại, nó không quá bi lụy mà lồng ghép vào đó là tinh thần “bất
tử”, sức sống tiềm tàng của “những bông hoa” đã bị “vùi dập”, “tả tơi” nhưng vẫn
tỏa hương cho đời. Đó chính là “thiên tính nữ” cao đẹp của giới nữ bằng sự bao
dung đầy tình người như Ngọn đèn không tắt, Cuối mùa nhan sắc, Cánh đồng bất
tận (Nguyễn Ngọc Tư); những sóng gió cuộc đời, những phút giây ngoài vợ ngoài
chồng, sự khao khát tình yêu của những người phụ nữ bất hạnh chợt giúp họ nhận
ra giá trị gia đình vẫn là vĩnh hằng: Nhà có ba chị em (Võ Thị Xuân Hà), Rượu
cúc, Biển ấm (Nguyễn Thị Thu Huệ), Ngôi đền sống (Trần Thùy Mai); cuộc đấu
tranh vì “cái tôi” nhân vị, tìm lại bản ngã, thay đổi số phận: Sau chớp là giông bão
(Y Ban), Thập tự hoa (Trần Thùy Mai), Lửa trên sông (Như Bình), Huyền thoại
cỏ mặt trời (Trần Thanh Hà), Làn môi đồng trinh (Võ Thị Hảo). Những người phụ
nữ có nội tâm sâu sắc với những suy nghĩ, lo lắng thường trực nên đôi khi cũng
không thể thoát được sự cô đơn, trống vắng. Họ thường tự độc thoại, đối diện với
chính mình để nói lên những tâm tư, nỗi lòng sâu kín như Trăng muộn (Nguyễn
Thị Châu Giang), Hậu thiên đường, Tình yêu ơi, ở đâu (Nguyễn Thị Thu Huệ).
Tác giả Phạm Thị Thanh Phượng đã từng nhận định: “Chỉ những người cùng giới
mới có thể “tự ăn mình” để phơi bày ra một “hệ lụy” rất riêng của phái nữ như thế.
Như là sự “rút ruột”, các nhà văn nữ đã kể, đã nói rất thật, rất sâu sắc những góc
khuất đầy bí ẩn trong tâm hồn của giới mình” [82]. Sự tinh tế, đa cảm, đồng cảm
cùng dòng mạch của cảm xúc đã giúp các nhà văn nữ hướng về bản thể trong cách
thể hiện rất riêng, đầy mới lạ nhưng gần gũi đời thường. Tác giả Hà Minh Đức
trong bài “Truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX” đã có một nhận xét khá ấn tượng:
“Lòng yêu cuộc sống vốn thấm sâu trong tâm hồn và cách cảm nhận của các cây
bút nữ đã giúp cho tác giả thanh lọc, chắt lấy phần cốt lõi của sự vật và khai thác
những giá trị nhân văn gần gũi” [124, tr.869].
Đa phần các tác phẩm trong giai đoạn này đều viết về chủ đề xoay quanh
60
người phụ nữ với những biến động trong cuộc sống và tác giả chính là các nhà văn
nữ với những trải nghiệm đau khổ, đắng cay, hạnh phúc... Đó là sự quyết tâm thay
đổi số phận ngoạn mục của cô Hạnh (Trăng nơi đáy giếng - Trần Thùy Mai), tình
mẫu tử thiêng liêng (Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu Huệ), nhân vật luôn kiếm
tìm tình yêu, xem tình yêu là sự cứu rỗi linh hồn (Cát đợi, Người đi tìm giấc mơ -
Nguyễn Thị Thu Huệ), sự cảm thông cho thân phận những người phụ nữ (Biển
cứu rỗi, Con dại của đá - Võ Thị Hảo)... Các nhà văn nữ đã thực sự tạo được điểm
nhấn cùng những xúc cảm bản thể đầy yêu thương bởi đơn giản họ chính là người
trong cuộc và họ hiểu được ý thức nữ quyền cũng như ý thức giới từ chính bản
thân mình rõ hơn cả. Điều đó thể hiện sự đa dạng và “cách tân” mạnh mẽ của văn
học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới của dân tộc bởi hầu hết các tác phẩm đều “đề
cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, đồng thời phản ánh địa vị thấp
kém của phụ nữ cũng như khát vọng bình đẳng và tinh thần phản kháng của phụ
nữ Việt Nam” [72].
Ở địa hạt truyện ngắn, các cây bút nữ đã thể hiện được thế mạnh của
mình, đặc biệt là giai đoạn 1986 trở về sau với nhiều tác phẩm có “thương
hiệu” như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, I’am đàn bà của Y Ban,
Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban, Hoa vông
vang của Hồ Thị Hải Âu, Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai… đã khẳng
định được vị thế của nữ giới trên văn đàn nước nhà. Theo nhận định của Đỗ
Hải Ninh thì đây là những cây bút “đặc biệt” bởi “Họ rời bỏ thế giới huyễn
tưởng, phi thực tế của thế hệ trước để trở về với cái tôi cá nhân, đào sâu vào cái
mong manh, mơ hồ của thế giới tâm hồn, theo dấu những cuộc kiếm tìm, những
mất mát nhằm tái dựng lại cái căn cước bản thân” [73]. Nhà nghiên cứu Lã
Nguyên cũng cho rằng các nhà văn nữ chính là những người “khởi tạo” và
“kiến tạo” những bước đi đầu tiên của dòng văn học nữ, đầy mới mẻ và có nét
khu biệt hấp dẫn riêng bởi khi đọc những tác phẩm đó: “ta như nghe được tiếng
reo hò khởi loạn của cõi thầm kín, vốn là vùng cấm bao đời nay bị thứ văn học
sạch sẽ thơm tho chôn chặt, giấu kỹ” [73].
Nói tóm lại, ý thức nữ quyền trong văn học sau năm 1986 được thể hiện bằng
61
những sự thay đổi trong thiên hướng sáng tác của các nhà văn nữ: là những trang viết
để phản ánh và chuyên dành cho giới nữ, là nơi để phụ nữ nói lên nỗi lòng, khao khát
đầy tính nữ. Trải qua nhiều giai đoạn, giờ đây trong sáng tác của các nhà văn nữ có sự
thay đổi tích cực là điều dễ hiểu: “Nếu thế hệ nhà văn nữ trong ngữ cảnh văn hóa
Nho giáo, xã hội phong kiến là thế hệ nhà văn tòng thuộc, bước sang thời kỳ hiện đại,
trong ngữ cảnh đất nước có chiến tranh, là thế hệ giới nữ bị nam tính hóa, thì từ 1986
đến nay là thế hệ cởi trói, tự cởi bỏ khỏi các thiết chế của nam quyền” [96, tr.185].
Bởi một lẽ đơn giản, nữ giới đã biết “sống cho mình” chứ không phải “sống vì người
khác, cho người khác, theo người khác, phục vụ người khác” [56].
Tiểu kết
Trải qua những giai đoạn biến thiên của xã hội, người phụ nữ đã dần tạo được
chỗ đứng riêng, vững chắc trên tất cả mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa,
nghệ thuật. Ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam ngày càng được thể hiện rõ
bản ngã, sức sống riêng đầy mạnh mẽ, cuốn hút qua những hình tượng người phụ
nữ qua cụ thể trong văn thơ truyền thống cho đến hiện đại. Điều đó khẳng định sức
hút mãnh liệt của nhân vật nữ, “lan tỏa” được những khát vọng nhân văn và chân
chính nhất của người phụ nữ: nhu cầu hạnh phúc về một mái ấm gia đình trọn vẹn,
yêu và được yêu đối với người mà mình yêu thương. Đã có một bước tiến mới
trong sự “tự nhận thức” của nữ giới, từ việc cam chịu, lệ thuộc, an phận, đấu tranh
tự phát, nhỏ lẻ trong văn học truyền thống chuyển sang ý thức tự giải phóng bản
thân mình trong văn học đương đại. Nữ giới đã dần làm chủ cuộc sống của mình,
tạo được những chân giá trị riêng cho bản thân, gia đình và xã hội. Các nhà văn nữ
đã đồng cảm và hóa thân tinh tế vào từng nhân vật, thể hiện những chuyển biến về
nhận thức của giới nữ đầy sinh động, trực diện và có chiều sâu nhân văn.
Thông qua sự phát triển về ý thức nữ quyền trong văn học truyền thống cho
đến hiện đại, có thể thấy rằng, âm hưởng nữ quyền ở mỗi giai đoạn lịch sử là khác
nhau. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, lối viết nữ dần có chỗ đứng quan trọng
trên văn đàn, khẳng định vai trò và vị thế tất yếu không thể thay thế của giới nữ
trong đời sống xã hội. Văn học nữ quyền chính là “thứ văn học kháng cự lại tình
trạng mất tiếng nói của nữ giới”, “văn chương mang gương mặt nữ”, là chất xúc
62
tác giúp nữ giới khẳng định được cái nhân vị của mình trọn vẹn nhất.
Chƣơng 3
CÁC KIỂU NHÂN VẬT NỮ MANG ĐẶC TRƢNG GIỚI
TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000 - 2015 TỪ
GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN
3.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do
Nhân vật văn học chính là đứa con, là sản phẩm tinh thần của nhà văn. Nhà
văn qua quá trình chiêm nghiệm, thai nghén đã tạo nên những nhân vật với
những tính cách, hoàn cảnh khác nhau cùng với cốt truyện hấp dẫn, sinh động.
Điểm mấu chốt của nhân vật là thể hiện được thế giới quan của tác giả về một
vấn đề nào đó, cách nhìn nhận mang tính đặc thù riêng của từng tác giả được thể
hiện thông qua nhân vật bởi vì “nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân
cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người”
[106, tr.27]. Nhân vật trong truyện ngắn thường thể hiện và lồng ghép được hệ ý
thức tinh thần mà các tác giả nữ gửi gắm trong đó. Và hệ thống nhân vật nữ
chính là cách thức hữu hiệu của phê bình văn học nữ quyền trong văn học để
truyền tải những thông điệp ý nghĩa và sống động nhất.
Trong luận án, chúng tôi chủ yếu phân tích nhân vật nữ với nhiều kiểu dạng,
hình tượng, tính cách khác nhau. Họ chính là những cá thể nữ khi đối diện với chế
độ phong kiến vẫn còn rụt rè, yếu ớt nhưng trong xã hội hiện đại tiến bộ thì sự đấu
tranh cho sự bình quyền, bình đẳng, quyền được tôn trọng, tự do... lại trở nên cấp
thiết, mạnh mẽ và chính đáng hơn bao giờ hết. Chính vì thế, văn chương tôn vinh
vị thế người phụ nữ xuất hiện ngày càng nhiều với nhiều tác phẩm có chất lượng.
Theo thời gian, người phụ nữ càng khẳng định được vai trò, vị trí tất yếu và không
thể thay thế trong xã hội hiện đại. Người phụ nữ trong xã hội hiện đại đã dần trở
nên có cuộc sống độc lập, tự chủ và không bị chi phối bởi tư tưởng “Tam tòng, tứ
63
đức” của lễ giáo phong kiến.
3.1.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống
Có thể thấy rằng, nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự
do cũng chính là một tiền đề lý thuyết rất quan trọng, tiến đến giải phóng phụ nữ
trong Giới thứ hai của Simone de Beauvoir. Tự do, theo Beauvoir có nghĩa là
“phụ nữ phải có trách nhiệm với chính mình, tự giải phóng, tự quyết định tự do
của mình. Đạt được tự do tuyệt đối, cũng có nghĩa người phụ nữ khẳng định
được tính chủ thể của bản thân” [102, tr.198].
Tiếp thu một cách sáng tạo những tư tưởng nữ quyền tiến bộ trên toàn thế
giới, các nhà văn nữ Việt Nam đã đưa vào trong tác phẩm của mình cái nhìn rất
tích cực, thể hiện tư tưởng mởi mẻ của người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Trần
Thùy Mai là một trong những nhà văn nữ nổi tiếng với những tác phẩm tạo tiếng
vang bênh vực cho thân phận người phụ nữ. Cái đáng quý ở những người phụ nữ
này là họ dám đứng lên bảo vệ quyền sống, quyền tự do và quyền được yêu của
mình. Những tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ này có thể kể đến là: Trăng nơi
đáy giếng, Chị Hai ơi!, Đêm tái sinh, Lễ cưới bạc...
Đa phần các nhân vật trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai đều có những
phẩm chất đáng quý của một người phụ nữ mà nhiều người phải ngưỡng mộ:
khao khát được thể hiện tài năng và cống hiến hết sức mình cho công việc. Ngân
(Đêm tái sinh) là một phụ nữ liễu yếu đào tơ nhưng hành động bất chấp cả sự
nguy hiểm đến tính mạng để khẳng định mình, luôn nhận được sự cảm phục của
tất cả mọi người. Ngân là nhân vật nữ tượng trưng một tấm gương sáng đầy tài
năng, mạnh mẽ và nghị lực, đáng để người đọc rút ra được nhiều bài học ý nghĩa
cho bản thân mình trong cuộc sống. Có thể thấy rằng: “Phụ nữ rút ngắn khoảng
cách giữa họ và đàn ông chủ yếu là qua lao động; và chỉ có lao động mới có thể
bảo đảm cho họ một quyền tự do cụ thể… Giữa họ và vũ trụ, không còn cần một
vai trò trung gian nam giới” [10, tr.365]. Có được thành công như thế, giới nữ đã
tự nhận thức được rằng: “Người phụ nữ “hiện đại” chấp nhận các giá trị của
nam giới. Họ tự hào được tư duy, hành động, lao động, sáng tạo ngang hàng
với nam giới; thay vì tìm cách hạ thấp đàn ông, họ khẳng định mình không thua
64
kém đàn ông” [10, tr.421].
Truyện Chị Hai ơi! là một nét chấm phá về những người phụ nữ bất hạnh,
lỡ làng nhưng vẫn sống thật với bản thân mình: “Bài học vỡ lòng về điều bí ẩn
của tồn sinh, tôi đã không phải học với những cô gái làng chơi gian dối, mà
trong vòng tay ấm áp của một người đàn bà dịu dàng, chân thật và thương yêu
tôi” [154, tr.12]. Hay có khi là sự “quẫy đạp” trong tâm thức: “Trong lúc đi trên
đường, bên tai tôi cứ lùng bùng những điều định nói cùng anh. Tôi sẽ nói rằng
tôi không thể tiếp tục sống trong bốn bức tường lạnh lẽo. Tôi sẽ nói muốn cùng
anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi sẽ chịu bỏng, chịu cháy, để được đau đớn,
được yêu thương. Tôi muốn chịu đựng mọi thứ trên đời, ngoài sự tẻ lạnh”
(Cánh cửa thứ chín) [154, tr.262]. Hầu hết mọi nỗi đau khổ của người vợ xuất
phát từ người chồng gia trưởng với sự “độc đoán, thô bạo, tìm cách thỏa mãn
những ám ảnh, những tật xấu của mình nhân danh những thứ quyền giành được
trong đời sống xã hội” [10, tr.269]. Truyện Lễ cưới bạc chính là sự trốn thoát,
đoạn tuyệt cuộc sống bị giam cầm không tình yêu và hạnh phúc của Kiều
Dung: “Kiều Dung đưa bàn tay đẹp lên, nàng tháo chiếc nhẫn cưới và lạnh lùng
ném xuống biển. Rồi nàng đưa hai tay luồn vào mái tóc sau gáy, tháo luôn sợi
dây chuyền mang hình khóa nhạc, ném luôn; những vật bé nhỏ ấy rơi vào
khoảng không như những hạt bụi bay đi, không dấu tích. Đấy là những cái
xiềng, một cái giam giữ thân xác nàng, một cái giam giữ linh hồn nàng. Ngày
hôm nay những vật ấy đã mất hết phép thiêng; nàng trút bỏ nó, lấy lại tự do và
cuộc sống” [154, tr.50].
Người đàn ông đã không mang lại hạnh phúc cho giới nữ nên sự phản
kháng của họ được coi như là sự “đòi hỏi được công nhận với tư cách con người
ngang hàng với đàn ông, chứ không phải là đặt sự tồn tại trong sự phụ thuộc vào
cuộc sống và đàn ông trong sự phụ thuộc vào thú tính của họ” [9, tr.85].
Đa phần các nhân vật chính - người phụ nữ trong các tác phẩm của Trần
Thùy Mai đều có số phận bất hạnh nhưng những người phụ nữ bé nhỏ ấy lại có
nghị lực phi thường. Họ dám mạnh mẽ vượt qua tất cả các rào cản và dư luận xã
65
hội, để bản thân có một cuộc sống hạnh phúc, tự do hơn. Họ biết rằng họ chỉ thật
sự hạnh phúc khi tự chính họ, chứ không ai khác, mạnh mẽ đấu tranh và giải
thoát cho bản thân mình. Tinh thần nữ quyền trong các tác phẩm của Trần Thùy
Mai đã khắc họa rất rõ điều đó, đầy tính triết lý và nhân sinh!
Trong quá trình khảo sát truyện ngắn nữ, chúng tôi nhận thấy rằng, so với
bút pháp đầy gai góc và “cá tính hóa” đầy mạnh bạo, quyết liệt dành cho giới
nữ của Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu thì lối viết nữ của Trần Thùy Mai vẫn cho thấy
sự ung dung, nhẹ nhàng, tự tại nhưng vẫn đầy bản lĩnh, kiêu hãnh trong chính
tính cách và tâm hồn người phụ nữ xứ Huế mộng mơ. Bút pháp của Trần Thùy
Mai đã đi sâu khắc họa, “mổ xẻ” thế giới nội tâm đa chiều, đa diện của nhân
vật nữ, từ đó, có thể thấy được khao khát sống hạnh phúc và tự do, là ước vọng
của giới nữ nói chung và âm hưởng nữ quyền trong truyện ngắn của Trần Thùy
Mai nói riêng.
Đấu tranh xóa bỏ những tập tục cổ hủ, chọn lối sống tự do tự tại cũng chính
là cách các nhân vật nữ thể hiện sự tranh đấu cho lý tưởng cá nhân và quyền
được sống theo cách của mình mà không chịu sự sắp đặt của bất kỳ ai. Nhân vật
H’Ny là một nhân vật điển hình, cô hạnh phúc với cuộc sống do cô tự tạo dựng
dù gặp nhiều khó khăn trước mắt: “Dòng suối nhỏ róc rách đón bàn chân H’Ny
mỗi sớm, mỗi chiều, dành cho cô những bầu nước trong nhất, mát ngọt nhất. Cây
củ mì lên xanh, trái bắp khoe râu nơi nách lá, một vạt nấm thơm dày đặc trên
thân cây mục ngoài rừng… Tất cả đều đem lại cho H’Ny niềm hạnh phúc”
(Thung lũng Yang H’Ruê - H’Linh Niê) [159, tr.102]. Ngoài ra, hệ thống nhân
vật nữ đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp, ấm êm, hạnh phúc cả về vật chất và
tinh thần không chỉ dành cho bản thân họ mà còn cho những người xung quanh
là cả một lý tưởng cao đẹp mà các nhà văn nữ luôn hướng đến và thể hiện tinh
tế, ý nghĩa trong tác phẩm của mình. Đó chính là tinh thần đoàn kết vì cá nhân và
cộng đồng của mỗi nhân tố nữ, là sức mạnh để cả buôn làng thoát nghèo nhờ tài
lãnh đạo tài tình của nhân vật H’Thai trong truyện Con đường đã chọn của
H’Linh Niê. Nhờ sự giỏi giang và năng động, luôn đổi mới trong suy nghĩ của cô
66
đã giúp cho đời sống của người dân thay đổi theo chiều hướng tích cực: “Bây
giờ cô là Chủ tịch xã. Nó giống tính ông, làm việc gì cũng làm trước, nói sau. Có
hồi, trong các buôn rộ lên rất nhanh phong trào bán đất mua xe cày, xe gắn máy.
Chính quyền xã không chỉ kịp thời đề ra những chủ trương thiết thực ngăn chặn
mấy người lén lút đến mua đất, mà còn lập một đoàn do H’Thai dẫn đầu, đi khắp
các thôn buôn phân tích cái hại của việc thiếu đất sản xuất, động viên bà con yên
tâm gắn bó với đồng ruộng” [159, tr.193].
Có thể thấy rằng, hệ thống nhân vật nữ đấu tranh cho quyền sống mang
những đặc trưng đầy đủ về giới và tinh thần nữ quyền như: sự hy sinh, tình
thương yêu đồng loại nhưng cũng đầy bản lĩnh, mạnh dạn, tự tin quyết định con
đường sống hạnh phúc cho mình và cho những người xung quanh.
3.1.2. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền tự do
Bên cạnh nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống, môtif nhân vật nữ
tranh đấu cho quyền tự do đã được các nhà văn nữ lồng ghép tinh tế vào trong
các tác phẩm của mình đã tạo được thành công. Họ đại diện cho giới mình để nói
lên tiếng nói nhân sinh và nữ quyền. Nhà văn nữ Y Ban là một ví dụ điển hình
với các kiểu dạng nhân vật nữ tranh đấu mạnh mẽ cho tuyên ngôn nữ quyền về
quyền tự do (tự do về tình yêu, tín ngưỡng, tư tưởng, hạnh phúc, hôn nhân…)
như Tự, Hàng khuyến mại, Gà ấp bóng, I’am đàn bà, Chợ rằm dưới gốc cây cổ
thụ... Những nhân vật nữ của Y Ban đa phần là những phụ nữ có học thức, doanh
nhân thành đạt, các cô gái trẻ nhưng lại thiếu thốn tình cảm, tình yêu. Họ mải
miết đi kiếm tìm tình yêu và sự thỏa mãn về thể xác nhưng cuối cùng lại nhận
được sự thất vọng: “Thế là bao nhiêu sự háo hức của tôi đã chuyển sang thất
vọng. Sự tự lực của tôi đã không đem lại kết quả nào. Và sau đó là cảm giác thật
ê chề, lại vẫn là cảm giác ê chề” [140, tr.114]. Điều mấu chốt là trên con đường
tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc chân chính đó, họ không bao giờ bỏ cuộc và
luôn đấu tranh cho quyền sống và tự do của chính mình như chính lời tâm sự của
bà Tiến sĩ trong Tự: “Nhưng tôi vốn là kẻ mơ mộng, tôi luôn tin rằng ngày mai
sẽ là ngày tốt đẹp. Con người cũng đầy tốt đẹp. Tôi cũng là một con người tốt
67
đẹp. Tôi cũng đáng được hưởng những điều tốt đẹp chứ. Lần sau người số hai sẽ
mang đến cho tôi một sự lãng mạn. Hoa. Nhẫn cỏ. Nhẫn kim cương. Lần sau tôi
sẽ nhận được những điều tốt đẹp ấy” [140, tr.134]. Điều có ý nghĩa chính là nhân
vật người phụ nữ trong truyện của Y Ban không chỉ tin tưởng vào tương lai tươi
sáng của bản thân mà còn rất mạnh mẽ, tự do trong ngôn quyền về tính dục (điều
này hoàn toàn trái ngược với nhân vật nữ trong văn học truyền thống): “Cái mà
tôi mơ mộng là văn hóa tình dục, một lỗ hỏng của dân tộc nói chung và của cá
nhân tôi nói riêng. Quả là tôi chưa bao giờ được sờ mó đến cái gọi là văn hóa
tình dục đó. Tôi khao khát được sờ mó nó” (Tự) [140, tr.136]. Và có khi là
những suy nghĩ rất “khoáng đạt”, Tây hóa: “Chúng tôi cùng vào thang máy.
Không hiểu sao tôi lại có mơ mộng rằng vào thang máy người số ba sẽ ôm tôi
vào lòng. Một cái ôm rất khoáng đạt và lãng mạn. Ý nghĩ làm người tôi run rẩy”
(Tự) [140, tr.137]. Và trên hết, những người phụ nữ trong các tác phẩm của Y
Ban luôn “tỏa sáng” bởi tình người, cứu sống được đồng loại đang bị bỏ rơi bởi
bệnh tật: “Một căn bệnh mà y học đã phải bó tay, vậy mà thị lại làm được.
Những giải thưởng cao quý của nhân loại đã được trao cho những người tìm ra
cách chữa các bệnh hiểm nghèo là gì?” (I’am đàn bà) [140, tr.34].
Một cái tên không còn quá xa lạ với độc giả trong nước, đó chính là nhà
văn nữ Đỗ Hoàng Diệu. Nhà văn cũng có những tác phẩm thể hiện rõ âm hưởng
nữ quyền như Vu quy, Bóng đè... với văn phong da diết, thấm đẫm nữ tính. Đa
phần các nhân vật trong tác phẩm đều có khao khát sống và cống hiến mãnh liệt,
chính nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận định: “Trong những truyện ngắn của Đỗ
Hoàng Diệu, toàn là những nhân vật phụ nữ, tất cả đều còn trẻ, khao khát sống,
mãnh liệt sống, tràn đầy dục tính, song chắc chắn vấn đề của chị lớn hơn rất
nhiều vấn đề số phận đàn bà” [143, tr.1]. Các nhân vật nữ của Đỗ Hoàng Diệu
tiêu biểu cho tuyên ngôn nữ quyền của phái nữ, bởi họ sống và tồn tại song hành
với sự đấu tranh không biết mệt mỏi cho quyền sống và tự do: “Tấm thân tôi
cong lên hình chữ S, một hình chữ S cố phản kháng” bởi vì “em không phải là
nô lệ của ông”, và rằng “dù đau đớn tôi cũng cố tìm cách trở mình” (Vu quy).
Hay: “Tôi muốn thân thể tôi được giải phóng” nên “tôi đạp quẫy, nội chiến, tâm
68
linh héo rũ” (Bóng đè)...
Các nhân vật nữ của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu giống nhau ở điểm là họ đều
muốn tìm kiếm sự tự do trong tình yêu, một tình yêu với nhiều cảm xúc thăng
hoa nên họ đã “ngoại tình trong tâm thức”. Beauvoir đã có một cái nhìn đầy
nhân văn, đã lý giải đầy tính thuyết phục với nguyên nhân sâu xa: “người đàn bà
trả thù bằng hành vi phản bội: hôn nhân được bổ sung một cách tự nhiên bằng
ngoại tình. Đó là sự tự vệ duy nhất của người đàn bà để chống lại cảnh nô lệ
trong gia đình trói buộc mình: ách áp bức của xã hội người đó phải chịu, là hệ
quả của ách áp bức về kinh tế” [9, tr.67]. Như vậy, so với lối viết nữ đầy nhẹ
nhàng, sâu lắng, đầy thiên tính nữ của Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Nguyễn Ngọc Tư thì văn phong của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu vừa có chút gì đó
“nổi loạn”, cộng hưởng thêm yếu tố huyền ảo, vô thức càng khiến cho nhiều tác
phẩm mang nét độc đáo riêng.
Văn phong của Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Trần Thùy
Mai, theo chúng tôi nhận thấy vẫn có sự khác biệt so với lối viết của Nguyễn
Thị Thu Huệ. Hầu hết các nhân vật chính trong truyện ngắn của Nguyễn Thị
Thu Huệ lại là các nhân vật nữ cô đơn với hành trình dài tìm kiếm tình yêu,
hạnh phúc cho mình. Điểm chung là dù gặp nhiều sóng gió cuộc đời nhưng họ
vẫn tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do của chính mình. Đó chính là kiểu
nhân vật tranh đấu và nổi loạn, phản kháng lại những thiết chế xã hội và tư
tưởng nam quyền cố hữu. Thế nên, các nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ luôn
trăn trở, tự vấn lương tâm để sống sao cho thật có ý nghĩa với những khát vọng
của bản thân. Nhân vật Quyên trong truyện Rượu cúc, luôn đấu tranh cho
quyền được sống hạnh phúc của mình khi lấy phải một người chồng vũ phu:
“Em không muốn nhìn thấy loại vũ phu đó. Tiền của mà làm gì khi anh ta coi
thường em. Lấy anh ta để lúc nào điên lên vì không vừa ý rồi đánh em như con
chó ấy à!” [148, tr.142-145]. Hay My trong Thiếu phụ chưa chồng đã rủ bỏ tất
cả để thoát khỏi vùng quê tăm tối: “Cô thấy mình phút chốc thoát ra khỏi ngôi
nhà ảm đạm quê mùa quanh năm không có chút ánh sáng của trí tuệ. Thoát
khỏi cuộc sống nghìn đời buồn tẻ, đơn giản như con trâu con bò, cây cỏ cây
69
lúa” [148, tr.101]. Và loại hình nhân vật đấu tranh pha chút nổi loạn, quyết tâm
làm lại cuộc đời trong Minu xinh đẹp: “Đời là cái cóc khô gì? Danh dự là cái
cóc khô gì? Anh giữ mọi thứ để làm gì? Chết đi, anh cũng một nắm đất như ai.
Sống như anh cả đời không biết đến điếu thuốc ngon, một buổi chiều yên ả,
một bãi biển để nghỉ thì sống làm gì. Ăn có nhiều kiểu ăn, ngủ nhiều kiểu ngủ.
Phải làm sao cho sướng chứ. Còn vài năm ta phải sống cho ta. Anh hy sinh thế
chưa đủ à?” [148, tr.392]. Điểm đặc biệt của phụ nữ, đó chính là “cái tôi” nhân
vị, là sự bộc lộ bản ngã của bản thân, không bị chi phối bởi bất kỳ một yếu tố
nào trước mọi sóng gió của cuộc đời để đạt đến “ngưỡng” của sự tự do. Bởi
vậy, theo lý thuyết nền tảng của chủ nghĩa nữ quyền thì: “Vươn tới tự do và
khẳng định tính chủ thể thì chưa đủ để giải phóng phụ nữ. Điều quan trọng là
phụ nữ phải có “cái tôi” độc đáo của riêng mình, “cái tôi” không phải lặp lại
bất kỳ ai khác và làm theo bất kỳ sự sai khiến nào” [102, tr.205].
Như vậy, có thể thấy rằng, âm hưởng nữ quyền trong truyện ngắn nữ theo
thời gian càng được nhiều tác giả thể hiện đậm nét, tinh tế. Điển hình như trường
hợp của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ. Nếu như trước kia, các sáng tác của chị
là hình ảnh những cô gái trẻ, những người phụ nữ sẵn sàng hy sinh, “sống chết”
vì tình yêu, có phần “nông nổi” của tình yêu tuổi mới lớn (Biển ấm, Cõi mê), thì
hiện nay chị đã tiếp cận phương pháp phê bình nữ quyền qua hình tượng đấu
tranh mạnh mẽ, có phần gai góc hơn, không chịu đầu hàng trước số phận (Rượu
cúc, Thiếu phụ chưa chồng, Minu xinh đẹp). Dẫu vậy, hình tượng nhân vật nữ
của Nguyễn Thị Thu Huệ “dù chống lại xã hội nam quyền nhưng chỉ dùng cách
đấu tranh dịu dàng, mềm mại. Vì họ vẫn là những người đàn bà, một loại người
làm bằng nước, bao giờ cũng ao ước có cảm giác an toàn, mối tình yêu chân
thành, ngọt ngào” [102].
Suy cho cùng, mọi ước vọng về quyền được sống và tự do của giới nữ, dù
sao cũng là suy nghĩ hiện thân đầy tích cực, vượt qua mọi hoàn cảnh để được
“tỏa sáng” dù chỉ một lần trong một thế giới đầy siêu nghiệm của tình yêu, của
hạnh phúc. Với phụ nữ, như vậy còn mong ước gì thêm? Như chính lời thỉnh cầu
70
của Hằng, cô gái mù bị hãm hiếp trong truyện Làn môi đồng trinh của Võ Thị
Hảo dù cuộc sống bi thương nhưng cô vẫn ước mong, tin tưởng vào điều diệu
kỳ: “Người đàn ông thiên thần ơi! Hãy mang em đi! Mang đi khỏi cuộc đời này,
để mẹ em đỡ khổ vì em. Hãy mang em đi, ban cho em một lần hạnh phúc, rồi
đừng quẳng em bên vệ đường, mà hãy giết em, để em khỏi sống mù lòa cả đời và
trở thành gánh nặng cho mẹ” [145, tr.96-97].
Như vậy, nguyên nhân chính dẫn đến “kìm hãm” sự phát triển của nữ giới
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống là do định kiến giới: “Những định kiến có thể
dẫn đến nhận thức thiên lệch, đánh giá và nhận xét thiếu khách quan đối với phụ
nữ, từ đó hạn chế cơ hội phát triển của phụ nữ” [107, tr.45]. Do đó, sự phản
kháng, đấu tranh cho quyền sống và được tự do cống hiến của các nhân vật nữ là
điều tất yếu, với mục đích chính là “thể hiện, giãi bày, tiếng nói phản ánh chính
thân phận bị bỏ quên hay bị phủ nhận của họ để khẳng định lại chính mình, tìm
kiếm chính mình, định nghĩa lại mình sau một hành trình bị đánh mất trong lịch
sử nhân loại” [126].
3.2. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ và khát vọng tình yêu
3.2.1. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ
Để hiểu hết mọi tâm tư nguyện vọng, khắc họa tình cảm đa chiều của các
nhân vật nữ không phải là một vấn đề đơn giản. Người cầm bút phải thật sự tinh
ý và có sự đồng cảm sâu sắc khi phân tích, mổ xẻ đời sống nội tâm đầy biến
động của các nhân vật nữ. Và ưu thế thường nghiêng về các cây bút nữ hơn khi
viết về những hình ảnh người phụ nữ tiêu biểu đại diện cho một thế hệ trẻ đi tiên
phong về xu hướng nữ quyền trong xã hội hiện đại với cách tuyên ngôn mới,
tiếng nói mới. Không chỉ đồng cảm với nhân vật nữ mà các cây bút nữ thông qua
các tác phẩm của họ đã chạm được nỗi niềm sâu kín nhất của người phụ nữ với
những khao khát hạnh phúc đời thường đầy giản dị mà cũng rất nhân văn. Thế
mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ đơn giản, đó chính là gia đình và tình mẫu
tử thiêng liêng. Đa phần các nhân vật nữ đều có chung những khát vọng rất
chính đáng: thiên tính được làm mẹ, được hy sinh bản thân để cống hiến cho đời,
71
cho người. Thiết nghĩ đó là những khao khát hạnh phúc rất đời thường nhưng
không phải ai cũng có được những hồng phúc bình dị đó. Bởi lẽ, như cách suy
nghĩ của thiên hạ thì: “Đàn bà - kiểu gì cũng khổ” [136, tr.122] hay “Đời đàn bà,
nỗi đau khổ và cô đơn thường giống nhau” [136, tr.257]. Và thậm chí, theo suy
nghĩ của số đông, đã sinh ra là thân phận phụ nữ chắc chắn sẽ thiệt thòi hơn
nhiều so với đàn ông: “Đàn bà thì lúc nào chả phải thiệt thòi… Cái gì tốt đẹp thì
người đàn bà được hưởng không đáng là bao. Những cái không tốt đẹp thì họ cứ
oằn lưng ra mà gánh” [136, tr.339].
Nói về thân phận lam lũ nhưng đầy mạnh mẽ, kiên trung của những người
phụ nữ miền Tây, chúng ta không thể bỏ qua các tác phẩm nổi tiếng như Cánh
đồng bất tận, Khói trời lộng lẫy, Mộ gió... của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. So với
các nhà văn nữ khác, những nhân vật nữ của Nguyễn Ngọc Tư mang dáng vẻ
hồn hậu, chất phát của con người miền Tây sông nước. Tuy nhiên, cái đáng quý
trong lối viết nữ in đậm dấu ấn nữ quyền làm thành bản sắc riêng của Nguyễn
Ngọc Tư, đa phần các nhân vật nữ không phải là những người “phụ nữ thụ
động”, cam chịu theo chính nhận xét của cô, mà luôn chủ động tạo nên hạnh
phúc của riêng mình dù đường đời đầy trắc trở, chông gai. Ngòi bút của Nguyễn
Ngọc Tư vừa thể hiện sự thương cảm đồng thời ngưỡng mộ ý chí sắt đá của
những người phụ nữ như thế! (Hiu hiu gió bấc, Cánh đồng bất tận, Đời Như
Ý…). Đặc biệt, truyện ngắn Cánh đồng bất tận đã minh chứng cho thành công
của Nguyễn Ngọc Tư khi tác phẩm đã khắc họa được thân phận “tả tơi” của
những người đàn bà vùng sông nước. Họ là những người đàn bà hết thời, phải
cắn răng cắn lợi để “làm đĩ”, một công việc hèn mạt nhưng dù sao vẫn có cái ăn
qua ngày. Hạnh phúc đối với những người đàn bà này quả thật rất xa vời. Họ bị
đối xử chẳng khác nào súc vật hay thậm chí như là cái giẻ rách. Họ không biết
khi nào họ sẽ bị bỏ rơi khi không còn giá trị sử dụng. Đối với họ, khao khát lớn
nhất của cuộc sống là có bữa cơm qua ngày bởi: “Sống đời mục đồng, chúng tôi
buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất kỳ ai, để khỏi ngậm ngùi, để lòng
dửng dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác” [197,
72
tr.304]. Ngay cả đến khát vọng chính đáng nhất của người phụ nữ, đó là quyền
được làm đẹp, họ cũng không dám mơ đến, bởi thực tế khắc nghiệt của cuộc
sống: “Ở cái xó quê này, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con
nheo nhóc, cũng ra ruộng ra vườn làm lụng đến hết thời, xẹp lép như xác ve.
Đẹp, mắc công giữ...” [197, tr.317]. Thế nên, khát vọng được giải thoát khỏi
cuộc sống “tù đọng” trên đồng của thân phận người phụ nữ miền Tây đã nhận
được sự đồng cảm của độc giả. Và hơn hết, họ đã thấy rõ được giá trị của bản
thân, của tình mẫu tử và khao khát sống cuộc đời “đáng sống” hơn đã giúp cho
những người phụ nữ này thêm sức mạnh để vượt lên định kiến “ao tù” miền sông
nước. Bởi họ biết rằng, được làm mẹ là một thiên chức cao đẹp của người phụ
nữ và việc làm mẹ chính là một sự hy sinh đầy cao cả và thầm lặng. Ở cuối tác
phẩm, thật nhân văn khi tình mẫu tử đã hóa giải tất cả, dù đứa trẻ bị sinh ra trong
cảnh hãm hiếp nhưng Nương vẫn mong và tin tưởng cuộc sống, tương lai tốt đẹp
sẽ đến với hai mẹ con với khát khao cháy bỏng: “Đứa bé đó, nhất định nó sẽ
được đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé sẽ không cha
nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì
được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn” [197, tr.322].
Không ai có thể thấu hiểu mọi sự vất vả, khó khăn trong quá trình sinh con
và nuôi con của người mẹ. Yếu tố đầu tiên, đó là chức năng duy trì nòi giống
cũng là một gánh nặng tâm lý không nhỏ đối với người phụ nữ: “Qua sinh đẻ,
phụ nữ thực hiện trọn vẹn số phận của mình về mặt sinh lý học; đấy là chức năng
“tự nhiên” của họ vì toàn bộ cơ thể phụ nữ hướng về sự lưu truyền giống nòi”
[10, tr.132]. Tiếp nữa, trong quá trình nuôi con đầy gian khổ, người mẹ đã âm
thầm chịu đựng chỉ mong con cứng cáp, khỏe mạnh. Truyện Đầy tớ Mẹ xin nghỉ
phép của Thy Lê là một tiếng nói phản kháng và thức tỉnh những người khác
giới hiểu hơn cho cuộc sống của những người Mẹ. Quá trình mang thai chín
tháng mười ngày cho đến khi sinh con và nuôi con đầy gian nan, hiểm nguy,
người mẹ luôn phải “gồng mình” lên để bảo vệ sinh linh bé bỏng: “Giống cái khi
sinh đẻ thường hay hung dữ! Vì đó là lúc yếu đuối nhất mà cần phải mạnh mẽ
73
nhất!” [198, tr.102]. Những người phụ nữ rất bình thường nhưng khi làm mẹ họ
lại là “siêu nhân”, vừa lo con cái, gia đình và công việc ngoài xã hội. Tác giả đã
đặt câu hỏi thể hiện sự bất bình đẳng về giới khiến người phụ nữ luôn phải chịu
nhiều thiệt thòi trong sự phân công lao động: “Người ta sống ngoài tình yêu thì
cần có sự thỏa đáng. Tại sao phụ nữ lại phải chịu mọi trọng trách nuôi con và
đàn ông cứ giãy nãy lên rằng còn việc phải lo cho cộng đồng?” [198, tr.102].
Làm mẹ là một hành trình dài đầy sự kiên nhẫn, là sự “từ bỏ” mọi sở thích của
bản thân để hướng về thiên thần bé nhỏ: “Đó là một nhiệm vụ theo ta hết cuộc
đời. Những cái tôi to lớn, những niềm khao khát tự do mãnh liệt, tất cả sẽ phải
gói lại, càng nhỏ càng tốt, cho vừa cái khung mới. Trong cái khung này sẽ có tất
cả những việc nhỏ nhặt mà ta phải làm, phải làm hàng ngày hàng giờ và không
một giây nào được lơ là” [198, tr.103].
Có thể nói rằng, thiên tính làm mẹ là thiên tính cao đẹp và thiêng liêng nhất
của người phụ nữ. Bất kỳ người phụ nữ nào, trong mọi hoàn cảnh đều biết cách
chăm sóc, yêu thương, bảo bọc “thiên thần bé nhỏ” của mình. Nó cũng khẳng định
đức tính hy sinh, cần cù, chịu khó, giàu tình cảm là thiên tính nữ được ca ngợi
nhiều nhất trong tất cả mọi thể loại của văn học nữ quyền đương đại Việt Nam.
3.2.2. Nhân vật nữ với khát vọng tình yêu
Tình yêu đối với người phụ nữ quan trọng như khí trời để thở; tất cả mọi cô
gái đều mong muốn, khao khát có một người đàn ông che chở, yêu thương mình,
đó là diễm phúc của người phụ nữ: “Có những người đàn ông có thể, vào những
lúc nhất định nào đó trong cuộc đời, là những người tình say mê, nhưng không có
những người mà người ta có thể xác định là “một người tình vĩ đại”… Trái lại, đối
với phụ nữ, tình yêu là một sự tự khước mình hoàn toàn để hiến dâng cho người
yêu” [10, tr. 312]. Người phụ nữ thần thánh hóa tình yêu, luôn “cháy” hết mình,
dồn hết năng lượng tích cực nhất cho tình yêu bởi “Họ không có lối thoát nào
khác là hy sinh cả thể xác lẫn tâm hồn cho người đàn ông vốn được coi là tuyệt
đối, là chủ yếu” [10, tr.313]. Người phụ nữ khi yêu thường đặt trọn vẹn trái tim
của mình vào người đàn ông bởi “Tình yêu đối với họ không chỉ là sự tận tụy mà
74
còn là sự hiến dâng trọn vẹn cả thể xác lẫn tâm hồn cho người tình mà không mảy
may để ý tới bất cứ cái gì khác” [102, tr.131]. Trong khi đó, trái ngược lại với
người phụ nữ, “Đối với đàn ông, tình yêu chỉ là một việc làm trong bao nhiêu việc
làm khác” [102, tr.132]. Nhân vật Hạnh trong tác phẩm Trăng nơi đáy giếng là
một điển hình cho dạng nhân vật “người đàn bà si tình”. Cô Hạnh yêu chồng, tôn
thờ chồng là thế, nhưng hình tượng của ông Phương bỗng dưng sụp đổ kể từ khi
ông lấy Thắm, cô sốc khi bất ngờ thấy ông oằn mình giặt cả chậu quần áo dưới đất
xi măng mà trước đây ông không bao giờ động tay vào. Kể từ đây, sự phục tùng
đã chuyển thành sự phản kháng, người phụ nữ hết mình vì chồng đã quá nửa đời
người nhưng cô đã tỉnh ngộ để tìm lại hạnh phúc và sự tự do cho bản thân mình vì
cô nhận ra rằng, sự hy sinh và tôn sùng của mình đã đặt nhầm người. Nhà nữ
quyền Simone de Beauvoir đã từng nhận định: “Trong lúc tự biến mình thành nô
lệ cho người tình, phụ nữ tưởng mình đã tìm ra được phương tiện hữu hiệu để trói
buộc chàng. Nhưng thực chất, đó là một sự dối trá, một sự lừa phỉnh mà đa số phụ
nữ không nhận ra. Thực tế cho thấy, người đàn ông đang yêu thường độc đoán,
nhưng khi đã chiếm đoạt và thỏa mãn, họ lại dễ dàng quên đi tất cả. Còn phụ nữ,
sau khi cống hiến cho người tình, họ chỉ biết tận tụy, hy sinh cho đến hết cuộc
đời” [102, tr.138]. Sự phản kháng là điều tất yếu trong một quá trình đầy phi
nghĩa, sức mạnh của sự phản kháng này thật mạnh mẽ, cô Hạnh từ giờ không còn
là người phụ nữ yếu đuối nhất nhất nghe theo chồng, phục tùng chồng nữa mà cô
đã có tiếng nói riêng, có quyền làm những việc mà mình yêu thích: “Cô Hạnh chỉ
lặng lẽ nhìn người đàn ông này đã là người cô thương yêu, tôn thờ cho đến nửa
đời người. Trước đây, mỗi cái nhìn của ông là mệnh lệnh đối với cô, vậy mà nay
cô phải trái ý ông. Ý nghĩ đó làm cô rơm rớm nước mắt” [154, tr.77]. Như vậy, cô
Hạnh đã có bước chuyển mình đầu tiên trong quá trình phản kháng về tâm lý, từ
một “người phụ nữ si tình” cô đã trở thành một “người phụ nữ tự yêu mình”, có
nghĩa là: “Trong trường hợp này, phụ nữ đối diện với khách thể là bản thân mình.
Qua khách thể này, họ cảm thấy yêu mình hơn bởi “mình sẽ tự chiếm đoạt mình”
hoặc cuồng nhiệt hơn “mình sẽ tự làm cho mình mang thai”, nghĩa là làm cho
75
mình có một sức mạnh ngang hàng với nam giới” [102, tr.124].
Truyện Dông tháng bảy của Huệ Minh ca ngợi một người vợ luôn tần tảo,
chắt chiu, hy sinh hết mình vì chồng con dù người chồng nghiện ngập, cờ bạc,
bỏ bê gia đình nhưng cô vẫn yêu anh, mong anh quay về và tha thứ mọi lỗi lầm
của anh: “Trông chị thật đẹp khi ngủ. Một vẻ đẹp thuần khiết và thánh thiện.
Người đàn ông nhận thấy trong dáng ngủ yên lành kia có nét trong trẻo rất trẻ
thơ, nỗi khổ đau trần thế và cả sức mạnh vừa tiềm tàng vừa non nớt của chị…
Phải chăng, đó là thứ vũ khí đặc biệt của những người đàn bà? Nó biểu hiện sự
nhẫn nhục và lòng vị tha? Thật lạ là anh còn nhìn thấy được hình ảnh của vợ
mình khi nhìn người đàn bà này ngủ” [176, tr.163].
Người phụ nữ khi đã lập gia đình nhưng nếu không có hạnh phúc, họ cũng
sẽ tìm một bến đỗ bình yên hơn. Họ luôn sống hết mình vì tình yêu mà mình đã
chọn, đó chính là hình tượng những người phụ nữ bản lĩnh trong tình yêu, dám
buông bỏ cái cũ và tìm đến tình yêu chân chính của cuộc đời. Nhân vật Thư
trong truyện Lửa trên sông của Như Bình là một ví dụ sinh động như thế. Cô sẵn
sàng ly dị chồng bởi cuộc sống gia đình tù túng, không hạnh phúc và càng không
có sự quan tâm để đến với Hoàng, một người đã có gia đình: “Tình yêu muộn
màng và trớ trêu của Hoàng là điều không thể giải thích. Nhưng nó nuôi sống
Thư suốt những gì tiếp theo hay còn lại. Ở đó, Thư víu vào sự tĩnh lặng sừng
sững của những cây cầu hay nỗi thao thiết lặng chảy của dòng Ngàn Mọ đêm
đêm trở mình sau tiếng mái chèo khua lách cách trên sông để thở, để bình
tâm trở lại. Dường như khung cảnh đó, cả những điều ngỡ vụn vặt cũng làm Thư
run lên” [156, tr.23].
Cũng có khi, đó còn là những người phụ nữ đã dũng cảm vượt qua mọi trở
ngại bệnh tật, kể cả căn bệnh thế kỷ HIV để sống hạnh phúc với người mình yêu
dấu. Nhân vật Liên trong truyện Hy vọng ở tình yêu của Đoàn Phương Nhung là
một điển hình như thế. Tình yêu cháy bỏng của Liên dành cho Bảo đã giúp cô
sống kiên cường, mạnh mẽ hơn: “Chưa bao giờ, Liên cảm giác ham sống đến
như thế, chưa bao giờ Liên thấy cuộc sống có ý nghĩa đến thế, chưa bao giờ cô
76
thấy yêu đời và yêu người đến thế. Trái đất có thêm một tình yêu là đời bớt đi
một bất hạnh, nghĩa là càng nhiều tình yêu thì niềm tin và ước mơ con người
càng nhiều” [156, tr.330]. Liên đã tự nhận thức được rằng, tình yêu là “liều
thuốc” hữu nghiệm giúp cô vượt qua được mọi giông bão cuộc đời: “Nghĩ cho
cùng cuộc sống là một hành trình tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc, cô đã tìm thấy
hạnh phúc và cô phải giữ lấy nó bằng bất cứ giá nào” [156, tr.333].
Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ có nhiều tác phẩm thể hiện tình yêu
mãnh liệt của các cô gái trẻ, mang âm hưởng nữ quyền mạnh mẽ. Đó là các cô
gái với tuổi đời còn rất trẻ nhưng họ dám nghĩ, dám làm và dám sống trọn vẹn
với tình yêu của mình. Biển ấm là câu chuyện về một cô gái mới hai mươi tuổi
dám bỏ nhà đi, vượt qua hơn hai trăm cây số, nhiều chuyến phà, bằng linh cảm
của mình, cô tin đó là một người đàn ông tốt dù gia đình phản đối. Huyền thoại
là câu chuyện về một cô gái chuẩn bị lấy chồng sẵn sàng mỗi năm vài lần vào
Sài Gòn thăm anh, một người cô yêu hết lòng, chuẩn bị lấy vợ: “Còn ba mươi
lăm phút nữa máy bay hạ cánh. Ba mươi lăm phút để tôi tưởng tượng rằng, giờ
này, sang năm, tôi gặp lại anh giữa đất Sài Gòn” [148, tr.242].
Hay nhân vật nữ nhà báo dám bày tỏ và dám xả thân vì tình yêu xuất phát
từ lòng ngưỡng mộ của mình với một vị tướng phải hơn cô mấy chục tuổi:
“Tim cô thực sự không nằm yên nữa khi nghĩ về ông... Và mỗi lần nghĩ, nhớ
ông thì con tim đập nhanh khó hiểu. Tôi nhận thấy hình như mình đã thầm yêu
ông...” [183, tr.337]. Đối với cô, hạnh phúc thật đơn giản khi lúc nào cũng có
người đó trong trái tim của mình, để vượt qua những sóng gió của cuộc đời chứ
không nhất thiết phải ở cạnh nhau: “Tôi đã qua 30 tuổi, đã thật sự trưởng thành
trong cuộc sống và nghề nghiệp, không ai có thể bắt tôi gạt bỏ hình ảnh của
ông ra khỏi tôi... Không có người nào làm lu mờ hay thay thế ông trong tôi.
Trái tim tôi qua thời gian thử thách, đã khẳng định tôi yêu ông, một tình yêu
trọn vẹn, với tôi hạnh phúc không cứ phải được sống chung với nhau cả đời.
Hạnh phúc vẫn đến, vẫn cứ tuyệt đẹp và xúc động, đó là hạnh phúc được nghĩ
được nhớ về nhau. Tôi tin sẽ có một ngày chân tình của tôi sẽ làm ông cảm
động. Trong tim tôi luôn có một vị tướng” (Trong tim tôi có một vị tướng -
77
Hoài Hương) [183, tr.343].
Tất cả những nhân vật nữ ở trên đều có điểm chung là những bất trắc, đau
khổ, trăn trở về hôn nhân, tình yêu nhưng họ đều vượt qua được những khó
khăn, thử thách đó để khẳng định mình trong công việc, cuộc sống. Đối với họ,
cuộc sống có ý nhất là khi người phụ nữ được hy sinh vì công việc, vì chồng
con, vì mái ấm hạnh phúc gia đình. Các tác giả nữ như đã hóa thân vào từng số
phận nhân vật nữ, viết về tình mẫu tử thiêng liêng của người phụ nữ cũng chính
là nỗi lòng của nhà văn với mong muốn một xã hội tốt đẹp và bình yên hơn cho
những người phụ nữ với những sự hy sinh thầm lặng mà chúng ta hằng tôn vinh.
Viết về Mẫu tính và sự hy sinh thầm lặng cho tình yêu, hầu như mỗi tác giả nữ
đều có một phong cách riêng. Nguyễn Thị Thu Huệ hầu hết đều viết về nhân vật
chính là những người phụ nữ và các bé gái như Hậu thiên đường, Cõi mê, Tân
cảng, Huyền thoại, Dĩ vãng... Trần Thùy Mai miêu tả những người đàn bà bất
hạnh như Nguyệt cà nhắc (Quỷ trong trăng), Vy ngây (Chuyện ở phố hoa xoan),
Thúy câm (Am bà cô), Hà “gái bán hoa” (Nốt ruồi son), Kiều Dung (Lễ cưới
bạc)... Còn với Y Ban thể hiện hình tượng những nữ trí thức xinh đẹp nhưng lại
hụt hẫng, chênh vênh, mong muốn khao khát và cháy hết mình vì tình yêu trong
Cưới chợ, Cuộc tình Silicon, Gà ấp bóng, Người đàn bà đứng trước gương, Sau
chớp là giông bão, Tự... Nguyễn Ngọc Tư dường như hòa mình vào thân phận
chìm nổi, tù đọng của những người phụ nữ sông nước miền Tây chân chất, nhân
hậu như cô bé Nương trong Cánh đồng bất tận, người đàn bà cô độc trong Dòng
nhớ, cô Út trong Cái nhìn khắc khoải... Mẫu số chung của tất cả các nhân vật nữ
qua sự nhào nặn, tưởng tượng (và có thể từ đời thực) là khao khát đầy cháy
bỏng, mãnh liệt về một mái ấm hạnh phúc gia đình trọn vẹn.
Có thể nói, theo như lý thuyết nữ quyền nhận định, người phụ nữ chính là
một “cá thể độc lập” với những cảm xúc, tình cảm đầy “hỗn mang”. Suy cho
cùng, sự tranh đấu của giới nữ chỉ đơn giản là mưu cầu, khao khát hạnh phúc
trọn vẹn luôn ẩn chứa bên trong mỗi “nhân tố nữ”. Và với nhận định sau của
Nietzsche đã khái quát được bản chất “muôn thuở” của giới nữ: “Với phụ nữ,
tình yêu là “số phận”, cuộc đời họ. Cuộc sống của đàn ông là niềm vinh quang,
78
còn đàn bà là tình yêu” [102, tr.132]. Người phụ nữ trong xã hội hiện đại đã biết
trân quý bản thân và giá trị cuộc sống, họ chủ động đấu tranh giành lấy cuộc
sống tự do, hạnh phúc “thay vì bị trói buộc vào những công việc đơn điệu: sinh
con, chăm lo việc nhà và đáp ứng nhu cầu tình dục của đàn ông” [102, tr.72].
3.3. Nhân vật nữ với bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục
3.3.1. Nhân vật nữ với bản năng tính dục
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, các nhà văn nữ viết về sex chính là cách
mà họ có thể giãi bày nỗi lòng, chiêm nghiệm về cuộc sống, đang trở thành xu
hướng văn học mới. Viết về tính dục cũng chính là cách mà nhà văn nữ tự giải
phóng bản thể của chính mình. Họ đã lấy người phụ nữ làm hình tượng trung
tâm trong các tác phẩm của mình, phát xuất từ căn nguyên của chính xã hội mà
họ đang sống. Ngay từ thuở xa xưa, quan niệm của xã hội và ngay cả nam giới
đối với phụ nữ, chính là sự áp đặt hà khắc, bảo thủ, xem nhẹ người phụ nữ: “Là
phụ nữ phải tỏ ra mình là người yếu đuối, vô tích sự, thụ động, ngoan ngoãn”
[41]. Thậm chí, Thánh Ambrose còn quy kết: “Trong tất cả các loài động vật,
không có con vật nào nguy hại bằng đàn bà” [41]. Xã hội dần cởi mở hơn, những
tư tưởng khắt khe, bảo thủ đó dần trở nên lỗi thời. Các nhà nữ quyền bảo vệ, đấu
tranh cho quyền lợi của người phụ nữ hầu hết là giới nữ vì đơn giản là họ có
chung sự đồng điệu về mặt tâm hồn, thấu hiểu tận cùng những đau khổ và nghị
lực vươn lên của người phụ nữ dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Kristeva cũng là
nhà nữ quyền nổi tiếng bởi bà luôn phủ nhận tất cả các quan niệm xem nhẹ và áp
đặt người phụ nữ lúc bấy giờ với quan điểm tiến bộ về tính dục: “Tính dục giống
cái là cách mạng, lật đổ, dị chủng và “mở rộng” [96, tr.50]. Millet và những nhà
nữ quyền khác cũng phê phán sự bất bình đẳng về giới tính. Sự thông thái trong
quan điểm của bà được hoan nghênh: “Những vai trò giới tính bị duy trì trong xã
hội là mang tính áp đặt. Việc thi thiển những vai trò này trong những mối quan
hệ bất bình đẳng về thống trị và phụ thuộc là điều mà Millet gọi là “chính trị về
giới tính” [96, tr.51]. Chính những tư tưởng hà khắc, sự áp đặt của xã hội đối với
người phụ nữ khiến cho cuộc sống của họ đầy tối tăm, ảm đạm. Nói như nhà nữ
quyền Cora Kaplan thì: “Hệ tư tưởng là chiếc dùi cui dương vật phổ quát mà với
79
nó đàn ông của mọi tầng lớp sử dụng để đánh đập đàn bà” [96, tr.52].
Vượt qua những định kiến xưa cũ, các nhà văn nữ đã cho độc giả góc nhìn
mới về yếu tố tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục trong văn xuôi đương đại
Việt Nam. Y Ban là một nhà văn nữ viết về sex khá thành công với tập truyện
ngắn tiêu biểu là I’am đàn bà, khá tự nhiên và tỉ mỉ nhưng lại không hề dung tục.
Mỗi tác phẩm của nhà văn đều thấm đẫm chiều sâu nhân văn cao cả. Truyện I’am
đàn bà là một ví dụ như thế. Truyện kể về nhân vật thị, một người đàn bà đã cứu
được một đứa bé bị bỏ rơi ở trong rừng. Rồi một ngày thị phải xa chồng và bốn
đứa con sang Đài Loan làm nghề giúp việc với mong muốn kinh tế gia đình khá
giả hơn. Rồi thị làm công cho một gia đình có người bị bại liệt. Thị chăm sóc cho
ông chủ từ miếng ăn đến giấc ngủ, thị tắm cho ông chủ, xoa bóp cho ông chủ, nói
chuyện với ông chủ. Nói chung, nhờ sự chăm sóc rất chu đáo của thị mà ông chủ
đã dần có cảm giác trở lại. Biểu hiện đầu tiên là “cưng cứng” ở chỗ ấy. “Con
giống con má” của ông chủ luôn cất cao đầu khiến cho thị không ngừng nghĩ về
nó và thị không thể chiến thắng được dục vọng, thị thèm khát nó. Cuối cùng, sau
chuỗi ngày đấu tranh tư tưởng, thị mạnh dạn đi vào phòng ông chủ. Và thị đã
được “thỏa mãn”. Kết cục tác phẩm, dù thị bị bà chủ phát hiện và tố cáo ra tòa
nhưng không thể phủ nhận giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm mà tác giả muốn
gửi gắm đến bạn đọc. Thị đã cứu sống và làm hồi sinh, bản năng tính dục của
người đàn ông mà ngay cả người vợ không thể làm được, bởi vì họ thiếu đi tình
thương, tính kiên trì đối với người bệnh. Bản năng tính dục này được kết hợp từ
bản năng chăm sóc, bản năng che chở, nhờ đó đã đánh thức được tinh thần đã bị tê
liệt của một con người. Đọc tác phẩm, đôi khi chúng ta thấy thị có những khao
khát, ham muốn rất đời thường, “rất phụ nữ”, những ham muốn đó xuất phát từ
hoàn cảnh phải xa chồng xa con: “Nhưng đến khi quay lại để tắm tiếp cho ông chủ
thì thị đã không cưỡng được cảm xúc của chính thị, khiến thị cứ nắm chặt tay vào
cái con giống con má. Cái chết nữa là đêm ngủ thì thị lại mộng mị. Thị nằm mộng
có một người đàn ông hôn thị khiến cho cảm xúc thèm khát của thị đang ngủ im
bật dậy… Thị tỉnh giấc trong ngây ngất của sự khát thèm [140, tr.29].
Đa phần các nhân vật nữ của Y Ban đều có một đời sống gia đình phức
80
tạp, thiếu thốn tình cảm. Họ có chung những mơ mộng, mong muốn về một
mái ấm gia đình hạnh phúc nhưng những mơ ước đó dường như quá xa vời đối
với họ. Họ muốn giải tỏa những nhu cầu, bản năng tính dục đầy khao khát,
mạnh mẽ. Chính vì vậy, họ đã tìm mua những thứ vật chất có tác dụng khỏa
lấp nỗi đau tinh thần, ngoại tình tư tưởng với đồng nghiệp… để “giải phóng”
những khao khát bị dồn nén bấy lâu. Có thể thấy rằng, nhân vật người đàn bà
của Y Ban không mang “tính phụ thuộc” bởi “người phụ nữ phụ thuộc không
mảy may được ưu đãi: về tình dục cũng như tình cảm, phần lớn các bà vợ cũng
như các danh kỹ đều bị hoàn toàn chịu thiệt thòi. Người phụ nữ độc lập vấp
phải những khó khăn hiển nhiên hơn vì họ chọn con đường đấu tranh hơn
nhẫn nhục” [10, tr.376].
Đọc các tác phẩm của Y Ban, chúng ta đều cảm nhận được sâu sắc tuyên
ngôn về quyền được tự giải phóng của người phụ nữ dù trong bất kỳ hoàn cảnh
nào. Sự thách đố các thể chế xã hội không còn là sự ngông cuồng mà là sự tự đề
cao, khẳng định bản ngã của người phụ nữ trong vòng kìm kẹp của luân thường
đạo lý. Truyện ngắn Tự đề cập những vấn đề tế nhị của người phụ nữ không hề
dung tục, nhưng vẫn thể hiện được sự cô đơn của nhân vật chính với áp lực của
xã hội, của thời đại với những nhu cầu sinh lý bình dị và chính đáng của giới nữ.
Người phụ nữ đã thoát ra được vòng luẩn quẩn đó chỉ với “chim” giả cũng như
giải tỏa được nhu cầu sinh lý cho bản thân. Tuyên ngôn về nữ quyền trong tác
phẩm thể hiện được tâm trạng của một người phụ nữ “tự lực” xen lẫn cảm xúc tự
hào: “Tấm thân này được gọi là tấm thân sang. Và cái món đồ chơi trẻ con kia
sắp được đưa vào tấm thân sang này để giải quyết vấn đề tự lực. Vấn đề tự lực
thì có gì là xấu nào, nó chẳng luôn được đề cao trong mọi thể chế và mọi lĩnh
vực xã hội đấy ư!” [140, tr.112]. Nhân vật bà tiến sĩ trong truyện đã tự mình đúc
kết được kinh nghiệm để có được cuộc sống hạnh phúc với câu nói: “Và điều tôi
ngộ được nhất, là con người ngoài cái đức tính hy sinh thì cũng nên biết đòi hỏi
81
những quyền lợi của mình, biết tự giải phóng mình” [140, tr.122].
Người phụ nữ Việt Nam luôn bị kìm kẹp bởi những “chế tài” nên họ không
dám thể hiện ra ngoài nhu cầu của bản thân, thể hiện ngay trong chính lời
khuyên của bà mẹ chồng dành cho con dâu trong truyện ngắn Tự: “Đàn ông ấy
mà cái chuyện ấy họ mê muội lắm. Đàn bà thì mình chỉ cốt là cho nó có con chứ
có phải sung sướng gì đâu, nên mình phải biết kìm hãm họ” [140, tr .91]. Nhưng
khi có điều kiện thì “ngọn lửa của sự đam mê, ham muốn” âm ỉ trong người phụ
nữ lại thể hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết: “Tôi lại muốn gào lên lần nữa rằng là
tôi cũng thích chuyện ấy với chồng tôi nếu không có tiếng đằng hắng của mẹ và
tiếng cười rúc rích của chị dâu” [140, tr.91]. Hay “Cái tôi mơ mộng là văn hóa
tình dục, một lỗ hổng lớn của dân tộc nói chung và của cá nhân tôi nói riêng.
Quả là tôi chưa bao giờ được sờ mó đến cái gọi là văn hóa tình dục đó. Tôi khao
khát được sờ mó nó” [140, tr.136].
Như đã nói ở trên, đa số nhân vật nữ của Y Ban đều có sự giằng xé nội tâm
quyết liệt để “tự làm thỏa mãn” hay “tự giải tỏa những khao khát” mang tính bản
năng của người phụ nữ. Phản ánh được điều này, Y Ban đã có công rất lớn trong
việc mô tả chi tiết và sống động nhất cuộc “cách mạng về tình dục” trong những
sáng tác của chị. Các nhân vật nữ của Y Ban rất đa dạng, từ người phụ nữ ở vùng
nông thôn cho đến bà Tiến sĩ ở thành thị, điểm chung là họ không được đáp ứng
về nhu cầu tình dục dẫn đến việc “ngoại tình tư tưởng” hay “ê chề”, “lụy tình”…
Đó là những bước phản kháng đầu tiên giành quyền bình đẳng cho người phụ nữ
với “văn hóa tình dục”. Nhà nữ quyền nổi tiếng người Pháp Simone de Beauvoir
cũng bàn về vấn đề bình đẳng giới trong tình dục, tuy nhiên, giữa hai giới lại có
“sự không đồng dạng với nhau”. Trong việc trải nghiệm đời sống tình dục của
nữ giới, theo Beauvoir thì: “Phụ nữ bằng sự chấp nhận vai trò bị động trước
những nhu cầu chủ động và chủ quan của đàn ông đã buộc phải từ bỏ đòi hỏi đối
với tính siêu nghiệm (sự vượt trội) và tính chủ quan đích thực như thế nào” [64].
Do vậy, bà ủng hộ chủ trương “tự thức tỉnh mình” của nữ giới: “Phụ nữ cần giải
82
phóng mình và phục hồi cái tôi của mình, trước hết bằng cách cho phép mình
vượt lên những hướng đi tự do, tự hào về bản thân mình trong suy nghĩ, trong
hành động giống như nam giới” [64].
Y Ban ủng hộ ý tưởng viết về vấn đề tính dục để bênh vực cho thân phận
người phụ nữ, giúp họ ngày càng mạnh mẽ hơn, làm chủ cuộc sống của mình.
Theo quan niệm của Y Ban thì “Sex là giải trí và văn hóa” và “Viết về sex tục
hay không tục là do câu chữ. Nếu mình viết trực tiếp, thẳng tuột về nó như một
thứ nhu cầu bản năng, kích động ở người đọc những ý nghĩ không lành mạnh,
không trong sáng thì tác phẩm sẽ trở nên phản cảm. Nhưng nếu tác giả khéo léo,
thay thế những khái niệm về các bộ phận, các hành vi của con người bằng nhiều
cách diễn đạt văn chương hơn, phủ lên chi tiết “tục” những ý nghĩa rất người,
đưa trí tưởng tượng của độc giả đến các vấn đề nhân văn thì khi đó, người đọc sẽ
không “lăn tăn” đến chuyện đề tài nữa” [14].
Hay như Đỗ Hoàng Diệu, người từng gây “bão” với tác phẩm Bóng đè.
Trong tác phẩm, Đỗ Hoàng Diệu không chủ đích viết về sex, tác giả mượn sex
như là phương tiện để diễn tả những vấn đề lớn hơn rất nhiều vấn đề thân phận
đàn bà. Đó là những khao khát bản năng của người phụ nữ hiện đại, những xung
đột trong các mối quan hệ trong gia đình với những tư tưởng xưa cũ, bảo thủ ở
làng quê. Chính trong hoàn cảnh tù túng đó, “sex đẩy đời sống tinh thần của
người phụ nữ vào bi kịch giằng xé nội tâm, nghi hoặc bản thân để rồi có thái độ
chống trả “giải phóng bản thân” [114]. Văn phong của Đỗ Hoàng Diệu vừa da
diết, thấm đẫm nữ tính nhưng không kém phần sâu sắc, ý nghĩa. Tất cả những tác
phẩm liên quan đến tính dục của người phụ nữ, tác giả ngầm đưa ra thông điệp
về phụ nữ và dục tính trong quan hệ với xã hội và lịch sử. Đã qua rồi thời kỳ
phong kiến, người phụ nữ bị động trong mọi việc, thời nay, người phụ nữ đã có
quyền làm chủ cuộc sống ngay cả nhu cầu tình dục của mình.
Trong truyện Vu quy, tác giả đã khắc họa nên hình ảnh một người phụ nữ
mạnh mẽ, độc lập, sẵn sàng rời bỏ người chồng, người đàn ông của đời mình,
bởi cô không muốn sống một cuộc sống lệ thuộc, phục tùng quá nhiều vào đời
83
sống tình dục của ông ta: “Mẹ không biết tôi tự rời bỏ ông, người mà có lúc tôi
xem còn quý hơn cả gia đình, hơn cả bậc thềm nơi tôi sinh ra. Nếu mẹ biết tôi đã
xếp vali và ra khỏi biệt thự của ông nhanh đến mức nào, chắc mẹ sẽ không gọi
tôi là cô bé yếu đuối” [143, tr.49]. Điều đó có nghĩa là người phụ nữ có quyền
làm chủ cảm xúc của mình, và nhất là “làm chủ cuộc chơi”, một vấn đề khá tế
nhị đối với người phụ nữ và xã hội mà xưa nay ít được đề cập đến trong văn học:
“Tôi yêu ông, tôi đam mê ông nhưng tôi sợ ông. Nỗi sợ càng kích thích tôi khi
ông bao trùm tôi từ bên trên như một lãnh chúa. Thân hình ông rắn chắc tựa một
củ sâm. Gần ông, da dẻ tôi trở nên hây đỏ, láng mát. Tựa như tôi được uống
nước sâm chắt lọc từ da thịt ông. Thân thể ấy toát ra mùi thơm hắc, mùi đền đài,
lăng tẩm, uy quyền. Tôi cố ngước lên cao, cao mãi để hít ngửi mùi đế vương ấy.
Nhưng càng rướn, ông càng vươn lên… Ông không bao giờ cho tôi ngồi trên
mặc cho tôi van nài điều ấy… Tôi đê mê tận hưởng những khoái cảm ông mang
lại, để rồi lần sau lại van xin được yêu ông từ bên trên. Và bao giờ cũng là cái lắc
đầu” [143, tr.51]. Tác phẩm thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của cô gái bởi cô
không phải là công cụ tình dục, là “nô lệ” xuất phát từ những định kiến muôn
thuở của đàn ông và cả xã hội: “Đàn bà phải là kẻ nằm dưới, là đất để gieo mạ”
[143, tr.68]. Sự phản kháng đó càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết khi: “Thân
mình tôi quẫy như một con cá kình rồi náu lặng như con rùa lật ngược. Dù đau
đớn, tôi cũng cố tìm cách trở mình” [143, tr.53]. Điều đó giúp cho người đọc tự
nhận thức được rằng phụ nữ không phải là một món hàng để người đàn ông độc
chiếm, sở hữu thay thế quan niệm đã cổ hũ, lỗi thời: “Đối với đàn ông, người vợ
là phần thưởng tối cao vì nàng là hình ảnh tận thiện tận mỹ của chính anh ta dưới
một dạng xa lạ có thể chiếm đoạt được” [9, tr.213].
3.3.2. Nhân vật nữ với nhu cầu giải phóng tính dục
Đối với các nhân vật nữ, bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục
luôn có tính chất song hành với nhau. Nó được thể hiện đầy tinh tế, có chiều sâu
thông qua các cây bút nữ. Có thể nói, sex chính là sự “tự cởi trói” của nhà văn
nữ, giúp họ bộc lộ bản thân đầy sáng tạo, mới lạ, độc đáo mà không hề có yếu tố
84
nhục dục, phản cảm. Như chính nhà văn Dương Tường đã từng khẳng định:
“Sex là một bộ phận của đời sống (nếu không muốn nói là một bộ phận quan
trọng), vậy nó phải có mặt trong văn chương bởi văn chương là đời sống. Yếu tố
sex, được xử lý một cách có nghệ thuật, có thể đem lại mĩ cảm thực sự cho người
đọc, nó chẳng có gì là không lành mạnh, phi đạo đức như một số người thường
đe nẹt. Nhưng một thời gian dài, do những quan điểm đạo đức nghiêm cấm, nó
đã bị cấm kị trong văn chương nội địa mà cả với văn học dịch. Phải đến thời kỳ
hậu - đổi mới, mới thấy lác đác xuất hiện một số tác phẩm văn học ít nhiều mang
đậm yếu tố tình dục. Sự háo hức của độc giả đón đợi những cuốn sách như vậy
cũng là lẽ thường tình, dễ hiểu thôi” [152, tr.5-6].
Điểm chung của tuyến nhân vật nữ trong các tác phẩm của Đỗ Hoàng Diệu,
Y Ban đó là có một đời sống tình dục nghèo nàn, tẻ nhạt, thiếu thốn, thậm chí có
khi lại là sự “bức bí”. Nhưng họ không tuyệt vọng, họ tìm mọi cách giải phóng
cho bản thân bằng việc “ngoại tình tư tưởng” hay thậm chí là “sex trong giấc
mơ” (Bóng đè), “sex trong hồi tưởng” (Vu quy)... Điều đó không có gì xấu bởi
sau những cuộc “giao hoan” trong giấc mơ, họ đã có thêm “năng lượng” để làm
tròn chức trách của người vợ, người mẹ. Truyện Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu kể
về một người phụ nữ về quê chồng ăn giỗ và những giấc mơ hoang ám ảnh cô kỳ
lạ: những cảm xúc nhục dục thỏa mãn với hồn ma người cha chồng mà cô chưa
từng có được cảm xúc ấy với chồng cô khiến cô vừa cảm thấy “thích thú” vừa
“sợ hãi” và “tội lỗi”. Những cảm xúc giằng xé lẫn lộn, cảm giác “đau đớn mà
thỏa mãn” lạ kỳ thay lại chính là với cái bóng: “Bình thường như tôi đã bị cưỡng
hiếp. Nhưng sao tôi không chống cự? Phải chăng tôi đồng lõa, phải chăng tôi đã
ưỡn người lên chờ đón?... Nhưng suốt những năm thiếu nữ tôi đã mong chờ, tôi
đã khát cháy, giờ đây nó hiện hình sao tôi hoang mang?”[143, tr.24]. Hay: “Tôi
biết mình bị hãm hiếp trước bàn thờ tổ tiên nhà chồng, trước mặt chồng, nhưng
tôi lại bồn chồn, mong nhớ, thậm chí thèm khát cảm giác ấy. Tôi đạp quẫy, nội
chiến, tâm linh héo rũ. Tôi thay rèm cửa màu đỏ, khăn trải giường màu đỏ, bao
gối màu đỏ, cố trang trí căn nhà hao hao giống một trang thờ với nhiều tấm màu
85
đỏ. Thụ không phản ứng gì” [143, tr.34]. Sự mâu thuẫn trong cảm xúc của các
nhân vật nữ dường như thể hiện diễn ngôn về nữ quyền càng lúc càng mạnh mẽ:
“Tôi thương tôi và tôi ghét tôi. Tôi đã đồng lõa, đã kiễng chân lên rên rỉ rồi sau
đấy lại nghĩ mình bị hãm hiếp, lại căm oán bóng đen tổ tiên nhà Thụ. Rồi lại
mong chờ, lại hào hứng thèm thuồng. Bóng đen ấy hiểu tôi thích gì, nó tràn lấp
dục vọng trong tôi và đẩy Thụ xa cách” [143, tr.36]. Có thể thấy rằng, sự không
“thỏa mãn” của giới nữ là do hệ tư tưởng cổ hũ lâu đời còn tồn tại, chi phối toàn
bộ hành vi tình dục: “hành vi ân ái bình thường đặt người đàn bà vào trong sự
phụ thuộc đối với đàn ông và đối với loài. Cũng như hầu hết các con vật, đàn
ông giữ vai trò “xâm lược”, còn đàn bà chịu sự “ôm ấp” ấy” [9, tr.399]. Người
phụ nữ chỉ thật sự làm chủ cảm xúc của mình nếu thoát khỏi hệ quy chiếu lỗi
thời đó! Thế nên, một người phụ nữ đóng vai trò chủ động thường khiến cánh
mày râu “thảng thốt”, họ xem đó là một điều “trái quy luật”: “Chưa bao giờ bà
chủ động. Suốt bao năm qua, hầu như ông đã chẳng nhớ bà đã từng đi Tây, vì bà
luôn khép mình như một người phụ nữ Á Đông đúng với mọi chuẩn mực, làm
ông hết sức yên tâm. Phải, bao năm rồi! Hôm nay, ông thấy ở vợ mình, một con
người khác” (Nhắm mắt - Mai Thy) [198, tr.90].
Như vậy, so với các nhà văn nữ cùng thời, lối viết nữ đầy mạnh dạn, táo
bạo, có xu hướng nghiêng về tính dục để diễn đạt nội tâm “giằng xé”, khao khát
chính đáng của nhân vật là điểm tương đồng trong phong cách văn chương của
Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu. Những khao khát về tính dục trong các tác phẩm
chính là sự “tích tụ”, “dồn nén”, “bức bí” xen lẫn sự “thất vọng”, “tủi hổ” đã
giúp cho nhân vật nữ “thức tỉnh”, vùng dậy đứng lên từ trong đống hoang tàn
còn sót lại của chế độ phong kiến xưa cũ.
Nhà văn Lê Thị Hoài Nam với văn phong giản dị nhưng gần gũi đã miêu
tả một cách trọn vẹn hình ảnh người phụ nữ đẹp, thành đạt nhưng lại bất hạnh
trong hôn nhân. Người đàn bà chờ đợi kể về nhân vật người phụ nữ ở tầng lớp
trung lưu khao khát những người đàn ông có thể mang lại hạnh phúc cho cô về
cả tinh thần và thể xác. Thậm chí không ai có thể nghĩ rằng cô lại “nhớ nhung”
và “thèm muốn” hắn, một người kém xa cô về mọi mặt: “Tệ hơn, nhiều đêm
86
chị còn mơ thấy chị chung chăn gối với hắn. Một cảm giác thèm muốn lạ lùng
đang lên khắp cơ thể chị” [157, tr.353]. Hay có khi: “Hình ảnh hắn cứ lởn vởn
trong đầu chị. Giá lúc này hắn xuất hiện chắc chị sẽ vứt bỏ bộ mặt nữ hoàng
của mình để sẵn sàng dâng hiến. Bản năng thèm muốn được ve vuốt xòa phủ
lên khắp cơ thể chị” [157, tr.353]. Vượt lên trên sự chỉ trích của dư luận và
nhất là sự giằng xé, đấu tranh mạnh mẽ về nội tâm, chị quyết định phải giành
lấy hạnh phúc cho mình trước khi quá muộn dù người đàn ông đó có xứng đáng
với chị hay không: “Nhưng tình yêu thì cần gì phải anh nói trước hay em nói
trước. Nhất định ngày mai chị sẽ mời hắn dùng cơm và chị sẽ biểu lộ tình cảm
với hắn, rằng, rằng, rằng…” [157, tr.354]. Người phụ nữ có vị thế trong xã hội
đã dám bỏ lại tất cả đi theo tiếng gọi tình yêu, sống theo bản năng của tình yêu
dù biết muôn vàn khó khăn!
Một nhà văn xứ Huế có quan điểm về tính dục rất độc đáo và tinh tế: đó
chính là Trần Thùy Mai. Những tác phẩm của Trần Thùy Mai vừa thể hiện yếu
tố nhân sinh quan sâu sắc vừa thể hiện được thân phận người phụ nữ, dù trong
hoàn cảnh nào cũng làm chủ được cuộc sống của mình, đặc biệt là sự tự giải
phóng nhu cầu tính dục đầy kìm hãm, bí bách theo luân thường đạo lý đã trở nên
nhàm chán, đơn điệu, tẻ nhạt...
Truyện Chị Hai ơi! thể hiện sự dám vượt qua những định kiến hà khắc của
xã hội để một người phụ nữ trung niên đến với một chàng trai trẻ bằng những
tình cảm chân thật, trong sáng, đầy thăng hoa cảm xúc trong tình yêu: “Chẳng
hiểu từ lúc nào, hai đứa tôi đã ở trong tay nhau. Chị vừa phục tùng, vừa dẫn dắt
tôi. Cơ thể tôi dần hồi sinh trở lại… Đó là lần đầu tiên trong đời tôi biết đến thân
thể một người đàn bà” [154, tr.9]. Hay truyện Cánh cửa thứ chín kể về Quyên,
một người phụ nữ thường bị những cơn thống kinh hành hạ nhưng những cảm
xúc mới lạ về tình yêu giúp cô vượt qua được những cơn đau đang từng ngày
từng giờ hành hạ mình. Sống với một người chồng vô tâm, hờ hững, Quyên đã
mạnh dạn giải thoát khỏi cuộc hôn nhân với người chồng không hề có tình yêu
với cô và đi theo tiếng gọi tình yêu với những khao khát cháy bỏng, chính đáng
của người phụ nữ mà chồng cô không thể đem lại hạnh phúc cho cô. Dù chỉ là
87
một người đàn ông xa lạ mới quen thôi nhưng cũng khiến những khao khát của
Quyên trở nên bùng cháy hơn bao giờ hết, điều mà đã rất lâu rồi cô chưa nếm
trải: “Chín giờ tối đúng vào đêm hạ chí cuối cùng, tôi ra khỏi nhà, qua cánh cổng
gỗ cũ xưa, rồi đi men theo bờ hồ trước mặt. Hoa sen cuối mùa lan tỏa mùi thơm
trong ánh trăng. Anh chờ tôi bên kia bờ hồ, dưới góc cây xà cừ. Bóng đêm lẫn
bóng trăng bao trùm thân thể tôi. Hai chân run run, tôi lúng túng, hoảng hốt, cảm
thấy thất thố vì đã đến một nơi quá bất lợi cho mình. Nhưng ngay lúc ấy tôi cũng
không kiềm chế được mong muốn lao sâu vào khám phá một thế giới - Anh, anh
cũng là một thế giới” [154, tr.261].
Ngôn ngữ thân thể (body language) được Trần Thùy Mai miêu tả một cách
chân thực, đầy tính sáng tạo chứ không gợi dục, tầm thường. Sự hòa hợp về tâm
hồn dẫn đến sự hòa hợp về thể xác và sex là điều không thể thiếu được trong văn
chương nhằm bộc lộ được đời sống nội tâm phong phú của người phụ nữ - nhân
vật trung tâm của tác phẩm mà đa số trong họ đều là những người phụ nữ Việt
Nam đảm đang, chung thủy, nhân hậu, chịu thương chịu khó và sống đời sống
cam chịu dù hôn nhân không hạnh phúc. Các nhân vật nữ của Trần Thùy Mai
cũng như thế, nhưng điểm đáng quý ở họ là họ không chấp nhận cuộc sống tù
túng, buồn tẻ và cam chịu mà đã dũng cảm đứng lên bảo vệ tình yêu và chọn lấy
cuộc sống yên bình, hạnh phúc cho chính mình. Đôi khi, chỉ là những cảm xúc
thăng hoa trong tình yêu, nhưng họ chấp nhận đánh đổi mọi thứ để có được điều
đó mà với họ, đó đã là hạnh phúc trọn vẹn: “Họ ôm nhau rất lâu, những cánh tay
càng lúc càng riết chặt. Mũi họ hít càng lúc càng sâu vào lồng ngực mùi da thịt
của nhau, một nỗi hứng khởi sâu sắc và mãnh liệt làm cả hai như bay lên, bay
mãi” (Người bán linh hồn) [154, tr.185].
Viết sex để tạo ra hiệu ứng thẩm mỹ mà không nhàm chán, thô tục, đó là
cả một nghệ thuật. Chính Trần Thùy Mai đã thừa nhận: “Theo tôi sex không
còn là đề tài tốn nhiều bút mực trong thế kỷ này nhưng tôi tôn trọng những tác
giả tấn công vào quan niệm ghê sợ thân xác như là một định kiến lâu đời.
Trong cuộc sống sex phải được xem là chuyện bình thường. Vì vậy mình không
88
né tránh khi cần phải viết về nó. Nhưng văn học không nhất thiết phải nói mọi
điều. Cảm hứng lớn nhất của thời đại mình là vượt thoát khỏi các định kiến.
Cái đấu tranh rất là hay nhưng nếu coi đó như mục tiêu câu khách thì thấp kém.
Tôi không tránh né khi nói về đề tài này nhưng tôi không coi đó là đề tài chính
của mình” [84]. Cách mà Trần Thùy Mai đưa yếu tố tính dục vào văn phong
của mình thật gần gũi, tự nhiên, mà không hề phô trương, kệch cỡm đã bộc lộ
được tất cả những điều thầm kín cũng như sự thủy chung, son sắt của phụ nữ:
“Anh gắng hết sức nhẹ nhàng, nhưng rồi Vy vẫn đau. Hóa ra với nàng đó là lần
đầu. Máu rỉ ra từ cơ thể nàng, như huyết của con cừu trong lễ hiến tế. .. Nàng
rúc đầu vào nách anh mà ngủ, và anh thì nằm yên lặng suốt đêm, ôm đầu nàng
sát vào ngực mình” (Chuyện ở phố hoa xoan) [154, tr.116].
Bản năng tính dục của người phụ nữ được thể hiện trong văn chương
thời gian gần đây là một điều mới lạ, hấp dẫn bạn đọc không chỉ vì nó phản
ánh chân thật, sinh động những khát khao tính dục rất đời thường của người
phụ nữ mà nó còn thể hiện tư tưởng nữ quyền trong tất cả mọi khía cạnh của
đời sống xã hội. Đó là đàn bà có quyền thể hiện những ham muốn, dục vọng
về thể xác mà bấy lâu bị che lấp bởi lề giáo phong kiến lỗi thời và tư tưởng
“trọng nam khinh nữ” hay sự “chèn ép”, áp đặt của đàn ông đối với phụ nữ.
Viết về tính dục, dù ở thời đại nào cũng mang tính thời sự và nóng hổi. Đặc
biệt, để thể hiện sức mạnh nữ quyền của người phụ nữ thì mỗi nhà văn nữ lại
có một phong cách viết rất độc đáo và thu hút. Điều đó cho thấy vẻ đẹp nữ
quyền đầy thiên tính của phái nữ là đề tài hấp dẫn vừa lạ vừa quen để các nhà
văn nữ Việt Nam tìm tòi và sáng tạo không ngừng. Đáng chú ý, yếu tố tính
dục và bản năng giải phóng tính dục trong văn chương chính là sự đổi mới
phong cách, theo như lời nhận xét của tác giả Hà Minh Đức: “Đáng quý là
trong định hướng sáng tác tự nhiên của mình, các tác giả luôn có ý thức tôn
trọng truyền thống nhưng họ vẫn mở ra đón nhận cái mới. Một điều thú vị là
các cây bút nữ tỏ ra mạnh dạn trong việc xử lý các mối quan hệ gia đình, tình
89
yêu, thậm chí cả việc miêu tả những chuyện ân ái chăn gối” [124, tr.869-870].
3.4. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái và ý thức giải phóng bản thân
3.4.1. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái
Phê bình nữ quyền sinh thái là sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng trung tâm là
nhân vật nữ với môi trường tự nhiên tươi đẹp, nhằm tạo ra những thông điệp bảo
vệ môi trường và yêu thương giới nữ đầy ý nghĩa. Nếu phụ nữ luôn gắn liền
thiên nhiên, tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên, luôn dịu dàng, nhẹ nhàng,
che chở, bảo vệ thiên nhiên thì đàn ông luôn muốn “áp chế” cả hai vẻ đẹp đó,
bằng cách tạo ra chiến tranh: “Đàn ông muốn tìm thấy ở sự chiếm đoạt phụ nữ
một cái gì khác, ngoài yêu cầu thỏa mãn một bản năng: phụ nữ là một đối tượng
đặc thù, qua đó đàn ông nô dịch Thiên nhiên” [9, tr.194]. Và đàn ông thường bỏ
công sức của mình ra để chinh phục cũng như khuất phục thiên nhiên và phụ nữ,
bằng bất kỳ giá nào: “Trong lúc tạo ra các giá trị, hoạt động của đàn ông tạo nên
bản thân cuộc sống với tư cách một giá trị; nó chiến thắng các lực lượng hỗn độn
của cuộc sống; nó chinh phục Thiên nhiên và người Phụ nữ [9, tr.85]. Người phụ
nữ luôn gắn liền với thiên nhiên, với nơi mình sinh ra và lớn lên, là quê hương
cội nguồn của mình. Truyện Người đi về phía rừng của Thu Trân là một minh
chứng như thế, tình cảm của cô gái xa xứ lớn dần theo năm tháng với quê hương,
khung cảnh thiên nhiên thân thuộc: “Ngồi dưới bóng dừa rợp mát khúc sông quê,
Hoài nhìn nước chảy. Sông xòe bàn tay mềm mại đón từ thượng nguồn những
giọt nước mắt của người con gái biết nhớ thương dành cho người con trai đã qua
bao mùa chinh chiến, mỗi ghềnh đá lô xô là một lời giải thích về nỗi phải cưu
mang những phận người của sông” [189, tr.173]. Dường như, tình yêu của đôi
trẻ trong tác phẩm chính là sự hòa quyện với thiên nhiên, là sự “đơm hoa kết
quả” của tình yêu qua sự “chứng giám” của thiên nhiên tươi đẹp: “Nam hồn
nhiên, hào sảng như trái cây trĩu cành trong vườn nhà ngoại Hoài kìa. Biết người
ta đã thấm tháp hương vị rồi mà vẫn hào sảng ra hoa, vẫn hồn nhiên kết trái, kĩu
cà kĩu kịt trên từng cành cho gió đong đưa” [189, tr.175]. Tác phẩm Đồi hoang
của Phạm Thị Ngọc Liên cũng thể hiện trọn vẹn “nỗi đau tâm thức” của một
90
người phụ nữ bị lừa gạt phải lấy một người đàn ông bị “bất lực” ở chốn rừng sâu.
Với sự nhẫn nhịn và khát vọng phi thường để được giải phóng khỏi nơi đây, cô
đã giúp cho người chồng dần lấy lại phong độ đàn ông trong y: “sự khao khát
hòa nhập lại với cuộc sống quần thể khiến cô không còn e dè gì nữa. Thay vì thụ
động, cô chủ động giúp gã đi tìm người đàn ông trong gã. Đêm, hàng đêm, cô âu
yếm, vuốt ve chồng, rồi bậm môi chịu đựng cơn điên dại vì thất vọng của gã trút
lên người cô” [189, tr.272]. Mẹ thiên nhiên đã giang tay che chở, bảo vệ người
phụ nữ có nghị lực đầy phi thường, quả cảm như là sự đồng cảm của những con
người đang chống chọi giữa ranh giới sự sống và cái chết. Đó chính là sự gắn bó
bền chặt, muôn đời giữa giới nữ và bản năng che chở, bảo vệ của tự nhiên: “Trời
thì xa lắm nhưng đất thì gần. Cuối con đường đất đỏ xa tít tắp, một đốm đen nhỏ
như con kiến đang di chuyển về phía ngọn đồi… Ánh nắng chiều hiu hắt phủ kín
lên thân thể nhỏ bé co quắp của cô một chiếc mền ấm áp. Thốt nhiên cô nhớ rõ
cảm giác nằm trong lòng mẹ khi cô còn thơ dại. Cô nhớ rõ mùi vị trái bắp luộc
mà cô thường ăn vào mỗi buổi chiều. Cô nhớ cả tiếng cãi nhau chí chóe của chị
em cô khi ngồi rửa chén bên sông, rồi thốt nhiên cô thấy mình đang bơi trên
dòng sông đầy lục bình trôi nổi. Đôi môi nứt nẻ của cô mở ra, khép lại như muốn
hớp vào từng ngụm nước sông” [189, tr.275]. Qua tác phẩm, có thể thấy giữa
phụ nữ và tự nhiên luôn có sự giống nhau trong cách ứng xử bởi: “số phận người
đàn bà là phục tùng, là bị chiếm hữu, bị khai thác như giới Tự nhiên mà mình là
hiện thân của sự phì nhiêu huyền diệu bị khai thác” [9, tr 98].
Vai trò của người mẹ rất quan trọng, theo lý thuyết của phê bình nữ quyền
thì người mẹ cũng là một “giống loài” của tự nhiên, có chức năng y như Mẹ
thiên nhiên mà duy chỉ “giới thứ hai” mới có được “quyền năng” đặc biệt này:
“Người mẹ là cái rễ cắm sâu trong lòng vũ trụ, và hút nhựa của vũ trụ, là cái
giếng phun ra dòng nước sống vốn là một dòng sữa nuôi dưỡng, một dòng suối
nóng, một lớp bùn làm bằng đất và nước, giàu những sức lực sinh sản” [9,
tr.187]. Có thể thấy rằng, người Mẹ/ người Phụ nữ và Thiên nhiên đã có sự hòa
nhập thiêng liêng, tạo lập được mầm sống chính là giá trị nhân sinh cao cả: “người
91
ta vẫn thừa nhận rằng phụ nữ có một vai trò quan trọng, che chở và nuôi dưỡng
mầm giống. Bởi vậy, mọi người phải tôn kính đất, người mẹ” [9, tr.96]. Nếu
người mẹ tảo tần, vất vả, “hao mòn” sức khỏe bởi những đứa con thì thiên nhiên
lại bị suy kiệt khốc liệt bởi bàn tay tàn phá của con người. Dù vậy, người mẹ và
thiên nhiên vẫn luôn “dang rộng bàn tay” đầy bao dung, vị tha cho những lỗi lầm
về sự vô tâm, hờ hững và cả những sự ích kỷ cá nhân của con người: “Thậm chí
tôi đã khai thác sức lực của bà một cách vô tư và tự nhiên như dòng nước vẫn vô
tư và tự nhiên chảy trong dòng suối kia để đến một nơi nào đó? Tôi đã quen được
mế chiều chuộng. Tôi đã dựa vào bà quá lâu” (Suối lạnh - Hà Thị Cẩm Anh) [194,
tr.112]. Truyện Gốc gội xù xì của Hà Thị Cẩm Anh cũng đã minh chứng được vẻ
đẹp trong tâm hồn của người phụ nữ xuất phát từ sự bao bọc, sẻ chia. Dường như
giới nữ luôn tìm thấy niềm vui và ý nghĩa sống từ việc sống hài hòa với tự nhiên,
cũng chính là bảo vệ rừng, bảo vệ “lá phổi xanh” của con người: “Tôi chăm sóc
cho cả khu rừng mà tôi đang phải sống nhờ. Rừng chính là ngôi làng của tôi. Cây
cối là hàng xóm láng giềng, là bạn bè là cậu mợ, cô dì chú bác là người già đáng
kính của tôi. Mà tôi là kẻ mạnh hơn nên phải nhận lấy trách nhiệm chăm sóc bao
bọc, và bảo vệ cho họ khỏi những bàn tay của những kẻ ác nhân xâm hại, phá hủy
khu rừng mà tôi yêu quý hơn cả mạng sống của mình, vì vậy mà trải qua hơn
mười năm khu rừng có tôi trông coi như trẻ lại còn tôi thì lại già đi… Chúng tôi đã
thật sự không thể tách rời nhau ra được nữa. Chúng tôi bao dung nhau, che chở
cho nhau để cùng nhau mà tồn tại” [194, tr.385].
Vẻ đẹp của người phụ nữ thường được ví với vẻ đẹp vô tận, bao dung của
thiên nhiên. Truyện Biển như tôi nhớ của Lý Lan chính là một hình ảnh hoán dụ
đầy ý nghĩa. “Biển” chính là người đàn bà, sẵn sàng “ôm” vào lòng mình tất cả,
kể cả sự lừa dối, phản bội của người đàn ông mà không hề oán thán, chê trách.
Bởi bản chất của người phụ nữ và tự nhiên chính là sự bao dung, che chở như
chính đứa con đã lầm đường lạc lối quay trở về với suối nguồn yêu thương của
Mẹ thiên nhiên: “Biển như tôi còn nhớ cũng giống như đàn bà thời có đàn ông,
chấp nhận bị lừa dối để thí nghiệm tình yêu… Nhưng bản chất đàn bà thời đó là
92
nhân nhượng. Như biển thời đó, cứ nhận tất cả vào lòng mình, từ những dòng
sông đen ngòm hóa chất đến cánh hoa trôi” [193, tr.80]. Tác giả cũng thể hiện
tiếng nói tố cáo sự khai thác quá mức, cạn kiệt các nguồn tài nguyên như chính
nỗi đau của người phụ nữ bị người đàn ông họ yêu lừa dối, niềm tin đã bị “ăn
mòn” và “chết” theo thời gian cùng với sức tàn phá kinh khủng đó: “Vào thời
còn đàn ông, biển như tôi còn nhớ có khi màu xanh lam có khi màu xanh lục, tùy
lúc người đàn bà đang yêu người đàn ông hay căm giận hắn. Biển bây giờ trong
veo, cái thứ gì trong biển mà người ta lấy ra được thì đã lấy ra hết rồi: vàng cùng
những kim loại khác, cá và các hải sản khác, muối và những thứ mặn khác như
nước mắt, nỗi buồn. Biển thời mà tôi nhớ thường bị ô nhiễm bởi những vết dầu
loang, nhưng tất cả các mỏ dầu đã cạn vào năm 2051; cũng không còn rác vì
không còn dầu để chế ra những sản phẩm cao cấp sẽ trở thành rác sau khi sử
dụng hoặc không qua sử dụng. Như tôi nhớ thì biển thời đó thường nổi lên bão tố
vì những con thuyền không bao giờ rõ ràng chuyện đi đâu về đâu. Bây giờ không
ai có khái niệm về thuyền nữa” [193, tr.77]. Để rồi, bước qua những tổn thương,
đau khổ, người đàn bà đã biết tự mình “sửa sang tâm hồn, gạn lọc dần những
gien mình không thích nữa như gien buồn phiền, gien thất vọng, gien tức giận.
Bởi vì đàn bà hay thay đổi, hoặc chính là thay đổi nên đến một lúc họ không còn
biết mình là ai và mình muốn cái gì” [193, tr.80-81].
Như vậy, qua các trang viết của giới nữ, thiên nhiên chính là “chất xúc tác”
để giới nữ thể hiện tất cả những vẻ đẹp hoang sơ, tiềm ẩn đầy thiên tính nữ nhất.
Thiên nhiên luôn lắng nghe, thấu hiểu và che chở, bảo vệ những người phụ nữ
một cách trân trọng và đầy yêu thương. Đến lượt mình, người phụ nữ cũng thấy
ngay trong tâm hồn mình sự đồng cảm và thương yêu, cùng chung niềm đau, mất
mát và cả những niềm hân hoan, hạnh phúc. Nữ quyền sinh thái đã thể hiện vai
trò quan trọng không thể thay thế của người phụ nữ: “người phụ nữ thâu tóm
Thiên nhiên với tư cách người Mẹ, người Vợ và Khái niệm” [9, tr.185]. Đồng
thời, các tác phẩm của các nhà văn nữ còn kêu gọi con người cùng chung sức
bảo vệ và gìn giữ môi trường sống trong lành của tự nhiên, cũng chính là “ngôi
93
nhà tự nhiên” của nhân loại. Cũng chính những lý do như vậy, nhà văn Đào
Thủy Nguyên cho rằng vai trò của thiên nhiên cũng quan trọng hệt như người
phụ nữ, chỉ khi nào “con người biết ứng xử thân thiện, hài hòa với thiên nhiên thì
Mẹ thiên nhiên sẽ luôn mở rộng tấm lòng bao dung chữa lành mọi vết thương
trong tâm hồn con người” [194, tr.24].
3.4.2. Nhân vật nữ với ý thức giải phóng bản thân
Bên cạnh nhân vật nữ với cảm quan sinh thái, chúng tôi muốn đề cập
đến kiểu nhân vật nữ với ý thức giải phóng bản thân, đặc biệt là xu hướng
thể hiện ý thức nữ quyền trong sáng tác của các nhà văn nữ tiêu biểu khác
nhằm vươn đến khát vọng giải phóng bản thân. Đó chính là một nét mới mà
chúng tôi muốn minh chứng như là điểm nổi bật của phê bình văn học nữ
quyền. Có thể nói, người phụ nữ ở các vùng cao và các vùng dân tộc thiểu số
chịu nhiều thiệt thòi, định kiến bởi bản chất người vùng cao từ đàn ông cho
đến già làng, trưởng bản rất bảo thủ, lạc hậu, ngại tiếp thu cái mới, cái tiến
bộ. Đó là một bức tranh thật ảm đạm bởi số phận người phụ nữ thật hẩm hiu,
khắc nghiệt. Họ chỉ như là con trâu, con bò trong gia đình, suốt ngày làm
lụng vất vả, họ thậm chí còn bị đánh đập, không được ra ngoài vui chơi,
hưởng thụ cuộc sống. Thậm chí người phụ nữ, đóng vai trò như trụ cột trong
gia đình, làm lụng vất vả nuôi sống cả nhà chỉ được ví như “tấm chăn thổ
cẩm”: “Đàn bà Êđê như tấm chăn thổ cẩm, người ta dùng từ lúc mới dệt đẹp
cho tới khi sờn rách vẫn còn giữ, không nỡ vứt bỏ. Mang tiếng mẫu hệ, nên
cái gì trong gia đình cũng trút lên hai vai, từ cõng nước, gùi cũi, suốt lúa, giã
gạo, dệt vải, đến chia bôi bữa ăn… làm việc có khi nào nghỉ tay?” [136,
tr.270]. Hay sự xót thương cho thân phận người phụ nữ vùng cao “Sinh ra
làm phận gái thì khổ rồi, mà là người có chút nhan sắc càng khổ hơn, bởi
nhiều người nhìn lắm, làm sao che mắt được người ta? Thế mới biết, làm cái
cây sướng hơn nhiều. Chẳng phải lo nghĩ, cứ nhẩn nha cắm rễ sâu xuống
lòng đất là lớn lên tươi tốt.” [136, tr.143]. Tất cả những yếu tố đó đa phần là
do sự áp đặt, lề thói phong kiến bất công của xã hội đối với phụ nữ: “Phụ nữ
94
bị coi như yếu tố phủ định, đầy hạn chế, chỉ là “con người tương đối” [102,
tr.69]. Đi ngược lại mọi tư tưởng thủ cựu cùng thời, Simone de Beauvoir
luôn đề cao phụ nữ, bà cho rằng: “Phụ nữ là linh hồn của ngôi nhà, của gia
đình, của bếp lửa; và cũng là linh hồn những tập thể rộng lớn hơn: một thành
phố, một tỉnh, một quốc gia” [9, tr.207].
Thân phận chịu nhiều đắng cay, khổ cực nhưng người phụ nữ vùng cao
không chịu chấp nhận số phận. Họ dũng cảm đứng lên đấu tranh bảo vệ quyền
bình đẳng, tự do và được làm những gì họ muốn dù những định kiến của con
người, của xã hội vùng bản rất khó thay đổi. Và họ đã làm được điều mà họ
mong muốn bằng sự đấu tranh không biết mệt mỏi của bản thân. Họ đã chứng
minh được một điều: người phụ nữ có thể làm được tất cả chỉ khi bạn dám đứng
lên. Những khát vọng cống hiến mạnh mẽ của người phụ nữ thể hiện nghị lực
phi thường làm chủ cuộc sống, vượt lên nghịch cảnh. Với tác phẩm nổi tiếng
Giới thứ hai, Beauvoir đã xác tín: “Phụ nữ không yêu cầu được ca tụng về mình
mà họ luôn mong muốn vươn cao để vượt lên thân phận tất yếu, không chỉ vì
bản thân mà còn vì toàn thể nhân loại” [102, tr.157].
Nhân vật Diên trong Cây thiêng trong lũng núi của Bùi Như Lan là điển hình
cho ý nghĩ đó. Diên đã từ chối việc lấy chồng để tập trung cho việc học với thái độ
rất kiên quyết bởi cô không muốn mình lại là bản sao của mẹ cô trước kia: “Cháu
phải cố học nhiều cái chữ nữa, có cái chữ khắc nghĩ ra việc làm để no bụng thôi.”
[136, tr.135] hay “Bây giờ chắc muộn lắm rồi sao nhà tôi vẫn sáng đèn và nhiều
người đi lại thế kia? Có lẽ tôi phải về thôi, về để nói với bà rằng, tôi không làm vợ
thằng trai lạ ấy, bà ép tôi không được đâu. Tôi không thể giống như mế tôi trước
kia được. Nghĩ đến đây, tôi thấy đầu tự nhiên nhẹ bẫng.” [136, tr.137]. Diên
không muốn an phận mà cô muốn thay đổi số phận mình theo hướng tốt đẹp hơn.
Điều đó khác hẳn những suy nghĩ cổ hủ của người bà, cũng là của dân vùng cao
“Con gái học nhiều làm gì? Cả đời tao không biết cái chữ có sao đâu? Cái chữ vào
đầu có no bụng được không? Mày ở nhà thôi!” [136, tr.135].
Mỗi nhân vật nữ mang trong mình một nỗi đau, một số phận riêng nhưng
họ không quá bi lụy mà vượt lên trên tất cả, họ vẫn sống tốt và khiến mọi người
95
xung quanh phải nể phục vì ý chí, nghị lực sống của họ. Tình yêu của họ đã cảm
hóa những con người xấu xa nhất. Nàng Hơ Ngót trong truyện Mụ Xoặi của Kim
Nhất là một ví dụ điển hình. Truyện ca ngợi tấm lòng cao thượng của nàng Hơ
Ngót, dù bị mụ Xoặi độc ác cướp mất chồng sắp cưới nhưng cô vẫn không oán
trách mụ. Chính điều đó đã khiến “trái tim sỏi đá của mụ thức tỉnh. Mụ đã khóc
không chút ngượng ngùng. Lần đầu tiên mụ thấy hối hận.” [136, tr.291].
Nhiều tác phẩm còn ca ngợi những người phụ nữ dám đứng lên đấu tranh
giành lại tình yêu của mình “dù phải chống lại luật tục muôn đời”. Đây là một
điều khá mới mẻ và nhiều tác phẩm mang tính nữ quyền cao bởi tư tưởng của
người dân vùng cao vẫn còn thụ động, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” và họ
không dám đấu tranh cho tình yêu đẹp của mình. Ví như như nàng Plang xinh
đẹp trong Hơi thở của núi của Niê Thanh Mai. Nàng Plang tuy nhà nghèo nhưng
rất xinh đẹp, tính tình hòa đồng, Plang được KLành đem lòng yêu mến nhưng
Plang đã từ chối tình cảm của KLành dù “con gái trong buôn đều mơ ước được
đeo vòng vào tay anh vì KLành là con trai của trưởng buôn, người có quyền
quyết định mọi việc lớn nhỏ.” [137, tr.101]. Nàng chỉ yêu KTyn dù KTyn chỉ là
người hầu hạ của KLành. Và khi KTyn bị KLành âm mưu hãm hại chết, nàng
vẫn dành trọn tấm lòng trinh nguyên cho chàng, không hề thay đổi.
Bên cạnh những cô gái nghèo dám đứng lên bảo vệ tình yêu của mình thì
cũng không thiếu những nhân vật nữ xinh đẹp xuất thân trong gia đình danh giá,
giàu có nhưng vẫn quyết tâm từ bỏ tất cả để đi theo tiếng gọi tình yêu. Đó là câu
chuyện về nàng H’ri xinh đẹp trong Srêpôk sáng nay yên tĩnh của H’ Linh Niê.
Nàng H’ri là con gái duy nhất của tù trưởng hùng mạnh, giàu có và nổi tiếng
khắc nghiệt với nô lệ ở Buôn Ea Soup. Ông muốn nàng lấy Y Phin, con trai của
Mtao Gấu, là người giàu có và ác không kém. H’ri đã từ chối mệnh lệnh của cha
và nàng chỉ yêu Y Tam, một người nô lệ thấp hèn khác xa với địa vị giàu có của
nàng. Bằng tình yêu chân thật và cháy bỏng, họ đã dám vượt qua trở ngại của gia
đình, trốn đến buôn Ea Rôk sinh sống. Nàng H’ri cuối cùng đã có cuộc sống
hạnh phúc bên Y Tam. Hai người dùng lời ca tiếng hát để phục vụ buôn làng,
96
cuộc sống thật hạnh phúc.
Nhân vật Lanh trong Lạc giữa lòng Mường của nhà văn Hà Lý là một cô
gái dám thay đổi cách sống, cách nghĩ để thích nghi với gia đình, họ tộc Mường
của chồng. Lanh từ chỗ là người xa lạ, cô tập dần để trở thành người Mường
Đệt: tập mặc váy người Mường, giao tiếp, theo phong tục của người Mường dù
gặp nhiều khó khăn. Người Mường Đệt chưa bao giờ được ăn phở, cô và Chảng
không ngại khó khăn đạp xe đạp về phố huyện để mua bánh phở, xương về nấu
cho dân bản ăn: “Khuôn mặt Lanh lúc nào cũng ngân ngấn mồ hôi và ửng hồng
như cô văn công. Lanh phải ngồi bếp giũ bánh phở, chần nước rồi múc nước vào
bát để Chảng chuyển đến mọi người. Nhìn dân Mường Đệt ăn phở Lanh cố nén
nụ cười mà lòng lại sắt se thương họ. Đúng, đây là lần đầu tiên họ biết ăn phở
thực sự. Cái bình dị, đương nhiên ở nơi thành thị, phố chợ lại là cái mới lạ, còn
lâu mới đạt tới ở đây, ở cái xóm Mường bám chênh vênh vào sườn núi Khồ
này.” [180, tr.238]. Lanh là một mẫu người phụ nữ hiện đại, cô sẵn sàng làm mọi
việc dù khó khăn, cách trở đến đâu để người dân Mường Đệt được tiếp xúc
những điều mới mẻ, tiên tiến, xóa đi nếp sống và nếp nghĩ hủ tục tồn tại lâu đời
ở vùng quê hẻo lánh này. Trường hợp của Lanh là trường hợp điển hình của
“người phụ nữ độc lập” bởi đó là “người phụ nữ phải biết tự vượt lên bản thân
mình để đạt tới sự bình đẳng và có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính sự vươn lên này
mới thể hiện sự hiện sinh tích cực của họ” [102, tr.117].
Ngoài những cô gái nghèo đầy bản lĩnh, nghị lực, các nhà văn nữ còn ca
ngợi những cô gái bị khiếm khuyết về hình thể nhưng họ vẫn tự tin và tự tìm
kiếm được hạnh phúc cho mình. Trên con đường tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc
chân chính của mình, họ đã hiểu rõ giá trị của sự đấu tranh. Nếu không có sự đấu
tranh hay giải phóng cho số phận của mình thì cuộc đời sẽ mãi ê chề, bi lụy. Bởi
họ hiểu rõ được giá trị chân lý: “Với mục đích tối cao là vươn tới bình đẳng
trong cuộc sống, phụ nữ phải tồn tại chủ yếu cho chính bản thân, tự vươn tới
những mục đích riêng và vượt qua mình mà không cần bất kỳ nhân vật trung
gian nào” [102, tr.141]. Nhân vật nữ với khuôn mặt xấu xí trong truyện Gốc gội
97
xù xì của Hà Thị Cẩm Anh dù có đôi chút tự ti, mặc cảm nhưng cô vẫn luôn có
niềm tin sẽ thay đổi và chiến thắng được số phận. Nhờ những nỗ lực vươn lên
trong cuộc sống bất chấp mọi sự dè bỉu, khinh miệt về ngoại hình của cô, cuối
cùng cô đã trở thành một người có ích cho xã hội, trở thành vận động viên thể
thao và có được một người chồng yêu cô hết mực: “Hạnh phúc không tìm đến
với tôi thì nhất định tôi sẽ đi tìm kiếm nó. Dù chỉ được một lần yêu duy nhất
trong đời như chị Sun tôi thì đối với cô gái có khuôn mặt xấu xí như tôi cũng
đáng! Tôi nhớ lại giấc mơ dưới cây dưới gốc cây Gội già tàn tật năm nào. Tôi
chỉ bị dị tật chứ tôi hoàn toàn không bị tàn phế. Tôi có chân, có tay. Chân tay tôi
vẫn lành lặn, nguyên vẹn mà lại còn rất đẹp nữa. Mắt tôi cũng sáng. Tôi có thể
làm việc và tự nuôi sống mình. Tại sao tôi lại phải ngồi bó gối bên bếp lửa đợi
hạnh phúc tìm đến với mình. Hạnh phúc không đến thì ngồi đó mà gặm nhắm
nỗi đau như chị Sun tôi thì thật đáng buồn? Tôi cũng không muốn cứ chui rúc
mãi trong rừng để trốn tránh số phận mình như một kẻ yếu hèn thêm nữa” [194,
tr.391]. Sự đấu tranh của người phụ nữ bị khuyết tật về ngoại hình để giải thoát
cho cuộc sống, chính là “quyền được mưu cầu tình yêu và hạnh phúc”.
Với truyện ngắn Bài xương ru từ núi của Hà Thị Cẩm Anh, chúng ta thấy
được nội lực sống tiềm tàng đầy kiêu hãnh không bao giờ gục ngã của Cầm
dù người tình và gia đình bỏ rơi. Giá trị của tình mẫu tử đã giúp Cầm vượt qua
khó khăn, trở thành “đại gia” đất của Mường Dô: “Thằng Sáng đến tuổi đi học
cũng là lúc Cầm được cấp tấm bìa đỏ chứng nhận quyền sử dụng đất của mình.
Lúc đó người Mường Dồ mới thật sự giật mình sửng sốt: Diện tích đất đã trồng
luồng của Cầm rộng bằng cả tổng diện tích luồng của Mường Dồ cộng lại? Hóa
ra chị là người có nhiều đất nhất rừng và có nhiều luồng nhất thung lung
Si Dồ” [194, tr.257].
Cô giáo Hân vùng cao với cuộc chiến đấu dũng cảm với bọn buôn ma túy
trong truyện Bình minh xanh của Hà Thị Cẩm Anh đã đem đến nhiều cảm xúc
cho bạn đọc. Đó là ấn tượng về một cô gái xinh xắn, thanh mảnh, nhanh nhẹn,
luôn gắn bó với học trò và vùng cao Biên giới như mái nhà thân thương của
mình. Một mình cô dám chống trả bọn buôn ma túy để bảo vệ môi trường trong
98
sạch ở các trường học vùng cao, giúp cho các em yên tâm đến lớp. Cô đã bị ép
tiêm ma túy nhưng vẫn gắng sức chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Và may mắn
thay, cô đã thoát ra được hang ổ của bọn người xấu luôn muốn tìm cách hãm hại
những người tốt như Hân. Có thể nói, Hân là một trường hợp điển hình của
những người phụ nữ mạnh mẽ không bao giờ khuất phục trước các thế lực xấu.
Và sự hy sinh của cô vì học sinh thân thương sẽ là tình cảm mãi in đậm trong
tâm trí người dân vùng bản: “Một cô giáo luôn coi học trò như máu thịt của
mình. Cô coi vùng cao Biên giới như mái nhà của mình. Cô giáo mở lớp dạy chữ
ban đêm cho học trò mù. Lên rẫy lên nương cõng những đứa trẻ bỏ học trở lại
lớp. Bỏ hết tiền lương ra mua thuốc chữa bệnh cho kẻ nghèo. Tổ chức tuyên
truyền phòng chống ma túy cho thanh niên lông bông” [194, tr.604].
Văn chương đương đại thể hiện những dục tính thầm kín của người phụ nữ
đã có tiếng nói phản kháng rất mạnh mẽ đối với nam giới và xã hội. Trong thời
đại công bằng, tự do và bác ái, người phụ nữ không còn quá lệ thuộc vào đàn
ông và xó bếp, họ muốn được khẳng định mình ngay trong chuyện phòng the mà
trước đây người ta đánh giá đó là “chuyện xấu xa” và “không nên nhắc đến”.
Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ vùng cao với những khao khát tính dục mạnh
mẽ, bất chấp mọi lề thói xã hội đã mang đến một luồng gió mới cho văn chương
vùng cao nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Đó là nỗi lòng, bi kịch của cô dâu trong ngày cưới đã trở thành góa phụ
trong Tiếng kèn lá nối dài những mùa trăng của Bùi Như Lan. Nỗi đau của cô
gái trẻ đó là lấy chồng nhưng chưa kịp cảm nhận được dư vị hạnh phúc, những
ân ái vợ chồng nên cô khao khát tiếng kèn của một chàng trai trẻ hàng đêm cô
thường nghe để khỏa lấp những ham muốn làm vợ, làm mẹ rất chính đáng:
“Tiếng kèn lá ấy như ôm ấp, ve vuốt, làm cho cơ thể tròn căng của tôi nhức nhối,
rạo rực, bồn chồn và bừng bừng trỗi dậy những bản năng khao khát, ham muốn
được dâng hiến, được cho và được nhận… Tiếng kèn giờ đã ở ngay ngoài ngõ
nhà tôi. Tôi muốn nói với anh, đừng thổi kèn nữa, tôi không chịu nổi, nhưng cái
miệng tôi khô cứng, bỏng rát không nói được. Tôi biết cơ thể trinh nguyên, ăm
99
ắp, tròn đầy hai mươi sáu tuổi của tôi đang nổi loạn.” [136, tr.154-155].
Để rồi sau đó là sự đấu tranh vượt lên nghịch cảnh của nàng dâu mới, cô
dám từ bỏ tất cả, “cởi nút trói cho số phận” để tìm cho mình con đường mới
hạnh phúc, tươi sáng hơn bởi cô còn quá trẻ, tương lai vẫn còn đang ở phía
trước: “Đêm nay, giống như bao đêm trăng đã qua, tôi vắt kiệt sức mình trong
ham muốn tột cùng được ai đó bù đắp, lấp đầy khoảng trống vắng, để tôi được
làm vợ, làm mẹ, để tôi biết vị ngọt ngào của trái cấm và biết cái hạnh phúc đầm
ấm của cuộc sống gia đình. Giờ thì tôi đang đứng chơi vơi giữa hiện tại và quá
khứ, giữa cái có và không, giữa hư ảo và thực tế, giữa tình yêu và bổn phận…
Tôi không thể chông chênh mãi như thế này, tôi muốn cởi nút trói cho số phận
làm dâu quạnh hiu của tôi. Dẫu rằng, chuyện này người bản sẽ cười chê, đơm
đặt, đàm tiếu, dè bỉu… nhưng rồi mọi người sẽ hiểu ra thôi, họ không cười tôi
mãi được. Còn bàn thờ dòng họ Thào này nữa, phải có người kế tiếp mà lo
nhang khói nữa, nghĩ thế, tự nhiên tôi thấy như trút đi gánh nặng của quá khứ và
nhẹ nhõm thanh thản trôi vào giữa đất trời nghiêng ngả.” [136, tr.155-156]. Có
thể thấy rằng, bằng một cách nào đó, “Đàn ông đơn giản phóng chiếu đàn bà
những thuộc tính của sự yếu đuối và sự khổ dâm” [96, tr.52]. Nhưng không phải
họ “quy thuận”, thụ động theo sự chi phối của đàn ông bởi họ hiểu rõ rằng vấn
đề xúc cảm rất quan trọng trong hôn nhân, gia đình. Thế nên, có một thực tế
không ai dám phủ định, đó là: “nhiều phụ nữ trở thành mẹ, thành bà nhưng chưa
bao giờ biết khoái cảm, thậm chí rung động” [10, tr.44]. Do đó, sự đấu tranh của
nhân vật nữ đã trở thành vấn đề tất yếu trong xã hội hiện đại và đặc biệt có ý
nghĩa đối với bình đẳng giới.
Truyện Gốc gội xấu xí của Hà Thị Cẩm Anh miêu tả về một cô gái xấu xí
luôn mặc cảm về khuôn mặt của mình, nhưng ẩn bên trong sâu thẳm trái tim cô
gái bé nhỏ đó là một sự khao khát về một mái ấm hạnh phúc với một chàng hoàng
tử trong mơ của cô. Ở cô, không thể thiếu sự khao khát mãnh liệt về tính dục đối
với một cô gái đang tuổi “hừng hực” sức xuân dù cô ấy có là ai: “Tôi thường bị
thức dậy vào lúc nửa đêm rồi vô tình sờ tay lên ngực. Bàn tay tôi chạm phải cặp
100
vú con gái rắn chắc và tròn trịa của mình, thế là tôi không ngủ lại được nữa. Tôi
vật vã, khao khát và thèm muốn có được một bàn tay ấm nóng của một người con
trai mơn man, sờ nắn, vuốt ve trên đôi vú của mình biết bao nhiêu!” [194, tr.390].
Có thể thấy rằng, phụ nữ dù ở giai tầng địa vị nào, dù già hay trẻ, xấu hay đẹp…
họ cũng đều có chung khao khát về tính dục và giải phóng tính dục. Điều đó cũng
thể hiện được trọn vẹn vẻ đẹp đầy thiên tính nữ của người phụ nữ.
Hình ảnh người phụ nữ đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ bị những lề thói
cổ hủ trói buộc, không thể phát triển nhưng với ý chí, nghị lực sống phi thường
cùng những khát khao rất chính đáng: được làm vợ, làm mẹ, được sống hạnh
phúc với tình yêu chân chính hay thậm chí là được đến trường, vượt lên trên
những nghịch cảnh của số phận đã để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu
đậm. Họ là hiện thân cho những người phụ nữ hiện đại với đời sống cởi mở, đón
nhận những tư tưởng tiến bộ của tư tưởng nữ quyền. Bởi suy cho cùng, đối với
phê bình nữ quyền thì: “Giải phóng phụ nữ, tức là không còn tiếp tục nhốt chặt
họ trong quan hệ với nam giới, chứ không phải phủ nhận những mối quan hệ ấy”
[10, tr.441]. Như vậy, có thể thấy các nhà văn nữ đã có công sức rất lớn đưa âm
hưởng nữ quyền vang rộng, vang xa ở khắp các dân tộc của Việt Nam. Làm
được điều đó, theo nhà phê bình Nguyễn Đức Hạnh, thì các tác giả, tác phẩm văn
học miền núi “đã góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc từ
trong bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam - những giá trị văn
hóa truyền thống đã trở thành “mảnh đất màu mỡ” để từ đó các nhà văn nhà thơ
là người dân tộc thiểu số đã “gieo trồng” và “gặt hái” những “mùa màng” văn
chương, đóng góp và làm giàu có thêm cho nền văn hóa, văn học Việt Nam hiện
đại tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc” [79, tr.3 - 4].
Một điều đáng chú ý, hình ảnh những người đàn ông “bất toàn” xuất hiện
dần phổ biến trong truyện ngắn của các nhà văn nữ từ sau năm 1986. Lần đầu tiên,
người phụ nữ trong văn học đã “dám cởi bỏ mọi định kiến” để “thỏa sức” phô
diễn mọi nét đẹp, quyến rũ đầy bất ngờ, táo bạo về tính dục và nhu cầu giải phóng
101
tính dục. Ở đây, theo quan niệm của nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thanh Xuân, các
nhà văn nữ đã “xét” lại thế giới đàn ông ở những mặt khiếm khuyết, “bất toàn”
“một cách có hệ thống, từ trong các mối quan hệ xã hội, nghề nghiệp đến đàn ông
trong tình yêu, đời sống gia đình…” [58]. Với cái nhìn biện chứng và sắc sảo của
các nhà văn nữ, những người đàn ông đó có thể có những hạn chế như gia trưởng,
ngoại tình, thiếu trách nhiệm và tình yêu chưa đủ lớn đối với người phụ nữ và gia
đình… (truyện của Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Đỗ Hoàng
Diệu, Nguyễn Ngọc Tư…). Từ những trang viết sống động của các nhà văn nữ nữ,
độc giả dần có cái nhìn đa chiều và toàn diện hơn về người đàn ông, chứ không hề
“thập toàn thập mỹ” như nhiều người lầm tưởng. Vẫn biết rằng mọi sự so sánh
đều có tính khập khiễng nhưng vẫn không thể phủ nhận rằng, dòng văn học nữ
quyền không thể thành công nếu thiếu đi hình ảnh những người đàn ông “bất
toàn”, làm thăng hoa và bảo chứng cho vẻ đẹp toàn diện của giới nữ: “Đành rằng
có thể có sự phiến diện khi phụ nữ viết về đàn ông với cái nhìn đàn bà của họ,
nhưng rõ ràng, khi làm điều đó, họ đã bước qua mặc cảm về thân phận, về kiếp
đàn bà bé mọn trong văn học truyền thống. Họ đã đứng lên đối diện với đàn ông,
xét lại bản chất của những người đàn ông mà xưa nay họ chỉ có thể phục tùng và
dâng hiến” [58]. Có thể nói, truyện ngắn của các nhà văn nữ cùng lối viết đầy tinh
tế, sáng tạo đã biểu đạt ngôn ngữ thân thể - yếu tố tính dục của người phụ nữ một
cách hài hòa, hợp lý, một đề tài trước đây bị xem là cấm kỵ nhưng xu hướng hiện
nay nó lại thể hiện sự tự cởi trói, tự giải phóng mình của người phụ nữ. Như chính
câu nói bất hủ của nhà nữ quyền nổi tiếng người Pháp Hélène Cixous: “Hầu như
tất cả những gì về nữ tính hãy nên chờ đợi phụ nữ viết ra: về những đặc trưng giới
tính của họ, tức là những tính phức tạp rối ren đang biến đổi vô cùng tận, nhất là
về tính dục, rồi những xao động đột ngột vừa tế vi vừa lớn lao của họ. Không phải
là về số phận, mà là về những chợt tỉnh từ thân thể họ” [104, tr. 370 - 371]. Và
chúng ta dường như thấu hiểu được rằng: người phụ nữ dù trong hoàn cảnh nào
cũng phải biết tự yêu thương chính mình, đấu tranh để giành lại sự công bằng cho
bản thân. Đó chính là những giá trị nhân sinh cốt lõi và ý nghĩa nhân văn cao cả
102
thể hiện trong từng tác phẩm của văn học vùng cao.
Tiểu kết
Qua việc phân tích những kiểu dạng nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn nữ
Việt Nam 2000 - 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền, chúng tôi nhận
thấy rằng hình ảnh người phụ nữ hiện lên thật chân thật và mang nhiều thông điệp
với ý nghĩa sâu sắc. Đầu tiên là tinh thần nữ quyền được thể hiện đầy mạnh mẽ
thông qua các tác phẩm của các nhà văn nữ với những sự tranh đấu khác nhau của
từng nhân vật. Tính đa chiều và đa diện trong việc thể hiện những dòng cảm xúc
như những đợt “sóng ngầm” của nhân vật, cũng là yếu tố góp phần thành công của
tác phẩm. Thứ hai, đó là sự khẳng định và ca ngợi bản chất tốt đẹp của người phụ
nữ Việt Nam: thủy chung, hy sinh thầm lặng vì hạnh phúc gia đình. Dù hoàn cảnh
khó khăn, nhưng họ vẫn mạnh mẽ vượt qua để sống tốt hơn với niềm hy vọng về
một tương lai tươi sáng hơn. Thứ ba, đó là sự tranh đấu không ngừng của người
phụ nữ cho quyền sống và quyền tự do để đáp ứng những khao khát hạnh phúc đời
thường cho chính họ. Trong đó, yếu tố tính dục đóng vai trò quan trọng trong tình
yêu, hôn nhân. Và lần đầu tiên, truyện ngắn hiện đại Việt Nam đã thể hiện được
tiếng nói mạnh mẽ cho những khao khát chính đáng về sex của người phụ nữ
nhưng đã bị “kìm nén” bởi hệ tư tưởng xưa cũ, lỗi thời. Nói tóm lại, người phụ nữ
trong văn học hiện đại đã dám tự mình cởi bỏ “gông cùm” để tạo cho mình một
cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc. Có được điều đó là nhờ sự đóng góp không
biết mệt mỏi của các nhà văn nữ cho nền văn học nước nhà cùng lối viết nữ đặc
trưng. Điều đó thể hiện sự sáng tạo và đổi mới không ngừng của các nhà văn nữ,
vượt qua những định kiến hà khắc của xã hội để chứng minh, “bảo toàn” được vẻ
103
đẹp giới trong các tác phẩm truyện ngắn của mình.
Chƣơng 4
PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ
VIỆT NAM 2000 - 2015 TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH
VĂN HỌC NỮ QUYỀN
4.1. Điểm nhìn trần thuật
Theo thời gian và sự phát triển của đời sống xã hội, văn xuôi nữ hiện đại ngày
càng quan tâm đến các vấn đề thuộc về quyền lợi và bình đẳng của người phụ nữ.
Do vậy, vấn đề diễn ngôn về giới càng được quan tâm hiện nay. Hélène Cixous là
người đầu tiên khai phá “lối viết nữ” trong văn chương (L’écriture féminine). Theo
bà, giữa giới tính và diễn ngôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, diễn ngôn
còn đóng vai trò nâng tầm giới tính. Trong nhiều tiểu luận của mình, bà khẳng định:
“Phụ nữ phải có hệ thống ngôn ngữ riêng phù hợp với bản thể giới tính của họ, để
biểu đạt những đặc thù riêng biệt của mình mà người khác giới không có” [41].
Đối với lý thuyết trần thuật, theo tác giả Trần Minh Đức, yếu tố trần thuật
liên quan đến rất nhiều yếu tố như “hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình
luận, lời ghi chú của tác giả… Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử
dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn
riêng và cá tính sáng tạo của tác giả” [31].
Nhắc đến diễn ngôn trần thuật về giới, không thể bỏ qua điểm nhìn trần
thuật từ giới nữ (điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài). Ngôi trần thuật
thường là ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất (tác giả/nhân vật xưng “tôi”), tạo cảm
giác gần gũi, bình dị, mộc mạc. Đó chính là góc nhìn trực diện, sát thực nhất của
các nhà văn nữ, những người cùng giới với tâm hồn nhạy cảm, phong phú và
tràn đầy niềm tin yêu, sự cảm thông sâu sắc về giới.
4.1.1. Điểm nhìn bên trong
Điểm nhìn trần thuật là một vấn đề quan trọng trong phương thức nghệ thuật
bởi theo Trần Đình Sử trong Giáo trình dẫn luận thi pháp học (1998) thì "Điểm
104
nhìn văn bản là phương thức phát ngôn trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn,
cách cảm thụ thế giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao
gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới" [76]. Theo
tác giả Phạm Ngọc Hiền, điểm nhìn trần thuật “có liên quan tới tất cả các thành
tố khác trong tác phẩm. Ở mức độ cao hơn, nhiều tác giả còn xây dựng “chiến
lược” điểm nhìn, nhằm tạo ra một tác phẩm mà trong đó điểm nhìn trở thành
“nhân vật” chính” [45, tr.3]. Có rất nhiều dạng điểm nhìn khác nhau nhưng trong
khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích làm rõ hai phạm trù cơ bản là
điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài về giới để thấy rõ tinh thần nữ
quyền trong văn xuôi đương đại Việt Nam.
Điểm nhìn bên trong là điểm nhìn nhân vật trong tác phẩm. Người kể
chuyện thường xưng "tôi" hoặc có thể đứng ở ngôi thứ ba để kể chuyện. Với
điểm nhìn bên trong thì không hề có khoảng cách giữa nhân vật và người kể
chuyện. Bởi vì người kể chuyện chính là nhân vật, người kể chuyện như "hóa
thân" vào nhân vật, thấu hiểu mọi suy nghĩ, tính cách của nhân vật. Thế giới nội
tâm nhân vật được thể hiện đa chiều nhất thông qua điểm nhìn bên trong.
Đây cũng chính là sự “hòa quyện” của tận cùng nỗi đau cùng với nhân vật.
Nhân vật “tôi” đóng vai trò là chủ thể phát ngôn cũng chính là người kể chuyện,
dẫn dắt câu chuyện theo những diễn biến tâm lý của nhân vật. Truyện Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là một ví dụ như thế: “Sẽ còn bao nhiêu người nữa
được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia, tôi tự hỏi mình khi nhìn vào người đàn
ông vào tuổi bốn mươi, quyến rũ từ cái cười, từ câu nói, ánh nhìn thăm thẳm,
ngọt ngào. Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ
điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thăm thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt
chân” [197, tr.305 - 306]. Có khi là nỗi đau bất tận của người phụ nữ không có
lối thoát đối với các nhân vật của Y Ban: “Đầu óc tôi mụ mị. Tôi muốn chết. Tôi
chết thì ai chăm con gái tôi. Nó cũng là con gái. Tôi khóc. Thật may tôi khóc
được” [140, tr.141]. Hay có khi còn là độc thoại nội tâm ẩn chứa khao khát sống,
hạnh phúc và được yêu thương của một manơcanh trong truyện Sống của Mai
105
Thy: “Chàng đang cười, và tôi thấy cả thế giới của mình qua cánh tay của chính
tôi?! Tại sao tôi không thấy đau chút nào? Bóng tối chợt ập đến. Mọi âm thanh,
mọi cảm giác thành xa xôi. Tôi đang ở đâu? Tôi muốn trở về thế giới tràn ngập
ánh sáng của mình. Hay đây mới chính là thế giới của tôi?! Tôi là ai. Không, tôi
là cái gì?!...” [198, tr.73]. Độc thoại cũng chính là phương thức trần thuật thể
hiện sự đấu tranh nội tâm và những xúc cảm đầy tinh tế, nhạy bén, những đau
khổ, dằn vặt của các nhân vật nữ, xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm: “Tôi là ai
trong những mảnh ghép không đâu? Tôi là ai mà nơi nào cũng xa lơ xa lắc.
Không dấu vết. Buồn tênh. Ngôi nhà vô hình tôi hằng trú ngụ, là giấc mơ hoa
trong tim mình. Giờ chồng tôi đã phá tan hoang.” (Cúc quỳ, Hồ Thị Hải Âu)
[189, tr.141]. Và độc thoại cũng chính là một hình thức diễn ngôn thể hiện tình
cảm sâu nặng, sắt son của các nhân vật nữ: “Nghi bàng hoàng. Có phải là anh
đấy không, Giang? Ôi, thực ra mình là ai? Chị bỗng thấy mình quá thảm hại
trước Giang. Vậy thì phải đứng lên thôi. Ra khỏi căn nhà này, mình sẽ lại là
mình. Nhưng mình còn có là mình nữa không? Làm thế nào để quên được Giang
đây?” (Nhà có ba chị em - Võ Thị Xuân Hà) [173, tr.76].
Có thể thấy rằng, phương thức kể chuyện với ngôi thứ nhất, nhân vật xưng
“tôi” đã được “phổ quát hóa” trong hầu hết các truyện ngắn nữ Việt Nam hiện
đại. Nhân vật “tôi” chính là bản thể của cái “tôi” tự thuật/ cái “tôi” chiêm
nghiệm/ cái “tôi” giãi bày, giúp cho các nhà văn nữ “khai thác nội tâm nhân vật
một cách triệt để và biểu hiện nó một cách sâu sắc hơn” [15]. “Tôi” cũng chính
là đại diện cho tiếng nói của các nhà văn nữ trẻ đấu tranh bảo vệ quyền bình
đẳng của người phụ nữ trên nhiều phương diện. Ý thức giới và tinh thần nữ
quyền được nâng cao qua mỗi tác phẩm của các nhà văn nữ bởi ý nghĩa nhân văn
cao cả. Những câu chuyện được kể/ tự thuật bởi chính nhân vật “tôi” đã đem đến
cho người đọc một bức tranh muôn màu sắc về xúc cảm. Đó là cái “tôi” cá tính
dù biết phải đối diện với nhiều thị phi: “Cái gì cũng có giá của nó. Tôi không
muốn sống trong cuộc sống gia đình tù túng thì tôi sống một mình với con.
106
Nhưng tôi sợ sự cô đơn thì tôi phải có bạn tình. Tôi yêu một người đàn ông có
vợ. Tôi chấp nhận sự chia sẻ đó” (Nhân tình - Y Ban) [138, tr.20]. Cái “tôi” đầy
đam mê, cuồng nhiệt ái tình nhưng không nhuốm sắc màu nhục dục mà văn
phong lại rất tự nhiên, phóng khoáng: “Tôi muốn áp môi tôi lên môi chàng,
nhưng tôi sợ chàng thức giấc và như thế khoảnh khắc kỳ diệu ấy sẽ biến tan đi.
Nhưng cơn đói khát chàng đã làm tôi dừng lại ở đó... Tay tôi run rẩy lần cởi
những chiếc khuy áo màu cánh gián, từng chiếc, từng chiếc một...” (Không hoa -
Lê Thị Hoài Nam) [157, tr.34]. Cái “tôi” đầy đau đớn, điên dại trong một cuộc
hôn nhân không có tình yêu, hạnh phúc: “Tôi lặng lẽ nhìn chồng tôi với đôi mắt
của người chết đuối. Cơn đau hành hạ tôi. Tôi âm thầm chịu, không rên rỉ. Đêm
ấy tôi nằm mơ thấy một con nai trúng tên, nằm khắc khoải chờ chết trong một xó
rừng” (Cánh cửa thứ chín - Trần Thùy Mai) [154, tr.264]. Và đôi lúc còn là “sự
quẫy đạp”, xác lập sự công bằng về giới: “Tôi không quan tâm phúc phận, tôi chỉ
thấy nước mắt mẹ chảy ra vì tôi. Bà là một người đàn bà bất hạnh. Nỗi bất hạnh
bắt nguồn từ tình yêu bà dành cho những người xung quanh. Bà không tin vào sự
công bằng, tôi lại càng không. Nhưng tôi biết trong cả hai mẹ con luôn có một
ngọn lửa le lói chờ có cơ hội bùng lên. Là hy vọng, niềm tin còn lại hay sự phản
kháng?” (Nòi giống phù thủy - Yến Chu) [182, tr32].
Một điểm đáng chú ý đối với điểm nhìn bên trong, đó là các tác giả nữ đã
dùng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại đầy tính thông tục, quen thuộc, dân dã, dễ đi
vào lòng người. Ví như cuộc đối thoại của hai vợ chồng trong Cuộc chiến tranh
giữa các nền văn hóa của Y Ban:
“- Bỏ ngay cái thực đơn của anh đi. Em không thể chịu được mỗi khi bạn
bè anh kéo đến ăn nhậu xong thì cả nhà sực nức mùi mắm tôm đến cả tuần
không hết được.
- Thịt chó mà không có mắm tôm thì còn gì là ngon nữa.
- Thì anh tạnh luôn cả cái bài thịt chó của anh đi. Man di mọi rợ.
- Em nhầm, đó là đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Sống ở đời ăn miếng dồi
107
chó. Chết xuống âm phủ không biết có mà ăn.
- Cái thời đói khát nhà anh mới thèm thịt chó, chứ thời buổi bây giờ thiếu gì
sơn hào hải vị để mà thưởng thức. Học bao nhiêu bồ chữ mà vẫn không gột rửa
hết cái văn hóa nông dân như anh.
- Em nói sao? Hơi quá lời rồi đấy. Xúc phạm nhau là không xong đâu nhé.
Tử tế đây còn ở nhà, không có là đây phắn.” [181, tr.268].
Có thể nói rằng, điểm nhìn bên trong đã thể hiện được cái tôi cá tính, đầy
màu sắc trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại. Điều đó thể hiện xu hướng
sáng tác đầy tính gần gũi, chân thật, bình dị, mộc mạc, phong phú trong cách nhìn
nhận và thể hiện âm hưởng nữ quyền. Có lẽ chính nhờ sự đồng điệu về giới, sự
hòa hợp cảm xúc, tâm hồn đã giúp các nhà văn nữ sáng tác nên những tác phẩm
có sức sống sâu đậm trong lòng bạn đọc như vậy! Tác giả Phạm Thị Thanh
Phượng cho rằng, các nhà văn nữ viết về giới cũng chính là viết về nỗi lòng sâu
kín của mình: “Cầm bút viết như một sự giải tỏa những cảm xúc, ẩn ức, các nhà
văn nữ đã mang đến một “bức chân dung tinh thần tự họa” rất ấn tượng về giới
mình. Có thể nói, chưa bao giờ, mảng hiện thực của những “cái tôi đàn bà phong
phú, phức tạp và sâu sắc” lại được khám phá một cách “tận cùng” như vậy” [82].
Những tác phẩm thể hiện những khao khát về hạnh phúc, về tình yêu, về mái ấm
gia đình của người phụ nữ chiếm số đông trong các sáng tác của các nhà văn nữ
(Phiêu linh trắng - Nguyễn Thu Phương, Hoàng hôn - Đỗ Thị Thu Hiền, Chẳng
nợ nần gì nhau - Trầm Hương, Dây neo trần gian - Võ Thị Hảo...). Đôi khi là sự
đấu tranh không biết mệt mỏi cho những ước vọng của bản thân đã bị “chà đạp”,
“triệt tiêu”: cô Hạnh của Trăng nơi đáy giếng (Trần Thùy Mai), cô vũ nữ Mi của
Sâu thẳm một cơn mê (Hồ Thị Bích Ngọc), Thụy - Lê Thùy Vân, Những mùa đông
của dì Vân - Ghita Xù... Dù có mạnh mẽ đến đâu, người phụ nữ vẫn luôn cần một
bờ vai ấm áp để sẻ chia: Lụa trong Bảy ngày trong đời (Nguyễn Thị Thu Huệ),
Trinh nữ (Thùy Dương), Duyên phận (Quỳnh Vân), Cưới chợ, Cuộc tình silicon
(Y Ban)... Chính vì vậy, với sự đa dạng về đề tài, chủ đề, kiểu dạng nhân vật cùng
điểm nhìn trần thuật bên trong đầy tinh tế, sáng tạo nên phê bình văn học nữ
108
quyền đã phát triển và đạt đến ngưỡng “thăng hoa” trong một thời gian dài.
4.1.2. Điểm nhìn bên ngoài
Với điểm nhìn bên ngoài thì người kể chuyện thường đi sâu vào hành
động, suy nghĩ của nhân vật thông qua một góc nhìn hoàn toàn khác, đôi khi
tác giả “lồng” vào đó để phân tích thế giới nội tâm của nhân vật. Bằng cách đó,
tác giả đã tạo nên được cách nhìn nhận về tính cách và hành vi của nhân vật
một cách khách quan, không mang tính chủ quan và áp đặt. Điểm nhìn bên
ngoài tạo nên một khoảng cách vô hình giữa nhân vật và người kể chuyện
nhưng vẫn biểu đạt được nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Chính lời nói, hành
động lại là "chất xúc tác" để độc giả hiểu rõ hơn về tư duy nhân vật. Vì suy cho
cùng, hành động chính là cách để khẳng định cái tôi nhân vật.
Có thể thấy rõ, qua cách kể chuyện theo ngôi thứ ba, nhà văn đã nói hộ
nhân vật suy nghĩa và ý nghĩa nhân văn cho tác phẩm. Ví như truyện I’am đàn
bà của Y Ban: “Cu đừng trêu chị nhé. Cu làm chị tủi thân lắm đấy. Chị cũng là
con người, cũng khao khát nhớ nhung...” [140, tr.27 - 28]. Cách nhân vật xưng
“cu - chị” vừa là chất giọng hoạt kê vừa giúp nói giảm, nói tránh bi kịch nhân
vật. Hầu hết trong tác phẩm, Y Ban đã có cách gọi nhân vật rất độc đáo chỉ bằng
một từ: “thị”. Chính cách gọi tên rất mộc mạc này đã lý giải được hành động và
suy nghĩ chân chất, thánh thiện của thị khi quyết định vào phòng ông chủ bởi
hành động của thị suy cho cùng “Cái chính là thị thương ông chủ” [140, tr.29].
Truyện Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai viết về một người phụ nữ
Huế công dung ngôn hạnh, một lòng một dạ vì chồng nhưng sự hy sinh đó lại
dành cho kẻ không xứng đáng. Tác giả gọi nhân vật là “cô Hạnh”, đó là cách gọi
khuôn phép theo lễ nghi phong kiến của người Huế xưa và nó cũng nói lên sự
chịu đựng, cam chịu của người phụ nữ Huế. Hy sinh vì chồng nhưng lại nhận
được thái độ dửng dưng của người chồng dẫn đến hành động “đạp đổ” tất cả, kể
cả người chồng mà cô đã từng coi như “thánh sống”: “Cô Hạnh đứng bật dậy, run
bần bật như bị xúc phạm nặng nề. Hai hàm răng cô đánh cầm cập vào nhau, rồi
109
bỗng cô thình lình vớ lấy cả cái khay ấm chén trước mặt, ném vào người chồng
cũ” [154, tr.88]. Có lẽ sau tất cả mọi biến cố, sự tự do tự tại chính là niềm hạnh
phúc vô biên của người đàn bà chân chính, chịu nhiều đau khổ như cô Hạnh.
Điểm nhìn bên ngoài là sự đánh giá khách quan về cuộc đời và số phận của
các nhân vật nữ, bằng những danh xưng/ cách gọi tên khác nhau như “ta”, “nàng”,
“cô”, “chị”, “em”... Điểm đặc biệt là hình tượng người phụ nữ đã được khắc họa
thật rõ nét, trở thành hình tượng trung tâm của tác phẩm qua nhận xét khách quan
của chính các nhân vật trong tác phẩm. Những cảm xúc tận cùng của nỗi đau hay
sự thăng hoa của tình yêu, hạnh phúc đều được miêu tả một cách chân thực, trọn
vẹn thông qua những danh xưng thật bình dị, gần gũi. Các tác giả nữ đã “đóng
vai” và “nhập vai” thông qua một tuyến nhân vật khác, để kể về thân phận giới nữ
sao mà tự nhiên và thân thương, giàu chất nhân văn đến như vậy! Đó là một cô gái
trẻ hồn nhiên với một tình yêu cao cả với một người đàn ông lớn tuổi bán thân bất
toại, bất chấp sự phản đối của gia đình. Có thể nói, sự hy sinh thầm lặng để yêu và
được yêu, bất chấp rào cản tuổi tác, địa vị là điều đáng quý và đáng trân trọng:
“Cô ao ước một ngày kia có đủ can đảm ngả vào ngực ông, thổn thức thổ lộ rằng
cô xin dâng cuộc đời nguyên vẹn của cô, tuổi xuân của cô cho ông nếu ông không
chê cô xấu xí. Rồi dù ông chấp nhận hay không, cô sẽ cứ lặng lẽ sống bên ông cho
tới khi ông ra đi, chỉ cần được nghe giọng ông thủ thỉ bên cạnh, được khám phá
tâm hồn ông qua từng trang viết” (Chuyện lãng mạn cuối cùng - Đoàn Lê) [152,
tr.87]. Và đôi khi, là sự “hóa thân” để nói về những ẩn ức tính dục, bản năng tính
dục đầy bản ngã, tự nhiên của người phụ nữ: “Anh quàng tay ôm chị bế bổng lên
và chạy gằn ra hầm. Hình như Ngần nói đúng _ chị cảm nhận trọn vẹn cơ thể và
hơi hướng của đàn ông tỏa ra từ anh. Và chị xôn xao khao khát, về một điều gì đó
chẳng rõ ràng, bất chấp cơn sốt vẫn hành hạ, bấy chấp bom đạn sắp rơi trên đầu”
(Trinh nữ - Thùy Dương) [178, tr.92]. Hay đơn giản chỉ với cách gọi nhân vật -
“người đàn bà” 40 tuổi, sành điệu, giàu có, luôn khao khát tình yêu nhưng cuối
cũng vẫn cô đơn: “Người đàn bà không thể tìm được câu trả lời nhưng hơn ai hết
người đàn bà biết rất rõ về sự đau đớn và nỗi cô đơn đang ngày càng thít chặt”
110
(Cuộc tình silicon - Y Ban) [138, tr.24]. Có những lúc, tác giả nữ gọi tên nhân vật
đầy yêu thương, trìu mến, với những vẻ đẹp bình dị, thân thuộc của người phụ
nữ: “Liên có nụ cười tươi, đôi môi đỏ tự nhiên, miệng cười, mắt cười, hàm
răng như những hạt bắp non còn thơm mùi nắng và gió, mùi đất đai, thảo mộc,
mùi tươi nguyên của thiên nhiên mới mẻ và bền vững... (Hy vọng ở tình yêu -
Đoàn Phương Nhung) [183, tr.23].
Đối với điểm nhìn bên ngoài, các nhà văn nữ đã có sự “bứt phá” đầy ngoạn
mục, ngôn ngữ gần với đời thường. Các tác giả nữ như có sự “hóa thân” vào tính
cách của các kiểu dạng nhân vật khác nhau trong xã hội. Ngôn ngữ đầy sáng tạo,
cá tính biểu đạt được thiên tính nữ và không hề mang tính “một màu”, nhàm
chán. Truyện Sương khói ngày xanh của Nguyễn Phương Liên đã thể hiện được
điểm nhìn bên ngoài với sự đánh giá khách quan, ngôn từ đầy mới mẻ, với điểm
nhìn của nam giới lồng ghép một cách thật tinh tế: “Tôi rủ Hưng tối nay đến
Sóng Xanh nghe Hồng Hoa hát, để tận mắt xem hình xăm mới nàng mang từ Mỹ
về. Hưng bảo còn bận đi cứu Nét, hẹn rồi. Em này tuy không đẹp nhưng ôlôzin
(original), bố mẹ vừa dính vụ rút ruột nhà giải tỏa A7 của Tổng V. đang chờ
ngày ra tòa, chán đời lang thang trên Nét tìm Triển Đại hiệp. Tôi bảo mày dã
man vừa thôi, cẩn thận có ngày quả báo. Nó cười hềnh hệch bảo làm thế là cứu
rỗi cho mấy em khỏi stress, chán đời vớ vẩn gây tệ nạn xã hội…” [184, tr.95].
Đồng thời, vừa thể hiện được quan điểm tiến bộ và triết lý hiện đại, tiến bộ đầy
tính nhân sinh của các nhà văn nữ: “Bây giờ là thời đại mới, thời đại của chúng
ta. Chúng ta làm chủ tình thế chứ đâu như thời phong kiến mà đàn bà chỉ biết
đứng e lệ một chỗ như những bông hoa trong luống hoa ấy, mặc cho người ta
khen, người ta chê. Đấy, cái thời ấy mới cần đến sắc đẹp chinh phục” (Người
đàn bà có ma lực - Y Ban) [184, tr.170]
Suy cho cùng, nhân vật chính trong các truyện ngắn là người phụ nữ, nhưng
dù có gọi bằng danh xưng gì, với những điểm nhìn khác nhau thì người phụ nữ vẫn
giống nhau ở chỗ họ cùng trải qua những biến chuyển thăng trầm của cuộc sống.
111
Bản lĩnh của họ được “tôi luyện” qua từng giai đoạn khó khăn của cuộc đời. Tất cả
những người đàn bà trong tác phẩm “Dù cho khổ đau, mặc cho vẻ bề ngoài khô
cứng, có lúc cô đơn đến tận cùng thì bên trong vẫn là một trái tim ấm nóng, muốn
quan tâm người và muốn người quan tâm, khát khao được sống, được yêu, được là
bản thân mình” [15]. Điểm giống nhau của hầu hết phụ nữ, đó là họ rất sợ sự cô đơn
với một trái tim đầy khao khát yêu thương về mái ấm gia đình hạnh phúc: “Chị
cũng chỉ là một người đàn bà. Một người đàn bà sợ những đêm lạnh lẽo đơn độc với
những âm thanh tràn khát khao nhức nhối, sợ những sớm mai thức dậy một mình trên
chiếc giường trống huếch hoắc hơi người” (Nho đắng - Nguyễn Thị Kim Hòa)
[151, tr.51]. Và người phụ nữ thường chịu nhiều sự thiệt thòi trong tình yêu, nhưng
họ sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để hy sinh hết mình cho tình yêu đó: “Nhìn gương
mặt rầu rầu của mẹ, Quyên thương mẹ quặn thắt ruột gan. Lúc nào mẹ cũng nghĩ
đến người chồng và đặt cái vị trí độc tôn của người đàn ông lên cao hết thảy, dù bà
đã phải trả giá về sự hy sinh đó” (Ba người đàn bà - Bích Ngân) [171, tr.303].
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng đặc trưng nghệ thuật
trong điểm nhìn trần thuật trong sáng tác của các nhà văn nữ đương đại như một
sự dịch chuyển, đồng hành đậm cá tính sáng tạo - một lối tư duy “khác”, “riêng
biệt” trong kỹ thuật tạo dựng thế giới quan trong tác phẩm. Đó chính là các mạch
nguồn sáng tác đầy mới lạ nhưng vô cùng gần gũi, quen thuộc của giới nữ và
“diễn ngôn về thân thể” của người phụ nữ đã hình thành nên phong cách của tác
phẩm/ tác giả, định hình cho sự phát triển vững mạnh của lối viết nữ sau này.
Làm được điều này, giới nữ phải “tự mình” phá vỡ đi những quy chuẩn, biểu
tượng mà nam giới và xã hội đã xác lập trước đó bằng lối viết tự thuật ngẫu
nhiên. Cũng như cách nhìn nhận của Hélène Cixous về lối viết nữ thì “Cá nhân
người nữ phải viết chính mình, phải khám phá cho riêng mình cơ thể mình cảm
thấy như thế nào, và làm sao để viết về thân thể ấy trong ngôn ngữ. Rõ ràng hơn,
phụ nữ phải tìm ra dục tính của mình, dục tính chỉ bắt nguồn từ thân thể của họ,
112
và tìm cách viết về khoái cảm ấy” [82].
4.2. Giọng điệu nghệ thuật
Giọng điệu là một phần không thể thiếu của tất cả các thể loại trong văn
chương. Chính vì vậy, cách sử dụng câu văn cùng cảm xúc của người sáng tác
rất quan trọng, tựa như vai trò của người chỉ huy trưởng trong một dàn nhạc với
sự điều khiển chính xác của các hợp âm. Giọng điệu chính là một phương tiện vô
cùng quan trọng để tác giả truyền tải ý đồ của mình vào tác phẩm. Và hơn hết,
nhờ giọng điệu mà các nhà văn nữ đã bày tỏ tình cảm, thái độ, tư tưởng của mình
theo nhiều cách khác nhau. Thế nên, Từ điển thuật ngữ văn học đã có định nghĩa
về giọng điệu như sau: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo
đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định
cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ,
thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [42, tr.112]. Còn theo tác
giả Phùng Quý Nhâm, giọng điệu là yếu tố then chốt để hiểu rõ hơn về về ý
nghĩa biểu hiện của các tác phẩm văn học.
Để biểu thị tính uy quyền của phái nữ trong truyện ngắn của mình, các tác
giả nữ đã sử dụng nhiều giọng điệu và phong cách khác nhau tạo nên sự đa dạng,
phong phú trong cách thể hiện. Đó có khi là giọng điệu tâm tình, lúc khác lại là
giọng triết luận, hoạt kê, khi thì cảm thương, hoài nghi, chất vấn... Nhân vật nữ
có sự chuyển biến linh hoạt giữa đối thoại và độc thoại nội tâm như chính tiếng
lòng của các nhà văn nữ, đầy tinh tế và giàu phức cảm. Đa phần độc giả đều bị
cuốn hút bởi những giọng điệu đầy thiên tính nữ pha chút lạnh lùng, dứt khoát
nhưng vẫn đong đầy cảm xúc, lòng trắc ẩn của người phụ nữ. Sau đây là các chất
giọng chủ yếu mà các nhà văn nữ thường đưa vào trong các sáng tác của mình:
4.2.1. Giọng xót xa, thương cảm
Chất giọng xót xa, thương cảm đầy đắm say, ngọt ngào, lắng đọng cảm xúc
là giọng điệu chủ đạo trong phong cách sáng tác của các nhà văn nữ Việt Nam
hiện đại. Với chất giọng đầy cuốn hút và nội lực kết hợp với ưu thế về tâm lý
phụ nữ, các nhà văn nữ đã thổi hồn mình vào nhân vật, tạo nên một bức tranh
113
đầy bí ẩn và ngọt ngào, sâu lắng đầy thiên tính nữ. Các nhà văn nữ thường có ưu
thế hơn trong việc thể hiện cảm xúc, tình cảm với một trái tim bao la, đầy bao
dung, độ lượng, đôi khi còn có sự khắc khoải, lo lắng, đợi chờ.
Truyện Thương nhớ hoàng lan của Trần Thùy Mai kể về chuyện tình thủy
chung, thấm đẫm nước mắt của cô gái tên Lan. Tình yêu của cô vẫn đong đầy
như ngày nào với người mà cô hết mực yêu thương. Lời văn đầy chất chứa nỗi
niềm da diết của những đôi yêu nhau nhưng vì lý do nào đó mà không đến được
với nhau. Sự thấu hiểu, đồng cảm của nhà văn đối với nhân vật đã giúp cho độc
giả hiểu rõ hơn tâm hồn của những người phụ nữ trẻ đang yêu: bồng bột, dại khờ
nhưng cháy bỏng, trong sáng, thánh thiện. Vì tình yêu, nàng sẵn sàng uống hai
mươi viên Seduxen để người yêu hiểu được tấm chân tình của mình. Giọng văn
đầy chất suy tư, trăn trở bởi sự hy sinh của Lan trong tình yêu thật cao thượng:
“Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua
cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên
lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái
túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi.
Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...” [154, tr. 75]. Thật
vậy, trái tim người phụ nữ khi yêu, dù đôi khi cố tỏ ra mạnh mẽ, vẫn rướm máu.
Họ vẫn cần người đàn ông họ yêu thương ở bên cạnh, nhưng nếu cuộc sống buộc
họ phải chọn lựa thì họ vẫn mạnh mẽ chọn con đường tốt đẹp nhất dành cho
người yêu dấu. Ở đây, Lan đã có cách lựa chọn khác: “Người ta cứ bảo là em
khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu.
Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình
không thương, đến một nơi xa lạ thì với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy
tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi...” [154, tr.75]. Giọng điệu
đầy đắm say, ngọt ngào, da diết của Trần Thùy Mai một lần nữa đã chạm đến
trái tim người đọc, giúp người đọc đến gần với nhân vật hơn.
Cùng chất giọng tâm tình, thương cảm, các nhà văn nữ đã bày tỏ những nỗi
114
lòng của mình đối với những số phận nghiệt ngã dường như muốn “trêu ngươi”
thân phận người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ bản lĩnh với tình yêu thương
dạt dào, luôn sống thật như chính con người của mình, khinh bỉ sự giả dối, đê hèn
của người chồng đã thể hiện một nữ “cường nhân” đầy mạnh mẽ trong truyện Cúc
quỳ của Hồ Thị Hải Âu: “Chồng tôi tuôn ra như lũ, cuồn cuộn cảm xúc, không
kìm nén. Những lời mỉa mai, nanh nọc, độc ác xoáy vào tim tôi. Những lời ấy
cũng thống thiết, ruột gan và chân thành đến độ. Tôi nhìn chàng như chết sững.
Vỡ òa ra trước đời tôi, những điều tôi cố tránh. Những điều tôi cố quên. Những
điều tôi tự dối lòng mình. Chỉ một giây thôi, mọi cái không còn phải che chắn. Tôi
không khóc, nước mắt cứ tự trào ra. Mặn và đắng nghét, từng giọt rơi vào tim tôi,
nứt nẻ” [189, tr.140]. Đó còn là chất giọng thương cảm pha lẫn sự phản kháng, bất
bình trước những sự thờ ơ, vô lương tính trong truyện Những người uống trà của
Ngô Thị Kim Cúc: “Cả một đám đông chen chúc nhau, không phải chỉ vì tò mò
mà rõ ràng có sự thích thú, khoái trá, như thể đang tiêu khiển không bằng. Và
không những thế, hình như còn có cả sự khuyến khích ngấm ngầm, như để giải tỏa
một cái gì đó trong con người họ… Còn những kẻ đánh nhau thì xông đến như
điên, tay chân gậy gộc vung loạn lên, máu me đầm đìa cả mặt mũi quần áo, mất
hết lý trí, mất hết lương tri, như có thể nhai sống nuốt tươi nhau không bằng, như
hai con gà đá, hai con trâu điên, hai con hổ đói… Tôi đã từng ở chiến tranh nhiều
năm, cũng nhìn thấy bao nhiêu máu me, bao nhiêu người chết, nhưng phải chứng
kiến những cảnh như thế thì người cứ nổi gai lên vì ghê sợ, vừa tức giận, vừa kinh
tởm. Sao lại có thể đứng xem để thưởng thức được chứ? Sao lại có thể cười cợt
tươi tỉnh như không…?!” [172, tr.50 - 51]. Các nhà văn nữ cũng đau đớn thay cho
số phận đầy nghiệt ngã của các nhân vật nữ khi họ phải sống trong một cuộc sống
hôn nhân không tình yêu, họ luôn trăn trở với khao khát yêu và được yêu, không
có tình yêu người phụ nữ như chết đi một nửa tâm hồn: “Xót xa, đau đớn thay cho
phận bạc của tôi, gần chục năm làm vợ vẫn là con gái” (Tiếng kèn lá nối dài
những mùa trăng - Bùi Như Lan) [136, tr.155].
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà lại có âm sắc và giọng điệu đầy thương cảm đối
với tình mẫu tử thiêng liêng dành cho những đứa con xa xứ chất chứa hoài niệm
115
và tình cảm đẹp dành cho đấng sinh thành trong truyện Nhà có ba chị em: “Mưa
rơi mẹ ạ. Không biết còn bao lâu nữa. Thoạt đầu mảng tường phía trước còn óng
ánh trắng. Mẹ không thể nghe tiếng con gọi vào lúc này. Từng đàn kiến mối bay
ra đập cánh vào bức tường rồi rơi xuống. Những cánh kiến vụt bay lên phút cuối
cùng rồi mất hút dưới dòng nước con con chảy theo những chỗ trũng trên mặt
đất. Con đứng theo tư thế của một con kiến mối đã bị gãy cánh qua một cơn gió.
Cơn gió này thổi từ miền ký ức sâu thẳm, qua sa mạc cháy bỏng, qua những cơn
sóng xa lắc rồi ập đến, bất ngờ và dịu ngọt [147, tr.77 - 78].
Giữa người mẹ và những đứa con luôn có sợi dây gắn kết vô hình thiêng
liêng. Người mế trong truyện Con Tấc của Hà Thị Cẩm Anh đã thể hiện được
tấm lòng biển cả sâu rộng của người mẹ cùng những lời khuyên ấm áp, tình cảm
dành cho con. Giọng văn đầy trầm ấm, lúc nhẹ nhàng lúc tận cùng của nỗi đau,
là sự xót xa, lo lắng, niềm thương yêu vô bờ bến của người mẹ dành cho cô con
gái vẫn còn non nớt trong tình yêu: “Con à! Nhà có chuyện buồn, mế không
nhắn tin cho con về. Con giận mế. Đúng không? Nhưng Tấc à! Biết làm sao
được? Con đang nuôi con nhỏ mà! Để bọn trẻ ở nhà một mình không được đâu.
Bọn thợ săn độc ác lắm! Ta sợ. Ta sợ nên không báo tin cho con biết đấy thôi.
Con đừng trách ta. Con đừng giận thằng Đa thế nữa. Tội nghiệp lắm con à! Sữa
con căng rồi đấy! Bọn trẻ cũng đói rồi. Chúng đang nhớ mẹ” [136, tr. 23].
Có thể thấy rằng, giọng điệu xót xa, thương cảm là giọng điệu xuyên suốt,
xuất hiện trong rất nhiều truyện ngắn của các nhà văn nữ thể hiện sự cảm thông,
tình thương dành cho thân phận những người phụ nữ có số phận trắc trở, truân
chuyên. Bên cạnh đó, các nhà văn nữ cùng với tác phẩm của mình đã khích lệ,
động viên giới nữ sống bản lĩnh hơn và mãi “tỏa hương sắc” cho đời dù cuộc sống
không như là mơ! Mỗi nhà văn nữ đều có một phong cách và lối viết linh hoạt
riêng: Nguyễn Thị Thu Huệ với chất giọng cảm thương đầy khắc khoải, trăn trở,
lo âu; Nguyễn Ngọc Tư lại là sự xót thương đầy chân chất, không “màu mè” như
chính con người miền Tây; Hồ Thị Hải Âu lại có sự nhập tâm, đồng cảm sâu sắc;
Trần Thùy Mai thì có âm điệu trữ tình hoài niệm, lãng mạn; Võ Thị Xuân Hà với
116
giọng văn đầy xúc động và thổn thức về tình mẫu tử… Tất cả đã tạo thành một
dàn âm hưởng nữ quyền tuyệt vời đa dạng màu sắc và phong vị riêng. So với các
nhà văn nam thì lối viết nữ lại có ưu thế hơn bởi họ là những người cùng giới,
thấu hiểu sâu sắc những đau thương, mất mát, những khổ đau của cuộc đời. Chất
giọng tâm tình đầy sự cảm thông, chia sẻ đã thể hiện được cái nhìn đầy tinh tế,
nhạy cảm, đa chiều của các cây bút nữ đối với những vấn đề về giới. Qua đó,
khẳng định và ca ngợi giá trị thiên tính nữ, đức hy sinh thầm lặng cùng những khát
khao về tình yêu, hạnh phúc luôn ẩn chứa bên trong tâm hồn mỗi người phụ nữ.
4.2.2. Giọng triết luận, chiêm nghiệm
Giọng triết luận, chiêm nghiệm cũng là chất giọng chủ đạo mà các nhà văn
nữ thường hay đưa vào trong chính tác phẩm của mình. Triết lý được hiểu là sự
đúc kết những điều được nhìn nhận từ nguồn cội tâm thế/giá trị tinh thần/sức
mạnh ứng xử trong cuộc sống hay chính cuộc đời của bản thân nhân vật. Như
vậy, giọng điệu triết luận thể hiện những trải nghiệm cùng những tầng bậc cảm
xúc đau khổ, dằn vặt, hạnh phúc của giới nữ trong hôn nhân và gia đình. Những
sự chiêm nghiệm, triết lý sâu sắc đó được rút ra từ chính cuộc đời nhà văn và thể
hiện đa chiều, trọn vẹn qua điểm nhìn là các nhân vật nữ. Càng đau khổ thì sự
trải nghiệm càng sâu sắc, giọng triết luận càng thể hiện thêm tính nữ quyền của
phái yếu. Giọng triết luận chính là sự động viên, vỗ về, là bài học nhân sinh quan
của các nhân vật nữ trước những biến đổi, xoay vần của cuộc sống, số phận. Sự
thể hiện phong phú, đa dạng qua từng cảm xúc và nhận định, nhân vật đã giúp
cho giọng triết luận đến gần với độc giả hơn.
Truyện ngắn Người đàn bà chờ đợi của Lê Thị Hoài Nam là cái nhìn sâu
sắc về những người phụ nữ xinh đẹp, thành đạt trong cuộc sống nhưng lại thiếu
đi một bờ vai vững chắc để dựa vào. Họ luôn khao khát, đam mê một tình yêu
cháy bỏng với người khác giới và họ cũng dám sống hết mình vì tình yêu đó. Họ
nhận ra rằng con người không ai toàn mỹ, được cái này thì mất cái kia và những
người đàn bà có nhan sắc thì thường “hồng nhan bạc phận”, phải chăng là “trò
đùa của tạo hóa”?: “Những kẻ có chút nhan sắc thường bị trí tuệ ruồng bỏ, xa
lánh đến nỗi không nhận ra cái nghịch lý của mỗi con người” [157, tr.954]. Và
117
họ kịp nhận ra rằng, cuộc sống thật hữu hạn và tình yêu là thứ mà mình phải biết
nắm bắt. Người phụ nữ trong truyện ngắn của Lê Thị Hoài Nam đã dám cởi bỏ
mặt nạ của một người phụ nữ thành đạt để sống thật với bản thân mình. Chị đã
dám bày tỏ tình cảm với người mà chị thương dù anh ta thua chị nhiều lắm.
Nhưng đâu hề gì, bởi vì: “Tình yêu thì cần gì phải anh nói trước hay em nói
trước. Nhất định ngày mai chị sẽ mời hắn dùng cơm và chị sẽ biểu lộ tình cảm
với hắn rằng, rằng, rằng...” [157, tr.958].
Truyện Xuân nữ của Dạ Ngân thì chủ yếu đặc tả về vẻ đẹp đầy mạnh mẽ,
phi thường của người phụ nữ trong chiến tranh. Vẻ đẹp đó luôn trường tồn với
thời gian và nó thể hiện cách nhìn nhận, triết lý đầy tinh tế của nữ văn sĩ: “Có lẽ
đàn bà đẹp thì cái gì cũng thơm và làm gì cũng thấy có lý” [172, tr. 834]. Dạ
Ngân đã có sự lý giải về vẻ đẹp thánh thiện đó của người phụ nữ đầy tính suy lý
như sau: “Trời sinh ra những người đàn bà đẹp để làm gì? Họ là những ánh chớp
cho ta thấy cả đất và trời trong một lúc nào đó, không hư vô thường tình chút
nào, lúc đó. Rồi mọi thứ sẽ trở lại đều đều, quân bình, nhàm chán, thậm chí tẻ
nhạt. Nó, những tia chớp giật ấy là hiểm họa mà cũng là tài năng phải có trong
cuộc đời này, không dành riêng cho ai cả” [172, tr.837].
Giọng triết lý còn thể hiện góc nhìn nhân sinh bình dị, những lời khuyên
ấm áp, tình nghĩa, dễ đi vào lòng người. Lối viết nữ thể hiện tính dung dị, gần
gũi với câu chữ đầy tính triết lý, không sáo rỗng, phô trương. Truyện Đời như ý
của Nguyễn Thị Anh Thư lại thể hiện sự chiêm nghiệm đầy tính nhân văn của
một người đàn bà từng trải. Như Ý đã chống lại sự bạc bẽo của số phận, bà đã
làm theo lời cha, lấy anh Cụ Hướng, người đàn ông góa vợ có hai đứa con gái.
Nhờ tài năng buôn bán của mình, cuộc sống của bà và gia đình ngày càng sung
túc, ấm no. Giọng văn đầy khắc khoải mang nhiều trăn trở, suy tư của chính tác
giả về cuộc đời, số phận âu cũng là quy luật của cuộc sống: “Đời người cũng
như bông hoa: trong nở đã chứa tử, có xấu mới có đẹp. Có cái gì có được dù vô
tình hay hữu ý mà không phải trả giá đâu! Ấy là quy luật muôn đời. Chẳng có gì
118
là vẹn toàn Như Ý” [196, tr.149].
Đã là phụ nữ thì ai cũng phải hy sinh nhiều thứ vì gia đình, phụ nữ vốn chịu
nhiều thiệt thòi hơn đàn ông. Nhưng họ vẫn mạnh mẽ gánh chịu mà không một
lời oán thán. Nhưng dù mạnh mẽ đến đâu thì bản chất người đàn bà vẫn yếu đuối
và họ luôn mong muốn và luôn cần một bờ vai để che chở, bao bọc họ: “Một
buổi tối tôi đã nghĩ rất nhiều về những điều tôi đã trải qua. Là một quý bà tiến sĩ
xã hội học tôi có thể nhìn những điều tôi trải qua dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nếu như cái thời chưa mở cửa thì tội của tôi là tội tày đình. Làm đĩ còn nhẹ tội
hơn tôi. Ắt là trời đã trừng phạt tôi chỉ thông qua người số hai và người số ba.
Nhưng còn chồng tôi, khi đó nào chúng tôi đã tội lỗi gì? Ừ thì là số mệnh con
người phải thế. Đàn bà không khổ cửa phụ mẫu thì cũng khổ cửa chồng con, có
mấy ai vẹn toàn...” (Tự - Y Ban) [140, tr.140]. Đàn bà đa phần khổ bởi khi yêu
họ yêu mù quáng, cháy bỏng bằng tất cả mọi đam mê, nhiệt huyết của mình
trong khi đó đàn ông thì cũng lắm kẻ Sở Khanh. Truyện Thập tự hoa của Trần
Thùy Mai đã cho chúng ta hình dung khác biệt, rõ ràng về đàn ông và đàn bà qua
những triết lý sống động và chân thật: “Từ ngày đó nàng biết rằng trong tình yêu
đàn ông rất khác đàn bà. Đàn ông khởi đầu một cách điên cuồng rồi dịu đi trong
hèn nhát, còn đàn bà càng lúc càng giam mình trong kỷ niệm, ngu dại và xót xa”
[154, tr.316]. Và cũng chính vì lý do đó nên Nguyễn Thị Thu Huệ đã đúc kết lại:
“Hóa ra đàn bà, ai cũng có những khả năng đặc biệt giống nhau: Yêu đương,
ghen tuông và cuồng si” (Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu Huệ) [148, tr.160].
Phụ nữ truyền thống Việt Nam đa phần vẫn giữ gìn những “khuôn phép”
lâu đời của xã hội cũ, thế nhưng trong xã hội hiện đại, dưới góc nhìn của các nữ
nhà văn trẻ thì mọi chuyện đã khác. Người phụ nữ đã biết tranh đấu cho những
khát khao về tính dục, đề tài vốn “nhạy cảm” đối với phụ nữ. Những ẩn ức về
tính dục đã được thể hiện chân thật và mạnh bạo hơn qua những nhận định, triết
luận đầy tính khám phá về giới nữ: “Những ngày bên Tim, tôi trở thành hoàng
hậu. Tôi khám phá bản năng vẫn còn ẩn tận sâu đáy thẳm thân xác. Tim đưa tôi
đến tận cùng hang sâu, chỉ cho tôi nền văn minh hồng hoang mà bấy lâu tự tôi
119
che giấu mà những người đàn ông kia đã không dẫn tôi tới. Họ không đủ sức,
không tìm thấy đường hay vì họ nghĩ bởi tôi là đàn bà? Đàn bà phải là kẻ nằm
dưới, là đất để gieo mạ. Rồi mạ non thành lúa, thành thóc, họ đốt nương tàn rẫy,
đến mảnh đất khác khai hoang. Tôi nghe người ta gọi đấy là truyền thống, là văn
hóa phương Đông. Và tôi là người Việt Nam, người phương Đông. Đôi khi tôi tự
tra vấn chính mình: phải chăng đàn bà da vàng, tóc đen không biết đam mê?”
(Vu quy - Đỗ Hoàng Diệu) [143, tr.68-69]. Sức mạnh tố cáo ở đây thể hiện rõ sự
phản kháng của phái yếu trước sự xem thường và áp đặt chủ quan của nam giới
về nữ giới trong chuyện tình dục. “Đam mê” của nữ giới cũng sánh ngang với
nam giới, họ muốn được chủ động tìm tòi sự mới lạ để tình yêu được thăng hoa
hơn. Người đàn ông nên có cái nhìn “thoáng hơn” và tôn trọng phụ nữ trong
những vấn đề “tế nhị” đó để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Giọng điệu đanh thép
mang tính phá cách của Đỗ Hoàng Diệu thật quá ấn tượng: “Trước biển lạnh,
người tình Tàu dạo nọ chiếm hữu tôi từ phía sau khi tôi quỳ gối, chưa một lần
cho tôi chủ động yêu đương. Nay tôi đã thoát khỏi kiếp nô lệ của ông, tôi trở
thành người đàn bà trưởng thành. Chồng tôi sẽ bế tôi lên ngồi trên, để tôi được
mặc sức tung hoành, chà cây đốn gốc. Không cần anh bế, tôi trườn lên như một
con rắn chúa. Bản năng chiếm hữu tung trỗi cơn giông đầu hạ. Tôi không phải
nô lệ, tôi là mình, bình đẳng như muôn giọt mưa phùn rơi đều đêm đông, rơi đều
không gian duy nhất một màu đen kịt. Không gian chẳng một thanh âm” (Vu quy
- Đỗ Hoàng Diệu) [143, tr.73-74]. Để rồi người phụ nữ nhận ra được chân lý
rằng không ai yêu thương mình bằng chính bản thân mình. Câu triết luận của bà
Tiến sĩ xã hội học trong truyện ngắn Tự của Y Ban đã thể hiện được nghị lực,
phi thường của người phụ nữ trước những bất trắc của cuộc đời. Họ đã biết tự
bảo vệ bản thân và từng bước đấu tranh đòi quyền bình đẳng trong xã hội: “Và
điều tôi ngộ được nhất, là con người ngoài cái đức tính hy sinh thì cũng nên biết
đòi hỏi những quyền lợi của mình, biết tự giải phóng mình” [140, tr.122].
Chất giọng triết lý đầy tính chiêm nghiệm còn thể hiện sự thấu hiểu về đạo
lý ở đời, thế thái nhân tình, giá trị bản ngã ở mỗi con người như chính sự dặn dò
120
đầy ấm áp, yêu thương của cha dành cho con gái: “Con ơi, cha muốn nói với con
điều này. Con được sinh ra ở trên đời này là một kết quả đẹp đẽ nhất trong sự
sinh sản của muôn loài. Bởi vậy con mang trong mình con một vũ trụ riêng. Con
đã có những niềm vui, sự sung sướng phải không? Vậy sự khổ đau và nỗi buồn
cũng sẽ tự mình con mang lấy. Con có thể chia sẻ với người này, người khác
nhưng con hãy mang một chữ “nhẫn” bên mình. Có chữ nhẫn bên mình con sẽ
thấy cuộc sống dễ dàng hơn (Con gái mang cuộc đời của mẹ - Y Ban) [140, tr.
24]. Và cũng có khi, các nhân vật nữ của chúng ta đã tự nhận thức được rằng:
“Người ta thường u mê trong sự khôn ngoan của chính mình” (Phạm Thị Minh
Thư - Insulin) [172, tr.478].
Võ Thị Xuân Hà là một nhà văn nữ thể hiện ý thức giới và thiên tính nữ đầy
tính nhân văn. Những tác phẩm của chị thể hiện sự thông cảm, thấu hiểu và sẻ
chia với thân phận những người phụ nữ. Đó có khi là sự day dứt khôn nguôi giữa
ranh giới sống và chết, là những triết lý, chiêm nghiệm về một cuộc sống thật sự
có ý nghĩa xuất phát từ ý thức giới sâu sắc trước một cuộc đời biến động đầy tính
“vô thường” trong Chuyện của người con gái hát rong: “Cháu biết không, có
những lúc con người ta không tự biết mình đâu cháu ạ. Chỉ đến khi gần kề cái
chết… Cái chết giống như một tấm gương soi. Chiếc gương đó tiến dần tiến dần
đến mình. Hình hài mình cứ rõ dần rõ dần. Cái hình đó không có tương lai, chỉ
có quá khứ và hiện tại. Nhưng cháu biết không. Quá khứ lại chiếm phần lớn
trong tấm gương đó. Những con đường ngoằn ngoèo. Ta tự hỏi vì sao ngày ấy ta
không đi trên con đường này mà lại đi trên con đường kia. Bên này có nhiều hoa
đẹp. Nhưng bên kia, những cồn cát nóng bỏng có khi lại ban cho ta một viên
hồng ngọc” [147, tr.102].
Có thể nói, giọng điệu triết luận, chiêm nghiệm đã thể hiện được đầy đủ và
chân thật mọi cảm xúc, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ thầm kín của giới nữ. Ngoài
ra, giọng triết lý đã “mở đường” xác lập vai trò, vị thế của nữ giới trong thể loại
truyện ngắn - một thể loại hết sức đặc biệt trong tiến trình phát triển của văn học
Việt Nam. Giọng triết lý là cách để nhân vật thể hiện cá tính của mình, cách vượt
121
qua mỗi nghịch cảnh ở mỗi nhân vật nữ là khác nhau nên tính chân lý cũng khác
nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ các tác giả nữ đã có sự đầu tư nghiêm túc, kỹ lưỡng
khi viết về giới, đặc biệt là thân phận người phụ nữ và cách ứng xử linh hoạt,
mềm dẻo của giới nữ trước mọi hoàn cảnh. Sau mỗi thất bại, người phụ nữ đã
từng va vấp sẽ rút ra được những chân giá trị sống đầy tốt đẹp và ý nghĩa hơn đối
với mình. Lối viết nữ trong truyện ngắn đã khắc họa thành công những biến đổi
trong tâm sinh lý của nhân vật nữ đầy đa dạng, linh hoạt như thế!
4.2.3. Giọng hài hước, châm biếm
Giọng hài hước, châm biếm xuất hiện “nở rộ” trong văn học hiện đại Việt
Nam, đặc biệt là sau thời kỳ Đổi mới của dân tộc, đề tài chiến tranh đã dần ít đi,
thay vào đó là những câu chuyện bình dị của cuộc sống mới đầy hối hả, gấp gáp.
Con người vì thế cũng thay đổi, họ luôn hoài nghi, day dứt, băn khoăn về tình
yêu, về cuộc sống, sự đổi trắng thay đen của lòng người. Họ luôn lo sợ trước
những thay đổi của chính những người đầu gối tay ấp với họ. Cùng với tiến trình
phát triển, hiện đại hóa của xã hội, văn học đã bắt đầu khai phá và đi sâu hơn về
yếu tố giễu nhại trước những thói hư tật xấu của con người. Ở Việt Nam, nữ sĩ
Hồ Xuân Hương cùng những sáng tác của bà đã tạo dấn ấn đầu tiên trong văn
học truyền thống về âm hưởng nữ quyền có yếu tố giễu nhại chế độ nam quyền
và xã hội phong kiến xưa. Truyện ngắn nữ Việt Nam cũng đã có sự “lột xác”
ngoạn mục như thế! Có thể thấy rằng, châm biếm thường mang tính tự trào, vừa
có yếu tố hài hước vừa có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Châm biếm chính là “thủ
pháp dùng lời lẽ, tranh vẽ hay những màn trình diễn nghệ thuật sắc sảo, cay độc,
thâm thúy để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng (cá nhân) và hiện
tượng xã hội” [132].
Châm biếm pha chút yếu tố hài hước trong ngôn ngữ, giọng điệu chính là
một thủ pháp nghệ thuật, độc đáo chính nhờ sự tinh tế của các nhà văn nữ trong
việc lồng ghép phê phán các yếu tố thuộc về thể chế xã hội, tư duy trì trệ, những
tàn dư của nạn mê tín dị đoan đã khiến bao gia đình lâm vào cảnh kiệt quệ, tan
hoang: “Tin thằng Khô qua đời lan cả làng, ai cũng tội, thằng hiền như cục đất,
122
cần mẫn như gà ta, quanh năm cắm đầu làm ăn, thoạt nhìn là biết dân ưa làm, có
cái ưa cúng. Trâu bò bệnh cũng cúng, lúa bệnh cũng vái, trật cũng cúng mà trúng
mùa cũng cúng. Cái ý thức hệ đó được truyền từ gia đình, ông bà tổ tiên không
biết từ bao đời. Kỳ bệnh cuối cùng này có cúng mất mấy triệu. Nó khổ từ nhỏ,
khổ đến nỗi phải lên cả khai sinh, Khô tiếng Chàm có nghĩa là khổ, trông mặt mà
đặt tên… Nó bị sốt rét ác tính quật ngã để lại một vợ và năm con… và một ít tài
sản” (Chân dung đồng một vụ - Trầm Ngọc Lam) [180, tr.124]. Và lối viết nữ
càng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ khi phải đối
diện với rất nhiều điều tiếng xã hội nếu họ muốn tái giá sau khi đã trải qua cuộc
hôn nhân bất hạnh. Từ ngữ đầy tính ẩn dụ nhưng đã thể hiện rõ những định kiến
mà nữ giới phải vượt qua và sự châm biếm, đả kích những tư tưởng thủ cựu, đày
đọa cuộc đời người phụ nữ, cuộc sống bị bó buộc và nhốt chặt trong lễ giáo,
không bằng “lũ chim rừng” trong truyện Ngược nắng của Đoàn Ngọc Minh: “Lũ
chim rừng thật hạnh phúc, chúng muốn đi đâu, về đâu tùy thuộc vào đôi cánh
trời ban, còn mình: Đôi chân đã bị trói, hồn vía mình đã được họ Nông bắt về
yểm đời đời kiếp kiếp rồi! Đàn bà tuổi ngoài ba mươi đã qua đời chồng, con ong
sẽ không đi tìm hương, con bướm sẽ không đến vờn hoa héo nữa” [136, tr.218].
Giọng hài hước, châm biếm còn thể hiện thái độ dí dỏm, mỉa mai của nhân
vật nữ trước những biến động thời cuộc. Theo nhà văn E.G.Rudneva thì: “Cảm
hứng châm biếm là sự phủ định, nhạo báng, căm phẫn, mạnh mẽ và gay gắt nhất
đối với những phương diện nhất định của đời sống xã hội” [81, tr.170].
Có thể nói Y Ban là nhà văn đi tiên phong và đã thành công trong việc biểu
đạt chất giọng hài hước, châm biếm vào các nhân vật của mình. Trong truyện
Cuộc chiến tranh giữa các nền văn hóa của Y Ban, tác giả đã dùng ngôn từ giễu
nhại một cách đầy sáng tạo, thú vị: “Chao ôi, sao mà tôi lại thương cho cái nền
văn hóa của cô đến vậy. Tiện đây tôi cũng nói thêm cho cô biết cái nền _văn_
hóa_cạp_trễ của cô luôn. Cái quần cạp trễ người ta phát minh ra không phải cho
cái_nền_văn_hóa_ngồi_xổm_của nhà các cô đâu” [140, tr.211]. Hay giọng châm
biếm, hài hước còn thể hiện nỗi thất vọng ê chề của người phụ nữ trước người
123
đàn ông mà họ đang yêu - chẳng khác gì là hàng tồn kho, khuyến mại: “Tôi sẽ
làm tình với một người không có đầu. Hô hô hô ha ha ha. Thì là hàng khuyến
mại mà. Mọi người vẫn nói vậy mà. Hàng khuyến mại thì không thể hoàn thiện
được” (Hàng khuyến mại - Y Ban) [140, tr.220]. Và có khi là ngôn từ đầy tính
ước lệ như: “Tôi vừa làm xong một đề tài nghiên cứu: Nhà nghỉ là sản phẩm của
sự mở cửa” (Tự - Y Ban) [140, tr.131].
Âm điệu châm biếm còn thể hiện sự “khốc liệt” của cảm giác cô đơn đến
tận cùng mà nhân vật đang trải nghiệm. Đó chính là điều không ai muốn và cũng
chính là bi kịch trong tình yêu: “Những Hồng những Hoa những Đào những
Tuyết… ngất ngây cùng bao tình ca mà anh kêu rêu bằng chất giọng nhẹ tênh
mỏng mảnh của mình. Và rồi những ngọn nến tàn lụi, “party” kết thúc, đêm trôi
qua. Anh bước ra khỏi một cuộc vui, mắt nheo lại bởi quàng quáng trước ánh
sáng ngày, bước lấp vấp trên đường phố đông người, lóng ngóng giữa đời thực
quá nhiều những chật vật bấp bênh. Những em Hồng, em Hoa, em Tuyết… có
quay lưng, cũng là lẽ thường tình” (Tiếng hát liêu điêu - Nguyễn Mỹ Nữ) [186,
tr.151]. Trong nhiều trường hợp, người phụ nữ sẽ cảm thấy cô đơn, lạc lõng
trong cuộc hôn nhân của mình bởi người chồng vô tâm, lạnh lùng. Giọng châm
biếm thể hiện sự chua xót, đầy thương cảm cho số phận những người phụ nữ bất
hạnh: “Ngày tôi lên xe hoa là một ngày mộng. Hoa rải khắp đường tôi đi. Rải
khắp phố phường. Phủ che mỹ mãn mọi khiếm khuyết. Nham nhở. Bê tha. Học
đòi. Kệch cỡm… của thành thị. Hồng và lan tím. Ly trắng và cẩm chướng
xanh… Tôi bước đi như bà hoàng không ngai. Kiêu sa vô lối. Và… Tội nghiệp
(Cúc quỳ - Hồ Thị Hải Âu) [181, tr.137].
Giọng điệu hài hước một phần giúp nói giảm, nói tránh những bi kịch mà
người phụ nữ phải chịu đựng, mặt khác nó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời,
sống trọn vẹn và “cháy” hết mình của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội hiện
đại. Đôi khi, giọng văn châm biếm như chính sự hóa thân vào tâm thức của
nam giới để hiểu rõ mọi ngọn ngành sâu xa của các nhà văn nữ, là một cách lý
giải đầy khách quan về vấn đề: “Đi chơi gái, nó có cái hồi hộp háo hức rất
riêng, không như đi nhậu, hay mát xa, loanh quanh toàn món quen. Riêng món
124
này, phải lạ mới bõ cái hao tâm khổ tứ nói dối, tạo dựng hiện trường, tốn tiền
bạc. Cái gì lười còn châm chước được, chứ đi chơi gái mà lười thì đời nhạt
lắm” (X-Men có mùi trường đua - Nguyễn Thị Thu Huệ) [148, tr.30]. Ngòi bút
châm biếm, hài hước, giễu nhại của các nhà văn nữ còn đi sâu vào nguyên nhân
cốt yếu, gốc rễ bi kịch của giới nữ, đó chính là sự gia trưởng của người đàn ông
và sự bảo thủ của xã hội. Có thể họ là những người phụ nữ không có học thức,
làm công việc hèn mạt của xã hội nhưng ẩn sâu bên trong vẫn tràn đầy âm
hưởng nữ quyền đầy kiêu hãnh: “Tất cả có thể hơn em học hàm học vị này nọ
nhưng thua em cái khoản đúng giờ. Dù em là loại chân đất mắt toét, ngồi bệt
xuống đất rồi. Ngay đến tên mà người ta ngắn gọn thuận miệng gọi CAVE thì
còn gì mà mất nữa. Cần gì phải tiếc. Phải giữ. (Coi như đã chết - Nguyễn Thị
Thu Huệ) [148, tr.436].
Hầu hết các nhân vật nữ trong các tác phẩm của các nữ nhà văn đều xinh
đẹp, trí thức nhưng điểm chung là họ gặp nhiều bất hạnh, đau khổ trong cuộc
sống hôn nhân và gia đình. Thế nhưng nhờ những biến cố đó mà họ càng mạnh
mẽ, nghị lực để sống tốt hơn và dần dần, họ đã tạo lập được chỗ đứng, vị thế của
mình trong xã hội. Âm hưởng nữ quyền trong các truyện ngắn nữ càng được thể
hiện một cách gần gũi, bình dị trong những hoàn cảnh đặc biệt như thế. Chính
khổ đau là bàn đạp để người phụ nữ biết trân trọng giá trị của mình hơn. Và
ngôn ngữ, giọng điệu với nhiều tâm trạng, cảm xúc phức hợp đầy mới mẻ, độc
đáo đã để lại ấn tượng khó phai nhạt trong lòng mỗi độc giả; là một “dấu ấn” về
phong cách văn chương của các tác giả nữ đầy tinh tế, linh hoạt, phá cách và dạt
dào xúc cảm thương yêu. Đọc truyện ngắn của các nhà văn nữ, chúng ta có thể
nhận thấy được lối viết linh hoạt về giọng điệu trong từng mỗi phong cách: Lê
Thị Hoài Nam với giọng điệu trầm ấm, lãng mạn; Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu suy
tư, triết lý; Mai Thy trẻ trung, bay bổng; Nguyễn Thị Thu Huệ nhẹ nhàng, sâu
sắc; Nguyễn Ngọc Tư với văn phong chất phác, hồn hậu; Hồ Thị Hải Âu giễu
nhại; Bùi Thị Như Lan với chất giọng xót xa, thương cảm đầy xúc động về giới….
Tất cả như một bản hợp âm đa sắc phản ánh sự đa dạng về ngôn ngữ, giọng điệu,
125
phương thức trần thuật trong văn chương, đặc biệt là truyện ngắn đương đại Việt
Nam. Đồng thời, ngôn ngữ, giọng điệu còn khẳng định sức sống “mãnh liệt” của
thể loại truyện ngắn nữ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.
4.3. Diễn ngôn mang ý thức giới
4.3.1. Diễn ngôn tự thuật
Có thể nói, lối viết nữ (l’écriture féminine) thể hiện cái nhìn biện chứng của
tác giả nữ về các hiện trạng của xã hội. Lối viết nữ, đặc biệt là hiện tượng tự
thuật càng thăng hoa và phát triển từ sau giai đoạn Đổi mới năm 1986. Nhiều cây
bút nữ xuất hiện và đã để lại những dấu ấn cá nhân khó phai nhòa, thể hiện bước
tiến và bước chuyển mình quan trọng trong việc tự mình giải phóng ý thức bản
thân. Lối viết nữ cũng chính là biểu hiện bước đầu cho cuộc chiến không khoan
nhượng với các tư tưởng “thâm căn cố đế” của chế độ nam quyền đã tồn tại hàng
trăm năm nay.
Tự thuật đóng vai trò quan trọng trong các sáng tác của nữ giới bởi nó
không chỉ giúp họ bộc lộ những tâm tư, suy nghĩ “thầm kín” của riêng mình mà
còn là “phương thức để nữ giới thể hiện sự nếm trải giới tính, đồng thời là mục
đích để giải phóng những kìm hãm của bản thân” [88].
Tự thuật chính là một phương diện tối ưu để thể hiện toàn bộ vẻ đẹp về thế
giới tinh thần hay còn gọi là thế giới nội tâm đầy biến động và có chiều sâu của
người phụ nữ. Tự thuật thường gắn liền với các sáng tác của nữ giới về các chủ
điểm đơn sơ, mộc mạc về tình yêu, hôn nhân, gia đình… Điều đó cũng lý giải vì
sao tự thuật trở thành khách thể thẩm mỹ và sở trường của ngòi bút nữ so với các
nhà văn nam trong việc biểu thị bản ngã cũng như những khao khát, ước mơ của
các nhà văn nữ.
Trong sự đối sánh với tiểu thuyết, lối viết tự thuật nữ trong truyện ngắn tuy
chưa phát triển mạnh về lượng và chất như trong tiểu thuyết nhưng đã cho thấy
những bước phát triển vững chắc. Đó chính là phong cách đầy phóng khoáng,
dung dị, tự nhiên, ngắn gọn, hàm súc trong việc biểu đạt tinh thần và ý nghĩa
nhân văn của giới nữ đối với vấn đề bình đẳng giới và nâng cao vị thế của người
126
phụ nữ trong xã hội, chống lại tư tưởng nam quyền, xem thường phụ nữ.
Tự thuật trong truyện ngắn nữ mang đến cho độc giả những điểm nhìn mới
đầy cảm xúc và thú vị khi có thời gian “nghiền ngẫm” từng câu chữ, ý văn bên
trong. Nó không chỉ thể hiện những dòng cảm xúc đôi khi là hạnh phúc, trăn trở,
lo âu, suy tư về tình yêu mà còn là sự tranh đấu “âm ỉ” bên trong bản thân mỗi
người phụ nữ với khao khát chính đáng về hạnh phúc cá nhân cho bản thân, sự
bình đẳng và được tôn trọng trong xã hội. Những mong ước đơn sơ, giản dị đó
đều được thể hiện thông qua giọng văn đầy ấm áp, từng trải của các cây bút nữ.
Khảo sát về tự thuật trong truyện ngắn nữ cũng chính là một lối diễn ngôn
đặc biệt trong văn xuôi đương đại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có những đặc
trưng riêng biệt sau. Đầu tiên, đa phần các nhà văn nữ đều chọn hình thức trần
thuật và sử dụng cách thức kể chuyện thông qua ngôi thứ nhất số ít để nói về
những trải nghiệm, cảm xúc của bản thân, gián tiếp thông qua nhân vật nữ. Đó
chính là những cảm xúc trống trải, hụt hẫng của người phụ nữ chịu nhiều đau khổ
trong truyện Năm mười của Dương Thùy Dương: “Anh nâng tôi dậy, đổ những
giọt cay nồng ấy vào môi tôi. Rồi anh cũng làm như thế đối với mình. Chúng tôi
uống chậm đến sáng. Khi anh đứng lên, tôi kéo anh đổ sập xuống cạnh mình, ôm
lấy thân thể ấy mà khóc. Nhưng chỉ mười giây sau đó, XY lại đứng lên. Tôi nhớ
như in cái bóng anh in trên nền cửa sổ đầy nắng, lặng lẽ như một pho tượng La
Mã. Anh cúi xuống hôn lên trán tôi rồi bước về phía mà tôi không thể với tới. Tôi
quấn mình trong chiếc chăn mỏng, nhưng nó làm tôi càng thấy lạnh” [165, tr.85].
Dường như trải qua những biến cố chông gai của cuộc sống, người phụ nữ đã trở
nên mạnh mẽ, bản lĩnh hơn: “Tình yêu có đủ để tôi lấy Duy. Vậy mà càng sống
với nhau càng thấy tình yêu nhẹ gót bay đằng trước, tôi hụt hơi đuổi đằng sau.
Nhiều khi chán nản và cay đắng quá đành ngồi ôm mặt. Nước mắt cũng chẳng đủ
để thấm ướt nỗi cô đơn” (Tháng bảy không mưa - Thùy Dương) [144, tr.111]. Thứ
hai, đa số hình thức tự thuật trong truyện ngắn cùng các thể loại khác, nhân vật
người phụ nữ chính là chủ thể thẩm mỹ và trung tâm được các tác giả nữ ưu ái đưa
vào trong hầu hết các sáng tác của mình càng khiến âm hưởng nữ quyền được lan
127
tỏa rộng rãi. Những tâm tư thầm kín nhất của giới nữ thể hiện sự đồng cảm về giới
của các cây bút nữ chính là sở trường và tâm điểm chuyển tải của hình thức tự
thuật: “Trời ơi, chắc H sắp trở về rồi. Tưởng như là chuyện chiêm bao. Nhưng
giấc chiêm bao này sao dài quá, dài đến hết cả đời người ta. Dù sao cũng may là
mình vẫn còn đây để đợi chờ anh ấy, dù mình cũng đã phạm sai lầm. Mình sẽ kể
tất cả mọi chuyện với H, không giấu bất cứ điều gì. Nếu anh chấp nhận được, tha
thứ được thì mình sẽ vô cùng hạnh phúc được sống cùng anh. Còn nếu anh không
chấp nhận, không tha thứ được thì mình sẽ sống cuộc đời mà mình không hề trách
móc hờn giận, vì mình biết mình có lỗi” (Hồi kết - Ngô Thị Kim Cúc) [142,
tr.172]. Thứ ba, tự thuật trong truyện ngắn nữ còn chính là cách tôn vinh vẻ đẹp về
thân thể người phụ nữ, khơi gợi được nhiều cảm xúc cho người đọc: “Thân thể chị
lóa trắng trên cái nền tím phản quang của cánh rừng và trong ánh chiều chạng
vạng, trông chị giống như một nữ thủy thần vừa từ vực sâu ngoi lên. Chị vuốt cho
mái tóc dài chảy xuống đường hông và chợt nhận ra hai bắp đùi mình vẫn còn
thon tròn, săn rắn chứ đâu đã đến nỗi nào. Làn da mịn màng, cái bụng dưới thẳng
căng với đường hông hẹp và mảnh chưa từng biết đến bàn tay ve vuốt của một
người đàn ông” (Có một thời yêu - Vũ Thị Hồng) [168, tr.103]. Thứ tư, tự thuật
cũng chính là phương thức hiệu quả để lồng vào đó những yếu tố nhục cảm và ẩn
ức tính dục, sự đấu tranh nội tâm của người phụ nữ một cách có hiệu quả trong
văn học. Đây là một yếu tố thể hiện sự đổi mới và “thay da đổi thịt” trong văn học,
phát triển mạnh mẽ ở thể loại truyện ngắn nữ: “Bụng Seo Mỷ nhức nhối nỗi buồn,
tim Seo Mỷ hổn hển đập khó nhọc. Cơ thể bừng bừng sức sống của Seo Mỷ như
tan mềm trong thấp thỏm ao ước. Để rồi Seo Mỷ lơ đễnh đêm này qua đêm khác
không cần cài cửa buồng, thao thức, phấp phỏng mong đợi…” (Hoa mía - Bùi Thị
Như Lan) [168, tr.170].
Có thể kết luận rằng, tự thuật trong truyện ngắn nữ chỉ thật sự phát huy được
ưu thế của mình từ sau quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc sau giai đoạn đổi
mới. Hình thức tự thuật trước 1986 trong văn xuôi của nữ giới không nhiều, đa
số là các trang viết về các vấn đề mang tầm vĩ mô của nam giới. Những vấn đề
128
“nóng” và đa chiều cùng những xúc cảm chân thành của giới nữ được các cây
bút nữ đưa vào hình thức tự thuật một cách thật dung dị, tự nhiên. Điều đó bảo
chứng cho thành công của lối diễn ngôn đặc biệt này và cũng là ưu thế, “thương
hiệu riêng” của ngòi bút nữ, biểu hiện đầy đủ vị thế nữ quyền trong việc “tháo
dỡ hệ thống diễn ngôn nam giới ra khỏi văn bản trần thuật nữ giới” [88].
4.3.2. Diễn ngôn thân phận
Diễn ngôn thân phận được các nhà văn nữ đưa vào trong các sáng tác của
mình và đã đạt được những hiệu quả cao về mặt nội dung và hình thức nghệ
thuật. Không chỉ có tiểu thuyết mà truyện ngắn nữ còn khai thác yếu tố diễn
ngôn thân phận để làm nổi bật rõ tư tưởng nữ quyền. Thân phận người phụ nữ
Việt Nam từ chế độ phong kiến đã bị ràng buộc bởi các thể chế Nho giáo, các
định kiến của xã hội và chế độ nam quyền. Các thiết chế đó đã vô hình tạo nên
sự ràng buộc khiến người phụ nữ bị lệ thuộc gần như tuyệt đối với người đàn
ông. Họ không có bất kỳ tiếng nói nào trong gia đình và xã hội. Chính vì thế,
diễn ngôn thân phận chính là cách để các nhà văn nữ đòi lại sự công bằng về
tiếng nói và nhất là sự đấu tranh để giới nữ có một thân phận thật sự tốt đẹp và ý
nghĩa ngay trong chính xã hội đương đại mà họ đang sống. Đó chính là giá trị
vững bền của nền “văn học vì phụ nữ” trong thời đại ngày nay. Bên cạnh hình
thức tự thuật, diễn ngôn thân phận trong truyện ngắn nữ cũng đã tạo được phong
cách riêng mang đậm tư tưởng nữ quyền về mặt nghệ thuật. Các cây bút nữ đã
“chắc tay” và “tinh tế” trong việc xử lý tình huống truyện có yếu tố về thân phận
người phụ nữ vừa bất ngờ vừa hợp tình hợp lý, tạo nên những giá trị nhân văn
sâu sắc khó phai nhòa. Trong tất cả các biện phát nghệ thuật, diễn ngôn thân
phận đóng vài trò quan trọng trong việc tạo nên những thông điệp, nội dung ý
nghĩa từ tác giả thông qua những chi tiết mang tính chất “mở” được nhà văn nữ
khéo léo đưa vào trong tác phẩm của mình.
Diễn ngôn thân phận đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố tâm lý cùng
với tâm trạng đa chiều, đầy giằng xé về nội tâm của nhân vật, cũng là kiểu dạng
đặc biệt tạo nên những “nút thắt” và sự hồi hộp, bất ngờ dẫn dắt nhân vật đến
những hành động vô thức trong tác phẩm. Tiêu biểu như hành động của cô con
129
dâu trong Bóng đè (Đỗ Hoàng Diệu), của Thị trong I’am đàn bà (Y Ban)...
Truyện I’am đàn bà của Y Ban chính là một điển hình cho kiểu nghệ thuật
thắt/ mở nút, định hình cho các chi tiết đầy tính “bản thể” trong những diễn biến
đầy xáo động của tâm lý nhân vật, từ đó “mở đường” cho người đọc tự nhận biết
về thân phận nhân vật. Chính nhờ không gian chật hẹp, đó là căn phòng của chính
ông chủ, hai con người dường như xa lạ đã trở nên gắn bó với nhau bằng chính
một tình cảm đặc biệt: đó là tình đồng loại mà thị dành cho ông chủ. Nhờ những
tình cảm quý giá, sự chăm sóc ân cần của thị đã cứu rỗi được tâm hồn “như đứa
trẻ thơ trong hình hài của một ông lão”. Ông chủ đã có xúc cảm và cái chính là
“mắt ông chủ đã có hồn”. Không gian căn phòng chật hẹp đã dẫn dắt tâm lý thị,
thị phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều để cuối cùng thị đã “mộng mị đi vào phòng
ông chủ. Cái ánh mắt của ông chủ như thúc vào tim thị. Cái ánh mắt mừng rỡ. Thị
nhìn sâu vào cái ánh mắt mừng rỡ đấy rồi thị trút bỏ áo quần của thị. Thị lật chiếc
khăn mỏng đắp trên người ông chủ... Thị đã không phải thức giấc trong sự thèm
khát cháy bỏng nữa. Thị đã thỏa mãn” [140, tr.30]. Simone de Beauvoir đã có sự
lý giải về vấn đề này bắt nguồn từ “gốc rễ” chính là do các áp chế xã hội, dẫn đến
hệ quả là: “số phận giải phẫu học” giữa đàn ông và đàn bà khác nhau sâu xa. Điều
kiện tinh thần và vị trí xã hội giữa họ với nhau cũng khác nhau không kém. Nền
văn minh gia trưởng buộc chặt phụ nữ vào chữ trinh; trong lúc người ta thừa nhận
khá công khai cho đàn ông cái quyền thỏa mãn nhục dục, thì phụ nữ bị dồn vào
hôn nhân. Đối với phụ nữ, hành vi xác thịt là một tội lỗi, một sự sa ngã, một sự
yếu đuối nếu nó không được luật pháp và hôn lễ công nhận” [9, tr.400]. Diễn ngôn
thân phận trong truyện I’am đàn bà đó chính là sự ca ngợi hình ảnh một người
phụ nữ nông thôn tuy nghèo khổ, lam lũ, ít học nhưng đã dùng tình yêu thương
của mình để cứu vớt đồng loại, “sưởi ấm” trái tim những người khuyết tật mà gia
đình và xã hội đã “bỏ quên”. Từ khi Thị bước chân vào phòng ông chủ, thân phận
của một người nông dân nghèo khổ nhưng giàu tình thương như Thị đã có sự
chuyển hóa rõ rệt: từ khách thể thẩm mỹ sang chủ thể thẩm mỹ, cứu vớt được tâm
hồn và cuộc đời đang “héo úa” của ông chủ. Giá trị nhân văn của tác phẩm chính
là nằm ở việc bộc lộ diễn ngôn thân phận cũng như sự thay đổi rõ rệt và hiệu quả
130
trong cách hành xử của nhân vật.
Truyện Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, các chi tiết về vùng quê, không gian
ẩm ướt, thời gian cô đặc lại như “đồng lõa” với cô con dâu bởi cô luôn phải “dè
dặt” và “khát thèm” nhưng người chồng của cô thì lại dửng dưng, vô tâm. Những
điều đơn giản như vậy mà người đàn ông trụ cột trong gia đình không đáp ứng
được cho người phụ nữ thì gia đình cũng rất dễ lung lay. Thế nên cũng dễ hiểu vì
sao “Tôi chẳng thể đặng đừng. Anh bị tôi co rút lôi đi. Đôi lúc thấy anh kinh
khiếp tôi đành phải dè dặt. Nhưng rồi đến cơn khát tôi vung vấp hết. Mỗi sáng
thức giấc trông Thụ thật tội nghiệp” [143, tr.6]. Trong trường hợp này, diễn ngôn
thân phận của cô con dâu chính là sự áp bức, tù hãm của chế độ gia trưởng
(người chồng) và chính xã hội đã quy kết sự “sở hữu” đối với cô, buộc cô phải
“quy thuận” (người mẹ và hình ảnh ẩn dụ về căn phòng tối tăm, ẩm thấp). Ở đó,
cô đã đấu tranh mạnh mẽ cho những khát vọng tính dục của mình (ngoại tình
trong giấc mơ với cái bóng) bắt nguồn từ những thờ ơ, lạnh nhạt về đời sống tình
dục của chính người chồng đầu ấp tay gối với cô.
Diễn ngôn về thân phận người phụ nữ thường được các tác giả nữ thể hiện
thông qua những hoàn cảnh khó khăn, nghịch cảnh của nhân vật nhưng họ vẫn
vươn lên mạnh mẽ như cây xương rồng trong sa mạc dù nắng, gió, phong ba, bão
táp vẫn nở hoa làm đẹp cho đời. Nàng H’Thai trong truyện Con đường đã chọn
của H’Linh Niê, dù thân phận là một cô gái nghèo nhưng đã khẳng định sự thành
công của bản thân: một người phụ nữ dân tộc làm lãnh đạo, thay đổi đời sống
buôn làng theo hướng tích cực, đầy ý nghĩa. Hay một người con gái mạnh mẽ
khi đối diện với AIDS, tích cực làm công tác tuyên truyền, giúp đỡ những người
có hoàn cảnh như mình: “Nàng đã từng đi nước ngoài để cổ vũ cho chiến dịch
phòng chống AIDS toàn cầu. Số điện thoại di động của nàng được nhiều người
biết đến. Gia đình quý tộc của nàng đã gần như quên hẳn người con gái tội
nghiệp khi nàng trở thành thiên sứ phòng chống AIDS” (Dưỡng chất trần gian -
Thu Trân) [162, tr.278].
Yếu tố cuối cùng, cái kết trong truyện ngắn nữ thường đọng lại trong
131
lòng người đọc những “sức mạnh ám gợi” và tưởng tượng (theo Hoàng Tố Mai)
vì đa số các tác giả nữ thường lấy kết thúc mở cho nhân vật và tác phẩm tạo nên
những thân phận khác nhau đầy thú vị của giới nữ. Kết thúc tác phẩm, các tác
giả nữ đã thể hiện sự đa dạng, linh hoạt để nhân vật nữ vẫn luôn có sức cuốn hút
theo cách riêng. Đó là hình ảnh cô con dâu có thai (Bóng đè - Đỗ Hoàng Diệu),
một thân phận phụ nữ nông dân đã tự đứng ra bào chữa cho hành vi nhân đạo
của mình trước tòa ở cuối tác phẩm (I’am đàn bà - Y Ban)… Tất cả những chi
tiết đó càng khiến chúng ta khâm phục nghị lực phi thường của người phụ nữ
trong những hoàn cảnh bi đát nhất, ở đó vẫn còn những hy vọng thắp sáng, tin
tưởng vào tương lai tốt đẹp phía trước. Sau bao biến cố chông gai của cuộc sống,
những niềm hy vọng của người phụ nữ vẫn được “nhen nhóm” ở cuối tác phẩm
thể hiện sự đồng cảm sâu sắc về giới của các cây bút nữ: “Hòa dắt con gái Thoa
từ ngoài vườn chạy vào và thông báo: cả nhà ra mà xem hoa Tường Vi đã nở
hồng rực cả góc vườn” (Ngày đông có nắng - Thùy Dương) [144, tr.59]. Có
những khi, với kết thúc mở đó, Thu Trân với truyện Dưỡng chất trần gian đã đặt
ra một câu hỏi đầy “ám ảnh” khiến chúng ta phải lưu tâm: “Vậy thì, thật ra tôi là
ai, và anh là ai, trong cái cõi sống hư hư thực thực chẳng thể phân định này”
[162, tr.198]. Để rồi nhận ra, người đàn bà thường có sức mạnh và nghị lực phi
thường, “thách thức” mọi sóng gió cuộc đời ở cuối tác phẩm Hoa vông vang của
Hồ Thị Hải Âu: “Người đàn bà u tối, mong manh ngồi còm cõi trên bãi biển. Đá
thì cứ sừng sững. Mặc sóng. Mặc gió. Mặc thời gian.” [167, tr.191].
Từ những phân tích trên, chúng tôi nhận thấy rằng diễn ngôn thân phận
người phụ nữ thường bị chi phối bởi đặc trưng văn hóa - xã hội - lịch sử mà họ
đang sống. Sự đấu tranh nhằm từng bước xóa bỏ thân phận và cuộc sống “thụ
động”, “lệ thuộc”, hướng đến quyền được tự chủ về cuộc sống cho chính thân
phận của họ là mong muốn chính đáng của các nhân vật nữ. Đồng thời đã thể
hiện đầy đủ những cung bậc cảm xúc và bộc lộ được “tròn trịa” về nữ quyền
nhất, không thể thiếu được nghệ thuật tạo nên những tình huống bất ngờ trong
tác phẩm cùng với các chi tiết quan trọng về hành động, tâm sinh lý của nhân
132
vật nữ cũng như nghệ thuật xây dựng cái kết đầy nhân văn trong tác phẩm.
Điều đó thể hiện tình yêu và tình cảm đặc biệt, sự quan tâm và đồng cảm sâu
sắc về các vấn đề giới của các cây bút nữ được thể hiện đa dạng và đầy tính
cuốn hút, bất ngờ trong truyện ngắn nữ đương đại Việt Nam.
4.3.3. Diễn ngôn thân thể
Vẻ đẹp nữ tính về thân thể người phụ nữ chính là yếu tố quan trọng được
khai thác nhiều trong truyện ngắn nữ đương đại Việt Nam và đã mang những đặc
trưng riêng về giới cùng những ý nghĩa tinh tế, sâu sắc mà các tác giả nữ đã lồng
ghép vào trong các tác phẩm của mình. Diễn ngôn thân thể thường ưu tiên trong
việc đặc tả về vẻ đẹp ngoại hình của nữ giới, tạo nên sức mạnh lấn át “quyền lực
văn hóa” (theo Hồ Thị Giang) và thậm chí là nỗi đau chiến tranh, thức tỉnh và
lay động tình thương yêu giữa con người với con người. Đây cũng chính là biểu
tượng về tính Mẫu và bản sắc văn hóa của người phụ nữ Việt mà các tác giả nữ
thường hướng đến để “tô điểm” các đức tính tốt đẹp công, dung, ngôn, hạnh của
người phụ nữ từ bao đời nay.
Đầu tiên, vẻ đẹp thân thể đầy nữ tính của người phụ nữ Việt qua các sáng
tác của các cây bút nữ thường mang vẻ “thiên phú”, đánh thức và lay động niềm
say mê cái đẹp của những người khác giới. Nó tạo thành một thứ “ma lực” cuốn
hút, không thể chối từ, được thể hiện qua hệ thống ngôn từ diễn ngôn về giới đầy
tính ước lệ: “Người con gái dịu dàng, thơm tho như hoa bách hợp đang nằm ưỡn
cong mình giữa một màn sương mờ đục. Mảnh váy lụa màu xanh da trời anh
mua tặng vắt hờ hững qua hông. Chiếc cổ thon thả. Bầu ngực mềm như nhung.
Làn eo ngọt ngào cỏ mật. Những nơi anh đã từng ghé môi. Nào trong cơn mê
man (Sài Gòn - Nguyễn Quỳnh Trang) [161, tr. 69].
Thứ hai, vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ đã xoa dịu trái tim cô đơn, lạc
lối của người đàn ông. Sự hòa hợp về thân thể tạo nên sự gắn bó không thể tách
rời của những mảnh đời gặp nhiều tổn thương trong cuộc sống, giúp họ thêm
phần vững tin và lạc quan trước những thăng trầm của cuộc sống. Đó cũng chính
là biểu tượng của tính Mẫu trong hệ văn hóa của người Việt: hy sinh, chung thủy
133
và vị tha: “Tôi xót tôi bởi nỗi cô đơn dai dẳng. Vì thế tôi thương ông. Ông bảo
ông cũng thương tôi. Ông vuốt ve dỗ dành thân thể tôi mỗi lúc ông và tôi bên
nhau. Tôi thấy mình ẩm ướt hơn, mềm mại hơn. Lần đầu tiên trong đời tôi biết
ôm một người thì ấm áp như thế, được chở che như thế, yêu thương như thế
(Cỏ - Nguyễn Hồng) [164, tr.74].
Thứ ba, bản sắc văn hóa và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt thường được thể
hiện thông qua vẻ đẹp đầy sự hy sinh, che chở, bảo bọc của người mẹ. Đó
chính là nguồn sức mạnh tinh thần và giá trị nhân văn cao cả mà các tác giả nữ
thường khéo léo đưa vào trong các tác phẩm của mình để tôn vinh người vợ/
người mẹ Việt: “Tôi cùng mẹ đẫm mình dưới lòng sông trăng. Nước sông Lam
mát lạnh, trăng quê tôi trong ngần… Tôi bơi mải miết theo mẹ. Dòng nước mát
lành ve vuốt cơ thể của hai người đàn bà. Dưới ánh sáng huyền hoặc của đêm
trăng, tôi thấy mẹ thật đẹp, thật dịu hiền. Và cả tôi nữa, tôi như được gột rửa, tự
thấy mình trong trẻo hơn… (Ba người đàn bà - Bùi Ngọc) [164, tr.144]. Không
phải ngẫu nhiên mà hình ảnh của trăng thường được gắn liền và đặc tả cùng
hình ảnh người phụ nữ tràn đầy sức sống. Trăng và người phụ nữ cùng “hòa
nhập” với nhau, tạo nên vẻ đẹp và “quyền lực thân thể” của nữ giới Việt. Trăng
không chỉ đi vào thơ ca mà còn trong truyện ngắn nữ đã tạo nên diễn ngôn về
giới mang đậm bản sắc Việt và tôn vinh được vẻ đẹp ngoại hình có khả năng
làm “lay động” lòng người của các nhân vật nữ. Truyện Người đàn ông của mẹ
của Lê Thị Bích Hồng đã miêu tả được vẻ đẹp “ảo diệu” của người phụ nữ,
được tô điểm trên nền ánh trăng khuya thật lung linh, huyền ảo: “Gió rời rợi.
Tiếng khoát nước ì ũm. Có một phụ nữ tắm trăng. Trăng rẽ mây đổ tràn trên bờ
vai thiếu phụ. Tiếng khỏa nước rì rợi, tí tách, gồn gột. Tôi men đến gần. Thiếu
phụ ngước nhìn trăng. Mái tóc buông xõa đổ dài phía sau dập dềnh, dập dềnh.
Bờ vai tròn trặn lấp lóa, lấp lóa. Hai bàn tay sẽ sang vun nước lên vai, lên cổ.
Bờ ngực sóng sánh, đẫm trăng” [169, tr. 119].
Như đã nói ở trên, với diễn ngôn thân thể của người phụ nữ Việt, các tác
giả nữ không chỉ giới hạn về vẻ đẹp ngoại hình mà vẻ đẹp nội tâm của họ cũng là
134
điểm chủ đạo, “cứu rỗi” cho niềm đau và số phận những người cùng cảnh ngộ
với họ trong chiến tranh với bao đau thương mất mát. Đó là ý nghĩa nhân đạo mà
văn học nữ luôn quan tâm và truyền tải được thông điệp về nữ quyền đầy tính
nhân bản: “Ta choáng mắt trước vẻ đẹp ngời ngời của tâm hồn nàng. Và thân thể
của nàng mới trong trắng, tinh khiết làm sao… Với ta, nàng không chỉ là người
cứu vớt phần xác mà còn là vị phúc tinh cứu linh hồn ta khỏi sa ngã” (Có một
thời yêu - Nguyễn Thị Liên) [191, tr.117]. Hay sự ca ngợi tinh thần dũng cảm
của cô giao liên đưa đường cho các đồng chí bộ đội di chuyển đến nơi an toàn,
có vẻ đẹp được ví như những bông hoa rừng, đơn sơ, mộc mạc nhưng không dễ
bị “vùi dập”: “Trên đường hành quân ngàn dặm của chúng ta - Thăng nghĩ - có
biết bao những bông hoa rừng đẹp kín đáo như thế. Những bông hoa thường mọc
xuyên lên từ khe đá khắc khổ, lẩn khuất thầm lặng dưới những gốc cây rể nổi xù
xì. Những bông hoa nom rất đỗi mảnh mai nhưng chẳng có bão mưa nào vùi dập
nổi” (Hoa rừng - Nguyễn Thị Liên) [191, tr. 249].
Như vậy, diễn ngôn về giới là một hình thức tồn tại trong văn bản, được hệ
thống hóa thông qua hệ thống ngôn từ. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận được
đầy đủ những nội dung thông tin cần được phản ánh trong văn bản, mang những
đặc trưng của giới nữ. Một phần không thể thiếu đó chính là diễn ngôn thân thể
mang đặc trưng sinh học về giới theo lý thuyết nữ quyền. Điều đó đã thể hiện
được nét đẹp nữ tính về ngoại hình, tính cách và tâm hồn của người phụ nữ Việt
đầy chân thành, giàu tình yêu thương, sống mãi với thời gian thông qua ngòi bút
tinh tế và đồng điệu của các cây bút nữ.
Tiểu kết
Có thể thấy rằng, ngôn ngữ, giọng điệu kết hợp với lối viết nữ đã tạo nên
phong cách riêng cho các nhà văn nữ với các tác phẩm thể hiện tuyên ngôn nữ
quyền đầy tinh tế, sâu sắc. Văn phong đầy tính mới lạ, cách kể chuyện gần gũi,
bình di, thân thuộc như chính tâm hồn chung thủy, son sắt của giới nữ là điểm
nhấn tiêu biểu trong hành trình sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật của các chị.
Trong hành trình đi tìm kiếm cái tôi bản ngã của mình, các nhà văn nữ đã có sự
135
sáng tạo mới mẻ thông qua phương thức trần thuật với những điểm nhìn thú vị.
Điều đó cho phép họ khám phá, quan sát và đưa ra được những nhận định, khách
quan và trung thật nhất về giới nữ thông qua loại hình nghệ thuật đặc biệt là
truyện ngắn với giọng điệu riêng, đầy cá tính, xem đây như là phương tiện để nữ
giới không những thể hiện được nội tâm của mình mà còn là sự đấu tranh bền bỉ,
không khoan nhượng bằng chính ngôn từ của mình. Âm hưởng nữ quyền càng
vang cao, vang xa với các giọng điệu cảm thương, triết lý hay châm biếm đầy
tính tự trào và mộc mạc, tự nhiên của các cây bút nữ. Bên cạnh đó, tổng quan về
bức tranh thế giới nghệ thuật không thể thiếu diễn ngôn của giới nữ như diễn
ngôn tự thuật, diễn ngôn thân phận và diễn ngôn thân thể giúp cho các lối viết nữ
thêm phần sinh động, tươi mới, nhiều màu sắc đã thể hiện được sự cách tân mới
mẻ về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật của mỗi một tác phẩm.
Từ những âm sắc và giọng điệu, lối kể chuyện trần thuật, kết cấu truyện đa
dạng và phân tầng hợp lý trong từng tác phẩm, truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 -
2015 đã chứng minh được rằng, các tác giả nữ đã sống trong cùng một từ trường
văn hóa - lịch sử, có khi nhập vai vào những nhân vật nữ để nói lên tiếng nói
mang âm hưởng nữ quyền của thời đại. Tiếng nói ấy thật chân thật, dịu dàng, có
khi mạnh mẽ, quyết liệt tạo thành ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật đầy tính khu
136
biệt với điểm nhìn trần thuật mới mẻ, nhiều màu sắc.
KẾT LUẬN
1. Theo từng giai đoạn vận động và phát triển của văn học, vấn đề nữ quyền
trong truyện ngắn nữ Việt Nam càng thể hiện sự phát triển theo xu thế của thời
đại. Văn học nữ quyền chính là bước tiến vững chắc từ các phong trào nữ quyền
trước đó. Hình tượng người phụ nữ đi vào trong các áng văn thơ, văn học dần
được “phổ cập hóa” rộng rãi hơn, xóa bỏ những áp đặt hà khắc của nam quyền đối
với giới nữ trên tất cả mọi phương diện xã hội. Dấu ấn của lý thuyết phê bình nữ
quyền được nhân rộng từ trước năm 1980, lối viết nữ và khuynh hướng khám phá
bản chất tự nhiên của giới nữ đã dần được các học giả, các nhà nghiên cứu lưu
tâm. Phê bình nữ quyền thể hiện được tầm quan trọng và tính khả dụng của mình
khi có sự kết hợp nhuần nhuyễn với phê bình phân tâm học, phê bình đồng tính,
phê bình Mác - xít, phê bình hậu thực dân và phê bình sinh thái. Tiếp thu có chọn
lọc lý thuyết phê bình nữ quyền từ phương Tây, văn học Việt Nam đã tạo nên một
cuộc “lột xác” trong việc thể hiện hình tượng kiên định, phi thường của người phụ
nữ trong xã hội hiện đại. Phê bình nữ quyền từng bước khẳng định, đấu tranh,
thiết lập các quyền bình đẳng cùng địa vị cho giới nữ, chống lại tư tưởng nam
quyền cố hữu trong xã hội thông qua “vũ khí” tối ưu là văn học.
2. Âm hưởng nữ quyền trong văn học thực sự được lan tỏa mạnh mẽ từ sau
năm 2000, tuy hệ thống lý thuyết về nữ quyền ở Việt Nam vẫn còn “non trẻ” so
với phương Tây. Dẫu vậy, việc vận dụng phê bình nữ quyền vào trong văn học
đã đạt được nhiều thành tựu nổi trội. Đã có nhiều hơn các cây bút nữ và các học
giả ưu tiên vấn đề về giới lên hàng đầu trong việc sáng tác, nghiên cứu. Từ đó,
văn học về giới nữ thật sự có sự “chuyển mình” từ sau giai đoạn Đổi mới, là thời
kỳ văn chương mang màu sắc của nữ giới, đối lập với sự “bất toàn” của đàn ông.
Thể loại truyện ngắn nữ đã có những bước tiến khởi sắc, chính là một xu
thế mới đầy tính hội nhập với nền văn học thế giới để biểu thị những vấn đề
“nóng” về tình yêu, hôn nhân, gia đình của giới nữ mang trong mình trọn vẹn âm
137
hưởng nữ quyền. Thứ hai, ưu điểm của truyện ngắn đó là ngắn gọn, hàm súc, cô
đọng hơn so với tiểu thuyết nhưng vẫn bảo đảm truyền tải những thông điệp về
bình đẳng giới, chống lại chế độ nam quyền và những định kiến gay gắt của xã
hội dành cho giới nữ. Thứ ba, chính nhờ sự đổi mới trong văn học đã giúp cho
những sáng tác của các cây bút nữ cá tính hóa đậm nét mà trước đó là “địa phận”
của nam giới. Họ không còn bị “bó buộc”, đi theo “lối mòn” trong những quy
chuẩn “an toàn” của xã hội. Thay vào đó, mạch cảm xúc trong những truyện
ngắn đầy tính phóng khoáng, tự nhiên ngay cả đối với những vấn đề thuộc về
cảm xúc thầm kín của nữ giới: yếu tố tính dục. Viết về sex, các cây bút nữ không
hề thua kém nam giới, thậm chí còn dào dạt và đầy tính nhân văn qua từng trang
viết đầy tính sáng tạo của ngòi bút nữ. Như vậy, truyện ngắn nữ nhìn từ góc độ
phê bình văn học nữ quyền là hướng nghiên cứu nổi bật và có tính ứng dụng cao
trong văn học cũng như văn hóa, xã hội học.
3. Với cảm quan đa dạng, đồng điệu và tràn đầy cảm xúc về tình người, sự
thủy chung, son sắt của giới nữ; các cây bút nữ đã thể hiện các nhân vật nữ với
nhiều số phận khác nhau cùng thế giới nội tâm đầy phức hợp, đa chiều. Chính họ
đã hóa thân vào từng nhân vật, kể từng câu chuyện như chính cuộc đời của mình
với nhãn quan của sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc. Các nhà văn nữ đã tạo nên
một luồng sinh khí mới đầy sức trẻ và nhiệt huyết cho nền văn học nước nhà.
Đối với truyện ngắn nữ qua 30 năm phát triển, sự cách tân thi pháp thể
hiện ở thế giới nhân vật đã tạo nên bước tiến mới trong việc đề cao âm hưởng nữ
quyền thời hiện đại. Một thế giới nhân vật nữ đa dạng, nhiều màu sắc hiện lên:
nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do; thiên tính làm mẹ
và khát vọng tình yêu; bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục, cảm
quan sinh thái và ý thức giải phóng bản thân. Tất cả các kiểu dạng nhân vật nữ
đó đã phá vỡ mọi quy chuẩn về cái đẹp đã được định hình, rập khuôn trước đây.
Nhân vật nữ không chỉ là hình mẫu cho vẻ đẹp truyền thống đầy nhu mì, hiền
hậu của giới nữ mà đó còn là vẻ đẹp hiện đại, có “hơi hướm” nổi loạn, đấu tranh
không khoan nhượng cho hạnh phúc, nhu cầu cá nhân của mình. Họ không ngại
138
bày tỏ nỗi lòng, nói lên tiếng nói đầy khí chất của nữ giới, phê phán nam quyền
và những tư tưởng xã hội thủ cựu, hà khắc. Cùng với lối viết trần thuật, sự cách
tân trong ngôn ngữ, giọng điệu, hệ thống nhân vật của truyện ngắn nữ 2000 -
2015 đã hình thành kiểu diễn ngôn ấn tượng về giới và tinh thần nữ quyền mang
hơi thở thời đại, đầy tính nhân văn của các cây bút nữ.
Có thể nói, điểm nhấn trong văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn nữ sau năm
2000 là sự đa dạng trong chủ đề, đề tài được phản ánh. Các nhà văn nữ thường ưu ái
những chủ đề rất gần gũi, dung dị với cuộc sống hàng ngày: chủ đề khát vọng hạnh
phúc gia đình, tình yêu lứa đôi; hình tượng người phụ nữ hiền thục, đảm đang, dám
bứt phá khỏi những quy chuẩn, lề thói đã lỗi thời của gia đình, xã hội để tạo cho
mình lối đi; những ẩn ức tính dục và khát vọng tính dục… Tất cả những yếu tố đó
đã làm nên một diện mạo hoàn toàn khác cho truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại.
Khảo sát truyện ngắn nữ giai đoạn trước và sau này từ 2000 - 2015, chúng tôi nhận
thấy rằng, giai đoạn trước (1986 - 2000): sự đa dạng về đề tài, chủ đề; sự “góp mặt”
của các vấn đề và ngôn ngữ “nóng” (đề tài tính dục)… vẫn chưa thật sự rõ nét và ấn
tượng. Dẫu rằng, các cây bút nữ kỳ cựu đã đặt nền tảng tạo dựng nên phê bình văn
học nữ quyền thông qua tác phẩm của mình. Tuy nhiên giai đoạn về sau, các cây
bút nữ của thế hệ trẻ đã tiếp bước, cùng với cảm quan mới mẻ, họ đã tiếp nhận cái
mới và tiến bộ, hợp với thời đại và phản ánh đa dạng, chân thực, sát với nhu cầu
thực tế hơn. Nhờ vậy, các tác phẩm của họ thật sự tạo ấn tượng và thành tựu khi liên
hệ đến nữ quyền và những gì thiêng liêng thuộc về nữ giới.
Nói một cách khách quan, lối viết của các nhà văn nữ có thể không đề cập
đến những vấn đề ở tầm vĩ mô như các nhà văn nam mà lại nghiêng về những
điều bình dị trong cuộc sống hàng ngày như thân phận con người. Đặc biệt, thế
giới nội tâm của người phụ nữ lại có sức hút “khó cưỡng” đối với người đọc, bao
gồm cả những vấn đề vi mô như thế.
4. Hệ thống diễn ngôn trần thuật nữ giới cũng là điểm nhấn và tạo nên sự
đa dạng trong phong cách sáng tác và văn phong linh hoạt của các tác giả nữ.
Đối với phê bình văn học nữ quyền thì hệ thống diễn ngôn nữ giới, tiêu biểu là
139
những đặc trưng của lối viết nữ chính là một hình thức nghệ thuật quan trọng cần
được phân tích làm rõ nhằm thể hiện đầy đủ tinh thần nữ quyền trong truyện
ngắn. Các yếu tố đặc trưng thi pháp của truyện ngắn như hình thức tự thuật cùng
hệ thống diễn ngôn mang ý thức giới đã tạo sự sinh động, đa dạng trong lối viết
nữ. Chính nhờ ngòi bút đồng cảm sâu sắc của các cây bút nữ, ngôn ngữ đầy tính
mới mẻ, linh hoạt, các yếu tố thi pháp và tự sự được sử dụng trong tác phẩm đã
giúp cho các tác phẩm viết về hình tượng người phụ nữ sống mãi với thời gian.
Truyện ngắn nữ 2000 - 2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền đã đạt
được nhiều thành tựu rực rỡ nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế đó là số lượng
các tác phẩm viết về nữ quyền vẫn còn ít, một số truyện cách viết khá mơ hồ.
Người đọc khi tiếp nhận các tác phẩm này cũng gặp những khó khăn để có thể
nghiên cứu chuyên sâu.
5. Với đề tài luận án Truyện ngắn nữ Việt Nam 2000 - 2015 từ góc nhìn
phê bình văn học nữ quyền, chúng tôi đã hệ thống và lý giải có chủ điểm những
vấn đề về nữ quyền trong văn hóa và văn học, thông qua truyện ngắn nữ tiêu
biểu giai đoạn này. Từ đó, luận án chỉ ra được rằng ý thức phái tính và âm hưởng
nữ quyền trong văn học đương đại là một bước tiến/ hệ quả tất yếu của xu hướng
bình đẳng hóa, dân chủ hóa trong xã hội và trong văn học mà các nhà văn nữ đã
ý thức sâu sắc và thể hiện rất có hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà
luận án chưa giải quyết được, đó là phạm vi nghiên cứu về số lượng tác giả/ tác
phẩm chỉ giới hạn trong một số cây bút nữ tiêu biểu. Ngoài những tác giả/ tác
phẩm tiêu biểu mang đậm âm hưởng nữ quyền chúng tôi lựa chọn phân tích
trong luận án thì những tác giả/ tác phẩm khác chưa thật sự phong phú, mặt nội
dung và hình thức nghệ thuật vẫn chưa thể hiện sự nổi trội về mặt tinh thần cũng
như sự đấu tranh quyết liệt của người phụ nữ cho khát vọng nhân sinh. Bên cạnh
đó, những tác phẩm mang âm hưởng nữ quyền mờ nhạt, chúng tôi không ưu tiên
minh chứng trong luận án. Chúng tôi hy vọng đây là công trình khoa học góp
thêm tiếng nói trong việc nghiên cứu nữ quyền đang ngày càng được mở rộng và
phát triển như hiện nay và mở ra triển vọng nghiên cứu mới và nghiên cứu bổ
140
sung cho những ai quan tâm đến vấn đề giới và nữ quyền trong tương lai.
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
I. Bài báo
1. Lê Thị Thanh Xuân (2017), “Xu hướng nữ quyền trong sáng tác của các
nhà văn nữ dân tộc thiểu số”, Tạp chí Khoa học, tập 126, số 6 (2017), Đại học
Huế, tr. 211 - 220.
2. Lê Thị Thanh Xuân (2018), “Tìm hiểu giọng điệu mang đậm ý thức phái
tính nữ quyền trong một số truyện ngắn hiện đại Việt Nam tiêu biểu”, Hội thảo
Quốc tế nghiên cứu liên ngành về ngôn ngữ và giảng dạy ngôn ngữ lần thứ 4,
Đại học Ngoại ngữ, Huế.
3. Lê Thị Thanh Xuân (2018), “Yếu tố tính dục và nhu cầu giải phóng tính
dục trong truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ, tập 11, số 2 (1/2018), Trường ĐHKH Huế, tr. 63 - 73.
4. Lê Thị Thanh Xuân (2018), “Tinh thần nữ quyền trong truyện ngắn của
Trần Thùy Mai”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 13, số 3 (12/2018),
Trường ĐHKH Huế, tr. 113 - 122.
5. Lê Thị Thanh Xuân (2018), “Những vấn đề lý luận cơ bản và đề xuất
những hướng nghiên cứu về nữ quyền ở trong và ngoài nước”, Hội thảo quốc tế
Việt Nam học lần thứ 3, ĐH Ngoại ngữ, Huế, tr.766 - 772.
6. Lê Thị Thanh Xuân (2019), “Đôi nét về nữ quyền sinh thái trong truyện
ngắn nữ Việt Nam đương đại”, Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 4,
ĐHKHXHNV TP.HCM, tr. 815 - 820.
7. Lê Thị Thanh Xuân (2019), “Tinh thần nữ quyền trong truyện ngắn của Y
Ban”, Tạp chí Khoa học, Số 32 (01/2019), Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà
Nẵng, tr. 66 - 72.
141
II. Đề tài nghiên cứu khoa học 8. Lê Thị Thanh Xuân (2017), Nữ quyền luận trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam và Nhật Bản, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Trường ĐH Ngoại ngữ Huế, tr.1- 46.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Vân Anh (2016), “Hình tượng nhân vật nữ trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1954 - 1975”, Nguồn: http://www.vanhien.vn, 24/11/2016.
2. Yến Anh (2007), “Nhà văn Y Ban: Sex cổ xưa như trái đất”, Nguồn:
http://vietbao.vn, 16/7/2007.
3. Thái Phan Vàng Anh (2016), “Văn xuôi của các nhà văn nữ thế hệ sau 1975
nhìn từ diễn ngôn giới”, Nguồn: http://portal.huc.edu.vn, 14/6/2016.
4. Hoàng Thụy Anh (2016), “Âm hưởng nữ quyền và cái nhân vị - đàn bà”,
Nguồn: http://vannghedanang.org.vn, 27/10/2016.
5. Lại Nguyên Ân (2009), “Phan Khôi (1887 - 1959)”, Nguồn:
http://www.chungta.com.
6. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Lại Nguyên Ân (2017), Phan Khôi, vấn đề phụ nữ ở nước ta, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội.
8. Lê Huy Bắc (chủ biên) (2011), Văn học hậu hiện đại - lý thuyết và tiếp
nhận, Nxb Tri thức, Hà Nội.
9. Simone de Beauvoir (1996), Giới nữ (tập 1), (Nguyễn Trọng Định và Đoàn
Trọng Thanh dịch) , Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
10. Simone de Beauvoir (1996), Giới nữ (tập 2), (Nguyễn Trọng Định và Đoàn
Trọng Thanh dịch), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
11. Đặng Văn Bảy (2014), Nam nữ bình quyền, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
12. Đặng Văn Bảy (2014), “Nhà tiên phong về nữ quyền của Việt Nam”,
Nguồn: http://thethaovanhoa.vn, 21/10/2014.
13. Mai Huy Bích (2009), Giáo trình xã hội học giới, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
14. Y Ban (2007), “Sex là giải trí và văn hóa”, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.
net/tin_tuc/sach/lang_van/y_ban_sex_la_giai_tri_va_van_hoa_2140338.html,
142
1/2/2007.
15. Y Ban (2006), “Hãy lắng nghe tác phẩm của các nhà văn nữ”, Nguồn:
http://giaitri.vnexpress.net/tin_tuc/sach/lang_van/y_ban_lang_nghe_tac_ph am_cua_cac_nha_van_nu.2142011.html, 6/3/2006.
16. Y Ban (2012), “Nhà văn Y Ban: Món nợ văn chương”, Nguồn:
http://baotintuc.vn, 7/10/2012.
17. Nguyễn Thanh Bình (2009), “Y Ban: tôi không chủ trương viết về sex”,
Nguồn: http://www.tienphong.vn, 7/2/2009.
18. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Bình (2011), “Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 09.
20. Pierre Bourdier (2011), Sự thống trị của nam giới, (Lê Hồng Sâm dịch),
Nxb Tri thức, Hà Nội.
21. Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa – Lý thuyết thực hành (Đặng
Tuyết Anh dịch), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
22. M. Bakhatin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội.
23. Hoàng Châu (2016), “Xứ Gò Công có nữ sĩ Manh Manh”, Nguồn:
http://vnca.cnd.com.vn.
24. Nguyễn Tiến Dũng (1999), Chủ nghĩa hiện sinh: Lịch sử, sự hiện diện ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Đoàn Ánh Dương (2015), “Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam
đương đại”, Tạp chí Sông Hương, số 320.
26. Đoàn Ánh Dương (2018), Đạm Phương nữ sĩ, vấn đề phụ nữ ở nước ta,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
27. Đoàn Ánh Dương (2017), “Trải nghiệm về giới sau Đổi mới nhìn từ văn
học nữ”, Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn, 18/6/2017.
28. Đông Dương (2005), “Hiện tượng sex trong tác phẩm văn học, ưu thế thuộc
về những cây bút nữ”, Nguồn: http//tienve.org, 13/9/2005.
29. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Trương Đăng Dung (2004), “Những giới hạn của Phê bình văn học”, Tạp
143
chí Nghiên cứu văn học, số 07.
31. Trần Minh Đức (2009), “Bàn về khía cạnh trần thuật trong tiểu thuyết”,
Nguồn: http://www.talavas.org, 30/11/2009.
32. Nguyễn Đăng Điệp (2013), “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại”, Nguồn: http://phebinhvanhoc. com.vn, 20/4/2013.
33. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (tuyển chọn và biên soạn) (2011),
Thi pháp học ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Hoàng Đức (2009), “Nữ giới, nữ văn sĩ và văn giới”, Tạp chí Sông
Hương, số tháng 02.
35. Trần Thiện Đạo (2008), Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
36. Trần Văn Giáp (2003), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (tập 1 + 2), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
37. Đỗ Văn Hiểu (2016), “Tính “khả dụng” của phê bình sinh thái”, Nguồn:
http://dovanhieu.wordpress.com, 15/9/2016.
38. Trần Ngọc Hiếu (2009), “Giới thiệu Căn phòng riêng”, Nguồn:
http://www.chungta.com, 19/10/2009.
39. Lê Thị Hường (2017), “Ba mươi năm truyện ngắn nữ trong xu thế hội
nhập”, Nguồn: http://www.khoanguvandhsphue.org, 27/12/2017.
40. Đặng Thị Thái Hà (2012), “Con đường chính thống hóa lý thuyết - phê bình văn học nữ quyền”, Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn, 18/12/2012. 41. Nguyễn Tấn Hùng (2015), “Tư tưởng của Simone de Beauvoir về vấn đề nữ quyền trong tác phẩm “Giới thứ hai”, Nguồn: http://www.chungta. com, 17/9/2015.
42. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
43. Phạm Thị Huệ (2017), “Quyền lực vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt
Nam”, Tạp chí Xã hội học, số 03.
44. Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Việt Phương (2011), “Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm - một điển hình của cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức học”. Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 66.
144
45. Phạm Ngọc Hiền (2018), Thi pháp học, Nxb Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh.
46. Như Hiên - Nguyễn Ngọc Hiền (2006), Nữ sĩ Việt Nam, Nxb Văn học,
Hà Nội.
47. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 48. Đỗ Hoàng (2005), Lý thuyết giới phân tích từ tâm lý góc độ xã hội, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
49. Nguyễn Thái Hòa (2002), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
50. Lê Ngọc Hùng (2012), “Từ “Phụ nữ và văn học” đến “phụ nữ và xã hội” tìm hiểu quan niệm nữ quyền của Virginia Woolf trong “Căn phòng riêng”, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 4.
51. Ngô Quang Huy (2017), Tác phẩm Phan Khôi đọc và suy ngẫm, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
52. Trần Thiện Khanh (2016), “Văn xuôi nữ: Tiếng nói như một thân phận và
như một hành động”, Nguồn: http://vanvn.net, 31/7/2016.
53. Thụy Khuê (2018), Phê bình văn học thế kỷ XX, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 54. Thụy Khuê (2019), “Văn học miền Nam”, Nguồn: http://thuykhue.free.fr,
7/12/2019.
55. Phan Khôi (1929), “Về văn học của phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Phụ nữ Tân
Văn, Sài Gòn, số 1.
56. Phan Khôi (1929), “Văn học với nữ tánh”, Tạp chí Phụ nữ Tân Văn, Sài Gòn,
số 2.
57. Phan Khôi (1931), “Tông Nho với phụ nữ”, Nguồn: http://www.lainguyenan.
Free.tongnho, 22/9/2013.
58. Mi Ly (2012), “Xét lại thế giới đàn ông bằng cái nhìn đàn bà”, Nguồn:
http://thethaovanhoa.net, 30/12/2012.
59. Phương Lựu (2011), Lý luận văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội, Hà Nội.
60. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau
1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng (chủ biên) (1968), Việt Nam thi
nhân tiền chiến (quyển thượng), Nxb Sống Mới, Sài Gòn.
62. Lý Lan (2009), “Phê bình văn học nữ quyền”, Nguồn: http://khoavanhoc_
145
ngonngu.edu.vn, 5/3/2009.
63. Hà Linh (2010), “Tọa đàm văn học nữ quyền - chuyện cũ nói lại”, Nguồn:
http://vnexpress.net, 9/9/2010.
64. Nguyễn Bích Lan (2014), “Người phụ nữ làm thay đổi thế giới”, Nguồn:http://www.tusachcuaban.com/2014/10/nhung_nguoi_phu_nu_lam_ thay_doi_the_gioi.html, 7/8/2014.
65. Mộng Lâm (2017), “Ý thức nữ quyền trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu
Huệ và Trì Lợi”, Nguồn: http://www.vhnt.org.vn, 17/3/2017.
66. Judith Lorber (2016), “Sự đa dạng của chủ nghĩa nữ quyền và những đóng góp vào sự bình đẳng giới”, Nguồn: http://www.triethoc.edu.vn, 20/10/2016.
67. Hoàng Tố Mai (chủ biên) (2017), Phê bình sinh thái là gì?, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
68. Romul Munteanu (1978), Phê bình văn học và ý thức về tính hiện đại,
(Nguyễn Trọng Định dịch), Cahiers roumains détudes litteraire.
69. Henry Miller (2008), Thế giới tính dục (Hoài Khanh dịch), Nxb Văn hóa Sài
Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
70. Véronique Mottier (2016), Dẫn luận về tính dục (Thái An dịch), Nxb Hồng
Đức, Hà Nội.
71. Hồng Ngọc (2107), “Bí ẩn nữ tính” tạo nên cuộc cách mạng nữ quyền lần
thứ hai ở Mỹ”, Nguồn: http//phunuvietnam.net, 11/1/2017.
72. Hiền Nguyễn (2014), “Văn học nữ quyền ở Việt Nam”, Nguồn:
http://toquoc.vn, 14/8/2014.
73. Lã Nguyên (2014), “Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói”,
Nguồn: http://anguyensp.wordpress.com, 14/11/2014.
74. Đỗ Hải Ninh (2016), “Những thế hệ nhà văn Việt Nam thời kỳ đổi mới: tiếp nối và chuyển động”, Nguồn: http://www.vanvn.net, 20/5/2016.
75. Trần Thị Ánh Nguyệt (2018), “Phê bình sinh thái - vài nét phác thảo”,
Nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn, 9/5/2018.
76. Nhiều tác giả (2012), “Điểm nhìn nghệ thuật trong văn học”, Nguồn:
http://m.facebook.com, 20/2/2012.
77. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại văn học thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia,
146
Hà Nội.
78. Nhiều tác giả (2012), “Truyện ngắn là gì? Kỹ thuật viết truyện ngắn”,
Nguồn: http://diendan.hocmai.vn, 23/7/2012.
79. Nhiều tác giả (2016), Tuyển tập những tác phẩm lý luận phê bình văn học dân tộc thiểu số của nhà văn Lâm Tiến, Lâm Tú Anh, Nguyễn Đức Hạnh, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
80. Nhiều tác giả (2015), Văn hóa văn học từ một góc nhìn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
81. G.N.Pôxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử, Lại Nguyên
Ân, Lê Ngọc Trà dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Phạm Thị Thanh Phượng (2017), “Truyện ngắn nữ văn xuôi đương đại”,
Nguồn: http://nhavantphcm.com.vn
83. Nguyễn Khắc Phê (2017), “Giới thiệu sách Phan Khôi và vấn đề phụ nữ”,
Nguồn: http://baodanang.vn, 20/10/2017.
84. Hoàng Hữu Quyết (2015), “Gặp gỡ nhà văn Trần Thùy Mai - “Dị ứng” với kiểu đàn ông thích chiếm hữu”, Nguồn: http://hoanghuuquyet:vnweblogs.com, 3/8/2015.
85. Phan Quang (2011), “Đạm Phương nữ sĩ - ngôi sao đầu thế kỷ”, Nguồn:
http://dantri.com.vn, 1/6/2011.
86. Nguyễn Hưng Quốc (2010), Lý thuyết văn học: Nữ quyền luận”, Nguồn:
http://www.voatiengviet.com, 29/7/2010.
87. Trần Huyền Sâm (2010), Những vấn đề lý luận văn học phương Tây hiện
đại, Nxb Văn học, Hà Nội.
88. Trần Huyền Sâm (2015), “Tính chất tự thuật trong tiểu thuyết nữ Việt Nam
đương đại”, Nguồn: http://tonvinhvanhoadoc.vn, 17/5/2015.
89. Trần Huyền Sâm (2016), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam
đương đại, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
90. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học (2 tập), Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
91. Trần Đình Sử (2013), “Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay”,
Nguồn: http://khoavanhoc.husc.edu.vn, 5/3/2013.
92. Nguyễn Nam Trân (2010), Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, Nxb Thế
147
giới, Hà Nội.
93. Lê Ngọc Trà, Phương Lựu, Trần Đình Sử (chủ biên) (1986), Lý luận văn
học (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
94. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 95. Bùi Thanh Truyền (chủ biên) (2018), Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam
Bộ, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
96. Phùng Gia Thế, Trần Thiện Khanh (2016), Văn học và giới nữ (Một số vấn
đề lý luận và lịch sử), Nxb Thế giới, Hà Nội.
97. Lê Văn Tấn (2009), “Nhân chuyện người con gái Nam Xương bàn về vấn
đề bạo lực gia đình”, Nguồn: http://web.hanu.vn, 27/11/2009.
98. Nguyễn Thanh Tâm (2016), “Sắc thái nữ tính trong văn chương”, Nguồn:
http://m.nongnghiep.vn, 9/3/2016.
99. Nguyễn Thanh Tâm (2017), “Công chúng với vấn đề tính dục trong văn
chương”, Nguồn: http://vanvn.net, 27/10/2017.
100. Nguyễn Đình Tú (2013), “Khuynh hướng tính dục trong sáng tác văn học
gần đây”, Nguồn: http://www.chungta.com, 14/7/2013.
101. Tân Nam Tử (2015), “Nhời đàn bà”, Nguồn: http://www.tannamtu.com,
13/2/2015.
102. Bùi Thị Tỉnh (2010), Phụ nữ và giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 103. Trần Văn Toàn (2015), “Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tham luận tại Hội thảo Diễn ngôn, Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 05, 3/2/2015.
104. Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà (chủ biên) (2017), Văn học Việt Nam ba mươi năm
đổi mới (1986-2016) sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Văn học, Hà Nội.
105. Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng (chủ biên) (2012), Văn
học hậu hiện đại diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn học, Hà Nội.
106. Bùi Việt Thắng (2011), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
107. Phạm Minh Thảo (2005), Bách khoa đàn ông, Nxb Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
108. Trần Nho Thìn (2011), “Tư tưởng nữ học của Đạm Phương nữ sĩ”, Nguồn:
148
http://www.hcmup.edu.vn, 3/8/2011.
109. Trần Nho Thìn (2009), “Từ thực tiễn văn học Việt Nam góp thêm một tiếng nói phương pháp luận về cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền”, Nguồn: http://khoavanhoc.edu.vn, 23/6/2009.
110. Đỗ Lai Thúy (2003), Phân tâm học và tình yêu, Nxb Văn hóa Thông tin. 111. Đỗ Lai Thúy (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
112. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 113. Nguyễn Bích Thu (2017), “Các cây bút lý luận phê bình thời kỳ đổi mới”,
Nguồn: http://tapchicongsan.org.vn, 2/2/2017.
114. Hiền Thu (2014), “Sex - mục đích trong Bóng đè” của Đỗ Hoàng Diệu,
Nguồn: http://m.facebook.com, 1/4/2014.
115. Phùng Thủy (2007), “Lý thuyết về nữ quyền”, Nguồn: http://www.
xahoihoc.org, 11/9/2017.
116. Cao Hạnh Thủy (2017), “Phê bình nữ quyền”, Nguồn: http://khoavanhoc_ngonngu.edu.vn, 20/9/2017.
117. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học Trung đại, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
118. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017), “Phê bình từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái: sự kết hợp giữa “cách mạng giới” và “cách mạng xanh” trong nghiên cứu văn học”, Nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn, 30/6/2017.
119. Hoàng Bá Thịnh (2003), Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trên thềm thế kỷ
XXI, Nxb Thế giới, TP.HCM.
120. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
121. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình giới trong an sinh xã hội, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
122. Hoàng Bá Thịnh (2008), “Về các làn sóng nữ quyền và ảnh hưởng của nữ quyền đến địa vị của phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 4,
123. Virginia Woolf, Căn phòng riêng, (Trịnh Y Thư dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 124. Viện Văn học (2002), Nhìn lại văn học thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia,
149
Hà Nội.
125. Hồ Khánh Vân (2010), “Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa dân tộc đầu thế kỷ XX”, Nguồn: http://www.khoavanhoc.ngonngu.edu.vn, 19/4/2010.
126. Hồ Khánh Vân (2013), “Một vài lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ 1990 đến nay”, Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn, 11/4/2013.
127. Hồ Khánh Vân (2015), “Ý thức về địa vị “giới thứ hai” trong một số sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1980 đến nay”, Nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn, 15/4/2015.
128. Hồ Khánh Vân (2017), “Vài nét phác họa về tư tưởng của bốn nhà nữ quyền
tiên phong”, Nguồn: http://khoavanhoc_ngonngu.edu.vn, 9/7/2017.
129. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2013), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
130. Lê Thu Yến (chủ biên) (2001), Văn học Việt Nam trung đại, những công
trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.
131. Wikipedia, “Chủ nghĩa nữ quyền”, Nguồn: http://vi.m.wikipedia.org,
6/12/2018.
132. Wikipedia, “Châm biếm”, Nguồn: http://vi.m.wikipedia.org, 6/7/2018.
Tài liệu tiếng Anh 133. Brunell, Laura; Burkett, Elinor. “Feminism”. Encyclopaedia Britannica.
Retrieved 21 May, 2019.
134. Beasley, Chris (1999). What is Feminism?. New York: Sage. ISBN
9780761963356.
135. Spender, Dale (1983). “There’s Always Been a Women’s Movement this
150
Century”. London: Pandora Press. pp.1-200.
PHỤ LỤC
(Những tác phẩm truyện ngắn khảo sát và đối sánh, trích dẫn
trong Luận án)
136. Minh Anh (tuyển chọn) (2010), Tập truyện ngắn Phong lan rừng, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
137. Nguyễn Thái Anh (tuyển chọn) (2009), 20 truyện ngắn đặc sắc vùng cao,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
138. Y Ban (2005), Cưới chợ, Nxb Văn học, Hà Nội.
139. Y Ban (2009), Hành trình tờ tiền giả, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
140. Y Ban (2006), I’am đàn bà, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
141. Ngô Thị Kim Cúc (tuyển chọn) (2008), Truyện ngắn hay báo Thanh niên,
Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
142. Ngô Thị Kim Cúc (2015), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
143. Đỗ Hoàng Diệu (2005), Bóng đè, Nxb Đà Nẵng.
144. Thùy Dương (2015), Ngày đông có nắng, Nxb Văn học, Hà Nội.
145. Võ Thị Hảo (2005), Hồn trinh nữ, Nxb Phụ nữ, Công ty văn hóa và truyền
thông Võ Thị.
146. Võ Thị Hảo (2005), Góa phụ đen, Nxb Phụ nữ, Công ty văn hóa và truyền
thông Võ Thị.
147. Võ Thị Xuân Hà (2005), Chuyện của người con gái hát rong, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
148. Nguyễn Thị Thu Huệ (2006), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nxb
Văn học, Hà Nội.
149. Nguyễn Thị Thu Huệ (2015), Thành phố đi vắng, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
150. Nguyễn Thị Thu Huệ (2001), 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
151. Nguyễn Thị Kim Hòa (2012), Nho đắng, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, TP.
Hồ Chí Minh.
152. Đoàn Lê (2010), … và sex, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
153. Phạm Thị Phong Lan (2013), Ngược gió ngược nắng, Nxb Văn học, Hà Nội.
154. Trần Thùy Mai (2004), Đêm tái sinh, Nxb Thuận Hóa, Huế.
155. Mường Mán, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Phan Triều Hải, Nguyễn Thị Châu
Giang (2014), Ảo ảnh xanh xưa, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
156. Đào Bình Minh, Vũ Thùy An (tuyển chọn) (2011), Truyện ngắn 50 tác giả
trẻ, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
157. Lê Thị Hoài Nam (2011), Người ơi, Nxb Thuận Hóa, Huế.
158. Nguyệt Nga (tuyển chọn) (2014), Người đàn bà hát (truyện ngắn 10 tác
giả nữ đặc sắc), Nxb Văn học, Hà Nội.
159. H’Linh Niê (2009), Pơ Thi mênh mang mùa gió, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
160. Nhiều tác giả (2011), Truyện ngắn hay 2010 - 2011, Nxb Văn học, Hà Nội.
161. Nhiều tác giả (2007), Độc thoại trên tháp nhà thờ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
162. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn hay Bắc - Trung - Nam, Nxb CAND, Hà Nội.
163. Nhiều tác giả (2008), Muối của rừng (truyện ngắn tinh tuyển), Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
164. Nhiều tác giả (2012), Văn nữ Nghệ An 2000 - 2012, Nxb Nghệ An.
165. Nhiều tác giả (2013), Những thoáng trong đời (tập truyện ngắn), Nxb Văn
học, Hà Nội.
166. Nhiều tác giả (2014), Tạm biệt nỗi buồn (tập truyện ngắn), Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
167. Nhiều tác giả (2012), Truyện ngắn thời kỳ đổi mới, Nxb Dân trí, Hà Nội.
168. Nhiều tác giả (2015), Phái đẹp, cuộc đời và cây bút, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
169. Nhiều tác giả (2015), Truyện ngắn hay 2015, Nxb Văn học, Hà Nội.
170. Nhiều tác giả (2002), Truyện ngắn hay 2003, Nxb Văn học, Hà Nội.
171. Nhiều tác giả (2011), Truyện ngắn 9 cây bút nữ, Nxb Văn học, hà Nội.
172. Nhiều tác giả (2012), Truyện ngắn sông Hương 30 năm (1983 - 2013),
Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
173. Nhiều tác giả (2002), 101 truyện ngắn hay Việt Nam (tập 1), Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
174. Nhiều tác giả (2002), 101 truyện ngắn hay Việt Nam (tập 3), Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
175. Nhiều tác giả (2012), Truyện ngắn đặc sắc về người mẹ, Nxb Thanh niên,
TP. Hồ Chí Minh.
176. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn ba tác giả nữ Diệp Mai - Huệ Minh -
Thái Lê, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
177. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn nữ văn nghệ quân đội mới 2005 - 2006,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
178. Nhiều tác giả (2009), 55 truyện ngắn chọn lọc về tình yêu, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
179. Nhiều tác giả (2013), Đất tụ long, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
180. Nhiều tác giả (2008), Lạc giữa lòng Mường, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
181. Nhiều tác giả (2005), Truyện ngắn hay 2005 - 2006, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
182. Nhiều tác giả (2013), Một lần cúi, một lần thương, Nxb Văn học, Hà Nội.
183. Nhiều tác giả (2009), Truyện ngắn 50 tác giả trẻ, Nxb Thanh niên, TP. Hồ
Chí Minh.
184. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn nữ văn nghệ quân đội mới 2005 - 2006,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
185. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn ba cây bút nữ Ngân Hoa, Quế Hương,
Đỗ Bích Thúy, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
186. Nhiều tác giả (2012), Truyện ngắn đặc sắc về tình yêu, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
187. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn hay cuộc thi truyện ngắn 2006 - 2007
tạp chí Tiếp thị và gia đình, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
188. Nhiều tác giả (2011), 36 truyện ngắn tình yêu, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
189. Nhiều tác giả (2005), Văn mới 2005 - 2006, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
190. Nhiều tác giả (2005), Văn chương một thời để nhớ, Nxb Văn học, Hà Nội.
191. Nhiều tác giả (2009), 20 truyện ngắn đặc sắc, Nxb Lao động, Hà Nội.
192. Nhiều tác giả (2010), Truyện ngắn đặc sắc của các tác giả nữ, Nxb Văn
học, Hà Nội.
193. Nhiều tác giả (2015), Quê chồng, Nxb Văn học, Hà Nội.
194. Trần Thị Việt Trung, Hà Thị Cẩm Anh (2016), Tuyển tập văn xuôi Hà Thị
Cẩm Anh, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
195. Hồ Anh Thái (tuyển chọn), Văn mới 2005 - 2006, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
196. Nguyễn Thị Anh Thư (2007), Năm thằng cao kiều và truyện ngắn chọn
lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
197. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Khói trời lộng lẫy, Nxb Thời đại, Hà Nội.
198. Mai Thy (2015), Đầy tớ Mẹ xin nghỉ phép, Nxb Văn hóa - Văn nghệ TP.
Hồ Chí Minh.
199. Quang Trinh (tuyển chọn) (2013), Truyện ngắn hay 2013, Nxb Hồng Đức,
Hà Nội.