intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

154
lượt xem
38
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự ngiệp xây dựng và phát triển đất nước. Việc chuyển từ mô hỡnh kinh tế tập trung quan liờu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cho phộp chỳng ta tận dụng, huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, công cuộc...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự ngiệp xây dựng và phát triển đất nước. Việc chuyển từ mô hỡnh kinh tế tập trung quan liờu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cho phộp chỳng ta tận dụng, huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bước đầu đó cú những thành cụng nhất định. Quá trỡnh hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế càng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng hơn. Tuy nhiờn, trong quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá nền kinh tế, chúng ta đó khai thỏc tài nguyờn thiờn nhiờn quỏ mức, chưa chú ý đến vấn đề phát triển bền vững, gây ra những hậu quả không đáng có về môi trường sinh thái, điều đó đó phỏ vỡ mối quan hệ bền vững giữa con người đối với môi trường tự nhiên và tất yếu sẽ bị tự nhiên “trả thù” một cách tương ứng. Ph.Ăngghen đó chỉ ra rằng: “Nền văn minh phát triển một cách tự phát, không có sự hướng dẫn một cách có ý thức khoa học thỡ sẽ để lại đằng sau nó một bói hoang mạc” [5, tr.220]. Hà Nội là một trung tâm chính trị, văn hoá lớn của cả nước, trong quá trỡnh phỏt triển kinh tế cũng để lại nhiều vấn đề đối với môi trường tự nhiên. Bên cạnh việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề dân số gia tăng cơ học cũng phá vỡ kết cấu hạ tầng vốn có của Hà Nội. Điều này buộc Hà Nội phải đẩy nhanh tốc độ mở rộng và đô thị hoá đất nông nghiệp. Đây là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến nguy cơ mất cân bằng sinh thái của chính Hà Nội. Những biểu hiện của nguy cơ tiềm ẩn đó được bộc lộ ngay chính trong quá trỡnh phỏt triển mở rộng địa giới của Hà Nội. Khu vực đất canh tác nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, các dũng sụng trở thành nơi xả nước thải công nghiệp, nhiều khu vực phát triển làng nghề truyền thống một cách tự phát gây ô nhiễm nghiêm trọng làm cho môi trường sống của Hà Nội vốn ngột ngạt lại càng trầm trọng thêm. Khu vực nông thôn của Hà Nội đóng vai trũ là vựng dự trữ sinh quyển chiến lược
  3. cho thành phố bị biến đổi theo hướng bất lợi, trong tương lai gần nếu không có những giải pháp triệt để cho vấn đề môi trường nông thôn và lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường mà thế hệ tương lai phải gánh chịu. Đó cú nhiều giải phỏp mang nặng tớnh hành chớnh được đưa ra nhưng chỉ thu được kết quả không đáng kể trong việc bảo vệ môi trường của Hà Nội nói chung và khu vực nông thôn nói riêng. Để giải quyết vấn đề này một cách chắc chắn và bền vững, cùng với những giải pháp về kinh tế, hành chính, pháp luật cần nâng cao nhận thức của người dân trong cuộc sống, hoạt động, sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt là việc tuyên truyền giáo dục các giá trị đạo đức sinh thái. Do vậy chúng tôi chọn đề tài “Đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay " làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành triết học. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài Vấn đề đạo đức sinh thái và việc bảo vệ môi trường nói chung, môi trường nông thôn nói riêng đó cú nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu và nhiều tỏc giả đó cú những bài viết trờn cỏc tạp chớ khoa học xó hội trờn cả nước như: - Quốc hội nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam: Luật bảo vệ môi trường…Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. - Bộ Tài nguyên và môi trường: Báo cáo của Bộ tài nguyên và môi trường về việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường…(Tại Hội nghị môi trường toàn quốc 4/2005). - Trần Lê Bảo (chủ biên): Văn hoá sinh thái nhân văn, Nhà xuất bản Văn hoá- Thông tin 2001. - Phạm Văn Boong: í thức sinh thỏi và vấn đề phát triển lâu bền, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. - Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. - Bùi Văn Dũng: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ triết học, Viện Triết học, 1999. - Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, 1998.
  4. - Hỏi đáp về bảo vệ tài nguyên môi trường nông thôn Việt Nam, 2004. - Bộ Chính trị, Nghị quyết số 41- NQ/TU về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Trần Sỹ Phán: Đạo đức sinh thái- vấn đề cần được quan tâm, Tạp chớ Giỏo dục lý luận, số 7/2006. - Trần Sỹ Phán: Quan điểm của Mác- Ăngghen về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên, Tạp chớ Lý luận chớnh trị, số 6/2006. - Hồ Sỹ Quý: Về đạo đức môi trường Tạp chí triết học, số 9/2006 - Quy định mới về bảo vệ môi trường, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. - Phạm Thị Ngọc Trầm: Bảo vệ môi trường- nhiệm vụ chung của toàn nhân loại, Tạp chí Cộng sản số 26/2002. - Phạm Thị Ngọc Trầm: Đạo đức sinh thái- từ lý luận đến thực tiễn, Tạp chí Triết học, số 12/2003. - “Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển của xó hội”, Nhà xuất bản Khoa học xó hội năm 2000 của GS . TS Nguyễn Trọng Chuẩn và tập thể tác giả. - “Đạo đức sinh thái và việc giáo dục đạo đức sinh thái cho cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Bắc nước ta hiện nay”- Đề tài khoa học cấp Bộ- năm 2004, Học viện chính trị - Hành chính Khu vực I, do PGS.TS Vũ Trọng Dung làm chủ nhiệm. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn Nghiờn cứu vai trũ của đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường nông thôn Hà Nội, trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trũ của đạo đức sinh thái của người dân trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay. Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần thực hiện nhiệm vụ sau: - Làm rừ khỏi niệm đạo đức sinh thái, đặc trưng cơ bản và vai trũ của đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn.
  5. - Phân tích, đánh giá thực trạng môi trường tự nhiên và đạo đức sinh thái ở nông thôn Hà Nội hiện nay. - Nêu luận chứng khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp nõng cao vai trũ của đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đạo đức sinh thái và môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay 4.2. Phạm vi nghiên cứu Là những nhân tố, những điều kiện tác động đến môi trường tự nhiên và đạo đức sinh thái trên địa bàn nông thôn thành phố Hà Nội. Những số liệu và tài liệu khảo sát chủ yếu được đề cập từ năm 2005 trở lại đây. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về môi trường, đạo đức, nông nghiệp và nông thôn…. Ngoài ra, việc thực hiện bản luận văn này tác giả cũn tham khảo những cụng trỡnh khoa học đó cụng bố cú liờn quan đến vấn đề đạo đức sinh thái, vấn đề môi trường nông thôn hiện nay ở nước ta - nhất là trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với ph ương pháp cụ thể như: điều tra xó hội học, thống kê, so sánh… 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Hệ thống hoá những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta, làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu và luận giải về đạo đức sinh thái trên phương diện triết học; đặc biệt là làm rừ một số đặc trưng cơ bản của đạo
  6. đức sinh thái, vai trũ của đạo đức sinh thái với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn. - Phân tích những nhân tố tác động, những biến đổi của đạo đức sinh thái ở một địa phương có tính đặc thù như thủ đô Hà Nội. - Đề xuất những giải pháp để nâng cao vai trò của đạo đức sinh thái nhằm bảo vệ môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 7.1. Về mặt lý luận - Từ tiếp cận triết học đó nêu và luận giải một cách hệ thống các luận điểm cơ bản về đạo đức sinh thái như: sự hỡnh thành, khái niệm, đặc trưng cơ bản, vai trũ của đạo đức sinh thái. 7.2. Về mặt thực tiễn - Luận văn đó góp phần làm rừ thực trạng môi trường tự nhiên ở nông thôn Hà Nội hiện nay và đánh giá, khảo sát, phân tích hành vi của người dân ở nông thôn Hà Nội đối với môi trường tự nhiên. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập, giảng dạy môn đạo đức và đạo đức sinh thái; có thể góp phần phân tích, luận giải và khuyến nghị giải pháp cho việc xây dựng nông thôn mới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  7. Chương 1 ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VÀ VAI TRề CỦA ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở NÔNG THÔN HIỆN NAY 1.1. ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC SINH THÁI 1.1.1. Đạo đức sinh thái 1.1.1.1. Sự hỡnh thành đạo đức sinh thái Danh từ Đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Cũn “luân lí” thường xem như đồng nghĩa với “đạo đức” gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos - nghĩa là lề thói tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức là nói đến lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định của con người trong đời sống. Quan niệm mác-xít khẳng định rằng, đạo đức có nguồn gốc từ lao động. Tính quy định sâu xa của lao động đối với sự hỡnh thành đạo đức biểu hiện trước hết ở vai trũ của lao động trong sự hỡnh thành con người. Trong tác phẩm ''Tác dụng của lao động trong quá trỡnh chuyển biến từ vượn thành người'', bằng sự khái quát các tài liệu sinh học, nhân học đương thời, Ph.Ănghen đó chỉ ra rằng: Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức độ mà trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói: Lao động đó sỏng tạo bản thân con người. Nhưng lao động không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất, mà hành động lịch sử đầu tiên của con người với tư cách là con người xó hội đó tạo ra các năng lực, các phẩm chất như: nhận thức, thẩm mỹ, đạo đức; đồng thời lao động đó sỏng tạo ra mối quan hệ song trựng giữa con người với con người và con người với tự nhiên ... C.Mác từng chỉ ra rằng, hành động lịch sử đầu tiên của con người là lao động. Nhưng lao động với tư cách là lao động thỡ khụng bao giờ là một hành động đơn lẻ, cá biệt. Trong các quan hệ giữa người với người, nghĩa là trong cỏc quan hệ xó hội, con người tiến hành lao động để thoả món nhu cầu sống cũng như các lợi ích của mỡnh. Nhờ cú tư duy, con người nhận ra sự cần thiết của sự tương trợ lẫn nhau trong lao động.
  8. Tính tất yếu này đũi hỏi một hy sinh nhất định lợi ích cá nhân cho lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng. Nhưng đổi lại, lao động của con người có hiệu quả hơn. Sự tương trợ đó, ban đầu được thể hiện trên cơ sở con người ý thức được tính tất yếu về mặt lợi ích của sự tương trợ lẫn nhau. Nhưng sự tương trợ lẫn nhau một khi đó trở thành thúi quen, tập quỏn thỡ khi đó con người nảy sinh khát vọng tương trợ tự nguyện. Khát vọng đó chính là tỡnh cảm đạo đức đầu tiên của con người. Hành vi được điều chỉnh bởi ý thức và khỏt vọng tương trợ tự nguyện chính là hành vi đạo đức đầu tiên của con người. Từ lao động và cùng với lao động, sự tương trợ lẫn nhau được mở rộng ra các lĩnh vực sống của con người, xó hội. Đó chính là cơ chế của sự hỡnh thành đạo đức. Nó hiện diện như một phương thức đặc thù của sự điều chỉnh hành vi con người. Sự điều chỉnh ấy dựa trên cơ sở tự giác, tự nguyện và ưu tiên lợi ích của cộng đồng, xó hội. Xuất phỏt từ vai trũ lao động đối với sự hỡnh thành, tồn tại và phỏt triển con người, C.Mác đi đến quan niệm về tính quy định, xét đến cùng của phương thức sản xuất, của tồn tại xó hội đối với toàn bộ cỏc lĩnh vực cũn lại của xó hội. Trong lời tựa của tỏc phẩm ''Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị'' C.Mác viết: Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quy trỡnh sinh hoạt xó hội, chớnh trị và tinh thần núi chung. Khụng phải ý thức của con người quyết định ý thức của họ; trỏi lại tồn tại xó hội của họ quyết định ý thức của họ. Luận điểm này chính là chỡa khoỏ để giải thích bản chất của tất cả các hiện tượng xó hội, trong đó có đạo đức. Đạo đức hỡnh thành từ trong lao động và các hoạt động sống của con người nhằm điều chỉnh một cách tự giác và tự nguyện các quan hệ lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng, xó hội. Sự điều chỉnh này được thực hiện thông qua các nguyên tắc, các chuẩn mực phản ánh cỏc yờu cầu xó hội đối với mỗi cá nhân. Đến lượt mỡnh, cỏc yờu cầu của xó hội thể hiện trong cỏc nguyờn tắc, cỏc chuẩn mực đạo đức chính là sự phản ánh một trỡnh độ phát triển kinh tế - xó hội nhất định và phản ánh những đũi hỏi đảm bảo cho sự phát triển ổn định của xó hội tương ứng với trỡnh độ phát triển đó. Nói cách khác, mỗi thời đại kinh tế - xó hội nhất định có những đũi hỏi tương ứng về mặt đạo đức đối với con người. Do đó, khi cơ sở kinh tế của xó hội đó thay đổi thỡ trước sau những chuẩn mực, những nguyên tắc đạo đức xó hội cũng biến đổi theo.
  9. Lịch sử phát triển của đời sống đạo đức nhân loại đó cho thấy, một mặt trỡnh độ phát triển của kinh tế - xó hội quy định nội dung của các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức; mặt khác trên cơ sở tính quy định của kinh tế - xó hội, cỏc nguyờn tắc, cỏc chuẩn mực đạo đức lại tác động ngược trở lại và trở thành một trong những nhõn tố làm bỡnh ổn sự phỏt triển của đời sống kinh tế - xó hội. Nói cách khác, tương ứng với mỗi thời đại lịch sử, mỗi hỡnh thỏi kinh tế - xó hội là một hỡnh thỏi đạo đức nhất định đặc trưng cho thời đại đó. Cùng với tính thời đại, đạo đức mang tính dân tộc. Tính dân tộc của đạo đức quy định bởi những nhân tố tự nhiên, tức là sự khác biệt về mặt địa lý, khí hậu, địa vực cư trú của các dân tộc, tộc người. Trong quá trỡnh thớch ứng với những điều kiện địa lý khác nhau đó, các dân tộc, các tộc người khác nhau hỡnh thành những thúi quen, những tập tục, cỏch ứng xử khỏc nhau với tự nhiờn, với con người, từ đó hỡnh thành những chuẩn mực, những quan niệm giá trị, những đánh giá đạo đức khác nhau. Chẳng hạn, trong điều kiện tự nhiên bất lợi cho sản xuất thỡ những yờu cầu, những chuẩn mực nh ư cần cù, tiết kiệm, phân phối công bằng trở thành những chuẩn mực ưu trội. Đồng thời, sự trừng phạt đối với sự vi phạm những chuẩn mực này cũng trở lên nghiêm khắc hơn. Cũng như vậy, trong điều kiện lạnh giá vùng Bắc cực, dân tộc (tộc người) Exkimô luôn phải mặc da thú để che kín người. Vỡ vậy, đối với họ ăn mặc kính đáo là một chuẩn mực đạo đức. Tỡnh cảm xấu hổ đối với lối ăn mặc thiếu kín đáo phát triển mạnh hơn so với những tộc người da đỏ sống ở vùng nhiệt đới. Một số người da đỏ ở Nam Mỹ cho đến nay vẫn cũn sống khoả thõn. Khớ hậu nhiệt đới khiến họ không hỡnh thành ý thức và tỡnh cảm đạo đức đối với trang phục. Ngày nay, các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển rất chú trọng việc khẳng định bản sắc dân tộc của văn hóa và đạo đức. Nhiều quốc gia đó xõy dựng bảng giỏ trị tinh thần - đạo đức với những nguyên tắc nền tảng làm cơ sở định hướng giá trị cho hoạt động của cả cộng đồng cũng như cho từng người dân. Ở nước ta, yêu cầu xây dựng "hệ giá trị và chuẩn mực xó hội mới phự hợp với truyền thống, bản sắc dõn tộc và yờu cầu thời đại" đó được khẳng định tại Đại hội đại
  10. biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đó cụ thể húa yờu cầu này thành những chuẩn mực, những đức tính dưới đây: - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vỡ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội, cú ý chớ vươn lên, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vỡ hũa bỡnh, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xó hội. - Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vỡ lợi ớch chung. - Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. - Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vỡ lợi ớch của bản thân, gia đỡnh, tập thể và xó hội. - Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trỡnh độ chuyên môn, trỡnh độ thẩm mỹ và thể lực. Triết học Mác-Lênin không phủ nhận tính phổ biến toàn nhân loại của đạo đức, nhưng khẳng định rằng, trong điều kiện xó hội cú giai cấp đối kháng thỡ khụng thể cú một nền đạo đức chung thống nhất cho mọi giai cấp. Ph.Ănghen từng chỉ ra rằng: Con người dù tự giác hay không tự giác, rút cục đều rút ra những quan niệm đạo đức của mỡnh từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mỡnh, tức là từ những quan hệ kinh tế, trong đó người ta sản xuất và trao đổi. Trong xó hội cú đối kháng giai cấp, tương ứng với mỗi giai cấp nhất định là một hệ thống đạo đức nhất định biện hộ cho lợi ích của giai cấp đó. Như vậy, với tư cách là một thực thể xó hội, con người sống trong các mối quan hệ xó hội. Đạo đức xó hội đó được hỡnh thành nờn từ cỏc mối quan hệ qua lại và tỏc động lẫn nhau giữa người và người trong xó hội. Đạo đức xó hội là sự biểu hiện quan trọng nhất bản chất của con người, Mác đó viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xó hội" [42, tr.11]. Đồng thời, với tư cách là một thực thể tự nhiên - sinh vật, con người không thể sống bên ngoài các mối quan hệ với tự nhiên nghĩa là con người cần phải quan hệ với tự
  11. nhiên. Đạo đức sinh thái được hỡnh thành nờn từ trong mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa con người và tự nhiên. Cú thể núi, tuy cũn manh nha, chưa hoàn chỉnh hoặc ít nhiều cũn mang màu sắc thần bớ, song tư tưởng về mối quan hệ gắn bó giữa con người và tự nhiên đó xuất hiện ngay từ thời kỳ cổ đại. Trong một số quan niệm của tôn giáo và học thuyết triết học phương Đông truyền thống, con người không đối lập với giới tự nhiên, mà luôn được coi là một thành tố, một bộ phận của giới tự nhiên. Nho giáo cho rằng, con người sống giữa thiên nhiên trời đất, vạn vật nên quan hệ của con người với trời đất là quan hệ “thiên nhân cảm ứng”. Tương tự như vậy, đạo giáo cũng coi trọng sự hoà hợp, thống nhất của con người trong quan hệ với tự nhiên, với vạn vật trong vũ trụ. Quan niệm hài hoà của Lóo Tử chứa đựng hai nội dung chính: con người và trời đất dựa vào nhau để tồn tại và phát triển (thiên nhân hợp nhất), quan hệ thuận hoà giữa con người với con người, với quan niệm ấy, ông đó đưa ra một triết lý nhõn sinh: “con người phải sống thanh tịch thuận theo tự nhiên, không trái với tự nhiên”. Trang Tử quan niệm rằng, giữa vật và ta cú sự bỡnh đẳng, rằng trời đất cùng sinh với ta, vạn vật với ta là một… Phật giáo nguyên thuỷ coi mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời là điều kiện cho sự tồn tại của nhau. Ở Việt Nam, tư tưởng về sự hoà hợp giữa con người và tự nhiên cũng xuất hiện khá sớm. Khác với ph ương Đông, ở phương Tây tồn tại khuynh hướng đề cao đến mức tuyệt đối hoá vai trũ của con người trong mối quan hệ với tự nhiên. Triết học Hy Lạp cổ đại tôn vinh vị trí và vai trũ con người, Protagor coi con người là thước đo của vạn vật. Chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVII - XVIII đó nhấn mạnh rằng, con người là trung tâm của vũ trụ, là chúa tể của giới tự nhiên. Ki tô giáo quan niệm thế giới và con người là sản phẩm của Chúa sáng tạo ra, con người là hỡnh ảnh của Chỳa, nên con người cũng có khả năng sáng tạo và có quyền thống trị giới tự nhiên…Những quan niệm đó là cơ sở cho sự nảy nở và phỏt triển triết lý con người chinh phục theo kiểu “thống trị”, “tước đoạt” tự nhiên trong suốt một thời gian dài, để lại những hậu quả môi trường to lớn mà ngày nay con người đang phải nỗ lực tỡm cỏch khắc phục.
  12. Khi bàn về mối quan hệ lại là sự tác động lẫn nhau giữa con người và tự nhiên. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đề cập đến tương đối nhiều và khá tập trung, mặc dù các ông không dành trọn tác phẩm vào cho chủ đề này. Rải rác trong các tác phẩm khác nhau, kể cả ở ''thời Mác trẻ'' cũng nh ư ở ''thời trưởng thành'', các nhà kinh điển đó bàn đến vấn đề này khá sâu sắc, không ít vấn đề môi sinh hiện đại mà chúng ta thường coi là được đặt ra do sự phát triển của xó hội cụng nghiệp ở thế kỷ XX lại ít nhiều đó được C.Mác và Ph. Ăngghen suy ngẫm. Trong tác phẩm Chống Đuy-rinh, khi phê phán quan điểm của Đuy-rinh cho rằng tính thống nhất của thế giới là ở sự tồn tại của nó. Ph.Ăngghen đó khẳng định: Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiên đề của tính thống nhất của nó, vỡ trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thỡ trước hết thế giới phải tồn tại đó...Tớnh thống nhất thực sự của thế giới là ở tớnh vật chất của nú, và tớnh vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khộo lộo của kẻ làm trũ ảo thuật mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên [43, tr.67]. Rừ ràng, với khẳng định này, trong chừng mực nhất định, Ph.Ăngghen cũng đó thừa nhận sự thống nhất của con người và giới tự nhiên ở tính vật chất của sự t ồn tại và tiến hóa của chúng; hơn thế nữa, sự thống nhất này lại đó được chứng minh bằng sự phát triển ''lâu dài và khó kh ăn'' của triết học và khoa học tự nhiên. Như Ph.Ăngghen đó chỉ ra, khoa học từ nhiều phương diện khác nhau đó chứng minh được sự hỡnh thành và phát triển của giới tự nhiên, khám phá được bản chất của sự sống và sự thống nhất vật chất của nó với giới tự nhiên vô cơ ở mức độ vi mô cũng như vĩ mô. ''Trong giới tự nhiên, nét cục lại, mọi các điều diễn ra một cách biện chứng chứ không phải siờu hỡnh'' [43, tr.36, 39]. Trong quỏ trỡnh tiến húa của thế giới, sự xuất hiện của con người là một bước nhảy vọt về chất và nguồn gốc tự nhiên của con người làm cho con người, về mặt bản tính không thể đối lập với tự nhiên. Trong "Biện chứng của tự nhiên" Ph.Ăng ghen đó phõn tớch quỏ trỡnh phỏt sinh và phỏt triển của thế giới hữu cơ rất thuyết phục và
  13. khẳng định lịch sử loài người chẳng qua chỉ là tiếp nối lịch sử tự nhiên; sự kiện làm cho con người bước vào lịch sử của chính mỡnh là sự xuất hiện con người từ giới tự nhiên - ''cùng với con người, chúng ta bước vào lĩnh vực lịch sử'' [44, tr.476]. Trong "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844", C.Mác khẳng định: Giới tự nhiên…là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên, như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trỡnh thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiờn gắn liền với bản thõn giới tự nhiờn, vỡ con người là một bộ phận của giới tự nhiên [44, tr.135]. Trong tác phẩm ''Hệ tư tưởng Đức'', trong bộ ''Tư bản'' và trong những thư từ và nhiều nhận xét, ghi chép khác nhau C.Mác đó nhiều lần trực tiếp hay giỏn tiếp phân tích sâu thêm vấn đề này. Như trong ''Hệ tư tưởng Đức'' C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: Mọi lịch sử đều xuất phát từ những cơ sở tự nhiên và từ những thay đổi của chúng do hoạt động của con người gây ra trong quá trỡnh lịch sử tự nhiờn và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời nhau, chừng nào mà loài người cũn tồn tại thỡ lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau [42, tr.21, 25]. Như vậy, ngay từ khi hỡnh thành những tư tưởng duy vật đầu tiên của mỡnh về lịch sử, con người và tự nhiên trong quan niệm của C.Mác đó thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau đến mức ''điều đó chẳng của chỉ có nghĩa là tự nhiên liên hệ khăng khít với bản thân tự nhiên''. Quan điểm này nhất quán trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen đến mói về sau. Chớnh vỡ thế, với C. Mác và Ph.Ăng ghen, những gỡ thự địch với tự nhiên cũng tức là thù địch với con người. Theo các ông, những hành vi phá hoại tự nhiên, phá vỡ sự hài hũa, cõn bằng của mối quan hệ con người - tự nhiên, xét về mặt sinh thái, cũng đồng nghĩa với sự phá hoại cuộc sống của chính bản thân con người. Với quan niệm đó, C.Mác kết luận rằng, chừng nào mà loài người cũn tồn tại thỡ lịch sử của họ và lịch sử của tự nhiờn quy định lẫn nhau. Theo đó, quan hệ giữa con
  14. người và tự nhiên là quan hệ đồng tiến hoá, cùng tồn tại và phát triển. Con người và xó hội loài người không thể có sự phát triển ổn định, bền vững và hài hoà nếu con người đối xử thô bạo với tự nhiên - cái “nôi”, cội nguồn, “thân thể vô cơ” của nó. Như vậy, để tồn tại và phát triển con người không chỉ đối xử thân thiện với nhau mà cũn phải đối xử thân thiện với tự nhiên. Do đó, nếu đạo đức xó hội giữ vai trũ điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với con người trong xó hội, thỡ đạo đức sinh thái lại trực tiếp điều chỉnh hành vi của con người trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Song, đạo đức sinh thái cũng là một biểu hiện đặc thù của đạo đức xó hội, bởi vậy, trong xó hội, tự nhiờn là mắt khõu liên hệ giữa con người và con người. 1.1.1.2. Khái niệm đạo đức sinh thái Đạo đức sinh thái cũn được gọi là đạo đức môi sinh, đạo đức môi trường. Gọi là đạo đức sinh thái vỡ căn cứ vào thuật ngữ “sinh thái” theo cả nguồn gốc tiếng Hy Lạp “oikos” là nơi cư trú, nơi sinh sống, lẫn theo cách hiểu hiện đại, sinh thái là lĩnh vực của các mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa cơ thể sống với môi trường xung quanh chúng. Cụ thể là mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa con người xó hội và sinh quyển - nơi con người và xó hội đang tồn tại. Đạo đức sinh thái là đạo đức được hỡnh thành nờn trong quỏ trỡnh con người tác động vào tự nhiên, lấy từ nú những vật chất cần thiết cho cuộc sống, sự tồn tại và phỏt triển của xó hội. Đây là một quá trỡnh hiện thực, từ khi con người tách ra khỏi thế giới động vật và diễn biến theo suốt tiến trỡnh lịch sử. Phụ thuộc vào trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ của con người và tự nhiên cũng thay đổi theo biểu hiện ở sự thay đổi từ quan niệm tỡnh cảm đến hành vi ứng xử cụ thể của con người đối với tự nhiên. Do vậy, đạo đức sinh thái là một hiện tượng xó hội đó tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại cùng với con người và đời sống xó hội. Nó đó, đang và sẽ tiếp tục cùng tồn tại với đạo đức xó hội trong quỏ trỡnh vận động tiếp tục của xó hội. Đạo đức sinh thái bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm tư tưởng, tỡnh cảm, những nguyờn tắc, quy tắc, chuẩn mực…nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi
  15. của con người trong quá trỡnh tác động đến tự nhiên nhằm phục vụ sự sống, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Đạo đức sinh thái là sự quan tâm tự nguyện, tự giác đối với việc giữ gìn môi trường sinh thái vì lợi ích của cộng đồng. Đó là hệ thống quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc và định hướng giá trị điều chỉnh hành vi của con người (cá nhân và cộng đồng) trong quan hệ, ứng xử với môi trường tự nhiên. Đạo đức bao giờ cũng được xem xét trong một mối quan hệ cụ thể, trong những điều kiện lịch sử cụ thể, không có đạo đức chung chung cho mọi mối quan hệ, cho mọi thời đại. Trước yêu cầu cấp thiết phải giải quyết vấn đề môi trường sinh thái mang tính toàn cầu và thời đại, trước hết là nhu cầu khách quan và tất yếu của việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề bảo vệ môi trường sống trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trước đây và hiện nay là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ để bảo đảm cho sự phát triển bền vững; nhu cầu xem xét và định đoạt số phận của con người và xó hội trong những điều kiện phát triển mới; nhu cầu nắm bắt và vận dụng một cách hợp lý cỏc quy luật của tự nhiờn vào hoạt động thực tiễn nhằm mang lại hiệu quả kinh tế và sinh thái cao…đũi hỏi con người không được say sưa với những hiểu biết, những “chiến tích” chinh phục thiên nhiên mà cùng với nó con người phải trang bị cho mỡnh kiến thức về đạo đức sinh thái và sự đồng hành của nó chính là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho một tương lai phát triển bền vững. 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của đạo đức sinh thái Đạo đức sinh thái là một hiện tượng xó hội. Trong quỏ trỡnh vận động của xó hội, đạo đức sinh thái đó, đang và sẽ tiếp tục tồn tại cùng với sự tồn tại của đạo đức xó hội. Ngoài những đặc trưng chung của đạo đức xó hội đạo đức sinh thái cũn cú những nột đặc trưng riêng của nó. Thứ nhất, tự nhiên và môi trường tự nhiên là khách thể và là đối tượng trực tiếp trong quan hệ đạo đức. Trong đạo đức xó hội, mối quan hệ giữa khỏch thể và chủ thể đạo đức (con người, cá nhân, cộng đồng), đều có thể vừa là chủ thể vừa là khách thể đạo đức. Cũn trong mối quan hệ đạo đức sinh thái (tức là đạo đức biểu hiện trong mối quan hệ giữa
  16. con người với tự nhiên), con người bao giờ cũng là chủ thể đạo đức, cũn tự nhiờn bao giờ cũng chỉ là khỏch thể. Ở đây, con người luôn là kẻ chủ động quan hệ, chủ động tác động lên tự nhiên một cách có ý thức, có mục đích, cũn sự tỏc động của tự nhiên lên con người và xó hội dự cú to lớn, mạnh mẽ đến đâu cũng chỉ là sự tác động mù quáng, vô ý thức, hay là “sự phản xạ tự nhiên”, và sự phản xạ tự nhiên này trong vô thức nhưng nó có quy luật buộc con người phải tôn trọng. Vỡ thế sự tỏc động của con người lờn tự nhiờn nhằm khai thỏc phục vụ nhu cầu của mỡnh thỡ đồng thời con người lại phải có ý thức bảo vệ, duy trỡ và phục hồi cỏc nguồn lực của tự nhiờn. Tức là, ở đây hoàn toàn không phải chỉ là “chinh phục” và chiến thắng tự nhiên, mà phải thể hiện khai thác độ tích cực, thân thiện với giới tự nhiên là ổn định và bền vững. Lời cảnh báo của Ph . Ăng - ghen từ hơn 100 năm trước vẫn cũn nguyờn tớnh khoa học và ý nghĩa thời sự: …chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác… xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lũng giới tự nhiờn, và tất cả sự thống trị của chỳng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các loài sinh vật khác, chúng ta nhận thức được quy luật giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác [43, tr.655]. Do vậy đặc trưng của đạo đức sinh thái tuy là những quan niệm và cách ứng xử của chủ thể con người đối với tự nhiên, chứ không có chiều ngược lại. Nhưng các phản ứng của nó đối với con người là không lường hết nếu con người không ý thức được hậu quả hành vi của mỡnh. Hai là, tự nhiên và môi trường tự nhiên là mắt khâu trong quan hệ lợi ích. Quan hệ đạo đức được thể hiện cụ thể qua quan hệ lợi ích. Do đó lợi ớch phải thoả món cả nhu cầu của chủ thể lẫn khỏch thể đạo đức. Nghĩa là lợi ích phải được đặt ra trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, phần lớn, con người chỉ quan tâm đến lợi ích của mỡnh, mà quờn mất lợi ớch của tự nhiờn. Vỡ vậy trong quỏ trỡnh tỏc động, cải biến tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mỡnh, con người đó xâm phạm nhiều đến môi trường sinh thái, con người đó coi tự nhiờn là đối tượng để khai thác, bóc lột và đó sử dụng sức mạnh của khoa học - kỹ thuật để tiến hành
  17. những hoạt động nhằm cải biến tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ những lợi ích trước mắt của mỡnh, mà quờn mất rằng tự nhiờn cũng là một bộ phận, là “thân thể vô cơ” của con người, nó cũng cần phải được chăm sóc, bảo vệ để tồn tại, phát triển, đó chính là “lợi ích” của tự nhiên. Cho nên, dường như mức độ vi phạm đạo đức sinh thái tăng tỷ lệ thuận với đà phát triển của khoa học - kỹ thuật và phản ứng “trả thù” của tự nhiên có lúc diễn ra âm thầm nhưng có lúc dữ dội và nó để lại hậu quả khôn lường đối với con người. Bởi vậy, Ph.Ăngghen viết: …chúng ta cũng không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên, bởi vỡ cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta. Thật thế, mỗi một thắng lợi, trước hết là đem lại cho chúng ta những kết quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhưng đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thỡ nú lại gõy ra những tỏc dụng hoàn toàn khỏc hẳn, khụng lường trước được, những tác dụng thường hay phá huỷ tất cả những kết quả đầu tiên đó [43, tr.654]. Ba là, sự tác động trở lại của tự nhiên mang tính tiềm năng, tự phát, mạnh mẽ, lâu dài và chịu sự chi phối của con người Đặc trưng này của đạo đức sinh thái thể hiện trong quan hệ lợi ích và giá trị. Nói đến lợi ích là phải nói đến giỏ trị, bởi vỡ lợi ớch gắn liền với giá trị. Giá trị được coi là những gỡ thoả món nhu cầu và mang lại lợi ớch. Giỏ trị của khỏch thể tự nhiờn khụng phải lỳc nào cũng cú thể thoả món nhu cầu và phục vụ lợi ớch của con người, hay nói cách khác, không phải lúc nào con người cũng nắm bắt hết được giá trị của khách thể tự nhiên. Bản thân từng yếu tố tự nhiên như động, thực vật, vi sinh vật, nước, ánh sáng, không khí, đất, khoáng sản… đều có hai loại giá trị: giá trị nội tại và giá trị sử dụng. Giá trị nội tại của các yếu tố tự nhiên là giá trị vốn có do những thuộc tính khách quan của các yếu tố tự nhiên quy định và tạo thành bản chất khách quan của chúng mà không phục thuộc vào nhu cầu và lợi ích của con người. Cũn giỏ trị sử dụng của cỏc yếu tố tự nhiờn như thế nào, điều đó không chỉ phụ thuộc vào các thuộc tính khách quan, giá trị nội tại của chỳng, mà cũn phụ thuộc vào chủ thể có được nhu cầu lợi ích gỡ từ cỏc yếu tố tự nhiờn và trỡnh độ nhận thức của con người về các yếu tố tự nhiên đó. Một yếu tố
  18. tự nhiên được coi là có giá trị sử dụng khi nó được sử dụng như một phương tiện nhằm thoả món nhu cầu, mang lại một lợi ớch nào đó cho chủ thể. Đặc điểm của loại giá trị sử dụng các khách thể tự nhiên là hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu của con người, một khi nhu cầu của con người thay đổi, thỡ lập tức giỏ trị sử dụng của chỳng cũng thay đổi theo. Ngoài ra, giá trị sử dụng của các yếu tố tự nhiên cũn bị quy định bởi sự nhận thức của con người, bởi trỡnh độ phát triển của khoa học và công nghệ của xó hội. Trong khi đó, giá trị nội tại của chúng (cái bản chất khách quan) về cơ bản không có gỡ thay đổi trong suốt thời gian tồn tại của chúng. Vậy mà để thoả món nhu cầu ngày càng tăng của con người, nhiều lúc vỡ những lợi ớch vị kỷ, trước mắt con người không những chỉ khai thác, tận dụng triệt để những giá trị sử dụng của tự nhiên, mà cũn làm huỷ hoại đến những giá trị nội tại của những yếu tố tự nhiên. Sự gia tăng các hoạt động của con người, đó tạo nờn một sức ộp vụ cựng lớn đối với giới tự nhiên, vượt ra khỏi khả năng chịu đựng của nó. Điều đó dẫn tới một mặt, nhiều tài nguyên quý giá, vốn được tạo hoá tích luỹ từ hàng triệu năm đứng trước nguy cơ cạn kiệt, khan hiếm, mặt khác gây nên tỡnh trạng ụ nhiễm, mất cân bằng sinh thái mà cho tới hụm nay nú khụng cũn là mầm mống hậu hoạ nữa mà sự “trả thù” của tự nhiên đang diễn ra song hành với cuộc sống con người hôm nay và ngày mai. Cho nên: …nếu chúng ta đó trải qua hàng nghỡn năm lao động mới có thể, trong một chừng mực nào đó, đánh giá trước những hậu quả tự nhiên xa xôi của những hành động sản xuất của chúng ta, thỡ chỳng ta càng phải trải qua nhiều khú khăn hơn nữa, mới có thể hiểu biết được những hậu quả xó hội xa xôi của những hành động đó [43, tr.655-656]. Xét đến cùng, con người vừa là sản phẩm nhưng cũng là tác nhân làm giàu hay làm nghèo tự nhiên. Vấn đề là sự phát triển của xó hội loài người luôn gắn chặt với khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng nếu nó chỉ diễn ra một chiều thỡ vụ hỡnh chung con người tự biến mỡnh thành kẻ thiếu hiểu biết, thành kẻ phỏ hoại cỏi nụi nuôi dưỡng cả loài người. Chính vỡ vậy con người không cũn cú sự lựa chọn nào khỏc là phải xem xột lại những hành vi, cỏch ứng xử của mỡnh đối với tự nhiên. Con người cần phải hoạt động trong sự hiểu biết và đúng đắn hơn về tự nhiên, để khai thác và sử dụng tài nguyờn
  19. thiờn nhiờn một cỏch hợp lý, tiết kiệm, hướng hoạt động của mỡnh ngày càng “tụn trọng” “thõn thiện” với mụi trường tự nhiên hơn. 1.2. VAI TRề CỦA ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở NÔNG THÔN HIỆN NAY 1.2.1. Khỏi niệm mụi trường tự nhiờn, mụi trường tự nhiờn ở nụng thụn 1.2.1.1. Về môi trường tự nhiên Trong lịch sử triết học đó từng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thế giới. Nếu thừa nhận thế giới này là tinh thần, là ý thức, là “ý niệm tuyệt đối” v.v.. thỡ khú cú gỡ để có thể nói được về sự cải biến nó hay sống hoà hợp với nó. Bởi vỡ, tất cả đều đó được an bài, được định đoạt từ những lực lượng siêu nhiên, hay chỉ nằm trong cảm giác. Hoặc, nếu theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hỡnh tuy vẫn cho rằng thế giới này là vật chất, nhưng lại phủ nhận quá trỡnh vận động phát triển của nó từ đơn giản đến phức tạp, cho đến xó hội loài người và cũng không thừa nhận xó hội là một dạng vật chất đang hoạt động…, thỡ cũng khụng cú cỏch nào để hiểu được sự thống nhất giữa xó hội và tự nhiờn. Cũn theo quan niệm của chủ nghĩa Đácuyn - xó hội và chủ nghĩa Mantuyt, tức là quy con người và xó hội chỉ về bản tớnh tự nhiờn sinh vật, thỡ sẽ đánh đồng vai trũ của tất cả cỏc yếu tố trong hệ thống con người - tự nhiên - xó hội. Khác với tất cả những quan niệm trên, triết học Mác đó nghiờn cứu con người và tự nhiên trong sự thống nhất hữu cơ giữa chúng, đồng thời cũng chỉ ra sự khác nhau về chất giữa con người xó hội với tự nhiên. Một mặt, chủ nghĩa Mác khẳng định sự ảnh hưởng to lớn của tự nhiên đối với sự tồn tại và phát triển của con người và xó hội; mặt khỏc, nhấn mạnh vai trũ đặc biệt quan trọng của con người và xó hội với tư cách là nhân tố gây ra sự biến đổi không ngừng của tự nhiên. Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, khi phê phán quan niệm của E.Đuy-rinh cho rằng tính thống nhất của thế giới là ở sự tồn tại của nó, Ph.Ăngghen đó khẳng định: Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vỡ trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thỡ trước hết thế giới phải tồn tại đó…Tớnh thống nhất thực sự của thế giới là ở tớnh vật chất của nú, và tớnh vật chất này được chứng minh
  20. không bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trũ ảo thuật, mà bằng một sự lõu dài và khú khăn của triết học và khoa học tự nhiên [43, tr.67]. Thế giới phong phú và đa dạng quanh ta, được cấu thành từ nhiều yếu tố, song suy cho cùng có ba yếu tố cơ bản: giới tự nhiên, con người và xó hội loài người. Ba yếu tố đó thống nhất với nhau trong một hệ thống “Tự nhiên - con người - xó hội”, vỡ rằng, chỳng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, những đặc tính và những quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động. Trong hệ thống đó, mỗi yếu tố đều có vị trí và vai trũ nhất định. Trong sự tác động qua lại giữa xó hội và tự nhiên, yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng rất to lớn đến sự tồn tại và phát triển của con người và xó hội, cũn yếu tố xó hội và con người ngày càng có vai trũ quan trọng đối với sự biến đổi của tự nhiên. Trong triết học, ''tự nhiên'' được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng thỡ tự nhiờn là ''tất cả những gỡ đang tồn tại khách quan'', là toàn bộ thế giới với tất cả các hỡnh thức biểu hiện muụn màu, muôn vẻ của nó. Theo nghĩa này, khái niệm ''tự nhiên'' đứng cùng bậc với khái niệm ''vật chất'' và khái niệm ''vũ trụ'' [45, tr.500]. Theo nghĩa hẹp thỡ ''tự nhiờn'' là ''tập hợp các điều kiện thiên nhiên vốn sẵn có, tồn tại ngoài tác động của con người (trước hết là môi trường địa lý) và những điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại của xó hội loài người, do chính con người tạo ra, ''cũn gọi là tự nhiờn thứ hai'', theo nghĩa này thỡ khỏi niệm tự nhiờn bao gồm cả ''tự nhiên thứ nhất'' và ''tự nhiên thứ hai'' [43, tr.500]. Theo nghĩa thông thường, khái niệm ''tự nhiên'' được hiểu là ''tự nhiên thứ hai''. Ở đây ''tự nhiên thứ nhất'' được hiểu với nghĩa là ''tập hợp các điều kiện thiên nhiên vốn có sẵn, tồn tại ngoài tác động của con người''. Với nội dung như vậy, môi trường tự nhiên chỉ là bộ phận nhỏ của tự nhiên. Khi lực lượng sản xuất của xó hội càng phát triển thỡ phạm vi của mụi trường tự nhiên xung quanh con người càng được mở rộng. Theo quan điểm của tập thể các tác giả cuốn: Môi trường và tài nguyên Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, quan niệm môi trường tự nhiên gồm: Các yếu tố tự nhiên và phi tự nhiên tồn tại, vận động và phát triển gắn bó hữu cơ trong một thể thống nhất, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, xấu hoặc tốt đến con người; và chính
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2