intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án - Xây Dựng Văn Hoá Công Ty

Chia sẻ: Pelun Pelun | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:36

455
lượt xem
202
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong một vài năm trở lại đây, văn hoá công ty trở thành một đề nóng trong các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa hiểu rõ về khái niệm cũng như các cấp độ biểu hiện và khía cạnh của văn hoá công ty, do đó, vẫn chưa có sự quan tâm xây dựng đúng mức yếu tố này trong công ty mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án - Xây Dựng Văn Hoá Công Ty

  1. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty Luận án Xây Dựng Văn Hoá Công Ty Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 1
  2. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..........................................................................................................2 CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN.......................................................................4 1.1 Khái niệm văn hoá và văn hoá Việt Nam……………………………. 4 1.2 Đặc trưng văn hoá 3 miền Việt Nam……………………………….. 14 1.3 Tác động của văn hoá Việt Nam đến văn hoá công ty……………… 21 CHƯƠNG 2 : XÂY DỰNG VĂN HOÁ CÔNG TY…………………………. 24 1.1 Khái niệm văn hoá công ty…………………………………………. 24 2.2 Sự hình thành văn hoá công ty………………………………………24 2.3 Nội dung văn hoá công ty……………………………………………25 2.4 Tác động của văn hoá công ty nhân viên và hoạt động kinh doanh của công ty………………………………………. 26 2.5 Nhận xét văn hoá công ty, của một công ty đang hoạt động……………………………………………………………. 27 CHƯƠNG 3 : CÁC GIẢI PHÁP DUY TRÌ VĂN HOÁ CÔNG TY………... 29 3.1 Coi trọng nhân tố con người trong văn hoá công ty…………………. 29 3.2 Giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá công ty……………………… 30 3.3 Không ngừng hoàn thiện văn hoá công ty…………………………… 31 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………….. 34 Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 2
  3. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty MỞ ĐẦU Trong một vài năm trở lại đây, văn hoá công ty trở thành một đề nóng trong các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa hiểu rõ về khái niệm cũng như các cấp độ biểu hiện và khía cạnh của văn hoá công ty, do đó, vẫn chưa có sự quan tâm xây dựng đúng mức yếu tố này trong công ty mình. Văn hóa rất quan trọng đối với cuộc sống mỗi con người,đặc biệt là giao tiếp ứng xử ở công ty làm việc.Trong một doanh nghiệp,đặc biệt là những doanh nghiệp có quy mô lớn,là tập hợp những con người khác nhau về trình độ chuyên môn,mức độ nhận thức,quan hệ xã hội,vùng miền địa lí,tư tưởng văn hoá,…cùng với sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hoá đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng và duy trì một nề nếp văn hoá đặc thù phát huy được năng lực và thúc đẩy sự đóng góp của toàn thể nhân viên. Văn hóa nơi công sở thì ai cũng biết,ai cũng muốn thực hiện tốt để đạt hiệu quả công việc cao và thành công nhất định trong cuộc sống.Nhưng việc thực hiện văn hóa nơi công ty thì không đơn giản chút nào và không phải ai cũng được suôn sẻ ,thuận lợi trong ứng xử,giao tiếp với cấp trên và cấp dưới.Đất nứơc ngày càng phát triển,con người ngày càng phải khéo léo hơn để theo kip với sự phát triển đó.Vì vậy phát triển văn hóa nơi công sở là vấn đề cần thiết và quan trọng.Nếu văn hóa công ty được chú trọng và thực hiện tốt sẽ giúp công việc được thuận lợi và xã hội sẽ văn minh hơn. Mục đích nghiên cứu văn hóa công ty là giúp mọi người hiểu được tầm quan trọng của văn hóa nơi làm việc và chúng ta có thể tham khảo những bí quyết,kĩ năng để xây dựng văn hoá doanh nghiệp ngày càng vững mạnh. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN. Trong chương này , chúng ta sẽ hiểu được khái niệm văn hoá và văn hoá Việt Nam. Đặc trưng văn hoá ba miền Việt Nam và tác động của văn hoá Việt Nam đến văn hoá công ty. Chương 2: XÂY DỰNG VĂN HOÁ CÔNG TY Chương này đề cập đến khái niệm văn hoá công ty, nội dung hình thành văn hoá công ty, tác động của văn hoá công ty đến nhân viên và hoạt dộng kinh doanh của công ty, nhận xét văn hoá công ty của một công ty đang hoạt động. Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP DUY TRÌ VĂN HOÁ CÔNG TY Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 3
  4. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty Chương này giúp ta hiểu được cách coi trọng nhân tố con người trong công ty, giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá công ty và không ngừng hoàn thiện văn hoá công ty. KẾT LUẬN Văn hoá công ty hiện nay được xem là chỉ số nhận dạng giữa các công ty với nhau và là yếu tố quyết định cho sự tồn tại lâu dài của công ty. Tuy nhiên, văn hoá công ty bao gồm nhiều cấp độ và nhiều khía cạnh khác nhau nên việc xây dựng văn hoá công ty đòi hỏi phải trải qua một thời gian dài và nhiều khó khăn. Trong giai đoạn toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, các công ty xây dựng được một nền văn hoá vững mạnh, giữ gìn các giá trị cốt lõi đồng thời biết thay đổi để phù hợp với môi trường địa phương đảm bảo sẽ phát triển và tồn tại lâu dài. Trong quá trình biên soạn bài luận này chúng tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong quý thầy cô và các bạn lượng thứ và đóng góp thêm ý kiến để bài luận của chúng tôi hoàn thiện hơn. Trân trọng. Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 4
  5. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Khái niệm văn hoá và văn hoá Việt Nam 1.1.1 Khái niệm văn hoá Muốn nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển, trước tiên phải có một khái niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng như cấu trúc của nó. Trên thực tế, cũng đã có rất nhiều người cố gắng định nghĩa văn hóa. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một sự nhất trí và cũng chưa có định nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng. Điều đó, theo tôi, có những nguyên nhân sau đây: Trước hết, trong số những người nghiên cứu văn hóa, hoặc, như người ta thường gọi, những nhà văn hóa, ngoài những định kiến và những hạn chế có tính chất lịch sử, rất nhiều người bị mắc những bệnh nghề nghiệp. Họ thường qui văn hóa vào những lĩnh vực hạn hẹp cụ thể, thường bói văn hóa, cũng như bói cuộc sống nói chung, theo kiểu thầy bói xem voi, bằng cách xem xét những bộ phận cá biệt của nó chứ chưa có một cách tiếp cận tổng thể. Thứ hai, văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp, do đó khái niệm văn hóa cũng đa nghĩa. Khi đề cập đến nó mỗi người có một cách hiểu riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận của họ là điều dễ hiểu. Thứ ba, giống như tất cả các ngành khoa học xã hội khác, ngành văn hóa học có lịch sử phát sinh và phát triển lâu dài trong lịch sử loài người. Trong quá trình lịch sử đó nội dung của khái niệm văn hóa cũng thay đổi theo. Tôi cho rằng văn hóa, nói một cách giản dị, là những gì còn lại sau những chu trình lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với nhau. Thông qua mỗi một chu kỳ của sự phát triển, dân tộc đó tương tác với mình và với những dân tộc khác, cái còn lại được gọi là bản sắc, hay còn gọi là văn hóa. Ở đây, tôi gần gũi với cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor khi ông đưa ra một định nghĩa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 5
  6. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty trong quá khử cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ,nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng địinh bản sắc riêng của mình". Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng nếu xem xét kỹ thì lại có những điểm riêng biệt. Trong thực tế, không có sự giống nhau tuyệt đối. Gần đây, có ý kiến cho rằng trên thế giới đang diễn ra hiện tượng xâm lược về văn hóa như là sự tiếp tục của những cuộc xâm lược bằng súng đạn và kinh tế. Tôi không đồng ý như vậy. Bởi văn hóa là hoà bình, văn hóa là không xâm lược. Cảm giác bị xâm lược, nếu có, chẳng qua là cái cảm giác và sĩ diện của kẻ yếu. Chúng ta đang sống trong một thế giới duy nhất và cũng có thể nói là thống nhất. Chúng ta phải bắt đầu từ mô hình kinh tế mà Alvin Tofler từng mô tả bằng hình ảnh "con tàu vũ trụ”. Trái đất là một kho chứa hữu hạn các nguồn năng lượng sống và toàn cầu hóa là một quá trình để tiết kiệm nguồn năng lượng ấy bằng cách đảm bảo không sản xuất thừa, không sử đụng nguyên liệu một cách bừa bãi trên phạm vi toàn cầu. Nhưng cùng với quá trình hội nhập về mặt kinh tế còn có một quá trình khác luôn luôn tồn tại bên cạnh, và thậm chí đã đi trước, đó là sự hội nhập về mặt văn hóa. Sự hội nhập về mặt văn hóa chính là quá trình con người đi tìm ngôn ngữ chung cho một cuộc sống chung. Quan niệm về sự xâm lược văn hóa là quan niệm của những cộng đồng người chỉ có kinh nghiệm hình thành trong quan hệ phát triển lưỡng cực, những kinh nghiệm chiến tranh, nhất là chiến tranh lạnh. Văn hóa không phải là ý thức của tôi, của anh hay của bất kỳ ai, mà thuộc về con người một cách tự nhiên. Con người khi sống chung với nhau sẽ gây ảnh hưởng lẫn nhau. Đến phương Tây ta sẽ nhìn thấy rằng trong ngôi nhà nào của người Mỹ, người Anh, người Pháp...cũng có một vài vật dụng gì đó, một vài thứ souvenirs gì đó từ phương Đông. Đôi khi trong xã hội phương Tây người ta có xu hướng xem sự hiện hữu của một vài kỷ vật, một vài đồ trang trí từ phương Đông như là dấu hiệu của tầng lớp thượng lưu hoặc văn minh. Đó là sự đan xen lẫn nhau của cuộc sống, đấy là sự chung sống hoà bình của quá khứ, và đấy cũng chính là cơ sở văn hóa của sự chung sống hoà bình trong tương lai. 1.1.2 Văn hoá Việt Nam Đời sống gia đình: Trong xã hội truyền thống Việt Nam trước đây, một gia đình điển hình thường bao gồm ba, bốn thế hệ cùng sống chung. Với tâm lý “nhiều con, nhiều lộc” nên mọi gia đình mong muốn “con đàn, cháu đống”. Do ảnh hưởng Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 6
  7. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty tư tưởng Nho giáo và quan niệm phong kiến “trọng nam, khinh nữ”, con trai luôn được coi là trụ cột trong gia đình và có tiếng nói quyết định. Còn phụ nữ phải tuân thủ lễ giáo phong kiến ‘tam tòng, tứ đức” (Tam tòng: lúc nhỏ sống dựa vào cha, lớn lên lấy chồng phải tuân thủ theo chồng, chồng chết phải ở vậy sống theo con trai; Tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh). Kể từ khi đất nước thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản luật, điển hình là Luật Hôn nhân và Gia đình để điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình cho bình đẳng hơn. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp tuyên truyền vận động cũng được thực hiện nhằm thay đổi nhận thức lạc hậu của người dân, bảo đảm bình đẳng giới, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của phụ nữ. Ngày nay, quy mô một gia đình hiện đại Việt Nam có xu hướng thu hẹp lại, chỉ 2-3 thế hệ. Số con của một cặp vợ chồng là hai (chiếm đa số), tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” không nặng nề như xưa và dần dần bị loại bỏ. Truyền thống “kính trên, nhường dưới” có từ xa xưa vẫn luôn được duy trì và phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam. Trang phục : Hầu hết các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đều có trang phục riêng mang đậm bản sắc truyền thống của dân tộc mình. Nhìn chung đa phần trang phục của các dân tộc được trang trí hoa văn có màu sắc rực rỡ, tương phản: đen - trắng, đen - đỏ, xanh - đỏ hoặc xanh - trắng và được dệt từ sợi có nguồn gốc tự nhiên như sợi gai, tơ tằm, tơ dứa, sợi bông..., vừa đẹp, vừa bền mà thoáng mát, phù hợp khí hậu nhiệt đới. Thường phục truyền thống của người Việt đối với đàn ông là quần trắng, áo nâu, đầu vấn khăn, chân đi guốc hoặc dép. Bộ lễ phục thêm áo dài đen bằng vải hoặc the, đầu đội khăn xếp. Đối với phụ nữ, trang phục cầu kỳ và rực rỡ hơn: váy đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Bộ lễ phục gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là chiếc áo tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Trong cùng là chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông rất duyên dáng và kín đáo. Cách ăn mặc truyền thống này đã mang đến cho người phụ nữ Việt một vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng, thướt tha. Ngày nay, trang phục truyền thống của người Việt đã thay đổi. Bộ âu phục thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc áo dài khởi phát từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn, được phụ nữ Việt Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 7
  8. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty Nam ưa thích mặc vào nhiều dịp lễ hội quan trọng trong năm. Chiếc áo dài hiện tại có thân tương đối bó sát thân người, hai tà áo thả xuống ngang nửa ống chân, làm cho thân thể người phụ nữ hiện lên những đường cong mềm mại, dịu dàng nhưng kín đáo, phù hợp với vóc dáng nhỏ nhắn của người phụ nữ Việt Nam. Hiện nay, việc giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới ngày càng mở rộng, trang phục của người Việt nam ngày càng phong phú và mang tính hòa nhập và thời trang hơn, nhất là trong giới trẻ ở thành phố. Một số lễ hội lớn của Việt Nam: Sinh hoạt lễ hội là loại hình văn hóa dân gian đặc trưng tại mọi miền trên đất nước Việt Nam. Trong tâm lý và tình cảm, lễ hội mang lại sự thanh thản cho con người Việt Nam, gạt đi những lo toan thường nhật, tăng thêm sự gắn bó và tình yêu đối với thiên nhiên, đất nước. Là một nước nông nghiệp, nên hầu hết các lễ hội diễn ra vào lúc “nông nhàn” - mùa xuân và mùa thu, trong đó có một số lễ hội chung cho mọi người trên khắp đất nước như Tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Bẩy, Rằm Tháng Tám, Giỗ tổ Hùng Vương... Tết Nguyên Đán (thường vào cuối tháng Một, đầu tháng Hai hàng năm): Là Lễ hội lớn nhất trong các Lễ hội truyền thống Việt Nam. Đây là dịp cả gia đình xum họp, cùng nhau thưởng thức những món ăn truyền thống, đi thăm hỏi và chúc tụng những người trong gia tộc, bạn bè, đồng nghiệp. Trong quan niệm của mọi người, Tết là sự kết thúc của năm cũ - kết thúc của những điều xấu, rủi ro để bước sang năm mới với những điều tốt lành sẽ đến. Giao thừa là lúc thiêng liêng nhất; mọi gia đình đều lấy khoảnh khắc này để đặt lễ, thắp hương thờ cúng thần linh, tổ tiên. Ngoài việc cúng giao thừa, còn nhiều tập tục vẫn được duy trì vào dịp Tết như xông đất, hái lộc, mừng tuổi. Lễ Vu Lan (Rằm tháng Bảy âm lịch): Lễ Vu Lan là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất - một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng ”ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Theo Phật giáo, ngày này các âm hồn được lên trần hưởng lộc. Hầu hết các gia đình đều làm cỗ cúng gia tiên; cúng xong đốt vàng mã cho vong hồn dùng. Rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân mà gọi nôm na theo dân gian là ngày cúng chúng sinh. Lễ vật gồm có cháo, bỏng gạo, bánh đa, bánh kẹo, hoa quả… để cúng cho những cô hồn lang thang, không người hương khói. Tết Trung Thu (Rằm tháng Tám âm lịch): Tết Trung thu, còn gọi là ”Tết trông Trăng”, là ngày Tết dành cho trẻ em. Trẻ em rất mong đợi được đón Tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi như đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 8
  9. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty quân, bánh nướng, bánh dẻo...Tối đêm Rằm, hầu hết các gia đình có trẻ em đều có mâm cỗ trông trăng. Cỗ trung thu chủ yếu là bánh kẹo và hoa quả được tạo thành các con giống bày trên mâm cỗ. Đêm Rằm, không khí thật náo nhiệt bởi tiếng vui đùa, múa hát của trẻ nhỏ, kết hợp với ánh sáng của trăng, đèn và nến... Một số nơi còn tổ chức các trò chơi như rước đèn, múa Lân, múa Sư tử, múa Rồng... cho các em nhỏ vui chơi. Giỗ tổ Hùng Vương: Ngày 10/3 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ tổ Vua Hùng. Ngày Giỗ tổ được tổ chức tại khắp mọi miền đất nước Việt Nam và cả ở nhiều nước trên thế giới, nơi có đông cộng đồng người Việt Nam sinh sống. Nơi tổ chức Lễ Giỗ tổ chính thức là Phú Thọ (kinh đô của Nhà nước đầu tiên của Việt Nam – Văn Lang), nơi đặt Đền thờ 18 vị Vua Hùng. Những lễ phẩm có tính chất tục lệ của Việt Nam được làm ra và dâng cúng vào dịp này gồm đèn, hương, rượu, trầu cau, nước lã, bánh trưng, bánh dày. Từ năm 2007, Giỗ tổ Hùng Vương chính thức được công nhận là ngày Quốc lễ của Việt Nam. Đền thờ Vua Hùng Phong Châu, Phú Thọ Văn học: Việt Nam có một nền văn học phát triển khá sớm mang bản sắc riêng. Là một quốc gia có nhiều dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc đều có nền văn học riêng của mình, tất cả tạo nên một nền văn học Việt Nam đa bản sắc. Văn học cổ: bao gồm dòng văn học dân gian, văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Dòng văn học dân gian xuất hiện trong quá trình lao động sản xuất, xây dựng và đấu tranh ngay từ thuở sơ khai, chủ yếu là truyền miệng dưới nhiều hình thức khác nhau như truyện kể, thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, ca dao, câu đố, vè... được truyền từ đời này sang đời khác. Dòng văn học chữ Hán: Chữ Hán bắt đầu du nhập vào Việt Nam từ đầu thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Sau khi giành được độc lập dân tộc (năm 938), các triều đại phong kiến Việt Nam, với tinh thần tự lực, tự cường đã phát triển nền văn học Việt Nam và sử dụng chữ Hán để ghi lại. Nhiều áng văn thơ bất hủ bằng chữ Hán còn lưu lại đến ngày nay như Bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Hịch Tướng Sỹ của Trần Hưng Đạo; Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu. Dòng văn học chữ Nôm: Chữ Nôm được Việt hóa từ chữ Hán. Văn học chữ Nôm xuất hiện từ thế kỷ VIII, được phát triển đỉnh cao vào thế kỷ XVIII và tiếp tục phát triển tới đầu thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm nổi tiếng được lưu danh tới ngày nay như Bình Ngô Đại Cáo, Quốc Âm Thi Tập với 254 bài thơ của đại danh nhân Văn hóa Thế giới Nguyễn Trãi; tác phẩm Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của Vua Lê Thánh Tông; Bách Vân Thi Tập của nhà học giả Nguyễn Bỉnh Khiêm; Chinh Phụ Ngâm của Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 9
  10. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty Đặng Trần Côn; những bài thơ thể hiện khát vọng cho quyền bình đẳng nam nữ trong chế độ phong kiến của “Bà Chúa Thơ Nôm” Hồ Xuân Hương… Đỉnh cao phát triển của văn học của thời kỳ này là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Bên cạnh đó, những tác phẩm lịch sử viết bằng chữ Nôm cũng xuất hiện nhiều như bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của các sử thần nhà Lê (Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên, Vũ Quỳnh) hay Lê Triều Thông Sử của học giả Lê Quý Đôn… Văn học hiện đại: Việc xuất hiện chữ Quốc ngữ là tiền đề sản sinh nền văn học mới, văn học hiện đại đầu thế kỷ 18. Dòng văn học hiện thực phê phán và phong trào thơ mới lãng mạn đã đóng góp những tác phẩm nổi tiếng cho nền văn học hiện đại Việt Nam với các tên tuổi như Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Trọng Thuật, Trương Vĩnh Ký, Tản Đà, Thế Lữ, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nam Cao… Văn học Cách mạng Việt Nam bắt đầu từ 1945 đến nay: Thời kỳ 1945-1975: Văn học thể hiện khát vọng của toàn dân tộc mong muốn hòa bình, độc lập, kêu gọi mọi người dân đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.… Kể từ khi đất nước thống nhất năm 1975, với chủ trương “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, giới văn nghệ sỹ Việt Nam đi sâu phản ánh nhiều mặt đời sống xã hội, kêu gọi toàn dân chung sức xây dựng một đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”. Nền văn học Việt Nam, với sự đóng góp của hàng nghìn nhà thơ, nhà văn, ngày càng phát triển nhanh với các loại hình: văn xuôi, thơ, phê bình lý luận... đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam. Nghệ thuật biểu diễn: Trong nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam, có nhiều thể loại như chèo, tuồng, cải lương, rối nước, ca múa nhạc cung đình, hát quan họ, chầu văn, ca trù, hát then, lý Nam Bộ… nhưng phổ biến nhất và thường được biểu diễn nhiều nhất là chèo, tuồng, cải lương, hát quan họ, rối nước, lý Nam Bộ và nhã nhạc (một hình thức của ca múa nhạc cung đình). Dưới đây là sơ lược một vài loại hình trong nghệ thuật biểu diễn. Ca múa nhạc cung đình: Ca múa nhạc cung đình phát triển mạnh vào triều đại vua Lê Thái Tông với nhiều loại hình ca múa nhạc phong phú như Trung cung chỉ nhạc, Yến nhạc, Nhã nhạc, Đại nhạc, Văn vũ, Võ vũ… Dưới triều nhà Nguyễn, ca múa nhạc cung đình phát triển rực rỡ với những điệu múa Bát dật biểu diễn Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 10
  11. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty trong các lễ tế trời của các vị vua Triều Nguyễn tại Đàn Nam Giao, Múa quạt, Tam tinh Chúc thọ, Bát tiên hiến, Lục triệt hoa mã đăng, Lục cúng hoa đăng trong các nghi lễ của triều đình phong kiến. Nhiều điệu múa, bản nhạc cung đình còn được lưu giữ và phát triển cho đến ngày nay. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới năm 2003. Múa rối nước: Múa rối nước xuất hiện từ thời Lý (1009 - 1225). Một vở rối nước thường có nhiều nhân vật. Mỗi nhân vật (con rối) là một tác phẩm điêu khắc dân gian, mang dáng vẻ khác nhau, tính cách khác nhau. Con rối được làm bằng gỗ, bên ngoài phủ lớp chống thấm nước. Nhân vật tiêu biểu của rối nước là chú Tễu với thân hình tròn trĩnh và nụ cười hóm hỉnh lạc quan. Nghệ nhân biểu diễn múa rối phải ngâm mình dưới nước sau màn sân khấu để điều khiển con rối thông qua máy sào, máy dây. Nhạc đệm cho cuộc diễn là bộ gõ gồm trống, mõ, thanh la… Nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam là loại hình sân khấu cổ truyền, độc đáo được khán giả nhiều nước trên thế giới ưa chuộng. Chèo: Bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống tiêu biểu nhất của Việt Nam. Lúc đầu xuất hiện ở các làng quê, dần trở thành loại hình sân khấu tiêu biểu của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong tích trò. Văn chèo tự sự (kể chuyện) mang đậm tính trữ tình của ca dao, tục ngữ; tràn đầy tính lạc quan trong những cái cười dân dã, thông minh, hóm hỉnh, trí tuệ; tính nhân văn rất rõ nét; thể hiện khát khao vươn tới hạnh phúc và xã hội hòa thuận, bảo vệ quyền con người; cái thiện luôn thắng cái ác. Nhân vật trong chèo mang tính ước lệ, chuẩn hóa với tính cách và tâm lý không thay đổi trong suốt vở. Một số vở chèo nổi tiếng thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ khán giả là Quan Âm Thị Kính, Chu Mãi Thần, Kim Nhan… được xếp vào vốn quý của sân khấu cổ truyền dân tộc Việt Nam. Tuồng: còn gọi là hát bội, bộ môn nghệ thuật cổ điển và bác học bậc nhất Việt Nam, một loại văn nghệ trình diễn cổ truyền ở Việt Nam, phát triển từ loại hình sân khấu dân gian của văn học Việt Nam, được hình thành trên cơ sở ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của dân tộc Việt Nam. Ðến cuối thế kỷ XVIII, Tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh về mọi mặt từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn. Ngày nay môn nghệ thuật này vẫn được coi là “quốc hồn, quốc túy” của người Việt, sánh như Kinh kịch của Trung Quốc hay kịch Noh của Nhật Bản. Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 11
  12. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty Cải lương: là loại hình sân khấu kịch hát dân tộc ra đời vào đầu thế kỷ 20. Nguồn gốc của cải lương là các bài hát lý, ca nhạc tài tử ở miền Tây Nam Bộ. Cải lương sử dụng nhiều cách diễn, âm nhạc của tuồng Việt Nam. Cũng như các nghệ thuật kịch hát dân tộc khác, cải lương bao gồm múa, hát, âm nhạc. Nhạc cụ chủ đạo trong dàn nhạc cải lương là đàn ghi ta phím lõm và đàn nguyệt. Nhiều vở diễn đã thu hút sự quan tâm của người hâm mộ như Lục Vân Tiên, Lưu Bình Dương Lễ, Đời Cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt và Mộng Hoa Vương, Nửa đời hương phấn, Chim Việt cành Nam, Thái hậu Dương Vân Nga… Hát quan họ (hay Quan họ Bắc Ninh): bắt nguồn từ những lối hát đối đáp nam nữ có từ lâu đời. Hát quan họ chủ yếu chỉ được tổ chức ở mỗi làng, mỗi năm một lần vào dịp hội làng. Nó gắn liền với tục kết bạn nam nữ, kết nghĩa giữa hai làng khác nhau. Hát quan họ bao giờ cũng hát đôi, trình tự hát vừa theo nội dung vừa theo làn điệu, đối lời kèm theo đối giọng. Hơn 180 làn điệu quan họ còn lưu giữ đến nay đều mang nội dung giao duyên trữ tình thắm thiết, với lời hay, ý đẹp, ngôn ngữ bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc, với âm điệu phong phú, trữ tình, với lối hát mượt mà, kỹ thuật “vang rền nền nảy” độc đáo. Tất cả điều này đã làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ Bắc Ninh. Kiến trúc Việt Nam Kiến trúc dân gian: bao gồm kiến trúc gỗ, kiến trúc gạch đá, kiến trúc tre nứa lá khá phổ biến ở khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Trong khi kiến trúc tranh nứa lá phổ biến dưới dạng nhà ở của những cư dân tại nhiều vùng nông thôn Việt Nam thì kiến trúc gỗ phổ biến và tiêu biểu nhất lại thể hiện dưới dạng chùa, đình, nhà của những gia đình giàu có trên khắp đất nước. Có thể điểm tên một số di tích về kiến trúc gỗ như Chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Bối Khê, chùa Thái Lạc, chùa Keo, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương, đình Đình Bảng, những ngôi nhà cổ tại các thành phố lớn, nhất là tại Hà Nội, Hội An và Huế... Kiến trúc gạch đá: tiêu biểu được lưu giữ đến ngày nay là tháp chùa (tháp Hòa Phong, tháp Báo Thiên, tháp chùa Phổ Minh, tháp chùa Thiên Mụ…), cổng thành, tường thành (cổng thành nhà Hồ, cổng thành Hà Nội…), tam quan chùa đền (tam quan Văn Miếu, tam quan Trấn Vũ, cửa Hiển Nhân), Cột cờ Hà Nội, cửa Ngọ Môn Huế... Kiến trúc gạch đá còn một bộ phận đáng kể các đền đài do người Chăm xây dựng (thường gọi là tháp Chăm) nằm rải rác từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận, tiêu biểu và tập trung nhất ở Khu di tích Mỹ Sơn. Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 12
  13. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty Kiến trúc ngoại du: Từ thế kỷ 19, kiến trúc Việt Nam có sự chuyển hóa, hòa trộn giữa hai trường phái kiến trúc của Châu Âu, Bắc Mỹ và kiến trúc truyền thống Á Đông. Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng với những khu phố theo kiểu ô bàn cờ thuận lợi cho việc đi lại. Nhiều tòa nhà đươc xây dựng theo phong cách cổ điển Châu Âu mà tiêu biểu là Phủ Chủ tịch, Tòa án Tối cao, Nhà hát lớn Hà Nội, Ngân hàng Ngoại thương, Bộ Ngoại giao, Tòa Thị chính Sài Gòn, Bưu điện Trung tâm thành phố Sài Gòn, một số biệt thự… Bức tranh kiến trúc thời kỳ này xuất hiện những nét mới, đó là những nhà thờ đạo Thiên Chúa ở Sài Gòn, Hà Nội, Huế và xứ đạo các địa phương. Một điều khá thú vị là ngay cả những công trình kiến trúc mang đậm phong cách châu Âu ấy khi xây ở Việt Nam lại được pha lẫn bóng dáng đình chùa và những nét kiến trúc truyền thống của Việt Nam, mà tiêu biểu nhất là nhà thờ Phát Diệm. Giai đoạn 1954–1975: ở Miền Bắc nhiều công trình được dựng lên theo kiểu kiến trúc của Liên Xô (cũ) như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cung Văn hóa Hữu nghị…; ở miền Nam nhiều tòa nhà được xây theo lối kiến trúc Mỹ mà tiêu biểu là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Dinh Độc lập… Kiến trúc giai đoạn Đổi mới: Nhiều công trình lớn hiện đại với phong cách kiến trúc khác nhau như các khách sạn, tòa nhà văn phòng liên doanh (Horison, Tháp Hà Nội, Sophitel Plaza, Omni, New World…), các khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Ciputra... được xây dựng. Giống như nhiều quốc gia khác, kiến trúc ngày nay thường bao gồm 4 mảng chính: thiết kế nội thất, thiết kế kiến trúc, thiết kế quy hoạch đô thị, thiết kế môi trường và quy hoạch vùng. Hội họa và điêu khắc Tranh dân gian: Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết và tranh Thờ. Tranh dân gian gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh. Tranh dân gian thường được in với kỹ thuật khắc ván để in với số lượng lớn. Tranh dân gian phát triển khá mạnh vào thế kỷ thứ 16, sang thế kỷ thứ 18, 19 phát triển ổn định ở mức cao. Dựa vào phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên liệu làm tranh, có thể quy về một số dòng tranh khác nhau. Tranh dân gian ngày nay hầu hết đã bị thất truyền. Trong số ít dòng tranh còn tồn tại và được bảo tồn có dòng tranh Đông Hồ được bảo tồn, phát triển và hiện có mặt ở nhiều nước như Nhật, Pháp, Mỹ… Đông Hồ là một làng nhỏ nằm ven bờ nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh. Nghệ thuật làm tranh Đông Hồ từ các khâu như vẽ mẫu, khắc bản in, sản xuất giấy, chế biến màu, rồi đến các khâu in vẽ tranh đều có Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 13
  14. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty những điểm độc đáo về kỹ thuật, mỹ thuật (màu được chế biến từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên; giấy dó làm tranh là loại giấy làm thủ công). Hội họa đương đại: Việc thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1924 là một bước chuyển quan trọng trong phát triển nền nghệ thuật tạo hình đương đại của Việt Nam. Tên tuổi của lớp họa sỹ đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương gắn liền với những tác phẩm nổi tiếng được thế giới biết đến như “Phố cổ Hà Nội” của Bùi Xuân Phái, bức tranh lụa “Chơi ô ăn quan” của Nguyễn Phan Chánh, “Em Thúy” của Trần Văn Cẩn hay “Thiếu nữ bên hoa Huệ” của Tô Ngọc Vân, tranh sơn mài “Bên Hồ Gươm” của Nguyễn Gia Trí, tranh sơn mài “Tiễn anh khóa đi thi” của Tô Ngọc Vân. Đây là những kiệt tác nghệ thuật vô giá trong kho tàng văn hóa của Việt Nam. Lớp họa sỹ ngày nay, kế tiếp lớp đàn anh, chú trọng tiếp nhận tinh hoa nghệ thuật thế giới, đồng thời tìm tòi phong cách thể hiện mới cho hội họa Việt Nam như sơn dầu, sơn mài, tranh lụa... Tên tuổi lớp họa sỹ này được nhiều người biết đến thông qua những tác phẩm của họ là Lưu Công Nhân, Phạm Công Thành, Nguyễn Thụ, Đặng Xuân Hòa, Thành Chương... đang góp phần làm phong phú thêm kho tàng mỹ thuật đương đại Việt Nam. Điêu khắc cổ: Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một lịch sử phát triển liên tục và cô đúc hình ảnh con người Việt Nam từng miền, từng thời, dù dưới dạng thần linh hay con người thế tục. Nền điêu khắc cổ Việt Nam rất đa dạng nhưng chủ yếu tồn tại các bộ phận điêu khắc sau: Điêu khắc thời tiền sử với những hình điêu khắc trên đá, trong hang động, trên trống đồng, các đồ gia dụng…; điêu khắc vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ; điêu khắc Chăm Pa ở Trung Nam Bộ; điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ; điêu khắc nhà mồ của thổ dân Tây Nguyên. Mặc dù trải qua bao năm tháng chiến tranh, nhưng hiện nay ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam vẫn bảo tồn được nhiều đình, chùa miếu mạo với nhiều tượng Phật và các phù điêu. Thủ công mỹ nghệ truyền thống : Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam có lịch sử lâu đời và phong phú với nhiều mặt hàng nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Các sản phẩm gốm, sơn mài, lụa, mây tre… có mặt tại nhiều nơi trên thế giới và được ưa chuộng. Một số nghề vẫn còn lưu giữ và phát triển tới ngày hôm nay, tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho nhiều lao động, đóng góp lớn cho xuất khẩu như nghề làm gốm, dệt lụa, sơn mài, đan lát mây tre, đan nón, đúc đồng, làm đồ gỗ… Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 14
  15. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty Nổi bật trong số các nghề truyền thống là: Nghề gốm với nhiều loại sản phẩm khác nhau phục vụ nhu cầu dân dụng và công nghiệp. Ở Việt Nam có nhiều nơi làm nghề gốm như Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Đồng Nai, Đồng Tháp và Bát Tràng của Hà Nội, gốm Chăm. Nghề dệt lụa: xuất hiện từ rất sớm trên khắp đất nước Việt Nam, nhưng nổi tiếng và còn bảo tồn và phát triển tới ngày hôm nay có Vạn Phúc (Hà Đông), Phương Tành - Trực Ninh (Nam Định). Từ thế kỷ XV, lụa Việt Nam đã theo chân các thương gia và được nhiều nơi trên thế giới biết đến. Nghề đan lát mây tre: Với lịch sử hàng nghìn năm, nghề này gắn liền với các loại nguyên liệu tự nhiên sẵn có tại khắp các miền trên đất nước Việt Nam. Bàn tay khéo léo của người thợ thủ công Việt Nam đã cho ra đời nhiều mẫu mã đẹp, hấp dẫn như bàn ghế, gường tủ, khay bàn hoa quả, lẵng cắm hoa…. Những địa phương nổi tiếng làm những mặt hàng này phải kể đến Hà Tây, Thanh Hóa. 1.2 Đăc trưng văn hoá 3 miền. Miền Nam Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và phong phú. Nam bộ tuy là vùng đất tổ tiên ta mới khai phá lập nghiệp hơn 300 năm, nhưng văn hóa của nông thôn Nam bộ bắt nguồn từ nền văn hóa chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam có hơn 2000 năm lịch sử. Những người nông dân có mặt ở vùng đất Nam bộ này hơn 200 năm trước đây là những nông dân đến từ nhiều vùng ở miền Trung, miền Bắc. Tuy buổi đầu lập nghiệp trên vùng đất hoang sơ trăm đắng ngàn cay bời rừng thiêng nước độc, thú dữ, người nông dân thiếu cả công cụ, phương tiện lao động… nhưng mọi người kiên cường bám trụ “đến đây thì ở tại đây trăm năm bám rễ xanh cây không về”. Tấm lòng người nông dân Nam bộ xưa nay luôn đức độ bao dung, sẵn sàng tha thứ cho những ai biết hối cải lỗi lầm, nhưng cũng không tha thử kẻ gian ác, điêu ngoa. Họ coi trọng nhân-nghĩa-trí-dũng-liêm, lòng thương người bao la vô tận, nhưng rất ghét bọn gian tà, tham nhũng, xu nịnh, những kẻ “tham phú phụ bần” Nền kinh tế Nam Bộ ngày càng phát triển, đường giao thông ngày càng thuận lợi, sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội của nông dân các làng quê ngày càng mở rộng, các phong tục, tập quán từ việc ăn, ở, giao tiếp, sinh hoạt văn hóa, lễ hội đến đám cưới, đám tang… của nông dân Nam bộ cơ bản là giống nhau. Thực hiện nghị quyết của Ðảng và sự hướng dẫn của Hội Nông dân, của các ngành, những năm qua nông dân Nam Bộ chẳng những phát huy nền văn hóa đậm Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 15
  16. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty đà bản sắc dân tộc mà từng bước xây dựng nền văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa. Cuộc vận động của Hội Nông dân xây dựng “gia đình tiêu chuẩn” trước đây và cuộc vận động “xây dựng gia đình nông dân văn hóa”, tham gia xây dựng nông thôn, ấp bản làng văn hóa hiện nay ngày càng có nhiều gia đình nông dân hưởng ứng và đạt danh hiệu đó. Cuối năm 2000 Hội Nông dân các địa phương, cơ sở cùng mặt trận, ngành văn hóa Thông tin, các cấp chính quyền đã bình xét hộ nông dân đại tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Kết quả các tỉnh Nam Bộ mỗi nơi 5-7 vạn, có tỉnh hơn 10 vạn hộ “gia đình nông dân văn hóa”. Ðể đạt được gia đình nông dân văn hóa, cán bộ hội viên nông dân phải phấn đấu làm nhiều việc tốt ích nước lợi nhà, cụ thể là thực hiện tốt các phong trào cách mạng theo sự hướng dẫn của Hội Nông dân Việt Nam. Và, Hội Nông dân các địa phương, cơ sở ở Nam bộ đã phối hợp với các ngành, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, các cơ quan thông tin đại chúng, cùng chung lo nâng cao dân trí, kiến thức khoa học, vốn, vật tư nông nghiệp cho nông dân để thi đua sản xuất làm giỏi làm giàu, tổ chức các phong trào hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, tổ chức các hội thi kiến thức nhà nông, hội trại nhà nông, nhà nông đua tài, liên hoan nghệ thuật nông dân, vận động nông dân tham gia kinh tế hợp tác hợp tác xã… Các phong trào cách mạng và vận động xây dựng gia đình nông dân văn hóa còn nhằm từng bước khắc phục những phong tục, tập quán lạc hậu trong sản xuất và đời sống nông dân. Ðồng thời, khắc phục những tồn tại ấy trên cơ sở không ngừng nâng cao dân trí, kiến thức khoa học, phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống vật chất, đời sống văn hóa, làm cho hàng triệu nông dân và làm cho mảnh đất Nam Bộ giàu truyền thống. Miền Trung Một miền đất khó sống cũng có nghĩa là nơi dưỡng tồn tính cách không thể dịu dàng. Ta dễ dàng gặp ở chợ, những lời đay nghiến của người bán hàng lúc bị ai đó làm mất “mày xưa”, sợi dây buộc cua biển to hơn cả...cái càng cua, các món ăn cay và mặn đến nghẹn thở... Tính cách nóng nảy, phân chia thật rạch ròi ranh giới của cái có thể chịu đựng được và cái không thể chịu đựng được; cái khó sống và cái phải sống; cái bất thường của thời tiết, số phận (nghiệt ngã) với cái cần thiết lâu dài làm nên cuộc sống đã tạo ra đặc tính của người miền Trung. Chính yếu tố này đã tạo ra những dấu ấn đặc biệt. Hò Sông Mã, hát giặm, hát ví Nghệ Tĩnh, ca Huế, hò Huế, dân ca Nam Trung bộ và Nhã nhạc cung đình Huế - cả thảy có 7 loại hình, quả là một sự vượt trội so với 4 ở miền Bắc và 1 ở miền Nam. Tất nhiên không loại trừ các yếu tố đan xen của văn hoá Chăm pa, Tây Nguyên...đã Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 16
  17. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty tạo nên sự cộng hưởng, biến thể và biến thái của miền Trung. Tôi cảm nhận ca dao, dân ca miền Trung không lả lướt, uyển nhẹ như dân ca Bắc bộ, không có cái tôi cô đơn, khắc khoải và sâu thẳm như dân ca Nam bộ nhưng thật da diết và nhiều lắm những trăn trở, những nỗi buồn. Cuộc sống nghèo khó triền miên làm cho miền Trung - nhất là Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế quanh năm ăn khoai, sắn, cơm với muối, với mè, mắm ruốc. Vì vậy, thói ăn mặn gần như trở thành máu thịt, khẩu vị của người miền Trung. Ăn mặn, ăn ít, ăn lấy cảnh những món ăn ngon (bởi đâu có nhiều để mà ăn) là thuộc tính Cái cay đắng của cuộc sống đã tạo nên nhu cầu bứt phá, thay đổi cũng như khả năng chịu đựng đến mức phi thường. Rất nhiều người Thanh Nghệ đã đi theo Nguyễn Hoàng. Không ít người miền Trung đã thành đạt, có tiếng tăm từ cái nhu cầu bứt phá. Sự gan lỳ, ý nghĩ chấp nhận, liều mình đã làm cho miền Trung tự lâu đời là nôi thành công của Lê Lợi, nơi sinh ra của kiêu binh thời Trịnh Nguyễn, bãi chiến trường của nhiều cuộc chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà Bắc Trung bộ là nơi đến của vua Hàm Nghi. Càng không ngẫu nhiên miền Trung đã sinh ra những con người mà sự nghiệp của họ gắn liền với cái bất tử như Lê Lợi, Nguyễn Hoàng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Hồng Thái, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Duẩn, Võ Nguyễn Giáp và Hồ Chí Minh... Trong cái dòng chảy của đòi hỏi bứt phá, gắn với nhu cầu thay đổi thực sự của số kiếp con người dưới chế độ phong kiến là sự học. Miền Trung ươm gieo rồi gặt hái, đóng góp cho đất nước nhiều nhân tài. Bắc Hà nổi tiếng với tầng lớp nho sĩ uyên bác, thâm nho, sâu sắc đến từng câu chữ. Miền Trung có hình ảnh tiêu biểu ông đồ xứ Nghệ. Tất nhiên đi kèm theo đó là cái cười đắng cay, chua chát về cái khổ, cái chịu đựng ghê ghớm qua hình tượng con cá gỗ. Rộng lắm ở miền đất chật lắm - đó cũng là một trong những điều cao ngạo nhiều khi thái quá ở mảnh đất này. Đất miền Trung đã “phát minh” ra nhiều từ ngạo mạn. Huế có từ “chơ mấy”. Quảng Trị có từ “vẹ”. Nghệ Tĩnh có từ “phút mốt”. Đà Nẵng, Quảng Nam có từ “nghe chưa” Đó là kết quả của sự kết hợp giữa tài năng với sự khốn cùng Đặc điểm văn hoá miền Trung thành 5 tam hợp: 3B: Buồn, bực, bức. Nghèo khổ là nỗi buồn ám ảnh nhất, gay gắt nhất. Vì thế con người miền Trung luôn là con người dễ cáu gắt, bực tức. Sống trong sự đe doạ thường trực, người miền Trung chịu ảnh hưởng bức bối thường xuyên. Nhu cầu đột phá và khả năng bị stress rất cao. 3C: Cay, chậm, chắc. Ăn cay thì khỏi phải bàn. Nhưng cay cú là cái đáng bàn. Máu ăn thua là một thuộc tính bản chất. Vì khó thay đổi được kiếp người nên sự uể oải, chậm chạp, rề rà là khá phổ biến (Huế là điển hình). Người miền Trung khó thay đổi nhanh nếp sống, cách sống nên họ thích “ăn chắc, mặc bền”. Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 17
  18. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty 3K: Khó, khổ, keo. Sự khốn khó và nỗi khổ vẫn mãi mãi là một ám ảnh lâu dài. Cho dù đất nước có phát triển thì sự thua kém của miền Trung với miền Nam, miền Bắc là điều khó thay đổi. Đà Nẵng là vùng đất ngoại lệ. Cái thiếu muôn đời đã làm cho người miền Trung rất thích câu ngạn ngữ “vắt cổ chày ra nước”. 3M: Mặn, mót, méo. Ăn mặn và thích ky cóp tất cả những gì có thể là bản năng của sự sinh tồn. Vì luôn phải đối chọi với những hoàn cảnh bất thường nên người miền Trung hay có những cách nghĩ và cách làm thái quá. Sự méo mó về tư duy, tình cảm là đặc tính khá phổ biến (kể cả những tài năng như Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử...). 3N: Nóng, nặng, nồng. Cái nóng là phạm trù bất biến. Giọng nói nặng là điều “miễn góp ý”. Không ai nói lời tỏ tình “hay” như các cô gái có giọng nói Nghệ Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Phú Yên! Nhưng sự nồng nàn, hết mình là một đặc tính tuyệt vời của những người con gái miền Trung. Miền Bắc Bắc Bộ là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa Việt Nam, đây được coi là cái nôi của văn hoá-lịch sử dân tộc. Vì thế, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau : Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào Trung Bộ rồi Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người dân Việt. Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những nét riêng của vùng này Cư dân ở Bắc Bộ là cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy. Biển và rừng bao bọc quanh đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ trong tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ là những cư dân “xa rừng nhạt biển” – chữ dùng của PGS, PTS Ngô Đức Thịnh- Nói khác đi là, người nông dân Việt Bắc Bộ là người dân đồng bằng đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối và đánh cá ở ven biển. Hàng ngàn năm lịch sử, người nông dân Việt không có việc đánh cá được tổ chức một cách quy mô lớn, không có những đội tàu thuyền lớn. Nghề khai thác hải sản không mấy phát triển. Các làng ven biển thực ra chỉ là các làng làm nông nghiệp, có đánh cá và làm muối.Ngược lại, Bắc Bộ là một châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng về việc khai thác thủy sản. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương cách được người nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm được đưa lên hàng đầu như một câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền. Dù sao, phương thức canh tác chính của cư dân đồng bằng sông Hồng vẫn là trồng lúa nước (khoảng 82% diện tích trồng trọt cây lương thực). Tuy nhiên, cùng Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 18
  19. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty cây lúa, diện mạo cây trồng ở Bắc Bộ còn nhiều loại cây khác phù hợp với chất đất từng vùng và khí hậu từng mùa. Trong khi đó, đất đai ở Bắc Bộ không phải là nhiều, dân cư lại đông. Vì thế, để tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã làm thêm nghề thủ công. ở đồng bằng sông Hồng, trước đây, người ta đã từng đếm được hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng .v.v… Mặt khác những người nông dân này lại sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống của xã hội Việt. Nó là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thủy sang công xã nông thôn. Các vương triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành chính của mình và nó trở thành các làng quê. Tiến trình lịch sử đã khiến cho làng Việt Bắc Bộ là một tiểu xã hội trồng lúa nước, một xã hội của các tiểu nông, nói như PGS. Nguyễn Từ Chi một biển tiểu nông tư hữu. Về mặt sở hữu ruộng đất, suốt thời phong kiến, ruộng công, đất công nhiều là đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ. Do vậy, quan hệ giai cấp ở đây “nhạt nhòa” – chữ dùng của PGS. Nguyễn Từ Chi, chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo ra một lối sống ngưng đọng của nền kinh tế tư cấp tự túc, một tâm lí bình quân, ảo tưởng về sự “bằng vai”, “bằng vế” như kiểu câu tục ngữ “giàu thì cơm ba bữa, khó thì đỏ lửa ba lần”. Sự gắn bó giữa con người và con người trong cộng đồng làng quê, không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung như đình làng, chùa làng v.v…, mà còn là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực xã hội, đạo đức. Đảm bảo cho những quan hệ này là các hương ước, khoán ước của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt chẽ về mọi phương diện của làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định về sản xuất và bảo vệ môi trư ờng đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận. Nhưng cũng vì thế mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ. Chính những đặc điểm ấy của làng Việt Bắc Bộ sẽ góp phần tạo ra những đặc điểm riêng của vùng văn hóa Bắc Bộ. Văn hoá cư trú (nhà ở). Hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt đã chinh phục thiên nhiên, tạo nên một diện mạo, đồng bằng như ngày nay, bằng việc đào mương, đắp bờ, đắp đê. Biết bao cây số đê cũng được tạo dựng dọc các triền sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Nói cách khác, đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình là kết quả của sự chinh phục thiên nhiên của người Việt. Trong văn hóa đời thường, sự khác biệt giữa văn hóa Bắc Bộ và các vùng khác trong cả nước chính được tạo ra từ sự thích nghi với thiên nhiên này. Nhà ở của cư dân Việt Bắc Bộ thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kèo phát triển. PGS, PTS. Nguyễn Khắc Tụng đã thống kê được 10 loại nhà vì kèo khác nhau, sử dụng vật liệu nhẹ là chủ yếu nhưng cũng tiếp thu kĩ thuật và sử dụng Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 19
  20. Xây Dựng Văn Hoá Công Ty các vật liệu bền như xi măng, sắt thép. Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hòa hợp với cảnh quan. Văn hoá ẩm thực (ăn – uống). Thường là người Việt Bắc Bộ muốn trồng cây cối quanh nơi cư trú, tạo ra bóng mát cho ngôi nhà ăn uống của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ vẫn như mô hình bữa ăn của người Việt trên các vùng đất khác : cơm + rau + cá, nhưng thành phần cá ở đây chủ yếu hướng tới các loại cá nước ngọt. Hải sản đánh bắt ở biển chủ yếu giới hạn ở các làng ven biển, còn các làng ở sâu trong đồng bằng, hải sản chưa phải là thức ăn chiếm ưu thế. Cư dân đô thị, nhất là Hà Nội, ít dùng đồ biển hơn cư dân ở các đô thị phía Nam như Huế, Nha Trang, Sài Gòn. Thích ứng với khí hậu ở châu thổ Bắc Bộ, người Việt Bắc Bộ có chú ý tăng thành phần thịt và mỡ, nhất là mùa đông lạnh, để giữ nhiệt năng cho cơ thể. Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng, quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ lại không có mặt trong bữa ăn của người Việt Bắc Bộ nhiều lắm. - Văn hoá trang phục: Cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sống. Đàn bà cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn : đàn bà với áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông với chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Ngày nay y phục của người Việt Bắc Bộ đã có sự thay đổi khá nhiều. - Di sản vật thể khác: Nói tới văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu v.v…, có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng v.v… Cùng với các di sản văn hóa hữu thể, các di sản văn hóa vô thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng và phong phú. Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục ngữ, từ truyện cười đến truyện trạng,mỗi thể loại đều có một tầm dày dặn, mang nét riêng của Bắc Bộ, chẳng hạn truyện trạng ở Bắc Bộ như truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn v..v.. sử dụng các hình thức câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ nhiều hơn truyện trạng ở các vùng khác. Có những thể loại chỉ ở Bắc Bộ mới tồn tại, kiểu như thần thoại. Ca dao xứ Bắc trau chuốt, tỉa gọt hơn ca dao Nam Bộ. Các thể loại thuộc nghệ thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét. Đó là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo, múa rối v.v… Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ. Mọi Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2