intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở tỉnh vĩnh phúc hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

228
lượt xem
98
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài sản, là nguồn lực vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Trong sản xuất đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không có gì thay thế được. Trong đời sống xã hội đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Đất đai vô cùng quý giá nhưng không phải là vô tận, bởi trái đất của chúng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở tỉnh vĩnh phúc hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở tỉnh vĩnh phúc hiện nay
  2. MO ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài sản, là nguồn lực vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Trong sản xuất đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không có gì thay thế được. Trong đời sống xã hội đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Đất đai vô cùng quý giá nhưng không phải là vô tận, bởi trái đất của chúng ta rất lớn nhưng cũng chỉ là hữu hạn. Lãnh thổ - đất đai của mọi quốc gia cũng chỉ là hữu hạn. Vì đất đai chỉ là hữu hạn cho nên điều quan trọng nhất là con người sử dụng tài sản nguồn lực này sao cho khoa học, hợp lý mang lại hiệu quả tốt nhất phục vụ cho chính con người, nhưng vẫn phải bảo vệ được môi trường tự nhiên, sinh thái, điều đó vừa là mục đích vừa là yêu cầu cần quan tâm của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới này. Đối với Việt Nam, là quốc gia đất chật, người đông, đời sống của đại bộ phận nhân dân dựa vào SXNN, thì đất đai lại càng quý giá hơn. Việc sử dụng, khai thác có hiệu quả các loại quỹ đất hiện có là việc làm hết sức có ý nghĩa, bởi Việt Nam đi lên xây dựng CNXH từ một nước NN, lạc hậu nghèo nàn, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, tiềm năng chính của Việt Nam chủ yếu dựa vào lao động và đất đai. Hiện nay, nền kinh tế của nước ta đang trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, trong đó CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn được ưu tiên hàng đầu. Để thực hiện CNH, HĐH chúng ta phải giành đất SXNN cho công nghiệp- thương mại - dịch vụ phát triển. Do đó quỹ đất SXNN sẽ ngày càng bị thu hẹp, điều này trên thực tế đã và đang diễn ra trên phạm vi cả nước. Mặt khác, để phát triển SXNN thì phải tập trung ruộng đất (dồn điền, đổi thửa) để sản xuất lớn nhằm phát huy hiệu quả quỹ đất NN trong điều kiện hiện nay. Hơn nữa, bản thân NN cũng phải hoà nhập cùng sự nghiệp CNH, HĐH. Do đó nhiệm vụ quan trọng của cả nước cần phải có chiến lược và những giải pháp thiết thực nhằm khai thác, sử dụng quỹ đất NN còn lại sao cho có hiệu quả nhất là điều đang được cả nước quan tâm chú ý. Trong những giải pháp đó có giải pháp cần đẩy nhanh việc dồn điền, đổi thửa (DĐĐT) ruộng đất để phát triển SXNN theo hướng hàng hoá, nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân là hết sức cần thiết.
  3. Vĩnh Phúc là tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, sau 16 năm thực hiện việc giao đất NN cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài theo tinh thần Nghị định 64/NĐ-CP, ngày 27.9.1993 của Chính phủ và Quyết định số 450 - QĐ/UB, ngày 19/5/1992 của UBND tỉnh Vĩnh Phú (cũ) bước đầu đã tạo tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và trong SXNN nói riêng . Thông qua việc giao đất đến hộ gia đình đã làm cho đất đai gắn kết với lao động, năng lực và sức sản xuất được giải phóng, SXNN phát triển một cách nhanh chóng. Vì vậy, trong một thời gian ngắn, sau khi đất sản xuất được giao đến hộ gia đình, năng suất và sản lượng các loại cây trồng hàng năm của tỉnh Vĩnh Phúc tăng liên tục. Theo số liệu của Cục Thống kê Vĩnh Phúc cho thấy: “Sản lượng lương thực của tỉnh năm 1992 khi chưa thực hiện Nghị định 64/CP đạt 288.942 tấn, nhưng chỉ sau một năm giao ruộng đến hộ thì sản lượng lương thực của tỉnh năm 1994 đã đạt 294.472 tấn, năm 1995 đạt 329.782 tấn, tăng 40.840 tấn so với năm 1992” [9, tr.99]. Bên cạnh đó cơ sở hạ tầng, kinh tế khu vực nông thôn dần được hoàn thiện, bộ mặt nông thôn từng bước được đổi mới, đời sống của nhân dân ngày càng ổn định và được cải thiện. Có được những thành tựu đó là nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc giao đất sản xuất đến hộ gia đình cá nhân ổn định lâu dài và chủ trương này đã được thực tiễn kiểm nghiệm và đi vào cuộc sống một cách thiết thực. Vì vậy có thể khẳng định đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước trong việc giao đất SXNN đến hộ gia đình, cá nhân là hết sức phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam từ năm 1993 nói chung, cũng như tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đổi mới và phát triển thì việc giao đất cho hộ nông dân theo tinh thần Nghị định 64/NĐ- CP của Chính phủ trên cả nước cũng như địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến nay đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình CNH, HĐH đất nước nói chung và NN, nông thôn nói riêng. Thực tế hiện nay ruộng đất còn quá manh mún, nhỏ lẻ, phân tán tồn tại đã khá lâu. Nguyên nhân chính là do trước đây nhận thức của việc chia ruộng mang hình thức cào bằng. Hộ nông dân có ruộng được chia ở nhiều xứ đồng, hộ nào cũng có ruộng theo kiểu có tốt - có xấu, có gần - có xa, có cao - có thấp, dẫn đến việc canh tác trong mỗi hộ và từng địa bàn bị phân tán, khó áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khó thực hiện cơ giới hoá vào
  4. sản xuất. Hơn nữa do ruộng đất manh mún, nông dân vẫn còn tư tưởng tiểu nông, sản xuất mang tính tự do, thiếu sự gắn kết với nhau trong quá trình sản xuất nên sản phẩm sản xuất ra không trở thành hàng hoá, chất lượng kém, số lượng không đủ lớn, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Những yếu kém, tồn tại trên đã làm cho hiệu quả sử dụng đất không cao, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, cản trở sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó cần phải được xem xét một cách nghiêm túc, khách quan, kịp thời cả về phương diện lý luận và trong thực tiễn. Là một trong 8 tỉnh được Trung ương xác định nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, kể từ khi tái lập (01-01-1997) đến nay Vĩnh Phúc chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp làm động lực thúc đẩy và lôi kéo các lĩnh vực kinh tế xã hội khác phát triển theo. Qua hơn 10 năm thực hiện chủ trương đúng đắn đó, đến nay Vĩnh Phúc được Trung ương đánh giá là tỉnh có tốc độ phát triển công nghiệp nhanh nhất ở phía Bắc. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ 14 nhiệm kỳ 2005-2010 Đảng bộ Vĩnh Phúc tiếp tục đặt ra nhiệm vụ cho tỉnh phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm hai mươi của thế kỷ XXI. Để thực hiện chủ trương và mục tiêu đó thì quỹ đất SXNN sẽ ngày càng giảm và trên thực tế đất SXNN đã liên tục giảm trong những năm vừa qua. Trong quá trình phấn đấu để trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2015 thì lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cũng phải hoà đồng với sự nghiệp đó. Để đảm bảo đời sống cho các hộ nông dân trong điều kiện quỹ đất SXNN ngày càng giảm thì việc nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng quỹ đất NN hiện có ở Vĩnh Phúc sẽ là hướng phát triển chính. Thông qua đó nhằm khắc phục những khó khăn nảy sinh trong quản lý sử dụng đất NN thì cần thiết phải tập trung quỹ đất, đưa NN phát triển theo hướng sản xuất lớn. Vì vậy để DĐ, ĐT đất NN ở Vĩnh Phúc hiện nay được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn của tác giả. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trước những bất cập nảy sinh trong quá trình quản lý, sử dụng đất NN như hiện nay trên cả nước đã và đang kìm hãm sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp. Để tháo gỡ
  5. những tồn tại trên, đến nay đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này như: - Nguyễn Xuân Nguyên (1995), Khuynh hướng phân hoá hộ nông dân trong phát triển hàng hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Văn Bích và Chu Tiến Quang (1996), Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Vũ Oanh (1998), Nông nghiệp, nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam (1998), Phát triển nông thôn theo hướng CNH- HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Hồng Vinh (chủ biên), (1998), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Phương Thị Tiến (1999), Đổi mới Quản lý kinh tế Nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - PGS,TS Nguyễn Đình Kháng - TS Nguyễn Văn Phúc (2000), Một số vấn đề lý luận của Các Mác và Lênin về địa tô ruộng đất, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Trần Tú Cường (2006), Tăng cường vai trò quản lý đất đai của Nhà nước trong quá trình đô thị hoá ở Thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học KTQD Hà Nội. - PGS, TS Nguyễn Đình Kháng (2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội. - GS, TS Phùng Hữu Phú - Tiến sỹ Nguyễn Viết Thông - Tiến sỹ Bùi Văn Hưng (2008), Vấn đề nông nghiệp - nông dân- nông thôn- kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các công trình nêu trên nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về đất đai, quản lý đất đai, xu hướng biến động của các quan hệ ruộng đất trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách về ruộng đất và quyền lợi của người dân…Đồng thời các công trình nêu trên cũng đề xuất phương hướng và giải pháp để giải quyết các quan hệ
  6. ruộng đất trong SXNN nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên bàn về vấn đề DĐ, ĐT đất nông nghiệp ở Vĩnh Phúc chưa có đề tài, công trình nào. Việc nghiên cứu vấn đề DĐ, ĐT được nghiên cứu dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị là cách tiếp cận mới. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở luận giải các vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trò của đất đai trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và SXNN nói riêng, kết hợp với tình hình phân bố sử dụng, các quỹ đất trong SXNN ở Vĩnh Phúc. Đề tài sẽ đánh giá khách quan, khoa học xu hướng vận động quan hệ ruộng đất ở Vĩnh Phúc từ khi thực hiện giao đất cho hộ nông dân đến nay. Căn cứ vào tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nông nghiệp Vĩnh Phúc, luận văn có mục đích đưa ra phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh việc DĐ, ĐT ruộng đất phục vụ cho phát triển SXNN hàng hoá theo hướng CNH, HĐH ở Vĩnh Phúc. 3.2. Nhiệm vụ - Khái quát và hệ thống những quan điểm lý luận cơ bản về dồn điền, đổi thửa ruộng đất; khẳng định tính tất yếu khách quan và xu thế không thể khác của việc tích tụ ruộng đất trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hay nói cách khác đó chính là việc DĐ, ĐT. Đồng thời đề tài sẽ đánh giá vai trò, vị trí, các nhân tố ảnh hưởng của DĐ, ĐT trong SXNN hàng hoá. - Đánh giá, phân tích thực trạng về quản lý sử dụng ruộng đất hiện nay ở Vĩnh Phúc, chỉ ra những tiềm năng lợi thế cũng như những tồn tại hạn chế và sự cần thiết phải đẩy nhanh việc DĐ, ĐT ruộng đất ở Vĩnh Phúc nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực đất đai. - Thông qua các vấn đề đã được luận giải, đề tài sẽ xác định phương hướng, giải pháp, bước đi của việc DĐ, ĐT ruộng đất. Đồng thời DĐ, ĐT phải gắn giữa việc đầu tư với phân vùng sản xuất, lựa chọn mô hình sản xuất hàng hoá phù hợp với tập quán, truyền thống canh tác, đất đai và lợi thế của từng địa bàn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1.Đối tượng
  7. Đề tài hướng vào việc nghiên cứu việc giao đất, sử dụng các loại quỹ đất SXNN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu cơ cấu phân bố đất đai, xu thế vận động biến đổi của quỹ đất SXNN sau khi đã giao đất theo Nghị định 64/NĐ-CP của Chính phủ từ 15.10.1993 đến nay và sự cần thiết phải DĐ, ĐT ruộng đất. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước, các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, văn bản pháp luật đất đai, các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và các chính sách giải pháp của HĐND - UBND tỉnh, ngành Tài nguyên & Môi trường, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời luận văn có sự tham khảo, lựa chọn, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố, các bài viết trên tạp chí, báo, tài liệu có liên quan của các tác giả, các nhà khoa học. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cơ bản của kinh tế chính trị. Đồng thời sử dụng phương pháp so sánh, thống kê, phân tích, một số số liệu và bảng tổng hợp số liệu để minh hoạ. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Hệ thống hoá và luận giải sâu sắc hơn cơ sở lý luận và thực tiễn, sự cần thiết của việc DĐ, ĐT đất nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. - Đánh giá thực trạng quá trình dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc những năm qua dưới góc độ kết quả đạt được, những vấn đề đặt ra và nguyên nhân.
  8. - Trình bày quan điểm và những giải pháp cơ bản để thực hiện DĐ, ĐT đất NN ở Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Giúp cho cán bộ quản lý phương pháp, cách nhìn toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý và sử dụng đất SXNN - Giúp cho các địa phương trong tỉnh có những giải pháp tác động, thúc đẩy nhanh việc DĐ, ĐT ruộng đất theo hướng phát triển SXNN hàng hoá, nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. - Đưa ra kế hoạch tổ chức, thực hiện việc DĐ, ĐT ruộng đất trong SXNN hàng hoá theo hướng CNH- HĐH ở Vĩnh Phúc. - Thực hiện hoàn thiện việc DĐ, ĐT là tiền đề cho việc lựa chọn đầu tư có trọng điểm SXNN hàng hoá, khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
  9. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.1. ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT 1.1.1. Khái niệm về đất nông nghiệp Đất đai nói chung là tài sản vô cùng quý giá, là nguồn lực cực kỳ quan trọng của mỗi quốc gia. Đối với mỗi quốc gia đất đai là lãnh thổ chủ quyền được xác định bằng đường biên giới. Đối với sản xuất, đất đai không chỉ là mặt bằng để xây dựng nhà xưởng, máy móc, là địa bàn tổ chức sản xuất kinh doanh. Trong SXNN thì đất đai còn là môi trường sống của cây trồng, vật nuôi, đặc biệt hơn trong SXNN đất đai còn là TLSX không gì thay thế được, đồng thời đất đai còn là đối tượng của lao động. Và ngày nay trong nền kinh tế thị trường thì đất đai được xem như một yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất. Còn đối với con người, thì đất đai không chỉ là nơi sinh tồn mà còn là nơi diễn ra mọi hoạt động của các cộng đồng dân cư. Theo Luật Đất đai 1993 được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 3 ngày 14.7.1993 đã ghi rõ: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay [28, tr.7]. Theo Điều 11 Luật đất đai năm 1993 quy định: Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất đai được phân thành các loại như sau: - Đất nông nghiệp; - Đất lâm nghiệp; - Đất khu dân cư nông thôn; - Đất đô thị;
  10. - Đất chuyên dùng; - Đất chưa sử dụng [28, tr.11-12]. Và theo Điều 42 của Luật Đất đai năm 1993 quy định: “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp” [28, tr.30]. Như vậy theo Luật Đất đai thì đất NN là đất chủ yếu dùng để SXNN như trồng trọt và chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Trên thực tế, lịch sử phát sinh và phát triển của xã hội loài người thì từ buổi sơ khai loài người sinh tồn được chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm. Sau này dần dần con người trên trái đất mới biết trồng, cấy, biết thuần phục các con vật nuôi từ đó hình thành nên nghề trồng trọt, chăn nuôi để phục vụ chính cho sự sinh tồn của con người. Đất đai ban đầu chủ yếu là đất NN, về sau này khi các ngành khoa học ra đời và phát triển đã thúc đẩy SXNN phát triển theo từ đó trong xã hội hình thành các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Khi trình độ kinh tế, xã hội phát triển cùng với áp lực dân số ngày càng gia tăng thì các nhu cầu chung của xã hội về đất đai phi nông nghiệp ngày càng lớn, do đó đất NN ngày càng bị thu hẹp. Mặc dù con người bằng nhiều cách đã khai phá, chinh phục thiên nhiên, khai thác có hiệu quả hơn đất đai như thâm canh, tăng vụ, áp dụng các biện pháp canh tác tiến bộ, sử dụng các giống, cây, con có chất lượng tốt và năng suất cao. Nhưng càng về sau đất đai giành cho SXNN ngày một ít đi. Và ngày nay nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu đất sản xuất, nguy cơ thiếu lương thực,v.v… 1.1.2 Đặc điểm của đất nông nghiệp Cũng như các loại đất khác nói chung và đất NN nói riêng chúng đều là sản phẩm của tự nhiên. Ban đầu chúng chỉ là sản phẩm sơ khai, trải qua quá trình chinh phục con người đã tác động vào đất đai thông qua lao động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của con người. Theo thời gian sức lao động của con người đã được kết tinh vào đất đai trong quá trình cải tạo, khai thác, sử dụng do đó đất đai có giá trị và giá trị sử dụng. Bởi vậy đất NN có những đặc điểm sau:
  11. Thứ nhất: Đất NN là sản phẩm của tự nhiên có sự kết tinh giá trị sức lao động của con người vào trong đó. Đất NN nói riêng, đất đai nói chung được hình thành qua quá trình phong hoá các loại đất đá, dưới tác động của các quy luật tự nhiên như: nhiệt độ, không khí, độ ẩm, ánh sáng, động đất, hoạt động núi lửa, mưa bão, các phản ứng lý học, hoá học v.v… Trải qua quá trình phong hoá và các vòng tuần hoàn biến đổi khác nhau dần được “ổn định” đất đai được hình thành dưới nhiều dạng đồi, núi, đầm lầy, suối, sông, hồ, biển, đất đồng bằng, cao nguyên…Trên cơ sở đó mà sự sống phát triển ngày càng đa dạng và phong phú. Chỉ từ khi loài người xuất hiện, trải qua quá trình lịch sử lâu dài, gian khổ con người đã cải tạo, chinh phục tự nhiên như quai đê, lấn biển, xây dựng các công trình thuỷ lợi tưới, tiêu, thau chua, rửa mặn, bồi bổ đất đai…Đất đai ngày càng trở lên màu mỡ và trở thành môi trường sống ngày càng phù hợp đối với con người và các loài sinh vật. Không những thế ở nhiều quốc gia trên thế giới và cả Việt Nam con người đã từng phải hy sinh rất nhiều xương, máu, trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc. Vì vậy có thể nói đây là đặc điểm chung nhất, bao trùm nhất của đất đai nói chung và đất NN nói riêng. Thứ hai: Đất NN không đồng nhất về mặt chất lượng Đất NN được phân bổ ở nhiều nơi, nhiều vùng khác nhau về vị trí địa lý, về khí hậu, và các điều kiện tự nhiên khác như chất đất, độ dày tầng canh tác, độ dốc, tính chất lý, hoá… Vì vậy người ta phân ra các vùng đất ôn đới, nhiệt đới, cao nguyên, đồng bằng, đất trũng, đất bạc màu, đất bazan, đất khô cằn, đất chua phèn, nhiễm mặn, đất ngập nước, đất phù sa, đất bãi bồi, đất ruộng, đất ruộng bậc thang, v.v…Việc không đồng nhất về mặt chất lượng, vị trí khác nhau, điều kiện tự nhiên khác nhau, hạ tầng khác nhau là một trong những nguyên nhân chính hình thành địa tô chênh lệch I. Xuất phát từ đặc điểm này các quốc gia đã lấy đó làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, đưa ra các chủ trương giải pháp, chính sách khai thác và sử dụng đất đai sao cho phù hợp với mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mỗi vùng khác nhau. Điều đó cũng giúp cho con người khai thác có hiệu quả hơn đất sản xuất NN và đó cũng chính là biện pháp tác động để rút ngắn khoảng cách địa tô chênh lệch I giữa các dạng đất SXNN khác nhau.
  12. Thứ ba: Đất NN chỉ là hữu hạn, có vị trí cố định và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng vùng. Như chúng ta đã biết trái đất của chúng ta vô cùng to lớn nhưng cũng chỉ là hữu hạn so với vũ trụ. Vì vậy đất NN trên thế giới hiện nay của mỗi quốc gia cũng chỉ là hữu hạn, bởi lãnh thổ của mỗi quốc gia chỉ là hữu hạn. Ở đặc điểm thứ nhất đã nêu trên đây, đất NN là sản phẩm của tự nhiên. Do đó nó tồn tại khách quan, con người chỉ có thể cải tạo khai thác nó phục vụ cho mục đích của con người chứ không thể tạo ra được. Căn cứ vào tính chất hữu hạn, chất lượng và mục đích sử dụng mà người ta phân thành các loại đất khác nhau trong đó có đất SXNN. Do đặc điểm chỉ là hữu hạn, nên đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những phương thức, chính sách, biện pháp, sử dụng đất đai sao cho có hiệu quả bền vững, đảm bảo các mối quan hệ xã hội nhất là quan hệ lợi ích được đem lại từ đất đai. Vì có vị trí, mặt bằng cố định và hữu hạn, cho nên mặt bằng đất NN không thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác được. Đất NN được phân bố ở nơi nào thì nó phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên cụ thể ở nơi đó. Nơi nào có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chất đất khô cằn, nghèo nàn thì nơi đó diện tích đất NN chiếm phần rất nhỏ trong tổng diện tích đất tự nhiên và ngược lại. Bên cạnh đó tính hữu hạn của nó còn bị chi phối, bị phụ thuộc vào mật độ dân số, cơ cấu kinh tế, mức độ đô thị hoá ở nơi đó. Thứ tư: Đất NN là TLSX đặc biệt, đồng thời cũng là đối tượng của lao động. + Đất NN là TLSX đặc biệt Khác biệt với các ngành sản xuất khác, sản phẩm của NN là các loại cây, con, củ, quả, lá v.v…Các loại sản phẩm ấy muốn trở thành sản phẩm hữu dụng thì nó phải trải qua một quá trình sinh trưởng và phát triển. Sự sinh trưởng đó điều trước tiên phải nhờ vào đất đai, đồng thời phải có sự tác động của con người thông qua lao động. Quá trình SXNN hay nói cách khác là thời gian sinh trưởng của cây trồng vật nuôi phải trải qua nhiều khâu và một khoảng thời gian nhất định. Nếu các khâu như chuẩn bị giống, phân bón, thuốc trừ sâu, lao động, công cụ lao động…rất đầy đủ và sẵn sàng nhưng không có đất NN để gieo trồng thì mọi thứ đó đều trở lên vô nghĩa. Vì vậy tham gia vào quá trình SXNN yếu tố đầu tiên là phải có mặt bằng đất NN, khi đó đất NN tham gia với tư cách là tư liệu sản xuất.
  13. Cây trồng có thể thay thế từ cây này sang cây khác nếu nó phù hợp hoặc phân bón, thuốc trừ sâu. Công cụ lao động có thể thay thế nhưng đất đai thì không thể thay thế được. Đối với SXNN đất đai là TLSX đặc biệt ở chỗ đó. Đất NN là TLSX đặc biệt còn được thể hiện ở chỗ: TLSX của các ngành khác được tạo ra ngày càng nhiều, và còn có thể thay thế được trong quá trình sản xuất. Nhưng đất SXNN là sản phẩm của tự nhiên không tự tạo ra được và không thay thế được trong quá trình sản xuất. Khi sử dụng, đất sản xuất có thể còn được cải tạo, bồi bổ để đất đai được tốt hơn, ở những chu kỳ sản xuất sau làm tăng thêm hiệu quả. Bên cạnh đó cũng có thể xẩy ra tình trạng chủ sử dụng đất chỉ biết khai thác vắt kiệt đất đai làm cho đất đai ngày càng bị cằn cỗi và nghèo đi. Do đó ứng xử với đất đai trong quá trình sản xuất chúng ta cần phải tôn trọng các quy luật tự nhiên, biết tiết kiệm, giữ gìn, bồi bổ đất đai, nâng cao hệ số sử dụng đất, khai thác tốt và nâng cao hiệu quả tiềm năng đất đai. Điểm đặc biệt nữa của đất NN không giống các TLSX khác là sau thời gian sử dụng sẽ bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Còn đất NN sau một thời gian hay một chu kỳ sản xuất nếu được sử dụng khoa học hợp lý, được tiếp tục bồi bổ thì đất đai không những còn nguyên mà độ phì nhiêu mầu mỡ của nó được tăng lên, theo đó sức sản xuất của nó cũng được nhân lên. Đất NN là TLSX không thể di chuyển được từ nơi này sang nơi khác như các TLSX khác, mà nó chỉ được sử dụng, khai thác ở vị trí cố định và quá trình sử dụng còn có sự gắn kết với môi trường tự nhiên khác như nước, không khí, ánh nắng… Chính những đặc điểm nêu trên của đất NN đòi hỏi người sử dụng đất phải có những chính sách, chiến lược khai thác, sử dụng đất NN “Tư liệu sản xuất đặc biệt” làm sao cho sức sản xuất của nó không ngừng được tăng cao. Nhờ nắm bắt được quy luật khách quan và nhận thức được sự đặc biệt của TLSX đất NN mà Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương đúng đắn tiêu biểu như: Chỉ thị 100 của Ban Bí thư ngày 13.01.1981 về cải tiến công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX NN (gọi tắt là Khoán 100); Nghị quyết 10 - NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Khoán 10), Nghị định 64 -NĐ/CP ngày 27.9.1993 của Chính phủ về việc giao đất SXNN ổn định, lâu dài đến hộ nông dân, cấp giấy chứng nhận
  14. quyền sử dụng đất cho người sử dụng….Những chủ trương chính sách tiêu biểu trên đã đưa Việt Nam từ một quốc gia thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 2 trên thế giới. + Đất NN là đối tượng lao động: Trong quá trình SXNN, con người sử dụng đất NN không chỉ dừng ở chỗ chỉ gieo trồng thuần tuý mà còn thông qua kinh nghiệm, đặc điểm của cây trồng vật nuôi, đặc điểm khí hậu, chất đất, con người còn biết tìm cách thâm canh tăng vụ, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Khi SXNN còn chưa phát triển mạnh thì những tác động của con người vào đất đai với tư cách là đối tượng lao động với những việc làm giản đơn như cày sâu, bừa kỹ, tưới tiêu…Càng về sau, khi trình độ của con người ngày một nâng cao, nhiều kinh nghiệm được tích luỹ thông qua quá trình sản xuất, cộng với khoa học kỹ thuật phát triển thì tác động của con người vào đối tượng lao động là đất đai ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Các tác động như cải tạo mặt bằng, cải tạo chất đất nhằm tăng độ phì, xây dựng các công trình thuỷ lợi, tưới tiêu, thau chua, rửa mặn, chống sói mòn, sạt lở đất, đắp đê ngăn lũv.v... luôn được con người chú ý. Ở mức độ cao hơn thông con người còn thông qua tiến bộ khoa học kỹ thuật, thông qua giống cây con mới, các biện pháp thâm canh tiên tiến, các biện pháp chế ngự thiên nhiên, khắc phục thời tiết khắc nghiệt, nhằm mục đích khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất đai. Quá trình tác động đó chính là những tác động trực tiếp của con người vào đối tượng lao động là đất đai. 1.1.3. Vai trò của đất nông nghiệp đối với phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá +Đất NN là TLSX đặc biệt duy nhất, là nơi sản xuất ra lương thực thực phẩm nuôi sống con người và xã hội. Từ xa xưa, ông, cha ta có câu “phi nông bất ổn”, còn ở Trung Quốc dưới thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Khổng Tử đã nói rằng “Dân dĩ thực vi thiên” (Dân lấy ăn làm trời). Con người chúng ta muốn tồn tại phải có cái ăn, muốn có cái ăn không thể chỉ dựa vào những sản vật sẵn có trong tự nhiên do thiên nhiên ban tặng mà phải lao động sản xuất ra
  15. của cải vật chất là lương thực thực phẩm để nuôi sống con người và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Và nơi duy nhất để sản xuất ra của cải vật chất chính là đất NN. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội đến nay đã trải qua các thời kỳ khác nhau từ kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp chuyển sang kinh tế hàng hoá, từ sản xuất hàng hoá nhỏ lên sản xuất hàng hoá có quy mô lớn và hiện đại, tất thảy trong sản xuất NN thì bao giờ đất đai cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Xã hội càng phát triển thì vai trò củ a đó của đất NN cũng phát triển theo. + Đất NN là môi trường sống, môi trường không gian để SXNN. SXNN có đặc thù là sản xuất ở ngoài trời, phải tiếp xúc với tự nhiên. Cây phải sống trên đất, quang hợp nhờ ánh nắng mặt trời, hút nước từ trong đất, cá phải sống dưới nước sông, hồ, biển; gia súc, gia cầm phải có chuồng trại, có bãi chăn thả; con vật nuôi phải có thức ăn, mà thức ăn lại chính là các động thực vật được sản xuất từ trong NN. Tất cả những yếu tố đó chính là môi trường sống, là không gian để sản xuất. Muốn sản xuất phát triển thì chúng ta phải biết giữ gìn, bảo vệ môi trường, không vi phạm các quy luật tự nhiên, không chỉ biết khai thác đất đai mà còn phải biết bồi bổ đất đai, tạo lập môi trường sống tốt nhất cho cây trồng vật nuôi. + Đất NN là TLSX chủ yếu để sản xuất hàng hoá. Như đã nêu trong phần đặc điểm của đất NN, khi tham gia vào quá trình sản xuất, đất NN vừa là TLSX đặc biệt vừa là đối tượng lao động. Để SXNN theo hướng hàng hoá đối với bất kỳ nông sản nào trước hết phải có diện tích đất NN đủ lớn, kết hợp với các yếu tố khác như lao động, công cụ lao động, KHKT, chất lượng giống, phân công lao động theo từng chuyên khâu v.v…thì mới có điều kiện tạo ra khối lượng nông phẩm hàng hoá lớn đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài những điều kiện như đã nêu, sản xuất hàng hoá trong NN còn có thể khai thác yếu tố lợi thế về đặc thù riêng có của những vùng đất như: Vải thiều có năng suất và chất lượng tốt thuộc vùng Lục Ngạn, Bắc Giang; Thanh Hà, Hải Dương, bưởi Năm Roi ở miền Tây Nam bộ; nhãn lồng Hưng Yên… Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay do khoa học công nghệ phát triển mạnh con người có thế sản xuất ra những sản phẩm mà không cần sử dụng đất: như công nghệ đột biến gien, công nghệ nuôi cấy mô, nhân bản vô tính, sản xuất trong nhà kính bằng phương pháp
  16. thuỷ canh v.v… Song trên thực tế điều đó chưa phải là phổ biến, sản xuất theo phương pháp đó chi phí giá thành sản phẩm quá cao, không hiệu quả, không thể tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn. Cho đến nay hình thức sản xuất này chỉ mang tính nghiên cứu, ứng dụng không thể mở rộng một cách phổ biến được. Và suy cho đến cùng, dù có ứng dụng khoa học công nghệ cao bao nhiêu đi chăng nữa SXNN vẫn cần phải có không gian đất NN nhất định. Vì vậy đất NN vẫn đóng vai trò hàng đầu trong SXNN hàng hoá hiện nay. +Trong điều kiện thị trường bất động sản được hình thành thì đất NN có vai trò là phương tiện góp vốn, huy động vốn, liên doanh liên kết hoặc cho thuê để phát triển sản xuất. Trong công cuộc đổi mới đất nước đối với lĩnh vực phát triển kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều giải pháp lớn để tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển trong đó có giải pháp hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, đi đôi với việc tạo lập các khung khổ pháp lý bảo đảm sự quản lý và giám sát của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tiếp cận với thị trường trong đó có thị trường bất động sản. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Phát triển thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển quyền s ử dụng đất; mở rộng cơ hội cho các công dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được dễ dàng có đất và sử dụng đất lâu dài cho sản xuất kinh doanh”. “Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ và tập trung đất canh tác trong một số vùng có điều kiện” [30, tr.324]. Nghiên cứu Luật Đất đai năm 2003 cho thấy: Tại Điều 105 Mục 1 quy định: “Quyền của người sử dụng đất được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”; Điều 106 quy định: “Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thuê lại, thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất, quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất”; Điều 113 Mục 7 quy định: “Thế chấp, bảo lãnh, bằng quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất kinh doanh” [30, tr.120-121, 130].
  17. Đối với Luật Đầu tư số 59/2005/QH tại Điều 3 Mục 1 có nêu: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản, tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan” và Mục 7 có nêu: “ Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp”[31, tr.2]. Như vậy có thể nói đất SXNN có đầy đủ các yếu tố thuận lợi để tham gia vào thị trường bất động sản, thị trường vốn trong quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Trên thực tế đã có rất nhiều mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong NN rất đa dạng và phong phú như: - Người nông dân góp cổ phần trong doanh nghiệp NN bằng quỹ đất và tham gia lao động ngay tại doanh nghiệp NN đó; - Cá nhân hoặc tổ chức có đất NN do thiếu vốn sản xuất có thể thế chấp quyền sử dụng đất tại các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng nhân dân để vay vốn sản xuất; - Hộ nông dân có đất SXNN nhưng do thiếu kinh nghiệm, thiếu lao động thì dùng quỹ đất liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác không có đất hoặc thiếu đất để sản xuất… Như vậy trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay thì vai trò của đất NN là phương tiện góp vốn, thế chấp, huy động vốn, liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh được nhà nước khuyến khích và có đầy đủ cơ sở pháp lý thuận lợi giúp các hộ nông dân khai thác và sử dụng quỹ đất sản xuất một cách linh hoạt nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân. 1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.2.1. Thực trạng về công tác quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta trước khi có Nghị định 64/CP, ngày 27/9/1993 của Chính phủ Như chúng ta đã biết đất NN là sản phẩm của tự nhiên, mặc dù có rộng lớn bao nhiêu cũng chỉ là hữu hạn. Đất NN có đặc điểm phụ thuộc vào vị trí địa lý, phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên khác như khí hậu, bình độ, sông ngòi, chất đất... Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau do tính chất nhiệm vụ cách mạng của mỗi giai đoạn khác nhau mà Nhà nước có những chính sách quản lý sử dụng đất NN khác nhau. Mặt khác trước yêu cầu
  18. phát triển chung của xã hội, cùng với sự gia tăng nhanh dân số và các nhu cầu sử dụng đất phi NN ngày càng tăng làm cho đất NN ngày càng ít đi. Do đó chính sách quản lý và sử dụng đất đai cũng thay đổi theo cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 Việt Nam là quốc gia thuộc địa, nửa phong kiến. QHSX thời kỳ này là QHSX phong kiến, ruộng đất nằm trong tay địa chủ và thực dân Pháp, người nông dân không có ruộng đất, chủ yếu đi làm thuê, đời sống vô cùng cực khổ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng 8.1945 với khẩu hiệu “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng” đã giành thắng lợi vẻ vang thành lập nên Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Về thực chất, tuy có Nhà nước nhưng ruộng đất vẫn do thực dân Pháp và địa chủ phong kiến cai trị nắm giữ. Chính sách về quản lý đất đai giai đoạn này mới chỉ là sơ khai ban đầu, đan xen cả chính sách của chính quyền cách mạng và chính sách của chính quyền cũ. Trong suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp với điều kiện vô vàn khó khăn, nhưng chính quyền non trẻ của ta cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ ruộng đất nhằm thực hiện song song hai nhiệm vụ hàng đầu là đánh đuổi thực dân Pháp và lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế. Đến giai đoạn 1954-1975, đây là giai đoạn lịch sử đặc biệt, cách mạng Việt Nam phải đồng thời làm 2 nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Theo đó, quản lý đất đai của Việt Nam chịu sự chi phối của hoàn cảnh này. Ở miền Bắc, quản lý đất đai dựa trên quan điểm đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ở miền Nam quản lý đất đai lại nằm trong tay chế độ miền Nam cộng hoà. Bởi tính chất đặc thù của giai đoạn này như vậy nên luận văn chỉ đề cập một cách khái quát công tác quản lý đất đai ở miền Bắc. Những năm đầu sau 1954, chính sách đất đai của nước ta chủ yếu tập trung giải quyết nhiệm vụ “người cày có ruộng”. Các văn bản được ban hành nhằm mục đích nhanh chóng động viên toàn xã hội hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển sản xuất nâng cao đời sống nông dân.
  19. Trong điều kiện đất nước còn chiến tranh, giai đoạn này, quản lý đất đai tập trung vào thống kê ruộng đất, kiểm tra tình hình quản lý, sử dụng đất làm cơ sở cho công tác quản lý đất đai dần dần đi vào nề nếp. Đặc biệt văn bản về Hợp tác hoá NN đã có tác động mạnh mẽ trong việc chuyển sở hữu đất NN từ tư nhân, nhỏ lẻ của người lao động, sang sở hữu tập thể thông qua các quan hệ trong mô hình HTX NN, từ HTX bậc thấp cho đến HTX NN bậc cao. Mô hình quản lý và sử dụng ruộng đất chủ yếu được thông qua HTX NN dưới hình thức sở hữu tập thể. Hình thức quản lý và sử dụng đất đai giai đoạn này như vậy là phù hợp, điều đó đã góp phần rất quan trọng cho việc huy động “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. “Tất cả cho tiền tuyến” “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Giai đoạn hợp tác hoá trước năm 1975 quản lý và quan hệ đất đai theo sở hữu tập thể là phù hợp với điều kiện đất nước còn chiến tranh. Từ sau năm 1975 đất nước được thống nhất, cả nước đi lên xây dựng CNXH, lẽ ra chúng ta không nên duy trì, áp dụng kiểu quản lý và sử dụng đất đai như thời kỳ đất nước còn chiến tranh. Nhưng trong thời gian khá dài chúng ta vẫn duy trì hình thức sở hữu tập thể về ruộng đất là chính, bên cạnh đó về mặt nhận thức chúng ta nóng vội chủ quan, tiếp tục đẩy cao yêu cầu tập thể hoá NN thông qua HTX. Với ý chí chủ quan mong muốn chúng ta có nhanh CNXH. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV nhiệm kỳ 1976-1980 đã đưa ra mục tiêu sản lượng lương thực bình quân đạt 21 triệu tấn trên một năm. Theo đó, một loạt điều chỉnh lớn về quản lý đất đai, nhiều nông trường, lâm trường, trạm, trại được ra đời, nhưng trên thực tế sản lượng lương thực bình quân 5 năm 1976-1980 chỉ đạt 13 triệu tấn/năm. Trong khi đó tâm lý của nông dân sau chiến tranh họ quan tâm nhiều hơn đến lợi ích của chính mình thì ruộng đất lại có xu hướng tập thể hoá cao độ. Về QHSX trong NN được cải biến một cách cưỡng bức với mong muốn xác lập thật nhanh QHSX XHCN đồng nhất trong cả nước. Vì vậy nhiều bất cập xảy ra trong NN như: Tình trạng ruộng bỏ hoang, sản xuất bị trì trệ, đình đốn; tổ chức SXNN trong các HTX theo kiểu “gõ kẻng tập trung đi làm, ghi công chấm điểm” năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi đạt thấp; Sản phẩm sản xuất ra được tập trung về sân kho HTX NN, phân chia lương thực theo kế hoạch, phương án nhân khẩu. Tình trạng “cha chung không ai khóc” kéo dài nhiều năm, hiệu quả sản xuất thấp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0