intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

432
lượt xem
64
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa đất nước từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến tới thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Hiện nay, nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu đẩy mạnh quá trình đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa đất nước từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến tới thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Hiện nay, nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu đẩy mạnh quá trình đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010. Tiếp tục tinh thần Đại hội IX, Đại hội X của Đảng khẳng định: phấn đấu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Phấn đấu và đạt được những kết quả này có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Với ý nghĩa như vậy thỡ việc xõy dựng đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở vững mạnh là việc làm vô cùng to lớn, bởi lẽ cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp lónh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tại cơ sở xó, phường, thị trấn. Đồng thời, cũn là cầu nối giữa Đảng với nhân dân; thường xuyên báo cáo mọi ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Nếu đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở mà không vững mạnh theo V.I.Lênin: Mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn. Khi đề cập đến vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ rừ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [41, tr.269], “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [41, tr.273]. Đảng ta ngay từ khi thành lập đến nay luôn quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ cách mạng. Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mỗi bước trưởng thành của cuộc cách mạng đều gắn liền với
  3. vai trũ to lớn của đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở. Vỡ vậy, việc xõy dựng đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt núi chung, cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở nói riêng có đầy đủ phẩm chất, năng lực là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên thắng lợi của quá trình đổi mới; giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị cơ sở; là cầu nối có hiệu quả nhất giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; là người trực tiếp chỉ đạo giải quyết những vấn đề cụ thể nẩy sinh trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Để thực hiện được đúng vị trí, vai trò là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở, đòi hỏi họ phải thực hiện tốt những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong đó, có nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Bởi, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ đảng viên: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" [43, tr.496]. Nhận thức được tầm quan trọng này, kể từ khi thành lập tỉnh đến nay, Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn đã lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra, đạt được nhiều thành tích trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Những thành quả này đều có sự góp sức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt bất cập trước yêu cầu đổi mới; thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, trình độ lý luận, trình độ trí tuệ và cả năng lực chuyên môn. Đội ngũ này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trưởng thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa được đào tạo một cách có hệ thống, thiếu trình độ lý luận. Những hạn chế này, đã trực tiếp gây tác hại lớn trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới hiện nay, làm cho chất lượng, hiệu quả hoạt động thực tiễn không cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi yêu cầu thực tiễn đặt ra trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nguyên nhân gây ra hạn chế này là do đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
  4. quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn còn mắc bệnh kinh nghiệm trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Để đáp ứng với yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, đội ngũ này phải không ngừng học tập, rèn luyện về mọi mặt, trong đó cần phải nâng cao trình độ lý luận; thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Để trên cơ sở đó họ có thể tổ chức thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả trên địa bàn tỉnh. Do vậy, việc nghiên cứu bản chất, những biểu hiện chủ yếu và những nguyên nhân, để từ đó đưa ra giải pháp phù hợp, ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở Bắc Kạn thực sự mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do chúng tôi chọn đề tài: " Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn hiện nay " làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Triết học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, một số tác giả đã nghiên cứu bệnh kinh nghiệm ở nhiều khía cạnh khác nhau, đăng trên các tạp chí và được in thành sách. Có tác giả nghiên cứu về bản chất, tác giả nghiên cứu về biểu hiện, tác giả nghiên cứu về nguyên nhân; tác giả nghiên cứu về bản chất, biểu hiện, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp khắc phục bệnh kinh nghiệm. Chẳng hạn như: Lê Hữu Nghĩa (1988), "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta", tạp chí Triết học; Trần Văn Phòng: "Bước đầu tìm hiểu những biểu hiện đặc thù của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở nước ta so với chủ nghĩa kinh nghiệm phương Tây", Tạp chí Giáo dục lý luận số 2/1997. Về nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm có một số tác giả đề cập như: Lê Hữu Nghĩa (1988), "Về những khuyết điểm và yếu kém trong tư duy lý luận ở cán bộ ta", trong sách: "Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận", Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội; Vũ Khiêu (1971), "Nền sản xuất nhỏ Việt Nam và hậu quả của nó trong tâm lý dân tộc", Thông báo triết học; Lê Ngọc Anh (1999), "Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam", Triết học; Lê Thi (1988), "Thực trạng tư duy cán bộ đảng viên ta và căn nguyên của nó", Triết học...
  5. Đề cập đến một số giải pháp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm ở nước ta nói chung, có các tác giả sau: Nguyễn Ngọc Long: "Kinh nghiệm và lý luận", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 1/1984, "Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội, 1988; Trần Văn Phòng: "Giải pháp nâng cao năng lực tư duy biện chứng, chống bệnh giáo điều, kinh nghiệm và chủ quan duy ý chí", Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2007... Tác giả Võ Thị Bích trong luận văn thạc sĩ "Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An" (năm 2001), đã tìm hiểu tương đối có hệ thống về bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Tuy nhiên, luận văn này tập trung vào đối tượng là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An - một tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long - với những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khá đặc biệt so với Bắc Kạn. Do vậy, việc tìm hiểu bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn - một tỉnh miền núi Đông Bắc của Tổ quốc - vẫn là mảng trống cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở làm rõ bản chất, biểu hiện cơ bản, nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Phân tích làm rõ bản chất của bệnh kinh nghiệm nói chung. - Phân tích làm rõ biểu hiện đặc thù cũng như nguyên nhân chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn hiện nay (xã, phường, thị trấn). Có 18 chức danh, nhưng luận văn chỉ
  6. tập trung vào các chức danh: Bí thư, Phó Bí thư; Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn hiện nay. - Thời gian từ 2005 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận - Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, dựa trên quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước cũng như nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn. - Luận văn kế thừa, chọn lọc những tư tưởng của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích - tổng hợp; quy nạp - diễn dịch; lịch sử - lôgíc và phương pháp điều tra xã hội học (khảo sát thực tế). 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn chỉ ra những biểu hiện đặc thù của bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn hiện nay. - Luận văn chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở Bắc Kạn, đề xuất những giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, nhằm ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả căn bệnh này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
  7. Chương 1 Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn - Bản chất, biểu hiện và nguyên nhân 1.1. Bản chất và biểu hiện của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn 1.1.1. Bản chất của bệnh kinh nghiệm Nhận thức là quỏ trỡnh phỏn ỏnh hiện thực khỏch quan bởi con người, là quỏ trỡnh tạo lập tri thức trong bộ óc người về hiện thực khách quan. Nhờ có nhận thức, con người mới có hiểu biết về thế giới. Tri thức là kết quả của quỏ trỡnh nhận thức thế giới bởi con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Nhận thức không phải là một hành động tức thời, giản đơn, máy móc, thụ động mà là một quá trỡnh biện chứng. Quỏ trỡnh nhận thức diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trỡnh nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. V.I.Lênin trong Bỳt ký triết học đó chỉ ra biện chứng của quỏ trỡnh nhận thức như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chõn lý, của sự nhận thức thực tại khách quan” [29, tr.179]. Như vậy, trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn nhận thức có đặc tính khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau trong quỏ trỡnh nhận thức. Kết quả quỏ trỡnh đó đem lại cho con người những tri thức ở những trỡnh độ khác nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai trỡnh độ khác nhau của nhận thức nhưng thống nhất với nhau và bổ sung cho nhau, thâm nhập lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tớnh, tuy chỳng cú quan hệ với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, bởi trong nhận thức kinh nghiệm đó bao hàm yếu tố lý tớnh. Do đó, có thể coi kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tớnh, nhưng khác nhau về trỡnh độ, tính chất phản ánh hiện thực. Nhận thức kinh nghiệm chủ yếu thu nhận được từ quan sát và thực nghiệm, trên cơ sở đó tạo thành tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nẩy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn – từ lao động sản xuất, từ hoạt động cải tạo chính trị - xó hội, hoặc từ thực nghiệm
  8. khoa học. Tri thức kinh nghiệm đóng vai trũ quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nếu không có tri thức kinh nghiệm thỡ sẽ khụng cú tri thức l ý luận. Tri thức kinh nghiệm cũn là cơ sở để con người khái quát nhằm bổ sung, phỏt triển lý luận. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm cũn hạn chế, bởi nó mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, các mối liên hệ bên ngoài của sự vật. Như Ph.Ăngghen đó khẳng định: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [40, tr.718]. Ở trỡnh độ tri thức thức kinh nghiệm, con người chưa thể nắm được cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng. Nếu chỉ đơn thuần sử dụng tri thức kinh nghiệm để xử lý cụng việc thỡ nhất định sẽ kém hiệu quả. Tri thức kinh nghiệm chỉ có thể giải quyết được những công việc cụ thể trong những trường hợp cụ thể nhất định và nói chung kết quả thường hạn chế. Trong Từ điển Tiếng Việt, khái niệm kinh nghiệm được dùng để chỉ: "những điều hiểu biết do trông thấy, nghe thấy, do từng trải, tiếp xúc với cuộc sống mà có" [58, tr.441]. Nghĩa là, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan, cho nên xét về mặt nhận thức luận, kinh nghiệm là tính thứ hai, thế giới khách quan là tính thứ nhất. Nội dung mà kinh nghiệm phản ánh thuộc thế giới khách quan. Nội dung của kinh nghiệm có tính lịch sử cụ thể. Kinh nghiệm phản ỏnh trỡnh độ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm đó cú. Thế hệ sau kế thừa những kinh nghiệm của thế hệ trước để lại, làm giàu thờm kho tàng kinh nghiệm quý báu đó bằng những kinh nghiệm mới. Tuy nhiên, kho tàng tri thức của nhõn loại khụng chỉ cú những tri thức kinh nghiệm mà cũn cú tri thức lý luận. Kinh nghiệm xét về bản chất có những đặc trưng cơ bản sau: - Kinh nghiệm là một dạng tri thức được thu nhận và tích luỹ trực tiếp thông qua hoạt động thực tiễn của con người nên cũn mang tính trực quan cảm tính. Trong quá trỡnh con người tác động đến thế giới hiện thực con người trực tiếp thu nhận, tích luỹ và hỡnh thành những tri thức nhất định về thế giới. Những tri thức này được củng cố cùng với kỹ năng hoạt động của con người. Kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan; là một dạng tri thức có tính chất trực quan cảm tính,
  9. nhưng không thể đồng nhất với cảm giác, tri giác, biểu tượng. Mặt khác, việc tỏch nhận thức thành hai hỡnh thức cảm tớnh và lý tớnh chỉ mang ý nghĩa tương đối về mặt nhận thức luận. Thực tế cho thấy, không có một kết quả của một quá trỡnh nhận thức nào lại khụng phải là sản phẩm của sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tớnh và nhận thức lý tớnh. Kinh nghiệm phản ánh chủ yếu dựa vào quan sát trực quan, vào những hoạt động có tính chất thực nghiệm, vào quá trỡnh trao đổi thông tin mang tính trực tiếp giữa con người với thế giới, giữa con người với con người. Kinh nghiệm cũng đạt tới trỡnh độ khái quát, trừu tượng hoá nhất định, tuy nhiờn so với lý luận thỡ cũn dừng ở trỡnh độ thấp. Do đó, chỉ có thể xét tính chất cảm tính của kinh nghiệm với tư cách là một dạng tri thức chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ, mới phản ánh được mối liên hệ bên ngoài nhất định của sự vật, hiện tượng. Kinh nghiệm có ưu thế ở chỗ, nó phản ánh sinh động, trực tiếp sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, với tính chất phản ánh đó tác dụng của kinh nghiệm là có hạn, giá trị của khái quát kinh nghiệm chưa sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Kinh nghiệm là tốt, là quí báu song kinh nghiệm có hạn chế của nó, chẳng qua chỉ là từng bộ phận, chỉ thiên lệch về một phía mà thôi. Nếu đó cú kinh nghiệm mà lại biết thờm lý luận thỡ cụng việc tốt hơn nhiều. Dựa vào kinh nghiệm, con người có thể nhận thức được cái riêng từ những đối tượng trực tiếp cảm tính. Trong cái riêng, kinh nghiệm phản ánh một cách sinh động, phong phú hơn. Tuy vậy, kinh nghiệm không thể phản ánh được toàn bộ cái riêng trong sự tồn tại tất yếu của nó. Kinh nghiệm luôn mang tính riêng lẻ của một cá thể, một nhóm, một giai cấp, một dân tộc, một khu vực, một hoàn cảnh, một thời gian nhất định. Trong hoạt động thực tiễn đũi hỏi việc tiếp thu, vận dụng kinh nghiệm phải biết chọn lọc, kế thừa, sỏng tạo và phải cú quan điểm lịch sử - cụ thể. Kinh nghiệm không thể nhận thức được cái chung trong bản thân một sự vật riêng lẻ nào đó. Trong quá trỡnh phản ỏnh cỏi chung kinh nghiệm tỏ rừ kộm sõu sắc. Cỏi chung chỉ được biểu hiện trong kinh nghiệm với tính cách là sự phản ánh lặp đi, lặp lại trên những lớp đối tượng sự vật, hiện tượng không đồng nhất. - Kinh nghiệm là điểm xuất phát, là cơ sở ban đầu quan trọng của quá trỡnh nhận thức.
  10. Kinh nghiệm càng phong phú bao nhiờu thỡ càng tạo ra nhiều dữ liệu, tài liệu cho khỏi quỏt lý luận bấy nhiêu. Không có kinh nghiệm thỡ khoa học cũng khó mà phát triển được. Thực tế lịch sử đó chứng minh điều này. Tiến bộ khoa học ngày nay cũng không thể có được nếu thiếu các ngành khoa học có tính chất thực nghiệm. Bởi kinh nghiệm không chỉ dừng lại ở kinh nghiệm thông thường, tức là kinh nghiệm thu nhận được từ những quan sát hàng ngày trong cuộc sống và trong lao động sản xuất mà cũn những kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thực nghiệm khoa học. Những kinh nghiệm này là công cụ sắc bén thúc đẩy nhận thức lên một trỡnh độ cao hơn trong quỏ trỡnh tiếp cận chõn lý. Ph. Ăng ghen viết: “Trong kinh nghiệm, cái quan trọng chính là trí tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại thực hiện được những kinh nghiệm vĩ đại, và thấy được cái gỡ là quan trọng trong sự vận động muôn vẻ của các hiện tượng” [40, tr.687]. Trong quỏ trỡnh nhận thức và phát triển của tư duy nhân loại, kinh nghiệm có vai trũ to lớn. Nếu thiếu kinh nghiệm thỡ khụng cú lý luận. Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ rừ: Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xó hội tớch trữ lại trong quỏ trỡnh lịch sử. Lý luận được hỡnh thành từ kinh nghiệm, trờn cơ sở tổng kết thực tiễn, nhưng lý luận khụng hỡnh thành một cỏch tự phỏt từ kinh nghiệm và khụng phải mọi lý luận đều xuất phát trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên, điều đó vẫn không làm mất đi mối liờn hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Kinh nghiệm xét đến cùng vẫn là cơ sở để chúng ta bổ sung, phát triển lý luận đó cú và tổng kết, khỏi quỏt thành lý luận mới. V.I. Lờnin chỉ rừ: “Muốn hiểu biết thỡ phải bắt đầu tỡm hiểu, nghiờn cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung. Muốn tập bơi phải nhảy xuống nước” [29, tr.220]. Mặc dự kinh nghiệm cú vai trũ to lớn như vậy, nhưng nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là yếu tố duy nhất quyết định kết quả hoạt động của con người thỡ sẽ mắc phải bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm được hiểu là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường, hạ thấp lý luận. Người mắc bệnh kinh nghiệm thường chỉ dựa vào kinh nghiệm để giải quyết mọi vấn đề. Cho nên, trong thực tế cụ thể, người mắc bệnh kinh nghiệm sẽ bế tắc và mất phương hướng khi tỡnh hỡnh
  11. thực tiễn đổi thay, khi mà số lượng tri thức tăng lên. Do đó, bệnh kinh nghiệm có tác hại rất lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý, bởi nó gây tâm lý ngại học tập, củng cố tâm lý đề cao vai trũ lónh đạo của các già làng, trưởng bản thái quá, cũng như coi thường năng lực của thế hệ trẻ, đồng thời không hiểu đúng vai trũ của đội ngũ trí thức và những người làm công tác lý luận. Ở đây cũng cần phõn biệt rừ hơn khái niệm “bệnh kinh nghiệm” và khái niệm: “chủ nghĩa kinh nghiệm”. Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa kinh nghiệm là một khuynh h ướng, trào lưu tư tưởng trong nhận thức luận tuyệt đối hoá tri thức kinh nghiệm, hạ thấp vai trũ tri thức lý luận. Chủ nghĩa kinh nghiệm xuất hiện chủ yếu ở Tây Âu trong các thế kỷ XVII – XVIII với các đại biểu nổi tiếng như: Ph. Bêcơn (1561- 1621), Hốp-xơ (1588 – 1679), Giôn-Lốc- cơ (1632– 1704)…khi mà khoa học thực nghiệm phát triển và đóng góp tích cực vào cuộc khám phá những bí mật của các đối tượng vật chất. Đặc điểm của chủ nghĩa kinh nghiệm ở Tây Âu thời kỳ này biểu hiện ở chỗ, công nhận tính đúng đắn của các tri thức khoa học thực nghiệm đó đem lại và tuyệt đối hoá vai trũ của kinh nghiệm, đồng thời phủ nhận tính phổ biến của tri thức lý luận. Với tư cách là là một trào lưu nhận thức luận tuyệt đối hoá tri thức kinh nghiệm, đối lập với chủ nghĩa duy lý, thỡ ở nước ta không có chủ nghĩa kinh nghiệm. Tuy nhiên, bệnh kinh nghiệm ở nước ta cũng mang bản chất của chủ nghĩa kinh nghiệm - là cường điệu, tuyệt đối hoá tri thức kinh nghiệm, coi thường tri thức lý luận. Đặc điểm của bệnh kinh nghiệm ở cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở nước ta cơ bản là gắn bó chặt chẽ với bệnh giáo điều, chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng gia trưởng, phong kiến, phong tục tập quán lạc hậu, cường điệu kinh nghiệm chiến tranh. Biểu hiện cơ bản của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở nước ta là không đánh giá đúng vai trũ của tri thức lý luận, coi thường hạ thấp lý luận; lối suy nghĩ giản đơn, áng chứng, đại khái, thiếu lôgíc, thiếu hệ thống, hướng vào quá khứ là chủ yếu; cỏch làm việc mũ mẫm, tuỳ tiện. Nhận thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn đều chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân. Do vậy, xét về bản chất, hai khái niệm “bệnh kinh nghiệm” và “chủ nghĩa kinh nghiệm” ở nước ta thường vẫn được sử dụng như nhau, song giữa chúng có sự khác biệt.
  12. Khi dùng khái niệm: “chủ nghĩa kinh nghiệm” là muốn đề cập đến một khuynh hướng trong lý luận nhận thức cho rằng, kinh nghiệm là nguồn gốc của tri thức, coi nội dung của tri thức chỉ là sự mô tả của kinh nghiệm đó. Khi dùng khái niệm: “bệnh kinh nghiệm” là đề cập đến những sai lầm trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, đó là do con người đó tuyệt đối hoá vai trũ của kinh nghiệm, hạ thấp vai trũ của lý luận. Khỏi niệm “bệnh” ở đây cần được hiểu như một trạng thái tư tưởng không lành mạnh, biểu hiện bằng những thái độ không đúng đắn như tuyệt đối hóa kinh nghiệm; coi thường, hạ thấp lý luận, không đánh giá đúng vai trũ đội ngũ trí thức, ngại học tập; phong cách làm việc luộm thuộm, tùy tiện, sự vụ,v.v... 1.1.2. Đặc trưng hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn 1.1.2.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta được phân chia thành bốn cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố; huyện, quận và cấp cơ sở (xó, phường, thị trấn). Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bú chặt chẽ trong cỏc quan hệ kinh tế, dũng tộc và văn hoá. Cấp cơ sở có vị trí rất quan trọng, là nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, là địa bàn tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; là nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất; là nền tảng cơ bản của xó hội; là nơi có thể tổ chức huy động, phát huy cao độ nội lực của quần chúng nhân dân. Hiện nay, cấp cơ sở ở nước ta, chủ yếu là địa bàn nông thôn, nông dân làm nghề nông nghiệp, nên có nhiều tiềm năng rất lớn về nguồn lao động, đất đai, ngành nghề. Do chủ yếu là địa bàn nông thôn nên trực tiếp sản xuất ra lương thực, thực phẩm, tạo ra nhiều của cải vật chất dồi dào cho xó hội. Đồng thời, cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành nghề cho công nghiệp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội của địa phương. Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lónh đạo của Đảng, cấp cơ sở là nơi động viên triệt để sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc.
  13. Trong công cuộc xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, thỡ cấp cơ sở càng giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở, cụ thể: Nghị quyết 3,4,5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đó nhấn mạnh: “Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước” [19, tr.165]. Đội ngũ cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là lực lượng quan trọng việc thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tại cơ sở. Họ là những người giữ chức vụ quan trọng, là lực lượng nũng cốt trong tổ chức thuộc hệ thống chớnh trị cấp cơ sở; là những người giữ cương vị chính phụ trách trong một tổ chức, một tập thể, có ảnh hưởng chính, quyết định, chi phối việc chấp hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xó hội ở địa phương đó đề ra, đồng thời là những người: “đứng mũi chịu sào”, chịu trách nhiệm chính trước Đảng, trước nhân dân. Cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chổt cấp cơ sở là những người đứng đầu quan trọng nhất trong bộ máy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, chính trị – xó hội ở cấp cơ sở; có tác dụng chính, chi phối việc chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thông qua việc lónh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xó hội trờn địa bàn mỡnh quản lý. Đội ngũ cán bộ này cũn tạo nờn những thành tựu, cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị, góp phần quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước. Thực tế hiện nay một số xó, nhất là cỏc xó vựng sõu, vựng xa diễn ra tỡnh trạng cỏc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện không đến nơi, đến chốn, thậm chí gây hậu quả xấu, ảnh hưởng không tốt đến phát triển kinh tế, giữ gỡn an ninh, trật tự an toàn xó hội trờn địa bàn. Đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở vững mạnh sẽ là một trong những nguồn cán bộ quan trọng cung cấp cho Đảng và Nhà nước. Đề cập đến vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó khẳng định: cấp cơ sở không những là cái khâu liên hệ mà là cái kho dồi dào cho Đảng lấy thêm lực lượng mới. Cấp cơ sở lại là môi trường quan trọng tạo điều kiện cho cán bộ rèn luyện và trưởng thành. Hiện nay, một số địa phương trong đó có
  14. tỉnh Bắc Kạn chưa thấy được hết vị trí chiến lược của cấp cơ sở, nên không ít người đó coi cấp cơ sở là thấp kém, là không có tiền đồ trong tương lai. Vỡ thế, họ khụng tõm huyết, phấn khởi nhiệt tỡnh khi được thuyên chuyển, luân chuyển đi công tác tác ở cấp cơ sở, thậm chí họ cũn nộ trỏnh, thoỏi thỏc khi được tổ chức phân công đến công tác tại cơ sở xó, phường, thị trấn. Cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở được xác định và bao gồm các chức danh sau: Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND. Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và nhân dân giao phó, đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng. Thứ nhất, cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là bộ phận quan trọng trong hệ thống cỏn bộ lónh đạo, quản lý ở nước ta. Cấp cơ sở là cấp gần dân nhất, là nơi biểu hiện tập trung nhất, rừ nhất những ưu việt của chế độ XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó núi: cấp xó là cấp gần gũi với dân nhất, là nền tảng của hành chớnh. Cấp xó làm được thỡ mọi việc đều xong xuôi. Chính vỡ vậy, chất lượng hoạt động của chính quyền cơ sở đều ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng, Nhà nước, đến lũng tin của nhõn dõn đối với Đảng và Nhà nước. Thứ hai, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là cầu nối trực tiếp quan trọng giữa Đảng – Nhà nước với nhân dân; giữa chính quyền Trung ương với cơ sở, họ là gốc của mọi công việc ở cơ sở; là nơi trực tiếp tổ chức thực thi pháp luật, đưa chính sách, đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn đời sống xó hội. Do đó, chất lượng của các thể chế nhà nước, hành chính nhà nước phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức thực thi của cấp này; là nơi thể hiện phản ánh tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân địa phương, cũng như điều kiện hoàn cảnh của địa phương. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều bắt nguồn từ cơ sở và hướng về cơ sở. Đồng thời, là nơi trực tiếp thoả món, đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của nhân dân, cung cấp dịch vụ công cho công dân; là nơi xây dựng và phỏt triển tiến trỡnh dõn chủ; là nơi biểu hiện sự cụng bằng và bỡnh đẳng xó hội được thực hiện; là nơi thể hiện bản chất tốt đẹp của một nhà nước pháp quyền XHCN.
  15. Thứ ba, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là một trong những cán bộ dự nguồn quan trọng cung cấp cho cỏn bộ lónh đạo, quản lý cấp huyện và tương đương. Tại cấp cơ sở chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước giao cho được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ này. Phần lớn họ được nhân dân bầu lên và được cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm. Tuỳ theo tính chất công việc và vị trí công tác mà đội ngũ cán bộ cấp cơ sở được phân thành nhiều loại khác nhau. Trong đó, đội ngũ cấp cơ sở là người có vai trũ quyết định trong việc hiện thực hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào địa phương; là người trực tiếp lónh đạo và tổ chức quần chúng thực hiện sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào đời sống thông qua phong trào của quần chúng nhân dân. Do đó, để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của mỡnh, mỗi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải là những tấm gương sáng trong việc rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đứng trước những nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đổi mới, trước những hoàn cảnh và tỡnh thế mới đũi hỏi đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở phải có trỡnh độ và hiểu biết toàn diện trên mọi lĩnh vực, khụng chỉ cú trỡnh độ chuyên môn nghiệp vụ, trỡnh độ lý luận chính trị mà cũn phải cú kiến thức quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xó hội, vi tớnh…Có khả năng tiếp nhận và xử lý thụng tin nhạy bộn phục vụ cho cụng tỏc lónh đạo, quản lý ở cơ sở; đồng thời qui tụ được quần chúng tin tưởng vào sự lónh đạo của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay. 1.1.2.2. Đặc trưng hoạt động cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở Cấp cơ sở là địa bàn có vị trí hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp tổ chức mọi hoạt động kinh tế, văn hoá, xó hội ở địa phương, bảo đảm an ninh quốc phũng, trật tự an toàn xó hội; là nơi kiểm nghiệm, phản ánh cung cấp một cách khách quan những căn cứ cho việc bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trớ, vai trũ cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở, luôn tăng cường xây dựng, củng cố, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Về lý luận cũng như về mặt thực tiễn đều khẳng định, cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở có vững mạnh thỡ địa phương, quốc gia mới vững mạnh được.
  16. Cỏn bộ lónh đạo, chủ chốt cấp cơ sở là những cán bộ gần dân nhất, đặc biệt họ trực tiếp tiếp xúc với bà con nông dân. Đa số họ là những người sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ cơ sở, từ chính quê hương mỡnh. Do vậy, họ là những người hiểu quần chúng nhân dân, hiểu tâm tư, nguyện vọng, thuận lợi, khó khăn của quần chúng nhân dân; hiểu phong tục, tập quán, địa bàn mà họ phụ trách. Họ gắn bó với cơ sở. Đặc thù của cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là khi giải quyết những công việc lớn, nhỏ họ vừa là cỏn bộ lónh đạo, quản lý, lại vừa là một công dân với những mối quan hệ nhiều chiều trong tổ, thôn, khu phố, tổ dân phố nên cách làm việc của họ phải bảo đảm thấu tỡnh, đạt lý. Đồng thời, họ lại là những người đại diện cho Đảng và Nhà nước để lónh đạo bà con nông dân phát triển kinh tế - xó hội, xây dựng Đảng, bảo đảm an ninh, chính trị - xó hội, xây dựng nông thôn mới ở cơ sở. Chính đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là những người làm cho ý Đảng, lũng dõn được thống nhất; làm cho Đảng và Nhà nước có cơ sở ăn sâu, bám rễ trong quần chúng, tạo nên quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân, trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước. Quần chúng nhân dân chỉ biết tới Đảng, Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ này. Vỡ vậy, đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở như là người thay mặt Đảng, Nhà nước ở địa phương. Phẩm chất, tài năng của họ sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của Đảng và Nhà nước. Đối với tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là những trụ cột, là trung tâm đoàn kết; tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng; là linh hồn của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Họ có ảnh hưởng mang tính quyết định đến năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ cơ sở; đến năng lực và hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở, đến hiệu quả công tác của lực lượng vũ trang và hoạt động của các đoàn thể quần chúng. Đối với phong trào quần chúng tại địa phương, đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở không chỉ là người dẫn dắt, định hướng các phong trào, mà cũn là người tổng kết rút kinh nghiệm để nhân lên các điển hỡnh tiờn tiến cho cỏc phong trào lao động sản xuất; thực hành tiết kiệm, chống lóng phớ; xõy dựng nếp sống văn hoá, làng bản văn hoá, gia đỡnh văn hoá. Có thể nói, họ vừa là “đạo diễn” vừa là “diễn viên”, vừa là người tổ chức những phong trào quần chúng ở cơ sở.
  17. Trong quỏ trỡnh thực hiện cụng cuộc đổi mới vừa qua, nhất là trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, cán bộ cấp cơ sở dưới sự lónh đạo trực tiếp của đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở thực sự là nhân vật trung tâm, đóng vai trũ quan trọng tác động đến xu hướng và nhịp độ phát triển của phong trào ở cơ sở. Những công việc của đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở hết sức cụ thể. Đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp nhận và xử lý những yờu cầu của nhõn dõn tại địa phương như: xác nhận hồ sơ, lý lịch, ký tờn, đóng dấu, chăm lo mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Nói khác đi, họ là những người cán bộ tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại địa phương. Do vậy, họ phải nắm vững tất cả những chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như mọi nghị quyết, quyết định của các cấp ủy, chính quyền địa phương. Tất cả mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nuớc từ Trung ương đến địa phương có trở thành hiện thực sống động hay không đều phụ thuộc vào tài năng, đức độ của đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở. Nếu cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở có tài, có đức thỡ sẽ thỳc đẩy phong trào đi lên. Ngược lại thỡ họ sẽ bị mất uy tín trước nhân dân và cũng đồng nghĩa với việc Đảng bị mất uy tín với nhân dân và dân sẽ mất lũng tin vào Đảng và Nhà nước. Đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở cùng Đảng bộ cấp cơ sở xây dựng những chủ trương, chính sách cụ thể phù hợp với địa phương mỡnh phụ trỏch. Họ là những người vừa trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách lại vừa kiểm tra, uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc trong quá trỡnh tổ chức thực hiện. Để hoàn thành được nhiệm vụ chính trị được giao, đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở phải không ngừng phấn đấu học tập, rèn luyện các mặt đức, tài; tiếp thu, cập nhật những thông tin, những tri thức mới; gạt bỏ những tư tưởng, tâm lý lạc hậu, lối suy nghĩ giản đơn một chiều, bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều… 1.1.3. Biểu hiện đặc thù của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn
  18. Bắc Kạn là một tỉnh nội địa vùng Đông – Bắc, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang. Diện tích tự nhiên 4.857,2 km2, trong đó diện tích đất nông - lâm nghiệp 420.990,5 ha, chiếm 86%, đất rừng chiếm 263.503,9 ha, rừng tự nhiên chiếm 224.151,4 ha, rừng trồng chiếm 39.352,5 ha, đất chưa có rừng 157.484,6 ha. Dân số 302.786 người, gồm 7 dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm 61%, Kinh 20%, Dao 9%, Nùng 7%, Mông – Hoa – Sán Chay 3%. Về hành chớnh cú 7 huyện và 01 thị xó với 122 xó, phường, thị trấn (trong đó có 116 xã khó khăn và đặc biệt khó khăn) với 1.389 thôn, bản, tổ dân phố [57, tr.1]. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xó hội trờn địa bàn cũn thấp kộm; mạng lưới giao thông xuống cấp nghiêm trọng; hệ thống y tế, trường học, thông tin liên lạc lạc hậu và rất khăn. Bắc Kạn có nhiều tiềm năng về tài nguyên, khoáng sản, lâm thổ sản. Nhưng lại là một tỉnh thuần nông, có trên 85% dân số sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, dựa vào thiên nhiên là chính. Đời sống đồng bào các dân tộc trong tỉnh cũn rất khú khăn. Bắc Kạn vẫn là tỉnh nghèo nhất cả n ước. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xó hội tuy có một số yếu tố thuận lợi, song cũng trực tiếp ảnh h ưởng đến chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh nói chung và quỏ trỡnh lónh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp c ơ sở của tỉnh Bắc Kạn nói riêng (xem phụ lục 2). Với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh như vậy, nên bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở Bắc Kạn có những biểu hiện đặc thù chủ yếu sau: Thứ nhất, bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo chủ chốt cấp cơ sở Bắc Kạn gắn bó chặt chẽ với một số tư tưởng lạc hậu của bà con các dân tộc tỉnh Bắc Kạn. Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Kạn khác với một số tỉnh khác ở đồng bằng là nó gắn bó chặt chẽ với một số tư tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu của đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Ở các tỉnh miền núi phái Bắc nói chung, ở tỉnh Bắc Kạn núi riờng cũn những phong tục, tập quỏn lạc hậu của cộng đồng dân cư làng, xó, thụn, bản. Những phong tục, tập quỏn lạc hậu này đó gắn kết chặt chẽ với bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở Bắc Kạn. Đúng như C.Mác viết: Truyền thống của các thế hệ đó chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống. Chớnh vỡ vậy, bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản
  19. lý chủ chốt cấp cơ sở Bắc Kạn mang sắc thái khác với bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở vùng đồng bằng. Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở vùng đồng bằng Sông Hồng thường gắn chặt chẽ với bệnh giáo điều, thỡ ở Bắc Kạn bệnh kinh nghiệm thường gắn kết chặt chẽ với bệnh gia trưởng, tư tưởng gia đỡnh chủ nghĩa, tư tưởng trọng nam khinh nữ, coi thường lớp trẻ. Ở vùng đồng bằng Sông Hồng bệnh kinh nghiệm cũng bị ảnh hưởng của bệnh gia trưởng, tư tưởng gia đỡnh chủ nghĩa, tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhưng không nặng nề như ở Bắc Kạn. Bởi lẽ, ở Bắc Kạn, trỡnh độ dân trí của bà con dân tộc nhỡn chung cũn thấp, kinh tế - xó hội lại chưa phát triển. Sự gắn kết giữa bệnh kinh nghiệm và bệnh gia trưởng, tư tưởng gia đỡnh chủ nghĩa, tư tưởng trọng nam khinh nữ đó gõy tỏc động xấu trên nhiều lĩnh vực, cả trong nhận thức, tư duy và hoạt động thực tiễn; làm trầm trọng thêm bệnh kinh nghiệm. Bệnh gia trưởng của người cán bộ lónh đạo, quản lý làm cho cỏn bộ tự cho mỡnh là “ụng chủ” trong cơ quan, địa phương mỡnh phụ trỏch. Từ đó họ tự cao, tự đại, luôn tự cho mỡnh cú quyền quyết định mọi vấn đề trong việc thực thi nhiệm vụ chuyên môn theo kinh nghiệm cá nhân. Sự lónh đạo chính quyền được họ thực hiện giống như “lónh đạo” gia đỡnh nờn họ khụng chỳ trọng đến ý kiến của tập thể, của cấp dưới và của nhân dân. Họ coi cơ quan như gia đỡnh mỡnh, nờn đôi khi làm việc cũn tựy tiện. Sự tựy tiện này lại được củng cố bởi bệnh kinh nghiệm. Tác phong gia trưởng dễ đưa cán bộ lónh đạo, quản lý đến độc đoán chuyờn quyền, thực hiện theo kiểu “trờn bảo thỡ dưới phải nghe”, tuân thủ như một “mệnh lệnh”. Tác phong này thường được ngộ nhận, biện minh như là khả năng quyết đoán, tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” ở người cán bộ lónh đạo, quản lý có năng lực. Thường đối với người cán bộ lónh đạo, quản lý có tác phong gia trưởng mang hướng tích cực thỡ họ cú tớnh quyết đoán, có năng lực trong lónh đạo, quản lý. Họ là người có tính năng động, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm trước tập thể, được hỡnh thành trờn cơ sở phân tích, đánh giá đúng tỡnh hỡnh thực tiễn, nắm bắt được yêu cầu khách quan của thực tiễn. Đối lập với tinh thần quyết đoán ấy, người cán bộ lónh đạo, quản lý có tác phong gia trưởng nhưng mắc bệnh kinh nghiệm lại chủ yếu dựa trên những nhận định, đánh giá, kinh
  20. nghiệm cá nhân, xem thường ý kiến tập thể, mang tính áp đặt chủ quan, một chiều. Do vậy, về cơ bản quyết định của họ thường không đạt hiệu quả cao, dễ dẫn đến mắc sai lầm và không được quần chúng nhân dân đồng tỡnh ủng hộ. Người cán bộ lónh đạo, quản lý mắc bệnh gia trưởng nhưng lại dựa trên bệnh kinh nghiệm không chỉ độc đoán chuyên quyền trong việc đưa ra các quyết định về phương hướng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mà cũn độc đoán quyết định phân phối các phương tiện vật chất và tinh thần cho các cá nhân, đơn vị theo kiểu ban phát bổng lộc, trên cơ sở kinh nghiệm cá nhân là chủ yếu. Cách làm này gây tác hại rất lớn đối với tập thể, cơ quan, đơn vị và đối với toàn xó hội. Bệnh gia trưởng luôn đi đôi với tư tưởng gia đỡnh chủ nghĩa. Tớnh độc đoán chuyên quyền và tư tưởng gia đỡnh chủ nghĩa luụn đi đôi với nhau, vừa gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Bệnh gia trưởng và tư tưởng gia đỡnh chủ nghĩa làm cho người cán bộ lónh đạo, quản lý luôn có tư tưởng biến cơ quan, đơn vị thành của nhà mỡnh và thành của riờng mỡnh. Căn bệnh này rất rừ trong đội ngũ cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Bắc Kạn, nhất là ở những xó xa trung tõm tỉnh lỵ. Quan điểm của họ thường là “một người làm quan cả họ được nhờ”, dẫn đến “kéo bè, kéo cánh”. Dũng họ nào đông thỡ thường thắng thế trong bầu cử, tái cử. Họ lợi dụng chức quyền đưa người thân vào các cơ quan, nắm giữ các chức vụ quan trọng. Mặt khác, họ biến quan hệ cơ quan, đơn vị thành các quan hệ gia đỡnh, dũng tộc; thiết lập mối quan hệ thõn thiết nhằm mang lại những lợi ớch cho cỏ nhõn, gia đỡnh. Kiểu quan hệ này nhỡn bề ngoài cú vẻ “ấm cỳng” nhưng nó lại chứa đựng những mầm mống mất dân chủ, mất đoàn kết, bè phái, chia bè kéo cánh. Bệnh gia trưởng và tư tưởng gia đỡnh chủ nghĩa đó làm cho bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ này thêm trầm trọng, thêm kéo dài. Bởi lẽ, cán bộ cấp dưới không dám phê bỡnh, gúp ý, mà cú phờ bỡnh, gúp ý cỏn bộ lónh đạo, quản lý cũng không tiếp thu. Vỡ họ cú tõm lý cho rằng mỡnh là người đứng đầu cơ quan cũng như người đứng đầu gia đỡnh nờn họ cú quyền làm theo cỏch nghĩ, kinh nghiệm của riêng họ. Căn bệnh này đó gõy ra những thiệt hại lớn về vật chất và tinh thần. Một số tổ chức cơ sở Đảng đó cú một số ớt đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng. Một số nơi trong tỉnh đó cú cỏn bộ lónh đạo, quản lý chủ chốt cấp cở sở của xó, phường, thị trấn bị xử lý kỷ luật, khai trừ ra khỏi Đảng. Hiện tượng này có nhiều nguyên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2