intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Định hướng và giải pháp tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam

Chia sẻ: Lala Lala | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

154
lượt xem
35
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán phi tập trung. Thực trạng thị trường chứng khoán và sự cần thiết tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam. Định hướng và giải pháp tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Định hướng và giải pháp tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC V À Đ À O TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHÔ Hổ CHÍ MINH * * * * * * * ** ** ** ** ** ** ** Đ Ề T À I N G H I Ê N C Ứ U K H O A H Ọ C T R Ọ N G D I Ê M C Á P B Ộ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Tổ CHỨC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP TRUNG ở VIỆT NAM Mã số : B2002 - 22 - 21 - T Đ '•GÍ: CHỦ NHIỆM Đ Ê TÀI 4focu92. Phó Giáo sư.Tiến sĩ. PHẠM V Ă N N Ă N G P H Ó CHỦ NHIỆM Đ Ề TÀI Phó Giáo sư.Tiến sĩ. N G U Y Ê N NGỌC H Ù N G &
  2. MỤC LỤC Trang Lời mở đầu Ì CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN cơ BẢN VE THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP TRƯNG ì. Khái quát quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán 4 li. Khái niệm và các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán phi tỰp trung 10 IU. Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán phi tỰp trung 13 IV. Phương thức hoạt động của thị trường chứng khoan phi tỰp trung 18 CHƯƠNG 2 T H Ự C T R Ạ N G THỊ T R Ư Ờ N G C H Ứ N G K H O Á N V À sự C A N T H I Ế T TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP TRUNG ở VIỆT NAM. ì. Quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 26
  3. li. Thực trạng thị trường chứng khoán V i ệ t N a m 31 IU. Sự cần thiết tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam 58 CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Tổ CHỨC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP TRUNG ở VIủT NAM ì. Định hướng mô hình thị trường chứng khoán phi tập trung ở V i ệ t Nam 65 li. Giải pháp tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam 68 1. Thiết lập khung pháp lý cho việc tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam 68 2. Đa dạng hóa các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán phi tập trung 70 3. Thành lập tổ chức chủ quản điều hành hoạt động của thị trường chứng khoán phi tập trung 87 4. Các điều kiện trở thành thành viên của thị trường chứng khoán phi tập trung 88 5. Chính sách công khai hóa thông tin 91 6. Thành lập tổ chức xếp hạng tín nhiệm 94
  4. 7. Khuyến khích các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán phi tập trung 106 8. Các giải pháp hỗ trợ 108 8. Ì. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 108 8.2. Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán no 8.3. Cải thiện hoạt động kế toán, ki m toán .111 Kết luận 114 Tài liệu tham khảo 116
  5. LỜI MỞ ĐẦU ở V i ệ t Nam, k ể từ k h i xuất hiện các công ty cổ phần, giao dịch chứng khoán trao tay cũng lập tức được hình thành. Do một số đặc điểm có tính khách quan, phần lớn các chứng khoán được giao dịch p h ổ biến ở nước ta hiện nay đều là cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Đ ế n nay trên cự nước có khoựng 2.926 doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa và khoựng gần 1.000 công ty cổ phần thành lập theo luật doanh nghiệp , tuy nhiên con sô" công ty cổ phần đáp ứng được những yêu cầu về vốn, về k i ể m toán và số lượng cổ đông tham gia bên ngoài do U y ban chứng khoán Nhà nước đặt ra đối v ớ i các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung hiện có khoựng 400 công ty. Trên thực tế, tính đến thời điểm 28/ 07/ 2006 , chỉ có 44 công ty niêm y ế t chứng khoán t ạ i trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM và 12 công ty niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán H à N ộ i , m ộ t con số quá í cho t một thị trường chứng khoán tập trung. N h ư vậy, số lượng công t y cổ phần chưa đủ điều kiện niêm y ế t hoặc đủ điều k i ệ n nhưng chưa thích niêm y ế t chiếm một tỷ trọng quá lớn ( trên 9 6 % ) và tất nhiên các công ty này cũng có nhu cầu huy động v ố n trên thị trường chứng khoán. Chính vì thế, việc tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung trở thành một nhu cầu cấp bách đang đặt ra hiện nay ở nước ta. Hoạt động của thị trường chứng khoán p h i tập trung sẽ tạo tính thanh khoựn cho các loại chứng khoán chưa được niêm yết, tạo thêm " sân chơi " cho các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán, cho các công ty cổ phần không thích hoặc chưa đủ điều kiện niêm y ế t tại trung tâm giao dịch chứng khoán, góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đồng thời qua đó cũng sẽ hạn c h ế những hoạt động giao dịch chứng khoán ngoài t ầ m quựn lý của nhà nước. T u y nhiên, để m ộ t thị trường chứng Ì
  6. khoán phi tập trung ra đời hoạt động tốt cần có một sự chuẩn bị thật chu đáo. Nếu gượng ép để ra đời ngay một thị trường chứng khoán phi tập trung sẽ đưa đến những hậu quả khó lường. Xuất phát t ừ những luận giải trên, chúng tôi mạnh dạn chện chủ đề "Định hướng và giải pháp tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam " làm đề tài nghiên cứu khoa hệc trệng điểm cấp Bộ. Bằng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lô-gích hệc, phân tích hoạt động kinh t ế kết hợp v ớ i sự trừu tượng hóa khoa hệc trong nghiên cứu, với sự k ế thừa những tinh hoa của các hệc giả tiền bối, k ế t hợp v ớ i chính lao động của bản thân mình, công trình nghiên cứu nhằm hướng tới các mục tiêu chủ y ế u sau : - Thị trường chứng khoán là y ế u t ố cơ bản của nền k i n h t ế thị trường hiện đại. Hầu hết các quốc gia có nền kinh t ế vận hành theo cơ c h ế thị trường đểu ton tại thị trường chứng khoán, ơ V i ệ t Nam, mặc dù trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM và trung tâm giao dịch chứng khoán H à N ộ i đã được thiết lập và đi vào hoạt động, song lĩnh vực thị trường chứng khoán còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ về khía cạnh lý luận cũng như khả năng vận dụng vào thực tiễn cho nền kinh t ế nước ta, đặc biệt là lĩnh vực thị trường chứng khoán phi tập trung. Do vậy, mục tiêu đầu tiên của đề tài là nhằm làm sáng tỏ những vân đề lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán p h i tập trung, để tạo cơ sở vững chắc cho việc vận dụng chúng vào thực t ế V i ệ t N a m m ộ t cách có hiệu quả. - Xây dựng những luận cứ khoa hệc và thực tiễn về sự cần thiết tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở V i ệ t Nam. 2
  7. - Định hướng m ô hình thị trường chứng khoán phi tập trung ở V i ệ t Nam. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp để tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở nước ta trong thời gian tới. T u y nhiên thị trường chứng khoán phi tập trung là vấn đề mới, phức tạp và thời gian nghiên cứu có hạn, do vậy, công trình nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề mấu chốt và xem xét trên góc độ định hướng. Ngoài phỏn mở đỏu và kết luận, công trình nghiên cứu được kết cấu thành 03 chương : • Chương Ì : Những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán phi tập trung. • Chương 2 : Thực trạng thị trường chứng khoan và sự cỏn tô chức thị trường chứng khoán phi tập trung ỏ V i ệ t Nam. • Chương 3 : Định hướng và giải pháp tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở V i ệ t Nam. 3
  8. CHƯƠNG ĩ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN cơ BẢN VE THỊ TRƯỜNG CHỨNG K H O Á N PHI TẬP TRUNG Ị. KHÁI Q U Á T QUÁ TRÌNH HÌNH T H À N H VẢ PHẮT TRIỂN THI TRƯỜNG CHỨNG K H O Á N Ị Thị trường chứng khoán là yêu t ố cơ bản của nền kinh t ế thị trường hiện đại. Đ ế n nay, hầu hết cá quốc gia có nền kinh t ế phá triển đều có thị c t trường chứng khoán, thị trường chứng khoán đã trở thành một định c h ế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh t ế của những nước theo cơ chế thị trường. Có nhiều định nghĩa về thị trường chứng khoán : - Thị trường chứng khoán : tiếng La-tinh là BURSA, nghĩa là cái ví đựng tiền, còn gấi là sở giao dịch chứng khoán, là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển. Theo chữ Hán là chứng khoán giao dịch sở, sở là nơi chốn, giao dịch là mua bán đổi chác. - Thị trường chứng khoán được định nghĩa theo Longman Dictionary o f Business English, 1985như sau: "An organized market where securities are bought and sold under fixed Rules". Dịch ra tiếng việt: m ộ t thị trường có tổ chức là nơi các chứng khoán được mua bán tuân theo những quy tắc đã được ấn định. Định nghĩa này đưa ra một thuật n g ữ là chứng khoán ( securities) m à cổ phiếu ( share) và trá phiếu ( bond) cũng chính là hai dạng của chứng i 4
  9. khoán, chứng khoán được kết nạp bằng hai từ đồng nghĩa và chứng khoán đều có nghĩa là bằng cứ ( evidence). Trong tiếng Anh theo The American Heritage Dictionnary of the English Language, Dell, 1971. p. 633, Securities có nghĩa là : Written evidence of ownership. Vậy nghĩa căn bản của chứng khoán là: bằng chứng giấy trắng mực đen về quyền sở hữu. Tuy nhiên, trong đời sống kinh tế, thuật ngữ thớ trường chứng khoán đã thoát ly đớnh nghĩa ban đầu và có thêm nội dung mới. Thật ra, mỗi đớnh nghĩa chỉ cung cấp được một khái niệm tổng quát về một vấn đề nào đó, còn muốn hiểu trọn vẹn vấn đề thì phải nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển lâu dài của nó. Vào khoảng giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán của phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng việc mua bán, trao đổi các loại hàng hóa như: nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động sản... điểm đặc biệt là trong những cuộc thương lượng này các thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau, không có hàng hóa, ngoại tệ, giá khoán động sản hay bất cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các " Hợp đồng" mua bán, trao đổi thực hiện ngay, kể cả những hợp đồng cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm sau mới thực hiện. Những cuộc trao đổi này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người tăng lên. Đến cuối thế kỷ 15 " khu chợ riêng" này trở thành một " thớ trường" và thời gian họp chợ rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày. Trong các phiên họp chợ này, họ thống nhất với nhau những quy ước cho các 5
  10. cuộc thương lượng. Dần dần những quy ước đó được tu b ổ hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với những người tham gia. Từ đó thị trường chứng khoán bắt đầu hình thành. Buổi họp đầu tiên của giai đoạn này xụy ra năm 1453 trong một lữ quán của gia đình Vanber tại Bruges ( Bỉ ). Trước lữ quán này có một bụng hiệu vẽ hình 3 túi da với một từ tiếng Pháp " Bourse", tức là " mậu dịch trường" hay còn gọi là " sở giao dịch". "Mậu dịch trường" là một bụng hiệu chung, ba túi da tượng trưng cho 3 nội dung của mậu dịch trường: mậu dịch trường hàng hóa, mậu dịch trường ngoại tệ và mậu dịch trường giá khoán động sụn. Đến năm 1547, mậu dịch trường tại thành phô Bruges bị suy sụp khi Bruges mất hẳn sự phồn vinh vì eo bể dẫn tàu bè vào thị trấn bị cát lấp mất. Mậu dịch thị trường được dời đến hụi cụng Auvers ( Bỉ ). Mậu dịch trường Auvers phát triển nhanh và từ kinh nghiệm của nó, các mậu dịch ở các nước bắt đầu phát triển. Tại London, vào giữa thế kỷ 18, một mậu dịch trường đã được thiết lập theo mẫu mậu dịch trường Auvers gọi là Stock Exchange, nơi mà sau này gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Ý, Đức và Bắc Ấu với ít nhiều cụi tiến, thay đổi tùy theo những điều kiện tại mỗi quốc gia. Sau một thời gian hoạt động, mậu dịch trường không còn phù hợp và không đủ sức cho các giao dịch với 3 nội dung hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, giao dịch hàng hóa được tách ra thành khu thương mại, giao dịch ngoại tệ 6
  11. tách ra thành thị trường hối đoái, giao dịch giá khoán động sản tách ra thành thị trường chứng khoán, và các giao dịch hợp đồng cho tương lai được tách ra thành các " thị trường tương lai". Như vậy, thị trường chứng khoán được xuất hiện từ thế kỷ 15. sự hình thành thị trường chứng khoán cũng đồng thời với thị trường hối đoái và các loại thị trường khác. Quá trình hình thành và phát triần của các thị trường chứng khoán thế giới đã trải qua những bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán phát triần mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến ngày 29-10-1929 ngày được gọi là " ngày thứ năm đen tối", tức là ngày mở đầu cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán New York đã làm thị trường chứng khoán New York và các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu, và Nhật Bản khủng hoảng. Sau thế chiến thứ hai, các thị trường chứng khoán phục hồi, phát triần mạnh. Nhưng rồi " cuộc khủng hoảng tài chính" năm 1987. một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, nhưng chỉ sau 2 năm thị trường chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triần và đã trở thành một định chế tài chánh không thầ thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triần theo cơ chế thị trường. Thị trường chứng khoán và các thị trường tài chính nói chung đã trải qua cuộc cách mạng thực sự trong những năm gần đây do có các biến động 7
  12. lớn trong bối cảnh kinh tế, pháp lý hoặc kỹ thuật. Các cuộc cải cách có nhiều hình thức khác nhau: + Cải cách các chế độ thuế nhằm thu hút người có tiền tích lũy ra thị trường chứng khoán bằng cách giảm thuế thu nhập đánh vào các khoản đầu tư vào các cổ phiếu. + Thành lập một thị trường không chính thức: năm 1983 ở một số nước, thị trường không chính thức đã được thành lập để tẩo điều kiện cho các doanh nghiệp tầm cỡ trung bình có thể tham gia trên thị trường chứng khoán : các điều kiện về hành chính và tài chính được yêu cầu ít hơn là trên thị trường chính thức. + Tẩo ra các hình thức chứng khoán mới: một loẩt các sản phẩm tài chính mới đã được xây dựng đê nhằm đáp ứng tốt hơn hình thức tài trợ qua thị trường chứng khoán cho các nhu cầu của các nhà vay vốn. Phần lớn các sản phẩm mới về chứng khoán này tồn tẩi dưới hình thức "lai tẩo", bằng cách tận dụng các lợi thế của một hình thức pháp lý nào đó mà không có các điểm bất lợi hoặc để kết hợp các ưu điểm của nguồn vốn tự có với các ưu điểm của các chứng khoán đẩi diện quyền cho vay. Hình thức tư vấn tài chính này không phải lúc nào cũng thu hút được người có tiền tích lũy. Đó là điều giải thích cho tính chất ngắn hẩn hay tính khả dụng kém của một số loẩi chứng khoán không hâm mộ đối với các nhà đầu tư. + Hiện đẩi hóa thị trường vay nợ của Nhà nước, để tẩo điều kiện cho Nhà nước có thể vay vốn được trên các thị trường và để giảm nhẹ bớt chi phí. 8
  13. + Họat động của ngành kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán đã được tin học hóa mạnh mẽ. Hai cải cách lớn nhất về kỹ thuật một mặt liên quan đến sự giao dịch (front-office) và mặt khác đến việc xữ lý hành chánh các nghiệp vụ giao dịch (back-office) tạo điều kiện cho việc lưu thông các cổ phiếu giữa các tổ chức thành viên, thông qua các nghiệp vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác. Kể từ năm 1986, ở một số nước, các giá trị động sản đã lần lượt được yết giá trên hệ thống vi tính. Như vậy, việc yết giá các cổ phiếu và các trái phiếu không còn được tập trung trên thị trường chứng khoán nữa và không phải được giao dịch dưới hình thức " rao miệng " nữa: các nhà giao dịch truyền miệng cho công ty chứng khoán của mình thông qua điểm cuối mạng vi tính, trên đó mọi thông tin của thị trường đều có thể tra cứu bởi các chức năng đặc biệt. Năm 1991, hệ thống RELIT đã tiêu chuẩn hóa tiến trình thanh toán tiền và giao nhận chứng phiếu sau khi đã có giao dịch thương lượng trên thị trường - ( RELIT: Hệ thống tin học về thanh toán và giao nhận ). + Thành lập các thị trường biến tướng. Năm 1986, ở Pháp thành lập thị trường MATIF, năm 1987 thành lập thị trường MONEP, các thị trường biến tướng này được lập ra để tạo cho các tổ chức kinh tế và cho các nhà quản lý hồ sơ chứng khoán khả năng phòng ngừa các rủi ro liên quan đến các biến động về cổ phiếu, về tỉ lệ lãi suất và về tỉ giá hối đoái. Các thị trường này cũng có mục đích tăng vốn khả dụng trên thị trường giao ngay qua các khả năng kinh doanh chênh lệch giá. Là các thị trường thực sự trong thời đại mới 9
  14. các thị trường này đã thúc đẩy việc hiện đại hóa giới tài chính và tham gia vào cuộc chiến giành ngôi bá chủ tài chính ở Châu Au. lĩ. KHÁI NIÊM VẢ CÁC LOAI CHỨNG KHOÁN GIAO ĐÍCH TRÊN THI TRƯỜNG CHỨNG KHOẢN PHI TÁP TRUNG : Ị. Khái niêm về thi trường chứng khoán phi táp trung : Xét về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán được chia làm 2 loại: thị trường chứng khoán chính thức ( The stock exchange ) và thị trường chứng khoán phi chính thức ( Over the Counter market, viết tắt OTC ). Thị trường chứng khoán chính thức ( hay còn được gọi là thị trường chứng khoán tập trung - thị trường chứng khoán có tổ chức - sở giao dịch chứng khoán) là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có tổ chức theo những luật định nhểt định, là nơi giao dịch các loại chứng khoán đã được đăng ký (niêm yết - Listed or Registered securities) hay được biệt lệ. Chứng khoán sau khi phát hành đại chúng, nếu hội đủ một số yêu cầu chọn lọc, thì có thể đăng ký niêm yết lên sàn giao dịch của sở giao dịch chứng khoán. Các tiêu chuẩn niêm yết thường chú trọng đến thâm niên hoạt động, thành tích lợi nhuận, quy mô cổ phần và lượng cổ đông. Sở dĩ, Sở giao dịch chứng khoán chỉ giao dịch những chứng khoán đã được niêm yết xuểt phát từ các mục đích sau : 10
  15. - N h ằ m bảo vệ các nhà đầu tư. Sở giao dịch chứng khoán và công ty phát hành chứng khoán đều phải có nghĩa vụ bảo đảm cho nhà đầu tư một sự hiểu biết đúng và đủ về lịch sử hình thành và tình hình hoạt động của công ty phát hành chứng khoán. Nhà đầu tư cần được biết tại sao công ty đó muốn tìm nguổn vốn và phải phán đoán cho được việc đầu tư của mình vào công ty đó có lợi hay không. - Nhằm thiết lập một mối quan hệ hợp đổng giữa sở giao dịch chứng khoán và công ty cổ phần phát hành chứng khoán về những nghĩa vụ thông báo công khai đều đặn và nhanh chóng cho thị trường biết về những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ và giá cổ phiếu của công ty. - Nhằm bảo đảm cho toàn bộ hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán đạt được các yêu cầu có tính nguyên tắc, cởi mở, trung thực, công bằng và an toàn. Mặt khác, việc đăng ký còn giúp cho sở giao dịch chứng khoán có thể gia tăng số cung và các loại chứng khoán, đáp ứng nhu cầu đầu tư của công chúng, giữ cho thị trường chứng khoán hoạt động liên tục, bình thường và phát triển vững chắc. Chứng khoán đã được đăng ký là loại chứng khoán đã được cơ quan có thâm quyền cho phép bảo đảm phân phối và mua bán qua trung gian các nhà môi giới và công ty chứng khoán , tức là đã hội đủ các tiêu chuẩn đã định. Chứng khoán biệt lệ là loại chứng khoán được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm quyền, do chính phủ hoặc chính quyền địa phương phát hành và bảo đảm. li
  16. Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời điểm mua bán rõ rệt và giá cả được xác định trên cơ sở đấu giá công khai có sự kiểm soát của hội đổng chứng khoán quốc gia ( ở Việt Nam gọi là Uy ban chứng khoán Xỉ Nhà nước ). ơ thị trường này chữ có các nhà môi giới, công ty chứng khoán là thành viên thì mới được phép giao dịch tại sàn giao dịch. Thị trường chứng khoán phi tập trung là thị trường mua bán chứng khoán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ỏ sở giao dịch chứng khoán, ở đây không có sự kiểm soát từ bên ngoài (Hội đồng chứng khoán quốc gia), không có thời biểu mua bán rõ rệt hay thủ tục nhất định mà do sự thỏa thuận của người mua và người bán. Các loại chứng khoán được giao dịch ở thị trường này thường là các loại chứng khoán không được đăng ký ( niêm yết), ít người biết đến hay ít được mua bán. 2. Các loai chứng khoán giao đích trẽn thi trường chứng khoán phi táp trung: Các chứng khoán được giao dịch trên một sở giao dịch chứng khoán chữ giới hạn đối với các chứng khoán đã niêm yết. Thông thường là những chứng khoán của các công ty quốc gia ( công ty quốc gia là một công ty mà chứng khoán của nó do nhiều nhà đầu tư trên cả nước sở hữu ). Tuy nhiên trên thị trường chứng khoán phi tập trung các chứng khoán được giao dịch bao gồm cả chứng khoán của các công ty quốc gia lẫn công ty địa phương ( công ty địa phương là một công ty mà chứng khoán của nó do các cư dân 12
  17. của một tỉnh, thành p h ố nhất định sở hữu ) cụ thể bao gồm các loại chứng khoán sau: - Cổ phiếu của các công ty cổ phần. - Các trái phiếu của chính phủ và của chính quyền địa phương. - Các trái phiếu công ty. - Cổ phiếu của các quỹ tương hợ. - Chứng khoán của các công ty nước ngoài. Nhìn chung, tất cả các loại chứng khoán mới phát hành đều được giao dịch trên thị trường chứng khoán phi tập trung. Sau đó Ì số chứng khoán này được niêm yết giao dịch trên các sở giao dịch chứng khoán. Như vậy nhiều chứng khoán không được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán chúng tiếp tục được giao dịch trên thị trường chứng khoán phi tập trung. in. CẮC CHỦ THỂ THAM GIA THI TRƯỜNG CHỨNG KHOẢN PHI TÁP TRUNG : Ị. Các công ty chứng khoán : Thành viên của thị trường chứng khoán phi tập trung là các công ty chứng khoán không phải là thành viên của sở giao dịch chứng khoán. Bất kỳ công ty chứng khoán nào dù là doanh nghiệp cá thể, công ty hợp doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần đều có thể kinh 13
  18. doanh trên thị trường chứng khoán p h i tập trung. T u y nhiên vẫn đòi hỏi một số điều kiện nhất định đó là: - Phải đăng ký và được sự chấp thuận của Hội đồng chứng khoán quốc gia. - Các nhà môi giới, giao dịch của các công ty chứng khoán phải đáp ứng các tiêu chuỳn về đào tạo chuyên môn và kinh nghiệm, thường họ phải trải qua một kỳ kiểm tra viết và sát hạch. Thành viên của thị trường chứng khoán phi tập trung tự mua bán chứng khoán cho chính mình bằng nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, họ vẫn thực hiện các giao dịch chứng khoán với tư cách là người môi giới hưởng hoa hồng. Các loại công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán phi tập trung thường bao gồm : a. Công ty đầu tư ngân hàng ị the investment Bankỉng Fỉrm ) Công ty đầu tư ngân hàng chuyên bán các loại chứng khoán mới phát hành. Do vậy, công ty này còn được gọi là "Nhà bảo lãnh phát hành" ( The undervvriter). Khi một nhà bảo lãnh phát hành bán các chứng khoán, nó hoạt động như một nhà giao dịch. Nghĩa là, công ty mua chứng khoán từ công ty phát hành cho bản thân mình. Sau đó, công ty tìm cách bán lại các chứng khoán này với giá cao hơn. Khoảng chênh lệch giữa giá chứng khoán mà công ty mua và bán gọi là lợi nhuận. 14
  19. b. Công ty trái phiêu ( Bond house ) Công ty trái phiếu là công ty mua bán các trái phiếu của chính phủ và chính quyền địa phương. Có một số công ty trái phiếu hoặc chỉ mua bán các trái phiếu của chính phủ hoặc chỉ mua bán các trái phiếu của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, cũng có một số công ty trái phiếu lại mua bán cả 2 loại trái phiếu của chính phủ lẫn chính quyền địa phương. c. Công ty chứng khoán phi tập trung (Over the counter securities house) Công ty chứng khoán phi tập trung tương tự công ty môi giới hoạt động trên cơ sở giao dịch chứng khoán. Công ty chứng khoán phi tập trung còn có một tên gọi khác nữa là "Công ty giao dịch - môi giới" ( Broker - Dealers ). Công ty chứng khoán phi tập trung mua bán các loại chứng khoán trên thị trưệng phi tập trung cho các khách hàng của mình. Thông thưệng loại công ty này không mua bán các trái phiếu của chính phủ và của chính quyền địa phương. Họ để cho các công ty trái phiếu chuyên mua bán các loại chứng khoán này. Các công ty chứng khoán phi tập trung lớn cũng có thể hoạt động như một nhà bảo lãnh phát hành đối với các chứng khoán mới phát hành. Nhưng hầu như họ chỉ đóng vai trò như những nhà giao dịch khi bán các chứng khoán này và sau đó mua bán lại các chứng khoán đó. ả. Nhà môi giới trung gian (Dealer's broker - Broker's broker): Đây là một loại công ty môi giới đặc biệt, mà các khách hàng của nó thưệng là các nhà giao dịch và môi giới trên thị trưệng phi tập trung. Công ty 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0