LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006
lượt xem 150
download
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang thu được nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Trong tình hình đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mọi cán bộ, đảng viên phải đổi mới tư duy, nâng cao trình độ lý luận chính trị của mình lên một tầm cao mới. Đặc biệt, người cán bộ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006
- LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang thu được nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Trong tình hình đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mọi cán bộ, đảng viên phải đổi mới tư duy, nâng cao trình độ lý luận chính trị của mình lên một tầm cao mới. Đặc biệt, người cán bộ cơ sở phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, năng lực trí tuệ nhất định. Theo V.I. Lênin chỉ có Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến cơ sở là yêu cầu cấp thiết cho mọi cán bộ chứ không phải chỉ riêng ở cán bộ nghiên cứu hay người làm công tác lý luận như trước đây thường quan niệm. Mặt khác, những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và khu vực cùng với sự yếu kém của nền kinh tế n ước ta đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề mới phức tạp. Có những vấn đề đơn giản nhận thức được bằng trực giác như ng cũng có những vấn đề đòi hỏi phải có sự khái quát, phân tích bằng t ư duy lý luận thì mới có thể nhận thức và giải quyết được. Điều đó đòi hỏi người cán bộ cơ sở phải có trình độ lý luận chính trị đáp ứng nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, năng lực và trình độ lý luận chính trị của cán bộ cơ sở có tác dụng quan trọng trong lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội và an ninh trật tự ở địa phương, thúc đẩy sự phát triển chung cho cả tỉnh, vùng và cả n ước. Trình độ lý luận chính trị đối với người cán bộ là yếu tố “then chốt” cho mọi hoạt động nhận thức và hành động thực tiễn của họ. Cán bộ cấp xã, ph ường, thị trấn có nắm vững, hiểu biết sâu sắc lý l uận chính trị mới nắm chắc các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mới vận dụng một cách sáng tạo
- vào tình hình cụ thể ở địa phương, từ đó rút ra những bài học, kinh nghiệm, những kết luận góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ c ơ sở nói riêng phải có trình độ, trong đó trình độ lý luận chính trị là không thể thiếu được. Cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre được hình thành từ nhiều nguồn, tr ưởng thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa được đào tạo cơ bản, thiếu vốn kiến thức chuyên môn, kiến thức lý luận chính trị. Bởi thế, trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn họ thường mắc phải bệnh kinh nghiệm, giáo điều, điều hành công tác lãnh đạo, quản lý cũng như xử lý công việc một cách máy móc, kém hiệu quả. Từ thực tế trên đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở ở tỉnh Bến Tre không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, trong đó có kiến thức lý luận chính trị. Tóm lại, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì người đảng viên nói chung, cán bộ cấp xã, ph ường, thị trấn ở tỉnh Bến Tre nói riêng phải rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Qua đó mới có thể nắm bắt, phản ảnh đúng đắn quy luật phát triển của thời đại; vận dụng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách có hiệu quả và đề ra những quyết sách đúng, phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa bàn mình phụ trách. Việc nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá thực trạng và đề ra phương hướng, giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Bến Tre có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận cũng nh ư thực tiễn. Chính vì thế, tôi chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006" để viết luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, mong muốn góp một phần nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu dân giàu, n ước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên địa bàn tỉnh Bến Tre. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo từ khi ra đời cho đến nay luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Thực hiện công cuộc đổi mới từ Đại hội VI (tháng 12 n ăm 1986) đến nay, Đảng đã đ ưa ra nhiều chủ trương, chính sách và những quy định về trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Đây là những định h ướng quan trọng góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và n ăng lực học tập thực tiễn” [12, tr.140-141]. Ngoài ra, Quy định số 54/QĐ-TW của Bộ Chính trị khóa VIII cũng khẳng định: "Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở phải học xong chương trình trung học chính trị tại các trường chính trị tỉnh, thành phố" [14, tr.2]. Trong những năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu, bài viết dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này như: - “Một số vấn đề về công tác tư tưởng” của Đào Duy Tùng, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1985. - “Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị” của GS Nguyễn Đức Bình, Tạp chí Cộng sản, tháng 5/1999. - “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên” của Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Cộng sản, tháng 11/ 1999. - “Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới” của Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 1/2004. - “Hội thi giảng viên dạy giỏi - hoạt động góp phần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị” của TS Nguyễn Văn Sáu, Báo Nhân Dân, tháng 11/2005. - “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy Mác - Lênin ở các Trường Chính trị tỉnh” của Nguyễn Đình Trãi, Luận án tiến sĩ Triết học năm 2001.
- - “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng Lê, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2004. - “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng” của Đoàn Thiện Tài, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học năm 2006. - Ngoài ra, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cũng đã tổ chức hội thảo và xuất bản kỷ yếu: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác t ư tưởng, lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002. Hội thảo đã đề cập nhiều nội dung quan trọng, đáng chú ý có các bài của các tác giả như: PGS,TS Nguyễn Khánh Bật với bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tư ởng lý luận; PGS,TS Hoàng Trang với bài Mấy suy nghĩ về công tác tư tưởng, lý luận ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong tình hình m ới dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh; PGS,TS Lê Văn Tích với bài Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống - khâu trọng yếu ở công tác tư tưởng, lý luận hiện nay , TS Phạm Ngọc Anh với bài Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận … Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Vì vậy, việc thực hiện đề tài Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006 là cấp thiết nhằm làm rõ hơn vai trò quan trọng của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở một cơ sở cụ thể, qua đó khắc phục những hạn chế, yếu kém về năng lực, trình độ lý luận chính trị cũng như chỉ đạo thực tiễn của đội ngũ cán bộ tỉnh Bến Tre. 3. Mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre vận dụng chủ trương của Đảng để lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở (1996 – 2006). Phân tích những kết quả bước đầu và đúc kết một số
- kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo công tác này đối với đội ngũ cán bộ ở địa phương. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng về công tác giáo dục lý luận chính trị để đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ (1996 – 2006). - Đánh giá những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế trong công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở Bến Tre. - Đúc kết những kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị từ năm 1996 đến 2006 và đề ra một số kiến nghị, giải pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở địa phương từ năm 1996 đến 2006. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Đề tài nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đối với công tác giáo dục lý luận chính trị từ n ăm 1996 đến 2006. Về không gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Bến Tre, có nghiên cứu ở mức độ nhất định ở các tỉnh lân cận để so sánh. 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre về công tác giáo dục lý luận chính trị . 5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và lôgíc. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp so sánh, th ống kê, phân tích, tổng hợp… 6. Đóng góp khoa học của luận văn - Luận văn trình bày một cách hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre vận dụng chủ trương của Đảng về giáo dục lý luận chính trị để lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong những giai đoạn tiếp theo. - Đánh giá kết quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Bến Tre (1996 – 2006) - Đúc kết một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị để vận dụng trong thời gian tới. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và tuyên truyền về lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre trong thời kỳ đổi mới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
- Chương 1 Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở (1996-2006) 1.1. quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin, tư tưởng hồ chí minh, đảng cộng sản việt nam về giáo dục lý luận chính trị và đặc điểm của tỉnh bế n tre 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục lý luận chính trị Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng, từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp thì bất kỳ một giai cấp, một chính đảng nào muốn nắm vững vai trò thống trị của mình đối với xã hội thì trước tiên phải có trình độ lý luận trí tuệ để nhằm tuyên truyền những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách… nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. V.I.Lênin đã khẳng định: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong h ướng dẫn, thì mới có khả n ăng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [28, tr.32]. Để hiểu bản chất của lý luận chính trị, tr ước hết cần tìm hiểu một số khái niệm có liên quan. “Lý luận” theo tiếng Hy Lạp “Theo rie” với nghĩ a sơ khai của nó là quan sát, nghiên cứu. Nhưng con người không chỉ dừng lại ở sự hiểu biết đó, mà con người ngày càng tìm kiếm, bổ sung, phát triển khái niệm lý luận làm cho nó ngày càng đầy đủ hoàn thiện hơn. Ngày nay, lý luận được hiểu là tập hợp các khái niệm, phạm trù quy luật được khái quát từ việc đúc rút những kinh nghiệm, hoạt động hằng ngày của con người. Hay nói khác đi, lý luận là hệ thống các quan điểm, tư tưởng được khái quát từ thực tiễn khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Lý luận chân chính là “đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm,
- trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh trong thực tế” [30, tr.233]. Có thể nói, định nghĩa về lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn chính xác và đầy đủ về lý luận. Qua đó, Người đã góp phần làm sáng tỏ quan niệm về lý luận cũng như nguồn gốc, cách thức hình thành lý luận. Tóm lại, tuy có rất nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về vấn đề lý luận, nhưng nhìn chung đều có sự thống nhất: lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội được tích luỹ trong quá trình hoạt động sống của con ngư ời; là sự phản ánh bản chất, tính quy luật, tất cả mọi hiện tượng trong đời sống xã hội và sau đó nó quay trở lại định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người. Cho đến nay, trên thế giới có rất nhiề u loại lý luận, ở mỗi ngành, lĩnh vực có một hệ thống lý luận đặc thù riêng, nhưng chúng ta chỉ bàn lý luận chính trị. Vậy chính trị là gì? Lý luận chính trị là gì? Khi đề cập đến chính trị có rất nhiều quan điểm khác nhau. Tuỳ theo cách tiếp cận cũng như việc bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình mà người ta đưa ra các quan điểm cho phù hợp. Theo quan niệm của các nhà kinh điển Mácxít thì chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia đối với quyền lực nhà nước. Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện giai cấp, phân chia giai cấp và nhà n ước. Theo tiếng Hy Lạp cổ chính trị là “politica” có nghĩa là những công việc có liên quan tới nhà n ước, là nghệ thuật cai trị đất nước, đó còn là một tổ chức xã hội nằm dưới một quyền lực nhất định, quyền lực nhà nước. “Chính trị theo nguyên nghĩa của nó là những công việc của nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [1, tr.507]. Vì lẽ đó V.I.Lênin khẳng định chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị do kinh tế quyết định. Nhưng mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
- khẳng định vai trò tích cực tác động trở lại của chính trị đối với đời sống kinh tế - xã hội. Sự tác động của chính trị đối với cơ sở kinh tế thường diễn ra theo hai hướng: nếu tư tưởng, quan điểm chính trị nào phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển khách quan thì nó thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ngược lại, nó làm kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “Chính trị không thể không chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế”. Ưu tiên cho chính trị, là ưu tiên cho việc giành lấy quyền lực chính trị và cho xây dựng các quyết sách chính trị đúng. Để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế thì phải thông qua một hệ thống chính trị như chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật nhà nước một cách đúng đắn khoa học, không được sai lầm, mơ hồ về chính trị. Chính trị là một lĩnh vực rất tinh tế, nhạy cảm, nó biểu hiện trên cơ sở các tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử và những quan hệ gắn với con người, với giai cấp, dân tộc và thời đại. Do tính phức tạp, nhạy bén, năng động nên chính trị không có một công thức chung, cách thức chung duy nhất nào cả và nó cũng không phải là con đường thẳng tắp, thuận lợi, dễ đi mà nó là con đường quanh co phức tạp. V.I.Lênin cho rằng chính trị giống đại số hơn là số học, càng giống toán học cao cấp hơn toán học sơ cấp, chính trị là vận mệnh thực tế của hàng triệu con người. Với góc độ tiếp cận khái niệm lý luận và khái niệm chính trị ở trên đây, có thể đưa ra một khái niệm lý luận chính trị nh ư sau: Lý luận chính trị là lý luận trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp để đại diện cho một lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất định trong xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực Nhà nước. Như vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận chính trị của giai cấp vô sản, là hệ tư tưởng chân chính nhất của giai cấp vô sản và chính đảng của mình - Đảng Cộng sản. Đó là kim chỉ nam của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng mình, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột của giai cấp tư sản và trả con người về đúng vị trí của nó.
- Đảng ta, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân với chủ nghĩa yêu nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t ư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Điều đó được Đảng ta khẳng định rõ trong Cương lĩnh đầu tiên ngay từ khi thành lập Đảng (3/2/1930) và sau này tron g Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t ư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Do thấy hết được vai trò to lớn của lý luận chính trị và công tác giáo dục lý luận chính trị, cho nên qua nhiều n ăm khảo sát thực tế và tiếp thu kinh nghiệm Cách mạng Tháng M ười Nga, Hồ Chí Minh cho rằng muốn đánh được thực dân đế quốc giành lại độc lập tự do cho đất nước thì trước hết phải làm cho dân giác ngộ, tức là phải tiếp thu lý luận chính trị của Đảng và hành động cách mạng theo phương châm của Đảng. Năm 1925, Hồ Chí Minh bắt đầu mở các lớp giáo dục lý luận cách mạng cho những người yêu nước của Việt Nam. Những bài giảng của Người được tập hợp lại và xuất bản thành tác phẩm “Đường Kách mệnh” do Bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông xuất bản năm 1927. Ngay trang bìa dưới tên Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã trích câu của Lênin trong tác phẩm “Làm gì ?” như một lời tựa: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong” [30, tr.259]. Cùng thời gian này, báo Thanh niên, là cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, ra số 95, 97 viết lý luận mà không thực hành thì không để làm gì. Thực hành mà không có lý luận thì thất bại. Trong một phần tư thế kỷ qua, những người cách mạng Việt Nam xem rẻ lý luận, cứ trực tiếp dùng bạo lực mà không cần biết tr ước kết quả của hành động mình, cho nên, trong thời gian đó, họ hy sinh nhiều người, nhiều của mà không đi đến đâu cả.
- Như vậy, Hồ Chí Minh là người đầu tiên quan tâm tới lý luận cách mạng và thực hành kiên trì, bền bỉ việc giáo dục lý luận chính trị cho các thế hệ người Việt Nam yêu nước. Người đã để lại cho cách mạng Việt Nam cả một di sản to lớn về giáo dục lý luận chính trị. Đó là cả một hệ thống quan điểm của Người về khái niệm giáo dục lý luận chính trị, về vị trí và mục đích của giáo dục lý luận chính trị, cũng như về nội dung, phương châm, phương pháp giáo d ục lý luận chính trị. Trong đào tạo - giáo dục các thế hệ cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm công tác giáo dụ c lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đó là một trong những vấn đề xuyên suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Tư duy nhất quán và nổi trội ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là sau khi tìm ra con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam, Người xác định: Cách mệnh trước hết phải có cái gì? và Người trả lời: Trước hết phải có đảng cách mệnh. Theo Hồ Chí Minh, đảng cách mệnh có sứ mệnh lịch sử là “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [30, tr.267-268] mà đưa cách mạng của dân tộc đến thành công. Cách mạng muốn thành công, theo Hồ Chí Minh, là đảng phải vững mạnh, đảng muốn vững mạnh phải có lý luận soi đường và tất cả cán bộ, đảng viên cần phải hiểu và thực hành theo lý luận đó. Người viết: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng nh ư ngư ời không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [30, tr.268]. Nh ư vậy, đảng cách mạng trước hết phải được võ trang bởi một lý luận tiền phong. Và để “trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo” lý luận tiền phong ấy thì giáo dục lý luận chính trị là nhân tố không thể thiếu được. Hồ Chí Minh đã tuyên truyền lý luận chính trị để sinh ra Đảng. Và Người cùng với Đảng liên tục giáo dục lý luận chính trị cho các đối tượng người Việt Nam yêu nước, dẫn đến Cách mạng tháng Tám thành công, thành lập
- nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á. Ngày nay, công tác giáo dục lý luận chính trị có thể hiểu theo nghĩa là công tác truyền bá những tri thức lý luận chính trị, những thông tin cần thiết về công tác xây dựng chính đảng của giai cấp; cụ thể hiện nay là: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; định hướng các lĩnh vực khoa học và công nghệ, kinh tế, các thành tựu khoa học xã hội và nhân văn, các thông tin chính trị, xã hội và văn hoá. Bên cạnh đó, công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng nhân dân, kh ơi dậy tinh thần kiên cường bất khuất, dũng cảm hy sinh chống áp bức, bóc lột giành độc lập tự do; là động lực thúc đẩy cán bộ, đảng viên và quần chúng hăng hái thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị cụ thể được Đảng và Nhà nước giao cho tiến tới giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Ngoài ra, công tác giáo dục lý luận chính trị tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và khả năng thực hành công việc của mỗi người trong thực tiễn cuộc sống, giúp họ khắc phục những t ư tưởng lạc hậu, nâng cao trình độ chính trị, tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình xây dựng xã hội mới. Không những thế giáo dục lý luận chính trị còn nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá như: lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam. Hơn nữa, công tác giáo dục lý luận chính trị không phải là một việc làm trừu tượng, một sự thuyết pháp, rao giảng chung chung mà là một công việc xuất phát từ thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp mang tính chiến đấu, tính tư tưởng, tính khoa học, tính giáo dục; nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn
- cách mạng cụ thể, nhất định. Do vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị phải được trình bày một cách khoa học, tâm lý, nghệ thuật, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuyết phục, dễ phổ biến. Trong tình hình mới hiện nay, với việc thực hiện c ơ chế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta rất coi trọng việc học tập, nghiên cứu lý luận trong tình hình mới: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới, phát triển văn hoá; con người và nguồn nhân lực; đặc điểm, nội dung của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại và sự phát triển kinh tế tri thức, những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu hoá, dự báo xu thế, phát triển chủ yếu của thế giới và khu vực; những vấn đề lý luận phục vụ quốc phòng, an ninh đối ngoại, đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch [16, tr.135]. Để công cuộc đổi mới nhanh chóng đi đến thắng lợi, CNXH sớm trở thành hiện thực, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác -Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh” [15, tr.83]. Đảng ta rất coi trọng việc học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh vào từng điều kiện cụ thể mà thời đại đặt ra. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng tiếp tục khẳng định: Phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của Đảng. Nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận và đổi mới công tác giáo dục l ý luận chính trị, công tác t ư
- tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp [19, tr.49]. Trong quá trình học tập, nghiên cứu chúng ta không được rập khuôn máy móc, không nên quá nặng nề về vấn đề câu chữ, không được xem nó như là cái đã hoàn hảo, là tuyệt đối mà phải biết bổ sung, phát triển nó trên c ơ sở thực tiễn mới làm cho nó luôn luôn sống động. Vì nắm vững tinh thần cốt lõi chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, nên từ khi ra đời đến nay Đảng ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cùng với việc ban hành những chủ trương, chính sách, mang tính đúng đ ắn, khoa học, cách mạng hợp lòng dân. Bản chất lý luận chính trị của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Do đó, việc nâng cao trình độ lý luận chính trị là nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ c ơ sở nói riêng, là điều cần thiết mang tính cấp bách cũng như chiến lược phát triển lâu dài của Đảng. 1.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế-văn hóa-chính trị-xã hội tỉnh Bến Tre Bến Tre là một trong 13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi 3 cù lao lớn: An Hóa, Bảo và Minh do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ nên qua nhiều thế kỷ. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt, mà đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống nh ư nan quạt xòe rộng ra ở phía đông. Diện tích tự nhiên của tỉnh có 2.315,01 km2, phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía Tây và Nam giáp tỉn h Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía Đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 65 km.
- Điểm cực Nam của tỉnh nằm trên vĩ độ 9048’ Bắc, cực Bắc nằm trên vĩ độ 10020’ Bắc, điểm cực Đông nằm trên kinh đ ộ 106048’ Đông, điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105057’ Đông. Đường bộ nối liền thị xã Bến Tre với thành phố Hồ Chí Minh (qua Tiền Giang, Long An) dài 86 km. Bến Tre là một tỉnh châu thổ nằm sát biển nên có địa hình bằng phẳng, rải rác có những giồng cát xen kẽ với ruộng v ườn, không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi, những dải rừng ngập mặn ven biển và ở các cửa sông. Bốn bề đều có sông nước bao bọc, Bến Tre có một hệ thống đường thủy gồm những sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông chính (cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông và cửa Cổ Chiên), ngược về phía thượng nguồn đến tận biên giới Campuchia và một hệ thống kênh, rạch chằng chịt đan vào nhau như những mạch máu chảy khắp ba dải cù lao, rất thuận tiện cho giao thông vận tải cũng như thủy lợi. Tàu bè từ thành phố Hồ C hí Minh đi về miền Tây và ngược lại đều đi qua đất Bến Tre. Tuy có hệ thống đường thủy thuận lợi nhưng hệ thống đường bộ gặp nhiều khó khăn do bị chia cắt bởi nhiều sông rạch chằng chịt. Điều kiện địa lý cách trở làm cho vùng đất cù lao Bến Tre trở nên biệ t lập từ bao đời nay, không chỉ giữa Bến Tre với các tỉnh bạn mà sự biệt lập này diễn ra ngay trong địa bàn của tỉnh bởi sự chia tách của hàng chục những cồn lớn, nhỏ khác nhau. Chính điều kiện địa lý tự nhiên ấy đã hình thành nên một số nét tính cách và tâm lý của con người Bến Tre. Điểm nổi bật của con người nơi đây là ý chí tự lực, tự cường. Bởi lẽ, giữa bốn bề sông n ước họ khó có thể dựa vào ai, chỉ có thể dựa vào sức mình là chính. Tinh thần đó không chỉ thể hiện trong sản xuất mà còn trong tổ chức đời sống xã hội và đặc biệt là trong chiến đấu. Tuy nhiên, khi đề cập đến vùng đất này các nhà nghiên cứu thường hay nói đến tính chất bảo thủ, ngưng đọng, nhịp sống trì trệ, chậm thay đổi… Do điều kiện địa lý cách trở, giao lưu không thu ận tiện có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển tính cách, tâm lý cũng nh ư trình độ nhận thức của con người Bến Tre nói chung, đội ngũ cán bộ nói riêng. Từ đó nảy sinh tư tưởng hẹp hòi, ích kỷ, cục bộ địa phương ở một số cán bộ, thể hiện qua câu ca dao:
- “Sông Bến Tre có lở anh bồi Sông Sài Gòn có lở anh ngồi anh coi” Họ chỉ giữ lấy cái truyền thống, con người của địa phương mà không chú ý vươn lên tiếp thu cái hiện đại, giá trị độc đáo của địa phương khác. Vì vậy trong quá trình phát triển, cán bộ cơ sở ở Bến Tre phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, cục bộ địa phương để tiếp thu cái mới, cái phù hợp với quá trình CNH -HĐH tỉnh nhà. Nhìn lại lịch sử hơn 300 năm hình thành và phát triển, Bến Tre là một vùng đất mới nhưng lại có bề dày lịch sử-văn hóa rất đáng tự hào. Ngay từ buổi đầu mở đất, nhân dân Bến Tre đã ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn do Quang Trung lãnh đạo đánh tan 5 vạn quân Xiêm ở trận Rạch Gầm-Xoài Mút. Chính mảnh đất này đã sản sinh ra những con người tài năng, có học vấn uyên thâm. Phan Thanh Giản, người con của vùng đất Ba Tri, đã thi đỗ tiến sĩ năm 30 tuổi và trở thành vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ lục tỉnh. Tr ương Vĩnh Ký – con người có “học vấn uyên bác”, thông thạo h ơn mấy chục ngôn ngữ, là người làm báo đầu tiên, viết văn chữ quốc ngữ, viết ký quốc ngữ đầu tiên của cả nước. Chỉ trong 40 năm, ông đã để lại 118 tác phẩm đủ các loại. Ngoài ra, chỉ những cái tên như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Sương Nguyệt Anh, Nguyễn Thị Định… cũng đã làm rạng danh quê hương Bến Tre. Con người Bến Tre vốn anh hùng nhưng cũng rất hiền hòa, dung dị, thắm đượm tình đất, tình người trong những câu chuyện kể, th ơ ca dân gian, những câu hò, điệu lý. Nhạc sĩ Lưu Nhất Vũ trong công trình sưu tập dân ca của mình đã kết luận “Bến Tre là một trong những cái nôi của nguồn dân ca Nam Bộ”. Điều này cho thấy, con người Bến Tre rất có ý thức bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của cha ông. Kết quả là Bến Tre đã được Bộ Văn hóa - Thông tin - Du lịch công nhận 13 di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân Bến Tre đã kiên c ư ờng chiến đấu và chiến thắng, góp phần vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Chính trong đau thương, gian khổ của
- cuộc chiến tranh đã làm xuất hiện những sự kiện lịch sử độc đáo gắn liền với tên đất, tên người Bến Tre. Càng không thể quên những sáng tạo trong hai cuộc kháng chiến mới đây: vượt biển đầu tiên, ngay từ 1946, ra Phú Yên và đi Hà Nội gặp Trung ương, Bác Hồ rồi mở đường Hồ Chí Minh trên biển, làm đầu cầu tiếp nhận vũ khí từ Bắc vào, phân phối cho cả miền, gần nh ư tay không nổi lên Đồng khởi, chuyển ngoặt tình hình; đấu tranh chính trị bằng “đội quân tóc dài” độc nhất vô nhị xưa nay… đều từ Bến Tre [21, tr.11-12]. Chính vì thế, trong Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn miền Nam do Trung ương cục miền Nam và Quân ủy Miền chủ trì (1968), Bến Tre được phong tặng 8 chữ vàng “ANH dũng đồng khởi, thắng mỹ, diệt ngụy”. Kết thúc cuộc kháng chiến, Bến Tre là tỉnh anh hùng được Nhà nước phong tặng 14 vị tướng, 53 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 2.067 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 84 đơn vị xã, phường anh hùng và 8/8 huyện, thị anh hùng. Đảng bộ và nhân dân Bến Tre có quyền tự hào về điều này. Là tỉnh có diện tích tự nhiên không lớn chỉ 2.315,01 km2 nhưng 70% diện tích là đất nông nghiệp, cùng với 65 km bờ biển và hệ thống sông ngòi chằng chịt đã cho Bến Tre lợi thế phát triển mạnh về kinh tế vườn và kinh tế thủy sản, cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Trong những năm gần đây, kinh tế Bến Tre có bước phát triển khá. Giai đoạn 1996- 2000, tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn chỉ tăng bình quân 6,18%/ năm nhưng đến năm 2006 đã đạt 10,8%. Theo đánh giá của UBND tỉnh, trong những n ăm qua cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng khu vực công n ghiệp-xây dựng và dịch vụ trong GDP t ăng lên, khu vực nông nghiệp giảm dần. Các ngành thủy sản, công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, thương mại-dịch vụ có bước phát triển tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Kinh tế đối ngoại được quan tâm, các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài được tỉnh vận dụng phù hợp,
- thông thoáng và triển khai đạt hiệu quả bước đầu. Xuất khẩu tăng trưởng liên tục, tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 n ăm (2001-2005) đạt 347 triệu USD, tăng bình quân 32%/ năm, gấp 2,23 lần so với nhiệm kỳ tr ước. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH tốc độ còn chậm, hiệu quả chưa cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bến Tre ch ưa bền vững, còn phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ tăng của khu vực I (nông-lâm-ngư nghiệp). Năm 2006, GDP của tỉnh ở khu vực I (nông nghiệp) vẫn còn cao, chiếm đến 54,7%; trong khi đó, khu vực II (công nghiệp, xây dựng) chỉ có 18,8% và khu vực III (dịch vụ) 26,5%. Về cơ cấu ngành nghề, Bến Tre do bị hạn chế về địa lý lãnh thổ nên mức độ đa dạng hóa ngành nghề sản xuất còn thấp, chủ yếu vẫn là phát triển các ngành nghề truyền thống của địa phương như làm nông nghiệp, khai thác và chế biến nông, thủy hải sản. Tuy nhiên, trình độ phát triển còn thấp, quy mô sản xuất nhỏ bé, vấn đề đổi mới thiết bị triển khai chậm. Mặt khác, do sự cách trở về địa lý cũng làm cho việc thu hút đầu tư bên ngoài, cạnh tranh sản xuất và xuất khẩu ở Bến Tre so với các tỉnh trong khu vực không có nhiều thuận lợi. Bến Tre là tỉnh có diện tích đất không rộng nhưng lại đông dân (dân số 1.358.314 người tính đến cuối năm 2006), nền kinh tế phát triển chậm (Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 là 10,51%, năm 2006 là 10,8%; Thu nh ập bình quân đầu người năm 2005 là 7,355 triệu đồng, năm 2006 là 8,306 tri ệu đồng), điều này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là người cán bộ cơ sở. Tuy đời sống của người dân từng bước được cải thiện nhưng đến nay, tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn cao với 18.986 hộ, chiếm 17,47% số hộ trong toàn tỉnh. Từ đó, nhiều vấn đề bức xúc đặt ra trên lĩnh vực xã hội ngày càng gay gắt, nổi lên là vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cá nhân, những vấn đề về tệ nạn xã hội… Những nhân tố đó đã gây nên nhiều trở ngại không nhỏ trong việc giáo dục lý luận chính trị cho người cán bộ cơ sở. Mặt khác, Bến Tre là một trong những tỉnh bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhất của cả nước cho nên phải gánh chịu những hậu quả hết sức to lớn của cuộc
- chiến tranh, đặc biệt là về mặt xã hội. Với hơn 35.000 liệt sĩ, trên 18.000 thương binh, 2.067 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (hiện còn sống 402 mẹ), gần 15.000 người bị nhiễm chất độc hóa học… Tất cả đ iều đó đã nói lên tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh trên mảnh đất này. Đối với Bến Tre bao nhiêu a nh hùng là bấy nhiêu đau thương, bao nhiêu ni ềm vinh quang là bấy nhiêu nỗi bất hạnh. Vì thế, những thế hệ người Bến Tre hôm nay mặc dù đời sống kinh tế vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu nhưng vẫn không ngừng phấn đấu vươn lên, khắc phục những khó khăn thử thách, sống xứng đáng với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Có thể nói, quá trình quá trình phát triển kinh tế -xã hội của Bến Tre và quá trình giáo dục lý luận chính trị cho người cán bộ cơ sở có quan hệ gắn bó với nhau. Đời sống kinh tế phát triển thì người cán bộ có điều kiện để học tập, tiếp thu những giá trị của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời sau khi tiếp thu được những kiến thức đó họ có thể vận dụng vào thực tế của địa phương và làm cho địa bàn mình phụ trách phát triển về mọi mặt. Vì vậy, để việc lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị của đảng bộ tỉnh Bến Tre có hiệu quả tr ước hết phải chú trọng đến phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người cán bộ cơ sở. Cấp cơ sở là cấp có vị trí quan trọng trong mối quan hệ với cấp huyện và cấp tỉnh. Cấp cơ sở là nơi cụ thể hóa các nghị quyết, nghị định, hướng dẫn của cấp tỉnh và cấp huyện, sâu sát với địa phương, trực tiếp lãnh đạo, quản lý địa phương về mọi mặt. Chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và năng lực quản lý của đảng bộ, chính quyền c ơ sở; quyết định việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; vận dụng sáng tạo nghị quyết, chỉ thị, h ướng dẫn của tỉnh, huyện vào thực tiễn sinh động ở địa phương. Đội ngũ cán bộ cơ sở không được nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu, phẩm chất và năng lực trong thời kỳ mới sẽ là một thiệt thòi cho cách mạng, cho nhân dân địa phương. Nâng cao chất lượng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN (1975 - 2005)
107 p | 169 | 24
-
Luận văn: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY ĐẦU TƯ XÂY LẮP THƯƠNG MẠI MỘT SỐ NĂM GẦN ĐÂY
27 p | 114 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Sử dụng khuê tảo đáy trong đánh giá ô nhiễm môi trường nước ở thành phố Bến Tre
77 p | 46 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ hướng đến quản trị rủi ro tại công ty trách nhiệm hữu hạn Fujikura Việt Nam
126 p | 26 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý tài nguyên và môi trường: Nghiên cứu sự đa dạng các loài Bò sát (Reptilia) và Ếch nhái (Amphibia) tại Khu Dự trữ Thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong
103 p | 24 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm phân bố của các loài cá ở khe suối, hồ thủy lợi, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
121 p | 22 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Đánh giá đa dạng di truyền loài Vên vên (Anisoptera costata) đang bị đe dọa trong rừng nhiệt đới Đông Nam Bộ
71 p | 36 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính tài trợ hoạt động đầu tư phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ nay đến 2015 theo hướng bền vững
90 p | 22 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Kiểm soát chi bảo hiểm y tế tại các cơ sở khám, chữa bệnh do Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi thực hiện
26 p | 30 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu một số tác động của thủy điện đến thành phần loài và phân bố của cá ở sông Tranh, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam
80 p | 12 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên trong một số quần xã rừng trồng thuần loài và hỗn giao tại xã Ngọc Đường, thành phố Hà Giang
94 p | 21 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mô hình tài chính công của đà nẵng và bình dương trong mối liên hệ với mô hình phát triển kinh tế xã hội: nghiên cứu so sánh và những bài học
75 p | 34 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý tài nguyên rừng: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa
63 p | 21 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc thảm thực vật rừng trên núi đá vôi tại một số địa phương ở Con Cuông, Nghệ An
92 p | 40 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Nghiên cứu đặc điểm cơ bản của một số kiểu thảm thực vật tại xã Kỳ Thượng, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh
121 p | 23 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chính sách ổn định sinh kế người dân kết hợp quản lý bảo vệ rừng bền vững - Tình huống rừng phòng hộ Tân Phú tỉnh Đồng Nai
61 p | 21 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm phân bố cá ở trông Bàn Thạch tỉnh Phú Yên
113 p | 12 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn