LUẬN VĂN: Chất lượng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
lượt xem 310
download
Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: chất lượng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên', luận văn - báo cáo, thạc sĩ - tiến sĩ - cao học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Chất lượng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
- LUẬN VĂN: Chất lượng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất kỳ thời kỳ nào, chất lượng đội ngũ đảng viên có tầm quan trọng rất lớn đối với toàn bộ sự nghiệp của cách mạng Việt Nam. Đây không phải là công tác riêng của Trung ương hay của một vài tổ chức trọng điểm nào đó, mà cần phải tiến hành thường xuyên ở tất cả các đảng bộ, chi bộ. Đây cũng là nhiệm vụ chung cho mỗi cấp ủy, toàn thể cán bộ, đảng viên; vì vậy, chất lượng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng - nó quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng ở cơ sở và toàn Đảng nói chung. Cách mạng nước ta đang trong thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội với những cơ hội và thách thức mới. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng to lớn đó đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, khó khăn và đòi hỏi Đảng nói chung, đội ngũ đảng viên của Đảng nói riêng phải không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực mới đáp ứng được vai trò lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng là do các đảng viên tổ chức nên, đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định điều đó; do đó, Đảng phải chăm lo công tác xây dựng Đảng, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Thành phố Hà Nội là thủ đô của cả nước, là địa danh tiêu biểu cho lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc ta. Kinh tế của Thủ đô đã phát triển nhanh và khá toàn diện; cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp đã hình thành rõ rệt và đang chuyển dịch sang dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước nên đã tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ về mọi lĩnh vực, không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà còn ở tất cả các lĩnh vực khác. Đặc biệt, Đảng bộ và nhân dân Thủ đô vô cùng tự hào, phấn khởi được Đảng, Nhà nước hai lần trao tặng thưởng Huân chương Sao vàng và là thành phố được phong tặng danh hiệu cao quý "Thủ đô anh
- hùng", cũng là thành phố đầu tiên ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương được nhận danh hiệu "Thành phố vì hoà bình". Những danh hiệu vinh quang đó khẳng định thành tích to lớn của đảng bộ, chính quyền và nhân dân thủ đô Hà Nội trong lịch sử hiện đại của nước nhà. Trong nhiệm kỳ lần thứ XIII của đảng bộ thành phố Hà Nội, đã tập trung thực hiện các nghị quyết của Trung ương và Chương trình 06-CTr/TU của Thành uỷ Hà Nội về "Một số vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng giai đoạn 2001 -2005"; cũng như việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) (khoá VIII) và Kết luận Hội nghị trung ương 4 (khoá IX) về đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong thời gian qua, các đảng bộ phường thành phố Hà Nội đã quán triệt nghị quyết của quận uỷ, thành uỷ và các nghị quyết của trung ương thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó coi trọng xây dựng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Do đó đã góp phần vào sự ổn định chính trị, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường được đảm bảo. Tuy nhiên so với yêu cầu và nhiệm vụ mới của các đảng bộ phường thành phố Hà Nội còn nhiều bất cập, chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường còn bộc lộ nhiều yếu kém, tồn tại. Một bộ phận đảng viên, trong đó có cả đảng viên có chức có quyền đã phai nhạt lý tưởng, mất sức chiến đấu, hách dịch, cửa quyền, gia trưởng, ức hiếp dân ... ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Vì sao có thực trạng trên đây là vấn đề đặt ra cần phải nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ thêm về vấn đề chất lượng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đã có nhiều những chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, báo cáo tổng kết, đánh giá của Đảng về công tác xây dựng Đảng và đảng viên; về vấn đề xây dựng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên được thể hiện trong các văn kiện của Đảng. - Các công trình khoa học:
- + PGS,TS Tô Huy Rứa và PGS,TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (Nxb CTQG - 2003): "Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay". + TS Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên) ( Nxb Văn hoá dân tộc - 2003): "Phát huy vai trò đội ngũ đảng viên là người nghỉ hưu khu vực nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay". + PGS,TS Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên) (NXb CTQG - 2004): "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ phường ở Thủ đô Hà Nội hiện nay". - Nhiều đề tài nghiên cứu sinh nghiên cứu về vấn đề này như: + Đặng Đình Phú (1996): "Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng phường, xã ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay" - Luận án phó tiến sĩ. + Cao Thị Thanh Vân (2002): "Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" - Luận án tiến sĩ. + Nguyễn Văn Giang (2002): "Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có đồng bào công giáo ở các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay" - Luận án tiến sĩ. - Nhiều đề tài của các học viên cao học cũng đã nghiên cứu như: + Trần Văn Chương (1995): "Suy nghĩ bước đầu về kinh nghiệm xây dựng Đảng bộ phường từ yếu kém vươn lên vững mạnh trong sạch" - Luận văn thạc sĩ. + Nguyễn Hữu ái (1995): "Suy nghĩ về thực trạng và biện pháp nâng cao chất lượng đảng viên của thành phố Đà Nẵng (từ khi triển khai Nghị quyết Trung ương 3 đến nay (1993 - 1995))" - Luận văn thạc sĩ. + Đặng Thị Minh Hảo (2003): "Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong các trường trung học phổ thông ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay" - Luận văn thạc sĩ. Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu vấn đề chất lượng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Tuy
- nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về "Chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay". 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài - Mục đích: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay; từ đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách của các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ: + Làm rõ vai trò, đặc điểm các phường và đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội hiện nay. + Làm rõ thêm quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. + Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách và công tác đảng viên đối với ĐNĐV là CBCT của các đảng bộ phường thành phố Hà Nội từ năm 2000 đến nay; từ đó, rút ra được những nguyên nhân, nêu ra những kinh nghiệm trong công tác đảng viên góp phần tạo nên chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội trong thời gian qua. + Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách đang sinh hoạt trong các phường thành phố Hà Nội, nhất là việc đi sâu vào một số phường trọng điểm. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách và công tác đảng viên đối với ĐNĐV là CBCT của các đảng bộ phường của 9 quận thành phố Hà Nội thời gian từ năm 2000 đến nay và đề xuất phương
- hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường từ nay đến năm 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng nói chung, về vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên nói riêng, nhất là đối với đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách; đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố. - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được sử dụng chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn. 6. Những đóng góp của đề tài - Góp phần làm rõ thêm quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng và nêu ra những phương hướng và đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp các cấp uỷ đảng ở các đảng bộ phường thành phố Hà Nội nghiên cứu, vận dụng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy trong trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp quận thành phố Hà Nội. 7. Kết cấu đề tài
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. mục lục T rang 1 Mở đầu Chương 1: chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố hà nội giai đoạn hiện nay - những 7 vấn đề lý luận và thực tiễn 1.1. Phường và đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội hiện nay - vai trò và đặc điểm 7 1.2. Chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường 2 thành phố Hà Nội hiện nay - quan niệm và tiêu chí đánh giá 5 Chương 2: chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách và công tác đảng viên đối với đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố hà nội từ năm 3 2000 đến nay - thực trạng, nguyên nhân và những kinh 9 nghiệm 2.1. Thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở 3 các phường thành phố Hà Nội từ năm 2000 đến nay 9 2.2. Công tác đảng viên đối với đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội từ năm 2000 đến nay - thực trạng, 5 nguyên nhân và những kinh nghiệm 2 7 Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất 5 lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các
- phường thành phố hà nội hiện nay 3.1. Dự báo tình hình liên quan và phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố 7 Hà Nội giai đoạn hiện nay 5 3.2. Những giải pháp chủ yếu 8 1 1 Kết luận 03 1 Danh mục tài liệu tham khảo 05 1 Phụ lục 12
- Chương 1 CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH Ở CÁC PHƯỜNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. PHƯỜNG VÀ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH Ở CÁC PHƯỜNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - VAI TRề VÀ ĐẶC ĐIỂM 1.1.1. Các phường thành phố Hà Nội hiện nay - vai trũ và đặc điểm 1.1.1.1. Vai trũ của phường ở TPHN Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam, nằm ở trung tõm vựng đồng bằng sông Hồng, có vị trí từ 20o53’ đến 21o23’ vĩ độ Bắc và từ 105o44’ đến 106o02 kinh độ Đông. Hà Nội tiếp giáp 5 tỉnh: phía Bắc giáp Thái Nguyên, phía Đông giáp Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp Vĩnh Phúc; phía Nam giáp Hà Tây. Thành phố gồm 9 quận nội thành: Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Ba Đỡnh, Cầu Giấy, Thanh Xuõn, Tõy Hồ, Hoàng Mai, Long Biờn và 5 huyện ngoại thành: Súc Sơn, Đụng Anh, Thanh Trỡ, Từ Liờm, Gia Lõm. Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hoá và là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoỏ, quốc phũng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Hai mươi năm đổi mới là hai mươi năm phát triển, đi đúng định hướng và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, đưa sự nghiệp đổi mới của Hà Nội đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, chuyển biến cơ bản trong đời sống xó hội. Với 920,97 km2, bằng 0,28% diện tích tự nhiên của cả nước và khoảng 3.118.200 dân số trong 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, chiếm 3,6% dân số cả nước.
- Toàn TPHN có 128 phường trong 9 quận nội thành của Hà Nội. Phường là cấp hành chính cơ sở ở nội thành - đặc biệt đối với phường của thủ đụ Hà Nội lại càng cú vai trũ quan trọng hơn trong việc lónh đạo, phổ biến và tổ chức, quản lý, động viên quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước cũng như các nhiệm vụ của địa phương ... thông qua đó, để đưa được các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương đó vào cuộc sống, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong phường. Từ việc thực hiện được những chủ trương, đường lối, chính sách ... sẽ tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, vận động nhõn dõn làm trũn nghĩa vụ cụng dõn đối với nhà nước. Vai trũ của phường ở Hà Nội được Đảng ta và TUHN nhất quán khẳng định bằng những phương pháp, chủ trương và việc làm cụ thể thích hợp từ sau khi Hà Nội được giải phóng. Hiến pháp năm 1980 của nước cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, đơn vị hành chính ở Hà Nội chia thành 3 cấp. Riêng ở nội thành, dưới thành phố là cấp quận và dưới cấp quận là cấp phường. Quyết định số 94/HĐBT ngày 26/9/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định: "Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng 7.000 đến 12.000 dân. Chức năng chủ yếu của bộ máy chính quyền cấp phường là quản lý hành chớnh nhà nước, quản lý xó hội, quản lý và chăm lo phục vụ đời sống dân cư". Từ đó, căn cứ vào quyết định trên, ngày 15 tháng 4 năm 1982, UBND TPHN đó ra quyết định số 1408 để hướng dẫn các tổ chức phường nội thành hoạt động theo hỡnh thức mới. Tiếp đó, Ban Thường vụ Thành uỷ và Thường trực UBND TPHN đó quyết định họp và ra quyết định: đi đụi với việc quản lý hành chớnh về mặt nhà nước, quản lý xó hội, quản lý dõn cư, chăm lo đời sống nhân dân, chính quyền phường phải quản lý cỏc tổ sản xuất tiểu thủ cụng nghiệp (cả tập thể và cỏ nhõn) về cỏc mặt xây dựng, thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, phân phối, chấp hành các chế độ, thể lệ tài chính, giá cả và nghĩa vụ đối với nhà nước.
- Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước bước vào thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lónh đạo. TPHN cũng dần dần chuyển sang thực hiện cơ chế thị trường. Cấp phường lại cú vai trũ rất quan trọng trong điều kiện thực hiện cơ chế mới. Từ đó, UBND thành phố tiếp tục ban hành Quyết định số 3940/QĐUB ngày 25 tháng 8 năm 1990 về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp phường. Bản quy định gồm 20 điều, trong đú nờu rừ: Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước, thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Chính quyền phường có chức năng chủ yếu là quản lý hành chớnh nhà nước, quản lý xó hội và chăm lo phục vụ đời sống dân cư [46, tr. 9]. Do đó, ngay Điều 1 của bản quy định ghi rừ: Ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của các đơn vị và công dân trên địa bàn phường; về việc chấp hành các chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà nước, các quy định của thành phố về quản lý kinh tế, xó hội và đụ thị; chịu sự quản lý điều hành tập trung, thống nhất của quận, thị xó (gọi tắt là quận), thành phố trong quản lý dõn cư, quản lý xó hội, quản lý đô thị [46, tr. 10]. Qua 20 năm đổi mới, qua 20 năm thực hiện nhiệm vụ chính trị mới mà Đảng và nhà nước giao trên địa bàn thủ đụ, vị trớ và vai trũ của cỏc phường TPHN ngày càng được nhận thức và phát triển sâu sắc hơn, được thể hiện rừ trờn thực tế thực hiện cụng cuộc đổi mới. Các phường TPHN đó đúng gúp to lớn trong phỏt triển kinh tế, quản lý đô thị, khắc phục được những tệ nạn xó hội do phần lớn của sự tỏc động của mặt trái cơ chế thị trường, giải quyết những vấn đề xó hội trờn địa bàn, giữ vững an ninh chớnh trị, trật tự an toàn xó hội, gúp phần quan trọng vào thành tựu cụng cuộc đổi mới của Thủ đô. Như vậy, phường bờn cạnh vai trũ là nơi phổ biến, tổ chức, quản lý, động viên quần chúng nhân dân trong phường thỡ cũn cú vai trũ trong việc bảo đảm ổn định chính trị, chống lại những luận điệu xuyên tạc đối với đường lối, chủ trương, chính sách của
- Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cấp phường là cấp cơ sở cuối cùng trong hệ thống chính trị và là nơi tiếp nhận những ý kiến, những thắc mắc rất đời thường của quần chúng nhân dân trên những vấn đề đang diễn ra về văn hoỏ, giỏo dục, y tế; về kinh tế; về an ninh, quốc phũng; về quản lý dõn cư và xó hội; về quản lý lao động; về quản lý nhà, đất đai (đây là vấn đề nóng bỏng, đang diễn ra khá phức tạp hàng ngày, hàng giờ - đặc biệt là ở một số xó vừa được chuyển lên phường khi Hà Nội mở rộng, phát triển thêm những quận mới). Những vấn đề này liên quan tới cuộc sống hàng ngày của người dân, nếu các phường không giải quyết triệt để, tận gốc, hợp tỡnh, hợp lý thỡ sẽ xảy ra vấn đề khiếu kiện kéo dài, thậm chí sẽ vượt cấp ... điều này sẽ gây ảnh hưởng khụng nhỏ tới vai trũ lónh đạo của các đảng bộ phường, các quận uỷ, TUHN nói riêng cũng như của toàn Đảng ta nói chung. Cũng thông qua những sơ hở trong việc giải quyết không ổn thoả những vấn đề tồn tại hiện nay rất có thể sẽ tạo đà cho các âm mưu và thế lực thù địch muốn phá hoại hệ thống chính trị ở cơ sở, lợi dụng những bức xúc trong nhân dân mà lôi kéo, xúi bẩy, khiếu kiện đông người ... Do vậy, để làm tốt được các vấn đề về kinh tế, văn hoỏ, giỏo dục, an ninh, quốc phong, quản lý về đất đai, dân cư, lao động ... thỡ cần được định hướng và chỉ đạo thực hiện đúng hướng, có hiệu quả. Có như vậy, phường mới phát triển mạnh, bền vững; từ đó, mới có thể khẳng định phường mạnh, mà nếu phường mạnh thỡ quận mạnh và từ đó sẽ tạo đà cho Thủ đô vững mạnh. Và Thủ đô Hà Nội là trung tâm, là trái tim của cả nước, vỡ thế, nú cú thật sự vững mạnh thỡ sẽ tỏc động lớn đến sự phát triển của đất nước. 1.1.1.2. Đặc điểm của các phường TPHN Với vai trũ rất quan trọng trong việc bảo đảm an ninh chớnh trị, trật tự an toàn xó hội, cỏc phường TPHN - là nơi diễn ra các cuộc hội nghị, các cuộc họp quốc tế ... nên bên cạnh những đặc điểm chung, vốn có của các phường ở các thành phố khác trên cả nước, cũn cú cú những đặc điểm riờng cú của mỡnh. Đặc điểm 1 - đặc điểm chung: Phường ở Hà Nội cũng như các phường ở các thành phố khác trên cả nước đều là đơn vị cơ sở thuộc hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta.
- Điều này đó được quy định tại Điều 118 Hiến pháp 1992 quy định: "Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xó; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xó; huyện chia thành xó, thị trấn; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xó chia thành ph ường và xó; quận chia thành phường". Như vậy, phường có đầy đủ cỏc tổ chức trong hệ thống chớnh trị, cú cỏc tổ chức kinh tế, cỏc tổ chức xó hội, nghề nghiệp ... Vỡ thế, phường là hỡnh ảnh thu nhỏ của một xó hội, phần lớn cỏc hoạt động của đời sống xó hội đều được diễn ra ở phường. Để người dân ở phường có thể nắm bắt được những đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải được thông qua phường, hội tụ ở phường và từ phường lại tổ chức thực hiện sao cho thật có hiệu quả. Là cấp hành chính cơ sở cuối cùng, phường là nơi phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi kiểm nghiệm những chủ trương của Đảng và Nhà nước về quản lý đô thị, xây dựng thành phố văn minh, lịch sự, bài trừ cỏc tệ nạn xó hội, phỏt triển kinh tế, văn hoá, giáo dục ... Bởi đây là nơi gần dân nhất, là nơi nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng chính đỏng của nhõn dõn, vỡ thế đây là nơi mà Đảng cần tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Qua đó, Đảng mới có thể sửa đổi, bổ sung đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn hơn và đề ra chủ trương, chính sách mới sát hợp với phường. Đặc điểm 2: Phường ở Hà Nội là phường của Thủ đô - trái tim của Tổ quốc Việt Nam, là trung tâm đầu nóo chớnh trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ và giao dịch quốc tế; hơn nữa, các phường TPHN cũn là nơi tập trung rất nhiều các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh đồng thời cũn là nơi tập trung rất nhiều các cơ quan đầu nóo của trung ương, thành phố, các bộ, ban, ngành, doanh nghiệp, công ty ... và là nơi ở của các cán bộ cấp cao của trung ương và Hà Nội. Đây là thế mạnh và đặc điểm riêng có của nhiều phường ở thủ đô Hà Nội. Các phường có điều kiện thuận lợi trong việc trực tiếp quan hệ với các cơ quan trung ương, các doanh nghiệp, các công ty, trường học để phối hợp hoạt động giữa phường với các cơ
- quan đó trong hoạt động giữa phường với các cơ quan đó trong hoạt động xây dựng phường, tạo điều kiện cho phường phát triển, hoạt động đạt kết quả cao. Hơn thế, những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh với những nét riêng của thủ đô Hà Nội đó tạo điều kiện thuận lợi để các phường phát triển văn hoá, nâng cao dân trí, cũng như phát triển du lịch, dịch vụ để tăng thu ngân sách cho phường. Trong gần 1000 năm phát triển, Hà Nội luôn là trung tâm văn hoá của cả nước. Hệ thống di sản văn hoá tập trung với mật độ cao, trên địa bàn Hà Nội có 1.744 di tích lịch sử văn hoá (2 di sản/km2), trong đó có 499 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 308 di tích đang được đề nghị xếp hạng [62, tr. 13]. Hà Nội có nhiều địa danh nổi tiếng về cảnh quan thiên nhiên như: Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, đền Sóc ... Du lịch trên sông Hồng, du lịch qua các phố cổ với 36 phố phường ... là những tua du lịch khá hấp dẫn. Các phường của TPHN cũng có những di tích riêng của phường mỡnh, như phường phố Huế có khu di tích Chùa Vua mà hàng năm cứ vào ngày 06 tháng Giêng (âm lịch) tổ chức chơi cờ Vua bằng người, hay phường Đồng Nhân có khu di tích Chùa Hai Bà với hai bức tượng Hai Bà Trưng, câu chuyện về Hai Bà Trưng đánh giặc, cùng truyền thuyết về hai bức tượng; hay khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, một di tích không chỉ của riêng phường Văn Miếu mà cũn nổi tiếng khắp đất nước, các du khách nước ngoài mỗi lần đến Việt Nam, tới thủ đô Hà Nội đều mong muốn được đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám, bởi đây là trường đại học đầu tiên của Việt Nam - nơi ghi danh những bậc hiền triết, những nhà tiến sĩ đầu tiên của đất nước ta - những người đem tới vinh quang cho dân tộc. Đặc biệt, các phường TPHN cũn là nơi tập trung của những cán bộ cấp cao của trung ương và Hà Nội cư trú. Qua đội ngũ cán bộ cấp cao này, các phường TPHN càng có điều kiện thuận lợi để tận dụng, phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của họ để phát triển phường vững mạnh hơn trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đặc điểm 3: Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường trong cả nước - các phường ở Hà Nội cũng là nơi tập trung phát triển kinh tế hàng hoá theo chiều hướng phát triển mạnh
- Hầu hết các phường đều có ít nhất là một chợ phát triển. Những chợ này sẽ tạo điều kiện cho việc thu ngân sách của phường mạnh mẽ hơn. Nếu phường Đồng Xuân có chợ Đồng Xuân (chợ lớn nhất của Thủ đụ Hà Nội), thỡ phường phố Huế có chợ Trời (chuyên buôn bán đồ điện, máy móc), phường Ngụ Thỡ Nhậm với chợ Hụm - Đức Viên ... Các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các công ty liên doanh, công ty cổ phần và các văn phũng đại diện trong nước và nước ngoài... được thành lập nhiều tập trung ở các phường trong TPHN. Do vậy, các phường ở Hà Nội khụng cũn dỏng vẻ của thời bao cấp trước kia mà đó phỏt triển từ nhiều hỡnh thức khỏc nhau, từ việc sản xuất quy mụ nhỏ trong gia đỡnh như hộ sản xuất cá thể, hộ kinh danh ... nên có thể nhận thấy kinh tế của các phường TPHN chủ yếu là tiểu thương. Nhưng thuế và ngân sách nộp cho phường, nhà nước không phải là nhỏ. Do đó, sự đa dạng, phong phú của các thành phần kinh tế trên địa bàn phường ở Hà Nội là điều kiện quan trọng thúc đẩy nền kinh tế ở Hà Nội phát triển, nhưng lại đặt ra yêu cầu lớn `hơn nữa trong việc quản lý kinh tế. Tuyờn truyền, vận động và tạo điều kiện cho các hộ gia đỡnh, cỏc tổ sản xuất, hợp tỏc xó, cỏc doanh nghiệp ... sản xuất, kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật, nhất là việc kê khai, nộp thuế cho nhà nước theo đúng quy định. Đồng thời, tham gia phối kết hợp với các ngành, cơ quan chức năng, chuyên môn để quản lý vấn đề sản xuất, kinh doanh trên địa bàn mỡnh. Đặc điểm 4: Số lượng dân cư trên địa bàn phường rất lớn, cơ cấu khá đa dạng Tháng 12 năm 1999, dân số Hà Nội là 2.675.166 người, trong đó số người sống tập trung ở các phường trong nội thành là 1.523.936 người thỡ đến cuối tháng 12 năm 2005, dân số Hà Nội là 3.118.200 người, trong đó số người sống tập trung ở các phường trong nội thành là 2.011.766 người. Số lượng dân ở các phường nội thành nhiều gấp đụi ở cỏc xó ngoại thành của Hà Nội. Nhưng điều đỏng chỳ ý ở đây lại là dân "gốc" Hà Nội không nhiều, dân sống ở Hà Nội hiện nay lại là do làn sóng người di dân cơ học từ các tỉnh đó gõy nên sự hỗn hợp, phức tạp trong lối sống, văn hoá, ảnh hưởng đến nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội. Bởi các phường ở Hà Nội lại là nơi tập trung các nguồn
- nhân lực không có việc làm từ các vùng nông thôn, miền núi quanh Hà Nội. Đú là do sức hỳt của quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế, Hà Nội trở thành nơi hội tụ dũng di cư tự do. Đặc biệt, quỏ trỡnh đô thị hoá đó tạo ra cỏc dũng di dõn, người ở tỉnh ngoài về Hà Nội tỡm kiếm việc làm (cú lỳc lờn đến 13 vạn người), khiến áp lực dân số tăng nhanh hơn tốc độ phát triển cơ sở hạ tầng và trỡnh độ quản lý đô thị trong các phường của TPHN. Điều này tạo ra một sức ộp lớn về mọi mặt cho quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội của cỏc phường TPHN. Theo sự phát triển của kinh tế thị trường, Hà Nội cũng phát triển kinh tế nhanh, bắt nhịp theo thời đại, nhưng bên cạnh đó cũng tạo nên sự phân tầng mạnh mẽ của các tầng lớp dân cư trên địa bàn phường. Số người không có việc làm ổn định ở các phường cũn lớn, trong khi đó, số dân từ nơi khác tập trung về Hà Nội làm việc lại càng ngày càng gia tăng, tạo nên số lượng đông dân ở các phường do dân sở tại, dân cư trú theo hỡnh thức hộ khẩu thường trú, dân đó trải qua thời gian cụng tỏc, nay về sinh hoạt tại địa phương ... Chính những vấn đề trên, đó làm cho việc quản lý về nhõn khẩu, cụng tỏc quản lý xó hội, quản lý về chất lượng cuộc sống của quần chỳng nhõn dõn cũn gặp nhiều vướng mắc, hạn chế; hiện đang phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Đặc điểm 5: Cùng với sự thay đổi của đời sống kinh tế, đó bắt đầu cú sự phõn tầng xó hội, phõn hoỏ giàu - nghèo và diễn ra một quỏ trỡnh phõn cụng lại lao động, sản xuất trên nhiều ngành nghề khác nhau. Khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể vốn trước đây thu hút nhiều lao động xó hội, nay kinh tế tư nhân phát triển mạnh đó thu hỳt chủ yếu lực lượng lao động. Đặc biệt đối với các phường ở Hà Nội với những đặc trưng khác nhau như: có phường là trung tâm buôn bán, sản xuất, dịch vụ như phường Đồng Xuân, phường phố Huế, phường Cửa Đông, phường Hàng Mó, phường Hàng Đào; ... nhưng cũng có những phường chủ yếu là các khu tập thể cao tầng như phường Nghĩa Tân, phường Trung Tự, phường Thành Công, phường Thanh Xuân Bắc ...; lại có nhiều phường đang trong quỏ trỡnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hiện tại trong phường vẫn cũn hoạt động sản xuất nông nghiệp như phường Phúc Tân, phường Nhật Tân, phường Xuân La, phường Mai Dịch,
- phường Long Biên, phường Thạch Bàn, phường Cự Khối, phường Ngọc Thuỵ; phường Vĩnh Hưng, phường Thanh Trỡ, phường Đại Kim ... (đặc biệt là ở các phường của quận Cầu Giấy, Hoàng Mai, Long Biên). Nhiều phường trong thành phố vừa có phố lại vừa có làng như phường Việt Hưng, phường Đức Giang; phường Định Công, phường Lĩnh Nam..., có phường lại tập trung chủ yếu là cán bộ trung, cao cấp nghỉ hưu như phường Trần Hưng Đạo, phường tập trung một số lượng lớn là bộ đội cả tại ngũ lẫn về hưu như phường Nghĩa Tõn ... Vỡ thế, mức sống của người dân trong từng phường đều khác nhau. Có những phường tập trung buụn bỏn thỡ người về hưu, nghỉ chế độ vẫn có thể tham gia làm ăn, góp phần nuôi sống gia đỡnh, phỏt triển kinh tế phường nói chung ... Nhưng cũng có nơi khi người cán bộ công nhân viên chức về hưu, thỡ rất khú cú thể làm được việc gỡ, bằng đồng lương hưu mà Nhà nước trả cho họ sau thời gian công tác thỡ cuộc sống của họ sẽ khỏ khú khăn, chất lượng cuộc sống nhiều khi không đảm bảo ... Chính những điều trên đó thể hiện sự phong phỳ, đa dạng, tính chất đan xen của các phường ở Hà Nội hiện nay. 1.1.2. Đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà nội hiện nay - quan niệm, vai trũ và đặc điểm 1.1.2.1. Quan niệm, vai trũ của ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN hiện nay * Quan niệm về ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khoá IX đề ra nghị quyết: "Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xó, phường, thị trấn" chỉ ra vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở trong giai đoạn hiện nay. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta có Nghị quyết riêng về xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Trong văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá IX đó nờu rừ: Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm việc để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
- - Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp uỷ đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, những người đứng đầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chớnh trị - xó hội. - Cán bộ chuyên môn được Ủy ban nhân dân tuyển chọn gồm: công an trưởng, xó đội trưởng, cán bộ văn phũng, địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn hoỏ xó hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định [26, tr. 138]. Theo nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 của Chớnh phủ về cỏn bộ, cụng chức xó, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xó) và Thụng tư số 03/2004/TT-BNV ngày 16-01-2004 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xó, phường, thị trấn thỡ đó phõn ra làm hai đối tượng điều chỉnh. Thứ nhất, gọi là CBCT cấp xó, là những người do bầu cử để đảm nhiệm theo nhiệm kỳ, gồm: Bí thư, Phó bí thư đảng uỷ, Thường trực đảng uỷ (nơi không có Phó bí thư chuyên trách công tác đ ảng), Bí thư, Phó bí thư chi bộ (nơi chưa thành lập đảng uỷ cấp xó); Chủ tịch, Phú chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh. Thứ hai, gọi là cụng chức cấp xó, là những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyờn mụn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xó [20, tr. 2]. Như vậy, ở đối tượng thứ nhất là do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (mà gọi chung là CBCT cấp xó). Kết hợp cả hai loại văn bản trên, đội ngũ CBCT ở các phường của TPHN được quan niệm là những cán bộ do bầu cử theo nhiệm kỳ ở các phường thuộc TPHN bao gồm: Bí thư, Phó bí thư đảng uỷ; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí th ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
- Trong đội ngũ CBCT này, hầu hết là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đối tượng nghiên cứu của đề tài này. * Vai trũ của ĐNĐV là CBCT các phường TPHN hiện nay: Phường là nơi hội tụ sự chỉ đạo của các ngành, các cấp, các đoàn thể thuộc hệ thống ngành dọc từ trên xuống. ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN phải là hệ trung tâm, chủ thể giải quyết và phối hợp các mối quan hệ nêu trên. Để đạt được điều đó, đũi hỏi họ phải cú khả năng giải quyết công việc đảm bảo theo đúng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp trên. Họ phải là những người chịu trách nhiệm chính trước Đảng, Nhà nước và trước nhân dân. Đồng thời là người trực tiếp giải quyết các vấn đề, nguyện vọng của đảng viên, quần chúng; là cầu nối giữa Đảng với nhân dân nên đũi hỏi họ phải cú phẩm chất trớ tuệ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn. Vỡ vậy, việc nâng cao chất lượng lónh đạo quản lý của ĐNĐV là CBCT là yêu cầu cơ bản, là vấn đề cấp thiết nhằm đáp ứng nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho. Quỏ trỡnh đổi mới thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó tỏc động mạnh mẽ đến các phường của TPHN. Bước chuyển biến này có sự đóng góp quan trọng của ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN hiện nay; vừa đặt ra yêu cầu cao đối với đội ngũ này để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao. Đây là đội ngũ được hỡnh thành do kết quả bầu cử của cỏc kỳ Đại hội ở các tổ chức cơ sở đảng và các kỳ bầu cử HĐND, UBND. Do vậy, ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN vừa phải đáp ứng yêu cầu của người đảng viên, vừa phải đáp ứng được yêu cầu của người cán bộ cơ sở. Do đú, vai trũ của ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN tập trung vào những vai trũ chớnh sau: Vai trũ thứ nhất: ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN không những là những người tiờn phong trong phong trào của quần chỳng mà cũn là người lónh đạo, quản lý, đồng thời cũn là người tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao. Điều này thể hiện rất rừ trong cỏc cụng việc hàng ngày, nơi ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN thường xuyên gặp gỡ, trao đổi công việc với nhân dân. Họ cần phải
- thể hiện được sự tiên phong, thể hiện được sự lónh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện cỏc nhiệm vụ chớnh trị như thế nào để đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của đại đa số quần chúng nhân dân. Trong một tập thể sẽ không thể phát huy được sức mạnh nếu như không có người dẫn dắt, đưa đường, chỉ lối. Ở đây, không phải đề cao vai trũ người thủ lĩnh trong các phong trào, đoàn thể nhưng họ cần phải là đầu tàu đi đúng hướng, để làm sao không bị chệch đường ray, dẫn đến ảnh hưởng tới tất cả các "toa tàu" khỏc cũn lại. ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN được kiện toàn theo từng nhiệm kỳ, đó cú rất nhiều đảng viên là CBCT ở các phường TPHN đóng góp những thành tích không nhỏ cho cấp cơ sở phường - nơi mỡnh đang cụng tỏc. Vỡ thế, họ chớnh là người quyết định về hướng xây dựng và phát triển đơn vị phường trong phạm vi khi mỡnh là Bớ thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND và Chủ tịch các đoàn thể trong phường. Song song bên cạnh đó, họ không chỉ dừng lại ở đú mà cũn cần phải đi đầu, gương mẫu thực hiện và hướng dẫn tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trên địa bàn phường mỡnh đang công tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ rừ: "Mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm, mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành, mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện" [42, tr. 235-236]. Muốn làm trũn, làm tốt được vai trũ là người lónh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện cỏc nhiệm vụ chớnh trị thỡ cần phải thể hiện ở: Một là, về năng lực và phẩm chất của từng đảng viên là CBCT của các phường TPHN. Phẩm chất đạo đức là yếu tố được coi trọng trong tất cả ĐNĐV nói chung và ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN nói riêng. Năng lực của mỗi người đều có những mặt mạnh cũng như những mặt cũn hạn chế. Cần phải phỏt huy mặt mạnh, hạn chế mặt cũn yếu bằn g cỏch từ việc chọn người, chứ khụng vỡ từ người mà chọn việc. Năng lực của ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN đó được lựa chọn khá sâu nhưng vẫn cũn nhiều điểm chưa phù hợp do nảy sinh từ thực tiễn.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã người dân tộc thiểu số trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
123 p | 13 | 10
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội 3 ngũ công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Thuận tỉnh Kiên Giang
26 p | 56 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã người dân tộc thiểu số trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
24 p | 7 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã (là người dân tộc thiểu số) huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
108 p | 7 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trên địa bàn huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
103 p | 9 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã (là người dân tộc thiểu số) huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
26 p | 14 | 5
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk
21 p | 50 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm việc tại Văn phòng cục Thuế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
109 p | 5 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trường cao đẳng công lập trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
26 p | 12 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đánh giá và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý Công ty TNHH đầu tư phát triển công nghệ và thương mại Việt Nam
116 p | 67 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ điều dưỡng tại Bệnh viện Trường Đại học Y-Dược Huế
25 p | 9 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế
86 p | 12 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã (là người dân tộc thiểu số) huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
104 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ biên tập sách lý luận chính trị, pháp luật của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật
88 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tại Sở nội vụ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
106 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tại UBND huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An
125 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
122 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn